TẠNG KINH
BỘ BÁT NHÃ (0220-0261)
Hán dịch: Đời Phù Tần, Sa-môn Đàm-ma-ti và Trúc Phật Niệm, người nước Thiên Trúc.
Phẩm 2: Hỏi Về Đại Bát-Nhã Ba-La-Mật
Phẩm 9: Ưu-Bà-Di Hằng-Giá-Điều
Nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ngự tại núi Kỳ-xà-quật thuộc thành La-duyệt-kỳ cùng với chúng Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc A-lahán, các lậu đã sạch, đã dứt sinh tử, việc làm và lời nói như nhau, đạt đến tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Các bậc Thánh này đã rõ tất cả, các vị đều là những bậc Thượng sĩ, việc đáng làm đã xong, đã bỏ hẳn gánh nặng, tự tại, không còn các nghiệp. Tâm trí của các vị đều đã giải thoát, ngoại trừ Hiền giả A-nan.
Đức Phật bảo Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Hôm nay ông có vui lòng thuyết Bát-nhã bala-mật cho các Bồ-tát không? Các vị ấy sẽ học theo đó mà được thành tựu.
Tôn giả Xá-lợi-phất suy nghĩ: “Đó là tự lực thầy ấy thuyết hay là nương vào oai thần của Đức Phật để thuyết?”
Tôn giả Tu-bồ-đề biết được ý nghĩ của Tôn giả Xá-lợi-phất nên thưa:
–Sự thuyết pháp và pháp được thành tựu của các vị đệ tử Phật có được là đều nhờ vào oai thần của Đức Phật. Vì sao? Vì pháp của Đức Phật thuyết ra và những gì học được trong đó đều có chỗ chứng đắc. Do biết như vậy nên biết có chỗ thành tựu. Đối với các pháp như Phật đã dạy, tuần tự dạy lại cho nhau để có thể thành tựu, vì pháp đó không khác với pháp của Như Lai đã thuyết. Nếu vị nào muốn học pháp này, thì ở đấy rốt cuộc là không có tranh biện.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Thế Tôn dạy con thuyết Bát-nhã ba-la-mật cho các Bồ-tát, các vị ấy sẽ nhờ đó mà thành Bồ-tát. Như vậy, cái tên Bồ-tát có ra là từ nơi pháp nào? Con cũng chẳng thấy có pháp Bồ-tát và tên của pháp đó, cũng không thấy Bồ-tát, cũng không chứng đắc Bồ-tát, cũng không thấy Bát-nhã ba-la-mật, cũng không chứng đắc Bát-nhã ba-la-mật. Cũng không thấy Bồ-tát, cũng không chứng đắc Bồ-tát, cũng không thấy Bát-nhã ba-lamật, cũng không chứng đắc Bát-nhã ba-la-mật, thì chỗ nào có Bồ-tát để vì họ thuyết Bát-nhã ba-lamật?
Thuyết giảng như vậy, Bồ-tát nghe việc đó trong tâm không biếng nhác không khiếp sợ, không ngại thấy có chướng nạn, không sợ hãi, nên Đại Bồ-tát thích ứng với Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát nên học Bát-nhã ba-la-mật như vậy, nên suy nghĩ an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật như vậy. Đó tức là học Bát-nhã ba-la-mật.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật nên học như vầy: “Học rằng: Trong tâm đừng nghĩ mình là Bồ-tát.” Vì sao? Vì tâm không tâm thì tâm đó tịnh.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Thế nào là tâm có tâm và tâm không tâm?
Ngài Tu-bồ-đề nói với ngài Xá-lợi-phất:
–Tâm cũng chẳng có, cũng chẳng không có, cũng không thể chứng đắc, cũng không thể biết nó ở chỗ nào.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:
–Những tâm như thế nào là cũng không có tâm, cũng không không tâm; cũng không thể chứng đắc; cũng không thể biết ở chỗ nào?
Ngài Tu-bồ-đề đáp:
–Từ đối đãi tuy có tâm, nhưng tâm đó là không tâm. Tâm như thế cũng không ai biết cũng không ai tạo ra. Do vậy cũng chẳng có tâm, cũng chẳng không có tâm.
Ngài Xá-lợi-phất nói:
–Lành thay, lành thay! Tu-bồ-đề là người được Đức Phật nêu lên, người đáng được nêu lên đó không có vọng kiến về không thân, là người thuyết về đệ nhất tuệ không thân. Nhờ đó Đại Bồ-tát đạt được địa vị không thoái chuyển, quyết định không mất Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát cần nên an trụ trong đó. Muốn học đạo Thanh văn thì nên nghe Bát-nhã ba-la-mật, học tập, thọ trì, giữ gìn Bát-nhã ba-la-mật. Muốn học đạo Bích-chi-phật nên nghe Bát-nhã ba-la-mật, học tập, thọ trì, giữ gìn Bát-nhã ba-la-mật. Muốn học đạo Bồ-tát nên nghe Bát-nhã ba-la-mật, học tập, thọ trì, giữ gìn Bát-nhã ba-lamật. Vì sao? Vì pháp Bát-nhã ba-la-mật rất sâu xa rộng lớn, là chỗ Đại Bồ-tát phải học tập.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Con suy nghĩ kỹ, tâm của Bồ-tát không thể chứng đắc, cũng không thể biết ở chỗ nào, cũng không thể thấy để có thể chứng đắc. Cũng không thể nói chỗ nào là Bát-nhã ba-la-mật của Đại Bồtát Bát-nhã ba-la-mật, cũng không thể nói danh tự của Bồ-tát. Nói là chỗ không có chỗ, danh tự đó không nằm ở đâu cả.
Nên giảng như vậy, Bồ-tát nghe việc đó tâm không biếng nhác, không khiếp sợ, không thấy có chướng nạn để thích ứng với sự không thoái chuyển nên mọi sợ hãi không còn nữa. An trụ vào chỗ ấy thì hiểu biết trọn vẹn nên không còn trở lại nữa.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật không nên trụ vào sắc, không nên trụ vào thọ, tưởng, hành, thức; không nên trụ vào trong đó. Trụ nơi đó là thực hành tưởng, thọ, hành tưởng thức. Trụ nơi thức là thực hành thức hành. Không nên thực hành thức hành. Giả sử trụ trong đó là không vâng theo lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật, không thích ứng với Nhất thiết trí. Vì chấp thủ vào sắc nên không nên chấp thủ sắc. Vì không chấp thủ vào sắc là không chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức. Người không chấp thủ vào sắc là chẳng phải sắc; không chấp thủ vào thọ, tưởng, hành, thức là chẳng phải thức, không chấp thủ Bát-nhã ba-la-mật. Đó là Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật. Người không chấp thủ danh tự Tam-muội là chỗ thâm nhập rộng lớn, không chấp thủ vào Thanh văn, Bích-chi-phật, cho đến Nhất thiết trí cũng không chấp thủ. Vì sao? Vì không nên phát sinh tưởng. Ai phát sinh tưởng thì cũng như những kẻ ngoại đạo tầm thường, nhưng có đức tin nơi Nhất thiết trí. Tuy có khác với ngoại đạo nhưng chưa được giải thoát, vì tuy không chấp thủ sắc thì cũng chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức. Vì không chấp thủ thì cũng không hiểu, chưa thành tựu cũng không thấy tuệ; cũng không thấy tuệ trong sắc, ngoài sắc; không thấy tuệ khác với sắc; không thấy tuệ trong thọ, tưởng, hành, thức. Cũng không thấy tuệ ngoài thức; cũng không thấy tuệ trong ngoài thức. Cũng không thấy tuệ khác thức, chỉ nhờ đức tin mà được giải thoát. Muốn biết việc của Nhất thiết trí để tự hành chế đối với pháp đó là chứng đắc giải thoát, vì người đó đã chứng đắc pháp, ngay nơi pháp cũng không sở đắc, cũng chưa được giải thoát; người đó không dựa vào Niết-bàn để tự cao. Đó là Đại Bồ-tát tu Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Vì không chấp thủ vào sắc, không chấp thủ vào thọ, tưởng, hành, thức; cũng không Bát-niết-bàn giữa đường, đạt được mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, nên gọi là Đại Bồ-tát tu Bát-nhã ba-lamật.
Lại nữa, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, Đại Bồ-tát nhập vào hạnh Bát-nhã ba-la-mật nên thấy thế này: “Bát-nhã ba-la-mật này ở chỗ nào? Pháp ở chỗ nào? Hoàn toàn không thể đắc nơi chốn, thì đó là Bát-nhã ba-la-mật”, nên nghĩ như vậy. Đại Bồ-tát nghe như vậy không biếng nhác, khiếp sợ, e ngại, thấy có chướng nạn, thì nên biết rằng Bồ-tát này đã an trụ vào chỗ chẳng lìa Bátnhã ba-la-mật.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát do nguyên nhân gì không lìa khỏi Bát-nhã ba-la-mật; lìa sắc tự thể của sắc; lìa thọ, tưởng, hành, thức, tự thể của thọ, tưởng, hành, thức; Bát-nhã ba-la-mật, tự thể của Bát-nhã ba-lamật?
Ngài Tu-bồ-đề nói với ngài Xá-lợi-phất:
–Lìa sắc tự thể của sắc; lìa thọ, tưởng, hành, thức tự thể của thức; lìa Bát-nhã ba-la-mật tự thể của Bát-nhã ba-la-mật. Tự thể của Bát-nhã ba-lamật là lìa tưởng, nên tự thể của tướng là lìa tướng tự thể tướng. Tự thể tướng là lìa tướng.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:
–Học như vậy là học Nhất thiết trí phải không? Ngài Tu-bồ-đề đáp:
–Học như vậy là nhập vào Nhất thiết trí. Vì sao? Vì các pháp là không có chỗ nhập. Đại Bồ-tát thực hành như vậy liền đạt đến Nhất thiết trí. Đây là hạng Đại Bồ-tát tu Bát-nhã ba-la-mật gieo giống Nhất thiết trí.
Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát tinh tấn nên bày: “Ta muốn học tập; ví như hành sắc là hành tưởng, hành sắc tưởng là hành tưởng, hành sắc sinh là hành tưởng, hành sắc hoại là hành tưởng, hành sắc diệt là hành tưởng, hành sắc không là hành tưởng. Giả sử từ ngã hành nên có được là hành tưởng. Diệt thọ, tưởng, hành, thức là hành tưởng, hành thức hoại là hành tưởng, hành thức diệt là hành tưởng, hành thức không là hành tưởng, từ ngã hành nên có được là hành tưởng. Đại Bồ-tát hành trì ngược lại hành tưởng của hành là người giữ gìn hành trì Bát-nhã ba-la-mật vì không hành Bát-nhã ba-la-mật. Ngược lại, nếu hành trì hành tưởng là Đại Bồ-tát không hành trì Bát-nhã ba-la-mật.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát nên thực hành Bát-nhã ba-la-mật như thế nào? Không hành sắc hành, không hành sắc tưởng, không hành sắc sinh, không hành sắc hoại, không hành sắc diệt, không hành sắc không, không hành thọ, tưởng, hành, thức; không hành thức sinh, không hành thức hoại, không hành thức diệt, không hành thức không là hành Bát-nhã bala-mật. Cũng không thấy cũng không hành. Cũng không thấy hành không hành. Cũng không thấy, cũng không bất hành, cũng không vô hành. Như vậy là không thấy. Vì sao? Vì tất cả pháp không từ đâu đến, cũng không nương chỗ nào thọ trì. Đại Bồ-tát không chấp trước vào các pháp danh hiệu. Tam-muội đó không có bến bờ, không có ranh giới nên nhập vào được tất cả, là chỗ các La-hán, Bíchchi-phật không thể biết. Đại Bồ-tát theo Tam-muội này mau đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đạt đến quả vị Phật.
Khi Tôn giả Tu-bồ-đề nương vào oai thần của Phật để phát biểu điều này, các Đại Bồ-tát đều được thọ ký. Trong quá khứ lâu xa, khi Đức Như Lai tự mình đạt đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến thành Phật nương theo Tam-muội này nhưng cũng không thấy Tam-muội, cũng không nói ta biết Tam-muội, cũng không nghĩ ta hoàn tất Tam-muội, cũng không tưởng ta ngồi vào Tam-muội, cũng không nói ta hoàn tất Tam-muội. Người theo pháp như vậy hoàn toàn không có khuyết điểm.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:
–Chỗ nào là chỗ Đại Bồ-tát thực hành theo Tam-muội này? Khi Đức Như Lai ở trước Phật quá khứ được thọ ký thành Phật, Ngài có thấy được chỗ của Tam-muội này không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Không thể thấy được! Thiện nam tử, ngay nơi Tam-muội này tôi cũng không biết, không hiểu, không rõ. Vì sao? Vì không biết, không rõ thì cũng không trả lời được, cũng không tam muội, cũng không danh tự.
Đức Phật dạy:
–Lành thay, lành thay! Tu-bồ-đề! Như điều ta nói, Đại Bồ-tát không thân tuệ làm như vậy là học tập theo Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát này là người học Bát-nhã ba-la-mật.
Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Kính bạch Đấng Thiên Trung Thiên, Đại Bồtát học như vậy là học Bát-nhã ba-la-mật?
Đức Phật dạy Xá-lợi-phất:
–Đó là Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật.
Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Học như vậy là học pháp gì?
Đức Phật dạy Xá-lợi-phất:
–Đại Bồ-tát học như vậy là học pháp vô học. Vì sao? Vì pháp đó không có chỗ đạt đến được, chớ mê lầm như cái học của trẻ em.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi Phật:
–Kính bạch Thế Tôn, vậy ai là người có thể đạt đến được pháp ấy?
Đức Phật dạy Xá-lợi-phất:
–Không có chỗ chứng đắc, cho nên chứng đắc. Đức Phật dạy:
–Không có pháp sở đắc, chớ mê như cái học của trẻ con, gọi là có chữ nhưng không thể biết được. Muốn thâm nhập vào pháp lại bị chướng ngại cả hai bên. Không hiểu biết pháp và cũng không thấy pháp. Pháp nếu có pháp, do có liền có thể được. Thế nên pháp không thể biết. Cũng không biết, cũng không thể thấy, mê lầm như trẻ con, gọi là có thân cũng không hiểu, bèn không tin.
Do không hiểu biết nên nói là trẻ con.
Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát học như vậy phải chăng là không học Nhất thiết trí?
Đức Phật dạy:
–Đại Bồ-tát học như vậy là không học Nhất thiết trí. Đại Bồ-tát không học như vậy là học Nhất thiết trí để thành tựu Nhất thiết trí.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nếu có người hỏi rằng: “Thật giả dối thay là học Phật sẽ được làm Phật.” Khi có người hỏi như vậy thì nên trả lời họ như thế nào?
Đức Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Ta sẽ hỏi, tùy ông trả lời.
Thế nào, Tu-bồ-đề! Huyễn cùng với sắc có khác nhau chăng? Huyễn cùng thọ, tưởng, hành, thức có khác nhau chăng?
Ngài Tu-bồ-đề trả lời Đức Phật:
–Không có khác. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Huyễn với sắc không có khác. Sắc là huyễn, huyễn là sắc. Huyễn cùng thọ, tưởng, hành, thức không khác.
Đức Phật dạy:
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Những điều ta hỏi không tùy theo pháp. Từ năm ấm mà có danh tự Bồ-tát phải không?
Tu-bồ-đề thưa:
–Đúng như vậy. Kính bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Đại Bồ-tát muốn học làm Phật là học huyễn mà thôi. Vì sao? Vì người tạo ra huyễn thọ trì sắc ấm như huyễn. Không có sắc, sáu suy, năm ấm đều như huyễn. Thọ, tưởng, hành, thức đều không, không có sở hữu, chỉ có danh từ sáu suy, năm ấm thôi.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát mới học nào nghe những lời này thì được sự không sợ hãi?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Giả sử Đại Bồ-tát mới học nương theo thầy xấu thì sợ hãi, còn nương theo thầy tốt thì không sợ hãi.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Thế nào là thầy xấu của Đại Bồ-tát? Làm sao để biết được?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Người ấy không tôn trọng Bát-nhã ba-la-mật, dạy người xả bỏ, xa lìa tâm Bồ-tát. Trở lại dạy người phát khởi ý tưởng học những kinh tạp nhạp, với tà tâm ưa thích học theo kinh tạp nhạp. Dạy các kinh nói về các việc của Thanh văn hoặc Bíchchi-phật, dạy học tụng theo tất cả những kinh đó để nói về việc của ma, chúa ma, làm cho bại hoại tâm Bồ-tát. Thuyết cho người nghe về khổ nhọc của sinh tử, nói rằng quả vị Bồ-tát không thể chứng đắc, thì gọi đó là thầy xấu của Bồ-tát.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Vậy thế nào là thầy tốt của Đại Bồ-tát? Và sẽ do đâu để biết?
Đức Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Người ấy tôn trọng Bát-nhã ba-la-mật, luôn luôn chỉ dạy cho người học tập để thành tựu. Dạy về lời nói và việc làm của ma để biết rõ ma, để xa lìa ma. Thế nên Đại Bồ-tát với đại thệ nguyện hướng đến Đại thừa, thì đó là thầy tốt của Đại Bồtát.
Ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật:
–Kính bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Bồ-tát do nguyên nhân gì gọi là Bồ-tát?
Đức Phật dạy:
–Đối với các kinh điển đã học, người này hiểu rõ tất cả, nhưng không đắm trước nơi các pháp, cho nên gọi là Bồ-tát.
Ngài Tu-bồ-đề lại hỏi Đức Phật:
–Hiểu rõ tất cả các kinh pháp nên có tên là Bồtát. Còn vì sao gọi là Đại Bồ-tát?
Đức Phật dạy:
–Đại là do tất cả nhân gian thiên thượng đều rất tôn kính. Do vậy nên gọi là Đại Bồ-tát.
Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Con cũng ưa nghe vì lẽ gì gọi là Đại Bồ-tát?
Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:
–Nếu ông thích nghe, ta sẽ giảng cho ông! Đại Bồ-tát là tự mình thấy rõ tất cả, biết rõ tất cả mọi người trong thế gian. Biết rõ tất cả về tuổi thọ của họ, biết rõ tất cả về việc chặt đứt mọi ràng buộc, dính mắc và có thể tùy theo chỗ ưa thích của họ mà thuyết pháp cho họ nghe. Vì vậy nên gọi là Đại Bồtát.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đại Bồ- tát để được tên là Đại Bồ-tát, giả sử tâm không có tâm nào bằng với tâm ấy, không có người nào có thể đạt được tâm ấy. Là chỗ mà các La-hán và Bích-chi-phật cũng không sánh kịp. Tâm không dính mắc tâm. Vì sao? Vì đó là tâm của Nhất thiết trí. Vì ngoài ra không có gì khác. Do tâm không dính mắc nên gọi là Đại Bồ-tát.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:
–Do nguyên nhân gì tâm Bồ-tát không dính mắc?
Ngài Tu-bồ-đề đáp:
–Tâm không suy nghĩ nên không dính mắc.
Phân-nậu-văn-đà-ni-phất bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn, do nguyên nhân gì Đại Bồ-tát được gọi là Đại Bồ-tát? Thế nào là Đại Bồtát vì đại thệ nguyện? Ma-ha diễn là chánh định của Đại thừa, Tam-bạt-đế là đẳng trụ?
Đức Phật dạy:
–Bồ-tát này tức là Đại Bồ-tát.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Đại thệ nguyện! Do nguyên nhân gì Bồ-tát phát đại thệ nguyện? Đức Phật dạy:
–Vì Đại Bồ-tát nghĩ: “Ta sẽ độ vô lượng, vô số người, làm cho tất cả đều được Bát-niết-bàn, làm cho Bát-niết-bàn như vậy mà không có pháp Bátniết-bàn.” Vì sao? Tu-bồ-đề! Ví như có một huyễn sư ở một nơi rộng rãi, hóa làm ra nhiều người ở đầy trong một thành và chặt đầu của tất cả số người được hóa ở trong thành đó. Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ thế nào, trong thành đó có người nào bị giết chết không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Trong đó không có người nào bị giết chết.
Đức Phật dạy:
–Đúng như vậy! Tu-bồ-đề. Độ vô lượng, vô số người làm cho Bát-niết-bàn nhưng không có người nào Bát-niết-bàn. Người nào nghe như vậy không sợ, nên biết đó là Đại Bồ-tát, tức là địa thệ nguyện. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Như bản thân con. Từ khi theo Phật được nghe và nghĩ về những việc đó, như vậy thì không phải là đại thệ nguyện. Vì sao? Vì không có người ở trong thành Nhất thiết trí, không có người cúng dường, không có người ở trong thành, thì người nào sẽ là đại thệ nguyện? Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, sắc không dính, không buộc, không mở. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, thọ, tưởng, hành, thức không dính, không buộc, không mở.
Ngài Phân-mạn-đà-ni-phất hỏi Tôn giả Tu-bồđề:
–Sắc không dính, không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức không dính, không buộc, không mở nên có sắc không dính, không buộc, không mở, chính là có thọ, tưởng, hành, thức không dính, không buộc, không mở.
Tu-bồ-đề! Sắc ở chỗ nào không dính, không buộc, không mở? Thọ, tưởng, hành, thức ở chỗ nào không dính, không buộc, không mở?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Sắc như huyễn không dính, không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức như huyễn không dính, không buộc, không mở. Không có ranh giới không dính, không buộc, không mở. Không thấy chính xác không dính, không buộc, không mở. Không có chỗ phát sinh không dính, không buộc, không mở. Đó là Đại Bồ-tát, là đại thệ nguyện.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Do nguyên nhân gì Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát hướng đến Đại thừa? Chỗ nào là Đại thừa? Chỗ nào trụ vào Đại thừa và Đại thừa trụ vào chỗ nào?
Sẽ từ nơi chỗ nào lập nên Đại thừa?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đại thừa, Đại thừa là không có giới hạn, không thể đạt được ranh giới thì từ chỗ nào để đạt đến Đại thừa? Đại thừa là từ ba cõi mà ra, từ trong Nhất thiết trí lập nên. Đối với Đại thừa không lập, cũng chẳng phải không lập. Vì sao? Lập và không lập, là vì ngay nơi pháp mà không biết pháp thì pháp nào sẽ lập?
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Đại thừa, Đại thừa là vượt lên trên thiên thượng, thiên hạ và thế gian. Đại thừa đồng như hư vô giống như hư không, bao trùm vô lượng, vô số người nên gọi là Đại thừa. Cũng không thấy khi Đại Bồ-tát đến, cũng không thấy khi Đại Bồ-tát đi, cũng không thấy chỗ của Đại Bồ-tát ở. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đối với Đại thừa không thể đạt được nguồn gốc của Đại thừa, cũng không biết chỗ Đại thừa sẽ đến, cũng không biết trung gian, chỉ ngay nơi ba cõi thấy tên Đại thừa.
Đức Phật dạy:
–Lành thay, lành thay Tu-bồ-đề! Thế nên Đại Bồ-tát là Đại thừa.
Ngài Phân-mạn-đà-ni-phất bạch Phật:
–Đức Phật dạy thuyết Bát-nhã ba-la-mật, Tôn giả Tu-bồ-đề lại thuyết Đại thừa.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Con thuyết Bát-nhã ba-la-mật không có lỗi.
Đức Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Bát-nhã ba-la-mật mà thầy thuyết, thích ứng hoàn toàn, trong đó không có một chút lỗi nào.
–Lại nữa, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Cũng không thấy được nguồn gốc của Bồ-tát, cũng không biết được chỗ Bồ-tát sẽ đến, cũng không thấy được trung gian của Bồ-tát. Sắc không có bến bờ, Bồ-tát cũng không có bến bờ. Sắc và Bồ-tát không thể đạt được, không thể biết và cũng không thể đắc.
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Như vậy Đại Bồ-tát cũng không thể biết, cũng không thể đắc, thì sẽ lấy Bát-nhã ba-la-mật nào để thuyết cho Đại Bồ-tát? Cũng không đắc Bồ-tát, cũng không thấy Bồ-tát thì sẽ dùng pháp nào để thuyết Bát-nhã ba-la-mật? Bồ-tát dựa vào tướng danh tự nào để gọi là Bồ-tát?
Thế nào, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Chữ ngã, chỗ nào là tất cả ngã?
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Ngã đó cũng diệt. Đó là tự thể của pháp. Chỗ nào là sắc? Điều cốt yếu là không diệt. Chỗ nào sắc như vậy thì thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Thức không ranh giới, Bồ-tát cũng không ranh giới. Hoàn toàn không biết chỗ ở của Bồ-tát, cũng không thấy Bồ-tát.
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Tất cả Đại Bồ-tát hoàn toàn không có chỗ ở, cũng không thể đắc, thì chỗ nào là chỗ của Đại Bồ-tát để thuyết Bát-nhã ba-la-mật cho họ? Đối với Bồ-tát hoàn toàn không thể thấy được, cũng không biết chỗ ở thì sẽ từ pháp nào để thuyết Bát-nhã ba-la-mật? Đại Bồ-tát mà cho rằng có danh tự, đó là danh tự tưởng. Ngã, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Ngã đó cũng diệt, là tự thể của pháp. Thức ở chỗ nào cốt yếu không diệt? Thức ở chỗ nào đối với tự thể của pháp? Không diệt là chẳng phải pháp tạo ra, cũng chẳng phải chẳng diệt. Vì sao không diệt? Như Bát-nhã ba-la-mật đã thuyết, không tạo ra cái diệt khác thì sẽ từ nơi pháp nào đưa đến? Bồ-tát thực hành hạnh này, nghe việc đó không khủng khiếp, không lo sợ. là người hành Bát-nhã ba-lamật.
Bát-nhã ba-la-mật, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lúc suy nghĩ chín chắn như vậy thì không nhập vào sắc, lấy gì đắc sắc? Không có chỗ sinh ra chẳng phải sắc. Giả sử chẳng phải sắc là không sắc cũng không sinh ra thì trong đó không có chỗ nào để được danh tự? Sắc này là pháp làm ra số. Bấy giờ Đại Bồ-tát vì thực hành Bát-nhã ba-la-mật sẽ thấy pháp thâm nhập vào tư duy. Bấy giờ cũng không nhập vào thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì thức không có chỗ sinh ra là chẳng phải thức. Giả sử chẳng phải thức là không có thức, cũng không có chỗ sinh ra, từ đó không có chỗ để được danh tự, thức này là pháp làm ra số.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:
–Pháp thầy thuyết không có chỗ sinh. Giả sử
Bồ-tát cũng không có chỗ sinh, thì Bồ-tát dựa vào những gì mà siêng năng thực hành đạo Bồ-tát? Giả sử nhờ vào tất cả mọi người, thì ai là người nhận chịu sự khổ nhọc này?
Ngài Tu-bồ-đề trả lời ngài Xá-lợi-phất:
–Tôi cũng không bảo Bồ-tát nhận chịu hạnh khổ nhọc này. Bồ-tát nhẫn nhục thực hành khổ hạnh là con đường của Bồ-tát. Không nên nghĩ: ta nhẫn nhục chịu đựng hạnh khổ nhục. Vì sao? Vì tâm Bồ-tát không nghĩ như vậy mới có thể làm cội gốc cho vô lượng, vô số người, làm cho đều được an ổn. Nghĩ đến họ như nghĩ đến mẹ, nghĩ đến họ như nghĩ đến cha, đến bản thân mình. Đại Bồ-tát nên giữ tâm mình luôn nghĩ như vậy đối với tất cả, chẳng thấy Bồ-tát, cũng chẳng biết ở chỗ nào. Người làm như vậy là nhẫn nhục thực hành khổ hạnh.
Xá-lợi-phất! Giả sử không thấy sinh ra Bồ-tát, vì Bồ-tát là vô sinh.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:
–Giả sử Bồ-tát không sinh thì Nhất thiết trí cũng không sinh?
Ngài Tu-bồ-đề bảo ngài Xá-lợi-phất:
–Nhất thiết trí cũng không sinh.
Ngài Xá-lợi-phất lại bảo ngài Tu-bồ-đề:
–Nhất thiết trí không sinh thì người phàm phu cũng không sinh.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Kẻ phàm phu cũng không sinh.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:
–Bồ-tát không sinh thì pháp Bồ-tát cũng không sinh. Nhất thiết trí không sinh thì pháp Nhất thiết trí cũng không sinh. Phàm phu không sinh thì pháp phàm phu cũng không sinh. Vậy Bồ-tát không từ đâu sinh ra để đạt đến Nhất thiết trí?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Pháp không từ đâu sinh ra để nhập vào, cũng chẳng phải không nhập, không có pháp từ chỗ nào sinh ra để đạt đến.
Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi:
–Cái sinh, sinh ra đó mới có thể đạt được pháp phải không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Pháp không từ đâu sinh ra để được sinh. Pháp không có chỗ sinh đó là đạt được.
Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi:
–Do sinh, sinh ra là từ chỗ không sinh ra.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Không có chỗ sinh, thích nghe về không chỗ sinh.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:
–Không ưa nghe sinh, chính đó là ưa nghe.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Không sinh ra nghe chính đó là nghe.
Ngài Xá-lợi-phất bảo:
–Do nghe, đó là nhờ lời nói.
Ngài Tu-bồ-đề thưa ngài Xá-lợi-phất:
–Không không lời nói, đó là lời nói. Không nói, không thích nghe, đó là nói, đó là thích nghe.
Ngài Xá-lợi-phất bảo:
–Lành thay, lành thay! Tu-bồ-đề đã thuyết những điều tôn quý trong giáo pháp. Vì sao? Vì Tôn giả Tu-bồ-đề y theo câu hỏi, ngài giải đáp tất cả.
Ngài Tu-bồ-đề thưa ngài Xá-lợi-phất:
–Đệ tử Phật thuyết pháp đều như vậy, tùy theo chỗ người ta hỏi mà giải đáp. Vì sao? Vì theo pháp là vậy, nên cũng không biết chỗ sinh ra.
Ngài Xá-lợi-phất bảo:
–Lành thay, lành thay, Tu-bồ-đề! Từ Bát-nhã ba-la-mật nào Đại Bồ-tát vượt qua?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Từ Bát-nhã ba-la-mật lúc thuyết pháp này, ai đọc tụng Đại Bồ-tát sẽ biết được đức tin của người đó không còn nghi ngờ. Có người tin theo, pháp này không tăng. Không có người tin theo, pháp này cũng không giảm.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:
–Có người theo, pháp này cũng không tăng. Không có người theo, pháp này cũng không giảm. Dạy tất cả mọi người theo pháp này vì theo pháp này không mất tất cả người, vì làm cho tất cả được đắc Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì tất cả mọi người đều học pháp. Tục lệ của pháp này là như vậy.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Lành thay, lành thay! Xá-lợi-phất đã hiểu biểu pháp một cách đúng đắn!
Ngài Xá-lợi-phất bảo:
–Không có gì lạ. Vì sao? Người tự nhiên nghĩ biết không chính xác về người, sẽ nghĩ biết không chính xác, thân người khó biết rõ sẽ nghĩ biết rõ.
–Xá-lợi-phất! Pháp của Đại Bồ-tát nên thủ hộ như vậy, nên tu hành như vậy.
Bấy giờ Thích Đề-hoàn Nhân cùng với bốn vạn chư Thiên đồng đến nhóm họp. Tứ Thiên vương cùng với hai vạn chư Thiên đồng đến nhóm họp. Phạm Ca-di thiên cùng với một vạn chư Thiên đồng đến nhóm họp. Thủ-đà cùng năm ngàn chư Thiên đồng đến nhóm họp. Các chư Thiên có phước đức ở đời trước được sức oai thần của Phật, nên ánh sáng của họ chiếu sáng rực rỡ, làm cho ánh sáng của chư Thiên khác không hiện ra được.
Thích Đề-hoàn Nhân bạch với Tôn giả Tu-bồđề:
–Có vô số ngàn vạn chư Thiên trong đại hội này muốn nghe Tôn giả Tu-bồ-đề thuyết Bát-nhã ba-la-mật. Thế nào là Đại Bồ-tát trụ trong Bát-nhã ba-la-mật?
Tu-bồ-đề bảo Thích Đề-hoàn Nhân:
–Này Câu-dực! Vô số ngàn vạn chư Thiên ưa thích được nghe Bát-nhã ba-la-mật. Tôi sẽ nương oai thần của Đức Phật rộng thuyết Bát-nhã ba-lamật cho tất cả chư Thiên. Chư Thiên nào chưa phát tâm Bồ-đề thì nay nên phát. Người đã đắc Tu-đàhoàn thì không trở lại đắc Bồ-tát. Vì sao? Vì đã đóng bít đường sinh tử. Cho dù những hạng người này cầu Bồ-tát đạo thì tôi cũng sẽ khuyến trợ làm cho công đức của họ không bị chấm dứt, làm cho họ nhận được phần cao quý nhất trong pháp đó.
Đức Phật dạy:
–Lành thay, lành thay, Tu-bồ-đề! Ông khuyến trợ chư Thiên ưa thích việc học đến như vậy.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Con phải đền ân, không thể không đền ân. Vì sao? Thuở quá khứ Như Lai có dạy tất cả đệ tử vì các Bồ-tát thuyết Bát-nhã bala-mật. Bấy giờ Như Lai cũng ở trong pháp học đó và trong pháp đó Như Lai tự mình đạt thành Phật đạo.
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Vì lẽ đó nên con phải đền ân, nên nay con xin thuyết lại Bát-nhã ba-la-mật. Bồ-tát cũng sẽ nhận lại pháp của Bồ-tát. Con cũng sẽ khuyến trợ họ ưa thích Đại Bồ-tát để mau được thành Phật.
Ngài Tu-bồ-đề bảo Câu-dực:
–Tôi sẽ hỏi ông, ông hãy lắng nghe câu hỏi: “Đại Bồ-tát trụ Bát-nhã ba-la-mật như thế nào?” Đại Bồ-tát lấy không trụ để trụ Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát với đại thệ nguyện hướng đến Đại thừa không trụ trong sắc, không trụ vào thọ, tưởng, hành, thức, không trụ vào trong Tu-đà-hoàn nào cả, không trụ vào trong Tư-đà-hàm, không trụ vào trong A-na-hàm, không trụ vào A-la-hán, không trụ vào trong Bích-chi-phật, không trụ vào trong Phật. Có sắc nhưng không trụ vào trong sắc. Có thọ, tưởng, hành, thức nhưng không trụ vào trong thọ, tưởng, hành, thức. Có Tu-đà-hoàn nhưng không trụ trong Tu-đà-hoàn. Có Tư-đà-hàm nhưng không trụ vào Tư-đà-hàm. Có A-na-hàm, không trụ trong A-na-hàm. Có A-la-hán, Bíchchi-phật, Phật nhưng không trụ trong A-la-hán, Bích-chi-phật, Phật, không trụ vào trong sắc thường, vô thường, không trụ vào trong thọ, tưởng, hành, thức thường, vô thường, không trụ vào trong sắc lạc, sắc khổ, không trụ vào trong thọ, tưởng, hành, thức lạc khổ. Không trụ vào trong sắc không bất không, không trụ vào trong thọ, tưởng, hành, thức không bất không, không trụ vào trong sắc ngã sở, chẳng phải ngã sở, không trụ vào trong thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải ngã sở nào cả.
Thành tựu trọn vẹn Tu-đà-hoàn đạo, cũng không trụ vào trong đó. Thành tựu xong Tu-đàhoàn đạo cũng không trụ vào trong đó. Vì sao? Vì Tư-đà-hoàn còn bảy lần sinh bảy lần tử liền vượt qua, thế nên không trụ vào trong Tu-đà-hoàn.
Thành tựu trọn vẹn Tư-đà-hàm đạo, cũng không trụ vào trong đó. Thành tựu xong Tư-đàhàm đạo cũng không trụ vào trong đó. Vì sao? Vì Tư-đà-hàm còn một lần sinh một lần tử liền vượt qua, thế nên không trụ vào trong Tư-đà-hàm.
Thành tựu trọn vẹn A-na-hàm cũng không trụ vào trong đó. Thành tựu xong A-na-hàm đạo liền ở trên trời Bát-niết-bàn. Thế nên không trụ vào trong A-na-hàm đạo.
Thành tựu trọn vẹn A-la-hán đạo cũng không trụ vào trong đó. Vì sao? Thành tựu xong đạo liền dứt hết tất cả. Ngay nơi đó không còn có Bát-niếtbàn nào để Bát-niết-bàn. Thế nên không trụ vào trong A-la-hán đạo.
Thành tựu trọn vẹn Bích-chi-phật đạo cũng không trụ vào trong đó. Thành tựu xong Bích-chiphật đạo, vượt qua Thanh văn, không tiến đến Phật đạo mà Niết-bàn nửa chừng, thế nên không trụ vào trong Bích-chi-phật đạo nào cả mà thành Phật, làm thầy dạy cho vô lượng, vô số người đều Bát-niếtbàn. Làm xong công việc của Phật làm rồi sẽ Bátniết-bàn mà không trụ vào trong đó.
Ngài Xá-lợi-phất suy nghĩ: “Vậy thì Bồ-tát trụ vào chỗ nào?” Ngài Tu-bồ-đề biết ý nghĩ của Xálợi-phất, liền nói:
–Thế nào, thưa ngài Xá-lợi-phất, Phật trụ chỗ nào?
Ngài Xá-lợi-phất thưa:
–Phật không trụ chỗ nào cả. Tâm Như Lai không trụ vào chỗ nào, không trụ ở chỗ bất động, cũng không trụ ở chỗ vô động.
Ngài Tu-bồ-đề nói:
–Đại Bồ-tát nên học như vậy. Học giống như Như Lai, không trụ cũng không bất trụ, cũng không vô trụ. Nên học trụ như vậy.
Chư Thiên nghe như vậy đều suy nghĩ: “Các Dạ-xoa dù lớn hay nhỏ, nói ra điều gì chúng ta đều có thể hiểu rõ. Còn những gì Tôn giả Tu-bồ-đề nói ta hoàn toàn không thể hiểu.” Ngài Tu-bồ-đề biết ý nghĩ của chư Thiên liền bảo:
–Lời nói này khó hiểu, khó hiểu cũng không thể nghe, cũng không thể biết.
Trong tâm chư Thiên, mỗi người lại nghĩ: “Lời nói này phải hiểu, phải hiểu. Nay chỗ hiểu biết của Tôn giả Tu-bồ-đề đã thâm nhập, thâm nhập.”
Ngài Tu-bồ-đề biết ý nghĩ của chư Thiên nên nói với chư Thiên:
–Muốn đạt được Tu-đà-hoàn đạo, khi đạt được Tu-đà-hoàn đạo rồi thì không trụ trong đó mới vượt qua. Muốn đạt được Tư-đà-hàm đạo, khi đạt được Tư-đà-hàm đạo rồi thì không trụ vào trong đó mới vượt qua. Muốn đạt được A-na-hàm đạo, khi đạt được A-na-hàm đạo thì không trụ vào trong đó mới vượt qua. Muốn đạt được A-la-hán đạo, khi đạt được A-la-hán đạo rồi thì không trụ vào trong đó mới vượt qua. Muốn đạt được Bích-chi-phật đạo, khi đạt được Bích-chi-phật đạo rồi thì không trụ vào trong đó mới vượt qua. Muốn đạt được Phật đạo, khi đạt được Phật đạo rồi thì không trụ vào trong đó mới vượt qua.
Chư Thiên suy nghĩ: “Tôn giả Tu-bồ-đề thuyết như vậy thì ai sẽ là người sẽ nghe, sẽ lãnh thọ pháp này?” Ngài Tu-bồ-đề biết ý nghĩ của chư Thiên nên nói với chư Thiên:
–Người huyễn sẽ nghe pháp huyễn của ta, sẽ nhận pháp huyễn của ta. Vì sao? Người theo ta nghe pháp xong rồi cũng không chứng đắc.
Chư Thiên lại nghĩ: “Sao gọi là người huyễn nghe pháp cùng với mọi người giống nhau không khác?” Ngài Tu-bồ-đề biết ý của chư Thiên nên nói với chư Thiên:
–Huyễn như người, người như huyễn.
Ngài Tu-bồ-đề bảo:
–Ta nói Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật đạo cũng như huyễn mà thôi. Ngay như Phật đạo ta nói cũng như huyễn.
Chư Thiên thưa:
–Cho đến Phật, ngài nói cũng như huyễn sao?
Ngài Tu-bồ-đề bảo chư Thiên:
–Cho đến Niết-bàn cũng như huyễn.
Chư Thiên lại hỏi Tu-bồ-đề:
–Cho đến Niết-bàn cũng như huyễn là thế nào?
Ngài Tu-bồ-đề đáp:
–Này chư Thiên! Giả sử có pháp sinh ra Niếtbàn, pháp ấy cũng như huyễn. Vì sao? Làm cho người huyễn Niết-bàn thì cũng không có.
Xá-lợi-phất, Phân-mạn-đà-ni-phất, Ma-ha Câu-hy-la, Ma-ha Ca-chiên-diên... cùng thưa ngài Tu-bồ-đề:
–Bát-nhã ba-la-mật thật rất sâu xa. Những người nào sẽ lãnh thọ pháp này?
Hiền giả A-nan cũng hỏi như vậy. Ngài Tu-bồđề thưa với các Tỳ-kheo:
–Bồ-tát không thoái chuyển hoặc là người thành tựu A-la-hán sẽ lãnh thọ pháp này. Lại nữa, có pháp này nhưng không có người thọ trì. Vì sao? Bát-nhã ba-la-mật thuyết tướng của nó như vậy, trong đó không sinh ra. Vì sao? Vì trong pháp đó vốn không có pháp, không có người nghe, không có người đắc. Pháp này xét ra không có người nghe pháp, không có người đắc pháp, vì trong pháp đó không có chỗ lãnh thọ.
Thích Đề-hoàn Nhân nghĩ: “Tôn giả Tu-bồ-đề đã thuyết pháp mưa báu. Ta đâu thể nào không hóa làm hoa để đem dâng cúng lên Tôn giả.” Thích Đềhoàn Nhân liền hóa làm hoa dâng lên Tôn giả Tubồ-đề. Ngài Tu-bồ-đề bảo:
–Hoa này chẳng phải sinh ra trên trời Đao-lợi. Ta từng thấy hoa này từ huyễn hóa sinh ra. Thích Đề-hoàn Nhân đã hóa ra và dâng lên cúng ta là từ cây tâm mà sinh ra, không phải từ cây gỗ sinh ra.
Hoa này là từ cây tâm sinh ra.
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Như Tôn giả dạy, hoa này là từ cây tâm sinh ra.
Ngài Tu-bồ-đề bảo:
–Đúng như vậy, Câu-dực!
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Cũng chẳng phải từ cây tâm sinh ra.
Ngài Tu-bồ-đề bảo:
–Bởi vậy nên chẳng phải là hoa.
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Trí tuệ ngài đạt được thật là sâu xa. Những lời ngài thuyết không thêm không bớt, thuyết đúng như pháp. Như ngài đã dạy, các Đại Bồ-tát nên học như vậy.
Ngài Tu-bồ-đề bảo Thích Đề-hoàn Nhân:
–Lời Câu-dực rất đúng! Đó là chỗ học của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nên học như vậy. Vì không học Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật đạo là Bồ-tát học Nhất thiết trí. Người học như vậy là học vô lượng, vô số pháp, không học về sắc sinh, cũng không học về thọ, tưởng, hành, thức sinh. Không học về sắc thọ, cũng không học về thọ, cũng không học về thọ, tưởng, hành, thức. Không học về pháp lạc thọ tưởng và khi bị mất cũng không lệ thuộc. Học như vậy là học Nhất thiết trí, là đồng như Nhất thiết trí. Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:
–Người học như vậy cũng không lãnh thọ Nhất thiết trí, cũng không thất học, vì học Nhất thiết trí là đồng với Nhất thiết trí.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Học như vậy cũng không lãnh thọ Nhất thiết trí, cũng không thất học, đó là học Nhất thiết trí, là đồng như Nhất thiết trí.
Thích Đề-hoàn Nhân hỏi ngài Xá-lợi-phất:
–Đại Bồ-tát sẽ cầu Bát-nhã ba-la-mật như thế nào?
Ngài Xá-lợi-phất thưa:
–Nên hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề.
Thích Đề-hoàn Nhân hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Nên nương vào oai thần ân đức gì để học? Ngài Tu-bồ-đề nói:
–Chỗ học được đều là nhờ vào oai thần ân đức của Phật. Về điều mà Câu-dực hỏi: Đại Bồ-tát nên cầu Bát-nhã ba-la-mật như thế nào? Cũng không thể từ nơi sắc mà tìm cầu, cũng không thể lìa sắc để tìm. Cũng không thể từ thọ, tưởng, hành, thức mà tìm. Cũng không thể lìa thọ, tưởng, hành, thức để tìm. Vì sao? Bát-nhã ba-la-mật cũng chẳng phải sắc, cũng chẳng phải lìa sắc. Bát-nhã ba-la-mật chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức.
Thích Đề-hoàn Nhân hỏi Tu-bồ-đề:
–Đại Bát-nhã ba-la-mật không có giới hạn. Đại Bát-nhã ba-la-mật không có bến bờ?
Ngài Tu-bồ-đề bảo Câu-dực:
–Đại Bát-nhã ba-la-mật không có giới hạn. Đại Bát-nhã ba-la-mật không có bến bờ. Đại Bát-nhã ba-la-mật không có ranh giới, hoàn toàn không thể thấy bờ bến. Đại Bát-nhã ba-la-mật hoàn toàn không có bến bờ. Người không có giới hạn, Bátnhã ba-la-mật cũng không giới hạn.
Này Câu-dực! Như vậy thì sẽ làm sao để cầu Bát-nhã ba-la-mật? Đối với pháp không có giới hạn, không có bến bờ, không có trung gian thì cũng không thể đạt được giới hạn. Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy.
Lại nữa, này Câu-dực! Pháp không giới hạn, không có bến bờ, không ranh giới, không có trung gian nên không ai có thể đắc.
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Thế nào, thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Là người không giới hạn, Bát-nhã ba-la-mật cũng không giới hạn?
Ngài Tu-bồ-đề đáp:
–Hoàn toàn không thể nghĩ bàn. Giả sử người nhiều lại càng nhiều thêm, cũng không có giới hạn, Bát-nhã ba-la-mật cũng không có giới hạn.
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Do nguyên nhân gì người không giới hạn, Bát-nhã ba-la-mật cũng không giới hạn?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Này Câu-dực! Ý ông thế nào, trong pháp nào nói về người, nguồn gốc của người?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Không có thuyết ra pháp nào, cũng không bỏ qua pháp nào. Giả sử có nói ra thì đó cũng chỉ là nêu cái tên thôi.
Ngài Tu-bồ-đề bảo:
–Thích Đề-hoàn Nhân! Ông nghĩ thế nào, có thể có người để thấy được người đó không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa: –Không thể thấy được, Ngài Tu-bồ-đề bảo:
–Không có tác giả làm sao có người? Giả sử Như Lai Đẳng Chánh Giác tuổi thọ và kiếp số nhiều như cát sông Hằng để nói về việc có người sinh, có người diệt, ông nghĩ thế nào?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Cũng không có người sinh người diệt. Vì sao? Vì bản nguyện thanh tịnh vậy.
–Như vậy, này Câu-dực! Người không giới hạn. Nên niệm về Bát-nhã ba-la-mật như vậy.
Bấy giờ, các Nhân chỉ thiên, các Phạm thiên, Ba-da-hòa-đề-thiên, Y-sa thiên, Na-đề-càn thiên cùng một lúc xướng lên ba lần khen ngợi pháp rằng:
–Pháp mà Hiền giả Tu-bồ-đề thuyết thật sâu xa. Như Lai đều từ nơi pháp này sinh ra, người nào được nghe pháp này, thọ trì, đọc tụng, tu hành, chúng con kính xem người đó như Đức Như Lai. Chúng con cung kính xem người đó như Đại Bồtát thọ trì Bát-nhã ba-la-mật.
Đức Phật bảo chư Thiên:
–Đúng như vậy, đúng như vậy! Xưa ta ở trước Đức Phật Đề-hòa-kiệt-la đạt được Bát-nhã ba-lamật, ta liền được Phật Đề-hòa-kiệt-la thọ ký: “Sau này ông sẽ làm thầy dẫn đường cho mọi người, làm cho tất cả đều đạt được trí tuệ của Phật. Vô lượng, vô số kiếp về sau, ông sẽ thành Phật hiệu là Thíchca Văn, tôn quý bậc nhất trong hàng trời, người, dắt thế gian an ổn trong pháp vô cùng sáng suốt, nên hiệu là Phật.
Chư Thiên bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Thật lành thay! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật đạt đến Nhất thiết trí.
Đức Phật ở trong đại hội bảo các Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, Ưu-bà- tắc, Ưu-bà-di:
–Nay lấy bốn chúng đệ tử làm chứng và chư Thiên ở cõi Dục, Phạm thiên, A-pha hội thiên cùng chứng tri.
Đức Phật bảo Thích Đề-hoàn Nhân:
–Này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ nào học tập, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật thì thiện nam, thiện nữ này dù là ma, thiên ma hay phi nhân cũng quyết định không thể là hại được, cũng không thể làm cho người này chết oan được.
Lại nữa, này Câu-dực! Chư Thiên trên trời Đao-lợi, người nào thực hành Phật đạo mà chưa được học tập, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật thì nên cùng nhau đi đến chỗ thiện nam, thiện nữ này. Người học tập, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật nếu đi ở chỗ núi rừng vắng vẻ, quyết định không sợ hãi, khiếp đảm.
Tứ Thiên vương bạch Phật:
–Chúng con cùng nhau ủng hộ thiện nam, thiện nữ học tập, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật.
Phạm-ma-bát thiên và chư Thiên cõi Phạm đồng bạch Phật:
–Chúng con cùng nhau ủng hộ thiện nam tử, thiện nữ nhân học tập, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã bala-mật.
Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Bản thân con ủng hộ thiện nam, thiện nữ học tập, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật.
Thích Đề-hoàn Nhân lại bạch Phật:
–Thật khó kịp, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nếu thiện nam, thiện nữ có học tập Bát-nhã ba-la-mật thì ngay hiện tại liền đắc pháp. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Người thọ trì Bátnhã ba-la-mật là thọ trì tất cả sáu pháp Ba-la-mật.
Đức Phật dạy:
–Đúng như vậy. Này Câu-dực, người thọ trì Bát-nhã ba-la-mật là thọ trì tất cả sáu pháp Ba-lamật. Lại nữa, này Câu-dực! Nếu thiện nam, thiện nữ học tập, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật, Câu-dực, hãy lắng nghe! Ta nói công đức người đó đạt được là lời nói đầu, giữa, cuối đều thiện.
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Con kính vâng theo lời chỉ dạy của Thế Tôn.
Đức Phật dạy:
–Này Câu-dực! Người nào muốn phá hoại, nhiễu loạn pháp của ta thì người đó dần dần khởi ác ý, muốn đến để phá hoại nhưng chưa đến được, giữa đường đã bị tiêu vong. Thiện nam, thiện nữ này nhờ học tập, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật nên người kia mang ác ý đến, luôn luôn muốn phá hoại, nhiễu loạn nhưng ác ý tự dừng và bị khuất phục, quyết định không đến được chỗ người kia.
Này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ nào đã thực hành thì thấy được tất cả, nhờ học tập, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật.
Này Câu-dực, ví như có loại thuốc tên là Machi, có con rắn đói bò đi kiếm ăn, đang trên đường đi kiếm ăn gặp một con sâu, rắn muốn ăn con sâu, con sâu bò đến chỗ thuốc Ma-chi, rắn nghe mùi hương của thuốc liền chạy trở lui. Vì sao? Vì năng lực của thuốc làm cho nọc độc của rắn lập tức tiêu tan, nọc độc của rắn bị năng lực của thuốc ngăn chận lại.
Như vậy, này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ nào học tập, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật, có người muốn làm hại liền bị tiêu vong, vì nhờ sức oai thần của Bát-nhã ba-la-mật đẩy lui. Đức Phật dạy:
–Giả sử có người mưu tính đi đến chỗ ngồi kia làm hại nhưng không thành, vì có Tứ Thiên vương đồng ủng hộ thiện nam, thiện nữ này. Nếu người tư duy thâm nhập Bát-nhã ba-la-mật, thì việc làm và lời nói tự tại như cam lộ. Nói ra điều gì đều được mọi người tôn trọng. Không sân hận, không cống cao. Tứ Thiên vương cùng nhau ủng hộ thiện nam, thiện nữ này. Người học tập, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật, lời nói không ai khác. Nói ra lời gì thì đều như cam lộ. Lời nói ra không khinh bạc, lòng sân hận không khởi lên, tự nhiên tâm cao ngạo không nảy sinh. Vì sao? Vì nhờ học tập Bátnhã ba-la-mật, không ưa cống cao, không ưa nương cậy, không ưa sân hận. Thiện nam, thiện nữ này tự nghĩ: “Nếu có người đến gây gỗ với ta, ta phải luôn xa lìa, tự hổ thẹn với chính mình. Nghĩ rằng đây là bọn xấu, không thể gần gũi.” Tự nghĩ: “Ta tìm cầu Phật đạo, không thể chạy theo những lời sân hận để cho ta mau đạt được tâm tốt.” Thiện nam, thiện nữ nào thực hành như vậy thì thấy được tất cả công đức ngay hiện tại. Người học tập, đọc tụng, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy.
Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Thật khó thay, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Người thực hành Bát-nhã ba-la-mật mới vượt qua được các sự xấu ác để đi lên. Việc làm của người đó tự tại, không ai bằng.
Đức Phật bảo Thích Đề-hoàn Nhân:
–Lại nữa, này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ học tập, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật, ngay trong lúc bị tai nạn kịch liệt, quyết định không sợ sệt. Giả sử người đó vào trong quân trận cũng không bị súng đạn.
Đức Phật dạy:
–Lời ta dạy không sai, không khác. Nếu thiện nam, thiện nữ ngay khi niệm tụng Bát-nhã ba-lamật, cho dù ngay trong lúc ấy bị chết, hoặc là ở trong nhà oan gia họ muốn làm hại, như lời Đức Phật dạy không sai khác. Thiện nam, thiện nữ này quyết định không ở trong đó bị chết oan. Dù cho ở trong đó có người dùng cung tên, có người dùng binh khí muốn hại người đó, rốt cuộc không trúng thân người ấy. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật là thần chú rất lớn, là thần chú rất tôn quý. Thiện nam, thiện nữ học tập thần chú này thì tự mình không nghĩ điều xấu, cũng không nghĩ đến cái xấu của người khác. Ai hoàn toàn không nghĩ đến điều xấu là người hùng trong nhân loại. Tự mình đạt đến quả vị Phật, sẽ ủng hộ cho tất cả mọi người. Người học thần chú này mau được thành Phật.
Lại nữa, này Câu-dực! Nếu người biên chép, học tập, thọ trì kinh Bát-nhã ba-la-mật, thì dù là người hay chẳng phải người cũng không làm hại người đó được, trừ trường hợp người đó có tội nghiệp ở đời trước không thể tránh khỏi. Hoặc ở chỗ Phật đắc đạo, nếu có người từ một phía nào đi vào trong đó thì quỷ thần, cầm thú muốn đến quấy nhiễu vị đó cũng không thể hại được. Vì sao? Vì chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai đều thành Phật ở đó. Thế nên không có sự sợ hãi khủng khiếp. Bátnhã ba-la-mật cũng như vậy, ở chỗ nào thì chỗ đó được tất cả đều cung kính, đảnh lễ ủng hộ.
Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Người nào biên chép Bát-nhã ba-la-mật, thọ trì quyển kinh, quy y đảnh lễ phụng thờ, lại dùng hoa hương tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường; người nào đem xá-lợi của Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác dựng tháp phụng thờ, quy y đảnh lễ, dâng hương hoa tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường, … Đức Phật hỏi Câu-dực:
–Phước của người ấy làm như vậy có nhiều không? Theo đó người ấy được quả báo vui sướng thế nào? Này Câu-dực! Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác tự mình đạt đến Nhất thiết trí, xuất hiện thân thành Phật là học từ pháp nào mà đắc được Vô thượng Bồ-đề?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Như Lai học từ Bát-nhã ba-la-mật đắc Vô thượng Bồ-đề, thành bậc Chánh giác.
Đức Phật bảo Thích Đề-hoàn Nhân:
–Không những xá-lợi của Như Lai từ Nhất thiết trí mà ra, mà Đức Phật Như Lai cũng từ Nhất thiết trí mà ra. Như vậy, này Câu-dực! Xá-lợi Nhất thiết trí là từ Bát-nhã ba-la-mật mà ra. Đức Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Giác cũng từ Nhất thiết trí mà ra, ta được làm thân Phật. Sau khi ta Bát-niếtbàn, xá-lợi cũng được cúng dường. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào biên chép Bát-nhã ba-la-mật, học tập, thọ trì, tự mình phụng thờ làm lễ, dùng hoa hương tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường, tức là đã cúng dường Nhất thiết trí.
Lại nữa, này Câu-dực! Người nào biên chép Bát-nhã ba-la-mật, thọ trì quyển kinh, tuy không đọc tụng, chỉ cúng dường làm lễ, thiện nam, thiện nữ này công đức đạt được từ nơi đó không thể so sánh. Vì sao? Vì đã cúng dường Nhất thiết trí vậy. Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Đúng như vậy, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Người trong Diêm-phù-lợi không cúng dường phụng thờ Bát-nhã ba-la-mật, lớp người này không biết Bát-nhã ba-la-mật là tôn quý, sẽ được phước không thể so sánh.
Đức Phật bảo Thích Đề-hoàn Nhân:
–Thế nào, Câu-dực! Người trong Diêm-phù-lợi có được bao nhiêu người tin Phật, tin Pháp, tin Tỳkheo Tăng?
Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Người Diêm-phù-lợi ít có đức tin. Người tin Phật, tin Pháp, tin Tỳ-kheo Tăng chỉ ít thôi. Và người thực hành Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-nahàm, A-la-hán, Bích-chi-phật cũng ít hơn nữa.
Người thực hành Phật đạo cũng ít hơn.
Đức Phật dạy:
–Đúng như vậy, Câu-dực! Đến như người tìm cầu Phật đạo cũng lại rất ít. Có vô số người không thể tính đếm muốn làm hạnh Bồ-tát, rồi sau mới từ trong số đó xuất hiện một hai người đứng vững ở địa vị không thoái chuyển. Cho nên, này Câu-dực! Nếu thiện nam, thiện nữ tìm cầu Phật đạo, học tập, thọ trì, đọc tụng kinh Bát-nhã ba-la-mật, thì nên đảnh lễ, cung kính phụng thờ vị đó. Vì sao? Vì vị đó hiểu rõ Bát-nhã ba-la-mật. Quá khứ Như Lai Vô Thượng Chánh Giác vốn từ Bồ-tát thực hành theo Bát-nhã ba-la-mật đã học. Ta bấy giờ cũng học trong đó. Sau khi Như Lai Bát-niết-bàn, Đại Bồ-tát sẽ cùng nhau thọ trì Bát-nhã ba-la-mật.
Câu-dực! Sau khi Như Lai Bát-niết-bàn, nếu thiện nam, thiện nữ lấy xá-lợi xây tháp bằng bảy báu cúng dường, trọn đời quy y đảnh lễ phụng thờ, đem hoa hương tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường. Như vậy, này Câu-dực! Ý ông thế nào, với những việc làm như vậy được phước có nhiều không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Kính bạch Đấng Thiên Trung Thiên, rất nhiều, rất nhiều!
Đức Phật dạy:
–Không bằng thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật. Thọ trì quyển kinh, quy y đảnh lễ, phụng thờ, dâng hoa hương tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường được phước rất nhiều.
Đức Phật dạy:
–Để phần tháp này qua một bên. Này Câu-dực! Hoặc tháp bằng bảy báu đầy cả cõi Diêm-phù-lợi, nếu thiện nam, thiện nữ nào trọn đời quy y đảnh lễ, phụng thờ, dâng hoa hương tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường. Câu-dực! Thế nào, phước đó có nhiều không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! rất nhiều, rất nhiều!
Đức Phật dạy:
–Không bằng thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật. Thọ trì quyển kinh, quy y đảnh lễ, phụng thờ, dâng hoa hương tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường, được phước rất nhiều.
Đức Phật dạy:
–Để phần tháp ở Diêm-phù-lợi qua một bên. Tháp bằng bảy báu đầy bốn châu thiên hạ. Này Câu-dực! Nếu thiện nam, thiện nữ nào trọn đời quy y đảnh lễ, phụng thờ, dâng hoa hương tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường thì phước đó có nhiều không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Rất nhiều, rất nhiều! Kính bạch Đấng Thiên Trung Thiên.
Đức Phật dạy:
–Không bằng thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật. Thọ trì quyển kinh, quy y đảnh lễ, phụng thờ, dâng hoa hương tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn… cúng dường được phước rất nhiều.
Đức Phật dạy:
–Để phần nói về tháp ở bốn châu thiên hạ qua một bên. Này Câu-dực! Ví như một thiên hạ, lại thêm một thiên hạ nữa, như vậy cho đến cả ngàn thiên hạ bốn phía đều đầy cả tháp bằng bảy báu, thiện nam, thiện nữ nào trọn đời quy y đảnh lễ, phụng thờ, dâng hoa hương tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường. Này Câu-dực! Thế nào, phước đó có nhiều không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Rất nhiều, rất nhiều! Kính bạch Đấng Thiên Trung Thiên!
Đức Phật dạy:
–Không bằng thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật,. Thọ trì quyển kinh, quy y đảnh lễ, phụng thờ, dâng hoa hương tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn… cúng dường, được phước rất nhiều.
Đức Phật dạy:
–Để phần nói về tháp trong một ngàn thiên hạ qua một bên. Thêm nữa, ở một ngàn quốc độ nhỏ, như thế trong đó làm thành hai ngàn quốc độ, bốn phía đầy cả tháp bằng bảy báu, thiện nam, thiện nữ trọn đời quy y đảnh lễ, phụng thờ, dâng hoa trời tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn trên cõi trời cúng dường. Này Câu-dực! Thế nào, phước đó có nhiều không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! rất nhiều, rất nhiều!
Đức Phật dạy:
–Không bằng thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật. Thọ trì quyển kinh, quy y đảnh lễ, phụng thờ, dùng hương hoa tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn… cúng dường, được phước rất nhiều.
Đức Phật dạy:
–Để phần nói về tháp trong hai ngàn quốc độ. Này Câu-dực! Tam thiên đại thiên quốc độ, tháp bảy báu đầy trong bốn phía, thiện nam, thiện nữ trọn đời quy y, đảnh lễ, phụng thờ, dâng hoa trời tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường. Này Câu-dực!
Thế nào, phước có nhiều không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! rất nhiều, rất nhiều!
Đức Phật dạy:
–Không bằng thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật. Thọ trì quyển kinh, quy y đảnh lễ, phụng thờ, dâng hương hoa tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn… cúng dường, được phước rất nhiều.
Đức Phật dạy:
–Để phần nói về tháp bảy báu trong tam thiên đại thiên quốc độ. Này Câu-dực, nếu trong tam thiên đại thiên quốc độ, tất cả Bồ-tát đều được làm người, mỗi người đều xây tháp bằng bảy báu, những người này trọn đời đem kỹ nhạc ca múa, cờ phướn cúng dường. Này Câu-dực, thế nào, công đức của những người này có nhiều không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Phước đức và công đức của những người này tạo ra rất nhiều, rất nhiều!
Đức Phật dạy:
–Không bằng thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật. Thọ trì quyển kinh, quy y đảnh lễ, phụng thờ, dâng hương hoa tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn… cúng dường, được phước rất nhiều.
Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Đúng như vậy, đúng như vậy! Người ấy quy y Bát-nhã ba-la-mật, đảnh lễ phụng thờ là cúng dường chư Phật Nhất Thiết Trí quá khứ, hiện tại, vị lai rồi.
Thích Đề-hoàn Nhân lại bạch Phật:
–Số người trong tam thiên đại thiên quốc độ, tháp bảy báu mà mỗi người đã xây dựng nên, giống như số người đầy chật ở trong cõi Phật nhiều bằng số cát sông Hằng, tất cả họ đều dựng tháp bảy báu để cúng dường. Một kiếp, lại một kiếp nữa, đem hoa trời tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường và các kỹ nhạc trên trời và ở thế gian để cúng dường, phước báo công đức của người này không bằng thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật, thọ trì, quy y đảnh lễ, phụng thờ, dâng hương hoa tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường. Phước đức của người này đạt được hơn người kia.
Đức Phật dạy Thích Đề-hoàn Nhân:
–Đúng như vậy! Này Câu-dực! Không bằng thiện nam, thiện nữ từ trong pháp này được phước rất nhiều, không thể tính, không thể bàn, không thể cân, không thể so lường, không thể cùng tột. Vì sao? Này Câu-dực! Vì Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác Nhất Thiết Trí là từ Bát-nhã ba-la-mật mà ra. Như vậy, này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật, thọ trì quyển kinh, quy y đảnh lễ, phụng thờ, dùng hương hoa tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường. Này Câu-dực! Những người như vậy đều là nhờ công đức ở đời trước đưa đến.
Đức Phật dạy:
–Nếu như cõi Phật nhiều gấp trăm lần số cát bên bờ sông Hằng đều xây tháp bằng bảy báu, không cần tính ở trong số đó gấp ngàn lần, không cần tính ở trong số đó gấp trăm ngàn lần, không cần tính ở trong số đó gấp muôn ức lần, không cần tính ở trong số đó gấp vô số lần, ở trong số đó không cần kể so với sự cúng dường Bát-nhã ba-lamật.
Bấy giờ bốn vạn Thiên tử cùng Thích Đề-hoàn Nhân đồng đến nhóm họp, đều thưa với Thích Đềhoàn Nhân:
–Tôn giả nên thủ hộ Bát-nhã ba-la-mật, nên học tập Bát-nhã ba-la-mật.
Đức Phật bảo Thích Đề-hoàn Nhân:
–Nên học tập, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-lamật. Vì sao? Vì nếu A-tu-la có ý nghĩ muốn đem binh đánh với Đao-lợi thiên, bấy giờ, này Câu-dực, nên niệm tụng Bát-nhã ba-la-mật, thì A-tu-la lập tức ngưng binh chúng và liền rút lui.
Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Bát-nhã ba-la-mật là thần chú rất lớn. Bát-nhã ba-la-mật là thần chú rất tôn quý, không có chú nào không thể so sánh với Bát-nhã ba-la-mật.
Đức Phật dạy:
–Đúng như vậy! Này Câu-dực! Bát-nhã ba-lamật là thần chú rất lớn. Bát-nhã ba-la-mật là thần chú rất tôn trọng. Bát-nhã ba-la-mật là thần chú mà không có thần chú nào có thể so sánh với thần chú này. Này Câu-dực! Các Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác quá khứ đều từ nơi chú này mà thành Phật đạo. Các Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác vị lai đều học tập chú này mà được thành Phật. Chư Phật hiện tại đều từ nơi chú này mà được thành Phật.
Này Câu-dực! Chú này sinh ra mười công đức lành chiếu sáng thế gian. Đó là bốn Thiền, bốn Thần túc, năm Thần thông chiếu sáng thế gian. Đại Bồ-tát nhân nơi Âu-hòa-câu-xá-la: phương tiện thắng trí, phương tiện thiện xảo sinh ra mười công đức lành chiếu sang thế gian.
Lại nữa, này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ nào học tập, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật liền được nghe pháp ngay đời hiện tại.
Thích Đề-hoàn Nhân hỏi Phật:
–Thế nào là sẽ được ngay thời hiện tại?
Đức Phật dạy:
–Hoặc người đó cuối cùng không bị chết oan, cuối cùng không bị chết vì trúng độc, không bị chết nước, không bị chết vì súng đạn, hoặc người khi gặp quan huyện, bị quan huyện bắt, nên tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật thì đi đến chỗ nào quyết định không bị nguy hại. Vì sao? Vì được Bát-nhã ba-lamật ủng hộ. Nếu người bị quan huyện gọi đến quở mắng, nên niệm Bát-nhã ba-la-mật, ngay lúc đó vua hoặc thái tử, cận thần cho đòi đến gặp, được nói lên những lời đúng, mọi người đều hoan hỷ. Vì sao? Vì nhờ học tập Bát-nhã ba-la-mật. Lòng từ thương xót nghĩ đến tất cả mọi người và những lời nhỏ nhít kia muốn làm hại nhưng không thể hại được.
Khi Đức Phật dạy điều này, có ngoại đạo trông thấy Đức Phật, muốn đến quấy phá. Thích Đề-hoàn Nhân nghĩ: “Ta suốt đời thường được ở bên Phật, thọ trì. đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật, kẻ ngoại đạo đi đến quyết muốn quấy phá ta, làm cho ta không được thọ trì Bát-nhã ba-la-mật.” Thích Đề-hoàn Nhân vâng theo lời chỉ dạy của Phật, đọc tụng Bátnhã ba-la-mật, kẻ ngoại đạo kia liền tránh xa cách chung quanh chỗ Thiên Trung Thiên một vòng và theo con đường tắt chạy trở lui.
Ngài Xá-lợi-phất thầm nghĩ: “Vì sao ngoại đạo giữa đường chạy trở lui?” Đức Phật biết tâm niệm của Xá-lợi-phất, liền dạy:
–Kẻ ngoại đạo này đi đến với tâm ý không tốt, Thích Đề-hoàn Nhân niệm Bát-nhã ba-la-mật, do đó nên ngoại đạo giữa đường chạy trở lui.
Lúc bây giờ, ác ma suy nghĩ: “Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác cùng với bốn chúng đệ tử cùng ngồi với các Thiên tử cõi Dục, cõi Phạm, trong đó hoàn toàn không có những người khác. Đại Bồ-tát nay được thọ ký, sẽ làm vị tướng trong loài người, sẽ thành Phật đạo. Ta sẽ đến nhiễu loạn họ.”
Ác ma hóa làm một chiếc xe bốn ngựa, từ từ tiến đến trước Đức Phật.
Thích Đề-hoàn Nhân thầm nghĩ: “Ác ma cỡi xe bốn ngựa muốn đến chỗ Phật, không giống với xe bốn ngựa của vua Bình-sa, không giống với xe bốn ngựa của vua Ba-tư-nặc, cũng không giống với xe bốn ngựa của Thích chúng đọa, xe này do ma làm ra. Ma thường nghĩ cách phá Phật đạo, làm loạn người đời.” Thích Đề-hoàn Nhân luôn nguyện muốn đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật nên ngay khi ấy nghĩ đến Bát-nhã ba-la-mật và điều mong muốn được thành tựu, ác ma liền chạy lui.
Bậc thượng nhân ở cung trời Đao-lợi cầm hoa do mình hóa hiện thành, rồi bay lên không trung, dùng hoa rải lên Đức Phật. Các vị đều thưa:
–Chúng con khiến cho Bát-nhã ba-la-mật được tồn tại lâu dài ở Diêm-phù-lợi để cho mọi người đều được nghe thấy.
Rồi các vị ấy nắm ngần ấy các loại hoa như đã rải lên Đức Phật và họ đều thưa:
–Người nào thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thủ hộ Bát-nhã ba-la-mật, cũng không bị ma và thiên ma phá hoại được.
Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Người nghe Bát-nhã ba-la-mật được phước báo và công đức không phải ít, huống là người học tập, thọ trì, đọc tụng xong lại đi chỉ dạy cho người khác. Người này đời trước đã được thấy và theo Phật nghe Bát-nhã ba-la-mật, huống là người học tập, thọ trì, đọc tụng rồi thực hành theo những gì trong đó chỉ dạy, tức là đã cúng dường Như Lai. Vì sao? Vì muốn đạt Nhất thiết trí thì phải từ Bátnhã ba-la-mật. Ví như muốn được của báu cực kỳ ở cõi trời, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, thì phải từ biển lớn. Muốn được trân bảo Nhất thiết trí, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, thì Như Lai Chánh Đẳng Giác phải từ Bát-nhã ba-la-mật mà tìm cầu.
Đức Phật dạy:
–Đúng như vậy, đúng như vậy! Đức Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Giác là từ Nhất thiết trí mà ra.
Ngài A-nan bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Vì lẽ gì Như Lai không thuyết về bố thí Ba-la-mật? Cũng không thuyết về Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định ba-la-mật? Như Lai hoàn toàn không nói về những từ này mà chỉ nói chung là Bát-nhã ba-la-mật?
Đức Phật dạy A-nan:
–Vì Bát-nhã ba-la-mật là tôn quý nhất trong năm pháp Ba-la-mật kia. Thế nào A-nan! Không bố thí bằng Nhất thiết trí thì có thể gọi là Bố thí bala-mật không? Không trì tịnh giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ bằng Nhất thiết trí thì có thể gọi là Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định bala-mật không?
Ngài A-nan thưa:
–Đúng như vậy, đúng như vậy! Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không có Ba-la-mật nào là bố thí. Nhất thiết trí là Bố thí ba-la-mật. Không có Bala-mật nào là trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Nhất thiết trí là Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ ba-la-mật. Nhất thiết trí là Bát-nhã ba-la-mật.
Đức Phật dạy A-nan:
–Do vậy nên Bát-nhã ba-la-mật là tôn quý nhất trong năm pháp Ba-la-mật. Ví như cuốc đất là gieo giống vào trong đó, đồng thời giống cũng từ đó sinh ra. Như vậy, này A-nan! Bát-nhã ba-la-mật là nơi sinh ra năm pháp Ba-la-mật. Nhất thiết trí là Bát-nhã ba-la-mật mà thành. Do vậy nên, này Anan! Bát-nhã ba-la-mật với năm pháp Ba-la-mật kia là rất tôn quý được Đấng Tự Tại chỉ dạy.
Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác đã dạy rằng thiện nam, thiện nữ nào y theo chỉ dạy của Bát-nhã ba-la-mật, học tập, thọ trì, đọc tụng, công đức của người đó nói không thể hết.
Đức Phật bảo Câu-dực:
–Ta không nói về người đọc tụng, vì công đức đó chưa nói hết. Thiện nam, thiện nữ nào biên chép Bát-nhã ba-la-mật, thọ trì quyển kinh, quy y, đảnh lễ, phụng thờ, dùng danh hoa tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường, ta nói đó là công đức cúng dường mà thôi.
Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Con xin ủng hộ người này, tức là thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật, thọ trì quyển kinh, quy y, phụng thờ, dùng danh hoa tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường.
Đức Phật dạy:
–Này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ nào khi tụng Bát-nhã ba-la-mật, có ngần ấy trăm ngàn chư Thiên đi đến chỗ của người đó để nghe pháp đó.
Người nào đối với pháp không hiểu, muốn hỏi Pháp sư, vừa phát khởi ý nghĩ như vậy, nhờ trí tuệ của pháp nên ngay khi đó được hiểu rõ. Thiện nam, thiện nữ này ngay hiện tại liền được nghe pháp.
Lại nữa, này Câu-dực! Người nào thuyết Bátnhã ba-la-mật cho bốn chúng đệ tử thì tâm người đó hoàn toàn không có điều chướng nạn. Nếu hình hài bị người toan giết hại rốt cuộc chẳng lo sợ. Vì sao? Vì người ấy được Bát-nhã ba-la-mật ủng hộ nên kẻ giết hại kia liền bỏ đi ngay. Đức Phật dạy:
–Ta hoàn toàn không thấy người làm hại Bátnhã ba-la-mật, huống chi kẻ muốn giết hại người có Bát-nhã ba-la-mật. Tức là kẻ kia không thể nào thấy được, bởi vì người ấy được Bát-nhã ba-la-mật che chắn và làm cho khuất phục. Không có thiện nam, thiện nữ nào dám khinh dễ, trong tâm người đó cũng không sợ hãi. Thiện nam, thiện nữ này là người ngay hiện tại thấy được tất cả pháp tạo ra công đức.
Lại nữa, này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ nào yêu kính cha mẹ, Sa-môn, đạo nhân, tri thức anh em, tôn thân trong ngoài… khi người đó muốn nói những việc xấu ác thì đem pháp trung chính chỉ dạy cho họ.
Như vậy, này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ đó ngay hiện tại liền được pháp công đức.
Lại nữa, này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật, thọ trì quyển kinh đã biên chép, chư Thiên trên cõi trời Tứ Thiên vương tìm cầu Phật đạo nên đi đến chỗ của người đó thưa hỏi và xin lãnh thọ Bát-nhã ba-la-mật, đảnh lễ, đi vòng quanh xong liền lui.
Chư Thiên ở trên cõi trời Đao-lợi tìm cầu Phật đạo, nên đi đến chỗ của người đó thăm hỏi, nghe và lãnh thọ Bát-nhã ba-la-mật, đảnh lễ, nhiễu quanh xong liền lui.
Chư Thiên ở trên cõi Diệm thiên tìm cầu Phật đạo, nên đi đến chỗ của người đó thăm hỏi, nghe và lãnh thọ Bát-nhã ba-la-mật, đảnh lễ, đi vòng quanh xong liền lui. Thiện nam, thiện nữ này nên biết có vô lượng, vô số chư Thiên, Long, Dạ-xoa, Kiền-đà-la, A-tu-la, Ca-lâu-la, Chân-đà-la, Mahầu-lặc, Nhân phi nhân ở các cõi Phật sẽ đi đến chỗ của người đó thăm hỏi, nghe và lãnh thọ Bát-nhã ba-la-mật, đảnh lễ, đi vòng quanh xong liền lui. Như vậy tức là Thí.
Chư Thiên ở trên cõi trời Đâu-thuật tìm cầu Phật đạo, nên đi đến chỗ của người đó thăm hỏi, nghe và lãnh thọ Bát-nhã ba-la-mật, làm lễ, nhiễu quanh xong rồi đi.
Chư Thiên ở trên cõi trời Ni-ma-la-đề tìm cầu Phật đạo, nên đi đến chỗ của người đó thăm hỏi, nghe và lãnh thọ Bát-nhã ba-la-mật, làm lễ, nhiễu quanh xong rồi đi.
Chư Thiên ở trên cõi trời Ba-la-ni mật-hòa-dabạt tìm cầu Phật đạo, nên đi đến chỗ của người đó thăm hỏi, nghe và lãnh thọ Bát-nhã ba-la-mật, làm lễ, nhiễu quanh xong rồi đi.
Chư Thiên ở trên cõi trời Ca-di, Phạm-phú-lâu thiên, Phạm-ba-sản thiên, Ma-ha Phạm thiên, Lôthiên, Ba-lợi-đa thiên, Lô-ba-ma-na thiên, cõi trời A-pha-cắng-tu (Abhasvara, Quang âm thiên, Cực quang tịnh), A-pha-tuyên-tu thiên, Ba-lợi-đà-thủha thiên, A-ba-ma-thủ thiên, Thủ-ha-ca thiên, Duy-phiên-la thiên, A-tỷ thiên, A-đà-thủ thiên, Thủ-đà-thí thiên, A-ca-nị-sắc thiên, cõi trời A-canị-tra (Akansttha, sắc cứu cánh thiên) tìm cầu Phật đạo nên đến chỗ của người đó thăm hỏi, nghe và lãnh thọ Bát-nhã ba-la-mật, làm lễ, đi vòng quanh xong mỗi người tự lui. Cho đến chư Thiên trên cõi A-ca-nị-tra cũng thường đi xuống.
Này Câu-dực! Huống là các chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc trong tam thiên đại thiên quốc độ. Tất cả đều nên đi đến thăm hỏi, nghe và lãnh thọ Bát-nhã ba-la-mật, làm lễ, đi vòng quanh xong mỗi người tự lui. Thiện nam, thiện nữ này nơi chỗ ở thường được giữ gìn kiên cố, không có người quấy rối. Trừ túc mạng của người đó không mời cũng đến, còn ngoài ra không ai có thể lay chuyển. Thiện nam, thiện nữ này liền được pháp công đức ngay hiện tại nên có thể biết được khi chư Thiên đến.
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Kính bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Thế nào, thiện nam, thiện nữ này sẽ do đâu biết được lúc chư Thiên đến xin lãnh thọ, đảnh lễ, phụng thờ cúng dường?
Đức Phật dạy:
–Thiện nam, thiện nữ nếu thấy ánh sáng thì biết chư Thiên cũng như các loài rồng, Dạ-xoa, Kiềnđà-la đến nghe và lãnh thọ Bát-nhã ba-la-mật, đảnh lễ, phung thờ. Tâm người đó hoan hỷ, phấn khởi thì biết là chư Thiên đã đến.
Lại nữa, này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ từng ở chỗ không ngửi thấy mùi thơm, nếu người ấy ngửi thấy mùi thơm, nên biết có quỷ thần đã đến.
Lại nữa, này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ tắm rửa thân thể sạch sẽ, nên quỷ thần rất hoan hỷ, luôn đi đến chỗ của người đó. Người đó hớn hở như Tiểu thiên đi Đại thiên đến. Vì thế ta thí dụ việc đó, oai thần của vị đó rất tôn quý, sáng chói rực rỡ. Thiện nam, thiện nữ đó thường ở trong sự hoan hỷ tinh khiết, thân thể chắc chắn không bệnh tật, chỗ ở thường được an ổn, chưa từng có ác mộng, trong mộng không thấy những điều khác lạ, chỉ thấy Phật, chỉ thấy tháp và chỉ nghe Bát-nhã ba-la-mật, chỉ thấy cây Bồ- đề là nơi Đức Phật ngồi, chỉ thấy bánh xe pháp quay, chỉ thấy Đức Phật khi sắp sửa thành Phật, chỉ thấy Đức Phật thành Phật xong chuyển pháp luân, chỉ thấy bao nhiêu Bồ-tát, chỉ thấy thuyết đủ sáu Ba-la-mật để giải thích trí tuệ, chỉ thấy người sẽ thành Phật, chỉ thấy cõi Phật khác, chỉ nghe giáo pháp tôn quý của Đức Phật, chỉ thấy các Đức Phật Như Lai Đẳng Chánh Giác ở phương nọ, ở cõi nào đó với bao nhiêu trăm ngàn đệ tử, bao nhiêu ức đệ tử và Đức Phật đang ở trong đó mà thuyết pháp cho họ.
Đúng thế, này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ trong mộng thấy những điều như vậy xong liền được an ổn. Khi thức giấc, thân được nhẹ nhàng, không còn nghĩ đến việc ăn uống, thân như được ăn thức ăn ngon, no đủ. Ví như Tỳ-kheo khi đắc thiền, từ thiền tỉnh giác, tâm nhẹ nhàng vui vẻ, không còn nghĩ đến việc ăn uống, tự nhiên như được ăn thức ăn ngon.
Như vậy, này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ này khi tỉnh giấc không còn quá nghĩ đến việc ăn uống. Tự nghĩ rằng thân như được ăn các thức ăn ngon. Vì sao? Này Câu-dực! Vì tà ma, quỷ thần không dám đến gần. Thiện nam, thiện nữ này là người đã tự mình thấy được pháp công đức ngay hiện tại nhờ học tập, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật vậy. Hoặc có người biên chép, tuy không đọc tụng thọ trì quyển kinh, nhưng quy y, đảnh lễ, phụng thờ, dùng hoa hương tốt đẹp, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường.
Lại nữa, này Câu-dực! Hoặc trong Diêm-phùđề đầy cả xá-lợi của Như Lai, hoặc là kinh Bát-nhã ba-la-mật, trong hai thứ đó ông nhận lãnh thứ nào? Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Con thà nhận Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Con không dám không tôn kính xá-lợi. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nhưng xá-lợi là từ Bát-nhã bala-mật sinh ra, mà được cúng dường, giống như con được một mình ngồi giữa chư Thiên, hoặc có lúc con không ở trên tòa hay là có chư Thiên đi đến, cũng đều đảnh lễ phụng thờ pháp tòa là chỗ được nhận sự chỉ dạy rồi lui.
Như vậy, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Bát-nhã ba-la-mật sinh ra là sinh ra xá-lợi của Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác, vì Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác là từ Nhất thiết trí tuệ sinh ra. Trong Diêm-phù-đề đầy cả xá-lợi của Như Lai.
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Dù cho tam thiên đại thiên quốc độ, trong đó đầy cả xá-lợi làm một phần, kinh Bát-nhã ba-la-mật là phần thứ hai, thì trong hai phần ấy con nhận Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Vì xá-lợi là từ trong đó sinh ra, tự nhiên được cúng dường đầy đủ.
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Ví như người mắc nợ, người này lại quen biết với nhà vua rất thân thiết, được nhà vua rất thương yêu quý mến, thì người đó sẽ không có người chủ nợ nào đòi hỏi, cũng chẳng còn bị sợ sệt. Vì sao? Vì người này luôn ở một bên vua nên được nương nhờ oai lực của vua.
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Do từ Bátnhã ba-la-mật, xá-lợi sinh ra và được mọi người cúng dường Bát-nhã ba-la-mật. Ví như những người hầu cận của vua thì được mọi người kính nể. Xá-lợi của Như Lai là từ Nhất thiết trí sinh ra nên liền được cúng dường.
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nhất thiết trí cũng như vậy. Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác là từ Bát-nhã ba-la-mật mà ra. Do biết như vậy nên trong hai phần con xin nhận Bát-nhã ba-la-mật. Người lãnh thọ, hành trì Bát-nhã ba-la-mật, ví như ngọc ma-ni giá.
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Người có báu này không có của báu nào bằng. Bảo châu này để ở chỗ nào thì quỷ thần không thể tùy tiện, người ấy chẳng bị quỷ thần làm hại. Thiện nam, thiện nữ không luận lớn hay nhỏ, được nắm giữ và đeo ngọc ma-ni nơi thân thì quỷ thần liền chạy lui xa. Hoặc khi bị trúng nhiệt, đem ngọc ma-ni đeo lên người, nhiệt liền tiêu trừ. Hoặc bị trúng phong, đem ngọc ma-ni đeo lên người, phong liền hết. Hoặc bị trúng hàn, đem ngọc ma-ni đeo lên người, hàn không tan và trừ được hết. Ban đêm đem ngọc ma-ni để ở chỗ tối, ngọc ma-ni làm cho tất cả chỗ đó được sáng. Khi bị nóng, đem ngọc ma-ni để ở chỗ đó, chỗ đó liền mát mẻ. Khi bị lạnh, đem ngọc ma-ni để ở chỗ đó, chỗ đó liền ấm áp. Ngọc ma-ni để ở chỗ nào thì chỗ đó các độc không làm gì được. Nam tử, nữ nhân nào, không luận lớn hay nhỏ, bị rắn, trăn cắn, đem ngọc ma-ni để ở chỗ bị rắn, trăn cắn, nọc độc tự tan.
Ngọc ma-ni này, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Rất là tôn quý. Nếu có người bị bệnh đau mắt, người mắt bị mù, đem ngọc ma-ni để ở gần mắt, đau đớn của mắt được trừ hết.
Như vậy, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đức của ngọc ma-ni là rất cao xa, nếu để vào trong nước, màu nước liền như màu ngọc. Cầm bao nhiêu thứ lụa là, trịnh trọng để ngọc ma-ni vào trong nước, màu nước liền như màu ngọc. Nếu là nước đục, lập tức thành trong sạch. Đức của ngọc ma-ni không có thứ gì có thể so sánh.
Ngài A-nan hỏi Thích Đề-hoàn Nhân:
–Thế nào, Câu-dực! Trên trời cũng có ngọc mani, ở Diêm-phù-lợi cũng có ngọc ma-ni, đều cùng là ngọc ma-ni, có sự sai biệt gì?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa Tôn giả A-nan:
–Ma-ni trên trời cùng ma-ni trong nhân gian không giống nhau. Ánh sáng của ngọc ma-ni ở Diêm-phù-lợi tự thể của nó không đáng để nói. Như tôi đã nói, tức là nó có sự sai khác nhau. Đức của nó rất tôn quý, gấp mười lần, gấp trăm ngàn lần, gấp vạn ức lần, lớn gấp ức lần. ngọc ma-ni này như tôi đã nói, nếu đem để vào trong tráp, trong hộp, ánh sáng của nó chiếu thấu suốt ra bên ngoài. Giả sử lấy ngọc bỏ ra bên ngoài, nhưng ánh sáng ở trong tráp vẫn liên tục sáng như cũ. Bát-nhã ba-lamật là trí tuệ của Nhất thiết trí. Cho đến sau khi Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác Bát-niết-bàn, xálợi vẫn tiếp tục được cúng dường. Xá-lợi tức là cái hộp đựng Nhất thiết trí.
Lại nữa kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nếu tam thiên đại thiên quốc độ, trong đó đầy cả xá-lợi, cho đến cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, trong đó đầy cả xá-lợi, chung làm một phần. Kinh Bát-nhã Ba-la-mật làm một phần. Nếu con chọn một trong hai phần thì con nhận Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Vì Như Lai là từ Bát-nhã ba-la-mật mà ra, xá-lợi là từ Bát-nhã ba-la-mật mà ra và được cúng dường. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nếu thiện nam, thiện nữ muốn ngay hiện tại thấy được vô lượng, vô số cõi nước của chư Phật thì nên nương theo pháp Bát-nhã ba-la-mật mà tu hành.
Nên nghĩ như vậy.
Đức Phật bảo Thích Đề-hoàn Nhân:
–Đúng như vậy! Này Câu-dực! Thuở quá khứ, các Đức Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Giác vị lai đều từ Bát-nhã ba-la-mật mà thành tựu Phật đạo. Các Đức Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Giác hiện tại trong vô lượng, vô số cõi nước chư Phật cũng đều từ Bát-nhã ba-la-mật mà thành tựu Phật đạo.
Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đại Bátnhã ba-la-mật là tất cả loài người cho đến loài côn trùng nhỏ bé, Bát-nhã ba-la-mật cũng biết rõ tất cả. Đức Phật dạy:
–Đại Bồ-tát nhờ biết vậy nên ngày đêm thực hành Bát-nhã ba-la-mật.
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Vì sao chỉ thực hành Bát-nhã ba-la-mật mà không thực hành các pháp Ba-la-mật khác?
Đức Phật dạy:
–Đại Bồ-tát thực hành tất cả sáu pháp Ba-lamật, nhưng Bát-nhã ba-la-mật đối với Đại Bồ-tát là tôn quý hơn hết. Chỗ nào Bố thí Bát-nhã ba-lamật là vượt lên trên hết Trì giới nghĩa là không khuyết phạm; Nhẫn nhục là tự giữ gìn; Tinh tấn là không lười biếng; Người nhất tâm mà không tán loạn, thấy tất cả các pháp. Đại Bồ-tát là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật.
Này Câu-dực! Ví như trên cõi Diêm-phù-lợi có đủ mọi thứ cây cối, có bao nhiêu thứ sắc, lá của mọi loại khác nhau, hoa khác nhau, trái khác nhau, hạt giống loại khác nhau, nhưng cái bóng râm của chúng thì không khác, hoàn toàn như nhau.
Này Câu-dực! Như vậy năm pháp Ba-la-mật là từ Bát-nhã ba-la-mật mà sinh ra Nhất thiết trí. Các pháp Ba-la-mật lần lượt hỗ trợ nhau không sai khác.
Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đức vô cùng tôn quý không gì hơn Bát-nhã ba-la-mật. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đức không thể tính thì không gì hơn Bát-nhã ba-la-mật. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Không có gì hơn Bát-nhã ba-la-mật. Người nào biên chép Bát-nhã ba-la-mật, thọ trì quyển kinh, quy y, đảnh lễ, phụng thờ, dùng hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường. Trong khi đó lại có người biên chép Bát-nhã ba-la-mật, đem quyển kinh biên chép đó tặng cho người khác, phước đó được bao nhiêu?
Đức Phật dạy:
–Này Câu-dực! Ta hỏi ông, tùy ý ông trả lời. Người nào cúng dường xá-lợi Như Lai, lại phân chia cho người khác để được cùng cúng dường. Trong lúc đó có người tự mình cúng dường xá-lợi, không phân chia cho người khác cùng được cúng dường thì phước của của người đó có nhiều không? Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Thiện nam, thiện nữ cúng dường xá-lợi. lại phân chia cho người khác cùng được cúng dường, phước của người đó vượt hơn người kia rất nhiều.
Đức Phật dạy:
–Đúng như vậy! Này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ nào biên chép Bát-nhã ba-la-mật, thọ trì quyển kinh, quy y, đảnh lễ, phụng thờ, dùng hương hoa tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cúng dường. Lại đem quyển kinh biên chép đó phân cho người khác để cùng được cúng dường, thì phước đó rất nhiều.
Lại nữa, này Câu-dực! Nếu pháp sư đạt đến chỗ thấu đáo về nghĩa lý liền thuyết kinh pháp chỉ dạy cho mọi người, công đức đó rất lớn, rất lớn!
Lại nữa, này Câu-dực! Với tất cả thiện nam, thiện nữ ở Diêm-phù-lợi đều dạy cho họ thọ trì Thập thiện. Thế nào, Câu-dực! Phước đó có nhiều không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Rất nhiều, rất nhiều! Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật dạy:
–Không bằng thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật, đem quyển kinh đưa cho người khác bảo chép, người đọc tụng cho người nghe, phước đó nhiều gấp bội.
Lại nữa, này Câu-dực! Để phần nói về người Diêm-phù-lợi và bốn thiên hạ các Tiểu thiên quốc độ, Nhị thiên quốc độ, Tam thiên đại quốc độ, cho đến người trong cõi Phật nhiều như cát sông Hằng qua một bên, tất cả thiện nam, thiện nữ này đều dạy cho họ thọ trì Thập thiện. Thế nào, này Câu-dực!
Phước đó có nhiều không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Rất nhiều, rất nhiều! Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật dạy:
–Thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-lamật, đưa quyển kinh cho người khác biên chép, đọc cho người nghe, phước đó nhiều gấp bội.
Lại nữa, này Câu-dực! Để phần nói về người Diêm-phù-lợi qua một bên, tất cả thiện nam, thiện nữ này đều dạy cho họ thực hành bốn Thiền, bốn Đế, bốn Thần túc, năm Thần thông. Thế nào, này Câu-dực! Phước đó có nhiều không?
Thích Đề-hoàn Nhân bạch:
–Rất nhiều, rất nhiều! Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật dạy:
–Không bằng thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật, đem quyển kinh đưa cho người bảo chép, hoặc đọc cho người nghe, phước đó nhiều gấp bội.
Lại nữa, này Câu-dực! Nếu có người nào đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật, lại dạy cho người khác học, phước đó càng tăng gấp bội.
Lại nữa, này Câu-dực! Nếu có người nào tự mình học tập Bát-nhã ba-la-mật, lại chỉ cho người khác về trí tuệ này, được phước càng tăng gấp bội. Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Thế nào là người học Bát-nhã ba-la-mật và giảng dạy về trí tuệ trong đó?
Đức Phật dạy:
–Người không hiểu, giải thích cho họ hiểu. Thiện nam, thiện nữ nào đời sau muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác nên học Bát-nhã bala-mật, nhưng bị thầy xấu dạy ngược lại, dạy cho học các chi nhánh của Bát-nhã ba-la-mật.
Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Thế nào gọi là chi nhánh của Bát-nhã ba-lamật?
Đức Phật dạy:
–Trong đời vị lai có các Tỳ-kheo muốn học Bát-nhã ba-la-mật, bị thầy xấu dạy ngược lại.
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Thế nào là dạy ngược lại?
Đức Phật dạy:
–Dạy người học sắc là vô thường, làm cho mọi người ngay nơi sắc tìm cầu vô thường, làm như thế là làm vô thường khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật. Dạy thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, ngay nơi thức tìm cầu vô thường. Dạy thực hành như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật. Đó là chi nhánh của Bátnhã ba-la-mật.
Đức Phật dạy:
–Người này hành sắc hoại để tìm vô thường của sắc. Hành thọ, tưởng, hành, thức hoại, ngay nơi thức tìm vô thường của thức. Thấy rõ người thực hành như vậy, người thông minh trí tuệ nên đem Bát-nhã ba-la-mật chỉ dạy cho học, phước đó càng tăng lên gấp bội.
Lại nữa, này Câu-dực! Vì vậy cho nên đối với người Diêm-phù-đề, nếu thiện nam, thiện nữ làm cho họ đắc được Tu-đà-hoàn đạo. Thế nào, này Câu-dực! Phước đó có nhiều không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Rất nhiều, rất nhiều! Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật dạy:
–Không bằng thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật, đem quyển kinh đưa cho người khác bảo biên chép và chỉ dạy cho họ học, hoặc đọc cho họ nghe, phước đó gấp bội. Vì sao? Vì Tuđà-hoàn là nơi Bát-nhã ba-la-mật mà ra.
Lại nữa, này Câu-dực! Để phần nói về Diêmphù-lợi qua một bên, cho dù tam thiên đại thiên quốc độ cho đến người trong cõi Phật nhiều như cát sông Hằng đều chỉ dạy làm cho họ đạt được quả Tu-đà-hoàn, phước đó có nhiều không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, rất nhiều! Đức Phật dạy:
–Không bằng thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật, đem quyển kinh đưa cho người khác bảo chép, dạy cho họ học, đọc cho họ nghe, người đó được phước càng tăng thêm rất nhiều. Vì sao? Vì nhờ đức của Nhất thiết trí nên thành tựu được pháp do nghe. Từ nơi Bát-nhã ba-la-mật được thành Phật, liền vượt khỏi quả vị Tu-đà-hoàn.
Lại nữa, này Câu-dực! Người đắc được tất cả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán đạo, phước đó có nhiều không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Rất nhiều, rất nhiều! Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật dạy:
–Không bằng thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật, đem quyển kinh đưa cho người khác bảo chép, hoặc cho người đọc nghe, phước đó rất nhiều. Do vậy nên từ nơi pháp này, mỗi người, mỗi người đắc được tất cả. Đây là chỗ Bátnhã ba-la-mật đã đạt đến. Vì sao? Vì pháp Nhất thiết trí là do học pháp Nhất thiết trí, lại có thể chỉ dạy thành tựu quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, Ana-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật đạo.
Để người Diêm-phù-lợi qua một bên. Này Câudực! Người trong tam thiên đại thiên quốc độ cho đến người trong cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, dạy cho tất cả thiện nam, thiện nữ này, làm cho họ đều được thành tựu quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đàhàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật. Thế nào, Câu-dực! Phước đó có nhiều không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Rất nhiều, rất nhiều! Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật dạy:
–Không bằng thiện nam, thiện nữ biên chép Bát-nhã ba-la-mật, đem quyển kinh cho người bảo chép, dạy cho họ học, hoặc đọc cho người nghe, phước đó càng nhiều. Vì sao? Vì tất cả đều từ Bátnhã ba-la-mật. Do đức của pháp Nhất thiết trí, nhờ đây nên đắc được quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật. Do đây nên phước của người đó tăng lên rất nhiều.
Lại nữa, này Câu-dực! Dạy cho tất cả người Diêm-phù-lợi đều phát tâm Bồ-tát không bằng thiện nam, thiện nữ đem quyển kinh Bát-nhã ba-lamật đưa cho người bảo chép, dạy cho họ học, hoặc thuyết cho người nghe, hoặc trao cho họ quyển kinh Bồ-tát không thoái chuyển, người đó sẽ học theo đây mà thâm nhập Bát-nhã ba-la-mật. Người học tập và hiểu về Bát-nhã ba-la-mật càng tăng thêm nhiều, đạt được sự hiểu biết vô cùng, nhân đó được thành tựu. Vậy nên phước của người này càng tăng thêm rất nhiều.
Để tam thiên đại thiên quốc độ Diêm-phù-lợi qua một bên, này Câu-dực! Người trong cõi Phật nhiều như cát sông Hằng đều phát tâm thực hành quả vị Vô Thượng Chánh đẳng giác, không bằng thiện nam, thiện nữ đem quyển kinh Bát-nhã ba-lamật đưa cho người bảo chép, dạy cho họ học, thuyết cho họ nghe, hoặc đưa quyển kinh Bồ-tát không thoái chuyển để chính họ học theo đây mà được thâm nhập vào Bát-nhã ba-la-mật. Người học tập và hiểu về Bát-nhã ba-la-mật càng tăng thêm rất nhiều, đạt được sự hiểu biết vô cùng, nhân đó được thành tựu. Do vậy nên phước của người này càng tăng lên rất nhiều.
Lại nữa, này Câu-dực! Người Diêm-phù-lợi đều phát tâm thực hành Vô thượng Chánh đẳng giác không bằng thiện nam, thiện nữ đem quyển kinh Bát-nhã ba-la-mật đưa cho họ bảo chép, giảng dạy về trí tuệ trong đó cho họ học và trao cho họ kinh Bát-nhã ba-la-mật Đại Bồ-tát không thoái chuyển, giải thích trí tuệ trong đó cho họ, phước đó càng tăng lên gấp bội.
Để tam thiên đại thiên quốc độ ở Diêm-phù-lợi qua một bên. Cho đến người trong cõi Phật nhiều như cát sông Hằng đều phát tâm thực hành Vô thượng Chánh đẳng giác, không bằng thiện nam, thiện nữ đem quyển kinh Bát-nhã ba-la-mật đưa cho người bảo chép, dạy cho họ học để nhập vào Trí tuệ, hoặc trao cho họ quyển kinh Bát-nhã bala-mật Đại Bồ-tát không thoái chuyển, giảng dạy cho họ về trí tuệ trong đó, phước của người đó càng tăng thêm rất nhiều.
Lại nữa, này Câu-dực! Với người trong Diêmphù-lợi, đều làm cho họ đều bằng Bồ-tát không thoái chuyển nơi quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, thiện nam, thiện nữ nào vui vẻ dạy cho người thâm nhập vào trong Bát-nhã ba-la-mật, thì thế nào? Câu-dực! Phước đó có nhiều không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Rất nhiều, rất nhiều! Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật dạy:
–Trong số người này nếu có Bồ-tát nói thế này: “Tôi muốn mau thành Phật.” Giả sử muốn mau thành Phật, không bằng người thâm nhập Bát-nhã ba-la-mật, phước của người đó càng tăng gấp bội.
Để tam thiên đại thiên Quốc độ ở Diêm-phù-lợi qua một bên. Cho đến người trong cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, tất cả đều như Bồ-tát không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng giác, người nào dạy thiện nam, thiện nữ thâm nhập Bátnhã ba-la-mật thì thế nào, Câu-dực, phước đó có nhiều không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Rất nhiều, rất nhiều! Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật dạy:
–Có một Bồ-tát nào từ trong đó nói rằng: “Tôi muốn mau thành Phật.” Giả sử muốn mau thành Phật, không bằng người đem kinh Bát-nhã ba-lamật đưa cho người, phước đó nhiều gấp bội.
Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Đúng như vậy. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Người rất an ổn là Đại Bồ-tát, nay được ở gần bên. Người đem y phục, ẩm thực, sàng tòa, ngọa cụ, thuốc men cúng dường, không bằng người đem Bát-nhã ba-la-mật chỉ dạy cho người, phước đó càng nhiều hơn. Vì sao? Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Vì người đó đã đắc Bát-nhã ba-la-mật, nên nay được ngồi gần Phật.
Ngài Tu-bồ-đề bảo Thích Đề-hoàn Nhân:
–Lành thay, lành thay! Này Câu-dực! Ngay trong hàng đệ tử, Đại Bồ-tát tôn quý nhất mới thấy được như vậy. Các hàng Thanh văn nhân đây mà được thành tựu. Hàng Thanh văn không cầu Phật đạo, Đại Bồ-tát không nên ở trong đó học sáu Bala-mật. Người không học pháp này thì không được thành Phật. Người học theo pháp như vậy thì mau thành Vô thượng Chánh giác, liền được thành Phật.
Bấy giờ Bồ-tát Di-lặc bảo Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát nào khuyến trợ người làm phước, ra vào bố thí trì giới, coi việc làm đó là trên hết, phước đó càng tăng thêm rất nhiều, không có phước nào hơn phước của Đại Bồ-tát khuyến trợ. Ngài Tu-bồ-đề thưa Bồ-tát Di-lặc:
–Lại có Đại Bồ-tát đã tạo công đức ở vô lượng, vô số quốc độ chư Phật. Không thể tính đếm số Đức Phật ở từng cõi một, sự Bát-niết-bàn của các Ngài, chính là từ khi các Ngài phát tâm đến nay, tự mình đạt đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành Bậc Đẳng Giác tột bậc, cho đến cõi Vô dư Niết-bàn mà Bát-niết-bàn. Sau đó, đến như pháp diệt tận, thế là các Ngài ở trong cõi ấy mà tạo ra công đức; công đức độ sinh của Ngài là không có chỗ tận cùng. Cho đến đối với hàng Thanh văn làm các việc bố thí, giữ giới, tự các Ngài trông nom để cho phúc tử công đức hữu dư đạt đến vô dư. Nếu như các Đức Phật Bát-niết-bàn, thì ở trong đó các Ngài tạo ra công đức, cho đến khi có thân giới hạnh thanh tịnh, thân Tam-muội, thân trí tuệ, thân giải thoát, thân giải thoát tri kiến. Phật pháp rất từ bi, không thể so lường được tâm Phật. Pháp mà Đức Thiên Trung Thiên thuyết ra, học những công đức trong pháp đó, đến khi chư Phật Bát-niết-bàn, pháp đó tạo được công đức nên muốn làm điều gì thực hiện được hết.
Khuyến trợ là tôn quý, là cùng tột trong các đức. Khuyến trợ để đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, do đây thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Người đặt mình vào hàng Bồ-tát như thế, giữ tâm luôn làm việc này để cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do tâm cầu giác ngộ mới phát tâm làm việc này và cầu đạt cho được.
Bồ-tát Di-lặc bảo Tu-bồ-đề:
–Người không cầu như vậy mới đắc. Người phát sinh ý nghĩ này là vì không thông tuệ. Vì phát sinh ý nghĩ đó nên tư tưởng bị thoái thất, đức tin bị thoái thất. Do vì không thông tuệ nên rơi trở lại trong bốn điên đảo, đó là: Vô thường cho thường, khổ cho là vui, không cho là thật, không có thân cho là có thân. Do đó nên tư tưởng bị thoái thất, đức tin bị thoái thất. Bồ-tát không nên phát tâm như vậy, nếu có tìm cầu thì nên tìm cầu chỗ không có chỗ.
Ngài Tu-bồ-đề hỏi:
–Thế nào là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Bồ-tát Di-lặc bảo Tu-bồ-đề:
–Không nên nói những điều này trước Bồ-tát mới học. Vì sao? Người làm cho họ quên mất đức tin, quên mất sở thích, quên vui vẻ, quên thực hành, liền từ đó bị sa đọa.
Người nào sẽ vì Đại Bồ-tát này thuyết cho họ nghe? Người ở bên thầy tốt sẽ vì những Bồ-tát này thuyết cho họ nghe. Người không sợ hãi, Đại Bồtát này sẽ luôn khuyến trợ họ làm phước để thành tựu Nhất thiết trí. Với tâm làm việc khuyến trợ, tâm đó cũng diệt luôn, không còn sở hữu sở kiến. Những tâm như thế nào sẽ trở thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Nên vận dụng tâm như thế nào để tâm không còn đối đãi? Tự thể của tâm mới làm được.
Thích Đề-hoàn Nhân thưa Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát tân học nghe việc này thì có vị khiếp sợ. Nếu Đại Bồ-tát muốn tạo công đức thì nên làm thế nào để khuyến trợ họ làm phước này?
Để họ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Tu-bồ-đề thưa Bồ-tát Di-lặc:
–Nên làm việc ủng hộ chư Phật, phá dẹp những xấu ác để đoạn trừ ái dục, mọi việc làm đều như nhau. Dẹp trừ việc ma, vứt bỏ gánh nặng tức là từ nơi sự tinh tấn của mình thì biết rõ hết tất cả, để tâm được giải thoát, không còn so lường. Từ vô số các cõi nước chư Phật đã Bát-niết-bàn, các công đức tạo phước trong đó và công đức tạo phước trong hành Thanh văn nên muốn làm việc gì cũng đều thực hiện được hết.
Khuyến trợ là tôn quý nhất. Trong tất cả các công đức thì không gì hơn khuyến trợ. Người khuyến trợ luôn làm việc khuyến trợ. Khuyến trợ để trở thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Chỗ nào là chỗ Đại Bồ-tát thoái thất tư tưởng, thoái thất đức tin?
Giả sử Đại Bồ-tát giữ tâm trở thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhưng không nghĩ nhớ tâm đó, đó là tâm của Đại Bồ-tát Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Giả sử tâm có nhớ nghĩ và biết rõ thì đó là tâm thoái thất, tư tưởng thoái thất. Giả sử tâm nghĩ nhớ lại biết rõ tâm này, do hành động như vậy nên có tư tưởng thoái thất, đức tin thoái thất.
Giả sử Đại Bồ-tát đem tâm rõ biết cho đó là hiểu biết tất cả, nên biết tâm nào có tạo, nên biết rõ tâm đó.
Tâm pháp ở chỗ nào? Ở ngay nơi pháp có tạo tác.
Như pháp là sau khi học theo pháp rồi chân thật thực hành, đó là làm đúng, là chỗ Đại Bồ-tát đã làm.
Đại Bồ-tát nào ở chỗ chư Phật quá khứ. vị lai, hiện tại đã tạo công đức, hoặc là ở trong các hàng Thanh văn cho đến phàm phu đã tạo công đức, hoặc súc sinh nghe pháp và chư Thiên, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Mahầu-lặc, loài người hoặc chẳng phải người và người mới học đạo Bồ-tát nghe pháp, phát tâm tạo công đức, biết hết tất cả, không còn tích chứa, phân biệt là trên hết.
Người khuyến trợ luôn làm việc khuyến trợ, vì đó là tôn quý nhất. Trong tất cả các công đức, không gì hơn khuyến trợ. Do vậy, người khuyến trợ sẽ khuyến trợ và luôn làm việc khuyến trợ. Nhờ phước đó trở thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Giả sử có pháp như vậy bị diệt tận, ngay nơi pháp đó không sinh cũng không diệt pháp, không có chỗ nơi chốn, pháp không có chỗ sinh ra, trở thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là pháp không rõ pháp, là trái với việc trở thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên đó là tư tưởng không thoái thất, tâm không thoái thất, đức tin không thoái thất. Với hành động không mong cầu như vậy thì đạt hết tất cả. Đó là chỗ làm của Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Đại Bồ-tát nào không hiểu biết rõ ràng đúng đắn mà làm phước đức, là vì lẽ gì? Vì Bồ-tát ngay nơi thân thấy không chính xác, đối với việc khuyến trợ làm phước cũng thấy không chính xác. Bồ-tát biết rõ thấy không chính xác, không sở hữu, cho nên Bồ-tát tu Bát-nhã ba-la-mật mà làm công đức đối với Niết-bàn của chư Phật. Đem công đức này muốn cầu việc gì, vị ấy biết rằng mình có thể làm được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Chỗ chư Phật Thiên Trung Thiên dính mắc là không dính mắc “tưởng”. Quá khứ đã diệt cũng không còn có tưởng, nhưng không tạo tưởng. Người tạo tưởng là trái với đạo đức của Đại Bồtát. Không nên học phương tiện thắng trí, phương tiện thiện xảo. Người chưa đắc Bát-nhã ba-la-mật không được vào. Người đắc Bát-nhã ba-la-mật mới được vào. Không nên cho rằng hành động của thân và sự hiểu biết của thức đưa đến diệt độ, bởi vì không có thân. Thân người có đức, có vọng tưởng như vậy liền bị trở ngại, trở lại muốn khổ vì trụ vào Như Lai Đẳng Chánh Giác nên không học theo cái đức này để khuyến trợ người. Vì sao? Vì do bất chánh vậy. Vì chấp vào Niết-bàn cho nên có vọng tưởng, do đó nên có trở ngại. Công đức tạo được không thể sánh kịp, trở lại muốn trụ khổ. Người không tạo ra tưởng này là đức của Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác. Người tạo tưởng này giống như các thứ chất độc. Vì sao? Giả sử có thức ăn tốt, đem thuốc độc bỏ vào trong đó, màu sắc của thức ăn rất đẹp nhưng hương vị không tốt. Người không biết trong thức ăn có chất độc, người ngu ăn thức ăn đó no nê vui vẻ. Ăn vào xong, khi muốn tiêu hóa bị trở ngại cho thân thể rất nhiều. Người không biết đức hạnh rất là khó. Không biết hộ trì, không biết đúng sự việc và cũng không hiểu rõ. Người thực hành công đức như vậy là giống như nói thức ăn có các chất độc bỏ vào.
Thiện nam! Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai giữ gìn thân trì giới, thân thiền định, thân trí tuệ, thân giải thoát, thân giải thoát tri kiến và đối với công đức đã tạo được trong hàng Thanh văn như Phật Thế Tôn đã dạy: “Nếu đã tạo công đức nơi Bích-chi-phật đều nên khuyến trợ họ. Khuyến trợ để đem phước đức này trở thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Người bám chặt lấy hành động của mình vô vọng tưởng, vì vậy nên nói giống các chất độc. Bồ-tát nên học như vậy.
Chỗ nào là công đức của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai? Nên làm thế nào để khuyến trợ làm phước? Để được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Bồ-tát vâng theo lời dạy của Như Lai, đó là tu học trí tuệ, sinh ra công đức tự nhiên của Phật. Và đối với những người nghĩ đến pháp, đem pháp của mình khuyến trợ cho họ làm phước đức, nhân nơi việc khuyến trợ mà đạt đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đại Bồ-tát làm việc như bố thí vậy, không có bố thí nào hơn, quyết định không lìa Như Lai Đẳng Chánh Giác, đều chí thành với những lời Đức Phật dạy.
Lại nữa, Đại Bồ-tát nên làm việc bố thí như vậy, như giữ gìn tịnh giới, thiền định, trí tuệ, giải thoát tri kiến. Không có cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, cũng không có quá khứ, hiện tại, vị lai, cũng không có sở hữu, không có người thí, không có vật thí. Người bố thí như vậy là bố thí đúng như pháp. Pháp cũng không có sở hữu. Người làm bố thí như vậy là vì muốn thành tựu bố thí “không có chất độc”. Người bố thí khác là bố thí ngược lại. Đại Bồ-tát này đã bố thí đúng như pháp.
Kính bạch Thế Tôn! Người biết như vậy tức là bố thí được trở thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Đức Phật dạy:
–Lành thay, lành thay! Tu-bồ-đề! Người làm đúng như Đức Phật dạy, đó chính là Đại Bồ-tát bố thí, tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả nghĩ đến tất cả người trong tam thiên đại thiên quốc độ, không bỏ qua một ai. Là Đại Bồ-tát bố thí đứng hàng đầu, là rất tôn quý. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Người trong tam thiên đại thiên quốc độ trở thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Dạy cho người trong cõi Phật nhiều như cát sông Hằng đều cúng dường Bồ-tát này, cúng dường y phục, ẩm thực, mùng mền, sàng tòa, ngọa cụ, thuốc men chữa bệnh…, cúng dường như vậy trải qua kiếp số như cát sông Hằng, tùy theo chỗ người đó ưa thích mà cúng dường đầy đủ tất cả. Thế nào, Tu-bồ-đề! Phước đó nhiều không?
Tu-bồ-đề thưa:
–Rất nhiều, rất nhiều! Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật dạy:
–Công đức khuyến trợ này được phước vượt hơn ví dụ trên đó, không thể nào tính đếm.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Tùy hỷ và khuyến trợ làm phước đức, cõi Phật như cát sông Hằng cũng không thể nhận hết.
Đức Phật dạy:
–Lành thay, lành thay! Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát nào thọ trì Bát-nhã ba-la-mật, chỗ làm bố thí của vị ấy hơn của người đã bố thí ở trên gấp trăm lần, ngàn lần, vạn lần, ức lần, nhiều ức lần,… do không ai có thể vượt hơn việc làm khuyến trợ bố thí như trên.
Bấy giờ hai vạn Thiên nhân ở trên cõi Tứ Thiên vương thảy đều cúi đầu và mặt lễ sát chân Phật và cùng bạch Phật:
–Kính bạch Đấng Thiên Trung Thiên là Bậc đại thí tột bực! Đại Bồ-tát với phương tiện quyền xảo mới làm được việc bố thí này. Công đức đó rất là tôn quý. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này học Bát-nhã bala-mật và ngay nơi đó khuyến trợ vậy.
Chư Thiên ở trên cõi trời Đao-lợi đem hoa trời tốt đẹp, hương bột, hương đốt, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn cùng các thứ kỹ nhạc cõi trời dâng lên cúng dường làm vui lòng Đức Phật. Cúng dường xong, cùng bạch Phật:
–Kính bạch Đấng Thiên Trung Thiên là Bậc đại thí tột bực! Đại Bồ-tát với phương tiện quyền xảo mới có thể làm việc bố thí này. Công đức của bố thí rất lớn. Vì sao? Vì Bồ-tát này học Bát-nhã bala-mật và ngay nơi đó khuyến trợ vậy.
Chư Thiên ở cõi Diệm thiên đem danh hoa trên trời, đem danh hoa trời tốt đẹp, hương bột, hương ướp, hương đốt, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn, kỹ nhạc vui chơi cõi trời dâng cúng dường Đức Phật. Cúng dường xong, đồng bạch Phật:
–Kính bạch Đấng Thiên Trung Thiên là Bậc đại thí tột bực! Đại Bồ-tát với phương tiện quyền xảo mới có thể làm được việc bố thí này. Công đức của bố thí này rất lớn. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này học Bát-nhã ba-la-mật và ngay nơi đó khuyến trợ.
Chư Thiên ở cõi trời Đâu-suất đem hoa trời, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn và kỹ nhạc vui chơi trên cõi trời dâng cúng dường Đức Phật. Cúng dường xong cùng bạch Phật:
–Kính bạch Đấng Thiên Trung Thiên là Bậc đại thí tột bực! Đại Bồ-tát với phương tiện quyền xảo mới làm được việc bố thí này. Công đức của bố thí này rất lớn. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này học Bát-nhã ba-la-mật và ngay nơi đó khuyến trợ.
Chư Thiên trên cõi trời Ni-ma-la-đề đem hoa trời, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn và kỹ nhạc vui chơi trên cõi trời dâng cúng dường Đức Phật. Cúng dường xong, cùng bạch Phật:
–Kính bạch Đấng Thiên Trung Thiên là Bậc đại thí tột bực! Đại Bồ-tát với phương tiện quyền xảo mới làm được việc bố thí này. Công đức rất là tôn quý. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này học Bát-nhã ba-lamật và ngay nơi đó khuyến trợ.
Chư Thiên trên cõi Ba-la-ni-mật-hòa-đa-bạttrí-thiên đem danh hoa, hương bột, hương ướp, hương xông, lụa là, lọng hoa, cờ phướn và kỹ nhạc vui chơi trên cõi trời dâng cúng dường Đức Phật. Cúng dường xong cùng bạch Phật:
–Kính bạch Đấng Thiên Trung Thiên là Bậc đại thí tột bực! Đại Bồ-tát với phương tiện quyền xảo mới có thể làm được việc bố thí này. Công đức rất lớn. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật và ngay nơi đó khuyến trợ.
Chư Thiên trên cõi trời Phạm ma, và các cõi Phạm Ca-di thiên, Phạm phước lâu thiên, Phạm lợi sản thiên, Lệ thiên, Ba-lợi-đà thiên, Lệ-ba-na thiên, A-phả-hội thiên, Thủ-ha thiên, Ba-lợi-thủ-ha thiên, A-ba-ma-thủ thiên, Thủ-ha-ca thiên, Tỷ-y-phiên-la thiên, A-tỷ-da thiên, Tu-đà-thí thiên, Ni thiên… cho đến chư Thiên trên cõi trời A-ca-nị-tra đều đầu mặt đảnh lễ sát chân Phật, thưa:
–Kính bạch Đấng Thiên Trung Thiên, thật lành thay! Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật làm công đức bố thí rất lớn. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này học Bát-nhã ba-la-mật và ngay nơi đó khuyến trợ.
Đức Phật dạy Thủ-đà:
–Hãy hộ vệ chư Thiên! An trí các Đại Bồ-tát trong tam thiên đại thiên quốc độ và trong cõi Phật nhiều như cát bên bờ sông Hằng đều thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lại có người trong cõi Phật nhiều như cát sông Hằng cùng nhau cúng dường hàng Đại Bồ-tát này. Bố thí y phục, những việc đến đi, cúng dường ngọa cụ, thuốc men chữa bệnh, kiếp số nhiều như cát sông Hằng. Tùy theo chỗ người đó ưa thích đều bố thí đầy đủ. Nếu có người làm những việc hơn đây cũng không sánh kịp Đại Bồ-tát khuyến trợ bố thí, vì chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai thân giữ giới thanh tịnh, thân thiền định, thân trí tuệ, thân giải thoát, thân giải thoát tri kiến và thân các Thanh văn. Công đức đã tạo được trong các thân đó biết hết tất cả cũng không sánh kịp công đức khuyến trợ. Người khuyến trợ, đó là người làm việc rất tôn quý, không ai có thể vượt qua. Làm việc khuyến trợ để trở thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Những điều mà Đấng Thiên Trung Thiên đã dạy thì hoàn toàn phù hợp, điều tôn quý nhất là không gì hơn khuyến trợ. Tùy hỷ tất cả để khuyến trợ. Khuyến trợ xong, Đại Bồ-tát từ nơi đó đắc được những pháp gì?
Đức Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Người đạo đức nên biết pháp quá khứ, vị lai, hiện tại không thủ cũng không xả, cũng không sở tri, cũng không sở đắc. Pháp đó là pháp vô sở sinh, cũng vô sở diệt. Pháp đó không từ đâu sinh ra, cũng chẳng diệt về đâu. Ngay nơi pháp đó hoàn toàn không sinh, pháp đó cũng chẳng diệt về đâu. Ngay nơi pháp như vậy, đều tùy hỷ khuyến trợ. Đó là khuyến trợ. Người làm việc như vậy mau đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Vậy nên, này Tubồ-đề! Đại Bồ-tát khuyến trợ là tôn quý.
Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát ở chỗ chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đã tùy hỷ làm việc bố thí, tùy hỷ khuyến trợ trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ để khuyến trợ họ. Hoan hỷ với sự giải thoát của họ mà khuyến trợ họ. Hoan hỷ với sự giải thoát tri kiến của họ mà khuyến trợ họ. Làm việc hoan hỷ khuyến trợ như vậy, làm cho được giải thoát, đó là bố thí, đó là nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Làm cho họ được giải thoát như vậy là đã giải thoát. Làm cho họ được giải thoát như vậy là hoan hỷ khuyến trợ. Làm cho họ được giải thoát đó là pháp. Thế nên tương lai chưa có người được giải thoát như vậy.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Làm cho rất nhiều cõi nước Phật ngay hiện tại được giải thoát, đó chính là đệ tử của chư Phật. Người làm cho được giải thoát rồi là đệ tử chư Phật quá khứ. Người làm cho hiện nay được giải thoát, đó là đệ tử chư Phật hiện tại. Ngay nơi pháp không trói, không dính, không mở. Pháp như vậy sẽ trở thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì bố thí từ trong đó nên không ai có thể vượt qua, không ai có thể phá hoại.
Đức Phật dạy:
–Thế nên, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát khuyến trợ là tôn quý hơn hết. Như trong cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, Bồ-tát sống lâu kiếp số nhiều như cát sông Hằng, người trong cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, cùng nhau cúng dường tất cả Đại Bồ-tát y phục, ẩm thực, sàng tọa, ngọa cụ, thuốc men trải qua kiếp số nhiều như cát sông Hằng. Này Tu-bồ-đề! Tất cả đều trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn mà không giải đãi, ngay nơi thiền định đắc được Tam-muội gấp trăm, gấp ngàn, gấp vạn, gấp vô số vạn ức lần, không bằng công đức làm phước khuyến trợ. Công đức này rất cao quý, vượt lên trên tất cả.
Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đại trí thành tựu rất nhiều, do Bát-nhã ba-la-mật đâu chẳng phải không có danh tự.
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Bát-nhã ba-la-mật là rất sáng. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Bát-nhã ba-la-mật trừ tối tăm. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Bát-nhã ba-la-mật không dính mắc. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Bát-nhã ba-la-mật rất tôn quý. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Người không có mắt, Bát-nhã ba-la-mật làm cho có mắt. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Người mê mờ, Bát-nhã ba-la-mật chỉ cho họ con đường. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nhất thiết trí tức là Bát-nhã ba-lamật. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Bát-nhã ba-la-mật là mẹ của Đại Bồ-tát. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Không sinh, không diệt tức là Bát-nhã ba-la-mật. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đầy đủ tam chuyển, mười hai hành pháp luân là chuyển Bát-nhã ba-la-mật. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Bát-nhã ba-la-mật là làm cho tất cả những kẻ khốn khổ được hoàn toàn an ổn.
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Bát-nhã bala-mật làm hộ trì trong sinh tử. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Bát-nhã ba-la-mật đối với tất cả các pháp đều tự nhiên. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đại Bồ-tát phải làm thế nào để được trụ trong Bát-nhã ba-la-mật?
Đức Phật dạy Xá-lợi-phất:
–Thế Tôn do trụ Bát-nhã ba-la-mật, người kính tin Phật nên tự quay về Bát-nhã ba-la-mật.
Thích Đề-hoàn Nhân nghĩ: “Tôn giả Xá-lợiphất vì lẽ gì thưa câu hỏi này?” Ngay khi đó, Thích Đề-hoàn Nhân hỏi ngài Xá-lợi-phất:
–Do nguyên nhân nào Tôn giả nêu câu hỏi này? Ngài Xá-lợi-phất bảo Thích Đề-hoàn Nhân:
–Câu-dực! Bát-nhã ba-la-mật là hộ trì Bồ-tát. Nhân việc khuyến trợ làm phước đức tạo nên Nhất thiết trí, hơn việc làm phước của Bồ-tát. Vì người nào Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, giống như người từ lúc mới sinh ra đã bị mù. Nếu có trăm người, ngàn người, vạn người, ngàn vạn người mà không có người ở trước dẫn đường thì những người này muốn đi đến chỗ nào, hoặc muốn vào trong thành, sẽ không biết nên đi như thế nào.
Như vậy, này Câu-dực! Năm pháp Ba-la-mật cũng như người mù không thấy. người lìa Bát-nhã ba-la-mật cũng vậy, muốn vào Nhất thiết trí không biết phải đi như thế nào. Bát-nhã ba-la-mật hộ trì năm pháp Ba-la-mật là cho mắt sáng. Bát-nhã bala-mật là ủng hộ, là làm cho năm pháp Ba-la-mật kia đều có được danh tự.
Ngài Xá-lợi-phất bạch:
–Làm sao để thủ hộ và nhập vào Bát-nhã ba-lamật?
Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:
–Sắc, chẳng thấy chỗ nhập. Thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thấy có chỗ nhập. Xét kỹ năm ấm cũng chẳng thấy chỗ nhập. Đó là thủ hộ Bát-nhã ba-la-mật.
Ngài Xá-lợi-phất thưa:
–Như vậy, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Ngài cho rằng thủ hộ Bát-nhã ba-la-mật, làm người thủ hộ như vậy là để được pháp gì?
Đức Phật dạy Xá-lợi-phất:
–Không thủ hộ, đó là đạt đến thủ hộ pháp, là Bát-nhã ba-la-mật.
Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Bát-nhã ba-la-mật không đạt đến Nhất thiết trí, cũng không thể đạt được, cũng không mong thủ hộ. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đối với sinh tử cũng không có chỗ đạt đến, thì lấy gì để đạt đến?
Đức Phật dạy:
–Không mong đạt, nên đạt.
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Ít có người kịp. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Như Bát-nhã ba-la-mật đối với các pháp, các pháp không sánh, không diệt thì nên trụ ở chỗ nào để vô trụ?
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bồ-tát ngay khi nghĩ như vậy liền lìa Bát-nhã ba-la-mật.
Đức Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Hoặc nếu có nguyên nhân liền nghĩ đến Bátnhã ba-la-mật. Biết Bát-nhã ba-la-mật là không, không có sở hữu, không gần, không xa, nên đó là Bát-nhã ba-la-mật của Đại Bồ-tát.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bát-nhã ba-la-mật tin vào pháp gì?
Đức Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Người có Bát-nhã ba-la-mật là không tin sắc; cũng không tin thọ, tưởng, hành, thức; không tin đạo Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đại Bátnhã ba-la-mật tức Bát-nhã ba-la-mật. Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Làm thế nào để biết Bát-nhã ba-la-mật là từ Bát-nhã Ba-la-mật? Này Tu-bồ-đề! Đối với sắc không lớn không nhỏ, không lấy sắc làm sự chứng đắc. Cũng không bị sắc, thọ, tưởng, hành, thức làm sự chứng đắc. Cũng không lớn không nhỏ. Không lấy thức làm sự chứng đắc, cũng không bị thức làm sự chứng đắc; liền ngay nơi Như Lai Chánh Đẳng Giác đạt được mười loại lực, không còn bị yếu. Nhất thiết trí không rộng không hẹp. Vì sao? Vì biết Nhất thiết trí không rộng không hẹp nên đối với Bát-nhã ba-la-mật không có chỗ thực hành. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật không có nơi chốn. Người nào ngay nơi đó mong cầu, nghĩa là có sở hữu, thì đó là điều rất sai trái. Vì sao? Vì người không từ đâu sinh ra. Bát-nhã ba-la-mật và người đều là tự nhiên. Người không thấy chính xác về Bát-nhã ba-la-mật nên chắc chắn không thể phân biệt. Người cũng không hủy hoại, Bát-nhã ba-la-mật cũng vậy. Người như Bát-nhã ba-lamật, liền đắc Chánh giác. Người cũng có năng lực nên Như Lai cũng thị hiện có năng lực.
Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Bát-nhã ba-la-mật rất sâu xa, rất sâu xa! Đại Bồ-tát nào tin Bát-nhã ba-la-mật, không nói về những lỗi trong đó, cũng không nghi ngờ. Người này từ nơi nào sinh đến đây để hành đạo Bồ-tát? Từ đó đến nay nghe và hiểu được bao nhiêu việc của Bát-nhã bala-mật? Theo chỗ chỉ dạy mà đi vào trong đó.
Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:
–Từ cõi Phật phương khác sinh đến nơi đây. Đại Bồ-tát này ở phương khác đã cúng dường Phật, từng được thọ ký, được nghe Bát-nhã ba-la-mật. Do đây nên được nghe Bát-nhã ba-la-mật và tự nghĩ: Ta như được thấy Phật không khác.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Không thể thấy, nghe Bát-nhã ba-la-mật được không?
Đức Phật dạy:
–Không thể thấy được.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bồ-tát theo học Bát-nhã ba-la-mật rất sâu xa, từ khi thực hành đến nay bao nhiêu người được nghe?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đó không phải là một lớp học đạo, mỗi người đều có tâm cúng dường ngần ấy trăm Đức Phật, ngần ấy ngàn Đức Phật, toàn bộ đều thấy mình đã ở nơi Bát-nhã ba-la-mật, đều thực hành giới pháp thanh tịnh xong, nếu có kẻ ở giữa đại chúng nghe Bát-nhã ba-la-mật mà bỏ đi vì không cung kính pháp của Đại Bồ-tát. Khi Phật thuyết Bát-nhã bala-mật sâu xa, người này bỏ đi không muốn nghe. Vì sao? Vì người này ở đời trước khi nghe Bát-nhã ba-la-mật đã bỏ đi nên cũng không vận dụng thân tâm nghe. Đây là việc làm của hạng người vô tri. Do vì tội này nên nếu nghe Bát-nhã ba-la-mật sâu xa, lại ngăn trở người, không cho họ nói. Người ngăn trở Bát-nhã ba-la-mật là ngăn trở Nhất thiết trí.
Người ngăn trở Nhất thiết trí là ngăn trở Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Vì tội đoạn pháp này, khi chết người ấy đọa vào trong địa ngục Nê-lê, ngần ấy trăm ngàn năm, ngần ấy ngàn ức vạn năm, sẽ chịu bao nhiêu nỗi đau đớn gay gắt ở địa ngục Nêlê không thể nào tả xiết. Tuổi thọ trong địa ngục đó hết rồi thì người ấy chuyển sinh vào trong đại địa ngục Nê-lê ở phương khác. Tuổi thọ ở địa ngục đó lại hết, người ấy lần lượt chuyển đến phương khác rồi sinh trong đại địa ngục Nê-lê.
Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Tội này bị đọa trong năm đường nghịch ác.
Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:
–Tội này dù muốn chỉ rõ cũng không thể đưa ra ví dụ. Nếu khi đọc tụng thâm nhập Bát-nhã bala-mật, tâm người đó nghi ngờ pháp, cũng không chịu học, nghĩ và nói rằng: “Đây chẳng phải là Như Lai thuyết.” Ngăn chận người khác rằng: “Chẳng cần phải học.” Đây là người tự phá hoại mình, lại phá hoại người khác. Tự mình uống thuốc độc, lại bảo người khác uống thuốc độc. Bọn người này là bọn đã tự mình quên mất, lại làm cho người khác quên mất. Chính mình không hiểu biết Bát-nhã bala-mật sâu xa, trở lại phá hoại người khác. Bọn người này không nên gặp họ.
Này Xá-lợi-phất! Không nên cùng với bọn người này cùng ngồi chung, cùng nói chuyện, cùng ăn uống. Vì sao? Vì bọn người này phỉ báng pháp, tự mình ở trong chỗ tối tăm, lại dẫn người khác vào chỗ tối tăm. Người tự uống thuốc độc giết hại mình không khác với người đoạn pháp. Người này nói ra điều gì có người tin, do tin theo lời nói đó, người đó bị tội đồng như nhau không khác. Vì sao? Vì phỉ báng lời Đức Phật dạy. Phỉ báng Bát-nhã ba-la-mật là phỉ báng tất cả pháp.
Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Con nguyện muốn nghe người phỉ báng chịu những hình phạt giống loại nào? Không biết nơi chốn và thân đó lớn thế nào?
Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:
–Người phỉ báng pháp, bỗng dưng được nghe việc này, người này máu từ nơi miệng, mũi liền trào ra, người sợ hãi chết ngất, do đó rất đau đớn. Người nghe những việc đó trong lòng sầu khổ và chết, giống như chặt hoa để giữa trưa, liền bị héo khô.
Ngài Xá-lợi-phất thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Nguyện vì người, xin Thế Tôn dạy những việc đó để cho họ biết thân người đó chịu những hình phạt như thế nào. Nguyện vì người đời sau làm ánh sáng lớn. Người nào được nghe, lo sợ sẽ tự nghĩ: “Ta không thể phỉ báng và đoạn pháp như người kia.” Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:
–Đây là chỉ cho người biết cái rất sáng suốt. Do nhân tạo tội nên thọ thân hình rất xấu xí, ở chỗ rất khổ cực, dơ dáy, hôi hám. Thật tình không thể tả hết. Nỗi thống khổ đó rất nhiều và rất lâu dài. Thiện nam, thiện nữ nghe lời này đủ để không còn dám trở lại phỉ báng.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ chỉ vì nghe những điều người ấy nói ra nên mới đưa đến tội này.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Người ngu si này ở trong pháp của ta là Samôn, trở lại phỉ báng Bát-nhã ba-la-mật, nói rằng: “chẳng phải đạo”. Đó là người ngăn trở Bát-nhã ba-la-mật, ngăn trở Phật, Bồ-tát. Do ngăn trở Phật, Bồ-tát nên bị đoạn dứt Nhất thiết trí Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Người đoạn Nhất thiết trí là đoạn pháp. Người đoạn pháp là đoạn Tỳ-kheo Tăng. Do đoạn Tỳ-kheo nên chịu vô lượng, vô số tội.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Người nào đoạn Bát-nhã ba-la-mật, bị đoạn bao nhiêu việc?
Đức Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Vì ở trong chỗ ma nên thiện nam, thiện nữ này không tin, không ưa. Do hai việc này nên luôn đoạn Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm. Lại nữa, Tubồ-đề! Người đoạn Bát-nhã ba-la-mật lại có bốn việc. Thế nào la bốn việc? Đó là:
1. Nghe theo lời dạy của thầy xấu.
2. Không học theo Bát-nhã ba-la-mật.
3. Không nương theo pháp lớn.
4. Chủ trương việc làm bêu rêu, tìm tòi khuyết điểm của người và tự mình cao ngạo, kiêu mạn.
Đó là bốn việc.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Ít có người tin Bát-nhã ba-la-mật bởi vì họ chẳng hiểu rõ pháp này.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đúng như vậy! Đúng như vậy! Ít có người tin Bát-nhã ba-la-mật bởi vì họ không hiểu pháp này.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Vì lẽ gì ít có người tin Bát-nhã ba-la-mật sâu xa?
Đức Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Sắc không dính, không buộc, không mở. Vì sao? Vì sắc tự nhiên của sắc. Thọ, tưởng, hành, thức không dính, không buộc, không mở. Vì sao? Vì tự thể của thức là thức.
Sắc quá khứ không dính, không buộc, không mở. Vì sao? Vì tự thể của quá khứ vậy. Sắc vị lai không dính, không buộc, không mở. Vì sao? Vì tự thể của sắc vị lai vậy. Sắc hiện tại không dính, không buộc, không mở. Vì sao? Vì tự thể của sắc hiện tại vậy.
Thọ, tưởng, hành, thức không dính, không buộc, không mở. Vì sao? Vì tự thể của sắc quá khứ vậy. Thức tương lai không dính, không buộc, không mở. Vì sao? Vì tự thể của vị lai. Thức hiện tại không dính, không buộc, không mở. Vì sao? Vì tự thể của thức. Vì vậy cho nên, này Tu-bồ-đề! ít có người tin Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Ít có người hiểu Bát-nhã ba-la-mật do vì bỏ qua không học tập.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đúng như vậy! Đúng như vậy! Ít có người hiểu Bát-nhã ba-la-mật vì không gần gũi học tập để đạt đến. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Sắc thanh tịnh, đạo cũng thanh tịnh, nên ta nói sắc thanh tịnh, đạo cũng thanh tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức cũng thanh tịnh nên nói đạo cũng thanh tịnh, vậy nên thức cũng thanh tịnh.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Sắc thanh tịnh, Nhất thiết trí cũng thanh tịnh. Sắc cũng thanh tịnh, thế nên sắc thanh tịnh, Nhất thiết trí cũng thanh tịnh như nhau không khác. Vì vậy nên nói vì không đoạn quá khứ.
Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Thanh tịnh là thậm thâm.
Đức Phật dạy:
–Rất thanh tịnh.
Ngài Xá-lợi-phất thưa:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Rất thanh tịnh, rất trong sáng. Đức Phật dạy:
–Rất thanh tịnh.
Ngài Xá-lợi-phất thưa:
–Thanh tịnh không cấu nhiễm, thanh tịnh không tỳ vết, thanh tịnh không sở hữu, thanh tịnh đối với dục nhưng không dục. Thanh tịnh ngay nơi sắc nhưng không sắc.
Đức Phật dạy:
–Rất thanh tịnh.
Ngài Xá-lợi-phất thưa:
–Không sinh là sắc rất thanh tịnh. Ngay nơi hữu trí mà vô trí, rất thanh tịnh. Ngay nơi trí mà vô trí, rất thanh tịnh. Ngay nơi sắc hữu trí, vô hữu trí rất thanh tịnh. Ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức nhưng hữu trí, vô hữu trí rất thanh tịnh. Bát-nhã ba-la-mật thâm diệu cũng rất thanh tịnh.
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nhất thiết trí không tăng không giảm. Bát-nhã ba-la-mật rất thanh tịnh, không nắm bắt các pháp.
Đức Phật dạy:
–Rất thanh tịnh.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Ngã thanh tịnh, sắc cũng thanh tịnh.
Đức Phật dạy:
–Vốn thanh tịnh.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Cho nên nói ngã thanh tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức cũng thanh tịnh.
Đức Phật dạy:
–Vốn thanh tịnh.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Ngã thanh tịnh, đạo cũng thanh tịnh. Ngã thanh tịnh, Nhất thiết trí cũng thanh tịnh. Ngã thanh tịnh không có đầu mối, ngã thanh tịnh không có ranh giới. Sắc cũng thanh tịnh không ranh giới.
Đức Phật dạy:
–Vốn thanh tịnh.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Ngã không có ranh giới. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không có ranh giới. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, người hiểu biết thanh tịnh tức là Đại Bồ-tát học Đại Bát-nhã ba-la-mật vậy. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Bát-nhã ba-la-mật cũng không ở chỗ này, cũng không ở chỗ kia, cũng không lìa đây, cũng không ở trung gian.
Đức Phật dạy:
–Vốn như vậy.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Đại Bồ-tát biết như vậy là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật. Người có tưởng liền lìa xa Bátnhã ba-la-mật.
Đức Phật dạy:
–Lành thay, lành thay! Tu-bồ-đề! Có danh tự nên có tưởng, do tưởng nên có dính mắc.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Thật khó đạt Bát-nhã ba-la-mật, quyết định an ổn nơi dính mắc.
Ngài Xá-lợi-phất thưa:
–Thưa ngài Tu-bồ-đề! Dính mắc chỗ nào? Ngài Tu-bồ-đề nói:
–Người biết sắc không, đó gọi là dính mắc. Biết thọ, tưởng, hành, thức, đó là dính mắc. Đối với pháp quá khứ biết là pháp quá khứ, đó là dính mắc. Đối với pháp vị lai biết là pháp vị lai, đó là dính mắc. Đối với pháp hiện tại biết là pháp hiện tại, đó là dính mắc. Người biết pháp là được công đức lớn. Phát tâm Bồ-tát là dính mắc.
Thích Đề-hoàn Nhân hỏi ngài Tu-bồ-đề:
–Sao gọi là dính mắc?
Ngài Tu-bồ-đề nói:
–Do tâm biết được. Này Câu-dực! Đem tâm biết này, Bồ-tát cho người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác vốn thanh tịnh luôn có tạo tác. Thiện nam, thiện nữ được Bồ-tát khuyến trợ chỉ dạy để họ trở thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là giảng dạy chánh pháp. Ngay nơi thân tâm không có lỗi, có gieo trồng hạt giống Phật. Thiện nam, thiện nữ này do lìa các sự dính mắc, vì đã vứt bỏ sự tu hành từ đầu cho đến cùng cực.
Đức Phật dạy:
–Lành thay, lành thay! Tu-bồ-đề! Làm cho Đại Bồ-tát biết được nguồn gốc là biết rõ việc dính mắc. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Có việc dính mắc rất sâu xa vi diệu. Nay ta nói rõ việc đó. Hãy lắng nghe kỹ! Lời nói đầu, giữa, cuối đều thiện.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Cúi xin Thế Tôn nói, con ưa thích được nghe. Đức Phật dạy:
–Nếu thiện nam, thiện nữ đối với Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác suy nghĩ nên phát khởi tưởng, theo chỗ nghĩ tưởng cho nên bị dính mắc vào Phật quá khứ, hiện tại, vị lai.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đối với pháp vô dư tùy hỷ khuyến trợ là người khuyến trợ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngay nơi pháp nhưng không có pháp, nên nói không có quá khứ, hiện tại, vị lai. Do vậy không thể có người tạo tác, cũng không thể có tưởng, cũng không thể tạo nhân duyên. Có người không thể thấy, nghe và không thể biết.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nguồn gốc này thanh tịnh thậm thâm.
Đức Phật dạy:
–Vốn thanh tịnh.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Ngày nay con xin quy y Bát-nhã ba-la-mật.
Đức Phật dạy:
–Pháp không tác giả nên được thành Hiện đẳng giác.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Các pháp thật ra không tạo nên Hiện đẳng giác.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Không có pháp đối đãi, vì nó vốn thanh tịnh. Chỉ có một pháp làm thanh tịnh, cũng không có sự tạo tác đối với tất cả.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Thế nên lìa các dính mắc là bỏ sự tu hành từ đầu cho đến cùng cực.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Thật khó hiểu, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật dạy:
–Đúng như vậy! Không có người đắc Hiện đẳng giác.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Bát-nhã ba-la-mật không thể suy tính, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật dạy:
–Đúng như vậy! Tu-bồ-đề! Chẳng phải chỗ tâm có thể biết được.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Vì không có người làm.
Đức Phật dạy:
–Không có người làm nên không dính mắc!
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bồ-tát nên thực hành Bát-nhã ba-la-mật như thế nào?
Đức Phật dạy:
–Không nghĩ mình thực hành thọ, tưởng, hành, thức là thực hành Bát-nhã ba-la-mật, sắc không đầy đủ là sắc, là hành Bát-nhã ba-la-mật. Thọ, tưởng, hành, thức không đầy đủ là hành Bát-nhã ba-la-mật.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Khó kịp. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, ngay nơi dính mắc mà không dính mắc, đó chính thật là không dính mắc.
Đức Phật dạy:
–Không dính mắc sắc là thực hành Bát-nhã bala-mật. Người thực hành không dính mắc thọ, tưởng, hành, thức là hành Bát-nhã ba-la-mật. Đây là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật nơi sắc không dính mắc; ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức không dính mắc.
Đối với đạo Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-nahàm, A-la-hán, Bích-chi-phật cũng không dính mắc. Bởi vì lẽ gì? Bởi vì qua các sự dính mắc, lại từ nơi Nhất thiết trí phát xuất ra nên đó là Bát-nhã ba-la-mật.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Pháp Thế Tôn thuyết thậm thâm khó đạt. Nếu Thế Tôn có thuyết cũng không tăng, không khuyết cũng không giảm.
Đức Phật dạy:
–Đúng như vậy! Đúng như vậy! Này Tu-bồ-đề! Ví như Như Lai trọn đời khen ngợi về không thì không cũng không tăng; hoặc không khen ngợi không thì không cũng không giảm.
Ví như khen ngợi người huyễn thì người huyễn cũng không tăng; không khen ngợi người huyễn thì người huyễn cũng không giảm. Nghe điều tốt cũng không vui, nghe điều xấu cũng không buồn.
Như vậy, này Tu-bồ-đề! Đối với pháp, mỗi người đều đọc tụng, tu học pháp, pháp cũng không tăng không giảm.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Đại Bồ-tát rất khổ nhọc hành trì Bát-nhã bala-mật. Người nào thủ hộ Bát-nhã ba-la-mật thì không giải đãi, không khiếp sợ, không dao động, không thoái lui. Vì sao? Vì người thủ hộ Bát-nhã ba-la-mật là thủ hộ không, nên tất cả mọi người đều làm lễ Đại Bồ-tát, vì Đại Bồ-tát mặc áo giáp đại thệ nguyện, cùng với không mà chiến đấu.
Đại Bồ-tát vì tất cả mọi người nên mặc áo giáp đại thệ nguyện, vì tất cả mọi người nêu lên không. Đại Bồ-tát là người rất dũng mãnh.
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Dùng pháp Không đạt đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được thành Hiện đẳng giác.
Có Tỳ-kheo khác nghĩ: “Ta nên quy y Bát-nhã ba-la-mật vì pháp đó không sinh, cũng không diệt.” Thích Đề-hoàn Nhân hỏi ngài Tu-bồ-đề:
–Bồ-tát theo lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật là dạy những gì?
Ngài Tu-bồ-đề nói:
–Là theo chỗ chỉ dạy về không.
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Chỗ nào là chỗ chỉ dạy không?
Ngài Tu-bồ-đề nói:
–Người muốn yên tịnh, đó là Đại Bồ-tát, là người biết Bát-nhã ba-la-mật.
Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Người lãnh thọ Bát-nhã ba-la-mật phải hộ trì trong thời gian bao lâu?
Ngài Tu-bồ-đề bảo Thích Đề-hoàn Nhân:
–Thế nào, Câu-dực! Ông có thể thấy pháp là cần phải hộ trì hay sao mà ông nói là muốn hộ trì pháp?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Không phải.
Ngài Tu-bồ-đề bảo:
–Người học theo những gì Bát-nhã ba-la-mật chỉ dạy, chính là người đã được pháp hộ trì, là người làm theo pháp. Người hoặc chẳng phải người chắc chắn không thể phá hoại được người này.
Ngài Tu-bồ-đề nói:
–Nếu Đại Bồ-tát hộ trì pháp không là họ đã tập thực hành theo Bát-nhã ba-la-mật. Thế nào, này Câu-dực! Có thể giữ gìn tiếng vang được không?
Thích Đề-hoàn Nhân thưa:
–Không thể.
Ngài Tu-bồ-đề nói:
–Như vậy này Câu-dực! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, pháp đó cũng như tiếng vang. Do biết vậy nên cũng không nhớ nghĩ. Do không nhớ nghĩ tức là thực hành Bát-nhã ba-la-mật.
Nhờ oai thần của Đức Phật, các Tứ Thiên vương, Đế Thích, Phạm thiên và các hàng trời tôn quý trong tam thiên đại thiên quốc độ, tất cả đều đi đến trước chỗ Đức Phật, đảnh lễ Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi cùng đứng qua một bên.
Chư Thiên, Thiên vương, Đế Thích, Phạm thiên nương oai thần của Đức Phật nên đều suy nghĩ: “Ngàn Đức Phật đều tên là Thích-ca Văn, Tỳ-kheo của Phật đều tên là Tu-bồ-đề. Người hỏi Bát-nhã ba-la-mật đều như Thích Đề-hoàn Nhân.”
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Các pháp theo thứ tự của nó, đó là sự trình bày pháp không bị tổn giảm. Các pháp không có đầu mối và tướng của các pháp không chướng ngại, như “không pháp” là không sinh, các pháp có sinh không thể đạt được, đó là pháp sinh nên không thể đắc.
Các Thiên tử cõi Dục, cõi Phạm đồng bạch Phật:
–Tịch tĩnh là đệ tử Phật. Nay Tôn giả Tu-bồ-đề nói tất cả đều không.
Ngài Tu-bồ-đề bảo các Thiên tử:
–Vì đó là theo lời của Như Lai.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Làm thế nào để biết đó là lời dạy của Như Lai? Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Như Lai vốn là không, đó là theo lời dạy của Như Lai. Các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại thảy đều không.
Đức Phật dạy:
–Người theo pháp vốn không là theo lời dạy của Như Lai. Các pháp cũng vốn là không, Như Lai cũng vốn là không. Tất cả vốn là không, hoàn toàn vốn là không. Đó là Tu-bồ-đề đã theo lời Như Lai dạy. Không khác với pháp vốn không, đó là lời Như Lai dạy. Không khác, không có khác theo Như Lai dạy, đó là theo pháp vốn không.
Pháp vốn không, đó là Như Lai. Chỗ an trụ mà Tu-bồ-đề an trụ là theo dạy của Như Lai. Như Như Lai vốn là không, không chướng ngại, các pháp cũng vốn là không, không chướng ngại. Vậy nên Tu-bồ-đề là người vâng theo lời dạy của Như Lai, vì giống như Như Lai vốn là không, nên đối với pháp cũng vốn là không, hoàn toàn vốn là không, giống nhau không khác.
Ngã, cũng không có sự tạo tác. Pháp vốn không, cũng không có sự tạo tác. Tất cả đều vốn là không, lại cũng không phải vốn là không. Như pháp vốn không, vốn là không ngã, cũng như vậy. Tu-bồ-đề là người theo lời Như Lai dạy. Như Như Lai vốn là không, không khác, không có khác. Thế nên các pháp cũng vốn là không, không khác, không có khác. Đó là pháp vốn không của Như Lai, không hư hoại, cũng không mục nát, không thể đắc.
Vậy nên Tu-bồ-đề là người vâng theo lời dạy của Như Lai. Như Lai cùng các pháp đều vốn là không, không khác, cũng chẳng phải không khác. Pháp vốn không cũng không có khác, vốn là không, hoàn toàn vốn là không. Tu-bồ-đề đã vâng theo để đi vào mà không tính toán. Con người cũng không có chỗ đi vào, đó là theo lời dạy của Như Lai.
Như Lai đó vốn là không, cũng không quá khứ, vị lai, hiện tại. Các pháp đều vốn là không, nên cũng không quá khứ, vị lai, hiện tại. Do vậy nên Tu-bồ-đề là người vâng theo lời dạy của Như Lai. Do Như Lai vốn không, liền nói Như Lai dạy. Như Lai vốn là không, vị lai cũng vốn là không, quá khứ cũng vốn là không, hiện tại cũng vốn là không. Do quá khứ vốn là không, nên Như Lai dạy đó đều vốn là không. Do vị lai vốn là không, nên Như Lai dạy đó đề vốn là không. Do hiện tại vốn là không, nên Như Lai dạy đó đều vốn là không. Do quá khứ, vị lai, hiện tại vốn là không, nên Như Lai dạy đó đều vốn là không. Do quá khứ, vị lai, hiện tại vốn là không, nên Như Lai dạy đó đều vốn là không, chúng giống nhau không khác.
Như các pháp vốn là không, vậy nên, này Tubồ-đề! Chúng giống nhau không khác. Vì theo Như Lai dạy, chúng giống nhau không khác. Đó là vốn không của chân nghinh thỉnh đạt đến Hiện đẳng giác. Cũng đều vốn không giống nhau. Do vốn là không nên liền được tên hiệu Như Lai vốn là không.
Đất liền chấn động sáu cách. Như Lai nhân nơi pháp vốn là không này mà được thành tựu. Thế nên Tu-bồ-đề là người vâng theo lời dạy của Như Lai.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Vì không theo sắc, vì không theo thọ, tưởng, hành, thức, cũng không theo Tu-đà-hoàn đạo, cũng không theo Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật đạo. Vậy nên Tu-bồ-đề là người vâng theo lời dạy của Như Lai.
Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Pháp vốn không rất sâu xa.
Đức Phật dạy:
–Đúng như vậy! Pháp vốn không thật sự rất sâu xa.
Khi thuyết về pháp vốn không, ba trăm Tỳkheo đều đắc A-la-hán, năm trăm Tỳ-kheo Ni đều đắc Tu-đà-hoàn đạo, năm trăm chư Thiên và người đều đạt được Vô sinh pháp nhẫn, sáu mươi Bồ-tát đều đắc A-la-hán đạo.
Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:
–Các Bồ-tát này đã từng cúng dường năm trăm Đức Phật quá khứ, đã làm việc bố thí, giữ gìn tịnh giới thành tựu nhẫn nhục, tinh tấn và đầy đủ thiền định. Bởi không đắc phương tiện quyền xảo của Bát-nhã ba-la-mật nên tuy là Đại Bồ-tát có đạo ý thể nhập vào Không, Vô tướng, Vô nguyện, vì xa lìa phương tiện quyền xảo, giữa đường đã cho là cứu cánh nên chứng đắc Thanh văn.
Này Xá-lợi-phất! Ví như có con chim lớn, thân của nó hoặc bốn ngàn dặm, hoặc tám ngàn dặm, một vạn hai ngàn dặm, một vạn sáu ngàn dặm, hoặc ba vạn dặm, từ trên trời Đao-lợi muốn đi đến Diêm-phù-đề, nhưng con chim này thì không có cánh để bay, nó bèn từ trên trời Đao-lợi lộn nhào xuống đất. Thế nào, Xá-lợi-phất! Con chim này giữa đường muốn quay trở lại trên trời Đao-lợi có thể được không?
Ngài Xá-lợi-phất thưa:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không thể được!
Đức Phật dạy:
–Con chim này rơi đến cõi Diêm-phù, muốn thân nó không đau đớn, có thể được không?
Ngài Xá-lợi-phất thưa:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Không thể được, con chim này rơi xuống đất, thân nó không thể không bị đau đớn, hoặc là nó sẽ chết, hoặc nó sẽ bị buồn bực cực độ. Vì sao? Vì thân nó rất lớn mà lại không có cánh.
Đức Phật dạy:
–Đúng như vậy! Này Xá-lợi-phất! Giả sử Đại Bồ-tát làm việc bố thí, hộ trì tịnh giới, thành tựu nhẫn nhục, việc làm tinh tấn, thiền định nghiêm túc, phát tâm rất lớn, trải qua kiếp số như cát sông Hằng, muốn độ tất cả thành Vô thượng Bồ-đề, nhưng không có phương tiện quyền xảo của Bátnhã ba-la-mật nên giữa đường bị rơi trở lại địa vị Thanh văn, Bích-chi-phật.
Như vậy, này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát đối với chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai không trì giới, thiền định, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến tuệ, mà trở lại phát sinh tưởng, đó là không giữ giới, thiền định, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến tuệ của Như Lai. Vì không biết lời dạy của Như Lai nên không hiểu không biết, chỉ nghe trên lời nói mà tưởng như vậy. Như điều đã nghe, muốn trở thành Vô thượng Bồ-đề, điều đó không thể nào đạt được, nên giữa đường chứng đắc địa vị Thanh văn, Bích-chi-phật đạo. Vì sao? Vì như vậy là không đắc phương tiện quyền xảo của Bát-nhã ba-la-mật. Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Con nhớ Đức Phật có dạy rằng nếu lìa phương tiện quyền xảo của Bát-nhã ba-la-mật thì không thể đạt đến Vô thượng Bồ-đề. Đại Bồ-tát nào muốn đắc Vô thượng Bồ-đề nên sáng suốt học tập phương tiện quyền xảo của Bát-nhã ba-la-mật.
Các Thiên tử cõi Dục, cõi Sắc đồng bạch Phật: –Bát-nhã ba-la-mật thật sâu xa, khó hiểu, khó rõ, bỗng nhiên không thể đắc được Vô thượng Chánh giác!
Đức Phật bảo các Thiên tử:
–Đúng như vậy! Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm khó hiểu rõ, bỗng chốc không thể đắc Vô thượng Chánh giác.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Bát-nhã ba-la-mật khó hiểu rõ. Nhưng con nghĩ, người có trí tuệ như vậy mới có thể đắc Vô thượng Chánh giác. Vì sao? Vì cũng không ngay nơi đó mà đắc Chánh giác nên nói là “pháp không”, không tạo nên Chánh giác. Do pháp không, nên đối với pháp cũng không thể đắc, sẽ tạo nên Chánh giác, nên các pháp đều không. Ngay nơi các pháp không có sở hữu, đó là pháp ngữ. Không tạo nên Chánh giác nên gọi đó là pháp không, không tạo nên Chánh giác, cũng không đắc Chánh giác. Người nghĩ tất cả pháp đều không, người học theo như vậy. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Bỗng chốc đắc Vô thượng Chánh giác, thành bậc Chánh giác.
Ngài Xá-lợi-phất bảo ngài Tu-bồ-đề:
–Như thầy nói, bỗng chốc đắc Vô thượng Chánh giác, điều đó thật là khó. Vì sao? Vì “không” không nghĩ rằng ta sẽ tạo nên Vô thượng Chánh giác, thành bậc Chánh giác. Pháp như vậy dễ đắc Chánh giác. Vì sao? Vì các Bồ-tát nhiều như cát sông Hằng, làm sao xoay trở lại?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Nên biết như vậy. Không vì bỗng nhiên, khó đắc Vô thượng Chánh giác.
Ngài Tu-bồ-đề hỏi ngài Xá-lợi-phất:
–Do trở lại sắc không, thì có trở thành Vô thượng Chánh giác không?
Đáp:–Thưa không.
Hỏi:–Do trở lại thọ, tưởng, hành, thức không nên trở thành Vô thượng Chánh giác phải không?
Đáp:–Thưa không.
Hỏi:–Có thể có sắc khác đắc pháp thì không trở thành Vô thượng Chánh giác phải không?
Đáp:–Thưa không.
Hỏi:–Có thể có thọ, tưởng, hành, thức khác đắc pháp thì không trở thành Vô thượng Chánh giác phải không?
Đáp:–Thưa không Hỏi:–Sắc vốn không thì không trở thành Vô thượng Chánh giác phải không?
Đáp:–Thưa không.
Hỏi:–Thọ, tưởng, hành, thức thì không trở thành Vô thượng Chánh giác phải không?
Đáp:–Thưa không.
Hỏi:–Thế nào, thưa ngài Xá-lợi-phất! Có thể có sắc khác vốn không, đắc pháp đó thì không trở thành Vô thượng Chánh giác phải không?
Đáp:–Thưa không.
Hỏi:–Có thể có thọ, tưởng, hành, thức khác vốn không, đắc pháp đó thì không trở lại thành Vô thượng Chánh giác phải không?
Đáp:–Thưa không.
Hỏi:–Thế nào, thưa ngài Xá-lợi-phất! Pháp vốn không thì không trở thành Vô thượng Chánh giác phải không?
Đáp:–Thưa không.
Hỏi:–Có thể có pháp vốn không nào khác nữa, đắc pháp đó thì không trở thành Vô thượng Chánh giác phải không?
Đáp:–Thưa không Hỏi:–Giả sử ngay nơi pháp này không đắc, thì pháp nào bị thoái chuyển trở thành Vô thượng Chánh giác?
Ngài Xá-lợi-phất bảo Tu-bồ-đề:
–Pháp như thầy đã thuyết thì không có Bồ-tát được không thoái chuyển.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Bồ-tát là người có ba đức. Đó là Như Lai dạy: Là Phật hành hạnh Bồ-tát không thể kể ba đức trên, như Tu-bồ-đề đã nói.
Phân-nậu-văn-đà-ni-phất thưa ngài Xá-lợiphất:
–Thầy Tu-bồ-đề thuyết Nhất đạo nhưng phải hỏi việc đó.
Ngài Xá-lợi-phất bảo Tu-bồ-đề:
–Thưa ngài Tu-bồ-đề! Tôi muốn hỏi điều mà ngài thuyết về Nhất đạo và hỏi về việc Phật hành Bồ-tát.
Ngài Tu-bồ-đề nói:
–Thế nào, ngài Xá-lợi-phất! Ngay trong pháp vốn không có thể thấy hai đạo, đó là Thanh văn đạo và Bích-chi-phật đạo không?
Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:
–Trong pháp vốn không không thấy được hai việc ấy.
Ngài Tu-bồ-đề nói :
–Thế nào, ngài Xá-lợi-phất! Pháp vốn không là một phải không? Cho nên nói đắc. Nếu Đại Bồ-tát nào nghe pháp vốn không, không giải đãi, thì Đại Bồ-tát này đã thành tựu Bồ-tát.
Đức Phật dạy:
–Lành thay, lành thay! Tu-bồ-đề! Giống như người đã thuyết không khác, là chỗ oai thần chư Phật đạt đến. Đây là pháp vốn không của Đại Bồtát, không có khác. Nếu Bồ-tát nào không giải đãi thì biết đã thành tựu Bồ-tát.
Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Sao gọi là Bồ-tát?
Đức Phật dạy Xá-lợi-phất:
–Chính là người thành tựu Vô thượng Chánh giác vậy.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Sao gọi là Đại Bồ-tát muốn thành tựu? Trụ ở chỗ nào?
Đức Phật dạy:
–Thấy tất cả mọi người đó bình đẳng không khác. Không có ý làm hại, lòng Từ thương xót mọi người như đối với chính mình không khác. Tâm người đó nhu hòa thương xót, không giận hờn, không chướng ngại, không nhiễu loạn, xem mọi người như cha mẹ mình không khác. Đó là chỗ trụ của tâm Bồ-tát, nên học như vậy.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Đại Bồ-tát không thoái chuyển dựa vào hành tướng gì mà biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đối với người phàm và Thanh văn, Bích-chiphật, cho đến địa vị Phật đạo nghe tất cả về pháp vốn không, nhưng không hề lay chuyển, cũng không thay đổi, ngay nơi pháp đó cũng vốn không. Đó là vốn không. Không lay động, đó là vượt qua. Như chỗ đã nghe không thay đổi, cũng không nghi ngờ, cũng không nói đúng, cũng không nói sai. Như pháp vốn không là không mất. Lời nói của người đó không khinh bạc, không nói những việc khác, chỉ nói việc chính đáng. Không dòm ngó việc làm của người khác. Thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy thì biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát không thoái chuyển không có hình tướng và diện mạo của Samôn, Bà-la-môn, rằng đây là Sa-môn, đây là Bàla-môn. Hiểu biết rõ ràng đúng đắn, hoàn toàn không thờ tự lễ bái các vị trời khác, không đem hoa hương dâng lên những vị đó. Thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy, thì biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát không thoái chuyển hoàn toàn không sinh ở những nơi xấu ác, không làm thân phụ nữ. Thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy, thì biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát không thoái chuyển hoàn toàn không xa lìa mười điều lành. Chính mình không giết hại, dạy người không giết hại. Chính mình không trộm cắp, dạy người không trộm cắp. Chính mình không dâm dật, dạy người không dâm dật. Chính mình không hai lưỡi không nói lời hung ác, không nói thêu dệt, không ganh ghét, không tham lam, không si mê. Làm việc làm ngay thẳng đúng đắn, dạy người giữ gìn việc chân chánh. Đó là mười điều lành. Lại ngay trong giấc mộng cũng giữ gìn không mất mười điều lành. Đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển ngay trong giấc mộng cũng thấy mười điều lành. Thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy thì biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát không thoái chuyển đem pháp đã học muốn làm an ổn cho tất cả mọi người, thuyết pháp cho tất cả mọi người nghe. Đó là bố thí pháp, làm cho tất cả mọi người đắc pháp, đó tức là bố thí pháp cho tất cả. Thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy thì biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát không thoái chuyển, dù vua chúa là người hùng trong mọi người, đem trí tuệ hiểu biết của mình nghe thuyết pháp thậm thâm hoàn toàn không nghi ngờ. Không nghi, không nói không tin, lời nói nhu hòa, lời nói dịu dàng, ít ngủ nghỉ, ra vào lui tới tâm không tán loạn, bước đi an nhàn thư thả, giở chân cất bước chọn chỗ đặt chân. Và trong y phục, mùng mền không có rận rệp, luôn luôn sạch sẽ. Cũng không lo buồn; trong thân không có tám mươi loại vi trùng. Vì lẽ gì? Vì Đại Bồ-tát này đã có công đức vượt lên trên công đức xuất thế gian, dần dà nếu muốn cho công đức đó được thành tựu viên mãn và tăng thêm lên thì thân của người ấy thanh tịnh và tâm cũng thanh tịnh.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Sao gọi là tâm Đại Bồ-tát thanh tịnh? Nên làm thế nào để biết?
Đức Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Công đức Đại Bồ-tát đã tạo càng tăng thêm rất nhiều, dần dần vượt lên tột bực. Tâm Bồ-tát tự tại không ngăn ngại. Công đức đò đều nhờ tâm nên thanh tịnh. Vượt lên địa vị Thanh văn, Bích-chiphật đạo, đó là tâm Đại Bồ-tát thanh tịnh. Thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy thì biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát không thoái chuyển không mong cầu tiền của, vật dụng, nếu ra làm việc cúng dường thì không keo kiệt xan tham. Khi thuyết pháp thậm thâm không mỏi mệt, thực hành theo điều mình hiểu. Có người muốn nghe pháp thậm thâm, liền đem Bát-nhã ba-la-mật giảng thuyết cho họ. Có ra làm việc với ngoại đạo hoặc việc thế gian, đem Bát-nhã ba-la-mật làm chủ yếu, vì muốn cho họ đi theo con đường chính. Nếu người ấy không hiểu thì Bồ-tát đem Bát-nhã ba-lamật giải thích cho họ. Thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy thì biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Người này đến chỗ nào, ác ma liền đến chỗ đó hóa làm tám địa ngục lớn, trong mỗi địa ngục hóa ra vô số trăm ngàn Bồ-tát liền chỉ thị rằng: “Những người này đều đã được Phật thọ ký rồi, đều là không thoái chuyển, nay đều đọa vào trong địa ngục cũng đều là do Phật thọ ký. Giả sử người nào được Tôn giả thọ ký là không thoái chuyển rồi, nên mau ăn năn rằng: “Ta không phải là không thoái chuyển.” Giả sử người nào nói như vậy, liền không đọa vào địa ngục, sẽ được sinh lên cõi trời.”
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Giả sử tâm người này không lay động, đó chính là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Đức Phật dạy:
–Những lời ta dạy không sai khác. Giả sử người đó sinh đến chỗ xấu xa thì lời Đức Phật dạy có sai khác. Thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy thì biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ác ma hóa làm Sa-môn hoặc dùng y phục Sa-môn mặc vào, đến chỗ Đại Bồ-tát bảo: “Nếu người nào trước đã từ nơi ta được nghe, từ nơi ta được lãnh thọ, nay bỏ hết không dùng, hoặc nay sẽ tự ăn năn lỗi đó, hoặc nhanh chóng ăn năn theo lời ta dạy. Ta ngày ngày đi đến hỏi han. Nếu giả sử không vâng theo lời ta, quyết định không trở lại gặp gỡ. Nếu người không nói lời này chẳng phải lời Đức Phật dạy, đây đều là của ngoại đạo làm ra. Nay lời nói của ta chính là Phật đã dạy.”
Đức Phật dạy:
–Người nghe những lời này mà lay động, nên biết đó là người không được Đức Phật quá khứ thọ ký, được cất nhắc lên từ Đại Bồ-tát. Có nhiều Đại Bồ-tát chưa đến được địa vị không thoái chuyển, giả sử không lay động, nghĩ đến pháp không có sinh tử, nghĩ không có sinh tử, tin lời người khác nói, ví như Tỳ-kheo đắc A-la-hán, không nghe theo lời nói của người khác, trong giấc ngủ được thấy pháp, lấy đó để làm chứng, đó là không sở hữu, hoàn toàn không lay động. Như pháp mà địa vị Thanh văn, Bích-chi-phật đạo đã nghĩ đến, những pháp không có thoái thất. Thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy thì biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ác ma đi đến chỗ của Đại Bồ-tát hóa làm người khác nói: “Nếu có tìm cầu rất siêng năng thì chẳng phải hạnh Nhất thiết trí. Nếu dốc sức gánh vác là làm một cách khổ nhọc cần cù, hoặc nhờ vào sự khổ nhọc để làm. Không nên nhàm chán thoái lui. Nên dựa vào cái gì để tìm thân này? Người vì sao không sớm giữ lấy đại vị
La-hán mà mong cầu làm Phật?” Đức Phật dạy:
–Giả sử người không lay động, ác ma lại bỏ đi, trở lại tìm phương kế hóa làm bao nhiêu Bồ-tát đứng ở một bên, lại nói lời chỉ dạy như vầy: “Ngươi thấy Bồ-tát này không? Đều cúng dường tất cả Đức Phật như cát sông Hằng, cúng dường đầy đủ tất cả y phục, ẩm thực, sàng tòa, ngọa cụ, thuốc men, đều ở chỗ các Đức Phật nhiều như cát sông Hằng thực hành giữ giới thanh tịnh đã học, thực hành theo điều học được bằng trí tuệ. Điều họ mong cầu là học hết tất cả và sống đúng như pháp. Vậy mà đến nay đều không thể đắc Vô thượng Chánh giác. Học như vậy xong, lãnh thọ như vậy xong, thực hành như vậy xong mà không thể đắc Nhất thiết trí, huống là người muốn đắc Vô thượng Chánh giác thế nào được?” Đức Phật dạy:
–Giả sử người này không lay động, ác ma liền lui đi, lại hóa làm Tỳ-kheo nói những lời thế này: “Đây đều là La-hán, đời quá khứ đều thực hành đạo Bồ-tát, nay chứng quả La-hán, mà nay còn làm Tỳ-kheo như đây, thì người sẽ từ chỗ nào đắc Vô thượng Chánh giác?” Đức Phật dạy:
–Đại Bồ-tát này tuy từ người khác nghe những lời này, tiếp tục tu hành, tâm không lay động, cũng không có tâm khác, biết rõ đó là ma làm.
Đức Phật dạy:
–Người nào học Bát-nhã ba-la-mật, thực hành theo đó không đắc Nhất thiết trí thì sẽ từ chỗ nào để đắc? Những lời Đức Phật dạy là không sai khác. Học như vậy, thực hành như vậy, như Bát-nhã bala-mật, tâm không lay động. Giả sử không đắc Nhất thiết trí thì lời Đức Phật dạy là có sai khác. Những lời Đức Phật dạy hoàn toàn không hư dối, Đại Bồ-tát nên học như vậy. Thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy thì biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ác ma đi đến chỗ Bồtát không thoái chuyển nói lên lời rõ ràng rằng: “Nhất thiết trí như hư không. Pháp này không thể đạt ranh giới, pháp này không thể không có chỗ tận cùng để có thể đắc. Vì sao? Vì không có không thoái chuyển, cũng không đắc Phật Chánh giác. Nay được nhìn thấy pháp này, đều là hư dối, đều là trống không, chỗ làm của người chỉ là khổ nhọc, không giác tri ngay, đây là ma làm, làm sao muốn đắc Vô thượng Chánh giác? Đây chẳng phải là Phật thuyết.”
Đức Phật dạy;
–Thiện nam, thiện nữ này nên biết như vậy, nên nghĩ đây là việc làm của ma. Tâm người đó ngay thẳng, không lay động. Thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy thì biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát không thoái chuyển muốn tu đệ Nhất thiền, đệ Nhị thiền, đệ Tam cho đến đệ Tứ thiền, Tam-ma-việt. Thuận theo bốn Thiền nhưng không lựa chọn tầng thiền nào trong Tứ thiền, đó là định, là sự ham muốn của người đó. Thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy thì biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát không thoái chuyển không mong cầu danh tự hoặc lời nói khen ngợi, không nghĩ đến dục. Tâm người đó rộng lớn, chỉ nghĩ đến tất cả, làm cho tất cả được an ổn. Đi, đứng, nằm, ngồi tâm không tán loạn. Ra vào ý tứ, cung kính chí thành. Không mong có thế lực, không dâm dục, buông lung. Nếu dục đến, tự lo sợ cái dục đó. Đối với dục luôn có sự lo sợ. Ví như kẻ nam tử đi ngang qua giữa chốn rừng chằm rộng lớn, mênh mông hiu quạnh, muốn dừng lại nghỉ ngơi ăn uống, lại lo sợ giặc cướp, muốn mau được thoát khỏi chỗ này. Đại Bồ-tát không thoái chuyển cũng như vậy, khi ái dục đến, tự nghĩ đây là việc không nên làm, đây là điều bất chánh, là điếu quấy, chẳng phải là pháp ta nên làm. Cũng không nghĩ đến những việc xấu khác. Vì sao? Vì muốn làm cho tất cả đều được an ổn.
Đức Phật dạy:
–Người nghĩ như vậy đều là nhờ sức oai thần của Bát-nhã ba-la-mật. Thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy, biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Dạ-xoa Hòa-di-la-hoàn thường theo Đại Bồ-tát không thoái chuyển, các quỷ thần khác không dám theo Bồ-tát, hoàn toàn không mất chi. Tâm người đó không tán loạn, thân cũng không phát sinh vọng tưởng. Thân thể hoàn bị, làm người hùng dũng, không dỗ dành phụ nữ của người khác. Người khác làm bùa chú hoặc thuốc độc, người này không làm những việc như vậy. Tự mình không làm, cũng không dạy người khác làm. Đó là Bồ-tát thanh tịnh. Không nói việc của kẻ nam người nữ, vì đó là những điều rất xấu xa. Thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát không thoái chuyển không nhóm họp làm những công việc cùng với người đời, không làm việc cho vua, không làm việc cho giặc, không làm việc cho binh lính, quân trận, không làm việc cho xóm làng, tụ lạc, không làm việc cho thành quách, không làm việc cho thế tục. Cũng không cùng người nữ, không cùng người nam, không cùng ngoại đạo, không làm việc vì thóc lúa, vì rượu chè, không thờ tự, cũng không dùng nhiều màu sắc, không hương, không hoa, không cười cợt, không ăn năn, cũng không lợi dưỡng, không tạo bao nhiêu thứ. Cũng không theo các việc sở hữu mà chỉ dựa theo việc của Bát-nhã ba-la-mật, không lìa Nhất thiết trí, luôn nhớ nghĩ không quên. Cũng không làm việc chiến tranh. Tự giữ gìn pháp, thường làm việc ngay thẳng, không làm việc phi pháp. Thường khen ngợi người hiền, lấy đó làm hàng đầu. Đối với người, thường muốn gây nên sự thắm thiết thân tình chẳng gây ra sự thù oán xấu ác. Chỉ cầu pháp Như Lai, quyết muốn cầu sinh về cõi Phật ở phương khác. Cầu như vậy thì sẽ không sinh về chỗ kia. Do đây nên thường được thấy Phật, lại được cúng dường Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Có người từ cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, khi bỏ nơi đó đi họ sẽ sinh vào vùng giữa đất nước, thân ở trong gia đình hiền lành, hoặc sinh trong hàng thông minh trí tuệ, nói năng lưu loát. Hoặc ở trong gia đình hiểu biết kinh điển, không ưa tham dự việc nhỏ. Có sinh ở chốn biên địa thì sinh trong nước lớn, hoàn toàn không phạm pháp. Thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy thì biết đó là Đại Bồtát không thoái chuyển. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát không thoái chuyển cũng không nói ta là không thoái chuyển, cũng không nghĩ ta là không thoái chuyển, cũng không tự nghi ngờ ta không ở địa vị không thoái chuyển.
Ví như nam tử được địa vị Tu-đà-hoàn đạo, ngay nơi địa vị đó hoàn toàn không nghi ngờ. Việc ma tuy phát sinh liền biết rõ tất cả. Đã phát sinh, không theo mưu kế đó. Đại Bồ-tát không thoái chuyển cũng như vậy. Tự mình ngay nơi địa vị hoàn toàn không nghi ngờ, cũng không giải đãi. Việc ma tuy có phát sinh, liền biết rõ tất cả. Đã phát sinh rồi, không theo mưu kế đó. Ví như nam tử làm việc xấu ác, tâm người đó hoàn toàn không quên, cho đến lúc chết tâm cũng hoàn toàn không thay đổi. Đại Bồ-tát không thoái chuyển hoàn toàn không dời đổi. Tâm an trụ trung chính. Đối với Đại Bồ-tát không thoái chuyển, tâm hoàn toàn không lay động. Nhân gian, thiên thượng hoàn toàn không thể lay chuyển. Việc ma tuy có phát sinh, liền biết rõ tất cả. Đã phát sinh liền không theo mưu kế đó. Ngay nơi địa vị hoàn toàn không nghi ngờ. Cũng không có tâm Thanh văn, Bích-chi-phật, hoàn toàn không nghĩ rằng Phật khó đắc. Địa vị đó an ổn trang nghiêm, vững vàng không có ai hơn. Vì sao? Vì người trụ như vậy không ai có thể vượt qua. Ác ma rất buồn, liền hóa làm Phật, đi đến chỗ người đó bảo rằng: “Người nên chấp nhận quả vị La-hán, thì được Như Lai thọ ký đắc Vô thượng Chánh giác. Vì sao? Vì nếu không làm như vậy thì cũng không chứng đắc. Người có tâm như vậy, đầy đủ hành tướng như vậy có thể thành Đại Bồ-tát mà còn không chứng được Vô thượng Chánh giác, vậy người làm sao mà được thành Phật?” Đức Phật dạy:
–Giả sử tâm Bồ-tát này không lay động thì biết đây là Đại Bồ-tát mà từ quá khứ, Đức Như Lai Ala-hán Đẳng Chánh Giác đã thọ ký rồi. Giả sử có người nghĩ biết ma làm giống như Phật đi đến, nam tử này biết là chẳng phải Phật, đây là ma làm. Người làm việc làm như vậy là để mong địa vị không thoái chuyển. Như Phật đã dạy, việc của ma không có khác. Người thấy rõ như vậy nên suy nghĩ rằng: “Ma vì muốn làm cho ta thoái chuyển.” Đức Phật dạy:
–Giả sử người bất động, đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển đã được Đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác từ quá khứ thọ ký, đã trụ vào địa vị không thoái chuyển. Vì sao? Vì thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy thì biết đó chính là Đại Bồtát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát không thoái chuyển nhờ pháp nên không tham sở hữu, cũng không tiếc mạng sống của mình. Đại Bồ-tát này vì muốn nhận lấy và hộ trì pháp của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Người muốn hộ pháp của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chỉ vì số đông, đây là pháp thọ ký, đây là pháp hộ trì. Nhờ vậy, nên không tiếc vật gì. Cũng không tiếc thân mạng, chưa từng có lúc nào giải đãi, cũng không có mỏi mệt. Vì thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy thì biết đó chính là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Pháp của Đức Như Lai A-la-hán Chánh Đẳng Giác nói ra cho Đại Bồ-tát không thoái chuyển, chưa hề có sự nghi ngờ và cũng không nói điều gì sai trái.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Pháp Như Lai thuyết cũng không có điều nghi ngờ và Ngài không nói sai. Ngài nói pháp cho hàng Thanh văn cũng không có sự nghi ngờ, cũng chẳng nói sai. Pháp của các Thanh văn nói ra ở trong đó cũng không có sự nghi ngờ và cũng chẳng nói sai.
Đức Phật dạy:
–Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vị Đại Bồ-tát ấy đạt được Vô sở tùng sinh pháp lạc nhẫn. Vì thấy vị ấy có đầy đủ hình tướng như vậy, thì biết đó chính là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Thật lành thay! Đại Bồ-tát không thoái chuyển nhờ công đức đạt đến không thoái chuyển nhiều như số cát Hằng để làm tướng ứng hiện. Hôm nay Đức Thiên Trung Thiên thuyết pháp thậm thâm là sự thực hành của Đại Bồ-tát.
Đức Phật dạy:
–Lành thay, lành thay! Này Tu-bồ-đề! Lời nói của ông thật là thậm thâm. Đây tức là Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô sinh tử, vô sở sinh, vô sở hữu, vô sở dục. Đó là Diệt. Niết-bàn là giới hạn.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Niết-bàn là giới hạn, không thuộc về các pháp. Đức Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Các pháp thậm thâm. Vì sao? Vì sắc thậm thâm. Này Tu-bồ-đề! Thọ, tưởng, hành, thức cũng thậm thâm. Ấm cũng thậm thâm như sắc thậm thâm.
Này Tu-bồ-đề! Sao gọi là thọ, tưởng, hành, thức thậm thâm? Có thậm thâm là chẳng phải sắc thậm thâm. Đó là sắc thậm thâm; thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Thức này là thậm thâm.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Thọ, tưởng, hành, thức là luôn luôn theo Niếtbàn thậm thâm. Thậm thâm là Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát tư duy đây là trụ. Như Bát-nhã ba-lamật dạy, vì học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát theo tư tưởng này tư duy, nghĩ về lời dạy như hư không. Thực hành một ngày thậm thâm không thể nói hết. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Đại Bồ-tát này thực hành một ngày thậm thâm thì đẩy lùi được bao nhiêu kiếp sinh tử?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Ví như có một thanh niên rất yêu mến một cô gái xinh đẹp, cùng hẹn hò gặp nhau nhưng cô gái không được tự do để đến gặp. Thế nào, Tu-bồ-đề! Chàng thanh niên này có nhớ đến cô gái kia không? Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Chàng thanh niên này luôn nhớ nghĩ nhớ cô gái không lúc nào quên. Đức Phật dạy:
–Chàng thanh niên này suốt ngày nghĩ đến cô gái kia, tâm anh ta không thay đổi. Đại Bồ-tát nghĩ đến Bát-nhã ba-la-mật, suốt ngày thực hành, đẩy lùi được bao nhiêu kiếp sinh tử. Đại Bồ-tát y theo Bát-nhã ba-la-mật dạy, học tập theo như lời dạy trong đó, suốt ngày nghĩ nhớ thực hành theo thì Bồ-tát này đã đẩy lùi sự xấu xa và diệt trừ tội lỗi. Nếu Đại Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật, cho dù làm việc bố thí số kiếp nhiều như cát sông Hằng, không bằng Đại Bồ-tát vâng theo lời dạy của Bátnhã ba-la-mật, thực hành trong một ngày, công đức của người này vượt lên trên công đức của người kia.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Nếu Đại Bồ-tát sống lâu kiếp số nhiều như cát sông Hằng, làm việc bố thí cho Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-lahán, Bích-chi-phật mà lìa Bát-nhã ba-la-mật. Nếu có Đại Bồ-tát vâng theo lời dạy của Bát-nhã ba-lamật thì công đức của Bồ-tát này vượt hơn công đức của Đại Bồ-tát sống lâu kiếp số nhiều như cát sông Hằng làm việc bố thí, trì giới… ở trên. Đại Bồ-tát nào nghĩ đến Bát-nhã ba-la-mật liền thuyết pháp, công đức người đó lại vượt hơn công đức của Bồtát trên nữa.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát này vì đem pháp bố thí nên công đức của Bồ-tát đó lại càng tăng thêm. Nếu Đại Bồ-tát làm việc bố thí pháp, đó là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đại Bồ-tát nào bố thí pháp mà không giữ đúng, công đức của Bồ-tát đó không bằng công đức của Đại Bồ-tát bố thí pháp mà lại giữ đúng. Người nào thọ trì Bátnhã ba-la-mật không lìa giữ đúng, thì công đức của Đại Bồ-tát này rất nhiều.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Tất cả không sinh tử và nếu như có người không lay động? Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Trong hai việc này, công đức nào nhiều hơn?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát đối với phước sinh tử, đối với công đức sinh tử đã thực hành Bát-nhã ba-la-mật, ưa thích không, ưa thích vô sở hữu, ưa thích diệt tận, ưa thích vô sở đắc. Khi nghĩ như vậy là không lìa Bát-nhã ba-la-mật. Ai không lìa Bát-nhã ba-lamật là Đại Bồ-tát đắc vô lượng, vô số công đức không thể tính.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Điều mà Đức Thiên Trung Thiên đã nói, công đức vô lượng, vô số không thể tính có nghĩa gì? Có gì sai biệt chăng?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–A-tăng-kỳ, số đó không cùng tận, không thể tính, không thể lường, hoàn toàn không thể đạt được ranh giới. Vì vậy nên gọi là “vô lượng, vô số không thể tính”.
Ngài Tu-bồ-đề bạch:
–Lời dạy của Phật không thể tính. Sắc cũng không thể tính. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể tính.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Như lời ông đã nói, sắc không thể tính. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể tính.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Sao gọi là không thể tính?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Như hư không cho nên không thể tính. Vô tướng, vô nguyện cho nên nói không thể tính. Như vậy, không thể tính tức là hư không, cũng không khác với pháp.
Đức Phật dạy:
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Ta nói các pháp đều không hay chăng?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Đúng như vậy, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đức Phật thuyết pháp đều là không, không cùng tận.
Đức Phật dạy:
–Đúng như vậy! Này Tu-bồ-đề! Các pháp đều là không, không thể tính, không có từng pháp khác nhau. Có chỗ sai khác phân biệt, có thể đắc, không thể đắc, tức Như Lai, đắc không thể cùng tận, không thể tính kể. Như không, vô tướng, vô nguyện, vô sinh tử, vô sở hữu, không sinh, không diệt, giống như Niết-bàn theo những lời dạy mà ưa thích. Đó là lời Như Lai dạy.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Thật lành thay pháp Thiên Trung Thiên đã dạy! Pháp này thật không thể đạt được. Như con nhớ lời Đức Phật dạy, các pháp cũng không thể đạt được.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đúng như vậy, không thể đạt được hết các pháp. Pháp như hư không cho nên không thể đạt được.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Như Đức Phật dạy vốn không thể đạt được. Cúi xin Đức Phật chỉ dạy về chỗ không thể đạt được đó.
Đức Phật dạy:
–Chẳng phải như Tu-bồ-đề đã nói hay sao? Sáu pháp Ba-la-mật là không thể đạt được, đó là Bố thí không tăng không giảm, Trì giới ba-la-mật, Nhẫn nhục ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền định bala-mật, Trí tuệ ba-la-mật là không tăng không giảm. Đó là sáu pháp Ba-la-mật không tăng không giảm.
Sao gọi là đối với sáu pháp Ba-la-mật không tăng không giảm? Đó là Đại Bồ-tát tự mình đạt đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Do duyên nào Đại Bồ-tát ấy ngồi gần Phật mà không lìa Bát-nhã ba-la-mật, tự đạt đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Như bản thể không thể đạt được, không tăng không giảm. Đại Bồ-tát là người thực hành Bátnhã ba-la-mật với phương tiện quyền xảo không nghĩ tăng giảm của Bố thí ba-la-mật, chỉ vì có danh tự Ba-la-mật: “Đây là Bố thí ba-la-mật, đem vật mình có mà bố thí”, nghĩ đem công đức bố thí này tạo nên Vô thượng Chánh giác, bố thí như Vô thượng Chánh giác. Đại Bồ-tát này là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật. Người hành Bát-nhã bala-mật là phương tiện quyền xảo, không nghĩ tăng giảm của Trì giới ba-la-mật, chỉ vì có danh tự: “Đây là trì giới Ba-la-mật, đây là tâm niệm giữ giới”, đem công đức này bố thí tạo nên Vô thượng Chánh giác, bố thí như Vô thượng Chánh giác. Đại Bồ-tát này là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật; Nhẫn nhục ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền định ba-la-mật cũng vậy. Đại Bồ-tát này là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật phương tiện quyền xảo, không nghĩ tăng giảm của Bát-nhã ba-la-mật, chỉ vì có danh tự. Bởi vì Bát-nhã ba-la-mật tức là phát tâm trí tuệ, đem công đức này bố thí làm nên Vô thượng Chánh giác, bố thí như Vô thượng Chánh giác, là hay làm việc bố thí.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Thế nào là Vô thượng Chánh giác thí?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Pháp vốn không đó là Vô thượng Chánh giác, đó là không tăng, không giảm, thường nghĩ theo đấy, hoàn toàn không lìa thực hành, nay được gần Vô thượng Chánh giác.
Như vậy, này Tu-bồ-đề! Pháp vốn không này không thể đạt được, cũng không tăng không giảm. Suy nghĩ nhớ đến việc này là không mất, đó là Bátnhã ba-la-mật không tăng không giảm. Đại Bồ-tát suy nghĩ nhớ việc này lìa chỗ ngồi Vô thượng Chánh giác.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Đại Bồ-tát giữ gìn tâm niệm ban đầu sẽ gần Vô thượng Chánh giác. Nếu giữ gìn tâm sau gần Vô thượng Chánh giác, tâm đầu, tâm sau cả hai tâm không đối đãi. Tâm sau, tâm đầu, cũng không đối đãi thì những công đức nào phát sinh?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Ví như đốt tim của ngọn đèn thì tim đó làm cho cháy lên ánh sáng ban đầu hay cho ánh sáng ở giai đoạn sau cuối?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Không phải tim đèn cháy lúc đầu mà có ánh sáng, cũng không phải lìa tim đèn cháy lúc đầu mà có ánh sáng. Không phải tim đèn cháy lúc sau mà có ánh sáng, cũng không lìa tim đèn cháy lúc sau mà có ánh sáng.
Đức Phật dạy:
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Đúng như vậy phải không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Đúng như vậy, đúng như vậy! Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật bảo:
–Đại Bồ-tát cũng không phải từ lúc mới phát tâm mà đắc Vô thượng Chánh giác, cũng không phải lìa tâm mới phát mà đắc Vô thượng Chánh giác. Không từ tâm sau mà đắc Vô thượng Chánh giác, cũng không lìa tâm sau đắc Vô thượng Chánh giác.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nhân duyên rất sâu xa. Đại Bồ-tát không dùng tâm ban đầu mà được đắc Vô thượng Chánh giác, Đại Bồtát cũng không lìa tâm ban đầu mà đắc Vô thượng Chánh giác, cũng không dùng tâm sau để đắc Vô thượng Chánh giác, cũng không lìa tâm sau để đắc Vô thượng Chánh giác.
–Thế nào Tu-bồ-đề! Tâm trước bị diệt chăng?
Tâm sau lại sinh chăng?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Không phải như vậy, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Tâm mới sinh ra bị diệt phải không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Pháp đó là pháp diệt, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Nếu pháp đó sẽ bị diệt, lẽ nào có thể diệt hay không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Thưa không, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Có thể trụ như pháp vốn không không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Người nào muốn trụ sẽ như pháp vốn không.
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Giả sử làm cho trụ như pháp vốn không sẽ không có khác phải không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Thưa không, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Pháp vốn không là thậm thâm phải không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Thậm thâm, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Pháp vốn không là hữu tâm phải không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Thưa không, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Có thể có pháp vốn không nào khác mà có tâm hay không?
Ngài Tu-bồ-đề đáp:
–Không, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Pháp vốn không thấy được ý không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Thưa không, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Ai thực hành được như vậy có phải là thực hành sâu xa không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Người thực hành như vậy là không hành. Vì sao? Vì hành như vậy là không thấy hành, vì không thể thấy hành.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật là hành những gì?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Là xét rõ việc làm, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Người xét kỹ việc làm là hành tưởng phải không?
Đáp:
–Thưa không, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát niệm tưởng vì thức phải không?
Đáp:
–Thưa không, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Niệm tưởng vì thức là niệm phải không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Đại Bồ-tát không làm như vậy.
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Không khởi tưởng mà được tương ưng với sự thực hành đầy đủ tất cả Phật pháp thì không phải là hàng Thanh văn phải không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Đại Bồ-tát phương tiện quyền xảo, ngay nơi vô tưởng không tham.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Nếu Đại Bồ-tát ngay trong giấc mộng hướng đến ba niệm giải thoát môn: “Không không, Vô tướng vô tướng, Vô nguyện vô nguyện” Tam-muội này là có tăng trưởng. Bát-nhã độ làm cho ngày đêm tăng trưởng, hoặc ban đêm trong giấc mộng cũng tăng trưởng. Vì sao? Vì Đức Phật đã dạy rằng ngày hay đêm trong giấc mộng đều giống nhau không khác.
Ngài Tu-bồ-đề bảo ngài Xá-lợi-phất:
–Nếu Đại Bồ-tát ban ngày nghĩ đến Bát-nhã bala-mật, ban đêm trong giấc mộng nghĩ đến Bát-nhã ba-la-mật cũng tăng trưởng gấp bội.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi:
–Thế nào, ngài Tu-bồ-đề! Nếu trong giấc mộng có tạo tác, tạo tác ấy có sở hữu hay không?
Đáp:
–Thưa không. Tất cả các pháp thuyết ra cũng như những gì có trong giấc mộng.
Ngài Tu-bồ-đề hỏi ngài Xá-lợi-phất:
–Trong giấc mộng làm việc thiện, thức dậy rất vui, đó tức là tăng trưởng. Nếu làm ác thì không vui, đó tức là giảm.
Ngài Xá-lợi-phất thưa:
–Giả sử trong giấc mộng thấy có giết hại, tâm người đó rất vui, thức dậy nói: “Ta giết rất vui thích.” Như vậy thì thế nào? Ngài Tu-bồ-đề nói:
–Đó là không nói dối, đều có duyên. Tâm không rỗng không, gặp đủ các duyên, hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nghĩ, tình dậy liền biết đó chính là nguyên nhân làm cho tâm người bị dính mắc, liền có sở đắc. Sao gọi là sở đắc? Từ nhân duyên nào chịu tội này? Không từ không có nguyên nhân mà chịu tội này, đều từ nhân duyên sinh ra.
Ngài Xá-lợi-phất thưa:
–Tất cả nhân duyên tạo ra đều là lờ mờ, phảng phất, đều là không mà thôi. Thế nào, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Từ nhân duyên nào mà sinh ra?
Đáp:
–Từ nhân duyên “tưởng” được sinh ra.
Ngài Xá-lợi-phất thưa:
–Đại Bồ-tát làm việc bố thí ngay trong giấc mộng, đem việc bố thí này cùng tạo nên Vô thượng Chánh giác, thì có đem thí này thí hay không?
Ngài Tu-bồ-đề trả lời Xá-lợi-phất:
–Đại Bồ-tát Di-lặc nay ở gần đây, ngài sắp được bổ xứ thành Phật trong sớm chiều, đem câu hỏi này hỏi Di-lặc thì ngài sẽ trả lời cho.
Ngài Xá-lợi-phất bạch Bồ-tát Di-lặc:
–Nay tôi xin hỏi những điều mà Tu-bồ-đề đã nói, Đại Bồ-tát có thể giải thích việc đó.
Bồ-tát Di-lặc bảo ngài Xá-lợi-phất:
–Như tên của tôi là Di-lặc, ngài sẽ giải thích thế nào? Sẽ dùng sắc giải thích hay sẽ dùng thọ, tưởng, hành, thức giải thích? Sắc tức là không sẽ dùng không sở hữu giải thích, hoặc dùng thọ, tưởng, hành, thức giải thích không? Cũng không thấy pháp sẽ giải thích thì chỗ nào để hiểu được. Cũng không thấy pháp giải thích sẽ đắc Vô thượng Chánh giác.
Ngài Xá-lợi-phất bạch Bồ-tát Di-lặc:
–Những điều ngài nói ra là đã chứng đắc.
Bồ-tát Di-lặc bảo ngài Xá-lợi-phất:
–Pháp thuyết ra không nói chứng đắc.
Xá-lợi-phất liền nghĩ: “Bồ-tát Di-lặc đã nhập trí tuệ thậm thâm. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật đến nay đã lâu xa.” Đức Phật dạy:
–Thế nào, Xá-lợi-phất! Có thể thấy người kia trở thành A-la-hán không sắc không?
Ngài Xá-lợi-phất thưa:
–Thưa không, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:
–Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, không nghĩ ta được thọ ký từ pháp này, không từ pháp này được thọ ký, hoặc ngay nơi pháp này sẽ đắc Vô thượng Chánh giác, tự đạt đến bậc Chánh giác. Đại Bồ-tát này làm việc làm như vậy là thực hành Bát-nhã ba-la-mật, không sợ không chứng đắc Hiện đẳng giác. Người theo lời dạy này là thực hành Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồtát này là người không sợ hãi. Vì sao? Vì nếu vị này đi đến trong chỗ cọp sói nhưng không sợ hãi, trong tâm nghĩ rằng: “Giả sử cọp sói ăn nuốt ta, ta sẽ bố thí cho chúng. Đó là thực hành đầy đủ Bố thí ba-la-mật, gần Vô thượng Chánh giác. Nguyện khi ta được thành Phật, làm cho trong cõi đó không có cầm thú.”
Nếu Đại Bồ-tát đi đến trong chỗ giặc giã rất nguy hiểm, cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì giả sử có làm cho vị ấy ngay trong đó bị giết, tâm nghĩ: “Thân ta sẽ phải vứt bỏ, giả sử có giết ta, ta cũng không giận hờn. Đó là thực hành đầy đủ Nhẫn nhục ba-la-mật, sẽ gần Vô thượng Chánh giác. Nguyện khi ta được thành Phật, làm cho nhân dân trong cõi đó không có giặc cướp.”
Nếu Đại Bồ-tát đến chỗ hoàn toàn không có nước uống, cũng không sợ hãi, tâm nghĩ: “Tất cả mọi người đều do không có đức nên khiến cho không có nước uống. Nguyện khi ta được thành Phật, làm cho trong cõi tám nước của ta thường có nước tám vị, làm cho tất cả mọi người đều được uống dùng. Vì người đời nên thường tinh tấn.”
Nếu Đại Bồ-tát đến chỗ lúa thóc khan hiếm đắt đỏ cũng không sợ hãi. Trong tâm nghĩ: “Ta sẽ vững vàng tinh tấn, tự đạt được Vô thượng Chánh giác. Khi thành Chánh Giác, ta làm cho trong cõi nước của ta không có những thứ xấu ác, làm cho mọi người ngay nơi sở nguyện, các thức ăn uống như ở trên trời Đao-lợi hiện ngay trước mặt.” Thiện nam này vì tất cả mọi người nên tinh tấn đạt đến Vô thượng Chánh giác, thành bậc Chánh giác.
Nếu Đại Bồ-tát lúc ở chỗ giặc cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì không thấy có pháp sẽ làm khổ.
Nhờ vậy nên không sợ, nghĩ rằng: “Giả sử thân ta gặp bệnh chết, tâm không thay đổi, quyết tinh tấn. Nguyện khi ta thành Vô thượng Chánh giác, làm cho tất cả mọi người trong nước của ta đều không có sự xấu ác, không có người chết.” Lời nói của Đại Bồ-tát này như lời của Phật không khác.
Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát này không lâu sẽ thành Vô thượng Chánh giác, tự đạt đến bậc Chánh giác. Tự mình đối với pháp cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì từ lâu xa đến nay phát tâm nói lớn rằng: “Không lâu sẽ chứng đạt cứu cánh.” Vì rất lâu xa nhưng chỉ trong phút chốc đã đạt được cứu cánh. Đại Bồ-tát này nay gần Vô thượng Chánh giác, thành bậc Chánh giác. Nghe nói như vậy nhưng không sợ hãi.
Bấy giờ Ưu-bà-di Hằng-giá-điều đứng dậy, đến trước đảnh lễ Đức Phật, quỳ thẳng bạch Phật:
–Con nghe lời này không sợ hãi, chắc chắn sau này vì tất cả mọi người thuyết pháp làm cho mọi người không sợ hãi.
Khi đó Đức Phật mỉm cười, từ trong miệng phóng ra năm sắc hào quang. Ưu-bà-di dùng hoa vàng dâng lên cúng Phật, nhờ oai thần của Phật, hoa đó trụ trên hư không bên chỗ Phật, không rớt xuống đất.
Tôn giả A-nan rời tòa đứng dậy, sửa y phục đến trước Đức Phật đảnh lễ chân Phật, lui quỳ thẳng bạch Phật:
–Đức Như Lai mỉm cười không phải là không có nguyên do, ắt Ngài có điều gì chỉ dạy?
Đức Phật bảo A-nan:
–Ưu-bà-di Hằng-giá-điều này đời vị lai, kiếp tên là Tinh tú, sẽ ở trong kiếp đó thành Phật hiệu là Kim Hoa Phật.
Đức Phật bảo A-nan:
–Vị Ưu-bà-di này đời sau sẽ bỏ thân hình nữ nhân, thọ thân hình nam tử, liền sinh ở nước của Đức Phật A-súc.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Thế nào là không? Không tham nơi hành động? Thế nào là thủ không tức là Tam-muội?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, quán sắc không; quán thọ, tưởng, hành, thức không. Người quán như vậy là nhất tâm. Như chỗ đã quán, đối với pháp cũng không thấy, ngay nơi pháp nhưng không chấp vào sự chứng đắc.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Đức Phật đã dạy không dùng “không” để chấp vào sự chứng đắc. Vậy thế nào là Đại Bồ-tát nay nơi Tam-muội Không dùng không để chấp vào sự chứng đắc?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát này quán tất cả sắc có ra đều là không, cũng không chấp vào sự chứng đắc. Người quán như vậy là không chấp vào sự chứng đắc, không chấp vào sự chứng đắc tức là không tham. Vậy nên quán không tham đó tức là quán. Khi muốn hướng đến việc này nhưng không chấp vào sự chứng đắc, không tham. Lúc đó tâm không nghĩ đến nhân duyên Tam-muội. Như vậy là nghĩ. Bấy giờ vì không mất pháp gốc của Bồ-tát, không chứng đắc giữa đường. Vì sao? Vì pháp công đức đã tạo rất sâu xa. Ngay khi ấy không tham nên không chấp vào sự chứng đắc. Do được thủ hộ từ Bát-nhã ba-la-mật. Ví như có người mạnh mẽ bạo dạn có thể đẩy lùi quân địch, là người đoan chánh khỏe mạnh, làm được tất cả mọi việc, biết tất cả sáu mươi bốn cách biến đổi của binh pháp, hiểu rõ tất cả năm sách về binh, được mọi người cung kính. Ngay nơi chỗ ở hay đi đến chỗ nào đều lợi ích cho tất cả. Từ chỗ sở đắc này lần lượt phân chia cho mọi người. Người có tâm như vậy được mọi người hoan hỷ. Nếu có những sự việc khác cùng cha mẹ, vợ con trải qua tai nạn rất nguy kịch, người đó liền trấn an cha mẹ, vợ con mình rằng: “Chớ có sợ hãi, khủng khiếp! Hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau ra khỏi nạn này.” Nếu ngay trong chỗ đó, quân lính oan gia đến, người này thông tuệ nên ngay khi đó đưa cha mẹ, vợ con mình trở về quê quán được hoàn toàn an ổn, không gặp điều chẳng lành và đối với oan gia cũng không gây thương tổn. Vì sao? Vì nhờ hiểu biết tất cả. Người này dũng mãnh biến hóa hơn oan gia, oan gia thấy người này rất sợ hãi và đều bỏ chạy. Cha mẹ, vợ con người này được ra khỏi chỗ tai nạn, trở về quê quán của mình, tất cả đều rất hoan hỷ.
Như vậy, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát đối với tất cả mọi người có lòng thương rất lớn. Bấy giờ Đại Bồ-tát đem tâm từ ban bố cho tất cả mọi người vượt qua các bè đảng nhơ nhớp của ma, lại vượt lên trên địa vị Thanh văn, Bích-chi-phật đạo, Bồtát an trú ổn định trong Tam-muội nhưng không có chỗ tận cùng. Nhờ Bát-nhã ba-la-mật nên đối với “không” không tham.
Khi làm việc như vậy, Đại Bồ-tát này là người thực hành Tam-muội Không, hướng đến pháp môn giải thoát. Cũng không dùng hữu tướng, không dùng vô tướng, nên không chấp vào sự chứng đắc, giống như chim bay.
Này Tu-bồ-đề! Chim bay giữa hư không không hề chướng ngại. Đại Bồ-tát này là người thực hành Không, đạt đến Vô nguyện, không bị Không, Vô tướng, Vô nguyện làm thoái thất đạo nên sẽ được đầy đủ tất cả các pháp của chư Phật.
Này Tu-bồ-đề! Ví như người bắn tên giỏi bắn lên hư không, mũi tên này ở giữa hư không. Lại lấy mũi tên thứ hai bắn trúng mũi tên trước. Sau lại lấy mũi tên thứ ba bắn trúng mũi tên giữa. Cả ba mũi tên đều trúng nhau nhưng không rơi xuống đất. Người này muốn làm cho mũi tên trước rơi xuống thì cả ba mũi mới rơi. Như vậy, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật vì phương tiện quyền xảo hộ trì, tự mình đối với cứu cánh không chấp vào sự chứng đắc giữa đường, công đức hay thành tựu viên mãn, mong cho tất cả đạt được Vô thượng Chánh giác. Ngay nơi công đức đã thành tựu viên mãn, được thành Phật, có thể chứng đắc cứu cánh. Địa Bồ-tát này là người thực hành Bátnhã ba-la-mật, là pháp ngay nơi pháp có sinh.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Đại Bồ-tát thật khổ nhọc học pháp học này nhưng không chấp vào sự chứng đắc giữa đường. Thật lành thay! Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Từ hạnh gốc là an ổn tự mình đạt thành Phật.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát muốn cứu giúp tất cả mọi người, đây là đạt đến cứu cánh luôn cứu giúp tất cả để được độ thoát, đây là giữ Tam-muội không. Hướng đến môn giải thoát với tâm niệm phân biệt.
Những gì là phân biệt? Chấp chặt nơi Không Tam-muội là phân biệt. Vô tướng Tam-muội là phân biệt. Vô nguyện Tam-muội là phân biệt, nhưng không chấp vào sự chứng đắc giữa đường cho là cứu cánh. Vì sao? Vì được sự thủ hộ của phương tiện quyền xảo. Khi mới phát tâm nghĩ muốn thủ hộ tất cả nên nhờ ý nghĩ này được nhập phương tiện quyền xảo, nên không chấp vào sự chứng đắc giữa đường.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát nào thâm nhập vào chỗ giải thoát hoặc Không Tam-muội hướng đến giải thoát môn, Vô tướng Tam-muội hướng đến giải thoát môn, Vô nguyện Tam-muội hướng đến giải thoát môn, dựa vào đó mà phân biệt, người này đến nay đã trồng nhân ấy rất lâu xa, thì biết rằng việc làm này làm cho bỏ nhân đã gây. Đó là pháp Vô thượng Chánh giác đã thuyết. Đây là giữ Không Tam-muội hướng đến giải thoát môn, giữ Vô tướng Tam-muội hướng đến giải thoát môn, giữ Vô nguyện Tam-muội hướng đến giải thoát môn. Đấy là Vô nguyện Tam-muội hướng đến giải thoát môn, tâm người đó đã phát nhờ phương tiện quyền xảo, không chấp vào sự chứng đắc giữa đường làm cứu cánh. Đấy là đối với lòng Từ không tổn giảm. Đây là Tam-muội Từ, Bi, Hỷ, Xả. Vì sao? Vì nhờ phương tiện quyền xảo, Đại Bồ-tát này được pháp làm lợi ích nên liền được nhiều trí tuệ, thành tựu khả năng biết hết tất cả.
Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát suy nghĩ: “Người này từ lâu xa đến nay đã được pháp, làm cho được lợi ích, đạt được trí tuệ, thành tựu khả năng hiểu biết hết tất cả.”
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đó là Đại Bồ-tát nghĩ và biết mọi người từ xưa đến nay có tưởng có thức, nên cho rằng có ngã. Khi tu Vô thượng Chánh giác, nhờ tất cả mọi người nên vì họ thuyết pháp, đó là làm cho họ tạo nên Tam-muội Vô tướng, phát tâm nghĩ hướng đến giải thoát môn. Đây là phương tiện quyền xảo. Nhờ đây nên không chấp vào sự chứng đắc giữa đường làm cứu cánh. Đây là Tam-muội Từ, Bi, Hỷ, Xả. Đây là Đại Bồ-tát được pháp làm lợi ích, đạt được sự hiểu biết, thành tựu khả năng hiểu biết hết tất cả.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát này nghĩ: “Con người từ lâu xa đến nay tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng không, tưởng hiện tại.” Bồ-tát nghĩ: “Khi ta đạt được Vô thượng Chánh giác là nhờ tất cả mọi người nên ta vì họ thuyết pháp. Vô thường là từ lạc, không là từ hữu, vô ngã là từ ngã.” Nhờ nghĩ như vậy nên đắc phương tiện quyền xảo. Đây là hành Bát-nhã ba-la-mật, biết Phật không Tam-muội mà ngồi Tam-muội, chỉ muốn đầy đủ các pháp của chư Phật. Đó là vô nguyện hướng đến giải thoát môn, nhưng không chấp vào sự chứng đắc.
Đại Bồ-tát nên biết như vậy. Làm thế nào để biết? Dựa vào đâu để phát tâm Vô thượng Chánh giác. Người đã phát tâm là người từ lâu xa đến nay chỗ làm của người đó là không làm. Có hành tưởng mà không hành tưởng. Có hành tưởng tụ mà không hành tưởng tụ. Có hành hữu mà không hành sở hữu. Tuy rằng có làm việc bất chánh nhưng không có ý nghĩ bất chánh, làm cho mọi người đều được “không”. Đại Bồ-tát này nghĩ như vậy là do sáng suốt đối với tất cả mọi người. Khi nghĩ như vậy là phương tiện quyền xảo, đó là vi diệu thậm thâm để thấy được pháp ấy. Vậy nên đó tức là Không, tức là Vô tướng, Vô nguyện. Đó là vô sinh tử, tức là vô sở sinh, là vô sở hữu. Vậy nên Tu-bồ-đề! Là Đại Bồ-tát có pháp trí tuệ, là vô sở sinh. Người này ở trong ba cõi nhưng có những người không biết, đến hỏi: “Đại Bồ-tát này muốn thành tựu Vô thượng Chánh giác, do đó nên muốn biết pháp này: Nên làm thế nào để phát tâm trân bảo?” Đối với Đại Bồtát không lấy không để chấp vào sự chứng đắc, cũng không lấy Vô tướng, Vô nguyện, vô sinh tử, vô sở sinh, cũng không dùng vô niệm để chứng đắc. Đó là niệm Bát-nhã ba-la-mật.
Vậy nên, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát đã được thọ ký, sự suy nghĩ như Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô sinh tử, vô sở sinh. Nghĩ như không có, nó vốn là không. Người không phát thiện tâm không thể biết được việc này. Người có thể hiểu đó là Đại Bồtát, là người từ nơi Phật quá khứ được nghe việc Vô thượng Chánh giác, tâm người đó không thay đổi. Vì sao? Vì lại có Đại Bồ-tát nghĩ đến pháp nhưng không thể sáng suốt. Có người hỏi cũng không thể giải thích cho họ biết. Đây là người chưa từng ở địa vị Bồ-tát đạo, người không ở cảnh giới ấy thì chưa đạt được địa vị không thoái chuyển.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Nếu không nghe Bát-nhã ba-la-mật dạy, có người nghe hoặc không nghe, có thể giải thích về Bát-nhã ba-la-mật này, Đại Bồ-tát này là không thoái chuyển.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bồ-tát như đây rất nhiều, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Ít người có thể hiểu được.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Ít có Bồ-tát ở địa vị Trí tuệ không thoái chuyển hiểu được, mà người được thọ ký mới có thể hiểu được. Đại Bồ-tát này có công đức rất lớn, không phải là điều chư Thiên, Nhân, A-tu-luân ở thế gian hiểu biết được.
Đức Phật dạy:
–Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Thật ra Đại Bồ-tát trong giấc mộng không nhập vào địa vị Thanh văn, Bích-chi-phật đạo. Đối với ba cõi không nghĩ đến việc mong cầu, cũng không ở trong đó tìm tòi. Thấy các pháp như mộng, không ở trong đó chấp vào sự chứng đắc. Vậy nên, này Tu-bồ-đề! Nên biết đó là tướng không thoái chuyển của Đại Bồtát.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát trong giấc mộng thấy vô số người, với ngần ấy trăm đệ tử, ngần ấy ức ngàn đệ tử, cùng ngồi họp ở trong đó mà thuyết pháp cho các Tỳ-kheo Tăng, như Đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác thuyết pháp. Đúng vậy, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát không thoái chuyển nên biết đây là tướng không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát trong giấc mộng thấy mình bay lên ngồi ở giữa hư không thuyết pháp cho các Tỳ-kheo Tăng, tự thấy thân mình có hào quang bảy thước, biến hóa tự tại. Những việc Bồ-tát làm ở chỗ khác giống như pháp Phật đã thuyết. Vị ấy trong giấc mộng thấy như vậy nên biết đó là tướng không thoái chuyển của Đại Bồ-tát.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát trong giấc mộng không sợ hãi tai nạn khủng bố, hoặc thấy ở chỗ quận huyện binh lính nổi lên lần lượt chém giết nhau, hoặc thấy lửa cháy bùng lên, hoặc thấy sư tử, cọp sói và các loài thú khác, hoặc thấy chặt đầu người và các việc tai biến khác đau khổ kịch liệt, rất khốn đốn hoặc là đói khát… Thấy những ách nạn như vậy, trong tâm không sợ hãi, khủng khiếp, dao động. Những gì thấy trong giấc mộng ban đêm, thức dậy, ngồi ngay ngắn nghĩ: “Những gì có ra trên thế gian đều giống như trong giấc mộng. Khi ta thành Phật sẽ thuyết pháp để dạy cho khắp tất cả.” Nên biết đây là tướng không thoái chuyển của Đại Bồ-tát.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Làm sao để biết được Đại Bồ-tát này sẽ đắc Vô thượng Chánh giác? Khi thành bậc Chánh giác, trong cảnh giới của các Ngài không có tất cả những việc xấu. Chính đó là Đại Bồ-tát.
Này Tu-bồ-đề! Trong giấc mộng, nếu thấy súc sinh ăn nuốt lẫn nhau, nhân dân bệnh tật, tâm của người ấy dần dà có sự suy nghĩ: “Nguyện khi ta thành Phật làm cho cảnh giới của ta không có tất cả những việc xấu.” Nhờ đây nên biết đó là tướng của Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát ngay trong giấc mộng biết được hoặc thấy tai nạn bị lửa đốt cháy, liền nghĩ: “Những điều đã thấy trong giấc mộng, tâm ta không thay đổi.” Người có đầy đủ tướng như vậy, thì nên biết đây là Đại Bồ-tát không thoái chuyển. Nếu Đại Bồ-tát nghĩ: “Như ta suy nghĩ việc cần phải làm thêm nên làm thêm, đúng như lời đã nói không thay đổi. Nay thành quách này bị lửa đốt cháy, ta sẽ làm cho dập tắt hết.”
Đức Phật dạy:
–Nếu lửa được dập tắt hết không còn, thì nên biết đây là Đại Bồ-tát đã được các Đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác quá khứ thọ ký thành Vô thượng Chánh giác, biết đây là bậc không thoái chuyển. Làm cho lửa không tắt thì biết đây là Bồtát chưa được thọ ký. Giả sử lửa đốt cháy một nhà đến một nhà, lại cháy lan qua một làng đến một làng. Như vậy, này Tu-bồ-đề nên biết người ở nhà nào trong đời trước vì mắc tội đoạn pháp nên đưa đến như vậy, biết việc làm của bọn người này đều là do đời trước. Nghĩ xong, ngay hiện tại những ác đã tạo liền được trừ hết. Những tai nạn về đoạn pháp ở chỗ đó nhân đấy được dứt hết. Nhờ vậy, nên này Tu-bồ-đề! Nên biết đây là Đại Bồ-tát không thoái chuyển nơi quả vị Vô thượng Bồ-đề.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Người với đầy đủ tướng hành tướng như vậy, thì nên xem vị Đại Bồtát ấy giống như là bậc không thoái chuyển. Do đây nên nói rằng với hành tướng như vậy sẽ biết được người này.
Này Tu-bồ-đề! Hoặc khi nam tử, nữ nhân bị quỷ thần đến chỗ ở hoặc là đến bắt, vị Bồ-tát kia nghĩ: “Giả sử ta được Đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác quá khứ thọ ký ta thành Vô thượng Bồ-đề, thật khổ nhọc không khác, sẽ đắc Vô thượng Bồ-đề. Người đối với ý nghĩ về Vô thượng Bồ-đề đều thanh tịnh thì từ bỏ tâm La-hán, Bíchchi-phật. Giả sử đã bỏ tâm La-hán, Bích-chi-phật, chắc chắn sẽ thành Vô thượng Bồ-đề. Không đắc, không thành, tự tại đến Hiện Đẳng Giác. Nếu sẽ thành Phật là Bậc Vô thượng Chánh giác thì chư Phật hiện tại ở vô lượng, vô số cõi nước, không ai là không thấy, không ai là không chứng. Nay Đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác biết hết ý nghĩ của ta không khác. Ta xem xét Bậc Hiện Đẳng Giác thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, quả đúng như lời ta nói, quỷ thần ấy sẽ lập tức rút lui.” Thiện nam, thiện nữ bị quỷ thần nào bắt thì quỷ thần đó nghe lời nói liền rút lui. Khi nói lời như vậy, giả sử quỷ thần không rút lui thì Bồ-tát này là người chưa được Đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác quá khứ thọ ký, chưa trao Vô thượng Bồ-đề. Nếu nói lời này, tà ma liền rút lui thì biết đây là Bồ-tát đã được Đức Như Lai A-lahán Đẳng Chánh Giác quá khứ thọ ký, trao cho Vô thượng Bồ-đề.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Người ấy quả là rất thành tâm. Khi ác ma đi đến chỗ Đại Bồ-tát, nếu Bồ-tát nói rằng ta chí thành và đã được thọ ký thành Vô thượng Bồ-đề, ác ma quỷ thần sẽ bỏ đi. Ác ma do đây nên phát tâm tốt. Vị ấy giáo hóa làm cho ác ma quỷ thần đó lui hết. Vì sao? Vì ác ma có oai thần rất lớn nên các quỷ thần không dám chống lại, đều tránh xa oai thần của ma. Nhờ đây nên trừ được tất cả. Nếu Bồ-tát nào tự nghĩ đó là nhờ oai thần của ta nên sinh cống cao khinh dễ, tự mình biết đúng, do đây cống cao, chế diễu người khác, nhưng không tự xét mà nói với mọi người rằng: “Ta đã được các Đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác quá khứ thọ ký, còn những người khác đều chưa được thọ ký thành Vô thượng Bồ-đề.” Do đây nên cống cao, sân hận càng tăng, liền xa lìa Nhất thiết trí rất xa, mất trí tuệ Vô thượng Chánh giác. Nên biết hạng Bồ-tát này không có phương tiện quyền xảo mà tự cống cao, bèn từ địa vị hai đạo (Vô ngại đạo và Giải thoát đạo) mà rơi xuống địa vị Thanh văn và Bích-chiphật.
Này Tu-bồ-đề! Những Bồ-tát này chưa thành cho là thành, không biết ma cho nên bỏ thầy tốt mà đi, cũng không cùng làm công việc cũng chẳng coi xét, bị ma làm cho khốn đốn. Đại Bồ-tát này sẽ biết rõ ma và lấy gì để biết? Ma đến trước Bồ-tát biến hóa và mặc y phục khác nói rằng: “Đại Bồ-tát nếu từ chỗ của Đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác quá khứ được thọ ký thành Vô thượng Bồ-đề hoặc tên mình là…, tên em là…, tên cha là…, tên anh chị em là…, bạn bè thân hữu tri thức tên là… Hoặc bậc cha anh tên…, Tổ phụ bảy đời tên…, dòng họ ngoại của mẹ tên…, dòng họ ngoại của cha tên… Hoặc sinh ra ở thành nào đó, sinh ở nước nào đó, ở quận nọ, huyện nọ, làng nọ. Hoặc thường nói lời dịu dàng, hoặc nay nói lời như vậy đều là do đời trước đưa đến cũng lại nói lời dịu dàng. Hoặc gặp lúc người có tài thì cũng theo hình dáng đó mà nói. Hoặc đời trước cũng tài cao thông minh, thấy mình tự giữ gìn, hoặc thấy khất thực ngay bữa ăn hay lúc sắp đến bữa ăn, hoặc trước đó ăn trái cây, rau quả, không ăn cơm. Hoặc ở nơi gò mả, ở chỗ đồng vắng vẻ, ở dưới gốc cây; khi nhận lời thỉnh, lúc không nhận lời thọ thỉnh, tự biết đủ nơi vật thực có được lúc ở một chỗ. Không xoa thân bằng dầu mè, tiếng nói thanh tao và lưu loát.” Vì lẽ gì ma lại bảo nhân duyên này do đức đời trước nên được như vậy? Người này lúc ở đời trước, con nhà nào? Hoặc dòng Sát-đế-lợi, tên là gì? Đời trước có đức này nên được như vậy. Tâm Bồ-tát kia nghĩ rằng ta cũng như vậy. Ác ma lại nói: “Nếu đã được các Đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác quá khứ thọ ký Vô thượng Bồ-đề, nhờ nhân duyên công đức này nên được không thoái chuyển.”
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Ta nói Đại Bồ-tát không thoái chuyển không như vậy, đem sự việc này xét, như ta đã nói không được đầy đủ mà cho là đầy đủ. Nên biết hạng Bồtát này hoàn toàn không thành tựu, bị ma phá hoại, vì sao? Vì thấy người đó đầy đủ hành tướng như vậy, biết đó chẳng phải là Bồ-tát không thoái chuyển, chắc chắn không có ý này. Hạng Bồ-tát này nghe ma mới nói đến tên nên rất vui mừng, tự cho mình biết đúng nên ngã mạn, cống cao, chê bai những người khác, khinh chê bạn đồng học và cho mình là đúng. Hạng Bồ-tát này, này Tu-bồđề! Vì chấp nhận tên đó nên mất thệ nguyện của mình, liền rơi vào lưới ma.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Vì chấp tên nên Đại Bồ-tát này không biết ma làm hại, lại nói đắc Vô thượng Bồ-đề. Ma lại nói: “Ai sẽ trở thành Vô thượng Bồ-đề thì khi thành Phật sẽ có tên đó.” Bồtát này nghe tên nghĩ: “Ta sẽ đắc không sai. Ta lúc trước cũng nghĩ như vậy.” Đức Phật dạy:
–Bồ-tát này hiểu biết rất kém, không có phương tiện quyền xảo, lại nghĩ mong cầu danh hiệu, tự cho mình thành Vô thượng Bồ-đề với danh hiệu như vậy.
Đức Phật dạy:
–Như lời ma dạy và làm theo lời ma thì nay làm Tỳ-kheo bị ma mê hoặc, tự nghĩ là ta đã đạt đến bản nguyện của mình, nay được tên này, đúng như lời nói. Đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác quá khứ đã thọ ký cho ta thành Vô thượng Bồ-đề.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Ta đã thuyết về Đại Bồ-tát không thoái chuyển vào những hình tướng đó mà không làm theo, ngược lại ỷ vào danh hiệu của mình, khinh chê các Đại Bồ-tát khác. Do sự khinh chê này nên lìa trí tuệ Nhất thiết trí Vô thượng Bồ-đề, xa phương tiện quyền xảo. Vì lìa Bát-nhã ba-la-mật, lìa thầy tốt, gặp thầy xấu, nên Bồ-tát này bị rơi vào hai đường là Thanh văn hay Bích-chi-phật đạo. Từ rất lâu xa siêng năng khổ nhọc cho mãi về sau mới cầu thành Phật, nhờ ân Bát-nhã ba-la-mật sẽ đắc Vô thượng Bồ-đề, thành bậc Chánh giác.
Đức Phật dạy:
–Khi có ý chấp danh hiệu không mau giác ngộ sửa đổi, như vậy sẽ rơi vào địa vị Thanh văn, Bíchchi-phật đạo.
Đức Phật dạy:
–Tỳ-kheo có bốn giới trọng. Người nào hủy phạm vào những việc đó, không còn là Sa-môn, không còn là đệ tử Phật. Tội người phá hoại Bồ-tát nặng hơn bốn giới trọng của Tỳ-kheo.
Bồ-tát nói: “Tôi tên đó…, sinh ở nước đó…”, nghĩ tội nặng hơn bốn giới trọng, lại hơn tội ngũ nghịch. Đã bị tội nặng sao lại nhận danh hiệu? Vì lẽ không biết việc của ma rất là vi diệu.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát có đức xa lìa thì ác lại đến trước nói: “Pháp xa lìa đúng là được Đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác khen ngợi.”
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Ta không dạy cho các Đại Bồ-tát nên xa lìa, ở một mình nơi rừng cây vắng vẻ.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Thế nào, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đại Bồ-tát có xa lìa khác chăng?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Cho dù Đại Bồ-tát suy nghĩ lờ mờ thì đó là điều suy nghĩ của Thanh văn, suy nghĩ lờ mờ là điều suy nghĩ của Bích-chi-phật. Người hành động hoảng hốt là Đại Bồ-tát tuy ở thành thị tiếp tục tu hành xa lìa bằng hành động hoảng hốt, người ấy là Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp ác mà không khởi lên. Người hành động hoảng hốt là Đại Bồ-tát, nếu dừng chân ở một mình trong rừng cây yên ắng, là Đại Bồ-tát ấy tiếp tục thực hành hạnh xa lìa, ấy là ta ưa thích khiến cho Đại Bồ-tát thực hành hạnh xa lìa như thế nên phải suy nghĩ ngày đêm, đó là hạnh xa lìa của Đại Bồ-tát.
Đại Bồ-tát thực hành xa lìa tuy ở thành phố vẫn sợ hãi thì riêng ở dưới rừng cây vẫn sợ hãi. Bồ-tát nào riêng ở dưới rừng cây vắng vẻ thực hành sợ hãi mà nghĩ rằng ta đã biết rõ xa lìa. Bấy giờ ác ma đến dạy Bồ-tát đó thực hành xa lìa rằng: “Nên một mình dưới rừng cây và thực hành như vậy.” Đó là Bồ-tát theo lời chỉ dạy của ma, quên mất xa lìa. Ma lại bảo: “Nói rõ ra là vì tất cả hàng Thanh văn và Bích-chi-phật đạo đều dấy lên suy nghĩ này: không có khác việc ấy, để đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật, nên phải làm hạnh ấy.” Đức Phật dạy:
–Pháp theo ý nghĩ của Đại Bồ-tát này chẳng thanh tịnh, vậy mà còn làm theo và khinh chê các Bồ-tát khác. Tự nghĩ ai có thể hơn ta. Khinh chê Bồ-tát ở thành phố nhưng thanh tịnh và tâm không có ý nghĩ rơi vào pháp Thanh văn, Bích-chi-phật. Có tâm xấu không chấp nhận thiền duyệt Tammuội và Tam-ma-địa, chắc chắn đạt được sở nguyện và đầy đủ các pháp Ba-la-mật.
Đức Phật dạy:
–Hạng Bồ-tát không có phương tiện thích trí thì vị ấy mặc dù ở trong chốn đồng không mông quạnh bốn ngàn dặm, chỗ đó cầm thú không đến được, giặc cướp không tới nơi, chỗ La-sát không đến, tuy rằng người ấy ở nơi đó hoặc giả một năm, hoặc trăm năm, hoặc ngàn năm, hoặc trăm ngàn năm, hoặc trăm ngàn vạn năm, hoặc trăm ngàn vạn ức năm, cho dù lại quá hơn con số đó, thế nhưng người ấy chẳng biết xa lìa, sẽ không có điều lợi ích và không thể nào đầy đủ. Vì Đại Bồ-tát tu hạnh xa lìa, tự suy nghĩ và bảo rằng: “Toàn bộ ta đã chứng đắc rồi và đã hiểu rõ tất cả rồi.” Ác ma liền bay lên giữa hư không nói: “Lành thay, Lành thay! Thiện nam tử này là chân thật xa lìa, đúng như lời Đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác đã dạy và nên tùy thuận theo đó để xa lìa và như vậy thì mau đắc Vô thượng Chánh giác.” Đại Bồ-tát này nghe như vậy, liền từ bỏ hạnh xa lìa, đi đến chỗ Bồ-tát viễn ly ở thành phố. Nếu Tỳ-kheo thành tựu về đạo nhưng cống cao, nói những lời khinh chê, nếu ra làm Phật sự sẽ vấp lỗi. Đức Phật dạy:
–Những người thuận theo hành động hoảng hốt ấy thì đối với hành động đúng của Bồ-tát cho là sai và ngược lại, hành động sai lại cho là đúng. Người không đáng kính thì lại kính, còn người đáng kính thì lại không kính. Nói ta đã thực hành hạnh xa lìa, do đó nên có phi nhân đến nói rằng: “Lành thay! Lành thay, nếu hành đúng là xa lìa, nếu ở thành phố thực hành thì ai sẽ đến nói, ai sẽ đến báo cho vị ấy?” Đức Phật dạy:
–Bồ-tát này là người có đức nhưng lại khinh họ. Như vậy, này Tu-bồ-đề! Bồ-tát nên biết người này giống như người khuyên thầy chết, không đúng một tí nào. Lại nói Bồ-tát có lỗi, đây là oan gia của Bồ-tát, vì hiềm thù Bồ-tát nên họ là kẻ giặc lớn trên trời và trong nhân gian. Giả sử người này có mặc áo Sa-môn cũng chỉ là kẻ giặc. Đối với hạng Bồ-tát có đức ở trong loài người cũng lại là kẻ giặc. Này Tu-bồ-đề! Bọn này không nên cùng cộng tác với họ, không nên cùng với họ chuyện trò, cũng không nên nhìn họ với sự cung kính. Vì sao? Nên biết bọn người này nhiều sân hận nổi lên làm bại hoại tâm tốt của người.
Này Tu-bồ-đề! Điều gì khiến Đại Bồ-tát này không rời Nhất thiết trí, không bỏ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu Đại Bồ-tát không rời Nhất thiết trí, cho nên Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và Hiện Đẳng Giác là nơi nương tựa cho tất cả mọi người. Hạng Bồ-tát này không nên cùng với bọn người phá hoại kia cùng làm việc, không nên cung kính họ, không nên cùng hội họp với họ để hộ pháp, chỉ biết giữ gìn về chánh niệm của mình, thường sợ hãi những nơi sinh tử khổ nên không chịu vào trong đó, không qua lại với ba cõi. Người phá hoại Bồ-tát như vậy ở chỗ nào thường nên Từ tâm thương xót giúp đỡ họ, tự nghĩ làm cho ta không được sinh. Tâm xấu ác như vậy thật đáng thương xót. Giả sử có điều không tốt, mau làm cho ta xả bỏ chúng, nên học tập như vậy. Vậy nên, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát là người hiểu biết trên hết.
Đức Phật dạy:
–Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Các Đại Bồ-tát này muốn đắc Vô thượng Bồ-đề nên gần gũi thầy tốt, cung kính vâng theo lời chỉ dạy và cùng làm việc.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Thầy tốt của Đại Bồ-tát ở chỗ nào và làm sao để biết?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đức Thiên Trung Thiên là thầy tốt của Đại Bồ-tát. Có thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật, theo đó được nghe Bát-nhã ba-la-mật, đây là vượt qua. Dạy người thâm nhập vào trong đó, nên biết như vậy là cái thấy tốt của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật là Thắng trí thiện xảo, là đường đi, là trừ tối tăm, là nhà cao tốt, là sáng suốt, Đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác quá khứ đều từ sáu pháp Ba-lamật mà ra. Các Đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác vị lai đều từ sáu Ba-la-mật mà ra và các Đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác trong vô lượng, vô số các cõi nước hiện tại cũng đều từ sáu pháp Ba-la-mật mà ra, mà thành Nhất thiết trí, đều từ sự bố thí bốn việc cho người là:
1. Bố thí.
2. Hoan hỷ.
3. Lợi ích.
4. Bình đẳng giúp cho tất cả.
Vậy nên, này Tu-bồ-đề! Thắng trí thiện xảo của Bồ-tát là mẹ, là cha, là nhà, là nhà cao cột, là hộ trì, là trở về, là dẫn đường, đều là sáu pháp Ba-la-mật, là lợi ích cho tất cả mọi người, Đại Bồ-tát, sáu pháp Ba-la-mật là không giới hạn, muốn cắt đứt sự nghi ngờ, do vậy nên phải học Bát-nhã ba-la-mật.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Tướng của Bát-nhã ba-la-mật ở chỗ nào?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Không ngăn ngại là tướng của Bát-nhã ba-lamật.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Như Đức Thiên Trung Thiên đã dạy: đây là thật tướng của Bát-nhã ba-la-mật, tướng như vậy là đắc các pháp.
Đức Phật dạy:
–Đúng như vậy! Này Tu-bồ-đề! Tướng như vậy là đắc Bát-nhã ba-la-mật, tướng như vậy là đắc các pháp. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vì các pháp đều vô thường, các pháp đều là không. Do vậy, nên này Tu-bồ-đề! Vô thường cũng không, là tướng Bátnhã ba-la-mật. Tướng các pháp cũng vô thường, là không, là vô thường.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Đức Thiên Trung Thiên thuyết các pháp đều vô thường, là không. Vì sao như thế? Con người muốn có sinh mà không muốn có chết, sự vô thường nên không có dục, vô thường nên không sinh. Không là không dục, không là không sinh. Vô thường cũng nói không, không phải Vô thượng Bồ-đề, cũng từ nơi pháp khác. Vô thường không đắc Vô thượng Bồ-đề. Thế nào, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, có thể biết được điều Ngài đã dạy?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Từ xa xưa người ta nghĩ rằng là ngã sở hay chẳng phải ngã sở. Do như thế nên đưa đến như vậy.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Đúng như vậy, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, Ngài đã dạy chính từ xa xưa con người nghĩ rằng là ngã sở hữu hay chẳng phải là ngã sở.
Đức Phật dạy:
–Tu-bồ-đề! Thế nào là ngã sở hay là không phải?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Đúng là không, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật dạy:
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Chẳng phải ngã sở hữu là không hay sao?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Đúng là không, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Con người do đó nên nghĩ ngã sở hay không là ngã sở. Do vậy nên ở mãi trong sinh tử không lúc nào ra khỏi.
Đức Phật dạy:
–Này Tu-bồ-đề! Vậy nên con người do dục nên chấp trước vào con người, nên biết như vậy, không có mong cầu nên không chấp trước. Thật ra, này Tu-bồ-đề! Có lợi ích thì không nên nghĩ đó là ngã sở hay không phải là ngã sở. Như vậy là thực hành Bát-nhã ba-la-mật.
Này Tu-bồ-đề! Do đó điều đã sinh sau đó không sinh nữa. Đại Bồ-tát này là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Người thực hành như vậy là không hành sắc, không hành thọ, tưởng, hành, thức. Người thực hành như vậy, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đại Bồ-tát nghĩ là thực hành theo thế tục, đó là Đại Bồ-tát hạnh.
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Điều mà các hàng Thanh văn, Bích-chi-phật không theo kịp việc làm của tất cả mọi người là vượt trội hơn hẳn các Thanh văn và Bích-chi-phật kia, vì thế cho nên không thể đạt được chỗ sở đắc, đó là chỗ cùng tột của Đại Bồ-tát.
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Người nghĩ như vậy là Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát ngày đêm thực hành như vậy, như chỗ đã thực hành mau được gần Vô thượng Chánh giác.
Đức Phật dạy:
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Người trong Diêm-phùlợi và tất cả Bồ-tát đều làm người, đều thực hành Vô thượng Bồ-đề, phát tâm cầu thành Phật. Mỗi người trọn đời làm việc bố thí, đem việc bố thí này hồi hướng Vô thượng Bồ-đề. Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào! Đại Bồ-tát này làm việc bố thí như vậy, phước đó có nhiều không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Rất nhiều! Rất nhiều! Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật dạy:
–Không bằng Đại Bồ-tát chuyên nghĩ đến Bátnhã ba-la-mật và thực hành trong một ngày, phước của người này nhiều hơn phước của người trên kia. Hoặc Bồ-tát luôn nghĩ đến Bát-nhã ba-la-mật, thực hành theo đó. Người như vậy là người rất tôn quý trong chúng. Vì sao? Vì người khác không có lòng từ này. Trừ chư Phật, không có Đại Bồ-tát hữu học nào bằng, chỗ thâm nhập của thiện nam tử này rất là thậm thâm, hiểu rõ tất cả mọi người không phân biệt. Người này rất thương xót, nhìn thấy thấu suốt tất cả mọi người không phân biệt. Muốn thấy tất cả, không khi nào bỏ qua. Nghĩ đến tất cả mọi người nhưng không phát khởi tưởng, cũng không khác.
Do đó, này Tu-bồ-đề! Đó là sự sáng suốt của Đại Bồ-tát. Tuy chưa thành Vô thượng Chánh giác nhưng người này đã làm việc rất tôn quý, vượt lên trên thế gian, đối với Vô thượng Chánh giác chắc chắn không còn thoái lui. Nhận đầy đủ tất cả y phục, ẩm thực, giường nằm, thuốc thang, tuy thế nhưng vẫn trụ vào Bát-nhã ba-la-mật, vẫn thanh tịnh, nhờ phước đức đã tạo làm cho được gần Nhất thiết trí.
Vậy nên, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát có ăn uống cũng không có lỗi, vì muốn làm lợi ích cho tất cả mọi người, muốn chỉ dạy đạo cho tất cả mọi người. Người đó có sự sáng suốt, muốn làm việc cứu hộ rộng lớn không bờ bến, muốn độ thoát hết những người trong lao ngục, muốn làm cho mắt tất cả mọi người đều thanh tịnh. Đó là ý niệm theo Bát-nhã ba-la-mật. Người thực hành theo chỉ dạy nghĩ đến Bát-nhã ba-la-mật, có như vậy tức là không thay đổi. Vì sao? Vì người thay đổi nghĩ rằng “có tưởng”, liền trái với Bát-nhã ba-la-mật. Như vậy là trái với sự hộ trì, nên làm như Bát-nhã ba-la-mật, ngày đêm thực hành và nghĩ đến.
Này Tu-bồ-đề! Ví như có kẻ nam tử, ngọc mani để ngay trước mặt nhưng không biết, sau nhận được vui mừng hớn hở. Nhưng khi được ngọc mani rồi lại quên ngọc, quên dùng, nên lại rất lo buồn sầu khổ, đứng ngồi không yên nhưng không hiểu.
Như vậy, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát muốn cầu trân bảo luôn luôn gìn giữ tâm vững chãi, không được làm mất niệm Nhất thiết trí.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Tất cả việc nghĩ đều là lìa tự nhiên. Thế nào là Đại Bồ-tát niệm Nhất thiết trí không lìa niệm?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Giả sử Đại Bồ-tát biết như vậy là không mất Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật là không, không tăng, không giảm.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Bát-nhã ba-la-mật chính thật là không. Thế nào là Đại Bồtát tăng thêm Bát-nhã ba-la-mật thành tựu của mình để được gần Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát cũng chẳng có tăng, cũng chẳng có giảm. Lúc ta nói pháp này, Bồ-tát nghe mà không sợ hãi, nên biết thiện nam này là người đã thực hành Bát-nhã ba-la-mật.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thế Tôn! Hành Bát-nhã ba-lamật là hành không phải không?
Đáp:
–Này Tu-bồ-đề! Không phải vậy!
–Kính bạch Thế Tôn! Hay có không nào khác để hành Bát-nhã ba-la-mật?
–Này Tu-bồ-đề! Không phải! –Đấy là sắc hành?
–Này Tu-bồ-đề! Không phải!
–Đấy là thọ, tưởng, hành, thức?
–Này Tu-bồ-đề! Không phải! –Hay hành theo sắc khác?
–Này Tu-bồ-đề! Không phải!
–Hay theo thọ, tưởng, hành, thức khác?
–Này Tu-bồ-đề! Không phải!
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Vì sao gọi là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật?
Đức Phật dạy:
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Người có pháp thực hành pháp Bát-nhã ba-la-mật phải không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Không thấy, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật dạy:
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát có thấy mình luôn thực hành Bát-nhã ba-la-mật không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Không thấy, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật dạy:
–Thế nào, Tu-bồ-đề! Người có thể thấy có chỗ sinh ra pháp không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Thưa không thấy, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên!
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đó là Vô sinh pháp nhẫn của Đại Bồ-tát. Người như vậy là được thọ ký Vô thượng Chánh giác, được Vô sở úy của Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác. Hành động của Đại Bồ-tát đó là do lực này được đạt đến trí tuệ Phật, là trí tuệ rộng lớn, là trí tuệ tự tại, là trí tuệ Nhất thiết trí, là trí tuệ Như Lai. Người ấy làm tất cả việc gì mình muốn.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Các pháp do thọ ký mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác phải không?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Không phải.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Vậy thì vì lẽ gì Đức Thiên Trung Thiên thọ ký cho Bồ-tát đắc Vô thượng Chánh giác?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Có thể thấy pháp trao thọ ký Vô thượng Chánh giác không?
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Con không thấy có pháp sẽ tạo thành Vô thượng Chánh giác.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Các pháp không thể đắc. Người nghĩ như vậy là thành tựu pháp cúng dường giác. Người không nghĩ như vậy không tự đạt đến Chánh giác.
Thích Đề-hoàn Nhân ngay trong chúng hội bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm. Thậm thâm, đó là việc Bồtát khó hiểu rõ. Người có đức nghe Bát-nhã ba-lamật liền biên chép, học tập, thọ trì, phước của người đó không ít.
Đức Phật bảo Câu-dực:
–Nếu người ở Diêm-phù-lợi đều thọ trì Thập thiện, công đức đó gấp trăm lần, ngàn lần, vạn lần, ức lần, nhiều ức lần. Chẳng những con số ấy mà lại quá hơn thế nữa, không bằng thiện nam, thiện nữ nghe Bát-nhã ba-la-mật biên chép, học tập, thọ trì.
Trong đại hội có một Tỳ-kheo bảo với Thích Đề-hoàn Nhân:
–Đây là người vượt lên trên Câu-dực.
Thích Đề-hoàn Nhân thưa với vị Tỳ-kheo:
–Người biết hồi tâm nghĩ đúng là đã hơn tôi huống chi nghe Bát-nhã ba-la-mật rồi biên chép, học tập, thọ trì, nghe theo, thực hành theo như trong đó đã dạy, sẽ vượt lên trên hết tất cả chư Thiên, A-tu-luân và người đời. Nếu Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật không riêng gì vượt lên chư Thiên, A-tu-luân, người đời cho đến Tuđà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bíchchi-phật, người đó cũng đều vượt qua. Nếu Đại Bồtát nào thực hành Bát-nhã ba-la-mật không riêng gì vượt lên trên Bích-chi-phật mà cũng vượt lên trên Bồ-tát thực hành Bố thí ba-la-mật không có phương tiện quyền xảo.
Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật không riêng gì vượt qua bố thí Ba-la-mật, mà cũng vượt qua thực hành Trì giới ba-la-mật, Tinh tấn ba-lamật, Thiền định ba-la-mật không phương tiện quyền xảo.
Đại Bồ-tát nào đọc, thực hành Bát-nhã ba-lamật, chư Thiên. A-tu-luân, người đời, hoàn toàn không thể hơn.
Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật vì vậy rất là tôn quý.
Gần gũi Bát-nhã ba-la-mật nên Đại Bồ-tát này thực hành theo Nhất thiết trí. Lời nói không bị gián đoạn. Đại Bồ-tát này không lìa danh hiệu Như Lai. Đây là Đại Bồ-tát không xa rời Phật. Đại Bồ-tát này không còn sinh giải đãi. Sự học của Đại Bồ-tát này là rất tôn quý. Không học Thanh văn, Bíchchi-phật là học về Bồ-tát. Tứ Thiên vương nên đến thưa hỏi, làm cho ưa thích, được học mau lẹ sự học này, sẽ ngồi chỗ ngồi của Phật, đạt đến Vô thượng Bồ-đề, sẽ độ bốn bộ đệ tử. Đại Bồ-tát nên học như vậy. Tứ Thiên vương nên đến thưa hỏi, huống là các Thiên tử khác.
Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thường được Đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh Giác nghĩ đến. Bát-nhã ba-la-mật là hạnh của Bồ-tát. Nếu ở thế gian có những điều khổ cực thì ngay thân này không có những điều ác, đó là chỗ đạt đến của Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, liền được phước hiện tiền.
Ngài A-nan suy nghĩ: “Thích Đề-hoàn Nhân từ trí tuệ mình thuyết hay là nhờ oai thần của Đức Phật để thuyết?”
Thích Đề-hoàn Nhân biết ý nghĩ của A-nan liền thưa với Tôn giả A-nan:
–Những điều tôi thuyết là nhờ oai thần của Phật.
Đức Phật dạy:
–Đúng như vậy, đúng như vậy! Này A-nan! Thích Đề-hoàn Nhân thuyết đều là nhờ oai thần của Phật. Này A-nan! Hoặc khi Đại Bồ-tát ngay trong niệm sâu xa này thực hành Bát-nhã ba-lamật, liền nghĩ đến việc học tập Bát-nhã ba-la-mật.
Bấy giờ ác ma ở trong tam thiên đại thiên cõi nước, tất cả đều buồn rầu bực bội. Đức Phật, khiến cho hàng trung đạo Đại Bồ-tát lấy sự tu hành từ đầu cho đến cùng cực làm sự chứng đắc, khiến cho họ chứng được Thanh văn hoặc giả Bích-chi-phật đạo, hoặc ngài khiến cho họ chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chóng thành Hiện Đẳng Giác.
[Đầu trang][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13]
[Mục lục bộ Bát-nhã] [220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]