NHẬT TỤNG THIỀN MÔN

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Công phu chiều thứ ba

MỤC LỤC

Công phu chiều thứ ba

Kệ Mở Kinh

Trì Tụng

Đảnh Lễ

Quay Về Nương Tựa

Hồi Hướng


Tĩnh Tọa – 20 tới 30 phút

Kinh Hành Im Lặng – một vòng

Kệ Mở Kinh

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (ba lần) (C)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)

Trì Tụng

Hướng về Bụt và Thánh Chúng trên hội Kỳ Viên (3 lần) (C)

Kinh Sức Mạnh Quan Âm (C)

“Thế Tôn muôn vẻ đẹp

Con xin hỏi lại Người

Bồ Tát kia vì sao

Tên là Quan Thế Âm?”

Bậc diệu tướng từ tôn

Trả lời Vô Tận Ý:

“Vì hạnh nguyện Quan Âm

Ðáp ứng được muôn nơi.

“Lời thề rộng như biển

Vô lượng kiếp qua rồi

Ðã theo ngàn muôn Bụt

Phát nguyện lớn thanh tịnh.

“Ai nghe danh, thấy hình

Mà tâm sanh chánh niệm

Thì thoát khổ mọi cõi

Ðây nói sơ lược thôi.

“Nếu có ai ác ý

Xô vào hầm lửa lớn

Niệm sức mạnh Quan Âm

Hầm lửa biến hồ sen.

“Ðang trôi giạt đại dương

Gặp nạn Rồng, Quỷ, Cá

Niệm sức mạnh Quan Âm

Sóng gió không nhận chìm.

“Ðứng chóp núi Tu Di

Bị người ta xô ngã

Niệm sức mạnh Quan Âm

Như mặt trời trên không.

“Bị người dữ đuổi chạy

Rơi xuống núi Kim Cương

Niệm sức mạnh Quan Âm

Không hao một mảy lông.

“Bị oán tặc vây hãm

Cầm đao thương sát hại

Niệm sức mạnh Quan Âm

Oán tặc thấy thương tình.

“Bị khổ nạn vua quan

Sắp sửa bị gia hình

Niệm sức mạnh Quan Âm

Ðao kiếm gãy từng khúc.

“Nơi tù ngục xiềng xích

Chân tay bị gông cùm

Niệm sức mạnh Quan Âm

Ðược tháo gỡ tự do.

“Gặp thuốc độc, trù, ếm

Nguy hại đến thân mình

Niệm sức mạnh Quan Âm

Người gây lại gánh chịu.

“Gặp La Sát hung dữ

Rồng độc và quỷ ác

Niệm sức mạnh Quan Âm

Hết dám làm hại ta.

“Gặp ác thú vây quanh

Nanh vuốt thật hãi hùng

Niệm sức mạnh Quan Âm

Ðều vội vàng bỏ chạy.

“Rắn độc và bò cạp

Lửa khói un hơi độc

Niệm sức mạnh Quan Âm

Theo tiếng tự lui về.

“Sấm sét, mây, điện, chớp

Mưa đá tuôn xối xả

Niệm sức mạnh Quan Âm

Ðều kịp thời tiêu tán. (C)

“Chúng sanh bị khốn ách

Vô lượng khổ bức thân

Trí lực mầu Quan Âm

Cứu đời muôn vạn cách.

“Trí phương tiện quảng đại

Ðầy đủ sức thần thông

Mười phương trong các cõi

Không đâu không hiện thân.

“Những nẻo về xấu ác

Ðịa ngục, quỷ, súc sanh

Khổ sanh, lão, bệnh, tử

Cũng từ từ dứt sạch.

“Quán Chân, quán Thanh Tịnh

Quán Trí Tuệ rộng lớn

Quán Bi và quán Từ

Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng.

“Quán Vô Cấu, Thanh Tịnh

Mặt trời Tuệ phá ám

Ðiều phục nạn, gió, lửa

Chiếu sáng khắp thế gian.

“Tâm Bi như sấm động

Lòng Từ như mây hiền

Pháp cam lộ mưa xuống

Dập trừ lửa phiền não.

“Nơi án tòa kiện tụng

Chốn quân sự hãi hùng

Niệm sức mạnh Quan Âm

Oán thù đều tiêu tán. (C)

“Tiếng Nhiệm, tiếng Quan Âm

Tiếng Phạm, tiếng Hải Triều

Tiếng Vượt Thoát Tiếng Ðời

Hãy thường nên quán niệm.

“Từng niệm không nghi ngờ

Trong ách nạn khổ chết.

Quan Âm là tịnh thánh

Là nơi cần nương tựa.

“Ðầy đủ mọi công đức

Mắt thương nhìn thế gian

Biển Phước chứa vô cùng

Nên ta cần đảnh lễ.”

Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm (ba lần) (CC)

Kinh Tám Ðiều Giác Ngộ Của Các Bậc Ðại Nhân (C)

Là đệ tử Bụt thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụng và quán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ.

Ðiều thứ nhất là giác ngộ rằng cuộc đời là vô thường, chế độ chính trị nào cũng dễ sụp đổ, những cấu tạo của bốn đại đều trống rỗng và có tác dụng gây đau khổ, con người do tập hợp của năm ấm mà có, lại không có thực ngã, sanh diệt thay đổi không ngừng, hư ngụy và không có chủ quyền. Trong khi đó thì tâm ta lại là một nguồn suối phát sanh điều ác và thân ta thì là một nơi tích tụ của tội lỗi. Quán chiếu như trên thì dần dần thoát được cõi sanh tử. (C)

Ðiều thứ hai là giác ngộ rằng càng lắm ham muốn thì lại càng nhiều khổ đau, rằng bao nhiêu cực nhọc trong cõi sanh tử đều do ham muốn mà có. Trong khi đó người ít ham muốn thì không bị hoàn cảnh sai sử, lại cảm thấy thân mình và tâm mình được thư thái. (C)

Ðiều thứ ba là giác ngộ rằng vì tâm ta rong ruổi chạy theo danh lợi không bao giờ biết chán cho nên tội lỗi ta cũng theo đó mà càng ngày càng lớn. Các bậc Bồ Tát thì khác hẳn: họ luôn luôn nhớ nghĩ đến phép tri túc, an vui sống với đời đạm bạc để hành đạo và xem sự nghiệp duy nhất của mình là sự thực hiện trí tuệ giác ngộ. (C)

Ðiều thứ tư là giác ngộ rằng thói quen lười biếng đưa đến chỗ đọa lạc; vì vậy con người phải chuyên cần hành đạo, phá giặc phiền não, hàng phục bốn loài ma và ra khỏi ngục tù của năm ấm và ba giới. (C)

Ðiều thứ năm là giác ngộ rằng chính vì vô minh nên mới bị giam hãm trong cõi sanh tử. Các vị Bồ Tát thường xuyên nhớ rằng phải học rộng, biết nhiều, phát triển trí tuệ, đạt được biện tài để giáo hóa cho mọi người, để cho tất cả đạt tới niềm vui lớn. (C)

Ðiều thứ sáu là giác ngộ rằng vì nghèo khổ cho nên người ta sanh ra có nhiều oán hận và căm thù, và vì thế lại tạo thêm những nhân xấu. Các vị Bồ Tát biết thế cho nên chuyên tu phép bố thí, coi kẻ ghét người thương như nhau, bỏ qua những điều ác mà người khác đã làm đối với mình và không đem tâm ghét bỏ những ai đã làm ác. (C)

Ðiều thứ bảy là giác ngộ rằng năm thứ dục vọng gây nên tội lỗi và hoạn nạn. Người xuất gia tuy sống trong thế tục nhưng không nhiễm theo cái vui phàm tục, thường quán niệm rằng tài sản của mình chỉ là ba chiếc áo ca sa và một chiếc bình bát, tất cả đều là pháp khí, rằng chí nguyện xuất gia của mình là sống thanh bạch để hành đạo, giữ phạm hạnh cho thanh cao và đem lòng từ bi để tiếp xử với tất cả mọi người. (C)

Ðiều thứ tám là giác ngộ rằng vì lửa sanh tử cháy bừng cho nên mọi loài đang chịu biết bao niềm thống khổ. Biết vậy cho nên ta phải phát tâm Ðại Thừa, nguyện cứu tế cho tất cả mọi người, nguyện thay thế cho mọi người mà chịu khổ đau vô lượng, khiến cho tất cả chúng sanh đều đạt tới niềm vui cứu cánh. (C)

Tám điều nói trên là những điều giác ngộ của các bậc đại nhân, Bụt và Bồ Tát; những vị này đã tinh tấn hành đạo, tu tập từ bi và trí tuệ, đã cưỡi thuyền pháp thân đến được bến Niết Bàn. Khi trở về lại cõi sanh tử độ thoát cho chúng sanh, các vị đều dùng tám điều giác ngộ ấy để khai mở và chỉ đường cho mọi người, khiến cho chúng sanh ai cũng giác ngộ được cái khổ của sanh tử, lìa bỏ được ngũ dục và hướng tâm vào con đường thánh.

Nếu đệ tử Bụt mà thường đọc tụng tám điều này thì mỗi khi quán niệm diệt được vô lượng tội, tiến tới giác ngộ, mau lên chánh giác, vĩnh viễn đoạn tuyệt với sanh tử, thường trú trong sự an lạc. (CC)

Ngày Đêm An Lành

Nguyện ngày an lành đêm an lành

Ngày đêm sáu thời đều an lành

An lành trong mỗi giây mỗi phút

Cầu ơn Tam Bảo luôn che chở

Bốn loài sanh lên đất Tịnh

Ba cõi thác hóa tòa Sen

Hằng sa ngạ quỷ chứng Tam Hiền

Vạn loại hữu tình lên Thập Ðịa. (C)

Thế Tôn dung mạo như vầng nguyệt

Lại như mặt nhật phóng quang minh

Hào quang trí tuệ chiếu muôn phương

Hỷ Xả Từ Bi đều thấm nhuận.

Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni (3 lần) (C)

(Vừa niệm Bụt vừa đi nhiễu)

Đảnh Lễ

Nhất tâm kính lễ đức Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bụt A Di Đà (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Thế Chí (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)

Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Tây Trúc cho đến Việt Nam (CC)

Bài Tụng Hạnh Phúc

Chúng con được ngồi đây

Trong phút giây hiện tại

Bao bọc bởi tăng thân

Thấy mình thật may mắn:

Sanh ra được làm người

Con sớm gặp chánh pháp

Hạt Bồ Ðề tưới tẩm

Lại có duyên được sống

Hòa hợp trong tăng thân.

Năng lượng của tăng đoàn

Giới luật và uy nghi

Ðang bảo hộ cho con

Không để gây lầm lỗi

Không bị nghiệp xấu đẩy

Ði về nẻo tối tăm

Lại được cùng bạn hiền

Ði trên đường chân thiện

Có ánh sáng chiếu soi

Của Bụt và Bồ Tát. (C)

Tuy có mặt trong con

Những hạt giống khổ đau

Phiền não và tập khí

Nhưng chánh niệm hiện tiền

Vẫn thường luôn biểu hiện

Giúp cho con tiếp xúc

Với những gì mầu nhiệm

Có mặt trong tự thân

Và có mặt quanh con.

Sáu căn còn đầy đủ

Mắt thấy được trời xanh

Tai nghe tiếng chim hót

Mũi ngửi thấy hương trầm

Lưỡi nếm được pháp vị

Thế ngồi con vững chãi

Ý hợp nhất với thân

Nếu không có Thế Tôn

Nếu không có Diệu Pháp

Nếu không có Tăng Ðoàn

Làm sao con may mắn

Ðược pháp lạc hôm nay? (C)

Công phu tu tập này

Con cũng xin hành trì

Cho gia đình, dòng họ

Cho thế hệ tương lai

Và cả cho xã hội.

Niềm an lạc của con

Là vốn liếng tu tập

Con xin nguyền vun bón

Tưới tẩm và nuôi dưỡng

Bằng chánh niệm hàng ngày.

Trong xã hội của con

Bao nhiêu người đau khổ

Chìm đắm trong năm dục

Ganh ghét và hận thù.

Thấy được những cảnh ấy

Con quyết tâm hành trì

Ðiều phục những tâm hành

Tham đắm và giận ghét

Tập khả năng lắng nghe

Và sử dụng ái ngữ

Ðể thiết lập truyền thông

Tạo nên sự hiểu biết,

Chấp nhận và thương yêu.

Như đức Bồ Tát kia

Con nguyện xin tập nhìn

Mọi người chung quanh con

Bằng con mắt từ bi

Bằng tâm tình hiểu biết

Con xin tập lắng nghe

Bằng lỗ tai xót thương

Bằng tấm lòng lân mẫn

Nhìn và nghe như thế

Là hạnh của Bồ Tát

Có thể làm vơi nhẹ

Khổ đau trong lòng người

Ðem lại niềm an lạc

Về cho cả hai phía. (C)

Chúng con ý thức rằng

Chính phiền não si mê

Làm cho thế giới này

Trở thành nơi hỏa ngục.

Nếu tu tập chuyển hóa

Chế tác được hiểu biết

Cảm thông và thương yêu

Chúng con sẽ tạo được

Tịnh Ðộ ngay nơi này.

Dù cuộc đời vô thường

Dù sanh lão bệnh tử

Ðã có đường đi rồi

Con không còn lo sợ. (C)

Hạnh phúc thay được sống

Trong tăng đoàn Thế Tôn

Ðược hành trì giới định

Sống vững chãi thảnh thơi

Trong từng giây từng phút

Của cuộc sống hàng ngày,

Và trực tiếp tham gia

Vào sự nghiệp độ sanh

Của Bụt và Bồ Tát.

Giờ phút này quý báu

Niềm biết ơn tràn dâng

Xin lạy đức Thế Tôn

Chứng minh và nhiếp thọ. (CC)

Kệ Vô Thường

Ngày nay đã qua

Ðời sống ngắn lại

Hãy nhìn cho kỹ Ta đã làm gì?

Ðại chúng hãy cùng tinh tấn

Thực tập hết lòng

Sống cho sâu sắc và thảnh thơi

Hãy nhớ vô thường

Ðừng để tháng ngày trôi đi oan uổng. (C)

Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người thể nhận được giác tánh, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

Hồi Hướng

Trì tụng kinh thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)


[][Đầu trang][Mục lục tổng quát][Mục lục][