SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
HỘI THỨ I
Phẩm 64: HỌC KHẮP CÁC NẺO TU TẬP
(QUYỂN 366 - 372)
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát đạt được đầy đủ sự giác ngộ tối thắng, tuy có thể thọ nhận, hành hóa pháp sâu xa như thế, nhưng đối với việc ấy chẳng cầu quả báo.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như ông đã nói! Các Đại Bồ-tát đạt được đầy đủ sự giác ngộ tối thắng, tuy có thể thọ nhận hành hóa pháp sâu xa như thế, nhưng đối với việc ấy chẳng cầu quả báo. Vì sao? Thiện Hiện, vì các Đại Bồ-tát đối với tự tánh không hề bị lay động.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát có thể đối với tự tánh nào mà không lay động?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát có thể đối với không tánh tự tánh, không lay động.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát có thể đối với không tánh tự tánh của sắc, không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của nhãn xứ không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của sắc xứ không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của nhãn giới không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của sắc giới không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của nhãn thức giới không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của nhãn xúc không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của địa giới không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của vô minh không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của Bố thí ba-la-mật-đa không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của pháp không bên trong không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của bốn Tĩnh lự không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của bốn Niệm trụ không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của pháp môn giải thoát Không không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của Thánh đế khổ không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của tám Giải thoát không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa Không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của tất cả pháp môn Đàla-ni không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của mười địa của Bồ-tát không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của năm loại mắt không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của sáu phép thần thông không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh nơi mười lực của Phật không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của đại Từ không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của pháp không quên mất không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của tánh luôn luôn xả không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của trí Nhất thiết không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của quả Dự lưu không lay động, có thể đối với không tánh tự tánh của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của quả vị Độc giác không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát không lay động; có thể đối với không tánh tự tánh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật không lay động. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của các pháp tức là không tánh; không tánh thì chẳng có thể hiện chứng không tánh.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, pháp có tánh có thể hiện chứng không tánh chăng?
–Không, Thiện Hiện!
–Bạch Thế Tôn, pháp không tánh có thể hiện chứng có tánh chăng?
–Không, Thiện Hiện! Bạch Thế Tôn, có phải pháp có tánh có thể hiện chứng có tánh chăng?
–Không, Thiện Hiện!
–Bạch Thế Tôn, có phải pháp không tánh có thể hiện chứng không tánh chăng?
–Không, Thiện Hiện!
–Bạch Thế Tôn, nếu vậy thì có tánh cũng chẳng có thể hiện quán không tánh, không tánh chẳng có thể hiện quán có tánh, có tánh chẳng có thể hiện quán có tánh, không tánh chẳng có thể hiện quán không tánh, vậy là sẽ không có Thế Tôn, chẳng đạt được hiện quán.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, có đạt được hiện quán nhưng lìa bốn thứ luận chứng (Tứ cú).
Bạch Thế Tôn, thế nào là có đạt được hiện quán nhưng lìa bốn thứ luận chứng?
Này Thiện Hiện, chẳng phải có, chẳng phải không, dứt bỏ mọi hý luận, đó là hiện quán; cái đạt được cũng như vậy; vì thế, Ta nói có đạt được hiện quán nhưng lìa bốn thứ luận chứng.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát lấy những gì để làm hý luận?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán sắc hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán sắc hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán sắc hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán sắc hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán sắc hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán sắc hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán nhãn xứ hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán nhãn xứ hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán nhãn xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán nhãn xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán nhãn xứ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán nhãn xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán nhãn xứ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán sắc xứ hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán sắc xứ hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán sắc xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán sắc xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán sắc xứ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán sắc xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán sắc xứ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán nhãn giới hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán nhãn giới hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán nhãn giới hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán nhãn giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán nhãn giới hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán nhãn giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán nhãn giới hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán sắc giới hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán sắc giới hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán sắc giới hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán sắc giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán sắc giới hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán sắc giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán sắc giới hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán nhãn thức giới hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán nhãn thức giới hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán nhãn thức giới hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán nhãn thức giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán nhãn thức giới hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán nhãn thức giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán nhãn thức giới hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán nhãn xúc hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán nhãn xúc hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán nhãn xúc hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán nhãn xúc hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán nhãn xúc hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán nhãn xúc hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán nhãn xúc hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán địa giới hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán địa giới hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán địa giới hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán địa giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán địa giới hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán địa giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán địa giới hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán vô minh hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán vô minh hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán vô minh hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán vô minh hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán vô minh hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán vô minh hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán vô minh hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán Bố thí ba-lamật-đa hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán Bố thí ba-la-mật-đa hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán Bố thí ba-la-mật-đa hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-lamật-đa hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán Bố thí ba-la-mật-đa hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mậtđa hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán Bố thí ba-la-mật-đa hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán Bố thí ba-la-mật-đa hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán Bố thí ba-la-mậtđa hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-lamật-đa hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán pháp không bên trong hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán pháp không bên trong hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán pháp không bên trong hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán pháp không bên trong hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán pháp không bên trong hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán pháp không bên trong hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán pháp không bên trong hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán chân như hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán chân như hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán chân như hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán chân như hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán chân như hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán chân như hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán chân như hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán bốn Niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán bốn Niệm trụ hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán bốn Niệm trụ hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán bốn Niệm trụ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán bốn Niệm trụ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán bốn Niệm trụ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán bốn Niệm trụ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán Thánh đế khổ hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán Thánh đế khổ hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán Thánh đế khổ hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán Thánh đế khổ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán Thánh đế khổ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán Thánh đế khổ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán Thánh đế khổ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán bốn Tĩnh lự hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán bốn Tĩnh lự hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán bốn Tĩnh lự hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán bốn Tĩnh lự hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán bốn Tĩnh lự hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán bốn Tĩnh lự hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán bốn Tĩnh lự hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán tám Giải thoát hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán tám Giải thoát hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán tám Giải thoát hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán tám Giải thoát hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán tám Giải thoát hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán tám Giải thoát hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán tám Giải thoát hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán pháp môn Tam-ma-địa hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán pháp môn Đà-la-ni hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán pháp môn Tam-mađịa hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán pháp môn Đà-la-ni hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán pháp môn Tam-ma-địa hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán pháp môn Đà-la-ni hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán pháp môn Tamma-địa hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán pháp môn Đà-la-ni hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán pháp môn Tam-ma-địa hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán pháp môn Đà-la-ni hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán pháp môn Tam-ma-địa hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán pháp môn Đà-la-ni hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán pháp môn Tam-ma-địa hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán pháp môn Đà-la-ni hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán pháp môn giải thoát Không hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán pháp môn giải thoát Không hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán pháp môn giải thoát Không hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán pháp môn giải thoát Không hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán pháp môn giải thoát Không hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán pháp môn giải thoát Không hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán pháp môn giải thoát Không hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán bậc Cực hỷ hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán bậc Cực hỷ hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán bậc Cực hỷ hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán bậc Cực hỷ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán bậc Cực hỷ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán bậc Cực hỷ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán bậc Cực hỷ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán năm loại mắt hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán sáu phép thần thông hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán năm loại mắt hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán sáu phép thần thông hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán năm loại mắt hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán sáu phép thần thông hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán năm loại mắt hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán sáu phép thần thông hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán năm loại mắt hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán sáu phép thần thông hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán năm loại mắt hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán sáu phép thần thông hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán năm loại mắt hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán sáu phép thần thông hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán mười lực của Phật hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán mười lực của Phật hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán mười lực của Phật hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán mười lực của Phật hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán mười lực của Phật hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán mười lực của Phật hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán mười lực của Phật hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán đại Từ hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán đại Từ hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán đại Từ hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán đại Từ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán đại Từ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán đại Từ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán đại Từ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán pháp không quên mất hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán tánh luôn luôn xả hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán pháp không quên mất hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán tánh luôn luôn xả hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán pháp không quên mất hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán tánh luôn luôn xả hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán pháp không quên mất hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán tánh luôn luôn xả hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán pháp không quên mất hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán tánh luôn luôn xả hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán pháp không quên mất hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán tánh luôn luôn xả hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán pháp không quên mất hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán tánh luôn luôn xả hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán trí Nhất thiết hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán trí Nhất thiết hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán trí Nhất thiết hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán trí Nhất thiết hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán trí Nhất thiết hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán trí Nhất thiết hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán trí Nhất thiết hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán quả Dự lưu hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán quả Dự lưu hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán quả Dự lưu hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán quả Dự lưu hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán quả Dự lưu hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán quả Dự lưu hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán quả Dự lưu hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận, quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận; quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận, quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận, quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận, quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận, quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, đó là hý luận; quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận, quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, đó là hý luận; quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận, quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp, đó là hý luận.
Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Thánh đế khổ, nên biết khắp, thì đó là hý luận; Thánh đế tập, nên vĩnh viễn đoạn trừ, thì đó là hý luận; Thánh đế diệt, nên tác chứng, thì đó là hý luận; Thánh đế đạo, nên tu tập, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Nên tu bốn Tĩnh lự, thì đó là hý luận; nên tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Nên tu bốn Niệm trụ, thì đó là hý luận; nên tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Nên tu pháp môn giải thoát Không, thì đó là hý luận; nên tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Nên tu tám Giải thoát, thì đó là hý luận; nên tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Nên tu năm loại mắt, thì đó là hý luận; nên tu sáu phép thần thông, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Nên vượt qua quả Dự lưu, thì đó là hý luận; nên vượt qua quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Nên hành Bố thí ba-la-mật-đa, thì đó là hý luận; nên hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Nên trụ nơi pháp không bên trong, thì đó là hý luận; nên trụ nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Nên trụ nơi chân như, thì đó là hý luận; nên trụ nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Nên hướng nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, thì đó là hý luận; nên chánh hạnh của mười địa Bồ-tát nên viên mãn, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Nên đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, thì đó là hý luận; nên làm nghiêm tịnh cõi Phật, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Nên tu mười lực của Phật, thì đó là hý luận; nên tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Nên tu đại Từ, thì đó là hý luận; nên tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Nên tu pháp không quên mất, thì đó là hý luận; nên tu tánh luôn luôn xả, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Nên tu trí Nhất thiết, thì đó là hý luận; nên tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này: Nên tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa, thì đó là hý luận; nên tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu nghĩ thế này:
Nên đoạn tất cả phiền não tập khí tương tục, thì đó là hý luận; nên chứng quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, thì đó là hý luận.
Này Thiện Hiện, tất cả các loại hý luận như thế là hý luận của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán sắc hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán nhãn xứ hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn xứ hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn xứ hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn xứ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn xứ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán sắc xứ hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc xứ hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc xứ hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc xứ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc xứ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán nhãn giới hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn giới hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn giới hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn giới hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn giới hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán sắc giới hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc giới hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc giới hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc giới hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sắc giới hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán nhãn thức giới hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn thức giới hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn thức giới hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn thức giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn thức giới hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn thức giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn thức giới hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán nhãn xúc hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn xúc hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn xúc hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn xúc hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn xúc hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn xúc hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán nhãn xúc hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán địa giới hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán địa giới hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán địa giới hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán địa giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán địa giới hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán địa giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán địa giới hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán vô minh hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán vô minh hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán vô minh hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán vô minh hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán vô minh hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán vô minh hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán vô minh hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán Bố thí ba-la-mật-đa hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán Bố thí ba-la-mật-đa hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán Bố thí ba-lamật-đa hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán Bố thí ba-la-mật-đa hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán Bố thí ba-la-mật-đa hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán Bố thí ba-la-mật-đa hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-lamật-đa hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán Bố thí bala-mật-đa hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán pháp không bên trong hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp không bên trong hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp không bên trong hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp không bên trong hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp không bên trong hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp không bên trong hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp không bên trong hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán chân như hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán chân như hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán chân như hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán chân như hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán chân như hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán chân như hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán chân như hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán bốn Niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bốn Niệm trụ hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bốn Niệm trụ hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bốn Niệm trụ hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bốn Niệm trụ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bốn Niệm trụ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bốn Niệm trụ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán Thánh đế khổ hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán Thánh đế khổ hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán Thánh đế khổ hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán Thánh đế khổ hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán Thánh đế khổ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán Thánh đế khổ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán Thánh đế khổ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán bốn Tĩnh lự hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bốn Tĩnh lự hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bốn Tĩnh lự hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bốn Tĩnh lự hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bốn Tĩnh lự hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bốn Tĩnh lự hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bốn Tĩnh lự hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán tám Giải thoát hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán tám Giải thoát hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán tám Giải thoát hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán tám Giải thoát hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán tám Giải thoát hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán tám Giải thoát hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán tám Giải thoát hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán pháp môn Tam-mađịa hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp môn Đàla-ni hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp môn Tam-ma-địa hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp môn Đàla-ni hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp môn Tam-mađịa hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp môn Đà-la-ni hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp môn Tam-mađịa hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp môn Đà-lani hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp môn Tam-mađịa hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp môn Đà-la-ni hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp môn Tam-ma-địa hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp môn Đà-la-ni hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp môn Tam-ma-địa hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp môn Đà-lani hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán pháp môn giải thoát Không hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp môn giải thoát Không hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp môn giải thoát Không hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp môn giải thoát Không hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp môn giải thoát Không hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp môn giải thoát Không hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp môn giải thoát Không hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán bậc Cực hỷ hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bậc Cực hỷ hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bậc Cực hỷ hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bậc Cực hỷ hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bậc Cực hỷ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bậc Cực hỷ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bậc Cực hỷ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán năm loại mắt hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán sáu phép thần thông hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán năm loại mắt hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán sáu phép thần thông hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán năm loại mắt hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán sáu phép thần thông hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán năm loại mắt hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán sáu phép thần thông hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán năm loại mắt hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán sáu phép thần thông hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán năm loại mắt hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán sáu phép thần thông hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán năm loại mắt hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán sáu phép thần thông hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán mười lực của Phật hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán mười lực của Phật hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán mười lực của Phật hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán mười lực của Phật hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán mười lực của Phật hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán mười lực của Phật hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán mười lực của Phật hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán đại Từ hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán đại Từ hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán đại Từ hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán đại Từ hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán đại Từ hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán đại Từ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán đại Từ hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán pháp không quên mất hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán tánh luôn luôn xả hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp không quên mất hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán tánh luôn luôn xả hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp không quên mất hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán tánh luôn luôn xả hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp không quên mất hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán tánh luôn luôn xả hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp không quên mất hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán tánh luôn luôn xả hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp không quên mất hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán tánh luôn luôn xả hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp không quên mất hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán tánh luôn luôn xả hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán trí Nhất thiết hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán trí Nhất thiết hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán trí Nhất thiết hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán trí Nhất thiết hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán trí Nhất thiết hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán trí Nhất thiết hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán trí Nhất thiết hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán quả Dự lưu hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán quả Dự lưu hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán quả Dự lưu hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán quả Dự lưu hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán quả Dự lưu hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán quả Dự lưu hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán quả Dự lưu hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán tất cả hạnh Đại Bồtát hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc thường hoặc vô thường chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc lạc hoặc khổ chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc ngã hoặc vô ngã chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán tất cả hạnh Đại Bồtát hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc tịnh hoặc bất tịnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán tất cả hạnh Đại Bồtát hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc là đối tượng được nhận thức khắp hoặc chẳng phải là đối tượng được nhận thức khắp chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán Thánh đế khổ hoặc nên nhận biết khắp, hoặc chẳng nên nhận biết khắp, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Thánh đế tập, hoặc nên đoạn trừ vĩnh viễn, hoặc chẳng nên đoạn trừ vĩnh viễn, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Thánh đế diệt hoặc nên tác chứng, hoặc chẳng nên tác chứng, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận, nên quán Thánh đế đạo hoặc nên tu tập, hoặc chẳng nên tu tập, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán bốn Tĩnh lự hoặc nên tu hoặc chẳng nên tu, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc nên tu hoặc chẳng nên tu, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán bốn Niệm trụ hoặc nên tu hoặc chẳng nên tu, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo hoặc nên tu hoặc chẳng nên tu, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán pháp môn giải thoát Không hoặc nên tu hoặc chẳng nên tu, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc nên tu hoặc chẳng nên tu, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán tám Giải thoát hoặc nên tu hoặc chẳng nên tu, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc nên tu hoặc chẳng nên tu, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận. Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán năm loại mắt hoặc nên tu hoặc chẳng nên tu, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán sáu phép thần thông hoặc nên tu hoặc chẳng nên tu, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán quả Dự lưu hoặc nên vượt hoặc chẳng nên vượt, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hoặc nên vượt hoặc chẳng nên vượt, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán Bố thí ba-la-mật-đa hoặc nên hành hoặc chẳng nên hành, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc nên hành hoặc chẳng nên hành, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán pháp không bên trong hoặc nên an trú hoặc chẳng nên an trú, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc nên an trú hoặc chẳng nên an trú, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán chân như hoặc nên an trú hoặc chẳng nên an trú, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc nên an trú hoặc chẳng nên an trú, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát hoặc nên hội nhập hoặc chẳng nên hội nhập, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán chánh hạnh nơi mười địa Bồ-tát hoặc nên thực hiện viên mãn hoặc chẳng nên thực hiện viên mãn, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán tất cả hữu tình hoặc nên đem lại sự thành tựu đầy đủ hoặc chẳng nên đem lại sự thành tựu đầy đủ, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán tất cả cõi Phật hoặc nên làm cho nghiêm tịnh hoặc chẳng nên làm cho nghiêm tịnh, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán mười lực của Phật hoặc nên khởi hoặc chẳng nên khởi, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc nên khởi hoặc chẳng nên khởi, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán đại Từ hoặc nên khởi hoặc chẳng nên khởi, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hoặc nên khởi hoặc chẳng nên khởi, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán pháp không quên mất hoặc nên khởi hoặc chẳng nên khởi, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán tánh luôn luôn xả hoặc nên khởi hoặc chẳng nên khởi, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán trí Nhất thiết hoặc nên khởi hoặc chẳng nên khởi, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc nên khởi hoặc chẳng nên khởi, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc nên khởi hoặc chẳng nên khởi, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc nên khởi hoặc chẳng nên khởi, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán tất cả tập khí phiền não tương tục hoặc nên đoạn hoặc chẳng nên đoạn, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận; nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc nên chứng hoặc chẳng nên chứng, chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán tất cả pháp như thế và các hữu tình đều chẳng thể hý luận, do đó chẳng nên hý luận. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tất cả pháp có tánh chẳng có thể hý luận; có tánh không tánh chẳng có thể hý luận; không tánh có tánh chẳng có thể hý luận; không tánh không tánh chẳng có thể hý luận; có tánh, lìa tánh có, không, pháp chẳng thể nắm bắt được; hoặc chủ thể hý luận, hoặc đối tượng hý luận, hoặc nơi chốn hý luận hoàn toàn là không sở hữu. Vì vậy, này Thiện Hiện, sắc không hý luận; thọ, tưởng, hành, thức không hý luận. Nhãn xứ không hý luận; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không hý luận. Sắc xứ không hý luận; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không hý luận. Nhãn giới không hý luận; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không hý luận. Sắc giới không hý luận; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không hý luận. Nhãn thức giới không hý luận; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không hý luận. Nhãn xúc không hý luận; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không hý luận. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không hý luận; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra không hý luận. Địa giới không hý luận; thủy, hỏa, phong, không, thức giới không hý luận. Vô minh không hý luận; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não không hý luận. Bố thí ba-la-mật-đa không hý luận; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không hý luận. Pháp không bên trong không hý luận; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không hý luận. Chân như không hý luận; pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn không hý luận. Bốn Niệm trụ không hý luận; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo không hý luận. Thánh đế khổ không hý luận; Thánh đế tập, diệt, đạo không hý luận. Bốn Tĩnh lự không hý luận; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không hý luận. Tám Giải thoát không hý luận; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không hý luận. Tất cả pháp môn Tam-ma-địa Không hý luận; tất cả pháp môn Đà-la-ni không hý luận. Pháp môn giải thoát Không không hý luận; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không hý luận. Bậc Cực hỷ không hý luận; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân không hý luận. Năm loại mắt không hý luận; sáu phép thần thông không hý luận. Mười lực của Phật không hý luận; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng không hý luận. Đại Từ không hý luận; đại Bi, đại Hỷ, đại Xả không hý luận. Pháp không quên mất không hý luận; tánh luôn luôn xả không hý luận. Trí Nhất thiết không hý luận; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không hý luận. Quả Dự lưu không hý luận; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác không hý luận. Tất cả hạnh Đại Bồ-tát không hý luận. Đoạn trừ vĩnh viễn tập khí phiền não tương tục không hý luận. Quả vị Giác ngộ cao tột không hý luận. Như vậy, này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dứt hết mọi thứ hý luận.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tại sao quán tất cả pháp đều không hý luận.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sắc không có tự tánh, quán thọ, tưởng, hành, thức không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, sắc không hý luận; thọ, tưởng, hành, thức cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán nhãn xứ không có tự tánh, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, nhãn xứ không hý luận; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán sắc xứ không có tự tánh, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, sắc xứ không hý luận; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán nhãn giới không có tự tánh, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, nhãn giới không hý luận; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán sắc giới không có tự tánh, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, sắc giới không hý luận; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán nhãn thức giới không có tự tánh, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, nhãn thức giới không hý luận; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán nhãn xúc không có tự tánh, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, nhãn xúc không hý luận; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không có tự tánh, quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không hý luận; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán địa giới không có tự tánh, quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, địa giới không hý luận; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán vô minh không có tự tánh, quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, vô minh không hý luận; hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán Bố thí ba-la-mật-đa không có tự tánh, quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, Bố thí ba-la-mật-đa không hý luận; Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán pháp không bên trong không có tự tánh, quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, pháp không bên trong không hý luận; pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán chân như không có tự tánh, quán pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, chân như không hý luận; pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán bốn Niệm trụ không có tự tánh, quán bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, bốn Niệm trụ không hý luận; bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán Thánh đế khổ không có tự tánh, quán Thánh đế tập, diệt, đạo không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, Thánh đế khổ không hý luận; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán bốn Tĩnh lự không có tự tánh, quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, bốn Tĩnh lự không hý luận; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán tám Giải thoát không có tự tánh, quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, tám Giải thoát không hý luận; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa Không có tự tánh, quán tất cả pháp môn Đà-la-ni không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, tất cả pháp môn Tam-ma-địa Không hý luận; tất cả pháp môn Đà-la-ni cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán pháp môn giải thoát Không không có tự tánh, quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, pháp môn giải thoát Không không hý luận; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán bậc Cực hỷ không có tự tánh, quán bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, bậc Cực hỷ không hý luận; bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán năm loại mắt không có tự tánh, quán sáu phép thần thông không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, năm loại mắt không hý luận; sáu phép thần thông cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán mười lực của Phật không có tự tánh, quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, mười lực của Phật không hý luận; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán đại Từ không có tự tánh, quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, đại Từ không hý luận; đại Bi, đại Hỷ, đại Xả cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán pháp không quên mất không có tự tánh, quán tánh luôn luôn xả không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, pháp không quên mất không hý luận; tánh luôn luôn xả cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán trí Nhất thiết không có tự tánh, quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, trí Nhất thiết không hý luận; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán quả Dự lưu không có tự tánh, quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, quả Dự lưu không hý luận; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán, quả vị Độc giác cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán tất cả hạnh Đại Bồtát không có tự tánh, quán sự đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì chẳng nên hý luận. Vì vậy, tất cả hạnh Đại Bồ-tát không hý luận; sự đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không hý luận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nếu có khả năng hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không hý luận như thế, thì thấu đạt tất cả pháp không có tự tánh nên đều không hý luận, liền nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát.
Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp đều không có tự tánh, cũng không hý luận mà có thể đạt được, thì Đại Bồ-tát dùng con đường tu tập gì để được nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát? Có phải dùng con đường tu tập của Thanh văn, có phải dùng con đường tu tập của Độc giác, có phải dùng con đường tu tập của Phật?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát chẳng phải dùng con đường tu tập của Thanh văn, chẳng phải dùng con đường tu tập của Độc giác, chẳng phải dùng con đường tu tập của Phật mà được nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát. Nhưng các Đại Bồ-tát, đối với tất cả con đường tu tập ấy, trước đều học hết, dùng con đường tu tập của Bồ-tát mà nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, như Đệ bát địa, trước hết học các con đường tu tập, sau dùng con đường tu tập của mình mới có thể chứng nhập Chánh tánh ly sinh, cho đến nếu chưa khởi được đạo quả vô học thì còn chưa chứng đắc quả A-la-hán; Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, đối với tất cả con đường tu tập, trước phải học hết, rồi dùng con đường tu tập của Bồ-tát mới được nhập Chánh tánh ly sinh của Bồtát, cho đến khi nếu chưa khởi được định Kim cang dụ thì hãy còn chưa có thể đắc trí Nhất thiết trí; nếu khởi được định này chỉ trong một sát-na sẽ tương ưng với diệu tuệ, mới có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì muốn thực hiện viên mãn trí Nhất thiết tướng, nên đối với tất cả con đường tu tập, trước hết học khắp, rồi dùng con đường tu tập của Bồ-tát mà nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát.
Bạch Thế Tôn, há chẳng phải là Đệ bát địa khác, con đường tu tập của quả Dự lưu khác, con đường tu tập của Nhất lai hướng khác, con đường tu tập của Nhất lai quả khác, con đường tu tập của Bất hoàn hướng khác, con đường tu tập của Bất hoàn quả khác, con đường tu tập của A-la-hán hướng khác, con đường tu tập của A-la-hán quả khác, con đường tu tập của Độc giác khác, con đường tu tập của Như Lai khác.
Bạch Thế Tôn, các con đường tu tập như thế đã có sự sai khác, các Đại Bồ-tát vì muốn thành tựu viên mãn trí Nhất thiết tướng nên dối với tất cả con đường tu tập ấy, cần phải học hết, rồi mới nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát. Đại Bồ-tát ấy nếu khi khởi nẻo Đệ bát thì thành Đệ bát; nếu khi khởi nẻo Cụ kiến thì thành quả Dự lưu; nếu khi khởi nẻo tấn tu thì thành Nhất lai hướng, hoặc thành Nhất lai quả, hoặc thành Bất hoàn hướng, hoặc thành Bất hoàn quả, hoặc thành A-la-hán hướng; nếu khi khởi đạo vô học thì thành A-la-hán quả; nếu khi khởi đạo Độc giác thì thành quả vị Độc giác.
Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát thành Đệ bát rồi mà có thể nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát thì đó là điều không có; chẳng nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát mà có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí thì cũng là điều không có.
Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát thành Dự lưu quả; hoặc thành Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng; A-lahán quả; hoặc thành quả vị Độc giác rồi, mà có thể nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát thì đó là điều không có. Chẳng nhập Chánh tánh ly sinh của Bồtát mà có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí thì đó cũng là điều không có.
Bạch Thế Tôn, làm sao khiến con biết rõ như thật, các Đại Bồ-tát đối với tất cả con đường tu tập, cần phải học hết rồi mới nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, mà chẳng trái với lý?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như ông đã nói! Nếu Đại Bồ-tát thành Đệ bát rồi mà có thể nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát thì đó là điều không có. Chẳng nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát mà có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí thì đó cũng là điều không có. Nếu Đại Bồ-tát thành Dự lưu quả; hoặc thành Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng; A-la-hán quả; hoặc thành quả vị Độc giác rồi, mà có thể nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát thì đó là điều không có. Chẳng nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát mà có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí thì đó cũng là điều không có. Nhưng các Đại Bồ-tát đối với tất cả con đường tu tập, cần phải học hết rồi mới nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, cũng chẳng trái với lý, đó là các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm dũng mãnh siêng năng dốc tu hành Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa, dùng trí, kiến thù thắng vượt qua tám bậc. Những gì là tám? Đó là bậc Tịnh quán, bậc Chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc giác. Đại Bồ-tát ấy tuy đối với tám bậc đã nhí như thế, đều tu học hết, nhưng có thể dùng trí, kiến thù thắng vượt qua, dùng trí Đạo tướng mà nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát. Đã nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát rồi, lại dùng trí Nhất thiết tướng đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí tương tục, nhập Bậc Như Lai, như vậy mới thành tựu trí Nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đã học Đệ bát, hoặc trí, hoặc đoạn đều là nhẫn của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát ấy đã học Dự lưu, hoặc trí, hoặc đoạn và Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, hoặc trí, hoặc đoạn cũng là nhẫn của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy học hết các con đường tu tập của Thanh văn và Độc giác đã được viên mãn rồi, dùng trí Đạo tướng hướng nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát; đã nhập bậc Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát rồi, lại dùng trí Nhất thiết tướng, đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí tương tục, nhập Bậc Như Lai, mới thành tựu được trí Nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện, như vậy Đại Bồ-tát đối với tất cả con đường tu tập đều tu học hết, được viên mãn rồi mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Đã chứng quả vị Giác ngộ cao tột thì luôn đem quả chứng ấy làm lợi ích cho tất cả hữu tình.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, như Phật đã nói về tất cả các con đường tu tập, hoặc con đường tu tập của Thanh văn, hoặc con đường tu tập của Độc giác, hoặc con đường tu tập của chư Phật, thì đối với con đường tu tập của Phật, các Đại Bồ-tát làm thế nào mà khởi con đường tu tập của trí Đạo tướng?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nên khởi tất cả trí Đạo tướng thanh tịnh.
–Bạch Thế Tôn, làm thế nào Đại Bồ-tát khởi tất cả trí Đạo tướng thanh tịnh?
–Này Thiện Hiện, nếu các hành, trạng, tướng có thể phát khởi rõ trí Đạo tướng thanh tịnh, thì Đại Bồ-tát ấy đối với hết thảy các hành, trạng, tướng như thế, đều hiện Đẳng giác; hiện Đẳng giác rồi thì vì người mà tuyên thuyết đúng sự thật nhằm khai thị, nêu bày, tạo dựng khiến các hữu tình đạt được sự hiểu biết thuận hợp, theo đó mà hướng đến sự lợi ích an lạc.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả âm thanh, ngôn ngữ đều đạt được sự thiện xảo, dùng âm thanh ngôn ngữ thiện xảo ấy, vì các loài hữu tình trong khắp thế giới ba lần ngàn, nêu giảng về chánh pháp khiến cho họ biết những điều đã được lãnh hội đều như tiếng vang trong hang; tuy có sự thấu đạt nhưng không chấp trước.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này, nên tu học viên mãn các trí Đạo tướng; đã tu học viên mãn trí Đạo tướng rồi, nên biết như thật về tất cả các thứ sai khác nơi phiền não, ý ham thích của tất cả hữu tình; nên biết như thật về hữu tình địa ngục có nẻo địa ngục và địa ngục nhân quả; biết rồi, dùng phương tiện để ngăn chặn nẻo ấy và nhân quả ấy; nên biết như thật về hữu tình bàng sinh, có nẻo bàng sinh và bàng sinh nhân quả; biết rồi, dùng phương tiện để ngăn chặn nẻo ấy và nhân quả ấy; nên biết như thật về hữu tình quỷ giới, có nẻo quỷ giới và quỷ giới nhân quả; biết rồi, dùng phương tiện để ngăn chặn nẻo ấy và nhân quả ấy; nên biết như thật về các loài Rồng, Dược-xoa, Atố-lạc, Khẩn-nại-lạc, Kiền-đạt-phược, Yết-lộ-trà, Cụ-hoắc-ca, Giá-lỗ-noa, Mạc-hô-lạc-già, Thần trì chú... mỗi loài đều có cõi và có nhân quả của chúng; biết rồi, dùng phương tiện để ngăn chặn cõi ấy và nhân quả ấy, nên biết như thật về cõi và nhân quả của loài người; nên biết như thật về cõi và nhân quả của chúng trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại; nên biết như thật về cõi và nhân quả của trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm; nên biết như thật về cõi và nhân quả của trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh; nên biết như thật về cõi và nhân quả của trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh; nên biết như thật về cõi và nhân quả của trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả; nên biết như thật về cõi và nhân quả của trời Vô tưởng; nên biết như thật về cõi và nhân quả của trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh; nên biết như thật về cõi và nhân quả của trời Không vô biên xứ, trời Thức vô biên xứ, trời Vô sở hữu xứ, trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ; biết rồi dùng phương tiện tùy theo sự thích ứng mà ngăn chặn các cõi và nhân quả kia, hoặc khuyến khích thu nhận tu chứng pháp thiện; nên nhận biết như thật về bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo và nhân quả của chúng; nên biết như thật về pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện và nhân quả của chúng; nên biết như thật về Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo và nhân quả của chúng; nên biết như thật về bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc và nhân quả của chúng; nên biết như thật về tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ và nhân quả của chúng; nên biết như thật về Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và nhân quả của chúng; nên biết như thật về pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và nhân quả của chúng; nên biết như thật về chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn và nhân quả của chúng; nên biết như thật về tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni và nhân quả của chúng; nên biết như thật về năm loại mắt, sáu phép thần thông và nhân quả của chúng; nên biết như thật về mười địa Bồ-tát và nhân quả của chúng; nên biết như thật về mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng và nhân quả của chúng; nên biết như thật về đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả và nhân quả của chúng; nên biết như thật về pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả và nhân quả của chúng; nên biết như thật về trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng và nhân quả của chúng; nên biết như thật về con đường tu tập các Thanh văn, con đường tu tập của các Độc giác, con đường tu tập của các Bồ-tát và nhân quả của chúng. Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy dùng các con đường tu tập như thế để an lập hữu tình. Nếu loài hữu tình đáng được quả Dự lưu thì dùng pháp của quả Dự lưu mà an lập; đáng được quả Nhất lai thì dùng pháp của quả Nhất lai mà an lập; đáng được quả Bất hoàn thì dùng pháp của quả Bất hoàn mà an lập; đáng được quả A-la-hán thì dùng pháp của quả A-la-hán mà an lập; đáng được quả vị Độc giác thì dùng pháp của quả vị Độc giác mà an lập; đáng được quả vị Giác ngộ cao tột thì dùng pháp của quả vị Giác ngộ cao tột mà an lập.
Này Thiện Hiện, đó gọi là các trí Đạo tướng nên phát khởi của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát tu học trí Đạo tướng như thế rồi, đối với các loại cảnh giới, bản tính của hữu tình, các loại phiền não, các loại ý thích đều khéo léo ngộ nhập; đã ngộ nhập rồi thì tùy theo sự thích ứng mà vì họ giảng nói chánh pháp, đều khiến họ cùng được sự lợi ích an lạc, hoàn toàn thuận hợp. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy khéo thấu đạt các căn cơ hơn kém của hữu tình, biết rõ như thật về chỗ hướng đến khác nhau của tâm và tâm sở nơi các hữu tình qua lại trong nẻo sinh tử.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nên hành theo các nẻo Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì con đường tu học của tất cả Thanh văn, Độc giác, con đường nên tu học tất cả Đại Bồtát, tất cả pháp phần Bồ-đề như thế đều là đối tượng được thâu tóm, giữ gìn của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả các loại pháp phần Bồ-đề và các Bồ-đề, tất cả như thế đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, không hợp, không tan, vô sắc, vô kiến, vô đối, một tướng, gọi là không tướng, thì làm sao pháp phần Bồ-đề như thế có thể giữ lấy Bồ-đề?
Bạch Thế Tôn, đều là chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, không hợp, không tan, vô sắc, vô kiến, vô đối, một tướng, gọi là pháp không tướng, sao có thể đối với pháp khác có lấy có bỏ?
Bạch Thế Tôn, thí như hư không, đối với tất cả các pháp không lấy không bỏ, vì tự tướng là không, các pháp cũng như vậy, tự tướng đều không, chẳng phải đối với các pháp khác có lấy có bỏ, thì tại sao có thể nói pháp phần Bồ-đề có thể giữ lấy Bồ-đề?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như ông đã nói! Vì tự tướng của tất cả các pháp đều không, không lấy không bỏ. Nhưng các hữu tình đối với nghĩa không của tự tướng nơi tất cả các pháp chẳng thể hiểu rõ, nên vì thương xót họ mà phương tiện nêu giảng về pháp phần Bồ-đề có thể giữ lấy Bồ-đề.
Lại nữa Thiện Hiện, hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức; hoặc nhãn xứ, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; hoặc sắc xứ, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; hoặc nhãn giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; hoặc sắc giới, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; hoặc nhãn thức giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; hoặc nhãn xúc, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, hoặc các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; hoặc địa giới, hoặc thủy, hỏa, phong, không, thức giới; hoặc tánh nhân duyên, hoặc tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; hoặc vô minh, hoặc hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; hoặc Bố thí ba-la-mật-đa, hoặc Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa; hoặc pháp không bên trong, hoặc pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc chân như, hoặc pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; hoặc Sơ thiền, hoặc đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền; hoặc Từ vô lượng, hoặc Bi, Hỷ, Xả vô lượng; hoặc Không vô biên xứ, hoặc Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ; hoặc bốn Niệm trụ, hoặc bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; hoặc Thánh đế khổ, hoặc Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc pháp môn giải thoát Không, hoặc pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; hoặc tám Giải thoát, hoặc tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; hoặc tất cả pháp môn Tam-mađịa, hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni; hoặc bậc Cực hỷ, hoặc bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; hoặc năm loại mắt, hoặc sáu phép thần thông; hoặc mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc đại Từ, hoặc đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; hoặc pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn xả; hoặc trí Nhất thiết, hoặc trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; hoặc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán, quả vị Độc giác; hoặc tất cả hạnh Đại Bồtát; hoặc sự đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí tương tục; hoặc quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; hoặc cảnh giới hữu vi, hoặc cảnh giới vô vi; tất cả pháp như thế, ở trong Thánh pháp Tỳ-nại-da này đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, không hợp, không tan, vô sắc, vô kiến, vô đối, một tướng, đó là không tướng; Phật vì nhằm đem lại lợi ích cho các loài hữu tình khiến họ có được hiểu biết đúng đắn, hội nhập thật tướng của các pháp, nên vì thế tục mà nói chẳng phải vì thắng nghĩa.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp như thế, nên học trí kiến; học trí kiến rồi thì thông đạt như thật rằng các pháp như thế là nên gồm thâu, giữ gìn; các pháp như thế là chẳng nên gồm thâu, giữ gìn.
Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát đối với những pháp nào khi học trí kiến thông đạt như thật rồi thì chẳng nên gồm thâu, giữ gìn? Và đối với những pháp nào khi học trí kiến thông đạt như thật rồi, nên gồm thâu, giữ gìn?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát đối với pháp của các bậc Thanh văn, Độc giác, học trí kiến thông đạt như thật rồi thì chẳng nên gồm thâu, giữ gìn; đối với các pháp tương ưng với trí Nhất thiết trí, học trí kiến thông đạt như thật tất cả tướng rồi thì nên gồm thâu, giữ gìn.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát đối với Thánh pháp Tỳ-nại-da này nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Phật nói Thánh pháp Tỳ-nạida, vậy thì những gì gọi là Thánh pháp Tỳ-nại-da? Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, hoặc chư Thanh văn, hoặc chư Độc giác, hoặc chư Đại Bồ-tát, hoặc chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tất cả các vị ấy đều cùng với tham dục, sân hận, ngu si chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với thân kiến, giới cấm thủ, nghi chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với dục tham, sân hận chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với sắc ái, vô sắc ái, trạo cử, mạn, vô minh chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với Sơ thiền chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với Từ vô lượng chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với Bi, Hỷ, Xả vô lượng chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với định Không vô biên xứ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với bốn Niệm trụ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với Thánh đế khổ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với pháp môn giải thoát Không chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với tám Giải thoát chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với năm loại mắt chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với sáu phép thần thông chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với pháp không bên trong chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với chân như chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với bậc Cực hỷ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với mười lực của Phật chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với đại Từ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với pháp không quên mất chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với tánh luôn luôn xả chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với trí Nhất thiết chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với cảnh giới hữu vi chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; đều cùng với cảnh giới vô vi chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan.
Này Thiện Hiện, những pháp ấy gọi là Thánh pháp Tỳ-nại-da, vì vậy có tên là Thánh pháp Tỳnại-da. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tất cả pháp này vô sắc, vô kiến, vô đối, một tướng, gọi là không tướng. Các vị Thánh ấy hiện thấy như thật về chúng.
Này Thiện Hiện, vô sắc cùng vô sắc, chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan; vô kiến cùng với vô kiến; vô đối cùng với vô đối; một tướng cùng với một tướng; không tướng cùng với không tướng, cũng chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát đối với Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa vô sắc, vô kiến, vô đối, một tướng, không tướng này thường nên tu học; học rồi thì chẳng chấp giữ tướng của tất cả pháp.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát nên học tướng của sắc, cũng nên học tướng của thọ, tưởng, hành, thức chăng? Nên học tướng của nhãn xứ, cũng nên học tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chăng? Nên học tướng của sắc xứ, cũng nên học tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chăng? Nên học tướng của nhãn giới, cũng nên học tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chăng? Nên học tướng của sắc giới, cũng nên học tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chăng? Nên học tướng của nhãn thức giới, cũng nên học tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chăng? Nên học tướng của nhãn xúc, cũng nên học tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chăng? Nên học tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, cũng nên học tướng của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chăng? Nên học tướng của địa giới, cũng nên học tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chăng? Nên học tướng của vô minh, cũng nên học tướng của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chăng? Nên học tướng của Bố thí ba-la-mật-đa, cũng nên học tướng của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chăng? Nên học tướng của pháp không bên trong, cũng nên học tướng của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chăng? Nên học tướng của chân như, cũng nên học tướng của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chăng? Nên học tướng của Sơ thiền, cũng nên học tướng của đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền chăng? Nên học tướng của Từ vô lượng, cũng nên học tướng của Bi, Hỷ, Xả vô lượng chăng? Nên học tướng của Không vô biên xứ, cũng nên học tướng của Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ chăng? Nên học tướng của bốn Niệm trụ, cũng nên học tướng của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chăng? Nên học tướng của pháp môn giải thoát Không, cũng nên học tướng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chăng? Nên học tướng của Thánh đế khổ, cũng nên học tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo chăng? Nên học tướng của tám Giải thoát, cũng nên học tướng của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chăng?
Nên học tướng của năm loại mắt, cũng nên học tướng của sáu phép thần thông chăng? Nên học tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng nên học tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni chăng? Nên học tướng của bậc Cực hỷ, cũng nên học tướng của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chăng? Nên học tướng nơi mười lực của Phật, cũng nên học tướng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chăng? Nên học tướng của đại Từ, cũng nên học tướng của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chăng? Nên học tướng của pháp không quên mất, cũng nên học tướng của tánh luôn luôn xả chăng? Nên học tướng của trí Nhất thiết, cũng nên học tướng của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chăng? Nên học tướng của quả Dự lưu, cũng nên học tướng của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác chăng? Nên học tướng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng nên học tướng của quả vị Giác ngộ cao tột chăng? Nên học tướng của sự biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, cũng nên học tướng của việc quán duyên khởi theo chiều thuận nghịch chăng? Nên học tướng của tất cả bậc Thánh, cũng nên học tướng của tất cả Thánh pháp chăng? Nên học tướng của cảnh giới hữu vi, cũng nên học tướng của cảnh giới vô vi chăng?
Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát chẳng học về tướng của các pháp như thế thì cũng chẳng nên học các hành tướng. Các Đại Bồ-tát đối với các pháp tướng và các hành tướng đã chẳng có thể học thì làm sao có thể vượt tất cả các bậc Thanh văn và Độc giác? Nếu chẳng có thể vượt tất cả các bậc Thanh văn và Độc giác thì làm sao có thể nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát? Nếu chẳng nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát thì làm sao có thể đắc trí Nhất thiết trí? Nếu chẳng có thể đắc trí Nhất thiết trí thì làm sao có thể chuyển bánh xe chánh pháp? Nếu chẳng có thể chuyển bánh xe chánh pháp thì làm sao có thể dùng pháp Thanh văn thừa hoặc pháp Độc giác thừa, hoặc pháp Vô thượng thừa mà an lập hữu tình, khiến họ thoát khỏi các khổ về sinh tử vô cùng tận?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu tất cả các pháp thật có tướng thì các Đại Bồ-tát nên học. Nhưng vì tất cả pháp thật chẳng có tướng, vô sắc, vô kiến, vô đối, một tướng, đó là không tướng. Vì vậy, Đại Bồ-tát chẳng học pháp có tướng, cũng lại chẳng học pháp không tướng. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Như Lai xuất hiện ở đời hoặc chẳng xuất hiện ở đời thì pháp giới vẫn thường trú, các pháp một tướng, đó là không tướng, không tướng như thế đã chẳng phải là có tướng, cũng chẳng phải là không tướng.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp đều chẳng phải tướng có, cũng chẳng phải tướng không nên chẳng phải tướng một, cũng chẳng phải tướng khác, thế thì làm sao Đại Bồ-tát có thể tu Bát-nhã ba-la-mậtđa? Nếu chẳng có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa thì làm sao có thể vượt tất cả các bậc Thanh văn và Độc giác? Nếu chẳng có thể vượt tất cả các bậc Thanh văn và Độc giác thì làm sao có thể nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát? Nếu chẳng nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát thì làm sao có thể khởi Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát. Nếu chẳng khởi Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát thì làm sao có thể phát khởi thần thông của Bồ-tát. Nếu chẳng có thể phát khởi thần thông của Bồ-tát thì làm sao có thể đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật? Nếu chẳng có thể đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật thì làm sao có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí? Nếu chẳng có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí thì làm sao có thể chuyển bánh xe chánh pháp? Nếu chẳng có thể chuyển bánh xe chánh pháp thì đúng là chẳng có thể an lập hữu tình, khiến đắc quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; cũng đúng là chẳng có thể an lập hữu tình, khiến đắc quả vị Độc giác; cũng đúng là chẳng có thể an lập hữu tình, khiến chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột; cũng đúng là chẳng có thể an lập hữu tình, khiến an trú nơi tính trì giới làm việc phước, hoặc an trú nơi tính tu tập làm việc phước, sẽ hưởng được phú quý an vui tự tại ở cõi trời, người.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như ông đã nói! Tất cả pháp chẳng phải tướng có, chẳng phải tướng không, chẳng phải tướng một, chẳng phải tướng khác. Nếu Đại Bồ-tát biết tất cả pháp hoặc tướng có, hoặc tướng không, hoặc tướng một, hoặc tướng khác, đều đồng một tướng đó là không tướng, thì tu học không tướng này là tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu học không tướng này là tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả tất cả pháp là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát tu xả bỏ tất cả các pháp là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả sắc cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả thọ, tưởng, hành, thức, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả nhãn xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả sắc xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả nhãn giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả sắc giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả nhãn thức giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả nhãn xúc, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả địa giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả nhân duyên, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa; tu xả đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã bala-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả vô minh, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả A-dụ-ha, Niết-dụ-ha, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-lamật-đa; tu xả quán bất tịnh, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả Sơ thiền, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả Từ vô lượng, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa; tu xả Bi, Hỷ, Xả vô lượng, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả định Không vô biên xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả tùy niệm Phật, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả tùy niệm Pháp, tùy niệm Tăng, tùy niệm giới, tùy niệm xả, tùy niệm thiên, tùy niệm hữu phương tiện, tùy niệm vô phương tiện, tùy niệm tịch tĩnh, tùy niệm giữ hơi thở ra vào, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả tưởng về vô thường, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-lamật-đa; tu xả tưởng về khổ-vô thường, tưởng về khổ-vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng chán lìa sự ăn uống, tưởng về tất cả thế gian chẳng vui, tưởng về sự chết, tưởng về đoạn, tưởng về ly, tưởng về diệt, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả tưởng về ngã, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả tưởng về hữu tình, tưởng về dòng sinh mạng, tưởng về khả năng sinh khởi, tưởng về sự nuôi dưỡng, tưởng về sự trưởng thành, tưởng về chủ thể luân hồi, tưởng về ý sinh, tưởng về nho đồng, tưởng về khả năng làm việc, tưởng về khả năng khiến người làm việc, tưởng về khả năng tự thọ quả báo, tưởng về khả năng khiến người thọ quả báo, tưởng về cái biết, tưởng về khiến người biết, tưởng về cái thấy, tưởng về khiến người thấy, cũng xả sự
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả tưởng thường, chẳng phải thường, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả tưởng lạc, chẳng phải lạc, tưởng ngã, chẳng phải ngã, tưởng tịnh, chẳng phải tịnh, tưởng xa lìa, chẳng phải xa lìa, tưởng tịch tĩnh, chẳng phải tịch tĩnh, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả bốn Niệm trụ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-lamật-đa; tu xả bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả pháp môn giải thoát Không, cũng xả sự tu này là tu Bátnhã ba-la-mật-đa; tu xả pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả tám Giải thoát, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa; tu xả tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả Tam-mađịa có tầm có tứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả Tam-ma-địa Không tầm chỉ có tứ, Tam-ma-địa Không tầm không tứ, cũng xả sự Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả Thánh đế khổ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả Khổ trí, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả Tập trí, Diệt trí, Đạo trí, Tận trí, Vô thượng trí, Pháp trí, Loại trí, Thế tục trí, Tha tâm trí, Như thật trí, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả Bố thí ba-la-mật-đa, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã bala-mật-đa; tu xả Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả pháp không bên trong, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng xả sự Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả bậc Cực hỷ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả năm loại mắt, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả sáu phép thần thông, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả mười lực của Phật, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-lamật-đa; tu xả bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả đại Từ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, cũng xả sự tu này là tu Bátnhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả pháp không quên mất, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả tánh luôn luôn xả, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng xả sự tu này là tu Bátnhã ba-la-mật-đa; tu xả tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả trí Nhất thiết, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả quả Dự lưu, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả quả vị Giác ngộ cao tột, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả trí Nhất thiết trí, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa; tu xả sự đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã bala-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả cảnh giới hữu vi, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa; tu xả cảnh giới vô vi, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả sắc, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả thọ, tưởng, hành, thức, cũng xả sự tu này là tu Bátnhã ba-la-mật-đa?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có sắc, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa. Nếu nghĩ có thọ, tưởng, hành, thức, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả sắc, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả thọ, tưởng, hành, thức, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả nhãn xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? Tu xả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có nhãn xứ, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-lamật-đa. Nếu nghĩ có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả nhãn xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả sắc xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? Tu xả thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có sắc xứ, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa. Nếu nghĩ có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả sắc xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả nhãn giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? Tu xả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có nhãn giới, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-lamật-đa. Nếu nghĩ có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả nhãn giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả sắc giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? Tu xả thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có sắc giới, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-lamật-đa. Nếu nghĩ có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mậtđa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả sắc giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa; tu xả thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả nhãn thức giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-lamật-đa? Tu xả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có nhãn thức giới, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-lamật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả nhãn thức giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả nhãn xúc, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? Tu xả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có nhãn xúc, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-lamật-đa. Nếu nghĩ có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả nhãn xúc, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? Tu xả các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bátnhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mậtđa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả địa giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? Tu xả thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có địa giới, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-lamật-đa. Nếu nghĩ có thủy, hỏa, phong, không, thức giới, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mậtđa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả địa giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa; tu xả thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả nhân duyên, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa? Tu xả đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có nhân duyên, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả nhân duyên, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả vô minh, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa? Tu xả hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có vô minh, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-lamật-đa. Nếu nghĩ có hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả vô minh, cũng xả sự tu này là tu Bátnhã ba-la-mật-đa; tu xả hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-lamật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả A-dụha, Niết-dụ-ha, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã bala-mật-đa? Tu xả quán bất tịnh, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có A-dụ-ha, Niết-dụha, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bátnhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có quán bất tịnh, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả Adụ-ha, Niết-dụ-ha, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả quán bất tịnh, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả Sơ thiền, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa? Tu xả đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có Sơ thiền, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-lamật-đa. Nếu nghĩ có đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả Sơ thiền, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa; tu xả đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả Từ vô lượng, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa? Tu xả Bi, Hỷ, Xả vô lượng, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có Từ vô lượng, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có Bi, Hỷ, Xả vô lượng, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả Từ vô lượng, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-lamật-đa; tu xả Bi, Hỷ, Xả vô lượng, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả định Không vô biên xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? Tu xả định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có định Không vô biên xứ, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả định Không vô biên xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả tùy niệm Phật, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-lamật-đa? Tu xả tùy niệm Pháp, tùy niệm Tăng, tùy niệm giới, tùy niệm xả, tùy niệm thiên, tùy niệm hữu phương tiện, tùy niệm vô phương tiện, tùy niệm tịch tĩnh, tùy niệm hơi thở ngưng lại, vào, ra, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có tùy niệm Phật, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có tùy niệm Pháp cho đến tùy niệm hơi thở ngưng lại, vào, ra, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả tùy niệm Phật, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả tùy niệm Pháp cho đến tùy niệm hơi thở ngưng lại, vào, ra, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả tưởng về vô thường, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã bala-mật-đa? Tu xả tưởng về khổ-vô thường, tưởng về khổ-vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng chán lìa sự ăn uống, tưởng về tất cả thế gian chẳng vui, tưởng về sự chết, tưởng về đoạn, tưởng về ly, tưởng về diệt, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có tưởng về vô thường, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có tưởng về khổvô thường cho đến tưởng về diệt, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả tưởng về vô thường, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả tưởng về khổ, vô thường cho đến tưởng về diệt, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả tưởng về ngã, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa? Tu xả tưởng về hữu tình, tưởng về dòng sinh mạng, tưởng về khả năng sinh khởi, tưởng về sự nuôi dưỡng, tưởng về sự trưởng thành, tưởng về chủ thể luân hồi, tưởng về ý sinh, tưởng về nho đồng, tưởng về khả năng làm việc, tưởng về khả năng khiến người làm việc, tưởng về khả năng tự thọ quả báo, tưởng về khả năng khiến người thọ quả báo, tưởng về cái biết, tưởng về khả năng khiến người biết, tưởng về cái thấy, tưởng về khả năng khiến người thấy, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có tưởng về ngã, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có tưởng về hữu tình cho đến tưởng về khả năng khiến người thấy, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-lamật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả tưởng về ngã, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả tưởng về hữu tình cho đến tưởng về khả năng khiến người thấy, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-lamật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả tưởng thường, chẳng phải thường, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? Tu xả tưởng lạc, chẳng phải lạc, tưởng ngã, chẳng phải ngã, tưởng tịnh, chẳng phải tịnh, tưởng xa lìa, chẳng phải xa lìa, tưởng tịch tĩnh, chẳng phải tịch tĩnh, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có tưởng thường, chẳng phải thường, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có tưởng lạc cho đến tưởng tịch tĩnh, chẳng phải tịch tĩnh, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mậtđa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả tưởng thường, chẳng phải thường, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả tưởng lạc cho đến tưởng tịch tĩnh, chẳng phải tịch tĩnh, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả bốn Niệm trụ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-lamật-đa? Tu xả bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có bốn Niệm trụ, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả bốn Niệm trụ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả pháp môn giải thoát Không, cũng xả sự tu này là tu Bátnhã ba-la-mật-đa? Tu xả pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có pháp môn giải thoát Không, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả pháp môn giải thoát Không, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa; tu xả pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả tám Giải thoát, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-lamật-đa? Tu xả tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã bala-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có tám Giải thoát, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả tám Giải thoát, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả Tamma-địa có tầm có tứ, cũng xả sự tu này là tu Bátnhã ba-la-mật-đa? Tu xả Tam-ma-địa Không tầm chỉ có tứ, Tam-ma-địa Không tầm không tứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có Tam-ma-địa có tầm có tứ, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có Tam-ma-địa Không tầm chỉ có tứ, Tam-ma-địa Không tầm không tứ, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-lamật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả Tam-ma-địa có tầm có tứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả Tam-ma-địa Không tầm chỉ có tứ, Tam-ma-địa Không tầm không tứ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả Thánh đế khổ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa? Tu xả Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có Thánh đế khổ, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có Thánh đế tập, diệt, đạo, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả Thánh đế khổ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã bala-mật-đa; tu xả Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả khổ trí, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? Tu xả tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô thượng trí, pháp trí, loại trí, thế tục trí, tha tâm trí, như thật trí, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có khổ trí, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa. Nếu nghĩ có tập trí cho đến như thật trí, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-lamật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả khổ trí, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả tập trí cho đến như thật trí, cũng xả sự tu này là tu Bátnhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả Bố thí ba-la-mật-đa, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã bala-mật-đa? Tu xả Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn,
Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có Bố thí ba-la-mậtđa, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bátnhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả Bố thí ba-la-mật-đa, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả pháp không bên trong, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? Tu xả pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có pháp không bên trong, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả pháp không bên trong, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả bậc Cực hỷ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa? Tu xả bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có bậc Cực hỷ, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-lamật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả bậc Cực hỷ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã bala-mật-đa; tu xả bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. –Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả năm loại mắt, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa? Tu xả sáu phép thần thông, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có năm loại mắt, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có sáu phép thần thông, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả năm loại mắt, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa; tu xả sáu phép thần thông, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả mười lực của Phật, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-lamật-đa? Tu xả bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có mười lực của Phật, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả mười lực của Phật, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã bala-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả đại Từ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? Tu xả đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có đại Từ, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa. Nếu nghĩ có đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả đại Từ, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả pháp không quên mất, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? Tu xả tánh luôn luôn xả, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có pháp không quên mất, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có tánh luôn luôn xả, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bátnhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mậtđa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả pháp không quên mất, cũng xả sự tu này là tu Bátnhã ba-la-mật-đa; tu xả tánh luôn luôn xả, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng xả sự tu này là tu Bátnhã ba-la-mật-đa? Tu xả tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có tất cả pháp môn Tam-ma-địa, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có tất cả pháp môn Đà-la-ni, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả trí Nhất thiết, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? Tu xả trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có trí Nhất thiết, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả trí Nhất thiết, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-lamật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả quả Dự lưu, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? Tu xả quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? –Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có quả Dự lưu, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả quả Dự lưu, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa? Tu xả quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-lamật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có tất cả hạnh Đại Bồ-tát, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả trí Nhất thiết trí, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa? Tu xả sự đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã bala-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có trí Nhất thiết trí, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có tất cả tập khí phiền não tương tục và nghĩ có sự vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí phiền não tương tục, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả trí Nhất thiết trí, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả sự đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu xả cảnh giới hữu vi, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-lamật-đa? Tu xả cảnh giới vô vi, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu nghĩ có cảnh giới hữu vi, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nghĩ có cảnh giới vô vi, có việc xả bỏ sự tu này thì chẳng phải là tu Bát-nhã ba-lamật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu xả cảnh giới hữu vi, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu xả cảnh giới vô vi, cũng xả sự tu này là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Thiện Hiện, kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể tu Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì kẻ trụ vào hữu tưởng nếu tu bố thí cho đến Bát-nhã, chắc chắn sẽ chấp có ngã và ngã sở; do sự chấp này mà vướng mắc vào hai bên; vì vướng mắc vào hai bên nên chẳng giải thoát khỏi sinh tử, không đạo, không Niết-bàn thì làm thế nào có thể tu như thật về Bố thí cho đến Bát-nhã ba-lamật-đa!
Này Thiện Hiện, kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể tu bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì kẻ trụ vào hữu tưởng nếu tu bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, chắc chắn sẽ chấp có ngã và ngã sở; do sự chấp này mà vướng mắc vào hai bên; vì vướng mắc vào hai bên nên chẳng giải thoát khỏi sinh tử, không đạo, không Niết-bàn thì làm thế nào có thể tu như thật về bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo!
Này Thiện Hiện, kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể an trú nơi pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì kẻ trụ vào hữu tưởng nếu an trú nơi pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh, chắc chắn sẽ chấp có ngã và ngã sở; do sự chấp này mà vướng mắc vào hai bên; vì vướng mắc vào hai bên nên chẳng giải thoát khỏi sinh tử, không đạo, không Niết-bàn thì làm thế nào có thể an trú như thật nơi pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh!
Này Thiện Hiện, kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể an trú nơi chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì kẻ trụ vào hữu tưởng nếu an trú nơi chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chắc chắn sẽ chấp có ngã và ngã sở; do sự chấp này mà vướng mắc vào hai bên; vì vướng mắc vào hai bên nên chẳng giải thoát khỏi sinh tử, không đạo, không Niết-bàn thì làm thế nào có thể an trú như thật nơi chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn!
Này Thiện Hiện, kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể an trú nơi Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì kẻ trụ vào hữu tưởng, chắc chắn sẽ chấp có ngã và ngã sở; do sự chấp này mà vướng mắc vào hai bên; vì vướng mắc vào hai bên nên chẳng giải thoát khỏi sinh tử, không đạo, không Niết-bàn thì làm thế nào có thể an trú như thật nơi Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo!
Này Thiện Hiện, kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể tu pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì kẻ trụ vào hữu tưởng, chắc chắn sẽ chấp có ngã và ngã sở; do sự chấp này mà vướng mắc vào hai bên; vì vướng mắc vào hai bên nên chẳng giải thoát khỏi sinh tử, không đạo, không Niết-bàn thì làm thế nào có thể tu như thật về pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện!
Này Thiện Hiện, kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể tu bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì kẻ trụ vào hữu tưởng, chắc chắn sẽ chấp có ngã và ngã sở; do sự chấp này mà vướng mắc vào hai bên; vì vướng mắc vào hai bên nên chẳng giải thoát khỏi sinh tử, không đạo, không Niết-bàn thì làm thế nào có thể tu như thật về bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc!
Này Thiện Hiện, kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể tu tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì kẻ trụ vào hữu tưởng, chắc chắn sẽ chấp có ngã và ngã sở; do sự chấp này mà vướng mắc vào hai bên; vì vướng mắc vào hai bên nên chẳng giải thoát khỏi sinh tử, không đạo, không Niết-bàn thì làm thế nào có thể tu như thật về tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ!
Này Thiện Hiện, kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì kẻ trụ vào hữu tưởng, chắc chắn sẽ chấp có ngã và ngã sở; do sự chấp này mà vướng mắc vào hai bên; vì vướng mắc vào hai bên nên chẳng giải thoát khỏi sinh tử, không đạo, không Niết-bàn thì làm thế nào có thể tu như thật về tất cả pháp môn Tamma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni!
Này Thiện Hiện, kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể tu bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì kẻ trụ vào hữu tưởng, chắc chắn sẽ chấp có ngã và ngã sở; do sự chấp này mà vướng mắc vào hai bên; vì vướng mắc vào hai bên nên chẳng giải thoát khỏi sinh tử, không đạo, không Niết-bàn thì làm thế nào có thể tu như thật về bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân!
Này Thiện Hiện, kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể tu năm loại mắt, sáu phép thần thông. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì kẻ trụ vào hữu tưởng, chắc chắn sẽ chấp có ngã và ngã sở; do sự chấp này mà vướng mắc vào hai bên; vì vướng mắc vào hai bên nên chẳng giải thoát khỏi sinh tử, không đạo, không Niết-bàn thì làm thế nào có thể tu như thật về năm loại mắt, sáu phép thần thông!
Này Thiện Hiện, kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể tu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì kẻ trụ vào hữu tưởng, chắc chắn sẽ chấp có ngã và ngã sở; do sự chấp này mà vướng mắc vào hai bên; vì vướng mắc vào hai bên nên chẳng giải thoát khỏi sinh tử, không đạo, không Niết-bàn thì làm thế nào có thể tu như thật về mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, mười tám pháp Phật bất cộng!
Này Thiện Hiện, kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì kẻ trụ vào hữu tưởng, chắc chắn sẽ chấp có ngã và ngã sở; do sự chấp này mà vướng mắc vào hai bên; vì vướng mắc vào hai bên nên chẳng giải thoát khỏi sinh tử, không đạo, không Niết-bàn thì làm thế nào có thể tu như thật về đại Bi, đại Hỷ, đại Xả!
Này Thiện Hiện, kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì kẻ trụ vào hữu tưởng, chắc chắn sẽ chấp có ngã và ngã sở; do sự chấp này mà vướng mắc vào hai bên; vì vướng mắc vào hai bên nên chẳng giải thoát khỏi sinh tử, không đạo, không Niết-bàn thì làm thế nào có thể tu như thật về pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả!
Này Thiện Hiện, kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể tu trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì kẻ trụ vào hữu tưởng, chắc chắn sẽ chấp có ngã và ngã sở; do sự chấp này mà vướng mắc vào hai bên; vì vướng mắc vào hai bên nên chẳng giải thoát khỏi sinh tử, không đạo, không Niết-bàn thì làm thế nào có thể tu như thật về trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng!
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, cái gì là hữu, cái gì chẳng phải là hữu?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, hai là hữu, không hai là chẳng phải hữu.
–Bạch Thế Tôn, thế nào là hai , thế nào là không hai?
–Này Thiện Hiện, tưởng về sắc là hai, dứt tưởng về sắc là không hai; tưởng về thọ, tưởng, hành, thức là hai, dứt tưởng về thọ, tưởng, hành, thức là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về nhãn xứ là hai, dứt tưởng về nhãn xứ là không hai; tưởng về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là hai, dứt tưởng về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về sắc xứ là hai, dứt tưởng về sắc xứ là không hai; tưởng về thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là hai, dứt tưởng về thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về nhãn giới là hai, dứt tưởng về nhãn giới là không hai; tưởng về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là hai, dứt tưởng về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về sắc giới là hai, dứt tưởng về sắc giới là không hai; tưởng về thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là hai, dứt tưởng về thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về nhãn thức giới là hai, dứt tưởng về nhãn thức giới là không hai; tưởng về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là hai, dứt tưởng về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về nhãn xúc là hai, dứt tưởng về nhãn xúc là không hai; tưởng về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là hai, dứt tưởng về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là hai, dứt tưởng về các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là không hai; tưởng về các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là hai, dứt tưởng về các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về địa giới là hai, dứt tưởng về địa giới là không hai; tưởng về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là hai, dứt tưởng về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về nhân duyên là hai, dứt tưởng về nhân duyên là không hai; tưởng về đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là hai, dứt tưởng về đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về vô minh là hai, dứt tưởng về vô minh là không hai; tưởng về hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não là hai, dứt tưởng về hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về Bố thí ba-la-mật-đa là hai, dứt tưởng về Bố thí ba-la-mật-đa là không hai; tưởng về Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là hai, dứt tưởng về Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về pháp không bên trong là hai, dứt tưởng về pháp không bên trong là không hai; tưởng về pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là hai, dứt tưởng về pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về bốn Niệm trụ là hai, dứt tưởng về bốn Niệm trụ là không hai; tưởng về bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo là hai, dứt tưởng về bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về Thánh đế khổ là hai, dứt tưởng về Thánh đế khổ là không hai; tưởng về Thánh đế tập, diệt, đạo là hai, dứt tưởng về Thánh đế tập, diệt, đạo là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về bốn Tĩnh lự là hai, dứt tưởng về bốn Tĩnh lự là không hai; tưởng về bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là hai, dứt tưởng về bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về tám Giải thoát là hai, dứt tưởng về tám Giải thoát là không hai; tưởng về tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là hai, dứt tưởng về tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về tất cả pháp môn Tam-ma-địa là hai, dứt tưởng về tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không hai; tưởng về tất cả pháp môn Đà-la-ni là hai, dứt tưởng về tất cả pháp môn Đà-la-ni là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về pháp môn giải thoát Không là hai, dứt tưởng về pháp môn giải thoát Không là không hai; tưởng về pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là hai, dứt tưởng về pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là không hai. Này Thiện Hiện, tưởng về bậc Cực hỷ là hai, dứt tưởng về bậc Cực hỷ là không hai; tưởng về bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là hai, dứt tưởng về bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về năm loại mắt là hai, dứt tưởng về năm loại mắt là không hai; tưởng về sáu phép thần thông là hai, dứt tưởng về sáu phép thần thông là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về mười lực của Phật là hai, dứt tưởng về mười lực của Phật là không hai; tưởng về bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là hai, dứt tưởng về bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về đại Từ là hai, dứt tưởng về đại Từ là không hai; tưởng về đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là hai, dứt tưởng về đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về pháp không quên mất là hai, dứt tưởng về pháp không quên mất là không hai; tưởng về tánh luôn luôn xả là hai, dứt tưởng về tánh luôn luôn xả là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về trí Nhất thiết là hai, dứt tưởng về trí Nhất thiết là không hai; tưởng về trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là hai, dứt tưởng về trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là không hai. Này Thiện Hiện, tưởng về Dự lưu là hai, dứt tưởng về Dự lưu là không hai; tưởng về Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác là hai, dứt tưởng về quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về Đại Bồ-tát là hai, dứt tưởng về Đại Bồ-tát là không hai; tưởng về Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là hai, dứt tưởng về Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về hạnh Đại Bồ-tát là hai, dứt tưởng về hạnh Đại Bồ-tát là không hai; tưởng về quả vị Giác ngộ cao tột là hai, dứt tưởng về quả vị Giác ngộ cao tột là không hai.
Này Thiện Hiện, tưởng về cảnh giới hữu vi là hai, dứt tưởng về cảnh giới hữu vi là không hai; tưởng về cảnh giới vô vi là hai, dứt tưởng về cảnh giới vô vi là không hai.
Này Thiện Hiện, cho đến tất cả các tưởng đều là hai; cho đến tất cả cái hai đều hiện hữu; cho đến tất cả cái hiện hữu đều sinh tử; hễ có sinh tử thì chẳng có thể giải thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết sầu than khổ ưu não.
Này Thiện Hiện, các sự việc dứt hết tưởng đều là không có hai; những cái không hai đều là chẳng thật có; những cái chẳng thật có đều không có sinh tử, đã không có sinh tử thì có thể giải thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết, sầu than khổ ưu não.
Này Thiện Hiện, do nhân duyên này, nên biết tất cả người có tưởng về hai, nhất định không tu tập Bố thí ba-la-mật-đa, cũng không tu tập Tịnh giới ba-la-mật-đa, cũng không tu tập An nhẫn bala-mật-đa, cũng không tu tập Tinh tấn ba-la-mậtđa, cũng không tu tập Tĩnh lự ba-la-mật-đa, cũng không tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa, không đạo, không quả, cũng không hiện quán; cả đến thuận nhẫn họ còn chẳng có huống là có sự biết khắp về sắc, biết khắp về thọ, tưởng, hành, thức; huống là có sự biết khắp về nhãn xứ, biết khắp về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; huống là có sự biết khắp về sắc xứ, biết khắp về thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; huống là có sự biết khắp về nhãn giới, biết khắp về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; huống là có sự biết khắp về sắc giới, biết khắp về thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; huống là có sự biết khắp về nhãn thức giới, biết khắp về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; huống là có sự biết khắp về nhãn xúc, biết khắp về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; huống là có sự biết khắp về các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, biết khắp về các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; huống là có sự biết khắp về địa giới, biết khắp về thủy, hỏa, phong, không, thức giới; huống là có sự biết khắp về nhân duyên, biết khắp về đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; huống là có sự biết khắp về vô minh, biết khắp về hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; huống là có sự biết khắp về Bố thí ba-la-mật-đa, biết khắp về Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; huống là có sự biết khắp về pháp không bên trong, biết khắp về pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; huống là có sự biết khắp về bốn Niệm trụ, biết khắp về bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; huống là có sự biết khắp về Thánh đế khổ, biết khắp về Thánh đế tập, diệt, đạo; huống là có sự biết khắp về bốn Tĩnh lự, biết khắp về bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; huống là có sự biết khắp về tám Giải thoát, biết khắp về tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; huống là có sự biết khắp về tất cả pháp môn Tam-ma-địa, biết khắp về tất cả pháp môn Đà-la-ni; huống là có sự biết khắp về pháp môn giải thoát Không, biết khắp về pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; huống là có sự biết khắp về bậc Cực hỷ, biết khắp về bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; huống là có sự biết khắp về năm loại mắt, biết khắp về sáu phép thần thông; huống là có sự biết khắp về mười lực của Phật, biết khắp về bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; huống là có sự biết khắp về đại Từ, biết khắp về đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; huống là có sự biết khắp về pháp không quên mất, biết khắp về tánh luôn luôn xả; huống là có sự biết khắp về trí Nhất thiết, biết khắp về trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; huống là có sự biết khắp về quả Dự lưu, biết khắp về quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; huống là lại có thể đạt được trí Nhất thiết trí và đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục.
[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]