SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
HỘI THỨ I
PHẨM 19: QUÁN HẠNH
(QUYỂN 70 - 74)
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với sắc chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có sắc; đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có thọ, tưởng, hành, thức.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với nhãn xứ chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với sắc xứ chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có sắc xứ; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với nhãn giới chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có nhãn giới; đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với nhĩ giới chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có nhĩ giới; đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với tỷ giới chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có tỷ giới; đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với thiệt giới chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có thiệt giới; đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với thân giới chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có thân giới; đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với ý giới chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có ý giới; đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với địa giới chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có địa giới; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với Thánh đế khổ chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có Thánh đế khổ; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có Thánh đế tập, diệt, đạo.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với vô minh chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có vô minh; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với pháp không bên trong chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có pháp không bên trong; đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có Bố thí ba-la-mật-đa; đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với bốn Tĩnh lự chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có bốn Tĩnh lự; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với tám Giải thoát chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có tám Giải thoát; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với bốn Niệm trụ chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có bốn Niệm trụ; đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với pháp môn giải thoát Không chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có pháp môn giải thoát Không; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với năm loại mắt chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có năm loại mắt; đối với sáu phép thần thông chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có sáu phép thần thông.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với mười lực của Phật chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có mười lực của Phật; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với chân như chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có chân như; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có quả vị Giác ngộ cao tột; đối với trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với pháp không quên mất, chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có pháp không quên mất; đối với tánh luôn luôn xả, chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có tánh luôn luôn xả.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có tất cả pháp môn Đà-la-ni; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng nhận lãnh, chẳng giữ lấy, chẳng chấp, chẳng vướng, cũng chẳng cho là thật có tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy sắc. Vì sao? Vì tánh của sắc là không, không sinh diệt. Chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy nhãn xứ. Vì sao? Vì tánh của nhãn xứ là không, không sinh diệt. Chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy sắc xứ. Vì sao? Vì tánh của sắc xứ là không, không sinh diệt. Chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy nhãn giới. Vì sao? Vì tánh của nhãn giới là không, không sinh diệt. Chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy nhĩ giới. Vì sao? Vì tánh của nhĩ giới là không, không sinh diệt. Chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy tỷ giới. Vì sao? Vì tánh của tỷ giới là không, không sinh diệt. Chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy thiệt giới. Vì sao? Vì tánh của thiệt giới là không, không sinh diệt. Chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy thân giới. Vì sao? Vì tánh của thân giới là không, không sinh diệt. Chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy ý giới. Vì sao? Vì tánh của ý giới là không, không sinh diệt. Chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy địa giới. Vì sao? Vì tánh của địa giới là không, không sinh diệt. Chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy Thánh đế khổ. Vì sao? Vì tánh của Thánh đế khổ là không, không sinh diệt. Chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy vô minh. Vì sao? Vì tánh của vô minh là không, không sinh diệt. Chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não. Vì sao? Vì tánh của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy pháp không bên trong. Vì sao? Vì tánh của pháp không bên trong là không, không sinh diệt. Chẳng thấy pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì tánh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy Bố thí ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì tánh của Bố thí ba-la-mật-đa là không, không sinh diệt. Chẳng thấy Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì tánh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy bốn Tĩnh lự. Vì sao? Vì tánh của bốn Tĩnh lự là không, không sinh diệt. Chẳng thấy bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Vì sao? Vì tánh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy tám Giải thoát. Vì sao? Vì tánh của tám Giải thoát là không, không sinh diệt. Chẳng thấy tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Vì sao? Vì tánh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy bốn Niệm trụ. Vì sao? Vì tánh của bốn Niệm trụ là không, không sinh diệt. Chẳng thấy bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo. Vì sao? Vì tánh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy pháp môn giải thoát Không. Vì sao? Vì tánh của pháp môn giải thoát Không là không, không sinh diệt. Chẳng thấy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Vì sao? Vì tánh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy năm loại mắt. Vì sao? Vì tánh của năm loại mắt là không, không sinh diệt. Chẳng thấy sáu phép thần thông. Vì sao?
Vì tánh của sáu phép thần thông là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy mười lực của Phật. Vì sao? Vì tánh nơi mười lực của Phật là không, không sinh diệt. Chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy chân như. Vì sao? Vì tánh của chân như là không, không sinh diệt. Chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì tánh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì tánh của quả vị Giác ngộ cao tột là không, không sinh diệt. Chẳng thấy trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Vì tánh của trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy pháp không quên mất. Vì sao? Vì tánh của pháp không quên mất là không, không sinh diệt. Chẳng thấy tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì tánh của tánh luôn luôn xả là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy tất cả pháp môn Đàla-ni. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp môn Đà-lani là không, không sinh diệt. Chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không, không sinh diệt.
Bạch Thế Tôn, sắc chẳng sinh nên chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng sinh nên chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; thọ, tưởng, hành, thức cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó sắc chẳng sinh nên chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng sinh nên chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.
Bạch Thế Tôn, nhãn xứ chẳng sinh nên chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng sinh nên chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó nhãn xứ chẳng sinh nên chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng sinh nên chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Bạch Thế Tôn, sắc xứ chẳng sinh nên chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng sinh nên chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì sắc xứ cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó sắc xứ chẳng sinh nên chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng sinh nên chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Bạch Thế Tôn, nhãn giới chẳng sinh nên chẳng phải là nhãn giới; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh nên chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì nhãn giới cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó nhãn giới chẳng sinh nên chẳng phải là nhãn giới; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh nên chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, nhĩ giới chẳng sinh nên chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh nên chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì nhĩ giới cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó nhĩ giới chẳng sinh nên chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh nên chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, tỷ giới chẳng sinh nên chẳng phải là tỷ giới; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh nên chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì tỷ giới cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó tỷ giới chẳng sinh nên chẳng phải là tỷ giới; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh nên chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, thiệt giới chẳng sinh nên chẳng phải là thiệt giới; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh nên chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì thiệt giới cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó thiệt giới chẳng sinh nên chẳng phải là thiệt giới; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh nên chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, thân giới chẳng sinh nên chẳng phải là thân giới; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh nên chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì thân giới cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó thân giới chẳng sinh nên chẳng phải là thân giới; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh nên chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, ý giới chẳng sinh nên chẳng phải là ý giới; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh nên chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì ý giới cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó ý giới chẳng sinh nên chẳng phải là ý giới; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh nên chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, địa giới chẳng sinh nên chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng sinh nên chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì địa giới cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó địa giới chẳng sinh nên chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng sinh nên chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Bạch Thế Tôn, Thánh đế khổ chẳng sinh nên chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng sinh nên chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì Thánh đế khổ cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; Thánh đế tập, diệt, đạo cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó Thánh đế khổ chẳng sinh nên chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng sinh nên chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.
Bạch Thế Tôn, vô minh chẳng sinh nên chẳng phải là vô minh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng sinh nên chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não. Vì sao? Vì vô minh cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó vô minh chẳng sinh nên chẳng phải là vô minh; hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng sinh nên chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Bạch Thế Tôn, pháp không bên trong chẳng sinh nên chẳng phải là pháp không bên trong; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng sinh nên chẳng phải là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì pháp không bên trong cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó pháp không bên trong chẳng sinh nên chẳng phải là pháp không bên trong; pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng sinh nên chẳng phải là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Bạch Thế Tôn, Bố thí ba-la-mật-đa chẳng sinh nên chẳng phải là Bố thí ba-la-mật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng sinh nên chẳng phải là Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bố thí ba-la-mật-đa cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó Bố thí ba-la-mật-đa chẳng sinh nên chẳng phải là Bố thí ba-la-mật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng sinh nên chẳng phải là Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, bốn Tĩnh lự chẳng sinh nên chẳng phải là bốn Tĩnh lự; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng sinh nên chẳng phải là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Vì sao? Vì bốn Tĩnh lự cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó bốn Tĩnh lự chẳng sinh nên chẳng phải là bốn Tĩnh lự; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng sinh nên chẳng phải là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Bạch Thế Tôn, tám Giải thoát chẳng sinh nên chẳng phải là tám Giải thoát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng sinh nên chẳng phải là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Vì sao? Vì tám Giải thoát cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó tám Giải thoát chẳng sinh nên chẳng phải là tám Giải thoát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng sinh nên chẳng phải là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Bạch Thế Tôn, bốn Niệm trụ chẳng sinh nên chẳng phải là bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng sinh nên chẳng phải là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Vì sao? Vì bốn Niệm trụ cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó bốn Niệm trụ chẳng sinh nên chẳng phải là bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng sinh nên chẳng phải là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Bạch Thế Tôn, pháp môn giải thoát Không chẳng sinh nên chẳng phải là pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng sinh nên chẳng phải là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát Không cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó pháp môn giải thoát Không chẳng sinh nên chẳng phải là pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng sinh nên chẳng phải là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Bạch Thế Tôn, năm loại mắt chẳng sinh nên chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng sinh nên chẳng phải là sáu phép thần thông.
Vì sao? Vì năm loại mắt cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; sáu phép thần thông cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó năm loại mắt chẳng sinh nên chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng sinh nên chẳng phải là sáu phép thần thông.
Bạch Thế Tôn, mười lực của Phật chẳng sinh nên chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng sinh nên chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì mười lực của Phật cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó mười lực của Phật chẳng sinh nên chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng sinh nên chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Bạch Thế Tôn, chân như chẳng sinh nên chẳng phải là chân như; pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng sinh nên chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì chân như cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó chân như chẳng sinh nên chẳng phải là chân như; pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng sinh nên chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Bạch Thế Tôn, quả vị Giác ngộ cao tột chẳng sinh nên chẳng phải là quả vị Giác ngộ cao tột; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng sinh nên chẳng phải là trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Vì quả vị Giác ngộ cao tột cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó quả vị Giác ngộ cao tột chẳng sinh nên chẳng phải là quả vị Giác ngộ cao tột; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng sinh nên chẳng phải là trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Bạch Thế Tôn, pháp không quên mất chẳng sinh nên chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng sinh nên chẳng phải là tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì pháp không quên mất cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; tánh luôn luôn xả cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó pháp không quên mất chẳng sinh nên chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng sinh nên chẳng phải là tánh luôn luôn xả.
Bạch Thế Tôn, tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng sinh nên chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng sinh nên chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cùng với chẳng sinh là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sinh là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng sinh nên chẳng phải là tất cả pháp môn Đàla-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng sinh nên chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Bạch Thế Tôn, sắc chẳng diệt nên chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng diệt nên chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; thọ, tưởng, hành, thức cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó sắc chẳng diệt nên chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng diệt nên chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.
Bạch Thế Tôn, nhãn xứ chẳng diệt nên chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng diệt nên chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó nhãn xứ chẳng diệt nên chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng diệt nên chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Bạch Thế Tôn, sắc xứ chẳng diệt nên chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng diệt nên chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì sắc xứ cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó sắc xứ chẳng diệt nên chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng diệt nên chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Bạch Thế Tôn, nhãn giới chẳng diệt nên chẳng phải là nhãn giới; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt nên chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì nhãn giới cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó nhãn giới chẳng diệt nên chẳng phải là nhãn giới; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt nên chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, nhĩ giới chẳng diệt nên chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt nên chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì nhĩ giới cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó nhĩ giới chẳng diệt nên chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt nên chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, tỷ giới chẳng diệt nên chẳng phải là tỷ giới; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt nên chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì tỷ giới cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó tỷ giới chẳng diệt nên chẳng phải là tỷ giới; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt nên chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, thiệt giới chẳng diệt nên chẳng phải là thiệt giới; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt nên chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì thiệt giới cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó thiệt giới chẳng diệt nên chẳng phải là thiệt giới; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt nên chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, thân giới chẳng diệt nên chẳng phải là thân giới; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt nên chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì thân giới cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó thân giới chẳng diệt nên chẳng phải là thân giới; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt nên chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, ý giới chẳng diệt nên chẳng phải là ý giới; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt nên chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì ý giới cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó ý giới chẳng diệt nên chẳng phải là ý giới; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt nên chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, địa giới chẳng diệt nên chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng diệt nên chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì địa giới cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó địa giới chẳng diệt nên chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng diệt nên chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Bạch Thế Tôn, Thánh đế khổ chẳng diệt nên chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng diệt nên chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì Thánh đế khổ cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; Thánh đế tập, diệt, đạo cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó Thánh đế khổ chẳng diệt nên chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng diệt nên chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.
Bạch Thế Tôn, vô minh chẳng diệt nên chẳng phải là vô minh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng diệt nên chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não. Vì sao? Vì vô minh cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó vô minh chẳng diệt nên chẳng phải là vô minh; hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng diệt nên chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Bạch Thế Tôn, pháp không bên trong chẳng diệt nên chẳng phải là pháp không bên trong; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng diệt nên chẳng phải là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì pháp không bên trong cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó pháp không bên trong chẳng diệt nên chẳng phải là pháp không bên trong; pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng diệt nên chẳng phải là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Bạch Thế Tôn, Bố thí ba-la-mật-đa chẳng diệt nên chẳng phải là Bố thí ba-la-mật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng diệt nên chẳng phải là Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bố thí ba-la-mật-đa cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó Bố thí ba-la-mật-đa chẳng diệt nên chẳng phải là Bố thí ba-la-mật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng diệt nên chẳng phải là Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, bốn Tĩnh lự chẳng diệt nên chẳng phải là bốn Tĩnh lự; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng diệt nên chẳng phải là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Vì sao? Vì bốn Tĩnh lự cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó bốn Tĩnh lự chẳng diệt nên chẳng phải là bốn Tĩnh lự; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng diệt nên chẳng phải là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Bạch Thế Tôn, tám Giải thoát chẳng diệt nên chẳng phải là tám Giải thoát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng diệt nên chẳng phải là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Vì sao? Vì tám Giải thoát cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó tám Giải thoát chẳng diệt nên chẳng phải là tám Giải thoát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng diệt nên chẳng phải là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Bạch Thế Tôn, bốn Niệm trụ chẳng diệt nên chẳng phải là bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng diệt nên chẳng phải là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Vì sao? Vì bốn Niệm trụ cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó bốn Niệm trụ chẳng diệt nên chẳng phải là bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng diệt nên chẳng phải là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Bạch Thế Tôn, pháp môn giải thoát Không chẳng diệt nên chẳng phải là pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng diệt nên chẳng phải là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát Không cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó pháp môn giải thoát Không chẳng diệt nên chẳng phải là pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng diệt nên chẳng phải là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Bạch Thế Tôn, năm loại mắt chẳng diệt nên chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng diệt nên chẳng phải là sáu phép thần thông.
Vì sao? Vì năm loại mắt cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; sáu phép thần thông cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó năm loại mắt chẳng diệt nên chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng diệt nên chẳng phải là sáu phép thần thông.
Bạch Thế Tôn, mười lực của Phật chẳng diệt nên chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng diệt nên chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì mười lực của Phật cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó mười lực của Phật chẳng diệt nên chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng diệt nên chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Bạch Thế Tôn, chân như chẳng diệt nên chẳng phải là chân như; pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng diệt nên chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì chân như cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó chân như chẳng diệt nên chẳng phải là chân như; pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng diệt nên chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Bạch Thế Tôn, quả vị Giác ngộ cao tột chẳng diệt nên chẳng phải là quả vị Giác ngộ cao tột; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng diệt nên chẳng phải là trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Vì quả vị Giác ngộ cao tột cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó quả vị Giác ngộ cao tột chẳng diệt nên chẳng phải là quả vị Giác ngộ cao tột; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng diệt nên chẳng phải là trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Bạch Thế Tôn, pháp không quên mất chẳng diệt nên chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng diệt nên chẳng phải là tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì pháp không quên mất cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; tánh luôn luôn xả cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó pháp không quên mất chẳng diệt nên chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng diệt nên chẳng phải là tánh luôn luôn xả.
Bạch Thế Tôn, tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng diệt nên chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng diệt nên chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần; tất cả pháp môn Tamma-địa cùng với chẳng diệt là không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt là chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Do đó tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng diệt nên chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng diệt nên chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Bạch Thế Tôn, sắc không hai nên chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức không hai nên chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.
Bạch Thế Tôn, nhãn xứ không hai nên chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không hai nên chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Bạch Thế Tôn, sắc xứ không hai nên chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không hai nên chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Bạch Thế Tôn, nhãn giới không hai nên chẳng phải là nhãn giới; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không hai nên chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, nhĩ giới không hai nên chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không hai nên chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, tỷ giới không hai nên chẳng phải là tỷ giới; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không hai nên chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, thiệt giới không hai nên chẳng phải là thiệt giới; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không hai nên chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, thân giới không hai nên chẳng phải là thân giới; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không hai nên chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, ý giới không hai nên chẳng phải là ý giới; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không hai nên chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, địa giới không hai nên chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới không hai nên chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Bạch Thế Tôn, Thánh đế khổ không hai nên chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo không hai nên chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.
Bạch Thế Tôn, vô minh không hai nên chẳng phải là vô minh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não không hai nên chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Bạch Thế Tôn, pháp không bên trong không hai nên chẳng phải là pháp không bên trong; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không hai nên chẳng phải là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Bạch Thế Tôn, Bố thí ba-la-mật-đa không hai nên chẳng phải là Bố thí ba-la-mật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không hai nên chẳng phải là Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, bốn Tĩnh lự không hai nên chẳng phải là bốn Tĩnh lự; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không hai nên chẳng phải là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Bạch Thế Tôn, tám Giải thoát không hai nên chẳng phải là tám Giải thoát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không hai nên chẳng phải là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Bạch Thế Tôn, bốn Niệm trụ không hai nên chẳng phải là bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo không hai nên chẳng phải là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Bạch Thế Tôn, pháp môn giải thoát Không không hai nên chẳng phải là pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không hai nên chẳng phải là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Bạch Thế Tôn, năm loại mắt không hai nên chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông không hai nên chẳng phải là sáu phép thần thông.
Bạch Thế Tôn, mười lực của Phật không hai nên chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng không hai nên chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Bạch Thế Tôn, chân như không hai nên chẳng phải là chân như; pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn không hai nên chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Bạch Thế Tôn, quả vị Giác ngộ cao tột không hai nên chẳng phải là quả vị Giác ngộ cao tột; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không hai nên chẳng phải là trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Bạch Thế Tôn, pháp không quên mất không hai nên chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả không hai nên chẳng phải là tánh luôn luôn xả.
Bạch Thế Tôn, tất cả pháp môn Đà-la-ni không hai nên chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa không hai nên chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Bạch Thế Tôn, sắc nhập vào không hai, pháp số không rối; thọ, tưởng, hành, thức nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, nhãn xứ nhập vào không hai, pháp số không rối; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, sắc xứ nhập vào không hai, pháp số không rối; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, nhãn giới nhập vào không hai, pháp số không rối; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, nhĩ giới nhập vào không hai, pháp số không rối; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, tỷ giới nhập vào không hai, pháp số không rối; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, thiệt giới nhập vào không hai, pháp số không rối; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, thân giới nhập vào không hai, pháp số không rối; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, ý giới nhập vào không hai, pháp số không rối; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, địa giới nhập vào không hai, pháp số không rối; thủy, hỏa, phong, không, thức giới nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, Thánh đế khổ nhập vào không hai, pháp số không rối; Thánh đế tập, diệt, đạo nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, vô minh nhập vào không hai, pháp số không rối; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, pháp không bên trong nhập vào không hai, pháp số không rối; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, Bố thí ba-la-mật-đa nhập vào không hai, pháp số không rối; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, bốn Tĩnh lự nhập vào không hai, pháp số không rối; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, tám Giải thoát nhập vào không hai, pháp số không rối; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, bốn Niệm trụ nhập vào không hai, pháp số không rối; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, pháp môn giải thoát Không nhập vào không hai, pháp số không rối; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, năm loại mắt nhập vào không hai, pháp số không rối; sáu phép thần thông nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, mười lực của Phật nhập vào không hai, pháp số không rối; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, chân như nhập vào không hai, pháp số không rối; pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, quả vị Giác ngộ cao tột nhập vào không hai, pháp số không rối; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, pháp không quên mất nhập vào không hai, pháp số không rối; tánh luôn luôn xả nhập vào không hai, pháp số không rối.
Bạch Thế Tôn, tất cả pháp môn Đà-la-ni nhập vào không hai, pháp số không rối; tất cả pháp môn Tam-ma-địa nhập vào không hai, pháp số không rối.
Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
−Nói là Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, khi quán các pháp, cái gì gọi là Đại Bồ-tát, cái gì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa, cái gì gọi là quán các pháp?
Cụ thọ Thiện Hiện đáp lời Xá-lợi Tử:
−Như Tôn giả đã hỏi, “Cái gì gọi là Đại Bồtát?” Xá-lợi Tử, đó là loại hữu tình cầu quả vị Giác ngộ và cũng đã giác ngộ nên gọi là Bồ-tát, có khả năng nhận biết như thật về tất cả pháp tướng nhưng chẳng chấp trước, nên gọi là Đại Bồ-tát.
Xá-lợi Tử hỏi:
−Thế nào là Đại Bồ-tát có khả năng nhận biết như thật về tất cả pháp tướng nhưng chẳng chấp trước?
Thiện Hiện đáp:
–Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của sắc nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của thọ, tưởng, hành, thức nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của nhãn xứ nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của sắc xứ nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của nhãn giới nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của nhĩ giới nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của tỷ giới nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của thiệt giới nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của thân giới nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của ý giới nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của địa giới nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của Thánh đế khổ nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của vô minh nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của pháp không bên trong nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của Bố thí ba-la-mật-đa nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của bốn Tĩnh lự nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của tám Giải thoát nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của bốn Niệm trụ nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của pháp môn giải thoát Không nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của năm loại mắt nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của sáu phép thần thông nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng nơi mười lực của Phật nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của chân như nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của quả vị Giác ngộ cao tột nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của pháp không quên mất nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của tánh luôn luôn xả nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát nhận biết như thật về tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni nhưng chẳng chấp trước; nhận biết như thật về tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa nhưng chẳng chấp trước.
Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
–Những gì gọi là tất cả pháp tướng?
Thiện Hiện đáp:
–Nếu do tướng trạng của các hành như vậy mà biết rõ các pháp là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp, là bên trong, là bên ngoài, là hữu lậu, là vô lậu, là hữu vi, là vô vi thì những thứ này gọi là tất cả pháp tướng.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá-lợi Tử:
−Như Tôn giả đã hỏi, “Cái gì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa?” Xá-lợi Tử, có được trí tuệ thắng diệu vĩnh viễn xa lìa mọi nẻo sở hữu nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử hỏi:
–Trí này đối với pháp nào mà được vĩnh viễn xa lìa?
Thiện Hiện đáp:
–Trí này đối với tất cả phiền não, các nẻo kiến chấp được vĩnh viễn xa lìa; trí này đối với sáu cõi, bốn loài được vĩnh viễn xa lìa; trí này đối với tất cả uẩn, xứ, giới... được vĩnh viễn xa lìa, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, có được trí tuệ thắng diệu, vĩnh viễn đạt đến những chỗ thích hợp, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử hỏi:
–Trí này đối với pháp nào được vĩnh viễn đạt đến?
Thiện Hiện đáp:
–Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của sắc được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của thọ, tưởng, hành, thức được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của nhãn xứ được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của sắc xứ được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của nhãn giới được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của nhĩ giới được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của tỷ giới được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của thiệt giới nhập vào không hai, pháp số không rối; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của thân giới được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của ý giới được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của địa giới được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của Thánh đế khổ được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của vô minh được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của pháp không bên trong được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của Bố thí ba-la-mật-đa được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của bốn Tĩnh lự được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của tám Giải thoát được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã bala-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của bốn Niệm trụ được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của pháp môn giải thoát Không được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của năm loại mắt được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của sáu phép thần thông được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh nơi mười lực của Phật được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của chân như được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của quả vị Giác ngộ cao tột được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của pháp không quên mất được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của tánh luôn luôn xả được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, trí này đối với thật tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá-lợi Tử:
−Như Tôn giả đã hỏi, “Thế nào gọi là quán các pháp?” Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, quán sắc chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán sắc chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán sắc chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán sắc chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán sắc chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán sắc chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán sắc chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán sắc chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán sắc chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán nhãn xứ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán nhãn xứ chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán nhãn xứ chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán nhãn xứ chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán nhãn xứ chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán nhãn xứ chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán nhãn xứ chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán nhãn xứ chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán nhãn xứ chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán sắc xứ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán sắc xứ chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán sắc xứ chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán sắc xứ chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán sắc xứ chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán sắc xứ chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán sắc xứ chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán sắc xứ chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán sắc xứ chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán nhãn giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán nhãn giới chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán nhãn giới chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán nhãn giới chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán nhãn giới chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán nhãn giới chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán nhãn giới chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán nhãn giới chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán nhãn giới chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán nhĩ giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán nhĩ giới chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán nhĩ giới chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán nhĩ giới chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán nhĩ giới chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán nhĩ giới chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán nhĩ giới chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán nhĩ giới chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán nhĩ giới chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán tỷ giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường.
Quán tỷ giới chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán tỷ giới chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán tỷ giới chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán tỷ giới chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán tỷ giới chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán tỷ giới chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán tỷ giới chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán tỷ giới chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán thiệt giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán thiệt giới chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán thiệt giới chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán thiệt giới chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán thiệt giới chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán thiệt giới chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán thiệt giới chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán thiệt giới chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán thiệt giới chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán thân giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán thân giới chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán thân giới chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán thân giới chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán thân giới chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán thân giới chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán thân giới chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán thân giới chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán thân giới chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán ý giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán ý giới chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán ý giới chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán ý giới chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán ý giới chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán ý giới chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán ý giới chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán ý giới chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán ý giới chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán địa giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán địa giới chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán địa giới chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán địa giới chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán địa giới chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán địa giới chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán địa giới chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán địa giới chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán địa giới chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán Thánh đế khổ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán Thánh đế khổ chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán Thánh đế khổ chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán Thánh đế khổ chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán Thánh đế khổ chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán Thánh đế khổ chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán Thánh đế khổ chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán Thánh đế khổ chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán Thánh đế khổ chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán vô minh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán vô minh chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán vô minh chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán vô minh chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán vô minh chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán vô minh chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán vô minh chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán vô minh chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán vô minh chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán pháp không bên trong chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán pháp không bên trong chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán pháp không bên trong chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán pháp không bên trong chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán pháp không bên trong chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán pháp không bên trong chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán pháp không bên trong chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán pháp không bên trong chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán pháp không bên trong chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện.
Quán Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán bốn Tĩnh lự chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán bốn Tĩnh lự chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán bốn Tĩnh lự chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán bốn Tĩnh lự chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán bốn Tĩnh lự chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán bốn Tĩnh lự chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán bốn Tĩnh lự chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán bốn Tĩnh lự chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán bốn Tĩnh lự chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán tám Giải thoát chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán tám Giải thoát chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán tám Giải thoát chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán tám Giải thoát chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán tám Giải thoát chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán tám Giải thoát chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán tám Giải thoát chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán tám Giải thoát chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán tám Giải thoát chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán bốn Niệm trụ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán bốn Niệm trụ chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán bốn Niệm trụ chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán bốn Niệm trụ chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán bốn Niệm trụ chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán bốn Niệm trụ chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán bốn Niệm trụ chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán bốn Niệm trụ chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán bốn Niệm trụ chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán pháp môn giải thoát Không chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán pháp môn giải thoát Không chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán pháp môn giải thoát Không chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán pháp môn giải thoát Không chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán pháp môn giải thoát Không chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán pháp môn giải thoát Không chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán pháp môn giải thoát Không chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán pháp môn giải thoát Không chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán pháp môn giải thoát Không chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán năm loại mắt chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán sáu phép thần thông chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán năm loại mắt chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán sáu phép thần thông chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán năm loại mắt chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán sáu phép thần thông chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán năm loại mắt chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán sáu phép thần thông chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán năm loại mắt chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán sáu phép thần thông chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán năm loại mắt chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán sáu phép thần thông chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán năm loại mắt chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán sáu phép thần thông chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán năm loại mắt chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán sáu phép thần thông chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán năm loại mắt chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán sáu phép thần thông chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán mười lực của Phật chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán mười lực của Phật chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán mười lực của Phật chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán mười lực của Phật chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán mười lực của Phật chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán mười lực của Phật chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán mười lực của Phật chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán mười lực của Phật chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán mười lực của Phật chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán chân như chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán chân như chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán chân như chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán chân như chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán chân như chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán chân như chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán chân như chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán chân như chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán chân như chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán quả vị Giác ngộ cao tột chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán quả vị Giác ngộ cao tột chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán quả vị Giác ngộ cao tột chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán quả vị Giác ngộ cao tột chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán quả vị Giác ngộ cao tột chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán quả vị Giác ngộ cao tột chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán quả vị Giác ngộ cao tột chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán quả vị Giác ngộ cao tột chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán quả vị Giác ngộ cao tột chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán pháp không quên mất chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán pháp không quên mất chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán pháp không quên mất chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán pháp không quên mất chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán pháp không quên mất chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán pháp không quên mất chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán pháp không quên mất chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán pháp không quên mất chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán pháp không quên mất chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán tất cả pháp môn Tam-mađịa chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán tất cả pháp môn Đàla-ni chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải chẳng tịch tĩnh. Quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá-lợi Tử, như vậy gọi là quán các pháp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên quán các pháp như thế.
Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
−Vì duyên cớ gì mà nói là sắc... chẳng sinh tức chẳng phải sắc...?
Thiện Hiện đáp:
−Xá-lợi Tử, sắc và tánh của sắc là không; trong tánh không này không có sinh, không có sắc; thọ, tưởng, hành, thức và tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không; trong tánh không này không có sinh, không có thọ, tưởng, hành, thức.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói sắc chẳng sinh tức chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng sinh nên chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức.
Xá-lợi Tử, nhãn xứ và tánh của nhãn xứ là không; trong tánh không này không có sinh, không có nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không; trong tánh không này không có sinh, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói nhãn xứ chẳng sinh tức chẳng phải nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng sinh tức chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Xá-lợi Tử, sắc xứ và tánh của sắc xứ là không; trong tánh không này không có sinh, không có sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không; trong tánh không này không có sinh, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói sắc xứ chẳng sinh tức chẳng phải sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng sinh tức chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Xá-lợi Tử, nhãn giới và tánh của nhãn giới là không; trong tánh không này không có sinh, không có nhãn giới; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra và tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không này không có sinh, không có sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói nhãn giới chẳng sinh tức chẳng phải nhãn giới; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh tức chẳng phải sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, nhĩ giới và tánh của nhĩ giới là không; trong tánh không này không có sinh, không có nhĩ giới; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra và tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không này không có sinh, không có thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói nhĩ giới chẳng sinh tức chẳng phải nhĩ giới; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh tức chẳng phải thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, tỷ giới và tánh của tỷ giới là không; trong tánh không này không có sinh, không có tỷ giới; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra và tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không này không có sinh, không có hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói tỷ giới chẳng sinh tức chẳng phải tỷ giới; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh tức chẳng phải hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, thiệt giới và tánh của thiệt giới là không; trong tánh không này không có sinh, không có thiệt giới; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra và tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không này không có sinh, không có vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói thiệt giới chẳng sinh tức chẳng phải thiệt giới; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh tức chẳng phải vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, thân giới và tánh của thân giới là không; trong tánh không này không có sinh, không có thân giới; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra và tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không này không có sinh, không có xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói thân giới chẳng sinh tức chẳng phải thân giới; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh tức chẳng phải xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, ý giới và tánh của ý giới là không; trong tánh không này không có sinh, không có ý giới; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra và tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không này không có sinh, không có pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói ý giới chẳng sinh tức chẳng phải ý giới; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng sinh tức chẳng phải pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, địa giới và tánh của địa giới là không; trong tánh không này không có sinh, không có địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không; trong tánh không này không có sinh, không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói địa giới chẳng sinh tức chẳng phải địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng sinh tức chẳng phải thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Xá-lợi Tử, Thánh đế khổ và tánh của Thánh đế khổ là không; trong tánh không này không có sinh, không có Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo và tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không; trong tánh không này không có sinh, không có Thánh đế tập, diệt, đạo.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói Thánh đế khổ chẳng sinh tức chẳng phải Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng sinh tức chẳng phải Thánh đế tập, diệt, đạo.
Xá-lợi Tử, vô minh và tánh của vô minh là không; trong tánh không này không có sinh, không có vô minh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não và tánh của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não là không; trong tánh không này không có sinh, không có hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói vô minh chẳng sinh tức chẳng phải vô minh; hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng sinh tức chẳng phải hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Xá-lợi Tử, pháp không bên trong và tánh của pháp không bên trong là không; trong tánh không này không có sinh, không có pháp không bên trong; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và tánh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là không; trong tánh không này không có sinh, không có pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói pháp không bên trong chẳng sinh tức chẳng phải pháp không bên trong; pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng sinh tức chẳng phải pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Xá-lợi Tử, Bố thí ba-la-mật-đa và tánh của Bố thí ba-la-mật-đa là không; trong tánh không này không có sinh, không có Bố thí ba-la-mật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa và tánh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là không; trong tánh không này không có sinh, không có Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói Bố thí ba-la-mật-đa chẳng sinh tức chẳng phải Bố thí bala-mật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng sinh tức chẳng phải Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa.
Xá-lợi Tử, bốn Tĩnh lự và tánh của bốn Tĩnh lự là không; trong tánh không này không có sinh, không có bốn Tĩnh lự; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc và tánh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là không; trong tánh không này không có sinh, không có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói bốn Tĩnh lự chẳng sinh tức chẳng phải bốn Tĩnh lự; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng sinh tức chẳng phải bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Xá-lợi Tử, tám Giải thoát và tánh của tám Giải thoát là không; trong tánh không này không có sinh, không có tám Giải thoát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ và tánh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là không; trong tánh không này không có sinh, không có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói tám Giải thoát chẳng sinh tức chẳng phải tám Giải thoát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng sinh tức chẳng phải tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Xá-lợi Tử, bốn Niệm trụ và tánh của bốn Niệm trụ là không; trong tánh không này không có sinh, không có bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo và tánh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là không; trong tánh không này không có sinh, không có bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói bốn Niệm trụ chẳng sinh tức chẳng phải bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng sinh tức chẳng phải bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Xá-lợi Tử, pháp môn giải thoát Không và tánh của pháp môn giải thoát Không là không; trong tánh không này không có sinh, không có pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện và tánh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là không; trong tánh không này không có sinh, không có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói pháp môn giải thoát Không chẳng sinh tức chẳng phải pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng sinh tức chẳng phải pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Xá-lợi Tử, năm loại mắt và tánh của năm loại mắt là không; trong tánh không này không có sinh, không có năm loại mắt; sáu phép thần thông và tánh của sáu phép thần thông là không; trong tánh không này không có sinh, không có sáu phép thần thông.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói năm loại mắt chẳng sinh tức chẳng phải năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng sinh tức chẳng phải sáu phép thần thông.
Xá-lợi Tử, mười lực của Phật và tánh nơi mười lực của Phật là không; trong tánh không này không có sinh, không có mười lực của Phật; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng và tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không; trong tánh không này không có sinh, không có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói mười lực của Phật chẳng sinh tức chẳng phải mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng sinh tức chẳng phải bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Xá-lợi Tử, chân như và tánh của chân như là không; trong tánh không này không có sinh, không có chân như; pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn và tánh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là không; trong tánh không này không có sinh, không có pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói chân như chẳng sinh tức chẳng phải chân như; pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng sinh tức chẳng phải pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Xá-lợi Tử, quả vị Giác ngộ cao tột và tánh của quả vị Giác ngộ cao tột là không; trong tánh không này không có sinh, không có quả vị Giác ngộ cao tột; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng và tánh của trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là không; trong tánh không này không có sinh, không có trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói quả vị Giác ngộ cao tột chẳng sinh tức chẳng phải quả vị Giác ngộ cao tột; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng sinh tức chẳng phải trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Xá-lợi Tử, pháp không quên mất và tánh của pháp không quên mất là không; trong tánh không này không có sinh, không có pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả và tánh của tánh luôn luôn xả là không; trong tánh không này không có sinh, không có tánh luôn luôn xả.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói pháp không quên mất chẳng sinh tức chẳng phải pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng sinh tức chẳng phải tánh luôn luôn xả.
Xá-lợi Tử, tất cả pháp môn Đà-la-ni và tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không; trong tánh không này không có sinh, không có tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không; trong tánh không này không có sinh, không có tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng sinh tức chẳng phải tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-mađịa chẳng sinh tức chẳng phải tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
−Vì duyên cớ gì mà nói là sắc... chẳng diệt tức chẳng phải sắc...?
Thiện Hiện đáp:
−Xá-lợi Tử, sắc và tánh của sắc là không; trong tánh không này không có diệt, không có sắc; thọ, tưởng, hành, thức và tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không; trong tánh không này không có diệt, không có thọ, tưởng, hành, thức.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói sắc chẳng diệt tức chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng diệt tức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức.
Xá-lợi Tử, nhãn xứ và tánh của nhãn xứ là không; trong tánh không này không có diệt, không có nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không; trong tánh không này không có diệt, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói nhãn xứ chẳng diệt tức chẳng phải nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng diệt tức chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Xá-lợi Tử, sắc xứ và tánh của sắc xứ là không; trong tánh không này không có diệt, không có sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không; trong tánh không này không có diệt, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói sắc xứ chẳng diệt tức chẳng phải sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng diệt tức chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Xá-lợi Tử, nhãn giới và tánh của nhãn giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có nhãn giới; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra và tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói nhãn giới chẳng diệt tức chẳng phải nhãn giới; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt tức chẳng phải sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, nhĩ giới và tánh của nhĩ giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có nhĩ giới; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra và tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói nhĩ giới chẳng diệt tức chẳng phải nhĩ giới; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt tức chẳng phải thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, tỷ giới và tánh của tỷ giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có tỷ giới; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra và tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói tỷ giới chẳng diệt tức chẳng phải tỷ giới; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt tức chẳng phải hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, thiệt giới và tánh của thiệt giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có thiệt giới; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra và tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói thiệt giới chẳng diệt tức chẳng phải thiệt giới; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt tức chẳng phải vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, thân giới và tánh của thân giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có thân giới; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra và tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói thân giới chẳng diệt tức chẳng phải thân giới; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt tức chẳng phải xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, ý giới và tánh của ý giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có ý giới; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra và tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói ý giới chẳng diệt tức chẳng phải ý giới; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng diệt tức chẳng phải pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, địa giới và tánh của địa giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói địa giới chẳng diệt tức chẳng phải địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng diệt tức chẳng phải thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Xá-lợi Tử, Thánh đế khổ và tánh của Thánh đế khổ là không; trong tánh không này không có diệt, không có Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo và tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không; trong tánh không này không có diệt, không có Thánh đế tập, diệt, đạo.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói Thánh đế khổ chẳng diệt tức chẳng phải Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng diệt tức chẳng phải Thánh đế tập, diệt, đạo.
Xá-lợi Tử, vô minh và tánh của vô minh là không; trong tánh không này không có diệt, không có vô minh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não và tánh của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não là không; trong tánh không này không có diệt, không có hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói vô minh chẳng diệt tức chẳng phải vô minh; hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng diệt tức chẳng phải hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Xá-lợi Tử, pháp không bên trong và tánh của pháp không bên trong là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp không bên trong; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và tánh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói pháp không bên trong chẳng diệt tức chẳng phải pháp không bên trong; pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng diệt tức chẳng phải pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Xá-lợi Tử, Bố thí ba-la-mật-đa và tánh của Bố thí ba-la-mật-đa là không; trong tánh không này không có diệt, không có Bố thí ba-la-mật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa và tánh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là không; trong tánh không này không có diệt, không có Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói Bố thí ba-la-mật-đa chẳng diệt tức chẳng phải Bố thí bala-mật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng diệt tức chẳng phải Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa.
Xá-lợi Tử, bốn Tĩnh lự và tánh của bốn Tĩnh lự là không; trong tánh không này không có diệt, không có bốn Tĩnh lự; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc và tánh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là không; trong tánh không này không có diệt, không có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói bốn Tĩnh lự chẳng diệt tức chẳng phải bốn Tĩnh lự; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng diệt tức chẳng phải bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Xá-lợi Tử, tám Giải thoát và tánh của tám Giải thoát là không; trong tánh không này không có diệt, không có tám Giải thoát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ và tánh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là không; trong tánh không này không có diệt, không có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói tám Giải thoát chẳng diệt tức chẳng phải tám Giải thoát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng diệt tức chẳng phải tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Xá-lợi Tử, bốn Niệm trụ và tánh của bốn Niệm trụ là không; trong tánh không này không có diệt, không có bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo và tánh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là không; trong tánh không này không có diệt, không có bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói bốn Niệm trụ chẳng diệt tức chẳng phải bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng diệt tức chẳng phải bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Xá-lợi Tử, pháp môn giải thoát Không và tánh của pháp môn giải thoát Không là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện và tánh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói pháp môn giải thoát Không chẳng diệt tức chẳng phải pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng diệt tức chẳng phải pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Xá-lợi Tử, năm loại mắt và tánh của năm loại mắt là không; trong tánh không này không có diệt, không có năm loại mắt; sáu phép thần thông và tánh của sáu phép thần thông là không; trong tánh không này không có diệt, không có sáu phép thần thông.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói năm loại mắt chẳng diệt tức chẳng phải năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng diệt tức chẳng phải sáu phép thần thông.
Xá-lợi Tử, mười lực của Phật và tánh nơi mười lực của Phật là không; trong tánh không này không có diệt, không có mười lực của Phật; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng và tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không; trong tánh không này không có diệt, không có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói mười lực của Phật chẳng diệt tức chẳng phải mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng diệt tức chẳng phải bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Xá-lợi Tử, chân như và tánh của chân như là không; trong tánh không này không có diệt, không có chân như; pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly diệt, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn và tánh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói chân như chẳng diệt tức chẳng phải chân như; pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng diệt tức chẳng phải pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Xá-lợi Tử, quả vị Giác ngộ cao tột và tánh của quả vị Giác ngộ cao tột là không; trong tánh không này không có diệt, không có quả vị Giác ngộ cao tột; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng và tánh của trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là không; trong tánh không này không có diệt, không có trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói quả vị Giác ngộ cao tột chẳng diệt tức chẳng phải quả vị
Giác ngộ cao tột; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng diệt tức chẳng phải trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Xá-lợi Tử, pháp không quên mất và tánh của pháp không quên mất là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả và tánh của tánh luôn luôn xả là không; trong tánh không này không có diệt, không có tánh luôn luôn xả.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói pháp không quên mất chẳng diệt tức chẳng phải pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng diệt tức chẳng phải tánh luôn luôn xả.
Xá-lợi Tử, tất cả pháp môn Đà-la-ni và tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không; trong tánh không này không có diệt, không có tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không; trong tánh không này không có diệt, không có tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng diệt tức chẳng phải tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-mađịa chẳng diệt tức chẳng phải tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
−Vì duyên cớ gì mà nói là sắc... không hai tức chẳng phải sắc...?
Thiện Hiện đáp:
−Xá-lợi Tử, hoặc sắc, hoặc không hai; hoặc thọ, tưởng, hành, thức, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói sắc không hai tức chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức không hai tức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức.
Xá-lợi Tử, hoặc nhãn xứ, hoặc không hai; hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói nhãn xứ không hai tức chẳng phải nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không hai tức chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Xá-lợi Tử, hoặc sắc xứ, hoặc không hai; hoặc thanh, hương, vị xúc, pháp xứ, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói sắc xứ không hai tức chẳng phải sắc xứ; thanh, hương, vị xúc, pháp xứ không hai tức chẳng phải thanh, hương, vị xúc, pháp xứ.
Xá-lợi Tử, hoặc nhãn giới, hoặc không hai; hoặc sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói nhãn giới không hai tức chẳng phải nhãn giới; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không hai tức chẳng phải sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, hoặc nhĩ giới, hoặc không hai; hoặc thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói nhĩ giới không hai tức chẳng phải nhĩ giới; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không hai tức chẳng phải thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, hoặc tỷ giới, hoặc không hai; hoặc hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói tỷ giới không hai tức chẳng phải tỷ giới; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không hai tức chẳng phải hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, hoặc thiệt giới, hoặc không hai; hoặc vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói thiệt giới không hai tức chẳng phải thiệt giới; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không hai tức chẳng phải vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, hoặc thân giới, hoặc không hai; hoặc xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói thân giới không hai tức chẳng phải thân giới; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không hai tức chẳng phải xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, hoặc ý giới, hoặc không hai; hoặc pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói ý giới không hai tức chẳng phải ý giới; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không hai tức chẳng phải pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, hoặc địa giới, hoặc không hai; hoặc thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói địa giới không hai tức chẳng phải địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới không hai tức chẳng phải thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Xá-lợi Tử, hoặc Thánh đế khổ, hoặc không hai; hoặc Thánh đế tập, diệt, đạo, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói Thánh đế khổ không hai tức chẳng phải Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo không hai tức chẳng phải Thánh đế tập, diệt, đạo.
Xá-lợi Tử, hoặc vô minh, hoặc không hai; hoặc hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói vô minh không hai tức chẳng phải vô minh; hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không hai tức chẳng phải hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Xá-lợi Tử, hoặc pháp không bên trong, hoặc không hai; hoặc pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói pháp không bên trong không hai tức chẳng phải pháp không bên trong; pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh không hai tức chẳng phải pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Xá-lợi Tử, hoặc Bố thí ba-la-mật-đa, hoặc không hai; hoặc Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói Bố thí ba-la-mật-đa không hai tức chẳng phải Bố thí bala-mật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không hai tức chẳng phải Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa.
Xá-lợi Tử, hoặc bốn Tĩnh lự, hoặc không hai; hoặc bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói bốn Tĩnh lự không hai tức chẳng phải bốn Tĩnh lự; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không hai tức chẳng phải bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Xá-lợi Tử, hoặc tám Giải thoát, hoặc không hai; hoặc tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói tám Giải thoát không hai tức chẳng phải tám Giải thoát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không hai tức chẳng phải tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Xá-lợi Tử, hoặc bốn Niệm trụ, hoặc không hai; hoặc bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói bốn Niệm trụ không hai tức chẳng phải bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không hai tức chẳng phải bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Xá-lợi Tử, hoặc pháp môn giải thoát Không, hoặc không hai; hoặc pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói pháp môn giải thoát Không không hai tức chẳng phải pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không hai tức chẳng phải pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Xá-lợi Tử, hoặc năm loại mắt, hoặc không hai; hoặc sáu phép thần thông, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói năm loại mắt không hai tức chẳng phải năm loại mắt; sáu phép thần thông không hai tức chẳng phải sáu phép thần thông.
Xá-lợi Tử, hoặc mười lực của Phật, hoặc không hai; hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói mười lực của Phật không hai tức chẳng phải mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không hai tức chẳng phải bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Xá-lợi Tử, hoặc chân như, hoặc không hai; hoặc pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói chân như không hai tức chẳng phải chân như; pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn không hai tức chẳng phải pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Xá-lợi Tử, hoặc quả vị Giác ngộ cao tột, hoặc không hai; hoặc trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói quả vị Giác ngộ cao tột không hai tức chẳng phải quả vị Giác ngộ cao tột; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không hai tức chẳng phải trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Xá-lợi Tử, hoặc pháp không quên mất, hoặc không hai; hoặc tánh luôn luôn xả, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói pháp không quên mất không hai tức chẳng phải pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả không hai tức chẳng phải tánh luôn luôn xả.
Xá-lợi Tử, hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc không hai; hoặc tất cả pháp môn Tam-ma-địa, hoặc không hai, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là không có tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói tất cả pháp môn Đà-la-ni không hai tức chẳng phải tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa không hai tức chẳng phải tất cả pháp môn Tamma-địa.
Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
–Vì duyên cớ gì mà nói là sắc... nhập vào không hai, pháp số không rối?
Thiện Hiện đáp:
−Xá-lợi Tử, sắc chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác sắc; sắc tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là thọ, tưởng, hành, thức.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là sắc nhập vào không hai, pháp số không rối; thọ, tưởng, hành, thức nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, nhãn xứ chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác nhãn xứ; nhãn xứ tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là nhãn xứ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là nhãn xứ nhập vào không hai, pháp số không rối; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, sắc xứ chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác sắc xứ; sắc xứ tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là sắc xứ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là sắc xứ nhập vào không hai, pháp số không rối; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, nhãn giới chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác nhãn giới; nhãn giới tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là nhãn giới. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là nhãn giới nhập vào không hai, pháp số không rối; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, nhĩ giới chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác nhĩ giới; nhĩ giới tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là nhĩ giới. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là nhĩ giới nhập vào không hai, pháp số không rối; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, tỷ giới chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác tỷ giới; tỷ giới tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là tỷ giới. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là tỷ giới nhập vào không hai, pháp số không rối; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, thiệt giới chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác thiệt giới; thiệt giới tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là thiệt giới. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là thiệt giới nhập vào không hai, pháp số không rối; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, thân giới chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác thân giới; thân giới tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là thân giới. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là thân giới nhập vào không hai, pháp số không rối; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, ý giới chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác ý giới; ý giới tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là ý giới. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là ý giới nhập vào không hai, pháp số không rối; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, địa giới chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác địa giới; địa giới tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là địa giới.
Thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác thủy, hỏa, phong, không, thức giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là địa giới nhập vào không hai, pháp số không rối; thủy, hỏa, phong, không, thức giới nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, Thánh đế khổ chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác Thánh đế khổ; Thánh đế khổ tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là Thánh đế khổ. Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác Thánh đế tập, diệt, đạo; Thánh đế tập, diệt, đạo tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là Thánh đế tập, diệt, đạo.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là Thánh đế khổ nhập vào không hai, pháp số không rối; Thánh đế tập, diệt, đạo nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, vô minh chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác vô minh; vô minh tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là vô minh. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não; hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là vô minh nhập vào không hai, pháp số không rối; hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, pháp không bên trong chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác pháp không bên trong; pháp không bên trong tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là pháp không bên trong. Pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là pháp không bên trong nhập vào không hai, pháp số không rối; pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, Bố thí ba-la-mật-đa chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác Bố thí ba-la-mật-đa; Bố thí ba-la-mật-đa tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là Bố thí ba-la-mậtđa. Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là Bố thí ba-la-mật-đa nhập vào không hai, pháp số không rối; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, bốn Tĩnh lự chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác bốn Tĩnh lự; bốn Tĩnh lự tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là bốn Tĩnh lự. Bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là bốn Tĩnh lự nhập vào không hai, pháp số không rối; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, tám Giải thoát chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác tám Giải thoát; tám Giải thoát tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là tám Giải thoát. Tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là tám Giải thoát nhập vào không hai, pháp số không rối; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, bốn Niệm trụ chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác bốn Niệm trụ; bốn Niệm trụ tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là bốn Niệm trụ. Bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là bốn Niệm trụ nhập vào không hai, pháp số không rối; bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, pháp môn giải thoát Không chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Không tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là pháp môn giải thoát Không. Pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là pháp môn giải thoát Không nhập vào không hai, pháp số không rối; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, năm loại mắt chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác năm loại mắt; năm loại mắt tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là năm loại mắt. Sáu phép thần thông chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác sáu phép thần thông; sáu phép thần thông tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là sáu phép thần thông.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là năm loại mắt nhập vào không hai, pháp số không rối; sáu phép thần thông nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, mười lực của Phật chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác mười lực của Phật; mười lực của Phật tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là mười lực của Phật. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là mười lực của Phật nhập vào không hai, pháp số không rối; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, quả vị Giác ngộ cao tột chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác quả vị Giác ngộ cao tột; quả vị Giác ngộ cao tột tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là quả vị Giác ngộ cao tột. trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là quả vị Giác ngộ cao tột nhập vào không hai, pháp số không rối; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, pháp không quên mất chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác pháp không quên mất; pháp không quên mất tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là pháp không quên mất. Tánh luôn luôn xả chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác tánh luôn luôn xả; tánh luôn luôn xả tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là tánh luôn luôn xả.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là pháp không quên mất nhập vào không hai, pháp số không rối; tánh luôn luôn xả nhập vào không hai, pháp số không rối.
Xá-lợi Tử, tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Đà-lani tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là tất cả pháp môn Đà-la-ni. Tất cả pháp môn Tam-mađịa chẳng khác không sinh diệt, không sinh diệt chẳng khác tất cả pháp môn Tam-ma-địa; tất cả pháp môn Tam-ma-địa tức là không sinh diệt, không sinh diệt tức là tất cả pháp môn Tam-mađịa.
Xá-lợi Tử, do duyên cớ này nên tôi nói là tất cả pháp môn Đà-la-ni nhập vào không hai, pháp số không rối; tất cả pháp môn Tam-ma-địa nhập vào không hai, pháp số không rối.
[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]