SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
HỘI THỨ I
PHẨM 3: TƯƠNG ƯNG
(QUYỂN 4 – 7)
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, do tương ưng với pháp nào, mà gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Phật bảo Trưởng lão Xá-lợi Tử:
−Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của sắc, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của thọ, tưởng, hành, thức, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của nhãn xứ, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của sắc xứ, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của nhãn giới, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của sắc giới, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của nhãn thức giới, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mậtđa; do tương ưng với cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, nên gọi là tương ưng với Bátnhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của nhãn xúc, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, nên gọi là tương ưng với Bátnhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của địa giới, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, nên gọi là tương ưng với Bátnhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của nhân duyên, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-lamật-đa; do tương ưng với cái không của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và có các duyên khác sinh ra, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của vô minh, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã bala-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của Bố thí bala-mật-đa nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-lamật-đa; do tương ưng với cái không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của pháp không bên trong nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của chân như, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của bốn Niệm trụ, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mậtđa; do tương ưng với cái không của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của Thánh đế khổ, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mậtđa; do tương ưng với cái không của Thánh đế tập, diệt, đạo, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-lamật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của mười nẻo nghiệp thiện, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã bala-mật-đa; do tương ưng với cái không của năm giới cận sự, tám giới cận trụ, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của việc làm lành mang tính bố thí, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của việc làm lành mang tính giữ giới, mang tính tu hành, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-lamật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của bốn Tĩnh lự, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của tám Giải thoát, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mậtđa; do tương ưng với cái không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của pháp môn giải thoát Không, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của tất cả pháp môn Đà-la-ni, nên gọi là tương ưng với Bátnhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của bậc Cực hỷ, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mậtđa; do tương ưng với cái không của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của năm loại mắt, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mậtđa; do tương ưng với cái không của sáu phép thần thông, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-lamật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của mười lực của Phật, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-lamật-đa; do tương ưng với cái không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, các pháp đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-lamật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của ba mươi hai tướng Đại sĩ, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của pháp không quên mất, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của tánh luôn luôn xả, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã bala-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của trí Nhất thiết, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mậtđa; do tương ưng với cái không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, nên gọi là tương ưng với Bátnhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của trí Nhất thiết trí, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-lamật-đa; do tương ưng với cái không của việc vĩnh viễn đoạn trừ tận gốc tất cả phiền não, thói xấu nhiều đời, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-lamật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của quả Dự lưu, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mậtđa; do tương ưng với cái không của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với cái không của ngã, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; do tương ưng với cái không của hữu tình, dòng sinh mạng, sự sinh khởi, sự nuôi dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng thọ quả báo, khả năng khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy…, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với những cái không như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do khi tương ưng với những cái không như thế, chẳng thấy sắc, hoặc tương ưng, hoặc không tương ưng; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức, hoặc tương ưng hoặc không tương ưng. Vì sao vậy? Xá-lợi Tử, vì Đại Bồ-tát ấy, chẳng thấy sắc là pháp sinh hay là pháp diệt; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức là pháp sinh hay là pháp diệt; chẳng thấy sắc là pháp nhiễm hay là pháp tịnh; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức là pháp nhiễm hay là pháp tịnh.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy sắc hợp với thọ, chẳng thấy thọ hợp với tưởng, chẳng thấy tưởng hợp với hành, chẳng thấy hành hợp với thức. Vì sao? Xá-lợi Tử, không có một pháp nhỏ nhiệm nào hợp với một pháp nhỏ nhiệm nào, vì bản tánh là không. Do đâu mà nói như thế? Này Xá-lợi Tử, cái không của các sắc, nó chẳng phải là sắc; các cái không của thọ, tưởng, hành, thức, chúng chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Xá-lợi Tử, cái không của các sắc, nó chẳng phải là tướng biến đổi, ngăn ngại; cái không của các thọ, nó chẳng phải là tướng lãnh nạp; cái không của các tưởng, nó chẳng phải là tướng nắm bắt hình tượng; cái không của các hành, nó chẳng phải là tướng tạo tác; cái không của các thức, nó chẳng phải là tướng phân biệt. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng khác không, không chẳng khác thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức tức là không, không tức là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Xá-lợi Tử, tướng không của các pháp ấy, chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.
Xá-lợi Tử, như vậy, trong cái không, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có địa giới, không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới; không có nhãn xứ, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; không có sắc xứ, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; không có nhãn giới, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; không có sắc giới, không có thanh, hương, vị xúc, pháp giới; không có nhãn thức giới, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; không có nhãn xúc, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, không có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; không có sự sinh khởi của vô minh, không có sự diệt tận của vô minh; không có sự sinh khởi của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; không có sự diệt tận của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não; không có Thánh đế khổ, không có Thánh đế tập, diệt, đạo; không có đắc, không có hiện quán, không có Dự lưu, không có quả Dự lưu, không có Nhất lai, không có quả Nhất lai, không có Bất hoàn, không có quả Bất hoàn, không có Ala-hán, không có quả A-la-hán, không có Độc giác, không có quả vị Độc giác, không có Bồ-tát, không có hạnh Bồ-tát, không có Phật, không có quả vị Phật.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, do tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với sắc; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với nhãn xứ; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với sắc xứ; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với nhãn giới; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với sắc giới; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với nhãn thức giới; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với nhãn xúc; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với địa giới; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với nhân duyên; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với sở duyên duyên, đẳng vô gián duyên, tăng thượng duyên; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với các pháp do duyên khác sinh ra.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với vô minh; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với cõi Dục; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với cõi Sắc, cõi Vô sắc.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với Bố thí ba-la-mật-đa; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với pháp không bên trong; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với chân như; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với bốn Niệm trụ; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với Thánh đế khổ; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với Thánh đế tập, diệt, đạo.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với mười nẻo nghiệp thiện; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với năm giới cận sự, tám giới cận trụ.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với việc làm phước mang tính bố thí; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với việc làm phước mang tính giữ giới, mang tính tu hành.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với bốn Tĩnh lự; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với tám Giải thoát; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với pháp môn giải thoát Không; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với bậc Cực hỷ; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với năm loại mắt; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với sáu phép thần thông.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với mười lực của Phật; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, các pháp đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với ba mươi hai tướng Đại sĩ; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với tám mươi vẻ đẹp kèm theo.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với pháp không quên mất; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với tánh luôn luôn xả.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với trí Nhất thiết; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, trí Nhất thiết tướng vi diệu; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với trí Nhất thiết trí.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với việc dứt trừ tận gốc vĩnh viễn tất cả phiền não, thói xấu từ nhiều đời.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với quả Dự lưu; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với quả vị Độc giác; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với ngã; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với hữu tình, dòng sinh mạng, sự sinh khởi, sự nuôi dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng thọ quả báo, khả năng khiến người thọ quả báo, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, cái biết, cái thấy…
Xá-lợi Tử, nên biết là các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì những nhân duyên ấy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, chẳng tương ưng giữa cái không với cái không, chẳng quán sự tương ưng, chẳng tương ưng giữa cái vô tướng với vô tướng, chẳng quán sự tương ưng, chẳng tương ưng giữa cái vô nguyện với vô nguyện. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì Không, Vô tướng, Vô nguyện đều không có tương ưng, hay chẳng tương ưng.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì cũng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, đã thể nhập cái không tự tướng của tất cả pháp rồi thì chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng của sắc, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng của thọ, tưởng, hành, thức.
Vị Bồ-tát ấy, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa sắc với đời trước. Vì sao? Vì chẳng thấy đời trước. Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa thọ, tưởng, hành, thức với đời trước. Vì sao? Vì chẳng thấy đời trước.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa sắc với đời sau. Vì sao? Vì chẳng thấy đời sau. Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa thọ, tưởng, hành, thức với đời sau. Vì sao? Vì chẳng thấy đời sau.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa sắc với hiện tại. Vì sao? Vì chẳng thấy hiện tại. Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa thọ, tưởng, hành, thức với hiện tại.
Vì sao? Vì chẳng thấy hiện tại.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa đời trước với đời sau, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa đời trước với hiện tại.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa đời sau với đời trước, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa đời sau với hiện tại.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa hiện tại với đời trước, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa hiện tại với đời sau.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa đời trước với đời sau và hiện tại.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa đời sau với đời trước và hiện tại.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa hiện tại với đời trước và đời sau.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa đời trước, đời sau, hiện tại. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì ba đời đều không.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với quá khứ. Vì sao? Vì quá khứ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với quá khứ.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với vị lai. Vì sao? Vì vị lai còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với vị lai. Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với hiện tại. Vì sao? Vì hiện tại còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với hiện tại.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với sắc. Vì sao? Vì sắc còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với sắc.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với thọ, tưởng, hành, thức. Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhãn xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhãn xứ.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với sắc xứ. Vì sao? Vì sắc xứ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với sắc xứ.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhãn giới. Vì sao? Vì nhãn giới còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhãn giới.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với sắc giới. Vì sao? Vì sắc giới còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với sắc giới.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp giới còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhãn thức giới. Vì sao? Vì nhãn thức giới còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhãn thức giới.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhãn xúc. Vì sao? Vì nhãn xúc còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhãn xúc.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với địa giới. Vì sao? Vì địa giới còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với địa giới.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhân duyên. Vì sao? Vì nhân duyên còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với nhân duyên.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các duyên khác sinh ra. Vì sao? Vì các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các duyên khác sinh ra còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các duyên khác sinh ra.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với vô minh. Vì sao? Vì vô minh còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với vô minh.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não. Vì sao? Vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với Bố thí bala-mật-đa. Vì sao? Vì Bố thí ba-la-mật-đa còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với Bố thí bala-mật-đa.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự,
Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với pháp không bên trong. Vì sao? Vì pháp không bên trong còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với pháp không bên trong.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì từ pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với bốn Niệm trụ. Vì sao? Vì bốn Niệm trụ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với bốn Niệm trụ.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo. Vì sao? Vì bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với Thánh đế khổ. Vì sao? Vì Thánh đế khổ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với Thánh đế khổ.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì Thánh đế tập, diệt, đạo còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với Thánh đế tập, diệt, đạo. Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với bốn Tĩnh lự. Vì sao? Vì bốn Tĩnh lự còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với bốn Tĩnh lự.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Vì sao? Vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với tám Giải thoát. Vì sao? Vì tám Giải thoát còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với tám Giải thoát.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Vì sao? Vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với pháp môn giải thoát Không. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát
Không còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với pháp môn giải thoát Không.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với tất cả pháp môn Đà-la-ni. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-lani còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với tất cả pháp môn Đà-la-ni.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với tất cả pháp môn Tamma-địa. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với bậc Cực hỷ. Vì sao? Vì bậc Cực hỷ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với bậc Cực hỷ.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với các bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân. Vì sao? Vì từ bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với năm loại mắt. Vì sao? Vì năm loại mắt còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với năm loại mắt.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với sáu phép thần thông. Vì sao? Vì sáu phép thần thông còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với sáu phép thần thông.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với mười lực của Phật. Vì sao? Vì mười lực của Phật còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với mười lực của Phật.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, các pháp đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với ba mươi hai tướng Đại sĩ. Vì sao? Vì ba mươi hai tướng Đại sĩ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với ba mươi hai tướng Đại sĩ.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với tám mươi vẻ đẹp kèm theo. Vì sao? Vì tám mươi vẻ đẹp kèm theo còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với tám mươi vẻ đẹp kèm theo.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với pháp không quên mất. Vì sao? Vì pháp không quên mất còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với pháp không quên mất.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì tánh luôn luôn xả còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với tánh luôn luôn xả.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với trí Nhất thiết. Vì sao? Vì trí Nhất thiết còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với trí Nhất thiết.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với Phật. Vì sao? Vì Phật còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với Phật.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với Bồ-đề. Vì sao? Vì Bồđề còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với Bồđề.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với Phật, chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa Phật với trí Nhất thiết. Vì sao? Vì trí Nhất thiết tức là Phật, Phật tức là trí Nhất thiết.
Chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa trí Nhất thiết với Bồ-đề; chẳng quán sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng giữa Bồ-đề với trí Nhất thiết. Vì sao? Vì trí Nhất thiết tức là Bồđề, Bồ-đề tức là trí Nhất thiết.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của sắc, chẳng bám dính vào chẳng phải có của sắc; chẳng bám dính vào có của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng bám dính vào chẳng phải có của thọ, tưởng, hành, thức.
Chẳng bám dính vào thường của sắc, chẳng bám dính vào vô thường của sắc; chẳng bám dính vào thường của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng bám dính vào vô thường của thọ, tưởng, hành, thức.
Chẳng bám dính vào vui của sắc, chẳng bám dính vào khổ của sắc; chẳng bám dính vào vui của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng bám dính vào khổ của thọ, tưởng, hành, thức.
Chẳng bám dính vào ngã của sắc, chẳng bám dính vào vô ngã của sắc; chẳng bám dính vào ngã của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng bám dính vào vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của sắc, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của sắc; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của thọ, tưởng, hành, thức.
Chẳng bám dính vào không của sắc, chẳng bám dính vào chẳng không của sắc; chẳng bám dính vào không của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng bám dính vào chẳng không của thọ, tưởng, hành, thức.
Chẳng bám dính vào vô tướng của sắc, chẳng bám dính vào hữu tướng của sắc; chẳng bám dính vào vô tướng của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng bám dính vào hữu tướng của thọ, tưởng, hành, thức.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của sắc, chẳng bám dính vào hữu nguyện của sắc; chẳng bám dính vào vô nguyện của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng bám dính vào hữu nguyện của thọ, tưởng, hành, thức.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của nhãn xứ, chẳng bám dính vào chẳng phải có của nhãn xứ; chẳng bám dính vào có của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng bám dính vào chẳng phải có của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Chẳng bám dính vào thường của nhãn xứ, chẳng bám dính vào vô thường của nhãn xứ; chẳng bám dính vào thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng bám dính vào vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Chẳng bám dính vào vui của nhãn xứ, chẳng bám dính vào khổ của nhãn xứ; chẳng bám dính vào vui của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng bám dính vào khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Chẳng bám dính vào ngã của nhãn xứ, chẳng bám dính vào vô ngã của nhãn xứ; chẳng bám dính vào ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng bám dính vào vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của nhãn xứ, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của nhãn xứ; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Chẳng bám dính vào không của nhãn xứ, chẳng bám dính vào chẳng không của nhãn xứ; chẳng bám dính vào không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng bám dính vào chẳng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Chẳng bám dính vào vô tướng của nhãn xứ, chẳng bám dính vào hữu tướng của nhãn xứ; chẳng bám dính vào vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng bám dính vào hữu tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của nhãn xứ, chẳng bám dính vào hữu nguyện của nhãn xứ; chẳng bám dính vào vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng bám dính vào hữu nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của sắc xứ, chẳng bám dính vào chẳng phải có của sắc xứ; chẳng bám dính vào có của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng bám dính vào chẳng phải có của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Chẳng bám dính vào thường của sắc xứ, chẳng bám dính vào vô thường của sắc xứ; chẳng bám dính vào thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng bám dính vào vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Chẳng bám dính vào vui của sắc xứ, chẳng bám dính vào khổ của sắc xứ; chẳng bám dính vào vui của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng bám dính vào khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Chẳng bám dính vào ngã của sắc xứ, chẳng bám dính vào vô ngã của sắc xứ; chẳng bám dính vào ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng bám dính vào vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của sắc xứ, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của sắc xứ; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Chẳng bám dính vào không của sắc xứ, chẳng bám dính vào chẳng không của sắc xứ; chẳng bám dính vào không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng bám dính vào chẳng không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Chẳng bám dính vào vô tướng của sắc xứ, chẳng bám dính vào hữu tướng của sắc xứ; chẳng bám dính vào vô tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng bám dính vào hữu tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của sắc xứ, chẳng bám dính vào hữu nguyện của sắc xứ; chẳng bám dính vào vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng bám dính vào hữu nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của nhãn giới, chẳng bám dính vào chẳng phải có của nhãn giới; chẳng bám dính vào có của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng bám dính vào chẳng phải có của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Chẳng bám dính vào thường của nhãn giới, chẳng bám dính vào vô thường của nhãn giới; chẳng bám dính vào thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng bám dính vào vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Chẳng bám dính vào vui của nhãn giới, chẳng bám dính vào khổ của nhãn giới; chẳng bám dính vào vui của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng bám dính vào khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Chẳng bám dính vào ngã của nhãn giới, chẳng bám dính vào vô ngã của nhãn giới; chẳng bám dính vào ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng bám dính vào vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của nhãn giới, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của nhãn giới; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Chẳng bám dính vào không của nhãn giới, chẳng bám dính vào chẳng không của nhãn giới; chẳng bám dính vào không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng bám dính vào chẳng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Chẳng bám dính vào vô tướng của nhãn giới, chẳng bám dính vào hữu tướng của nhãn giới; chẳng bám dính vào vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng bám dính vào hữu tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của nhãn giới, chẳng bám dính vào hữu nguyện của nhãn giới; chẳng bám dính vào vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng bám dính vào hữu nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của sắc giới, chẳng bám dính vào chẳng phải có của sắc giới; chẳng bám dính vào có của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng bám dính vào chẳng phải có của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Chẳng bám dính vào thường của sắc giới, chẳng bám dính vào vô thường của sắc giới; chẳng bám dính vào thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng bám dính vào vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Chẳng bám dính vào vui của sắc giới, chẳng bám dính vào khổ của sắc giới; chẳng bám dính vào vui của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng bám dính vào khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Chẳng bám dính vào ngã của sắc giới, chẳng bám dính vào vô ngã của sắc giới; chẳng bám dính vào ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng bám dính vào vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của sắc giới, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của sắc giới; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Chẳng bám dính vào không của sắc giới, chẳng bám dính vào chẳng không của sắc giới; chẳng bám dính vào không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng bám dính vào chẳng không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Chẳng bám dính vào vô tướng của sắc giới, chẳng bám dính vào hữu tướng của sắc giới; chẳng bám dính vào vô tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng bám dính vào hữu tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của sắc giới, chẳng bám dính vào hữu nguyện của sắc giới; chẳng bám dính vào vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng bám dính vào hữu nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của nhãn thức giới, chẳng bám dính vào chẳng phải có của nhãn thức giới; chẳng bám dính vào có của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng bám dính vào chẳng phải có của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Chẳng bám dính vào thường của nhãn thức giới, chẳng bám dính vào vô thường của nhãn thức giới; chẳng bám dính vào thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng bám dính vào vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Chẳng bám dính vào vui của nhãn thức giới, chẳng bám dính vào khổ của nhãn thức giới; chẳng bám dính vào vui của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng bám dính vào khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Chẳng bám dính vào ngã của nhãn thức giới, chẳng bám dính vào vô ngã của nhãn thức giới; chẳng bám dính vào ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng bám dính vào vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của nhãn thức giới, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của nhãn thức giới; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Chẳng bám dính vào không của nhãn thức giới, chẳng bám dính vào chẳng không của nhãn thức giới; chẳng bám dính vào không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng bám dính vào chẳng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Chẳng bám dính vào vô tướng của nhãn thức giới, chẳng bám dính vào hữu tướng của nhãn thức giới; chẳng bám dính vào vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng bám dính vào hữu tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của nhãn thức giới, chẳng bám dính vào hữu nguyện của nhãn thức giới; chẳng bám dính vào vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng bám dính vào hữu nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của nhãn xúc, chẳng bám dính vào chẳng phải có của nhãn xúc; chẳng bám dính vào có của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng bám dính vào chẳng phải có của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Chẳng bám dính vào thường của nhãn xúc, chẳng bám dính vào vô thường của nhãn xúc; chẳng bám dính vào thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng bám dính vào vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Chẳng bám dính vào vui của nhãn xúc, chẳng bám dính vào khổ của nhãn xúc; chẳng bám dính vào vui của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng bám dính vào khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Chẳng bám dính vào ngã của nhãn xúc, chẳng bám dính vào vô ngã của nhãn xúc; chẳng bám dính vào ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng bám dính vào vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của nhãn xúc, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của nhãn xúc; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Chẳng bám dính vào không của nhãn xúc, chẳng bám dính vào chẳng không của nhãn xúc; chẳng bám dính vào không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng bám dính vào chẳng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Chẳng bám dính vào vô tướng của nhãn xúc, chẳng bám dính vào hữu tướng của nhãn xúc; chẳng bám dính vào vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng bám dính vào hữu tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của nhãn xúc, chẳng bám dính vào hữu nguyện của nhãn xúc; chẳng bám dính vào vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng bám dính vào hữu nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng bám dính vào chẳng phải có của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; chẳng bám dính vào có của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, chẳng bám dính vào chẳng phải có của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra.
Chẳng bám dính vào thường của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng bám dính vào vô thường của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; chẳng bám dính vào thường của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, chẳng bám dính vào vô thường của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra.
Chẳng bám dính vào vui của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng bám dính vào khổ của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; chẳng bám dính vào vui của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, chẳng bám dính vào khổ của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra.
Chẳng bám dính vào ngã của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng bám dính vào vô ngã của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; chẳng bám dính vào ngã của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, chẳng bám dính vào vô ngã của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra.
Chẳng bám dính vào không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng bám dính vào chẳng không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; chẳng bám dính vào không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, chẳng bám dính vào chẳng không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra.
Chẳng bám dính vào vô tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng bám dính vào hữu tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; chẳng bám dính vào vô tướng của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, chẳng bám dính vào hữu tướng của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng bám dính vào hữu nguyện của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; chẳng bám dính vào vô nguyện của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, chẳng bám dính vào hữu nguyện của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của địa giới, chẳng bám dính vào chẳng phải có của địa giới; chẳng bám dính vào có của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng bám dính vào chẳng phải có của thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Chẳng bám dính vào thường của địa giới, chẳng bám dính vào vô thường của địa giới; chẳng bám dính vào thường của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng bám dính vào vô thường của thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Chẳng bám dính vào vui của địa giới, chẳng bám dính vào khổ của địa giới; chẳng bám dính vào vui của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng bám dính vào khổ của thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Chẳng bám dính vào ngã của địa giới, chẳng bám dính vào vô ngã của địa giới; chẳng bám dính vào ngã của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng bám dính vào vô ngã của thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của địa giới, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của địa giới; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Chẳng bám dính vào không của địa giới, chẳng bám dính vào chẳng không của địa giới; chẳng bám dính vào không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng bám dính vào chẳng không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Chẳng bám dính vào vô tướng của địa giới, chẳng bám dính vào hữu tướng của địa giới; chẳng bám dính vào vô tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng bám dính vào hữu tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của địa giới, chẳng bám dính vào hữu nguyện của địa giới; chẳng bám dính vào vô nguyện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng bám dính vào hữu nguyện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của nhân duyên, chẳng bám dính vào chẳng phải có của nhân duyên; chẳng bám dính vào có của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra, chẳng bám dính vào chẳng phải có của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra.
Chẳng bám dính vào thường của nhân duyên, chẳng bám dính vào vô thường của nhân duyên; chẳng bám dính vào thường của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra, chẳng bám dính vào vô thường của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra.
Chẳng bám dính vào vui của nhân duyên, chẳng bám dính vào khổ của nhân duyên; chẳng bám dính vào vui của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra, chẳng bám dính vào khổ của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra.
Chẳng bám dính vào ngã của nhân duyên, chẳng bám dính vào vô ngã của nhân duyên; chẳng bám dính vào ngã của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra, chẳng bám dính vào vô ngã của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của nhân duyên, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của nhân duyên; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra.
Chẳng bám dính vào không của nhân duyên, chẳng bám dính vào chẳng không của nhân duyên; chẳng bám dính vào không của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra, chẳng bám dính vào chẳng không của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra.
Chẳng bám dính vào vô tướng của nhân duyên, chẳng bám dính vào hữu tướng của nhân duyên; chẳng bám dính vào vô tướng của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra, chẳng bám dính vào hữu tướng của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của nhân duyên, chẳng bám dính vào hữu nguyện của nhân duyên; chẳng bám dính vào vô nguyện của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra, chẳng bám dính vào hữu nguyện của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của vô minh, chẳng bám dính vào chẳng phải có của vô minh; chẳng bám dính vào có của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, chẳng bám dính vào chẳng phải có của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Chẳng bám dính vào thường của vô minh, chẳng bám dính vào vô thường của vô minh; chẳng bám dính vào thường của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não, chẳng bám dính vào vô thường của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não. Chẳng bám dính vào vui của vô minh, chẳng bám dính vào khổ của vô minh; chẳng bám dính vào vui của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não, chẳng bám dính vào khổ của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Chẳng bám dính vào ngã của vô minh, chẳng bám dính vào vô ngã của vô minh; chẳng bám dính vào ngã của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não, chẳng bám dính vào vô ngã của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của vô minh, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của vô minh; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Chẳng bám dính vào không của vô minh, chẳng bám dính vào chẳng không của vô minh; chẳng bám dính vào không của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não, chẳng bám dính vào chẳng không của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não. Chẳng bám dính vào vô tướng của vô minh, chẳng bám dính vào hữu tướng của vô minh; chẳng bám dính vào vô tướng của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não, chẳng bám dính vào hữu tướng của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não. Chẳng bám dính vào vô nguyện của vô minh, chẳng bám dính vào hữu nguyện của vô minh; chẳng bám dính vào vô nguyện của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não, chẳng bám dính vào hữu nguyện của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não. Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào chẳng phải có của Bố thí ba-la-mật-đa; chẳng bám dính vào có của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào chẳng phải có của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa.
Chẳng bám dính vào thường của Bố thí ba-lamật-đa, chẳng bám dính vào vô thường của Bố thí ba-la-mật-đa; chẳng bám dính vào thường của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa, chẳng bám dính vào vô thường của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa.
Chẳng bám dính vào vui của Bố thí ba-la-mậtđa, chẳng bám dính vào khổ của Bố thí ba-la-mậtđa; chẳng bám dính vào vui của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào khổ của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Chẳng bám dính vào ngã của Bố thí ba-la-mậtđa, chẳng bám dính vào vô ngã của Bố thí ba-lamật-đa; chẳng bám dính vào ngã của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào vô ngã của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của Bố thí ba-lamật-đa, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của Bố thí ba-la-mật-đa; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Chẳng bám dính vào không của Bố thí ba-lamật-đa, chẳng bám dính vào chẳng không của Bố thí ba-la-mật-đa; chẳng bám dính vào không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa, chẳng bám dính vào chẳng không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa.
Chẳng bám dính vào vô tướng của Bố thí bala-mật-đa, chẳng bám dính vào hữu tướng của Bố thí ba-la-mật-đa; chẳng bám dính vào vô tướng của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào hữu tướng của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của Bố thí bala-mật-đa, chẳng bám dính vào hữu nguyện của Bố thí ba-la-mật-đa; chẳng bám dính vào vô nguyện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào hữu nguyện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của pháp không bên trong, chẳng bám dính vào chẳng phải có của pháp không bên trong; chẳng bám dính vào có của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng bám dính vào chẳng phải có của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh. Chẳng bám dính vào thường của pháp không bên trong, chẳng bám dính vào vô thường của pháp không bên trong; chẳng bám dính vào thường của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, chẳng bám dính vào vô thường của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Chẳng bám dính vào vui của pháp không bên trong, chẳng bám dính vào khổ của pháp không bên trong; chẳng bám dính vào vui của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, chẳng bám dính vào khổ của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh. Chẳng bám dính vào ngã của pháp không bên trong, chẳng bám dính vào vô ngã của pháp không bên trong; chẳng bám dính vào ngã của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, chẳng bám dính vào vô ngã của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của pháp không bên trong, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của pháp không bên trong; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Chẳng bám dính vào không của pháp không bên trong, chẳng bám dính vào chẳng không của pháp không bên trong; chẳng bám dính vào không của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, chẳng bám dính vào chẳng không của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Chẳng bám dính vào vô tướng của pháp không bên trong, chẳng bám dính vào hữu tướng của pháp không bên trong; chẳng bám dính vào vô tướng của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, chẳng bám dính vào hữu tướng của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của pháp không bên trong, chẳng bám dính vào hữu nguyện của pháp không bên trong; chẳng bám dính vào vô nguyện của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, chẳng bám dính vào hữu nguyện của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của chân như, chẳng bám dính vào chẳng phải có của chân như; chẳng bám dính vào có của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng bám dính vào chẳng phải có của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Chẳng bám dính vào thường của chân như, chẳng bám dính vào vô thường của chân như; chẳng bám dính vào thường của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng bám dính vào vô thường của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Chẳng bám dính vào vui của chân như, chẳng bám dính vào khổ của chân như; chẳng bám dính vào vui của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng bám dính vào khổ của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Chẳng bám dính vào ngã của chân như, chẳng bám dính vào vô ngã của chân như; chẳng bám dính vào ngã của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng bám dính vào vô ngã của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của chân như, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của chân như; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Chẳng bám dính vào không của chân như, chẳng bám dính vào chẳng không của chân như; chẳng bám dính vào không của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng bám dính vào chẳng không của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Chẳng bám dính vào vô tướng của chân như, chẳng bám dính vào hữu tướng của chân như; chẳng bám dính vào vô tướng của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng bám dính vào hữu tướng của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của chân như, chẳng bám dính vào hữu nguyện của chân như; chẳng bám dính vào vô nguyện của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng bám dính vào hữu nguyện của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của bốn Niệm trụ, chẳng bám dính vào chẳng phải có của bốn Niệm trụ; chẳng bám dính vào có của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, chẳng bám dính vào chẳng phải có của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Chẳng bám dính vào thường của bốn Niệm trụ, chẳng bám dính vào vô thường của bốn Niệm trụ; chẳng bám dính vào thường của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, chẳng bám dính vào vô thường của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Chẳng bám dính vào vui của bốn Niệm trụ, chẳng bám dính vào khổ của bốn Niệm trụ; chẳng bám dính vào vui của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, chẳng bám dính vào khổ của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Chẳng bám dính vào ngã của bốn Niệm trụ, chẳng bám dính vào vô ngã của bốn Niệm trụ; chẳng bám dính vào ngã của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, chẳng bám dính vào vô ngã của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của bốn Niệm trụ, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của bốn Niệm trụ; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Chẳng bám dính vào không của bốn Niệm trụ, chẳng bám dính vào chẳng không của bốn Niệm trụ; chẳng bám dính vào không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, chẳng bám dính vào chẳng không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Chẳng bám dính vào vô tướng của bốn Niệm trụ, chẳng bám dính vào hữu tướng của bốn Niệm trụ; chẳng bám dính vào vô tướng của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, chẳng bám dính vào hữu tướng của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của bốn Niệm trụ, chẳng bám dính vào hữu nguyện của bốn Niệm trụ; chẳng bám dính vào vô nguyện của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, chẳng bám dính vào hữu nguyện của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của Thánh đế khổ, chẳng bám dính vào chẳng phải có của Thánh đế khổ; chẳng bám dính vào có của Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng bám dính vào chẳng phải có của Thánh đế tập, diệt, đạo.
Chẳng bám dính vào thường của Thánh đế khổ, chẳng bám dính vào vô thường của Thánh đế khổ; chẳng bám dính vào thường của Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng bám dính vào vô thường của Thánh đế tập, diệt, đạo.
Chẳng bám dính vào vui của Thánh đế khổ, chẳng bám dính vào khổ của Thánh đế khổ; chẳng bám dính vào vui của Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng bám dính vào khổ của Thánh đế tập, diệt, đạo.
Chẳng bám dính vào ngã của Thánh đế khổ, chẳng bám dính vào vô ngã của Thánh đế khổ; chẳng bám dính vào ngã của Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng bám dính vào vô ngã của Thánh đế tập, diệt, đạo.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của Thánh đế khổ, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của Thánh đế khổ; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của Thánh đế tập, diệt, đạo.
Chẳng bám dính vào không của Thánh đế khổ, chẳng bám dính vào chẳng không của Thánh đế khổ; chẳng bám dính vào không của Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng bám dính vào chẳng không của Thánh đế tập, diệt, đạo.
Chẳng bám dính vào vô tướng của Thánh đế khổ, chẳng bám dính vào hữu tướng của Thánh đế khổ; chẳng bám dính vào vô tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng bám dính vào hữu tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của Thánh đế khổ, chẳng bám dính vào hữu nguyện của Thánh đế khổ; chẳng bám dính vào vô nguyện của Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng bám dính vào hữu nguyện của Thánh đế tập, diệt, đạo.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của bốn Tĩnh lự, chẳng bám dính vào chẳng phải có của bốn Tĩnh lự; chẳng bám dính vào có của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, chẳng bám dính vào chẳng phải có của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Chẳng bám dính vào thường của bốn Tĩnh lự, chẳng bám dính vào vô thường của bốn Tĩnh lự; chẳng bám dính vào thường của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, chẳng bám dính vào vô thường của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Chẳng bám dính vào vui của bốn Tĩnh lự, chẳng bám dính vào khổ của bốn Tĩnh lự; chẳng bám dính vào vui của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, chẳng bám dính vào khổ của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Chẳng bám dính vào ngã của bốn Tĩnh lự, chẳng bám dính vào vô ngã của bốn Tĩnh lự; chẳng bám dính vào ngã của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, chẳng bám dính vào vô ngã của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của bốn Tĩnh lự, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của bốn Tĩnh lự; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Chẳng bám dính vào không của bốn Tĩnh lự, chẳng bám dính vào chẳng không của bốn Tĩnh lự; chẳng bám dính vào không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, chẳng bám dính vào chẳng không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Chẳng bám dính vào vô tướng của bốn Tĩnh lự, chẳng bám dính vào hữu tướng của bốn Tĩnh lự; chẳng bám dính vào vô tướng của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, chẳng bám dính vào hữu tướng của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của bốn Tĩnh lự, chẳng bám dính vào hữu nguyện của bốn Tĩnh lự; chẳng bám dính vào vô nguyện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, chẳng bám dính vào hữu nguyện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của tám Giải thoát, chẳng bám dính vào chẳng phải có của tám Giải thoát; chẳng bám dính vào có của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, chẳng bám dính vào chẳng phải có của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Chẳng bám dính vào thường của tám Giải thoát, chẳng bám dính vào vô thường của tám Giải thoát; chẳng bám dính vào thường của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, chẳng bám dính vào vô thường của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Chẳng bám dính vào vui của tám Giải thoát, chẳng bám dính vào khổ của tám Giải thoát; chẳng bám dính vào vui của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, chẳng bám dính vào khổ của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Chẳng bám dính vào ngã của tám Giải thoát, chẳng bám dính vào vô ngã của tám Giải thoát; chẳng bám dính vào ngã của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, chẳng bám dính vào vô ngã của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của tám Giải thoát, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của tám Giải thoát; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Chẳng bám dính vào không của tám Giải thoát, chẳng bám dính vào chẳng không của tám Giải thoát; chẳng bám dính vào không của tám
Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, chẳng bám dính vào chẳng không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Chẳng bám dính vào vô tướng của tám Giải thoát, chẳng bám dính vào hữu tướng của tám Giải thoát; chẳng bám dính vào vô tướng của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, chẳng bám dính vào hữu tướng của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của tám Giải thoát, chẳng bám dính vào hữu nguyện của tám Giải thoát; chẳng bám dính vào vô nguyện của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, chẳng bám dính vào hữu nguyện của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của pháp môn giải thoát Không, chẳng bám dính vào chẳng phải có của pháp môn giải thoát Không; chẳng bám dính vào có của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, chẳng bám dính vào chẳng phải có của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Chẳng bám dính vào thường của pháp môn giải thoát Không, chẳng bám dính vào vô thường của pháp môn giải thoát Không; chẳng bám dính vào thường của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, chẳng bám dính vào vô thường của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Chẳng bám dính vào vui của pháp môn giải thoát Không, chẳng bám dính vào khổ của pháp môn giải thoát Không; chẳng bám dính vào vui của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, chẳng bám dính vào khổ của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Chẳng bám dính vào ngã của pháp môn giải thoát Không, chẳng bám dính vào vô ngã của pháp môn giải thoát Không; chẳng bám dính vào ngã của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, chẳng bám dính vào vô ngã của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Không, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Không; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Chẳng bám dính vào không của pháp môn giải thoát Không, chẳng bám dính vào chẳng không của pháp môn giải thoát Không; chẳng bám dính vào không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, chẳng bám dính vào chẳng không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Chẳng bám dính vào vô tướng của pháp môn giải thoát Không, chẳng bám dính vào hữu tướng của pháp môn giải thoát Không; chẳng bám dính vào vô tướng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, chẳng bám dính vào hữu tướng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của pháp môn giải thoát Không, chẳng bám dính vào hữu nguyện của pháp môn giải thoát Không; chẳng bám dính vào vô nguyện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, chẳng bám dính vào hữu nguyện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng bám dính vào chẳng phải có của tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng bám dính vào có của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng bám dính vào chẳng phải có của tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Chẳng bám dính vào thường của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng bám dính vào vô thường của tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng bám dính vào thường của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng bám dính vào vô thường của tất cả pháp môn Tamma-địa.
Chẳng bám dính vào vui của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng bám dính vào khổ của tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng bám dính vào vui của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng bám dính vào khổ của tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Chẳng bám dính vào ngã của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng bám dính vào vô ngã của tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng bám dính vào ngã của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng bám dính vào vô ngã của tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Chẳng bám dính vào không của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng bám dính vào chẳng không của tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng bám dính vào không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng bám dính vào chẳng không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Chẳng bám dính vào vô tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng bám dính vào hữu tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng bám dính vào vô tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng bám dính vào hữu tướng của tất cả pháp môn Tamma-địa.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng bám dính vào hữu nguyện của tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng bám dính vào vô nguyện của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng bám dính vào hữu nguyện của tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của bậc Cực hỷ, chẳng bám dính vào chẳng phải có của bậc Cực hỷ; chẳng bám dính vào có của bậc Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ, Pháp vân, chẳng bám dính vào chẳng phải có của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.
Chẳng bám dính vào thường của bậc Cực hỷ, chẳng bám dính vào vô thường của bậc Cực hỷ; chẳng bám dính vào thường của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, chẳng bám dính vào vô thường của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.
Chẳng bám dính vào vui của bậc Cực hỷ, chẳng bám dính vào khổ của bậc Cực hỷ; chẳng bám dính vào vui của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, chẳng bám dính vào khổ của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.
Chẳng bám dính vào ngã của bậc Cực hỷ, chẳng bám dính vào vô ngã của bậc Cực hỷ; chẳng bám dính vào ngã của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, chẳng bám dính vào vô ngã của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của bậc Cực hỷ, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của bậc Cực hỷ; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.
Chẳng bám dính vào không của bậc Cực hỷ, chẳng bám dính vào chẳng không của bậc Cực hỷ; chẳng bám dính vào không của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, chẳng bám dính vào chẳng không của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.
Chẳng bám dính vào vô tướng của bậc Cực hỷ, chẳng bám dính vào hữu tướng của bậc Cực hỷ; chẳng bám dính vào vô tướng của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, chẳng bám dính vào hữu tướng của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của bậc Cực hỷ, chẳng bám dính vào hữu nguyện của bậc Cực hỷ; chẳng bám dính vào vô nguyện của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, chẳng bám dính vào hữu nguyện của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của năm loại mắt, chẳng bám dính vào chẳng phải có của năm loại mắt; chẳng bám dính vào có của sáu phép thần thông, chẳng bám dính vào chẳng phải có của sáu phép thần thông.
Chẳng bám dính vào thường của năm loại mắt, chẳng bám dính vào vô thường của năm loại mắt; chẳng bám dính vào thường của sáu phép thần thông, chẳng bám dính vào vô thường của sáu phép thần thông.
Chẳng bám dính vào vui của năm loại mắt, chẳng bám dính vào khổ của năm loại mắt; chẳng bám dính vào vui của sáu phép thần thông, chẳng bám dính vào khổ của sáu phép thần thông.
Chẳng bám dính vào ngã của năm loại mắt, chẳng bám dính vào vô ngã của năm loại mắt; chẳng bám dính vào ngã của sáu phép thần thông, chẳng bám dính vào vô ngã của sáu phép thần thông.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của năm loại mắt, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của năm loại mắt; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của sáu phép thần thông, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của sáu phép thần thông.
Chẳng bám dính vào không của năm loại mắt, chẳng bám dính vào chẳng không của năm loại mắt; chẳng bám dính vào không của sáu phép thần thông, chẳng bám dính vào chẳng không của sáu phép thần thông.
Chẳng bám dính vào vô tướng của năm loại mắt, chẳng bám dính vào hữu tướng của năm loại mắt; chẳng bám dính vào vô tướng của sáu phép thần thông, chẳng bám dính vào hữu tướng của sáu phép thần thông.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của năm loại mắt, chẳng bám dính vào hữu nguyện của năm loại mắt; chẳng bám dính vào vô nguyện của sáu phép thần thông, chẳng bám dính vào hữu nguyện của sáu phép thần thông.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có nơi mười lực của Phật, chẳng bám dính vào chẳng phải có nơi mười lực của Phật; chẳng bám dính vào có của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, bốn pháp đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng bám dính vào chẳng phải có của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Chẳng bám dính vào thường nơi mười lực của Phật, chẳng bám dính vào vô thường nơi mười lực của Phật; chẳng bám dính vào thường của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng bám dính vào vô thường của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Chẳng bám dính vào vui nơi mười lực của Phật, chẳng bám dính vào khổ nơi mười lực của Phật; chẳng bám dính vào vui của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng bám dính vào khổ của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Chẳng bám dính vào ngã nơi mười lực của Phật, chẳng bám dính vào vô ngã nơi mười lực của Phật; chẳng bám dính vào ngã của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng bám dính vào vô ngã của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh nơi mười lực của Phật, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh nơi mười lực của Phật; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Chẳng bám dính vào không nơi mười lực của Phật, chẳng bám dính vào chẳng không nơi mười lực của Phật; chẳng bám dính vào không của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng bám dính vào chẳng không của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Chẳng bám dính vào vô tướng nơi mười lực của Phật, chẳng bám dính vào hữu tướng nơi mười lực của Phật; chẳng bám dính vào vô tướng của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng bám dính vào hữu tướng của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Chẳng bám dính vào vô nguyện nơi mười lực của Phật, chẳng bám dính vào hữu nguyện nơi mười lực của Phật; chẳng bám dính vào vô nguyện của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng bám dính vào hữu nguyện của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của ba mươi hai tướng Đại sĩ, chẳng bám dính vào chẳng phải có của ba mươi hai tướng Đại sĩ; chẳng bám dính vào có của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, chẳng bám dính vào chẳng phải có của tám mươi vẻ đẹp kèm theo.
Chẳng bám dính vào thường của ba mươi hai tướng Đại sĩ, chẳng bám dính vào vô thường của ba mươi hai tướng Đại sĩ; chẳng bám dính vào thường của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, chẳng bám dính vào vô thường của tám mươi vẻ đẹp kèm theo.
Chẳng bám dính vào vui của ba mươi hai tướng Đại sĩ, chẳng bám dính vào khổ của ba mươi hai tướng Đại sĩ; chẳng bám dính vào vui của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, chẳng bám dính vào khổ của tám mươi vẻ đẹp kèm theo.
Chẳng bám dính vào ngã của ba mươi hai tướng Đại sĩ, chẳng bám dính vào vô ngã của ba mươi hai tướng Đại sĩ; chẳng bám dính vào ngã của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, chẳng bám dính vào vô ngã của tám mươi vẻ đẹp kèm theo.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo.
Chẳng bám dính vào không của ba mươi hai tướng Đại sĩ, chẳng bám dính vào chẳng không của ba mươi hai tướng Đại sĩ; chẳng bám dính vào không của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, chẳng bám dính vào chẳng không của tám mươi vẻ đẹp kèm theo.
Chẳng bám dính vào vô tướng của ba mươi hai tướng Đại sĩ, chẳng bám dính vào hữu tướng của ba mươi hai tướng Đại sĩ; chẳng bám dính vào vô tướng của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, chẳng bám dính vào hữu tướng của tám mươi vẻ đẹp kèm theo.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của ba mươi hai tướng Đại sĩ, chẳng bám dính vào hữu nguyện của ba mươi hai tướng Đại sĩ; chẳng bám dính vào vô nguyện của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, chẳng bám dính vào hữu nguyện của tám mươi vẻ đẹp kèm theo.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của pháp không quên mất, chẳng bám dính vào chẳng phải có của pháp không quên mất; chẳng bám dính vào có của tánh luôn luôn xả, chẳng bám dính vào chẳng phải có của tánh luôn luôn xả.
Chẳng bám dính vào thường của pháp không quên mất, chẳng bám dính vào vô thường của pháp không quên mất; chẳng bám dính vào thường của tánh luôn luôn xả, chẳng bám dính vào vô thường của tánh luôn luôn xả.
Chẳng bám dính vào vui của pháp không quên mất, chẳng bám dính vào khổ của pháp không quên mất; chẳng bám dính vào vui của tánh luôn luôn xả, chẳng bám dính vào khổ của tánh luôn luôn xả.
Chẳng bám dính vào ngã của pháp không quên mất, chẳng bám dính vào vô ngã của pháp không quên mất; chẳng bám dính vào ngã của tánh luôn luôn xả, chẳng bám dính vào vô ngã của tánh luôn luôn xả.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của pháp không quên mất, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của pháp không quên mất; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của tánh luôn luôn xả, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của tánh luôn luôn xả.
Chẳng bám dính vào không của pháp không quên mất, chẳng bám dính vào chẳng không của pháp không quên mất; chẳng bám dính vào không của tánh luôn luôn xả, chẳng bám dính vào chẳng không của tánh luôn luôn xả.
Chẳng bám dính vào vô tướng của pháp không quên mất, chẳng bám dính vào hữu tướng của pháp không quên mất; chẳng bám dính vào vô tướng của tánh luôn luôn xả, chẳng bám dính vào hữu tướng của tánh luôn luôn xả.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của pháp không quên mất, chẳng bám dính vào hữu nguyện của pháp không quên mất; chẳng bám dính vào vô nguyện của tánh luôn luôn xả, chẳng bám dính vào hữu nguyện của tánh luôn luôn xả.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của trí Nhất thiết, chẳng bám dính vào chẳng phải có của trí Nhất thiết; chẳng bám dính vào có của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, chẳng bám dính vào chẳng phải có của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Chẳng bám dính vào thường của trí Nhất thiết, chẳng bám dính vào vô thường của trí Nhất thiết; chẳng bám dính vào thường của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, chẳng bám dính vào vô thường của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Chẳng bám dính vào vui của trí Nhất thiết, chẳng bám dính vào khổ của trí Nhất thiết; chẳng bám dính vào vui của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, chẳng bám dính vào khổ của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Chẳng bám dính vào ngã của trí Nhất thiết, chẳng bám dính vào vô ngã của trí Nhất thiết; chẳng bám dính vào ngã của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, chẳng bám dính vào vô ngã của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của trí Nhất thiết, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của trí Nhất thiết; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Chẳng bám dính vào không của trí Nhất thiết, chẳng bám dính vào chẳng không của trí Nhất thiết; chẳng bám dính vào không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, chẳng bám dính vào chẳng không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Chẳng bám dính vào vô tướng của trí Nhất thiết, chẳng bám dính vào hữu tướng của trí Nhất thiết; chẳng bám dính vào vô tướng của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, chẳng bám dính vào hữu tướng của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Chẳng bám dính vào vô nguyện của trí Nhất thiết, chẳng bám dính vào hữu nguyện của trí Nhất thiết; chẳng bám dính vào vô nguyện của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, chẳng bám dính vào hữu nguyện của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của quả Dự lưu, chẳng bám dính vào chẳng phải có của quả Dự lưu; chẳng bám dính vào có của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác, chẳng bám dính vào chẳng phải có của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác.
Chẳng bám dính vào thường của quả Dự lưu, chẳng bám dính vào vô thường của quả Dự lưu; chẳng bám dính vào thường của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác, chẳng bám dính vào vô thường của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác.
Chẳng bám dính vào vui của quả Dự lưu, chẳng bám dính vào khổ của quả Dự lưu; chẳng bám dính vào vui của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác, chẳng bám dính vào khổ của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán và quả vị Độc giác.
Chẳng bám dính vào ngã của quả Dự lưu, chẳng bám dính vào vô ngã của quả Dự lưu; chẳng bám dính vào ngã của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác, chẳng bám dính vào vô ngã của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của quả Dự lưu, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của quả Dự lưu; chẳng bám dính vào tịch tĩnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác.
Chẳng bám dính vào không của quả Dự lưu, chẳng bám dính vào chẳng không của quả Dự lưu; chẳng bám dính vào không của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác, chẳng bám dính vào chẳng không của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác.
Chẳng bám dính vào vô tướng của quả Dự lưu, chẳng bám dính vào hữu tướng của quả Dự lưu; chẳng bám dính vào vô tướng của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác, chẳng bám dính vào hữu tướng của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của quả Dự lưu, chẳng bám dính vào hữu nguyện của quả Dự lưu; chẳng bám dính vào vô nguyện của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác, chẳng bám dính vào hữu nguyện của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng bám dính vào có của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng bám dính vào chẳng phải có của tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng bám dính vào có nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng bám dính vào chẳng phải có nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Chẳng bám dính vào thường của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng bám dính vào vô thường của tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng bám dính vào thường nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng bám dính vào vô thường nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Chẳng bám dính vào vui của tất cả hạnh Đại
Bồ-tát, chẳng bám dính vào khổ của tất cả hạnh
Đại Bồ-tát; chẳng bám dính vào vui nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng bám dính vào khổ nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Chẳng bám dính vào ngã của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng bám dính vào vô ngã của tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng bám dính vào ngã nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng bám dính vào vô ngã nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Chẳng bám dính vào tịch tĩnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng bám dính vào tịch tĩnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng bám dính vào chẳng tịch tĩnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Chẳng bám dính vào không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng bám dính vào chẳng không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng bám dính vào không nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng bám dính vào chẳng không nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Chẳng bám dính vào vô tướng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng bám dính vào hữu tướng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng bám dính vào vô tướng nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng bám dính vào hữu tướng nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Chẳng bám dính vào vô nguyện của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng bám dính vào hữu nguyện của tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng bám dính vào vô nguyện nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng bám dính vào hữu nguyện nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta chẳng hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta cũng hành, cũng không hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta chẳng phải hành, chẳng phải chẳng hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng vì Bố thí ba-la-mậtđa mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng vì Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng vì pháp không bên trong mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng vì pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật- đa, chẳng vì chân như mà tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng vì pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng vì chứng nhập chánh tánh, xa lìa sinh tử mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng vì chứng được quả vị không thoái chuyển mà tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa; chẳng vì đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình mà tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng vì nhằm làm nghiêm tịnh cõi Phật mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng vì bốn Niệm trụ mà tu hành Bát-nhã bala-mật-đa; chẳng vì bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng vì Thánh đế khổ mà tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng vì Thánh đế tập, diệt, đạo mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng vì bốn Tĩnh lự mà tu hành Bát-nhã bala-mật-đa; chẳng vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật- đa, chẳng vì tám Giải thoát mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng vì pháp môn giải thoát Không mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng vì tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng vì bậc Cực hỷ mà tu hành Bát-nhã bala-mật-đa; chẳng vì bậc Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ, Pháp vân mà tu hành Bát-nhã bala-mật-đa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng vì Nhục nhãn mà tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng vì Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng vì mười lực của Phật mà tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa; chẳng vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, bốn pháp đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng vì ba mươi hai tướng Đại sĩ mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng vì tám mươi vẻ đẹp kèm theo mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng vì pháp không quên mất mà tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa; chẳng vì tánh luôn luôn xả mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng vì trí Nhất thiết mà tu hành Bát-nhã bala-mật-đa; chẳng vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, trí Nhất thiết tướng vi diệu mà tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng vì vượt qua quả Dự lưu mà tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa; chẳng vì vượt qua các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa; chẳng vì quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy sự sai biệt của các pháp tánh.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng vì trí chứng Thiên nhãn thông mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng vì trí chứng Thiên nhĩ thông mà tu hành Bát-nhã bala-mật-đa; chẳng vì trí chứng Tha tâm thông mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng vì trí chứng Túc trụ tùy niệm thông mà tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng vì trí chứng Thần cảnh thông mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng vì trí chứng Lậu tận thông mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Xá-lợi Tử, vì các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, ngay cả sự tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa còn chẳng thấy có, huống là thấy có sự tu hành sáu phép thần thông của Bồ-tát, Như Lai.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta dùng trí chứng Thiên nhãn thông, để thấy sự chết nơi này, sinh nơi kia của tất cả hữu tình, trong khắp vô số thế giới chư Phật mười phương.
Chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta dùng trí chứng Thiên nhĩ thông để nghe tiếng thuyết pháp của chư Phật, Bồ-tát, trong khắp vô số thế giới chư Phật mười phương.
Chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta dùng trí chứng Tha tâm thông để biết tâm và tâm sở pháp của tất cả hữu tình, trong khắp vô số thế giới chư Phật mười phương.
Chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta dùng trí chứng Túc trụ tùy niệm thông để nhớ lại các sự việc đời trước của tất cả hữu tình, trong khắp vô số thế giới chư Phật mười phương.
Chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta dùng trí chứng Thần cảnh thông để đi đến chỗ chư Phật và Bồ-tát, trong khắp vô số thế giới chư Phật mười phương, để cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen.
Chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta dùng trí chứng Lậu tận thông, để quán biết lậu của tất cả hữu tình, trong khắp vô số thế giới chư Phật mười phương, hết hay chẳng hết.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, nên có thể khéo tạo sự an lập cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở cảnh giới Niết-bàn Vô dư, tất cả ác ma không thể tùy tiện, tất cả phiền não đều được phục diệt, các việc trong đời tùy theo ý muốn.
Tất cả các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng Đại Bồ-tát, ở vô số thế giới trong mười phương, cùng hộ niệm cho Bồ-tát như vậy, khiến chẳng thoái lui xuống nơi các hàng Thanh văn, Độc giác.
Chư Thiên trong các cõi Tứ đại Thiên vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm, trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh và tất cả hàng Thanh văn, Độc giác, trong vô số thế giới ở mười phương, đều cùng ủng hộ, bảo vệ Bồ-tát như vậy, khiến mọi việc làm không bị trở ngại, tật bệnh, lo phiền của thân tâm đều được thuyên giảm, tiêu trừ; dù có nghiệp tội sẽ nhận chịu khổ báo ở đời sau cũng chuyển thành nhẹ. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì Đại Bồ-tát ấy đã luôn thể hiện tâm từ bi đối với tất cả hữu tình.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã bala-mật-đa nhờ sức oai thần nên dùng ít gia hạnh mà có thể dẫn phát một cách tối thắng tự tại pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa khiến mau hiện khởi, tùy nơi sinh thường được phụng sự tất cả Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cho đến khi chứng được điều mong cầu là quả vị Giác ngộ cao tột, ở trong khoảng ấy thường chẳng xa Phật. Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, nên đạt được vô lượng, vô số công đức vi diệu không thể nghĩ bàn như thế.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Có sự tương ưng hoặc chẳng tương ưng, bình đẳng hoặc chẳng bình đẳng, giữa pháp với pháp. Vì sao? Xá-lợi Tử, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy có sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng, bình đẳng hoặc chẳng bình đẳng giữa pháp với pháp.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Đối với pháp giới, ta mau hiện Đẳng Giác, hoặc chẳng mau hiện Đẳng Giác. Vì sao? Xá-lợi Tử, vì đối với pháp giới, Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy có một pháp nhỏ nhiệm nào có thể hiện Đẳng Giác.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy có một pháp nào lìa pháp giới, chẳng thấy có pháp giới lìa các pháp mà có, chẳng thấy các pháp tức là pháp giới cũng chẳng thấy pháp giới tức là các pháp.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Pháp giới có thể làm nhân duyên cho các pháp; chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Các pháp có thể làm nhân duyên cho pháp giới.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Pháp này có thể chứng pháp giới, pháp này chẳng có thể chứng pháp giới. Vì sao? Xá-lợi Tử, vì Đại Bồ-tát ấy, đối với pháp còn chẳng thấy có huống là thấy có pháp có thể chứng pháp giới, hoặc chẳng có thể chứng. Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy sự tương ưng giữa sắc với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với sắc; chẳng thấy sự tương ưng giữa thọ, tưởng, hành, thức với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với thọ, tưởng, hành, thức. Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa nhãn xứ với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với nhãn xứ; chẳng thấy sự tương ưng giữa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa sắc xứ với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với sắc xứ; chẳng thấy sự tương ưng giữa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa nhãn giới với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với nhãn giới; chẳng thấy sự tương ưng giữa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa sắc giới với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với sắc giới; chẳng thấy sự tương ưng giữa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa nhãn thức giới với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với nhãn thức giới; chẳng thấy sự tương ưng giữa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa nhãn xúc với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với nhãn xúc; chẳng thấy sự tương ưng giữa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; chẳng thấy sự tương ưng giữa các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa địa giới với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với địa giới; chẳng thấy sự tương ưng giữa thủy, hỏa, phong, không, thức giới với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa nhân duyên với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với nhân duyên; chẳng thấy sự tương ưng giữa các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên khác sinh ra.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa vô minh với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với vô minh; chẳng thấy sự tương ưng giữa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa Bố thí ba-lamật-đa với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với Bố thí ba-la-mật-đa; chẳng thấy sự tương ưng giữa Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa pháp không bên trong với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với pháp không bên trong; chẳng thấy sự tương ưng giữa pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa chân như với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với chân như; chẳng thấy sự tương ưng giữa pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa bốn Niệm trụ với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với bốn Niệm trụ; chẳng thấy sự tương ưng giữa bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa Thánh đế khổ với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với Thánh đế khổ; chẳng thấy sự tương ưng giữa Thánh đế tập, diệt, đạo với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với Thánh đế tập, diệt, đạo.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa bốn Tĩnh lự với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với bốn Tĩnh lự; chẳng thấy sự tương ưng giữa bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa tám Giải thoát với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với tám Giải thoát; chẳng thấy sự tương ưng giữa tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa pháp môn giải thoát Không với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với pháp môn giải thoát Không; chẳng thấy sự tương ưng giữa pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa tất cả pháp môn Đà-la-ni với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng thấy sự tương ưng giữa tất cả pháp môn Tam-mađịa với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa bậc Cực hỷ với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với bậc Cực hỷ; chẳng thấy sự tương ưng giữa bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa năm loại mắt với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với năm loại mắt; chẳng thấy sự tương ưng giữa sáu phép thần thông với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với sáu phép thần thông.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật- đa, chẳng thấy sự tương ưng giữa mười lực của Phật với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với mười lực của Phật; chẳng thấy sự tương ưng giữa bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, bốn pháp đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa ba mươi hai tướng Đại sĩ với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với ba mươi hai tướng Đại sĩ; chẳng thấy sự tương ưng giữa tám mươi vẻ đẹp kèm theo với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với tám mươi vẻ đẹp kèm theo.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa pháp không quên mất với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với pháp không quên mất; chẳng thấy sự tương ưng giữa tánh luôn luôn xả với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với tánh luôn luôn xả.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa trí Nhất thiết với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với trí Nhất thiết; chẳng thấy sự tương ưng giữa trí
Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa quả Dự lưu với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với quả Dự lưu; chẳng thấy sự tương ưng giữa các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán và quả vị Độc giác.
Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, chẳng thấy sự tương ưng giữa tất cả hạnh Đại Bồ-tát với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng thấy sự tương ưng giữa quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, nếu có thể đạt được các tương ưng như vậy, thì đó là sự tương ưng bậc nhất với không.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, do vì tương ưng với không như vậy, nên chẳng hề rơi xuống các bậc Thanh văn, Độc giác; luôn dốc làm nghiêm tịnh cõi Phật, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, trong các tương ưng thì tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa là cao tột nhất, tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, tối cao, tối cực, vô thượng, vô thượng thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì sự tương ưng với Bátnhã ba-la-mật-đa là cao tột nhất, tức là tương ưng với không, tức là tương ưng với vô tướng, tức là tương ưng với vô nguyện. Do nhân duyên này, nên đạt được cao tột nhất.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, khi tương ưng với Bát-nhã ba-la-mậtđa như vậy, liền biết ngay là được thọ ký, hoặc gần được thọ ký làm Phật. Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy do sự tương ưng này, có thể làm việc lợi ích lớn cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình.
Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta được thọ ký nhất định sẽ làm Phật, hoặc gần được thọ ký; chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta có thể làm nghiêm tịnh cõi Phật; chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta có thể đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình; cũng chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta sẽ chứng được điều mong cầu là quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển bánh xe pháp mầu nhiệm, độ vô lượng chúng sinh. Vì sao? Xá-lợi Tử, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy các pháp lìa pháp giới, chẳng thấy pháp giới lìa các pháp; chẳng thấy các pháp tức là pháp giới, chẳng thấy pháp giới tức là các pháp; chẳng thấy có pháp tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy có pháp được Phật thọ ký, chẳng thấy có pháp sẽ chứng được quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng thấy có pháp làm nghiêm tịnh cõi Phật, chẳng thấy có pháp đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình. Vì sao? Xálợi Tử, vì các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, chẳng khởi tưởng ngã, tưởng hữu tình, tưởng người sống, tưởng người sinh, tưởng người nuôi, tưởng người tạo tác, tưởng cái ta, tưởng thân do ý sinh, tưởng tuổi trẻ, tưởng người làm, tưởng người sai làm, tưởng người phát khởi, tưởng người khiến phát khởi, tưởng người nhận, tưởng người sai nhận, tưởng người biết, tưởng người thấy…. Vì sao? Vì ngã, hữu tình... rốt ráo đều chẳng sinh, lại cũng chẳng diệt. Những thứ ấy đã là rốt ráo, chẳng sinh, chẳng diệt thì vì sao còn phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa và được các thứ công đức lợi ích thù thắng? Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy vì chẳng thấy sự sinh của hữu tình, nên tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa; chẳng thấy sự diệt của hữu tình, nên tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì biết cái không của các hữu tình, nên tu hành Bát-nhã bala-mật-đa; vì biết cái chẳng phải ngã của các hữu tình, nên tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì biết cái không chẳng thể được của các hữu tình, nên tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì biết sự xa lìa của các hữu tình, nên tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì biết bản tánh của các hữu tình chẳng phải là hữu tình, nên tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, trong các tương ưng, tương ưng với không là cao tột nhất, vì đó là tương ưng với Bátnhã ba-la-mật-đa là tối tôn, tối thắng, không có gì sánh kịp.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát vì sự tương ưng như vậy, nên phát huy rộng lớn khả năng dẫn phát mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, các pháp đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp kèm theo, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng và vô lượng, vô biên pháp Phật khác.
Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, vì tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, nên rốt ráo chẳng khởi lên các tâm chướng ngại là tham lam keo kiệt, phạm giới, giận hờn, lười biếng, tán loạn, ác tuệ, đồng thời các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa tự nhiên hiện tiền, không gián đoạn.
[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]