SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

HỘI THỨ I

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN
(QUYỂN 11 - 36)

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.

QUYỂN 11

QUYỂN 12

QUYỂN 13

QUYỂN 14

QUYỂN 15

QUYỂN 16

QUYỂN 17

QUYỂN 18

QUYỂN 19

QUYỂN 20

QUYỂN 21

QUYỂN 22

QUYỂN 23

QUYỂN 24

QUYỂN 25

QUYỂN 26

QUYỂN 27

QUYỂN 28

QUYỂN 29

QUYỂN 30

QUYỂN 31

QUYỂN 32

QUYỂN 33

QUYỂN 34

QUYỂN 35

QUYỂN 36


QUYỂN 11

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (1)

Bấy giờ, Phật bảo Trưởng lão Thiện Hiện:

−Ông hãy dùng biện tài, sẽ vì chúng Đại Bồ-tát mà tuyên thuyết pháp tương ưng của Bát-nhã ba-la-mật-đa, để dạy bảo trao truyền cho các Đại Bồ-tát, khiến họ tu học rốt ráo Bát-nhã ba-la-mậtđa.

Khi ấy, chúng Đại Bồ-tát và Đại Thanh văn, Trời, Rồng, Dược-xoa, Nhân phi nhân... đều khởi lên ý nghĩ thế này:

−Nay Tôn giả Thiện Hiện tự dùng trí tuệ và biện tài của mình, sẽ vì chúng Đại Bồ-tát mà tuyên thuyết pháp tương ưng của Bát-nhã ba-la-mật-đa để dạy bảo trao truyền cho các Đại Bồ-tát, khiến họ tu học rốt ráo Bát-nhã ba-la-mật-đa, hay là phải nhờ thần lực, oai đức của Phật?

Trưởng lão Thiện Hiện biết được tâm niệm của chúng Đại Bồ-tát và Đại Thanh văn, Trời, Rồng, Dược-xoa, Nhân phi nhân..., liền nói với Trưởng lão Xá-lợi Tử:

−Đệ tử của chư Phật khi nói ra giáo pháp, nên biết đều nhờ vào thần lực oai đức của Phật. Vì sao? Xá-lợi Tử, các Đức Phật vì họ mà tuyên thuyết pháp trọng yếu, họ nhờ Phật dạy mà siêng năng tu học, có khả năng chứng được thật tánh của các pháp. Do đó, những pháp đã vì họ mà tuyên thuyết đều chẳng hề trái với pháp tánh. Cho nên, những lời Phật đã dạy như đèn truyền trao chiếu sáng. Xá-lợi Tử, tôi sẽ nhờ thần lực, oai đức của Phật gia hộ đầy đủ, vì chúng Đại Bồ-tát mà tuyên thuyết pháp tương ưng của Bát-nhã ba-la-mật-đa, để dạy bảo trao truyền cho các Đại Bồ-tát, khiến họ tu học rốt ráo Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng phải là do trí tuệ và biện tài của riêng mình. Vì sao vậy? Vì pháp tương ưng của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng phải là cảnh giới của các hàng Thanh văn và Độc giác.

Lúc này, Trưởng lão Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như Phật đã dạy: “Nay con dùng biện tài, sẽ vì chúng Đại Bồ-tát mà tuyên thuyết pháp tương ưng của Bát-nhã ba-la-mật-đa, để dạy bảo trao truyền cho các Đại Bồ-tát, khiến họ tu học rốt ráo Bát-nhã ba-la-mật-đa.” Bạch Thế Tôn, trong đó, pháp nào gọi là Đại Bồ-tát? Lại có pháp nào gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa? Bạch Thế Tôn, con chẳng thấy có pháp nào có thể gọi là Đại Bồ-tát, cũng chẳng thấy có pháp nào có thể gọi là

Bát-nhã ba-la-mật-đa, cả hai danh xưng ấy cũng đều chẳng thấy có, tại sao lại bảo con vì chúng Đại Bồ-tát mà tuyên thuyết pháp tương ưng của Bátnhã ba-la-mật-đa, để dạy bảo trao truyền cho các Đại Bồ-tát, khiến họ tu học rốt ráo Bát-nhã ba-lamật-đa?

Phật bảo:

−Thiện Hiện, Đại Bồ-tát chỉ có tên gọi, đó là Đại Bồ-tát; Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chỉ có tên gọi, đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa, cả hai danh xưng ấy, cũng chỉ có tên gọi. Thiện Hiện, hai danh xưng ấy là bất sinh, bất diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, như vậy là giả danh, vì chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Thiện Hiện nên biết, ví như ngã chỉ là giả danh. Giả danh ấy, chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là ngã. Như vậy, hữu tình, người sống, người sinh, người nuôi, người tạo tác, cái ta, thân do ý sinh, tuổi trẻ, người làm, người sai làm, người phát khởi, người khiến phát khởi, người nhận, người sai nhận, người biết, người thấy… cũng chỉ là giả danh. Danh ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là loài hữu tình... cho đến người thấy. Như vậy, tất cả chỉ là giả danh. Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được. Như vậy Thiện Hiện, hoặc là Đại Bồ-tát, hoặc là Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc là cả hai danh xưng này, đều là pháp giả. Pháp giả ấy, chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, là Đại Bồ-tát, là Bát-nhã ba-la-mật-đa, là danh xưng. Như thế là cả ba danh xưng ấy chỉ có giả danh. Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, ví như sắc chỉ là giả danh. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là sắc. Như vậy, thọ, tưởng, hành, thức, cũng chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là thọ, tưởng, hành, thức. Như thế, tất cả chỉ là giả danh. Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Như vậy Thiện Hiện, hoặc là Đại Bồ-tát, hoặc là Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là pháp giả. Pháp giả ấy, chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là Đại Bồ-tát, là Bát-nhã ba-la-mật-đa, là danh xưng. Cả ba danh xưng ấy chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, ví như nhãn xứ chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là nhãn xứ. Như vậy, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chỉ là pháp giả. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Như vậy, tất cả chỉ là giả danh. Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Như vậy Thiện Hiện, hoặc là Đại Bồ-tát, hoặc là Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là pháp giả. Pháp giả ấy, chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là Đại Bồ-tát, là Bát-nhã ba-la-mật-đa, là danh xưng. Cả ba danh xưng ấy chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, ví như sắc xứ chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là sắc xứ. Như vậy, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Như vậy, tất cả chỉ là giả danh. Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Như vậy Thiện Hiện, hoặc là Đại Bồ-tát, hoặc là Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là pháp giả. Pháp giả ấy, chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là Đại Bồ-tát, là Bát-nhã ba-la-mật-đa, là danh xưng. Cả ba danh xưng ấy chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, ví như nhãn giới chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là nhãn giới. Như vậy, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, cũng chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Như vậy, tất cả chỉ là giả danh. Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Như vậy Thiện Hiện, hoặc là Đại Bồ-tát, hoặc là Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là pháp giả. Pháp giả ấy, chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là Đại Bồ-tát, là Bát-nhã ba-la-mật-đa, là danh xưng. Cả ba danh xưng ấy chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, ví như sắc giới chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là sắc giới. Như vậy, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, cũng chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Như vậy, tất cả chỉ là giả danh. Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Như vậy Thiện Hiện, hoặc là Đại Bồ-tát, hoặc là Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là pháp giả. Pháp giả ấy, chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là Đại Bồ-tát, là Bát-nhã ba-la-mật-đa, là danh xưng. Cả ba danh xưng ấy chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, ví như nhãn thức giới chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là nhãn thức giới. Như vậy, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, cũng chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Như vậy, tất cả chỉ là giả danh. Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Như vậy Thiện Hiện, hoặc là Đại Bồ-tát, hoặc là Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là pháp giả. Pháp giả ấy, chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là Đại Bồ-tát, là Bát-nhã ba-la-mật-đa, là danh xưng. Cả ba danh xưng ấy chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, ví như nhãn xúc chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là nhãn xúc. Như vậy, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, cũng chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Như vậy, tất cả chỉ là giả danh. Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Như vậy Thiện Hiện, hoặc là Đại Bồ-tát, hoặc là Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là pháp giả. Pháp giả ấy, chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là Đại Bồ-tát, là Bát-nhã ba-la-mật-đa, là danh xưng. Cả ba danh xưng ấy chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, ví như các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra. Như vậy, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, cũng chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra. Như vậy, tất cả chỉ là giả danh. Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Như vậy Thiện Hiện, hoặc là Đại Bồ-tát, hoặc là Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là pháp giả. Pháp giả ấy, chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là Đại Bồ-tát, là Bát-nhã ba-la-mật-đa, là danh xưng. Cả ba danh xưng ấy chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, ví như nơi thân hình có đầu, cổ, vai, bắp tay, tay, cánh tay, bụng, vai sau, ngực, hông, sườn, xương sống, đầu gối, đùi, vế, bắp chân, bàn chân... chỉ là giả danh. Danh của các thứ ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là các bộ phận trong thân từ đầu, cổ, cho đến bàn chân. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh.

Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Như vậy Thiện Hiện, hoặc là Đại Bồ-tát, hoặc là Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là pháp giả. Pháp giả ấy, chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là Đại Bồ-tát, là Bát-nhã ba-la-mật-đa, là danh xưng. Cả ba danh xưng ấy chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, ví như cảnh vật bên ngoài có cỏ, cây, gốc, thân, nhánh, lá, hoa, quả... chỉ là giả danh. Danh của các thứ ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là cảnh vật bên ngoài có cỏ, cây, gốc, thân, nhánh, lá, hoa, quả... Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Như vậy Thiện Hiện, hoặc là Đại Bồ-tát, hoặc là Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là pháp giả. Pháp giả ấy, chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là Đại Bồ-tát, là Bát-nhã ba-la-mật-đa, là danh xưng. Cả ba danh xưng ấy chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, ví như tất cả Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, ở quá khứ, vị lai, hiện tại, chỉ là giả danh. Danh của các thứ ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là tất cả Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Như vậy tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Như vậy Thiện Hiện, hoặc là Đại Bồ-tát, hoặc là Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là pháp giả. Pháp giả ấy, chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là Đại Bồ-tát, là Bát-nhã ba-la-mật-đa, là danh xưng. Cả ba danh xưng ấy chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, ví như các việc huyễn hóa: cảnh mộng, tiếng vang, bóng dáng, dợn nắng, ánh sáng; hoặc ảo thành, các việc biến hóa... chỉ là giả danh. Danh của các thứ ấy đã là giả, nên chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là các việc huyễn hóa, cho đến các sự việc biến hóa... Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Như vậy Thiện Hiện, hoặc là Đại Bồ-tát, hoặc là Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là pháp giả. Pháp giả ấy, chẳng sinh, chẳng diệt, chỉ có nơi ý tưởng tưởng tượng, nêu bày ra bằng ngôn thuyết, gọi đó là Đại Bồ-tát, là Bát-nhã ba-la-mật-đa, là danh xưng. Cả ba danh xưng ấy chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể được.

Như vậy Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp, nên tu học đúng như thế này: Danh là giả, pháp là giả; và việc dạy bảo trao truyền cũng là giả.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán sắc thường, hay vô thường; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức thường, hay vô thường; chẳng nên quán sắc vui, hay khổ; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức vui, hay khổ; chẳng nên quán sắc ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán sắc tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán sắc không, hay chẳng không; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức không, hay chẳng không; chẳng nên quán sắc có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán sắc có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán sắc tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán sắc xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán sắc hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán sắc hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán sắc sinh, hay diệt; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức sinh, hay diệt; chẳng nên quán sắc thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán sắc có tội, hay không tội; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức có tội, hay không tội; chẳng nên quán sắc có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán sắc thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán sắc tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán sắc thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán sắc ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán sắc có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhãn xứ thường, hay vô thường; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thường, hay vô thường; chẳng nên quán nhãn xứ vui, hay khổ; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vui, hay khổ; chẳng nên quán nhãn xứ ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán nhãn xứ tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán nhãn xứ không, hay chẳng không; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không, hay chẳng không; chẳng nên quán nhãn xứ có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán nhãn xứ có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán nhãn xứ tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán nhãn xứ xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán nhãn xứ hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán nhãn xứ hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán nhãn xứ sinh, hay diệt; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ sinh, hay diệt; chẳng nên quán nhãn xứ thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhãn xứ có tội, hay không tội; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có tội, hay không tội; chẳng nên quán nhãn xứ có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán nhãn xứ thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán nhãn xứ tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán nhãn xứ thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhãn xứ ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán nhãn xứ có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán sắc xứ thường, hay vô thường; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thường, hay vô thường; chẳng nên quán sắc xứ vui, hay khổ; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vui, hay khổ; chẳng nên quán sắc xứ ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán sắc xứ tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán sắc xứ không, hay chẳng không; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không, hay chẳng không; chẳng nên quán sắc xứ có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán sắc xứ có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán sắc xứ tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán sắc xứ xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán sắc xứ hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán sắc xứ hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán sắc xứ sinh, hay diệt; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ sinh, hay diệt; chẳng nên quán sắc xứ thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán sắc xứ có tội, hay không tội; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có tội, hay không tội; chẳng nên quán sắc xứ có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán sắc xứ thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán sắc xứ tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán sắc xứ thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán sắc xứ ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán sắc xứ có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhãn giới thường, hay vô thường; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thường, hay vô thường; chẳng nên quán nhãn giới vui, hay khổ; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vui, hay khổ; chẳng nên quán nhãn giới ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán nhãn giới tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán nhãn giới không, hay chẳng không; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không, hay chẳng không; chẳng nên quán nhãn giới có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán nhãn giới có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán nhãn giới tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán nhãn giới xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán nhãn giới hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán nhãn giới hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán nhãn giới sinh, hay diệt; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới sinh, hay diệt; chẳng nên quán nhãn giới thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhãn giới có tội, hay không tội; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có tội, hay không tội; chẳng nên quán nhãn giới có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán nhãn giới thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán nhãn giới tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán nhãn giới thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhãn giới ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán nhãn giới có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán sắc giới thường, hay vô thường; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thường, hay vô thường; chẳng nên quán sắc giới vui, hay khổ; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vui, hay khổ; chẳng nên quán sắc giới ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán sắc giới tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán sắc giới không, hay chẳng không; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không, hay chẳng không; chẳng nên quán sắc giới có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán sắc giới có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán sắc giới tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán sắc giới xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán sắc giới hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán sắc giới hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán sắc giới sinh, hay diệt; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới sinh, hay diệt; chẳng nên quán sắc giới thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán sắc giới có tội, hay không tội; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có tội, hay không tội; chẳng nên quán sắc giới có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán sắc giới thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán sắc giới tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán sắc giới thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán sắc giới ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán sắc giới có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhãn thức giới thường, hay vô thường; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thường, hay vô thường; chẳng nên quán nhãn thức giới vui, hay khổ; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vui, hay khổ; chẳng nên quán nhãn thức giới ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán nhãn thức giới tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán nhãn thức giới không, hay chẳng không; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không, hay chẳng không; chẳng nên quán nhãn thức giới có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán nhãn thức giới có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán nhãn thức giới tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán nhãn thức giới xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán nhãn thức giới hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán nhãn thức giới hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán nhãn thức giới sinh, hay diệt; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới sinh, hay diệt; chẳng nên quán nhãn thức giới thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhãn thức giới có tội, hay không tội; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có tội, hay không tội; chẳng nên quán nhãn thức giới có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán nhãn thức giới thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán nhãn thức giới tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán nhãn thức giới thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhãn thức giới ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán nhãn thức giới có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhãn xúc thường, hay vô thường; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thường, hay vô thường; chẳng nên quán nhãn xúc vui, hay khổ; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vui, hay khổ; chẳng nên quán nhãn xúc ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán nhãn xúc tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán nhãn xúc không, hay chẳng không; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không, hay chẳng không; chẳng nên quán nhãn xúc có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán nhãn xúc có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán nhãn xúc tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán nhãn xúc xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán nhãn xúc hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán nhãn xúc hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán nhãn xúc sinh, hay diệt; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sinh, hay diệt; chẳng nên quán nhãn xúc thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhãn xúc có tội, hay không tội; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có tội, hay không tội; chẳng nên quán nhãn xúc có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán nhãn xúc thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán nhãn xúc tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán nhãn xúc thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhãn xúc ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán nhãn xúc có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra thường, hay vô thường; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, thường, hay vô thường; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra vui, hay khổ; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra vui, hay khổ; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra không, hay chẳng không; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra không, hay chẳng không; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra sinh, hay diệt; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra sinh, hay diệt; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra có tội, hay không tội; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có tội, hay không tội; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra thuộc sinh tử, hay thuộc Niếtbàn; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán địa giới thường, hay vô thường; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới thường, hay vô thường; chẳng nên quán địa giới vui, hay khổ; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới vui, hay khổ; chẳng nên quán địa giới ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán địa giới tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán địa giới không, hay chẳng không; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới không, hay chẳng không; chẳng nên quán địa giới có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán địa giới có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán địa giới tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán địa giới xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán địa giới hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán địa giới hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán địa giới sinh, hay diệt; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới sinh, hay diệt; chẳng nên quán địa giới thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán địa giới có tội, hay không tội; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới có tội, hay không tội; chẳng nên quán địa giới có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán địa giới thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán địa giới tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán địa giới thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán địa giới ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán địa giới có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể được, hay chẳng có thể được.

QUYỂN 12

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (2)

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhân duyên thường, hay vô thường; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên thường, hay vô thường; chẳng nên quán nhân duyên vui, hay khổ; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên vui, hay khổ; chẳng nên quán nhân duyên ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán nhân duyên tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán nhân duyên không, hay chẳng không; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không, hay chẳng không; chẳng nên quán nhân duyên có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán nhân duyên có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán nhân duyên tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán nhân duyên xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán nhân duyên hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán nhân duyên hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán nhân duyên sinh, hay diệt; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên sinh, hay diệt; chẳng nên quán nhân duyên thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhân duyên có tội, hay không tội; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có tội, hay không tội; chẳng nên quán nhân duyên có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán nhân duyên thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán nhân duyên tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán nhân duyên thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhân duyên ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán nhân duyên có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra thường, hay vô thường; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra vui, hay khổ; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra không, hay chẳng không; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra sinh, hay diệt; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra có tội, hay không tội; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán pháp từ duyên sinh ra có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán vô minh thường, hay vô thường; chẳng nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não thường, hay vô thường; chẳng nên quán vô minh vui, hay khổ; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não vui, hay khổ; chẳng nên quán vô minh ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán vô minh tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán vô minh không, hay chẳng không; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không, hay chẳng không; chẳng nên quán vô minh có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán vô minh có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán vô minh tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán vô minh xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán vô minh hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán vô minh hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán vô minh sinh, hay diệt; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não sinh, hay diệt; chẳng nên quán vô minh thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán vô minh có tội, hay không tội; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não có tội, hay không tội; chẳng nên quán vô minh có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán vô minh thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán vô minh tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán vô minh thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán vô minh ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán hành... cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán vô minh có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán hành… cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán Bố thí bala-mật-đa thường, hay vô thường; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa thường, hay vô thường; chẳng nên quán Bố thí ba-la-mật-đa vui, hay khổ; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa vui, hay khổ; chẳng nên quán Bố thí bala-mật-đa ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán Bố thí bala-mật-đa tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán Bố thí ba-la-mật-đa không, hay chẳng không; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không, hay chẳng không; chẳng nên quán Bố thí ba-la-mật-đa có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán Bố thí ba-lamật-đa có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán Bố thí ba-la-mật-đa tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán Bố thí ba-la-mật-đa xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán Bố thí ba-la-mật-đa hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán Bố thí ba-la-mật-đa hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán Bố thí ba-la-mật-đa sinh, hay diệt; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh, hay diệt; chẳng nên quán Bố thí ba-la-mật-đa thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán Bố thí ba-lamật-đa có tội, hay không tội; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa có tội, hay không tội; chẳng nên quán Bố thí ba-la-mật-đa có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán Bố thí ba-lamật-đa thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán Bố thí ba-la-mật-đa tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán Bố thí ba-la-mật-đa thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán Bố thí ba-la-mật-đa ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán Bố thí ba-la-mật-đa có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp không bên trong thường, hay vô thường; chẳng nên quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thường, hay vô thường; chẳng nên quán không bên trong vui, hay khổ; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh vui, hay khổ; chẳng nên quán không bên trong ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán không bên trong tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán không bên trong không, hay chẳng không; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh không, hay chẳng không; chẳng nên quán không bên trong có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán không bên trong có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán không bên trong tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán không bên trong xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán không bên trong hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán không bên trong hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán không bên trong hoặc ẩn tàng, hoặc hiển bày; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh hoặc ẩn tàng, hoặc hiển bày; chẳng nên quán không bên trong thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán không bên trong có tội, hay không tội; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh có tội, hay không tội; chẳng nên quán không bên trong có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán không bên trong thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán không bên trong tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán không bên trong thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán không bên trong ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán không bên trong có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán chân như thường, hay vô thường; chẳng nên quán các pháp giới, pháp tánh, không hư vọng, chẳng đổi khác, bình đẳng, ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cõi hư không, cõi chẳng thể nghĩ bàn thường, hay vô thường; chẳng nên quán chân như vui, hay khổ; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn vui, hay khổ; chẳng nên quán chân như ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán chân như tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán chân như không, hay chẳng không; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn không, hay chẳng không; chẳng nên quán chân như có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán chân như có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán chân như tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán chân như xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán chân như hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán chân như hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán chân như hoặc ẩn tàng, hoặc hiển bày; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc ẩn tàng, hoặc hiển bày; chẳng nên quán chân như thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán chân như có tội, hay không tội; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có tội, hay không tội; chẳng nên quán chân như có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán chân như thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán chân như tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán chân như thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán chân như ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán chân như có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn Niệm trụ thường, hay vô thường; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo thường, hay vô thường; chẳng nên quán bốn Niệm trụ vui, hay khổ; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo vui, hay khổ; chẳng nên quán bốn Niệm trụ ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán bốn Niệm trụ tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán bốn Niệm trụ không, hay chẳng không; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không, hay chẳng không; chẳng nên quán bốn Niệm trụ có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán bốn Niệm trụ có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán bốn Niệm trụ tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán bốn Niệm trụ xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi

Thánh đạo xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán bốn Niệm trụ hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán bốn Niệm trụ hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán bốn Niệm trụ sinh, hay diệt; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo sinh, hay diệt; chẳng nên quán bốn Niệm trụ thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán bốn Niệm trụ có tội, hay không tội; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo có tội, hay không tội; chẳng nên quán bốn Niệm trụ có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán bốn Niệm trụ thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán bốn Niệm trụ tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán bốn Niệm trụ thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán bốn Niệm trụ ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán bốn Niệm trụ có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán Thánh đế khổ thường, hay vô thường; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo thường, hay vô thường; chẳng nên quán Thánh đế khổ vui, hay khổ; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo vui, hay khổ; chẳng nên quán Thánh đế khổ ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán Thánh đế khổ tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán Thánh đế khổ không, hay chẳng không; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo không, hay chẳng không; chẳng nên quán Thánh đế khổ có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán Thánh đế khổ có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán Thánh đế khổ tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán Thánh đế khổ xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán Thánh đế khổ hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán Thánh đế khổ hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán Thánh đế khổ sinh, hay diệt; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo sinh, hay diệt; chẳng nên quán Thánh đế khổ thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán Thánh đế khổ có tội, hay không tội; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo có tội, hay không tội; chẳng nên quán Thánh đế khổ có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán Thánh đế khổ thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán Thánh đế khổ tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán Thánh đế khổ thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán Thánh đế khổ ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán Thánh đế khổ có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn Tĩnh lự thường, hay vô thường; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thường, hay vô thường; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự vui, hay khổ; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc vui, hay khổ; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự không, hay chẳng không; chẳng nên bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không, hay chẳng không; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán bốn

Tĩnh lự hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự sinh, hay diệt; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc sinh, hay diệt; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự có tội, hay không tội; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có tội, hay không tội; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán bốn Tĩnh lự có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành

Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tám Giải thoát thường, hay vô thường; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ thường, hay vô thường; chẳng nên quán tám Giải thoát vui, hay khổ; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ vui, hay khổ; chẳng nên quán tám Giải thoát ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán tám Giải thoát tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán tám Giải thoát không, hay chẳng không; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không, hay chẳng không; chẳng nên quán tám Giải thoát có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán tám Giải thoát có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán tám Giải thoát tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán tám Giải thoát xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán tám Giải thoát hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán tám Giải thoát hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán tám Giải thoát sinh, hay diệt; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ sinh, hay diệt; chẳng nên quán tám Giải thoát thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán tám Giải thoát có tội, hay không tội; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có tội, hay không tội; chẳng nên quán tám Giải thoát có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán tám Giải thoát thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán tám Giải thoát tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán tám Giải thoát thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán tám Giải thoát ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán tám Giải thoát có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không thường, hay vô thường; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện thường, hay vô thường; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không vui, hay khổ; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện vui, hay khổ; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không không, hay chẳng không; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không, hay chẳng không; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không sinh, hay diệt; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện sinh, hay diệt; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không có tội, hay không tội; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có tội, hay không tội; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Không có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni thường, hay vô thường; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa thường, hay vô thường; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni vui, hay khổ; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa vui, hay khổ; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán pháp môn Đà-lani tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni không, hay chẳng không; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa không, hay chẳng không; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán pháp môn Tamma-địa có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên pháp môn Tam-mađịa hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni sinh, hay diệt; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa sinh, hay diệt; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni có tội, hay không tội; chẳng nên quán pháp môn Tamma-địa có tội, hay không tội; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán pháp môn Đà-la-ni có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán pháp môn Tam-ma-địa có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bậc Cực hỷ thường, hay vô thường; chẳng nên quán các bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân thường, hay vô thường; chẳng nên quán bậc Cực hỷ vui, hay khổ; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân vui, hay khổ; chẳng nên quán bậc Cực hỷ ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán bậc Cực hỷ tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán bậc Cực hỷ không, hay chẳng không; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân không, hay chẳng không; chẳng nên quán bậc Cực hỷ có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán bậc Cực hỷ có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán bậc Cực hỷ tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán bậc Cực hỷ xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán bậc Cực hỷ hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán bậc Cực hỷ hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán bậc Cực hỷ sinh, hay diệt; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân sinh, hay diệt; chẳng nên quán bậc Cực hỷ thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán bậc Cực hỷ có tội, hay không tội; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân có tội, hay không tội; chẳng nên quán bậc Cực hỷ có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán bậc Cực hỷ thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán bậc Cực hỷ tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán bậc

Ly cấu cho đến bậc Pháp vân tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán bậc Cực hỷ thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán bậc Cực hỷ ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán bậc Cực hỷ có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân có thể được, hay chẳng có thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán năm loại mắt thường, hay vô thường; chẳng nên quán sáu phép thần thông thường, hay vô thường; chẳng nên quán năm loại mắt vui, hay khổ; chẳng nên quán sáu phép thần thông vui, hay khổ; chẳng nên quán năm loại mắt ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán sáu phép thần thông ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán năm loại mắt tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán sáu phép thần thông tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán năm loại mắt không, hay chẳng không; chẳng nên quán sáu phép thần thông không, hay chẳng không; chẳng nên quán năm loại mắt có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán sáu phép thần thông có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán năm loại mắt có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán sáu phép thần thông có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán năm loại mắt tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán sáu phép thần thông tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán năm loại mắt xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán sáu phép thần thông xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán năm loại mắt hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán sáu phép thần thông hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán năm loại mắt hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán sáu phép thần thông hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán năm loại mắt sinh, hay diệt; chẳng nên quán sáu phép thần thông sinh, hay diệt; chẳng nên quán năm loại mắt thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán sáu phép thần thông thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán năm loại mắt có tội, hay không tội; chẳng nên quán sáu phép thần thông có tội, hay không tội; chẳng nên quán năm loại mắt có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán sáu phép thần thông có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán năm loại mắt thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán sáu phép thần thông thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán năm loại mắt tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán sáu phép thần thông tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán năm loại mắt thuộc sinh tử, hay thuộc Niếtbàn; chẳng nên quán sáu phép thần thông thuộc sinh tử, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán năm loại mắt ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán sáu phép thần thông ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán năm loại mắt có thể được, hay chẳng có thể được; chẳng nên quán sáu phép thần thông có thể được, hay chẳng có thể được.

QUYỂN 13

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (3)

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán mười lực của Phật thường, hay vô thường; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng thường, hay vô thường; chẳng nên quán mười lực của Phật vui, hay khổ; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng vui, hay khổ; chẳng nên quán mười lực của Phật ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán mười lực của Phật tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán mười lực của Phật không, hay chẳng không; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng không, hay chẳng không; chẳng nên quán mười lực của Phật có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán mười lực của Phật có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán mười lực của Phật tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán mười lực của Phật xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán mười lực của Phật hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán mười lực của Phật hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán mười lực của Phật sinh, hay diệt; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng sinh, hay diệt; chẳng nên quán mười lực của Phật thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán mười lực của Phật có tội, hay không tội; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng có tội, hay không tội; chẳng nên quán mười lực của Phật có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán mười lực của Phật thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán mười lực của Phật tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán mười lực của Phật tạp nhiễm, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng tạp nhiễm, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán mười lực của Phật ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán mười lực của Phật có thể được, hay không thể thể được; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng có thể được, hay không thể thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán đại Từ thường, hay vô thường; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả thường, hay vô thường; chẳng nên quán đại Từ vui, hay khổ; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả vui, hay khổ; chẳng nên quán đại Từ ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán đại Từ tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán đại Từ không, hay chẳng không; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả không, hay chẳng không; chẳng nên quán đại Từ có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán đại Từ có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán đại Từ tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán đại Từ xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán đại Từ hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán đại Từ hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán đại Từ sinh, hay diệt; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả sinh, hay diệt; chẳng nên quán đại Từ thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán đại Từ có tội, hay không tội; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả có tội, hay không tội; chẳng nên quán đại Từ có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán đại Từ thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán đại Từ tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán đại Từ tạp nhiễm, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả tạp nhiễm, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán đại Từ ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán đại Từ có thể được, hay không thể thể được; chẳng nên quán đại Bi, đại Hỷ, đại Xả có thể được, hay không thể thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ thường, hay vô thường; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo thường, hay vô thường; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ vui, hay khổ; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo vui, hay khổ; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ không, hay chẳng không; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo không, hay chẳng không; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ sinh, hay diệt; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo sinh, hay diệt; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ có tội, hay không tội; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo có tội, hay không tội; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ tạp nhiễm, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo tạp nhiễm, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán ba mươi hai tướng Đại sĩ có thể được, hay không thể thể được; chẳng nên quán tám mươi vẻ đẹp kèm theo có thể được, hay không thể thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp không quên mất thường, hay vô thường; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả thường, hay vô thường; chẳng nên quán pháp không quên mất vui, hay khổ; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả vui, hay khổ; chẳng nên quán pháp không quên mất ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán pháp không quên mất tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán pháp không quên mất không, hay chẳng không; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả không, hay chẳng không; chẳng nên quán pháp không quên mất có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán pháp không quên mất có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán pháp không quên mất tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán pháp không quên mất xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán pháp không quên mất hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán pháp không quên mất hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán pháp không quên mất sinh, hay diệt; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả sinh, hay diệt; chẳng nên quán pháp không quên mất thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán pháp không quên mất có tội, hay không tội; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả có tội, hay không tội; chẳng nên quán pháp không quên mất có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán pháp không quên mất thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán pháp không quên mất tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán pháp không quên mất tạp nhiễm, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả tạp nhiễm, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán pháp không quên mất ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán pháp không quên mất có thể được, hay không thể thể được; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả có thể được, hay không thể thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán trí Nhất thiết thường, hay vô thường; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thường, hay vô thường; chẳng nên quán trí Nhất thiết vui, hay khổ; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng vui, hay khổ; chẳng nên quán trí Nhất thiết ngã, hay vô ngã; chẳng nên trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán trí Nhất thiết tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán trí Nhất thiết không, hay chẳng không; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không, hay chẳng không; chẳng nên quán trí Nhất thiết có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán trí Nhất thiết có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán trí Nhất thiết tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán trí Nhất thiết xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán trí Nhất thiết hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán trí Nhất thiết hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán trí Nhất thiết sinh, hay diệt; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng sinh, hay diệt; chẳng nên quán trí Nhất thiết thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán trí Nhất thiết có tội, hay không tội; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có tội, hay không tội; chẳng nên quán trí Nhất thiết có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán trí Nhất thiết thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán trí Nhất thiết tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán trí Nhất thiết tạp nhiễm, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng tạp nhiễm, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán trí Nhất thiết ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán trí Nhất thiết có thể được, hay không thể thể được; chẳng nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có thể được, hay không thể thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán quả Dự lưu thường, hay vô thường; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác thường, hay vô thường; chẳng nên quán quả Dự lưu vui, hay khổ; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác vui, hay khổ; chẳng nên quán quả Dự lưu ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán và quả vị Độc giác ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán quả Dự lưu tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán quả Dự lưu không, hay chẳng không; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác không, hay chẳng không; chẳng nên quán quả Dự lưu có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán quả Dự lưu có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán quả Dự lưu tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán và quả vị Độc giác tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán quả Dự lưu xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán quả Dự lưu hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán quả Dự lưu hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán quả Dự lưu sinh, hay diệt; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác sinh, hay diệt; chẳng nên quán quả Dự lưu thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán quả Dự lưu có tội, hay không tội; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác có tội, hay không tội; chẳng nên quán quả Dự lưu có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán quả Dự lưu thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán quả Dự lưu tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán quả Dự lưu tạp nhiễm, hay thuộc Niếtbàn; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác tạp nhiễm, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán quả Dự lưu ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán quả Dự lưu có thể được, hay không thể thể được; chẳng nên quán các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán và quả vị Độc giác có thể được, hay không thể thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát thường, hay vô thường; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật thường, hay vô thường; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát vui, hay khổ; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật vui, hay khổ; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật ngã, hay vô ngã; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật tịnh, hay chẳng tịnh; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát không, hay chẳng không; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật không, hay chẳng không; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật có tướng, hay không tướng; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật có nguyện, hay không nguyện; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật tịch tĩnh, hay chẳng tịch tĩnh; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật xa lìa, hay chẳng xa lìa; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hữu vi, hay vô vi; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hữu lậu, hay vô lậu; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát sinh, hay diệt; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật sinh, hay diệt; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật thiện, hay chẳng phải thiện; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát có tội, hay không tội; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật có tội, hay không tội; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật có phiền não, hay không phiền não; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật thế gian, hay xuất thế gian; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật tạp nhiễm, hay thanh tịnh; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát tạp nhiễm, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật tạp nhiễm, hay thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật ở trong, ở ngoài, hay ở hai bên; chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát có thể được, hay không thể thể được; chẳng nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật có thể được, hay không thể thể được.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, Đại Bồ-tát, Bát-nhã ba-lamật-đa, danh xưng cả hai, đều chẳng thấy ở trong cõi hữu vi, cũng chẳng thấy ở trong cõi vô vi. Vì sao? Thiện Hiện, vì các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp, chẳng khởi phân biệt, không phân biệt về sự sai khác. Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, đối với tất cả pháp, luôn an trụ nẻo vô phân biệt, có khả năng tu Bố thí ba-la-mật-đa, cũng có khả năng tu Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, có khả năng an trụ nơi pháp không bên trong, cũng có khả năng an trụ nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; có khả năng an trụ nơi chân như, cũng có khả năng an trụ các pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng nghĩ bàn; có khả năng tu bốn Niệm trụ, cũng có khả năng tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi giác, tám chi Thánh đạo; có khả năng an trụ Thánh đế khổ, an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; có khả năng tu bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; có khả năng tu tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; có khả năng tu pháp môn giải thoát Không, tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; có khả năng tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; có khả năng tu các bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ, Pháp vân; có khả năng tu năm loại mắt, sáu phép thần thông; có khả năng tu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; có khả năng tu pháp không quên mất, tu tánh luôn luôn xả; có khả năng tu trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy trong những khi tu hành như thế, chẳng thấy Đại Bồ-tát, chẳng thấy danh xưng Đại Bồ-tát, Bát-nhã ba-lamật-đa, chỉ chuyên cần cầu nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp, khéo đạt đến thật tướng của chúng vì biết trong đó không nhiễm, không tịnh.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên biết như thật, danh xưng là giả đặt bày ra, pháp là giả đặt bày ra. Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đã biết như thật, danh là giả, pháp là giả rồi, nên chẳng đắm sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chẳng đắm nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng đắm sắc xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng đắm nhãn giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng đắm sắc giới, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng đắm nhãn thức giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng đắm nhãn xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng đắm các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra vui, hay khổ, hoặc chẳng khổ, hoặc chẳng vui, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra vui, hay khổ, hoặc chẳng khổ, hoặc chẳng vui; chẳng đắm địa giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng đắm nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các pháp do duyên sinh ra; chẳng đắm vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; chẳng đắm cõi hữu vi, cõi vô vi; chẳng đắm cõi hữu lậu, cõi vô lậu; chẳng đắm Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực trí ba-la-mật-đa; chẳng đắm pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng đắm chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng nghĩ bàn; chẳng đắm bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chẳng đắm Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng đắm bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chẳng đắm tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chẳng đắm pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chẳng đắm pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; chẳng đắm bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ, Pháp vân; chẳng đắm năm loại mắt, sáu phép thần thông; chẳng đắm mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng đắm đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; chẳng đắm ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp kèm theo; chẳng đắm pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; chẳng đắm trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; chẳng đắm quả Dự lưu, các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác; chẳng đắm tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng đắm quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; chẳng đắm ngã, hữu tình, người sống, người sinh, người nuôi, người tạo tác, cái ta, thân do ý sinh, tuổi trẻ, người làm, người sai làm, người phát khởi, người khiến phát khởi, người nhận, người sai nhận, người biết, người thấy; chẳng đắm dị sinh; chẳng đắm các bậc thánh, Bồ-tát, Như Lai, danh, tướng, việc làm nghiêm tịnh cõi Phật, thành tựu đầy đủ cho loài hữu tình, phương tiện thiện xảo. Vì sao vậy? Vì tất cả pháp đều là không có, nên việc đắm vào chủ thể, đắm vào đối tượng, đắm nơi, đắm lúc đều không thể được.

Như vậy Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì đối với tất cả pháp không đắm, nên có khả năng làm tăng trưởng các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực trí ba-la-mật-đa; cũng có khả năng an trụ nơi pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng có khả năng an trụ nơi chân như, pháp giới, các pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; cũng có khả năng tăng trưởng bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; cũng có khả năng an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; cũng có khả năng tăng trưởng bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; cũng có khả năng hội nhập Niết-bàn, xa lìa sinh tử của Bồ-tát; cũng có khả năng an trụ bậc Bồ-tát không thoái chuyển; cũng có khả năng làm viên mãn tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng có khả năng làm viên mãn các bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; cũng có khả năng làm viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng có khả năng làm viên mãn mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng có khả năng làm viên mãn đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; cũng có khả năng làm viên mãn ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp kèm theo; cũng có khả năng làm viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng có khả năng làm viên mãn trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; cũng chứng đắc thần thông tối thắng của Bồ-tát; khi đầy đủ thần thông rồi, từ cõi Phật này, đến cõi Phật khác, nhằm đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các loại hữu tình, nhằm làm nghiêm tịnh cõi Phật của mình và nhằm muốn thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; khi được thấy rồi thì cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, khiến các căn lành đều được sinh trưởng; khi căn lành sinh trưởng rồi, tùy theo chỗ ưa nghe mà chánh pháp của các Đức Phật đều được nghe và nhận; khi đã nghe và nhận thì quyết chí tu tập cho đến khi an tọa nơi tòa Bồ-đề nhiệm mầu, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thường không quên mất. Đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tamma-địa đều được tự tại. Như vậy Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên biết như thật: Danh là giả, pháp là giả.

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính sắc là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Chính thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với sắc là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong sắc có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong thọ, tưởng, hành, thức có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có sắc chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có thọ, tưởng, hành, thức chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa sắc có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa thọ, tưởng, hành, thức có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Chính nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong nhãn xứ có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có nhãn xứ chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa nhãn xứ có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Chính thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong sắc xứ có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có sắc xứ chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa sắc xứ có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Chính nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong nhãn giới có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có nhãn giới chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa nhãn giới có Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Chính thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong sắc giới có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có sắc giới chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa sắc giới có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Chính nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng? −Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong nhãn thức giới có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có nhãn thức giới chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa nhãn thức giới có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có Đại Bồ- tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Chính nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong nhãn xúc có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

Trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có nhãn xúc chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa nhãn xúc có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

Lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Chính các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Chính thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong địa giới có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong thủy, hỏa, phong, không, thức giới có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có địa giới chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có thủy, hỏa, phong, không, thức giới chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa địa giới có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Chính đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong nhân duyên có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có nhân duyên chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa nhân duyên có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính pháp do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với pháp do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong pháp do duyên sinh ra có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có pháp do duyên sinh ra chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa pháp do duyên sinh ra có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

-oOo-

QUYỂN 14

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (4)

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Chính hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong vô minh có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong hành cho đến lão tử có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có vô minh chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có hành cho đến lão tử chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa vô minh có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Lìa hành cho đến lão tử có Đại Bồ-tát chăng? −Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Chính Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Khác với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Bố thí ba-la-mật-đa có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có Đại Bồ-tát chăng?

−Bạch Thế Tôn, không!

−Trong Đại Bồ-tát có Bố thí ba-la-mật-đa chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa Bố thí ba-la-mật-đa có Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong pháp không bên trong có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có pháp không bên trong chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa pháp không bên trong có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong bốn Niệm trụ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có bốn Niệm trụ chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa bốn Niệm trụ có Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Thánh đế khổ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Thánh đế tập, diệt, đạo có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có Thánh đế khổ chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có Thánh đế tập, diệt, đạo chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa Thánh đế khổ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa Thánh đế tập, diệt, đạo có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong bốn Tĩnh lự có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có bốn Tĩnh lự chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa bốn Tĩnh lự có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong tám Giải thoát có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có tám Giải thoát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa tám Giải thoát có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong pháp môn giải thoát Không có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Trong Đại Bồ-tát có pháp môn giải thoát Không chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa pháp môn giải thoát Không có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Trong pháp môn Đà-la-ni có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong pháp môn Tam-ma-địa có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có pháp môn Đà-la-ni chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có pháp môn Tam-ma-địa chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa pháp môn Đà-la-ni có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa pháp môn Tam-ma-địa có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính các bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Khác với bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Khác với bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong bậc Cực hỷ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có bậc Cực hỷ chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa bậc Cực hỷ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Khác với năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong năm loại mắt có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong sáu phép thần thông có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có năm loại mắt chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có sáu phép thần thông chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa năm loại mắt có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa sáu phép thần thông có Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Khác với mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong mười lực của Phật có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có mười lực của Phật chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa mười lực của Phật có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong đại Từ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong đại Bi, đại Hỷ, đại Xả có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có đại Từ chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa đại Từ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Lìa đại Bi, đại Hỷ, đại Xả có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong ba mươi hai tướng Đại sĩ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong tám mươi vẻ đẹp kèm theo có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có ba mươi hai tướng Đại sĩ chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có tám mươi vẻ đẹp kèm theo chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa ba mươi hai tướng Đại sĩ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa tám mươi vẻ đẹp kèm theo có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong pháp không quên mất có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong tánh luôn luôn xả có Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có pháp không quên mất chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có tánh luôn luôn xả chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa pháp không quên mất có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa tánh luôn luôn xả có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong trí Nhất thiết có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có trí Nhất thiết chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa trí Nhất thiết có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Bấy giờ, Phật bảo Cụ thọ Thiện Hiện:

–Ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong sắc chẳng có Đại Bồ-tát; trong thọ, tưởng, hành, thức chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có sắc; trong Đại Bồ-tát chẳng có thọ, tưởng, hành, thức; lìa sắc chẳng có Đại Bồ-tát; lìa thọ, tưởng, hành, thức chẳng có Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch rằng:

–Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính sắc là Đại Bồ-tát, chính thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát; khác với sắc là Đại Bồ-tát; khác với thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát; trong sắc có Đại Bồ-tát; trong thọ, tưởng, hành, thức có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có sắc; trong Đại Bồ-tát có thọ, tưởng, hành, thức; lìa sắc có Đại Bồ-tát; lìa thọ, tưởng, hành, thức có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào nói chính nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong nhãn xứ chẳng có Đại Bồ-tát; trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có nhãn xứ; trong Đại Bồ-tát chẳng có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; lìa nhãn xứ chẳng có Đại Bồ-tát; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng có Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc nhãn xứ, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính nhãn xứ là Đại Bồ-tát, chính nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát; khác với nhãn xứ là Đại Bồ-tát; khác với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát; trong nhãn xứ có Đại Bồ-tát; trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có nhãn xứ; trong Đại Bồ-tát có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; lìa nhãn xứ có Đại Bồ-tát; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào nói chính sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong sắc xứ chẳng có Đại Bồ-tát; trong thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có sắc xứ; trong Đại Bồ-tát chẳng có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; lìa sắc xứ chẳng có Đại Bồ-tát; lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng có Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc sắc xứ, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính sắc xứ là Đại Bồ-tát, chính thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát; khác với sắc xứ là Đại Bồ-tát; khác với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát; trong sắc xứ có Đại Bồ-tát; trong thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có sắc xứ; trong Đại Bồ-tát có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; lìa sắc xứ có Đại Bồ-tát; lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào nói chính nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong nhãn giới chẳng có Đại Bồ-tát; trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có nhãn giới; trong Đại Bồ-tát chẳng có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; lìa nhãn giới chẳng có Đại Bồ-tát; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng có Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc nhãn giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính nhãn giới là Đại Bồ-tát, chính nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát; khác với nhãn giới là Đại Bồ-tát; khác với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát; trong nhãn giới có Đại Bồ-tát; trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có nhãn giới; trong Đại Bồ-tát có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; lìa nhãn giới có Đại Bồ-tát; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào nói chính sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong sắc giới chẳng có Đại Bồ-tát; trong thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có sắc giới; trong Đại Bồ-tát chẳng có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; lìa sắc giới chẳng có Đại Bồ-tát; lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng có Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc sắc giới, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính sắc giới là Đại Bồ-tát, chính thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát; khác với sắc giới là Đại Bồ-tát; khác với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát; trong sắc giới có Đại Bồ-tát; trong thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có sắc giới; trong Đại Bồ-tát có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; lìa sắc giới có Đại Bồ-tát; lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào nói chính nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong nhãn thức giới chẳng có Đại Bồ-tát; trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có nhãn thức giới; trong Đại Bồ-tát chẳng có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; lìa nhãn thức giới chẳng có Đại Bồ-tát; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng có Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc nhãn thức giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính nhãn thức giới là Đại Bồ-tát, chính nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát; khác với nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; khác với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát; trong nhãn thức giới có Đại Bồ-tát; trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có nhãn thức giới; trong Đại Bồ-tát có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; lìa nhãn thức giới có Đại Bồ-tát; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào nói chính nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong nhãn xúc chẳng có Đại Bồ-tát; trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có nhãn xúc; trong Đại Bồ-tát chẳng có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; lìa nhãn xúc chẳng có Đại Bồ-tát; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng có Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc nhãn xúc, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính nhãn xúc là Đại Bồ-tát, chính nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát; khác với nhãn xúc là Đại Bồ-tát; khác với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát; trong nhãn xúc có Đại Bồ-tát; trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có nhãn xúc; trong Đại Bồ-tát có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; lìa nhãn xúc có Đại Bồ-tát; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào nói chính các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng có Đại Bồ-tát; trong các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; trong Đại

Bồ-tát chẳng có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; lìa các thọ nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng có Đại Bồ-tát; lìa các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng có Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, hoặc các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát, chính các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; khác với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; khác với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; trong các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có Đại Bồ-tát; trong các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; trong Đại Bồ-tát có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; lìa các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có Đại Bồ-tát; lìa các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào nói chính địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong địa giới chẳng có Đại Bồ-tát; trong thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có địa giới; trong Đại Bồ-tát chẳng có thủy, hỏa, phong, không, thức giới; lìa địa giới chẳng có Đại Bồ-tát; lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng có Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc địa giới, hoặc thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính địa giới là Đại Bồ-tát, chính thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát; khác với địa giới là Đại Bồ-tát; khác với thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát; trong địa giới có Đại Bồ-tát; trong thủy, hỏa, phong, không, thức giới có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có địa giới; trong Đại Bồ-tát có thủy, hỏa, phong, không, thức giới; lìa địa giới có Đại Bồ-tát; lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào nói chính nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong nhân duyên chẳng có Đại Bồ-tát; trong đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có nhân duyên; trong Đại Bồ-tát chẳng có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; lìa nhân duyên chẳng có Đại Bồ-tát; lìa đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng có Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc nhân duyên, hoặc đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính nhân duyên là Đại Bồ-tát, chính đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát; khác với nhân duyên là Đại Bồ-tát; khác với đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát; trong nhân duyên có Đại Bồ-tát; trong đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có nhân duyên; trong Đại Bồ-tát có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; lìa nhân duyên có Đại Bồ-tát; lìa đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào nói chính pháp do duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với pháp do duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong pháp do duyên sinh ra chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có pháp do duyên sinh ra; lìa pháp do duyên sinh ra chẳng có Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc pháp do duyên sinh ra, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính pháp do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; khác với pháp do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; trong pháp do duyên sinh ra có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có pháp do duyên sinh ra; lìa pháp do duyên sinh ra có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào nói chính vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong vô minh chẳng có Đại Bồ-tát; trong hành cho đến lão tử chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có vô minh; trong Đại Bồ-tát chẳng có hành cho đến lão tử; lìa vô minh chẳng có Đại Bồ-tát; lìa hành cho đến lão tử chẳng có Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc vô minh, hoặc hành cho đến lão tử, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính vô minh là Đại Bồ-tát, chính hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát; khác với vô minh là Đại Bồ-tát; khác với hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát; trong vô minh có Đại Bồ-tát; trong hành cho đến lão tử có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có vô minh; trong Đại Bồ-tát có hành cho đến lão tử; lìa vô minh có Đại Bồ-tát; lìa hành cho đến lão tử có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào nói chính Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong Bố thí ba-la-mật-đa chẳng có Đại Bồ-tát; trong Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có Bố thí ba-la-mật-đa; trong Đại Bồ-tát chẳng có Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; lìa Bố thí ba-la-mật-đa chẳng có Đại Bồ-tát; lìa Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng có Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc Bố thí ba-la-mật-đa, hoặc Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính Bố thí ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát, chính Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; khác với Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; khác với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; trong Bố thí ba-la-mật-đa có Đại Bồ-tát; trong Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có Bố thí ba-la-mậtđa; trong Đại Bồ-tát có Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; lìa Bố thí bala-mật-đa có Đại Bồ-tát; lìa Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào nói chính pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong pháp không bên trong chẳng có Đại Bồ-tát; trong pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có pháp không bên trong; trong Đại Bồ-tát chẳng có pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; lìa pháp không bên trong chẳng có Đại Bồ-tát; lìa pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng có Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc pháp không bên trong, hoặc pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính pháp không bên trong là Đại Bồ-tát, chính pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát; khác với pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; khác với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát; trong pháp không bên trong có Đại Bồ-tát; trong pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có pháp không bên trong; trong Đại Bồ-tát có pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; lìa pháp không bên trong có Đại Bồ-tát; lìa pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào nói chính chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cõi hư không, cõi chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như chẳng có Đại Bồ-tát; trong pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như; trong Đại Bồ-tát chẳng có pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; lìa chân như chẳng có Đại Bồ-tát; lìa pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng có Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc chân như, hoặc pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như là Đại Bồ-tát, chính pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát; khác với chân như là Đại Bồ-tát; khác với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát; trong chân như có Đại Bồ-tát; trong pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như; trong Đại Bồ-tát có pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; lìa chân như có Đại Bồ-tát; lìa pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào nói chính bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong bốn Niệm trụ chẳng có Đại Bồ-tát; trong bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có bốn Niệm trụ; trong Đại Bồ-tát chẳng có bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; lìa bốn Niệm trụ chẳng có Đại Bồ-tát; lìa bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng có Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc bốn Niệm trụ, hoặc bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát, chính bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát; khác với bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; khác với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát; trong bốn Niệm trụ có Đại Bồ-tát; trong bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có bốn Niệm trụ; trong Đại Bồ-tát có bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; lìa bốn Niệm trụ có Đại Bồ-tát; lìa bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo có Đại Bồ-tát.

QUYỂN 15

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (5)

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong Thánh đế khổ chẳng có Đại Bồ-tát; trong Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có Thánh đế khổ; trong Đại Bồ-tát chẳng có Thánh đế tập, diệt, đạo; lìa Thánh đế khổ chẳng có Đại Bồ-tát; lìa Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng có Đại Bồ-tát?

−Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc Thánh đế khổ, hoặc Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát, chính Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát; khác với Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; khác với Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát; trong Thánh đế khổ có Đại Bồ-tát; trong Thánh đế tập, diệt, đạo có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có Thánh đế khổ; trong Đại Bồ-tát có Thánh đế tập, diệt, đạo; lìa Thánh đế khổ có Đại Bồ-tát; lìa Thánh đế tập, diệt, đạo có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong bốn Tĩnh lự chẳng có Đại Bồ-tát; trong bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có bốn Tĩnh lự; trong Đại Bồ-tát chẳng có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; lìa bốn Tĩnh lự chẳng có Đại Bồ-tát; lìa bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng có Đại Bồ-tát?

−Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc bốn Tĩnh lự, hoặc bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát, chính bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát; khác với bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; khác với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát; trong bốn Tĩnh lự có Đại Bồ-tát; trong bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có bốn Tĩnh lự; trong Đại Bồ-tát có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; lìa bốn Tĩnh lự có Đại Bồ-tát; lìa bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với tám

Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong tám Giải thoát chẳng có Đại Bồ-tát; trong tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có tám Giải thoát; trong Đại Bồ-tát chẳng có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; lìa tám Giải thoát chẳng có Đại Bồ-tát; lìa tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng có Đại Bồ-tát?

−Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc tám Giải thoát, hoặc tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là không có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính tám Giải thoát là Đại Bồ-tát, chính tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát; khác với tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; khác với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát; trong tám Giải thoát có Đại

Bồ-tát; trong tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có tám Giải thoát; trong Đại Bồ-tát có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; lìa tám Giải thoát có Đại Bồ-tát; lìa tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong pháp môn giải thoát Không chẳng có Đại Bồ-tát; trong pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có pháp môn giải thoát Không; trong Đại Bồ-tát chẳng có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; lìa pháp môn giải thoát Không chẳng có Đại Bồ-tát; lìa pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng có Đại Bồ-tát?

−Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc pháp môn giải thoát Không, hoặc pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát, chính pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát; khác với pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; khác với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát; trong pháp môn giải thoát Không có Đại Bồ-tát; trong pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có pháp môn giải thoát Không; trong Đại Bồ-tát có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; lìa pháp môn giải thoát Không có Đại Bồ-tát; lìa pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với pháp môn Tam-mađịa chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong pháp môn Đàla-ni chẳng có Đại Bồ-tát; trong pháp môn Tamma-địa chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có pháp môn Đà-la-ni; trong Đại Bồ-tát chẳng có pháp môn Tam-ma-địa; lìa pháp môn Đà-la-ni chẳng có Đại Bồ-tát; lìa pháp môn Tamma-địa chẳng có Đại Bồ-tát?

−Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc pháp môn Đà-la-ni, hoặc pháp môn Tam-mađịa, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát, chính pháp môn Tam-mađịa là Đại Bồ-tát; khác với pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; khác với pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát; trong pháp môn Đà-la-ni có Đại Bồ-tát; trong pháp môn Tam-ma-địa có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có pháp môn Đà-la-ni; trong Đại Bồ-tát có pháp môn Tam-ma-địa; lìa pháp môn Đà-lani có Đại Bồ-tát; lìa pháp môn Tam-ma-địa có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính các bậc Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ, Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong bậc Cực hỷ chẳng có Đại Bồ-tát; trong bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có bậc Cực hỷ; trong Đại Bồ-tát chẳng có bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân; lìa bậc Cực hỷ chẳng có Đại Bồ-tát; lìa bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng có Đại Bồ-tát?

−Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát, chính bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại

Bồ-tát; khác với bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; khác với bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát; trong bậc Cực hỷ có Đại Bồ-tát; trong bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có bậc Cực hỷ; trong Đại Bồ-tát có bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân; lìa bậc Cực hỷ có Đại Bồ-tát; lìa bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong năm loại mắt chẳng có Đại Bồ-tát; trong sáu phép thần thông chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có năm loại mắt; trong Đại Bồ-tát chẳng có sáu phép thần thông; lìa năm loại mắt chẳng có Đại Bồ-tát; lìa sáu phép thần thông chẳng có Đại Bồ-tát?

−Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc năm loại mắt, hoặc sáu phép thần thông, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính năm loại mắt là Đại Bồ-tát, chính sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát; khác với năm loại mắt là Đại Bồ-tát; khác với sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát; trong năm loại mắt có Đại Bồ-tát; trong sáu phép thần thông có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có năm loại mắt; trong Đại Bồ-tát có sáu phép thần thông; lìa năm loại mắt có Đại Bồ-tát; lìa sáu phép thần thông có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong mười lực của Phật chẳng có Đại Bồ-tát; trong bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có mười lực của Phật; trong Đại Bồ-tát chẳng có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; lìa mười lực của Phật chẳng có Đại Bồ-tát; lìa bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng có Đại Bồ-tát?

−Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính mười lực của Phật là Đại Bồ-tát, chính bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát; khác với mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; khác với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát; trong mười lực của Phật có Đại Bồ-tát; trong bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có mười lực của Phật; trong Đại Bồ-tát có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; lìa mười lực của Phật có Đại Bồ-tát; lìa bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong đại Từ chẳng có Đại Bồ-tát; trong đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có đại Từ; trong Đại Bồ-tát chẳng có đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; lìa đại Từ chẳng có Đại Bồ-tát; lìa đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng có Đại Bồ-tát?

−Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc đại Từ, hoặc đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính đại Từ là Đại Bồ-tát, chính đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát; khác với đại Từ là Đại Bồ-tát; khác với đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát; trong đại Từ có Đại Bồ-tát; trong đại Bi, đại Hỷ, đại Xả có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có đại Từ; trong Đại Bồ-tát có đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; lìa đại Từ có Đại Bồ-tát; lìa đại Bi, đại Hỷ, đại Xả có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng có Đại Bồ-tát; trong tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có ba mươi hai tướng Đại sĩ; trong Đại Bồ-tát chẳng có tám mươi vẻ đẹp kèm theo; lìa ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng có Đại Bồ-tát; lìa tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng có Đại Bồ-tát?

−Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc ba mươi hai tướng Đại sĩ, hoặc tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát, chính tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát; khác với ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; khác với tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát; trong ba mươi hai tướng Đại sĩ có Đại Bồ-tát; trong tám mươi vẻ đẹp kèm theo có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có ba mươi hai tướng Đại sĩ; trong Đại Bồ-tát có tám mươi vẻ đẹp kèm theo; lìa ba mươi hai tướng Đại sĩ có Đại Bồ-tát; lìa tám mươi vẻ đẹp kèm theo có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong pháp không quên mất chẳng có Đại Bồ-tát; trong tánh luôn luôn xả chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có pháp không quên mất; trong Đại Bồ-tát chẳng có tánh luôn luôn xả; lìa pháp không quên mất chẳng có Đại Bồ-tát; lìa tánh luôn luôn xả chẳng có Đại Bồ-tát?

−Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn xả, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính pháp không quên mất là Đại Bồ-tát, chính tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát; khác với pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; khác với tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát; trong pháp không quên mất có Đại Bồ-tát; trong tánh luôn luôn xả có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có pháp không quên mất; trong Đại Bồ-tát có tánh luôn luôn xả; lìa pháp không quên mất có Đại Bồ-tát; lìa tánh luôn luôn xả có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong trí Nhất thiết chẳng có Đại Bồ-tát; trong trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có trí Nhất thiết; trong Đại Bồ-tát chẳng có trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; lìa trí Nhất thiết chẳng có Đại Bồ-tát; lìa trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng có Đại Bồ-tát?

−Bạch Thế Tôn, như Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc trí Nhất thiết, hoặc trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có Đại Bồ-tát! Đại Bồ-tát đã chẳng có, làm sao có thể nói chính trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát, chính trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát; khác với trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; khác với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát; trong trí Nhất thiết có Đại Bồ-tát; trong trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có trí Nhất thiết; trong Đại Bồ-tát có trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; lìa trí Nhất thiết có Đại Bồ-tát; lìa trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có Đại Bồ-tát.

−Bạch Thế Tôn, Bồ-đề, Tát-đỏa và sắc... các pháp đã chẳng thể được, mà nói là chính sắc... các pháp là Đại Bồ-tát; hoặc cái khác với sắc... các pháp là Đại Bồ-tát; hoặc trong sắc... các pháp có Đại Bồ-tát; hoặc trong Đại Bồ-tát có sắc... các pháp; hoặc lìa sắc... các pháp có Đại Bồ-tát, thì điều đó không có!

Phật bảo Thiện Hiện:

−Hay thay, hay thay! Đúng vậy, đúng vậy, như ông đã nói! Thiện Hiện, sắc... các pháp vì chẳng thể được, nên Đại Bồ-tát cũng chẳng thể được; vì Đại Bồ-tát chẳng thể được, nên việc tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể được. Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, nên học như vậy.

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của sắc có Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của thọ, tưởng, hành, thức có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của sắc chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của thọ, tưởng, hành, thức chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của sắc có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của thọ, tưởng, hành, thức có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của nhãn xứ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của nhãn xứ chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của nhãn xứ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của sắc xứ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của sắc xứ chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của sắc xứ có Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của nhãn giới có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của nhãn giới chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Lìa chân như của nhãn giới có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của sắc giới có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của sắc giới chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của sắc giới có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của nhãn thức giới có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Trong chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của nhãn thức giới chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của nhãn thức giới có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của nhãn xúc có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của nhãn xúc chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của nhãn xúc có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

Khác với chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của địa giới có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của địa giới chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chăng?

Lìa chân như của địa giới có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của nhân duyên có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của nhân duyên chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của nhân duyên có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của pháp do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của pháp do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của pháp do duyên sinh ra có Đại Bồ-tát chăng?

Trong Đại Bồ-tát có chân như của pháp do duyên sinh ra chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của pháp do duyên sinh ra có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của vô minh có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của hành cho đến lão tử có Đại Bồ-tát chăng?

Trong Đại Bồ-tát có chân như của vô minh chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của hành cho đến lão tử chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của vô minh có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của hành cho đến lão tử có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của Bố thí bala-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của Bố thí ba-la-mật-đa có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của Bố thí bala-mật-đa chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của Bố thí ba-la-mật-đa có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

Chính chân như của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của pháp không bên trong có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Trong Đại Bồ-tát có chân như của pháp không bên trong chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của pháp không bên trong có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

Trong chân như của bốn Niệm trụ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của bốn Niệm trụ chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của bốn Niệm trụ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Khác với chân như của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của Thánh đế khổ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của Thánh đế khổ chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của Thánh đế khổ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của bốn Tĩnh lự có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của bốn Tĩnh lự chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của bốn Tĩnh lự có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Lìa chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của tám Giải thoát có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của tám Giải thoát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của tám Giải thoát có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của pháp môn giải thoát Không có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có Đại Bồ-tát chăng?

Trong Đại Bồ-tát có chân như của pháp môn giải thoát Không chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của pháp môn giải thoát Không có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của pháp môn Tam-mađịa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của pháp môn Đà-la-ni có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của pháp môn Tam-ma-địa có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của pháp môn Đà-la-ni chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của pháp môn Tam-ma-địa chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của pháp môn Đà-la-ni có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của pháp môn Tam-ma-địa có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của các bậc Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ, Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

Khác với chân như của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của bậc Cực hỷ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của bậc Cực hỷ chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của bậc Cực hỷ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của năm loại mắt có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của sáu phép thần thông có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của năm loại mắt chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của sáu phép thần thông chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của năm loại mắt có Đại Bồ-tát chăng?

Lìa chân như của sáu phép thần thông có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

QUYỂN 16

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (6)

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như nơi mười lực của Phật có Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Trong chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như nơi mười lực của Phật chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như nơi mười lực của Phật có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của đại Từ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của đại Từ chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của đại Từ có Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính chân như của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của ba mươi hai tướng Đại sĩ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của tám mươi vẻ đẹp kèm theo có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của ba mươi hai tướng Đại sĩ chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của ba mươi hai tướng Đại sĩ có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của tám mươi vẻ đẹp kèm theo có Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của pháp không quên mất có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của tánh luôn luôn xả có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của pháp không quên mất chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của tánh luôn luôn xả chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Lìa chân như của pháp không quên mất có

Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của tánh luôn luôn xả có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính chân như của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Khác với chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của trí Nhất thiết có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của trí Nhất thiết chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Trong Đại Bồ-tát có chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của trí Nhất thiết có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lìa chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Bấy giờ, Phật bảo Cụ thọ Thiện Hiện:

−Ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính chân như của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của sắc chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của thọ, tưởng, hành, thức chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của sắc; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của thọ, tưởng, hành, thức; lìa chân như của sắc chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của thọ, tưởng, hành, thức chẳng Đại Bồ-tát? Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của sắc và chân như của thọ, tưởng, hành, thức! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của sắc là Đại Bồ-tát, chính chân như của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát; khác với chân như của sắc là Đại Bồ-tát; khác với chân như của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát; trong chân như của sắc có Đại Bồ-tát; trong chân như của thọ, tưởng, hành, thức có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của sắc; trong Đại Bồ-tát có chân như của thọ, tưởng, hành, thức; lìa chân như của sắc có Đại Bồ-tát; lìa chân như của thọ, tưởng, hành, thức có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của nhãn xứ chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của nhãn xứ; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; lìa chân như của nhãn xứ chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như nhãn xứ, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của nhãn xứ và chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của nhãn xứ là Đại Bồ-tát, chính chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát; trong chân như của nhãn xứ có Đại Bồ-tát; trong chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của nhãn xứ; trong Đại Bồ-tát có chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; lìa chân như của nhãn xứ có Đại Bồ-tát; lìa chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của sắc xứ chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của sắc xứ; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; lìa chân như của sắc xứ chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như sắc xứ, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của sắc xứ và chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của sắc xứ là Đại Bồ-tát, chính chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát; khác với chân như của sắc xứ là Đại Bồ-tát; khác với chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát; trong chân như của sắc xứ có Đại Bồ-tát; trong chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của sắc xứ; trong Đại Bồ-tát có chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; lìa chân như của sắc xứ có Đại Bồ-tát; lìa chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của nhãn giới chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của nhãn giới; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; lìa chân như của nhãn giới chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như nhãn giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của nhãn giới và chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của nhãn giới là Đại Bồ-tát, chính chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhãn giới là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát; trong chân như của nhãn giới có Đại Bồ-tát; trong chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của nhãn giới; trong Đại Bồ-tát có chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; lìa chân như của nhãn giới có Đại Bồ-tát; lìa chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của sắc giới chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của sắc giới; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; lìa chân như của sắc giới chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như sắc giới, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của sắc giới và chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của sắc giới là Đại Bồ-tát, chính chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát; khác với chân như của sắc giới là Đại Bồ-tát; khác với chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát; trong chân như của sắc giới có Đại Bồ-tát; trong chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của sắc giới; trong Đại Bồ-tát có chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; lìa chân như của sắc giới có Đại Bồ-tát; lìa chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của nhãn thức giới chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của nhãn thức giới; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; lìa chân như của nhãn thức giới chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như nhãn thức giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của nhãn thức giới và chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát, chính chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát; trong chân như của nhãn thức giới có Đại Bồ-tát; trong chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của nhãn thức giới; trong Đại Bồ-tát có chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; lìa chân như của nhãn thức giới có Đại Bồ-tát; lìa chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của nhãn xúc chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của nhãn xúc; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; lìa chân như của nhãn xúc chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như nhãn xúc, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của nhãn xúc và chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của nhãn xúc là Đại Bồ-tát, chính chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát; trong chân như của nhãn xúc có Đại Bồ-tát; trong chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có nhãn xúc; trong Đại Bồ-tát có chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; lìa chân như của nhãn xúc có Đại Bồ-tát; lìa chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; lìa chân như của các thọ nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, hoặc các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra và chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát, chính chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; khác với chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; khác với chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; trong chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có Đại Bồ-tát; trong chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; trong Đại Bồ-tát có chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; lìa chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có Đại Bồ-tát; lìa chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của địa giới chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của địa giới; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; lìa chân như của địa giới chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như địa giới, hoặc thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của địa giới và chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của địa giới là Đại Bồ-tát, chính chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát; khác với chân như của địa giới là Đại Bồ-tát; khác với chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát; trong chân như của địa giới có Đại Bồ-tát; trong chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của địa giới; trong Đại Bồ-tát có chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; lìa chân như của địa giới có Đại Bồ-tát; lìa chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của nhân duyên chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của nhân duyên; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; lìa chân như của nhân duyên chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng Đại Bồ-tát?

Bạch Thế Tôn, như nhân duyên, hoặc đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của nhân duyên và chân như của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của nhân duyên là Đại Bồ-tát, chính chân như của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát; khác với chân như của nhân duyên là Đại Bồ-tát; khác với chân như của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát; trong chân như của nhân duyên có Đại Bồ-tát; trong chân như của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của nhân duyên; trong Đại Bồ-tát có chân như của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; lìa chân như của nhân duyên có Đại Bồ-tát; lìa chân như của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của pháp do duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của pháp do duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của pháp do duyên sinh ra chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của pháp do duyên sinh ra; lìa chân như của pháp do duyên sinh ra chẳng Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch rằng:

−Bạch Thế Tôn, pháp do duyên sinh ra, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của pháp do duyên sinh ra! Chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của pháp do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; khác với chân như của pháp do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; trong chân như của pháp do duyên sinh ra có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của pháp do duyên sinh ra; lìa chân như của pháp do duyên sinh ra có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của vô minh chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của hành cho đến lão tử chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của vô minh; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của hành cho đến lão tử; lìa chân như của vô minh chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của hành cho đến lão tử chẳng Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như vô minh, hoặc hành cho đến lão tử, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của vô minh và chân như của hành cho đến lão tử! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của vô minh là Đại Bồ-tát, chính chân như của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát; khác với chân như của vô minh là Đại Bồ-tát; khác với chân như của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát; trong chân như của vô minh có Đại Bồ-tát; trong chân như của hành cho đến lão tử có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của vô minh; trong Đại Bồ-tát có chân như của hành cho đến lão tử; lìa chân như của vô minh có Đại Bồ-tát; lìa chân như của hành cho đến lão tử có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của Bố thí bala-mật-đa chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của Bố thí ba-la-mật-đa; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; lìa chân như của Bố thí ba-la-mật-đa chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như Bố thí ba-la-mật-đa, hoặc Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của Bố thí ba-la-mật-đa và chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa!

Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát, chính chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; khác với chân như của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; khác với chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; trong chân như của Bố thí ba-la-mật-đa có Đại Bồ-tát; trong chân như của Tịnh giới, An nhẫn,

Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của Bố thí ba-la-mật-đa; trong Đại Bồ-tát có chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa; lìa chân như của Bố thí ba-la-mật-đa có Đại Bồ-tát; lìa chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của pháp không bên trong chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của pháp không bên trong; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; lìa chân như của pháp không bên trong chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như pháp không bên trong, hoặc pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của pháp không bên trong và chân như của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát, chính chân như của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát; khác với chân như của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; khác với chân như của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát; trong chân như của pháp không bên trong có Đại Bồ-tát; trong chân như của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của pháp không bên trong; trong Đại Bồ-tát có chân như của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; lìa chân như của pháp không bên trong có Đại Bồ-tát; lìa chân như của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của bốn Niệm trụ chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của bốn Niệm trụ; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; lìa chân như của bốn Niệm trụ chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như bốn Niệm trụ, hoặc bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của bốn Niệm trụ và chân như của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát, chính chân như của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát; khác với chân như của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; khác với chân như của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát; trong chân như của bốn Niệm trụ có Đại Bồ-tát; trong chân như của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo có Đại

Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của bốn Niệm trụ; trong Đại Bồ-tát có chân như của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; lìa chân như của bốn Niệm trụ có Đại Bồ-tát; lìa chân như của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của Thánh đế khổ chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của Thánh đế khổ; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo; lìa chân như của Thánh đế khổ chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như Thánh đế khổ, hoặc Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của Thánh đế khổ và chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát, chính chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát; khác với chân như của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; khác với chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát; trong chân như của Thánh đế khổ có Đại Bồ-tát; trong chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của Thánh đế khổ; trong Đại Bồ-tát có chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo; lìa chân như của Thánh đế khổ có Đại Bồ-tát; lìa chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của bốn Tĩnh lự chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của bốn Tĩnh lự; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; lìa chân như của bốn Tĩnh lự chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như bốn Tĩnh lự, hoặc bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của bốn Tĩnh lự và chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát, chính chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát; khác với chân như của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; khác với chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát; trong chân như của bốn Tĩnh lự có Đại Bồ-tát; trong chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của bốn Tĩnh lự; trong Đại Bồ-tát có chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; lìa chân như của bốn Tĩnh lự có Đại Bồ-tát; lìa chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của tám Giải thoát chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của tám Giải thoát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; lìa chân như của tám Giải thoát chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng Đại Bồ-tát? Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như tám Giải thoát, hoặc tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của tám Giải thoát và chân như của tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát, chính chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát; khác với chân như của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; khác với chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát; trong chân như của tám Giải thoát có Đại Bồ-tát; trong chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của tám Giải thoát; trong Đại Bồ-tát có chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; lìa chân như của tám Giải thoát có Đại Bồ-tát; lìa chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của pháp môn giải thoát Không chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của pháp môn giải thoát Không; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; lìa chân như của pháp môn giải thoát Không chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như pháp môn giải thoát Không, hoặc pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của pháp môn giải thoát Không và chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát, chính chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát; khác với chân như của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; khác với chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát; trong chân như của pháp môn giải thoát Không có Đại Bồ-tát; trong chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của pháp môn giải thoát Không; trong Đại Bồ-tát có chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; lìa chân như của pháp môn giải thoát Không có Đại Bồ-tát; lìa chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có Đại Bồ-tát?

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của pháp môn Đà-la-ni chẳng Đại Bồ-tát; trong chân như của pháp môn Tam-ma-địa chẳng Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của pháp môn Đà-la-ni; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của pháp môn Tam-ma-địa; lìa chân như của pháp môn Đà-la-ni chẳng Đại Bồ-tát; lìa chân như của pháp môn Tam-ma-địa chẳng Đại Bồ-tát? Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như pháp môn Đà-la-ni, hoặc pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi có chân như của pháp môn Đà-la-ni và chân như của pháp môn Tam-ma-địa! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát, chính chân như của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát; khác với chân như của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; khác với chân như của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát; trong chân như của pháp môn Đà-la-ni có Đại Bồ-tát; trong chân như của pháp môn Tam-ma-địa có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của pháp môn Đà-la-ni; trong Đại Bồ-tát có chân như của pháp môn Tam-ma-địa; lìa chân như của pháp môn Đà-la-ni có Đại Bồ-tát; lìa chân như của pháp môn Tam-ma-địa có Đại Bồ-tát?

QUYỂN 17

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (7)

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của các bậc Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ, Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của bậc Cực hỷ chẳng có Đại Bồ-tát; trong chân như của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của bậc Cực hỷ; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân; lìa chân như của bậc

Cực hỷ chẳng có Đại Bồ-tát; lìa chân như của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng có Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như bậc Cực hỷ, hoặc bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có chân như của bậc Cực hỷ và chân như của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát, chính chân như của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát; khác với chân như của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; khác với chân như của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát; trong chân như của bậc Cực hỷ có Đại Bồ-tát; trong chân như của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của bậc Cực hỷ; trong Đại Bồ-tát có chân như của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân; lìa chân như của bậc Cực hỷ có Đại Bồ-tát; lìa chân như của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của năm loại mắt chẳng có Đại Bồ-tát; trong chân như của sáu phép thần thông chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của năm loại mắt; trong

Đại Bồ-tát chẳng có chân như của sáu phép thần thông; lìa chân như của năm loại mắt chẳng có Đại Bồ-tát; lìa chân như của sáu phép thần thông chẳng có Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như năm loại mắt, hoặc sáu phép thần thông, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có chân như của năm loại mắt và chân như của sáu phép thần thông! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của năm loại mắt là Đại Bồ-tát, chính chân như của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát; khác với chân như của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; khác với chân như của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát; trong chân như của năm loại mắt có Đại Bồ-tát; trong chân như của sáu phép thần thông có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của năm loại mắt; trong Đại Bồ-tát có chân như của sáu phép thần thông; lìa chân như của năm loại mắt có Đại Bồ-tát; lìa chân như của sáu phép thần thông có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như nơi mười lực của Phật chẳng có Đại Bồ-tát; trong chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như nơi mười lực của Phật; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; lìa chân như nơi mười lực của Phật chẳng có Đại Bồ-tát; lìa chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng có Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có chân như nơi mười lực của Phật và chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát, chính chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát; khác với chân như nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; khác với chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát; trong chân như nơi mười lực của Phật có Đại Bồ-tát; trong chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như nơi mười lực của Phật; trong Đại Bồ-tát có chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; lìa chân như nơi mười lực của Phật có Đại Bồ-tát; lìa chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của đại Từ chẳng có Đại Bồ-tát; trong chân như của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của đại Từ; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; lìa chân như của đại Từ chẳng có Đại Bồ-tát; lìa chân như của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng có Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như đại Từ, hoặc đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có chân như của đại Từ và chân như của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của đại Từ là Đại Bồ-tát, chính chân như của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát; khác với chân như của đại Từ là Đại Bồ-tát; khác với chân như của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát; trong chân như của đại Từ có Đại Bồ-tát; trong chân như của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của đại Từ; trong Đại Bồ-tát có chân như của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; lìa chân như của đại Từ có Đại Bồ-tát; lìa chân như của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng có Đại Bồ-tát; trong chân như của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của ba mươi hai tướng Đại sĩ; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của tám mươi vẻ đẹp kèm theo; lìa chân như của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng có Đại Bồ-tát; lìa chân như của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng có Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như ba mươi hai tướng Đại sĩ, hoặc tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có chân như của ba mươi hai tướng Đại sĩ và chân như của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát, chính chân như của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát; khác với chân như của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; khác với chân như của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát; trong chân như của ba mươi hai tướng Đại sĩ có Đại Bồ-tát; trong chân như của tám mươi vẻ đẹp kèm theo có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của ba mươi hai tướng Đại sĩ; trong Đại Bồ-tát có chân như của tám mươi vẻ đẹp kèm theo; lìa chân như của ba mươi hai tướng Đại sĩ có Đại Bồ-tát; lìa chân như của tám mươi vẻ đẹp kèm theo có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của tánh luôn luôn xả, chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của pháp không quên mất chẳng có Đại Bồ-tát; trong chân như của tánh luôn luôn xả chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của pháp không quên mất; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của tánh luôn luôn xả; lìa chân như của pháp không quên mất chẳng có Đại Bồ-tát; lìa chân như của tánh luôn luôn xả chẳng có Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, như pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn xả, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có chân như của pháp không quên mất và chân như của tánh luôn luôn xả! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát, chính chân như của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát; khác với chân như của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; khác với chân như của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát; trong chân như của pháp không quên mất có Đại Bồ-tát; trong chân như của tánh luôn luôn xả có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của pháp không quên mất; trong Đại Bồ-tát có chân như của tánh luôn luôn xả; lìa chân như của pháp không quên mất có Đại Bồ-tát; lìa chân như của tánh luôn luôn xả có Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính chân như của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát, chính chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; khác với chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát; trong chân như của trí Nhất thiết chẳng có Đại Bồ-tát; trong chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của trí Nhất thiết; trong Đại Bồ-tát chẳng có chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; lìa chân như của trí Nhất thiết chẳng có Đại Bồ-tát; lìa chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng có Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, như trí Nhất thiết, hoặc trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc chẳng thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có chân như của trí Nhất thiết và chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các chân như này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính chân như của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát, chính chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát; khác với chân như của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; khác với chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát; trong chân như của trí Nhất thiết có Đại Bồ-tát; trong chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có Đại Bồ-tát; trong Đại Bồ-tát có chân như của trí Nhất thiết; trong Đại Bồ-tát có chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; lìa chân như của trí Nhất thiết có Đại Bồ-tát; lìa chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có Đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn, sắc... các pháp và chân như đã chẳng thể được, mà nói chính chân như của sắc... các pháp là Đại Bồ-tát; hoặc khác với chân như của sắc... các pháp là Đại Bồ-tát; hoặc trong chân như của sắc... các pháp có Đại Bồ-tát; hoặc trong Đại Bồ-tát có chân như của sắc... các pháp; hoặc lìa chân như của sắc... các pháp có Đại Bồ-tát, điều đó không có!

Phật bảo Thiện Hiện:

−Hay thay, hay thay! Đúng vậy, đúng vậy, đúng như ông đã nói! Thiện Hiện, vì sắc... các pháp chẳng thể được, nên chân như của sắc... các pháp cũng chẳng thể được; vì pháp và chân như chẳng thể được, nên Đại Bồ-tát cũng chẳng thể được; vì Đại Bồ-tát chẳng thể được, nên việc tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể được. Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên học như vậy!

Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc sinh tử của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc sinh tử của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh thuộc Niết-bàn của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc Niết-bàn của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên trong của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên trong của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên ngoài của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên ngoài của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại cả trong ngoài của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại cả trong ngoài của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh hữu tướng của nhãn xứ là Đại

Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của nhãn xứ là Đại Bồ- tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc sinh tử của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc sinh tử của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc Niết-bàn của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh tại bên trong của nhãn xứ là

Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên trong của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên ngoài của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại cả trong ngoài của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của nhãn xứ là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh lạc của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh chẳng tịnh của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc sinh tử của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc sinh tử của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc Niết-bàn của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc Niết-bàn của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên trong của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên trong của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên ngoài của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên ngoài của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại cả trong ngoài của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại cả trong ngoài của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của sắc xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

QUYỂN 18

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (8)

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của nhãn giới là Đại Bồ- tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất tịnh của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất không của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh hữu tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của nhãn giới là Đại Bồ- tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của nhãn giới là

Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh ở bên trong của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của nhãn giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh khổ của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất tịnh của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất không của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh vô tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh ở bên ngoài của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của sắc giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh ngã của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất tịnh của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất không của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh thuộc về sinh tử của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh vô thường của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất tịnh của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất không của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của nhãn xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

Chính cái danh lạc của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất tịnh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất tịnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh bất không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

Chính cái danh bất không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

Chính cái danh chẳng xa lìa của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

Chính cái danh thiện của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh hữu phiền não của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

Chính cái danh tạp nhiễm của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

QUYỂN 19

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (9)

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của địa giới là Đại Bồ- tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh ở bên trong của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của địa giới là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát chăng?

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh lạc của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

Chính cái danh tịnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh hữu tướng của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

Chính cái danh tịch tĩnh của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh chẳng xa lìa của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

Chính cái danh vô lậu của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh vô phiền não của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh tạp nhiễm của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh ở bên trong của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh chẳng đạt được của nhân duyên là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh vô ngã của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh xuất thế gian của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của hành cho đến lão tử là

Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh vô tướng của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh ở bên ngoài của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của vô minh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh Bố thí ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của Bố thí ba-la-mậtđa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của Bố thí ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh khổ của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của Bố thí ba-la-mậtđa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của Bố thí ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của Bố thí ba-la-mậtđa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của Bố thí bala-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của Bố thí ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh hữu tướng của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của Bố thí ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của Bố thí ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của Bố thí ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của Bố thí ba-la-mậtđa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của Bố thí bala-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của Bố thí ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh hữu vi của Bố thí ba-la-mậtđa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của Bố thí ba-la-mậtđa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của Bố thí ba-la-mậtđa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh chẳng phải thiện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của Bố thí ba-la-mậtđa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của Bố thí bala-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của Bố thí bala-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của Bố thí ba-la-mậtđa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của Bố thí bala-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của Bố thí ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh thanh tịnh của Bố thí ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của Bố thí ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của Bố thí ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của Bố thí ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của Bố thí bala-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh chẳng đạt được của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

QUYỂN 20

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (10)

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính danh của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thường của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh thường của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô thường của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô thường của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh lạc của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh lạc của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh khổ của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh khổ của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ngã của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

Chính danh ngã của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô ngã của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô ngã của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịnh của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịnh của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh không của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh không của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng không của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng không của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tướng của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tướng của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tướng của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tướng của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

Chính danh hữu nguyện của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu nguyện của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô nguyện của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô nguyện của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịch tĩnh của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịch tĩnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịch tĩnh của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh chẳng tịch tĩnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xa lìa của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xa lìa của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng xa lìa của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng xa lìa của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu vi của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu vi của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô vi của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

Chính danh vô vi của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu lậu của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu lậu của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô lậu của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô lậu không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ẩn tàng của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ẩn tàng của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh hiển bày của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hiển bày của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thiện của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thiện của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng phải thiện của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng phải thiện của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tội của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tội của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

Chính danh vô tội của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tội của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu phiền não của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu phiền não của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô phiền não của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô phiền não của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thế gian của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh thế gian của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xuất thế gian của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xuất thế gian của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tạp nhiễm của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tạp nhiễm của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thanh tịnh của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thanh tịnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc sinh tử của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh thuộc sinh tử của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc Niết-bàn của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc Niết-bàn của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên trong của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên trong của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên ngoài của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên ngoài của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở cả trong ngoài của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở cả trong ngoài của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh đạt được của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh đạt được của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng đạt được của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng đạt được của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính danh chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thường của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thường của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô thường của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô thường của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh lạc của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh lạc của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh khổ của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh khổ của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ngã của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ngã của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô ngã của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô ngã của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịnh của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịnh của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh không của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh không của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng không của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng không của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tướng của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tướng của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tướng của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tướng của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh hữu nguyện của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu nguyện của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô nguyện của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô nguyện của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịch tĩnh của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịch tĩnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịch tĩnh của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịch tĩnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh xa lìa của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xa lìa của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng xa lìa của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng xa lìa của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu vi của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu vi của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô vi của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô vi của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu lậu của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu lậu của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô lậu của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô lậu của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ẩn tàng của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ẩn tàng của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hiển bày của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hiển bày của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thiện của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh thiện của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng phải thiện của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng phải thiện của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tội của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tội của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tội của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tội của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu phiền não của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu phiền não của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô phiền não của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô phiền não của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thế gian của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thế gian của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xuất thế gian của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xuất thế gian của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tạp nhiễm của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh tạp nhiễm của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thanh tịnh của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thanh tịnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc sinh tử của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc sinh tử của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc Niết-bàn của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc Niết-bàn của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên trong của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh ở bên trong của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên ngoài của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên ngoài của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở cả trong ngoài của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở cả trong ngoài của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh đạt được của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh đạt được của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng đạt được của chân như là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh chẳng đạt được của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính danh của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thường của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thường của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô thường của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô thường của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh lạc của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

Chính danh lạc của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh khổ của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh khổ của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ngã của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ngã của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô ngã của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô ngã của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịnh của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

Chính danh chẳng tịnh của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh không của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng không của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tướng của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tướng của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

Chính danh vô tướng của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tướng của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu nguyện của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu nguyện của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô nguyện của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô nguyện của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịch tĩnh của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịch tĩnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịch tĩnh của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

Chính danh chẳng tịch tĩnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xa lìa của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xa lìa của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng xa lìa của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng xa lìa của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu vi của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu vi của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô vi của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

Chính danh vô vi của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu lậu của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu lậu của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô lậu của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô lậu của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh sinh của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh sinh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh diệt của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh diệt của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

Chính danh thiện của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thiện của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng phải thiện của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng phải thiện của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tội của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tội của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tội của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tội của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

Chính danh hữu phiền não của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu phiền não của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô phiền não của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô phiền não của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thế gian của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thế gian của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xuất thế gian của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xuất thế gian của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh tạp nhiễm của bốn Niệm trụ là

Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tạp nhiễm của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thanh tịnh của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thanh tịnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc sinh tử của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc sinh tử của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc Niết-bàn của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc Niết-bàn của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh ở bên trong của bốn Niệm trụ là

Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên trong của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên ngoài của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên ngoài của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở cả trong ngoài của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở cả trong ngoài của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh đạt được của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh đạt được của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng đạt được của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng đạt được của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính danh Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thường của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thường của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô thường của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô thường của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh lạc của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh lạc của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh khổ của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh khổ của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ngã của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ngã của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô ngã của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô ngã của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịnh của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịnh của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh không của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh không của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng không của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng không của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tướng của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tướng của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu nguyện của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu nguyện của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô nguyện của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô nguyện của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịch tĩnh của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịch tĩnh của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịch tĩnh của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịch tĩnh của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xa lìa của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xa lìa của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng xa lìa của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng xa lìa của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu vi của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu vi của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô vi của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô vi của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu lậu của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu lậu của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô lậu của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô lậu của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh sinh của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh sinh của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh diệt của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thiện của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thiện của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng phải thiện của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng phải thiện của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tội của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tội của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tội của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tội của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu phiền não của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu phiền não của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô phiền não của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô phiền não của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thế gian của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thế gian của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xuất thế gian của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xuất thế gian của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tạp nhiễm của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tạp nhiễm của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thanh tịnh của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thanh tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc sinh tử của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc sinh tử của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc Niết-bàn của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc Niết-bàn của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên trong của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên trong của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh ở bên ngoài của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên ngoài của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở cả trong ngoài của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở cả trong ngoài của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh đạt được của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh đạt được của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng đạt được của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng đạt được của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính danh của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thường của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thường của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô thường của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô thường của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh lạc của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh lạc của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh khổ của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh khổ của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ngã của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ngã của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô ngã của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô ngã của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịnh của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịnh của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh không của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng không của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tướng của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tướng của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tướng của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tướng của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính danh hữu nguyện của bốn Tĩnh lự là

Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu nguyện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô nguyện của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô nguyện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịch tĩnh của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tịch tĩnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịch tĩnh của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng tịch tĩnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xa lìa của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xa lìa của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng xa lìa của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng xa lìa của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu vi của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu vi của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô vi của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô vi của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu lậu của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu lậu của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô lậu của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô lậu của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh sinh của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh sinh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh diệt của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh diệt của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thiện của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thiện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng phải thiện của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng phải thiện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tội của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu tội của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tội của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô tội của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu phiền não của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh hữu phiền não của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô phiền não của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh vô phiền não của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thế gian của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thế gian của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xuất thế gian của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh xuất thế gian của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tạp nhiễm của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh tạp nhiễm của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thanh tịnh của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thanh tịnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc sinh tử của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc sinh tử của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc Niết-bàn của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh thuộc Niết-bàn của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên trong của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên trong của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên ngoài của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở bên ngoài của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở cả trong ngoài của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh ở cả trong ngoài của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh đạt được của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh đạt được của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng đạt được của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính danh chẳng đạt được của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

QUYỂN 21

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (11)

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

Chính cái danh chẳng phải thiện của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh vô phiền não của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

Chính cái danh thanh tịnh của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh ở bên trong của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát chăng?

Chính cái danh chẳng đạt được của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của pháp môn giải thoát

Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh vô vi của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh vô tội của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh xuất thế gian của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của pháp môn Đà-lani là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của pháp môn Tamma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của pháp môn Đàla-ni là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của pháp môn Tam-mađịa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của pháp môn Tamma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của pháp môn Tam-mađịa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của pháp môn Đàla-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của pháp môn Tamma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh hữu tướng của pháp môn Đàla-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của pháp môn Đàla-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của pháp môn Tamma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của pháp môn Đàla-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của pháp môn Đà-lani là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của pháp môn Tamma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của pháp môn Tam-mađịa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của pháp môn Đà-lani là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của pháp môn Tam- ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của pháp môn Tam-mađịa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của pháp môn Đà-lani là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của pháp môn Tamma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của pháp môn Tamma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của pháp môn Tam-mađịa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của pháp môn Tam-mađịa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của pháp môn Tam-mađịa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của pháp môn Đà-lani là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của pháp môn Tamma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của pháp môn Tam-mađịa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của pháp môn Đà-lani là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của pháp môn Tamma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của pháp môn Đàla-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của pháp môn Đàla-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của pháp môn Đàla-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của pháp môn Đà-lani là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của pháp môn Tamma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của bậc Cực hỷ là Đại Bồ- tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh hữu nguyện của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh ở cả trong ngoài của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của năm loại mắt là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

QUYỂN 22

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (12)

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh vô thường của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh chẳng không nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh xa lìa của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

Chính cái danh hữu phiền não nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh đạt được nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

Chính cái danh vô thường của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của đại Từ là Đại Bồ- tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh chẳng không của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của đại Từ là Đại Bồ- tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của đại Từ là

Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của đại Từ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh nơi ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh nơi tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh hữu tướng của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh ở bên trong của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh khổ của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh thanh tịnh của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

−Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh thường của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh không của trí Đạo tướng, trí

Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về sinh tử của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc về Niết-bàn của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên trong của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở bên ngoài của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ở cả trong ngoài của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh đạt được của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

QUYỂN 23

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (13)

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh hữu tướng của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh vô vi của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

Chính cái danh diệt của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh vô tội của các quả vị Nhất lai,

Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của các quả vị

Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

Chính cái danh tạp nhiễm của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc sinh tử của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc sinh tử của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc Niết-bàn của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc Niết-bàn của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên trong của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên trong của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên ngoài của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên ngoài của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại cả trong ngoài của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại cả trong ngoài của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát chăng? –

Chính cái danh chẳng đạt được của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh tịnh của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc sinh tử của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc Niết-bàn của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên trong của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên ngoài của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại cả trong ngoài của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Lại nữa Thiện Hiện, chỗ gọi là Đại Bồ-tát, theo ý ông thì sao? Chính cái danh nơi tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thường nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô thường nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh lạc nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh khổ của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh khổ nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh ngã nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô ngã nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh không nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng không nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tướng nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tướng nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu nguyện nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô nguyện nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tịch tĩnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng tịch tĩnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xa lìa nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng xa lìa nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu vi nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô vi nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu lậu nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô lậu nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh sinh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh diệt nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thiện nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng phải thiện nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu tội nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô tội nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh hữu phiền não nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh vô phiền não nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thế gian nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh xuất thế gian nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tạp nhiễm nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thanh tịnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc sinh tử của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc sinh tử nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc Niết-bàn của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh thuộc Niết-bàn nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên trong của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên trong nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại bên ngoài của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Chính cái danh tại bên ngoài nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại cả trong ngoài của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh tại cả trong ngoài nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh đạt được nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Chính cái danh chẳng đạt được nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

Bấy giờ, Phật bảo Cụ thọ Thiện Hiện:

–Ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, như sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh của sắc và cái danh của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh thường, vô thường của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của sắc; hoặc thường, vô thường của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh thường, vô thường của sắc và cái danh thường, vô thường của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh thường, vô thường của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh lạc, khổ của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc, khổ của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Bạch Thế Tôn, như lạc, khổ của sắc; hoặc lạc, khổ của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh lạc, khổ của sắc và cái danh lạc, khổ của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh lạc, khổ của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc, khổ của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của sắc; hoặc ngã, vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh ngã, vô ngã của sắc và cái danh ngã, vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của sắc; hoặc tịnh, bất tịnh của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh tịnh, bất tịnh của sắc và cái danh tịnh, bất tịnh của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh không, hoặc bất không của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của sắc; hoặc không, bất không của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh không, bất không của sắc và cái danh không, bất không của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh không, hoặc bất không của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của sắc; hoặc hữu tướng, vô tướng của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh hữu tướng, vô tướng của sắc và cái danh hữu tướng, vô tướng của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của sắc; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của sắc và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sắc; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sắc và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của sắc; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của sắc và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của sắc; hoặc hữu vi, vô vi của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh hữu vi, vô vi của sắc và cái danh hữu vi, vô vi của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của sắc; hoặc hữu lậu, vô lậu của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh hữu lậu, vô lậu của sắc và cái danh hữu lậu, vô lậu của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh sinh, hoặc diệt của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của sắc; hoặc sinh, diệt của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh sinh, diệt của sắc và cái danh sinh, diệt của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh sinh, hoặc diệt của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của sắc; hoặc thiện, chẳng phải thiện của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh thiện, chẳng phải thiện của sắc và cái danh thiện, chẳng phải thiện của thọ, tưởng, hành, thức!

Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của sắc; hoặc hữu tội, vô tội của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh hữu tội, vô tội của sắc và cái danh hữu tội, vô tội của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của sắc; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của sắc và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của sắc; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh thế gian, xuất thế gian của sắc và cái danh thế gian, xuất thế gian của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của sắc; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của sắc và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh thuộc sinh tử, hoặc thuộc Niếtbàn của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc sinh tử, hoặc thuộc Niết-bàn của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc sinh tử, thuộc Niếtbàn của sắc; hoặc thuộc sinh tử, thuộc Niết-bàn của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh thuộc sinh tử, thuộc Niết-bàn của sắc và cái danh thuộc sinh tử, thuộc Niết-bàn của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh thuộc sinh tử, hoặc thuộc Niết-bàn của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc sinh tử, hoặc thuộc Niết-bàn của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của sắc; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của sắc và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói là chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, hoặc chẳng đạt được của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của sắc; hoặc đạt được, chẳng đạt được của thọ, tưởng, hành, thức, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng là chẳng có, huống chi là có cái danh đạt được, chẳng đạt được của sắc và cái danh đạt được, chẳng đạt được của thọ, tưởng, hành, thức! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói là chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của sắc là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát.

QUYỂN 24

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (14)

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như nhãn xứ, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của nhãn xứ và cái danh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của nhãn xứ; hoặc thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của nhãn xứ và cái danh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của nhãn xứ; hoặc lạc, hoặc khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của nhãn xứ và cái danh lạc, khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của nhãn xứ; hoặc ngã, vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của nhãn xứ và cái danh ngã, vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của nhãn xứ; hoặc tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của nhãn xứ và cái danh tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của nhãn xứ; hoặc không, bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của nhãn xứ và cái danh không, bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của nhãn xứ; hoặc hữu tướng, vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của nhãn xứ và cái danh hữu tướng, vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của nhãn xứ; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của nhãn xứ và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhãn xứ; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhãn xứ và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của nhãn xứ; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của nhãn xứ và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của nhãn xứ; hoặc hữu vi, vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của nhãn xứ và cái danh hữu vi, vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của nhãn xứ; hoặc hữu lậu, vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của nhãn xứ và cái danh hữu lậu, vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của nhãn xứ; hoặc sinh, diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của nhãn xứ và cái danh sinh, diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của nhãn xứ; hoặc thiện, chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của nhãn xứ và cái danh thiện, chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của nhãn xứ; hoặc hữu tội, vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của nhãn xứ và cái danh hữu tội, vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của nhãn xứ; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của nhãn xứ và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của nhãn xứ; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của nhãn xứ và cái danh thế gian, xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của nhãn xứ; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của nhãn xứ và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát. –Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhãn xứ; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhãn xứ và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhãn xứ; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhãn xứ và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của nhãn xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của nhãn xứ; hoặc đạt được, chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của nhãn xứ và cái danh đạt được, chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của nhãn xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, như sắc xứ, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của sắc xứ và cái danh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của sắc xứ; hoặc thường, vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của sắc xứ và cái danh thường, vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của sắc xứ; hoặc lạc, hoặc khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của sắc xứ và cái danh lạc, khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của sắc xứ; hoặc ngã, vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của sắc xứ và cái danh ngã, vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của sắc xứ; hoặc tịnh, bất tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của sắc xứ và cái danh tịnh, bất tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của sắc xứ; hoặc không, bất không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của sắc xứ và cái danh không, bất không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của sắc xứ; hoặc hữu tướng, vô tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của sắc xứ và cái danh hữu tướng, vô tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của sắc xứ; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của sắc xứ và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sắc xứ; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sắc xứ và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của sắc xứ; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của sắc xứ và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của sắc xứ; hoặc hữu vi, vô vi của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của sắc xứ và cái danh hữu vi, vô vi của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của sắc xứ; hoặc hữu lậu, vô lậu của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của sắc xứ và cái danh hữu lậu, vô lậu của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của sắc xứ; hoặc sinh, diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của sắc xứ và cái danh sinh, diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của sắc xứ; hoặc thiện, chẳng phải thiện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của sắc xứ và cái danh thiện, chẳng phải thiện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của sắc xứ; hoặc hữu tội, vô tội của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của sắc xứ và cái danh hữu tội, vô tội của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của sắc xứ; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của sắc xứ và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của sắc xứ; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của sắc xứ và cái danh thế gian, xuất thế gian của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của sắc xứ; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của sắc xứ và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của sắc xứ; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của sắc xứ và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của sắc xứ; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của sắc xứ và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của sắc xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của sắc xứ; hoặc đạt được, chẳng đạt được của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của sắc xứ và cái danh đạt được, chẳng đạt được của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của sắc xứ là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, như nhãn giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của nhãn giới và cái danh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của nhãn giới; hoặc thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của nhãn giới và cái danh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của nhãn giới; hoặc lạc, hoặc khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của nhãn giới và cái danh lạc, khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của nhãn giới; hoặc ngã, vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của nhãn giới và cái danh ngã, vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của nhãn giới; hoặc tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của nhãn giới và cái danh tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của nhãn giới; hoặc không, bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của nhãn giới và cái danh không, bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của nhãn giới; hoặc hữu tướng, vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của nhãn giới và cái danh hữu tướng, vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của nhãn giới; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của nhãn giới và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhãn giới; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhãn giới và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của nhãn giới; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của nhãn giới và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

QUYỂN 25

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (15)

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của nhãn giới; hoặc hữu vi, vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của nhãn giới và cái danh hữu vi, vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của nhãn giới; hoặc hữu lậu, vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của nhãn giới và cái danh hữu lậu, vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của nhãn giới; hoặc sinh, diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của nhãn giới và cái danh sinh, diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của nhãn giới; hoặc thiện, chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của nhãn giới và cái danh thiện, chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của nhãn giới; hoặc hữu tội, vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của nhãn giới và cái danh hữu tội, vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của nhãn giới; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của nhãn giới và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của nhãn giới; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của nhãn giới và cái danh thế gian, xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của nhãn giới; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của nhãn giới và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhãn giới; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhãn giới và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhãn giới; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhãn giới và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của nhãn giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của nhãn giới; hoặc đạt được, chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của nhãn giới và cái danh đạt được, chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của nhãn giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như sắc giới, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của sắc giới và cái danh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của sắc giới; hoặc thường, vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của sắc giới và cái danh thường, vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của sắc giới; hoặc lạc, hoặc khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của sắc giới và cái danh lạc, khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của sắc giới; hoặc ngã, vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của sắc giới và cái danh ngã, vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của sắc giới; hoặc tịnh, bất tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của sắc giới và cái danh tịnh, bất tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của sắc giới; hoặc không, bất không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của sắc giới và cái danh không, bất không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của sắc giới; hoặc hữu tướng, vô tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của sắc giới và cái danh hữu tướng, vô tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của sắc giới; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của sắc giới và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sắc giới; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sắc giới và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của sắc giới; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của sắc giới và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của sắc xứ; hoặc hữu vi, vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của sắc giới và cái danh hữu vi, vô vi của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của sắc giới; hoặc hữu lậu, vô lậu của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của sắc xứ và cái danh hữu lậu, vô lậu của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của sắc giới; hoặc sinh, diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của sắc giới và cái danh sinh, diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của sắc giới; hoặc thiện, chẳng phải thiện của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của sắc giới và cái danh thiện, chẳng phải thiện của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của sắc giới; hoặc hữu tội, vô tội của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của sắc giới và cái danh hữu tội, vô tội của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của sắc giới; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của sắc giới và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của sắc giới; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của sắc giới và cái danh thế gian, xuất thế gian của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của sắc giới; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của sắc giới và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của sắc giới; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của sắc giới và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của sắc giới; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của sắc giới và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của sắc giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của sắc giới; hoặc đạt được, chẳng đạt được của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của sắc giới và cái danh đạt được, chẳng đạt được của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của sắc giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như nhãn thức giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của nhãn thức giới và cái danh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của nhãn thức giới; hoặc thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của nhãn thức giới và cái danh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của nhãn thức giới; hoặc lạc, hoặc khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của nhãn thức giới và cái danh lạc, khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của nhãn thức giới; hoặc ngã, vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của nhãn thức giới và cái danh ngã, vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của nhãn thức giới; hoặc tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của nhãn thức giới và cái danh tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của nhãn thức giới; hoặc không, bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của nhãn thức giới và cái danh không, bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của nhãn thức giới; hoặc hữu tướng, vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của nhãn thức giới và cái danh hữu tướng, vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của nhãn thức giới; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của nhãn thức giới và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhãn thức giới; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhãn thức giới và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của nhãn thức giới; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của nhãn thức giới và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của nhãn thức giới; hoặc hữu vi, vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của nhãn thức giới và cái danh hữu vi, vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của nhãn thức giới; hoặc hữu lậu, vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của nhãn thức giới và cái danh hữu lậu, vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của nhãn thức giới; hoặc sinh, diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của nhãn thức giới và cái danh sinh, diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của nhãn thức giới; hoặc thiện, chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của nhãn thức giới và cái danh thiện, chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của nhãn thức giới; hoặc hữu tội, vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của nhãn thức giới và cái danh hữu tội, vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của nhãn thức giới; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của nhãn thức giới và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của nhãn thức giới; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của nhãn thức giới và cái danh thế gian, xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của nhãn thức giới; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của nhãn thức giới và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhãn thức giới; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhãn thức giới và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhãn thức giới; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhãn thức giới và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của nhãn thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của nhãn thức giới; hoặc đạt được, chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của nhãn thức giới và cái danh đạt được, chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của nhãn thức giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đại Bồ-tát.

QUYỂN 26

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (16)

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như nhãn xúc, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của nhãn xúc và cái danh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của nhãn xúc; hoặc thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của nhãn xúc và cái danh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của nhãn xúc; hoặc lạc, hoặc khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của nhãn xúc và cái danh lạc, khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của nhãn xúc; hoặc ngã, vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của nhãn xúc và cái danh ngã, vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của nhãn xúc; hoặc tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của nhãn xúc và cái danh tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của nhãn xúc; hoặc không, bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của nhãn xúc và cái danh không, bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của nhãn xúc; hoặc hữu tướng, vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của nhãn xúc và cái danh hữu tướng, vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của nhãn xúc; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của nhãn xúc và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhãn xúc; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhãn xúc và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của nhãn xúc; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của nhãn xúc và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của nhãn xúc; hoặc hữu vi, vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của nhãn xúc và cái danh hữu vi, vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của nhãn xúc; hoặc hữu lậu, vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của nhãn xúc và cái danh hữu lậu, vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của nhãn xúc; hoặc sinh, diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của nhãn xúc và cái danh sinh, diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của nhãn xúc; hoặc thiện, chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của nhãn xúc và cái danh thiện, chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của nhãn xúc; hoặc hữu tội, vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của nhãn xúc và cái danh hữu tội, vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của nhãn xúc; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của nhãn xúc và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát. –Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của nhãn xúc; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của nhãn xúc và cái danh thế gian, xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của nhãn xúc; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của nhãn xúc và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhãn xúc; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhãn xúc và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhãn xúc; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhãn xúc và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của nhãn xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của nhãn xúc; hoặc đạt được, chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của nhãn xúc và cái danh đạt được, chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của nhãn xúc là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra, hoặc các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc thường, vô thường của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh thường, vô thường của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc lạc, hoặc khổ của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh lạc, khổ của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát. –Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc ngã, vô ngã của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh ngã, vô ngã của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của các thọ do các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc tịnh, bất tịnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh tịnh, bất tịnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc không, bất không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh không, bất không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc hữu tướng, vô tướng của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh hữu tướng, vô tướng của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát? –Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc hữu vi, vô vi của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh hữu vi, vô vi của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc hữu lậu, vô lậu của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh hữu lậu, vô lậu của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc sinh, diệt của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh sinh, diệt của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc thiện, chẳng phải thiện của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh thiện, chẳng phải thiện của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc hữu tội, vô tội của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh hữu tội, vô tội của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh thế gian, xuất thế gian của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra; hoặc đạt được, chẳng đạt được của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của các thọ, do nhãn xúc làm duyên sinh ra và cái danh đạt được, chẳng đạt được của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như địa giới, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của địa giới và cái danh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của địa giới; hoặc thường, vô thường của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của địa giới và cái danh thường, vô thường của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của địa giới; hoặc lạc, hoặc khổ của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của địa giới cái danh lạc, khổ của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của địa giới; hoặc ngã, vô ngã của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của địa giới và cái danh ngã, vô ngã của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

QUYỂN 27

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (17)

Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của địa giới; hoặc tịnh, bất tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của địa giới và cái danh tịnh, bất tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của địa giới; hoặc không, bất không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của địa giới và cái danh không, bất không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của địa giới; hoặc hữu tướng, vô tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của địa giới và cái danh hữu tướng, vô tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của địa giới; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của địa giới và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của địa giới; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của địa giới và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của địa giới; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của địa giới và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của địa giới; hoặc hữu vi, vô vi của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của địa giới và cái danh hữu vi, vô vi của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của địa giới; hoặc hữu lậu, vô lậu của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của địa giới và cái danh hữu lậu, vô lậu của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của địa giới; hoặc sinh, diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của địa giới và cái danh sinh, diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của địa giới; hoặc thiện, chẳng phải thiện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của địa giới và cái danh thiện, chẳng phải thiện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của địa giới; hoặc hữu tội, vô tội của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của địa giới và cái danh hữu tội, vô tội của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của địa giới; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của địa giới và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của địa giới; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của địa giới và cái danh thế gian, xuất thế gian của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của địa giới; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của địa giới và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của địa giới; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của địa giới và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của địa giới; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của địa giới và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của địa giới chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của địa giới; hoặc đạt được, chẳng đạt được của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của địa giới và cái danh đạt được, chẳng đạt được của thủy, hỏa, phong, không, thức giới! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của địa giới là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như nhân duyên, hoặc đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của nhân duyên và cái danh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của nhân duyên; hoặc thường, vô thường của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của nhân duyên và cái danh thường, vô thường của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của nhân duyên; hoặc lạc, hoặc khổ của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của nhân duyên và cái danh lạc, khổ của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của nhân duyên; hoặc ngã, vô ngã của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của nhân duyên và cái danh ngã, vô ngã của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của nhân duyên; hoặc tịnh, bất tịnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của nhân duyên và cái danh tịnh, bất tịnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của nhân duyên; hoặc không, bất không của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của nhân duyên và cái danh không, bất không của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của nhân duyên; hoặc hữu tướng, vô tướng của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của nhân duyên và cái danh hữu tướng, vô tướng của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của nhân duyên; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của nhân duyên và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhân duyên; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhân duyên và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của nhân duyên; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của nhân duyên và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của nhân duyên; hoặc hữu vi, vô vi của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của nhân duyên và cái danh hữu vi, vô vi của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của nhân duyên; hoặc hữu lậu, vô lậu của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của nhân duyên và cái danh hữu lậu, vô lậu của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của nhân duyên; hoặc sinh, diệt của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của nhân duyên và cái danh sinh, diệt của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của nhân duyên; hoặc thiện, chẳng phải thiện của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của nhân duyên và cái danh thiện, chẳng phải thiện của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của nhân duyên; hoặc hữu tội, vô tội của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của nhân duyên và cái danh hữu tội, vô tội của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của nhân duyên; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của nhân duyên và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của nhân duyên; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của nhân duyên và cái danh thế gian, xuất thế gian của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của nhân duyên; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của nhân duyên và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhân duyên; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của nhân duyên và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát? –Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhân duyên; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của nhân duyên và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của nhân duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của nhân duyên; hoặc đạt được, chẳng đạt được của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của nhân duyên và cái danh đạt được, chẳng đạt được của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của nhân duyên là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của pháp do các duyên sinh ra, chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của pháp do các duyên sinh ra! Danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, thường, vô thường của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, lạc, hoặc khổ của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, ngã, vô ngã của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, tịnh, bất tịnh của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh pháp, do duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, không, bất không của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu tướng, vô tướng của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu nguyện, vô nguyện của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, xa lìa, chẳng xa lìa của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu vi, vô vi của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu lậu, vô lậu của pháp, do duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, sinh, diệt của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, thiện, chẳng phải thiện của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu tội, vô tội của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu phiền não, vô phiền não của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp do các duyên sinh ra xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của pháp do các duyên sinh ra chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, đạt được, chẳng đạt được của pháp do các duyên sinh ra, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của pháp do các duyên sinh ra! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của pháp do các duyên sinh ra là Đại Bồ-tát.

QUYỂN 28

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (18)

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như vô minh, hoặc hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của vô minh và cái danh của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của vô minh; hoặc thường, vô thường của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của vô minh và cái danh thường, vô thường của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của vô minh; hoặc lạc, hoặc khổ của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của vô minh và cái danh lạc, khổ của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của vô minh; hoặc ngã, vô ngã của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của vô minh và cái danh ngã, vô ngã của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của vô minh; hoặc tịnh, bất tịnh của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của vô minh và cái danh tịnh, bất tịnh của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Bạch Thế Tôn, như không, bất không của vô minh; hoặc không, bất không của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của vô minh và cái danh không, bất không của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của vô minh; hoặc hữu tướng, vô tướng của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của vô minh và cái danh hữu tướng, vô tướng của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của vô minh; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của vô minh và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của vô minh; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của vô minh và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của vô minh; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của vô minh và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của vô minh; hoặc hữu vi, vô vi của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của vô minh và cái danh hữu vi, vô vi của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của vô minh; hoặc hữu lậu, vô lậu của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của vô minh và cái danh hữu lậu, vô lậu của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của vô minh; hoặc sinh, diệt của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của vô minh và cái danh sinh, diệt của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của vô minh; hoặc thiện, chẳng phải thiện của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của vô minh và cái danh thiện, chẳng phải thiện của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của vô minh; hoặc hữu tội, vô tội của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của vô minh và cái danh hữu tội, vô tội của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của vô minh; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của vô minh và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của vô minh; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của vô minh và cái danh thế gian, xuất thế gian của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của vô minh; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của vô minh và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của vô minh; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của vô minh và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của vô minh; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của vô minh và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của vô minh chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của hành cho đến lão tử chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của vô minh; hoặc đạt được, chẳng đạt được của hành cho đến lão tử, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của vô minh và cái danh đạt được, chẳng đạt được của hành cho đến lão tử! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của vô minh là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của hành cho đến lão tử là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như Bố thí ba-la-mật-đa, hoặc Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của Bố thí ba-la-mật-đa và cái danh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của Bố thí bala-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc thường, vô thường của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của Bố thí ba-la-mật-đa và cái danh thường, vô thường của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của Bố thí ba-la-mậtđa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc lạc, hoặc khổ của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của Bố thí bala-mật-đa và cái danh lạc, khổ của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của Bố thí ba-la-mậtđa là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của Bố thí ba-lamật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của Bố thí bala-mật-đa; hoặc ngã, vô ngã của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của Bố thí bala-mật-đa và cái danh ngã, vô ngã của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của Bố thí ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của Bố thí bala-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc tịnh, bất tịnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của Bố thí bala-mật-đa và cái danh tịnh, bất tịnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của Bố thí bala-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc không, bất không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của Bố thí ba-la-mật-đa và cái danh không, bất không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc hữu tướng, vô tướng của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của Bố thí ba-la-mật-đa và cái danh hữu tướng, vô tướng của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của Bố thí ba-la-mật-đa và cái danh hữu nguyện, vô nguyện Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Bố thí ba-la-mật-đa và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của Bố thí ba-la-mật-đa và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của Bố thí bala-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc hữu vi, vô vi của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của Bố thí bala-mật-đa và cái danh hữu vi, vô vi của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của Bố thí bala-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của Bố thí bala-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc hữu lậu, vô lậu của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của Bố thí ba-la-mật-đa và cái danh hữu lậu, vô lậu của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của Bố thí ba-lamật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của Bố thí bala-mật-đa; hoặc sinh, diệt của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của Bố thí ba-lamật-đa và cái danh sinh, diệt của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của Bố thí ba-lamật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc thiện, chẳng phải thiện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của Bố thí ba-la-mật-đa và cái danh thiện, chẳng phải thiện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của Bố thí bala-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc hữu tội, vô tội của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của Bố thí ba-la-mật-đa và cái danh hữu tội, vô tội của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của Bố thí ba-la-mật-đa và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của Bố thí ba-lamật-đa và cái danh thế gian, xuất thế gian của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của Bố thí ba-la-mật-đa và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là

Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của Bố thí ba-la-mật-đa và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát? –Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của Bố thí ba-la-mật-đa và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của Bố thí ba-la-mật-đa; hoặc đạt được, chẳng đạt được của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của Bố thí ba-la-mật-đa và cái danh đạt được, chẳng đạt được của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của Bố thí ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, pháp không bên trong, pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của pháp không bên trong và cái danh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát. –Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, hoặc vô thường của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, hoặc vô thường của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của pháp không bên trong; hoặc thường, vô thường của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của pháp không bên trong và cái danh thường, vô thường của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của pháp không bên trong; hoặc lạc, hoặc khổ của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của pháp không bên trong và cái danh lạc, khổ của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của pháp không bên trong; hoặc ngã, vô ngã của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của pháp không bên trong và cái danh ngã, vô ngã của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của pháp không bên trong; hoặc tịnh, bất tịnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của pháp không bên trong và cái danh tịnh, bất tịnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của pháp không bên trong; hoặc không, bất không của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của pháp không bên trong và cái danh không, bất không của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của pháp không bên trong; hoặc hữu tướng, vô tướng của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của pháp không bên trong và cái danh hữu tướng, vô tướng của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát. -oOo-

QUYỂN 29

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (19)

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của pháp không bên trong; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của pháp không bên trong và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp không bên trong; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp không bên trong và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của pháp không bên trong; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của pháp không bên trong và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của pháp không bên trong; hoặc hữu vi, vô vi của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của pháp không bên trong và cái danh hữu vi, vô vi của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của pháp không bên trong; hoặc hữu lậu, vô lậu của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của pháp không bên trong và cái danh hữu lậu, vô lậu của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của pháp không bên trong; hoặc sinh, diệt của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của pháp không bên trong và cái danh sinh, diệt của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của pháp không bên trong; hoặc thiện, chẳng phải thiện của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của pháp không bên trong và cái danh thiện, chẳng phải thiện của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của pháp không bên trong; hoặc hữu tội, vô tội của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của pháp không bên trong và cái danh hữu tội, vô tội của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của pháp không bên trong; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của pháp không bên trong và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp không bên trong; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của pháp không bên trong và cái danh thế gian, xuất thế gian của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp không bên trong; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp không bên trong và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp không bên trong; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp không bên trong và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của pháp không bên trong; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của pháp không bên trong và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của pháp không bên trong chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của pháp không bên trong; hoặc đạt được, chẳng đạt được của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của pháp không bên trong và cái danh đạt được, chẳng đạt được của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của pháp không bên trong là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, như chân như, hoặc pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của chân như và cái danh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của chân như; hoặc thường, vô thường của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của chân như và cái danh thường, vô thường của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của chân như; hoặc lạc, hoặc khổ của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của chân như và cái danh lạc, khổ của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của chân như; hoặc ngã, vô ngã của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của chân như và cái danh ngã, vô ngã của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của chân như; hoặc tịnh, bất tịnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của chân như và cái danh tịnh, bất tịnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của chân như; hoặc không, bất không của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của chân như và cái danh không, bất không của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của chân như; hoặc hữu tướng, vô tướng của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của chân như và cái danh hữu tướng, vô tướng của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của chân như; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của chân như và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của chân như; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của chân như và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của chân như; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của chân như và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của chân như; hoặc hữu vi, vô vi của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của chân như và cái danh hữu vi, vô vi của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của chân như; hoặc hữu lậu, vô lậu của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của chân như và cái danh hữu lậu, vô lậu của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của chân như; hoặc sinh, diệt của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của chân như và cái danh sinh, diệt của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của chân như; hoặc thiện, chẳng phải thiện của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của chân như và cái danh thiện, chẳng phải thiện của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của chân như; hoặc hữu tội, vô tội của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của chân như và cái danh hữu tội, vô tội của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của chân như; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của chân như và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của chân như; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của chân như và cái danh thế gian, xuất thế gian của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của chân như; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của chân như và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của chân như; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của chân như và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của chân như; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của chân như và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của chân như chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của chân như; hoặc đạt được, chẳng đạt được của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của chân như và cái danh đạt được, chẳng đạt được của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của chân như là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, như bốn Niệm trụ, hoặc bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của bốn Niệm trụ và cái danh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của bốn Niệm trụ; hoặc thường, vô thường của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của bốn Niệm trụ và cái danh thường, vô thường của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của bốn Niệm trụ; hoặc lạc, hoặc khổ của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của bốn Niệm trụ và cái danh lạc, khổ của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của bốn Niệm trụ; hoặc ngã, vô ngã của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của bốn Niệm trụ và cái danh ngã, vô ngã của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của bốn Niệm trụ; hoặc tịnh, bất tịnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của bốn Niệm trụ và cái danh tịnh, bất tịnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của bốn Niệm trụ; hoặc không, bất không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của bốn Niệm trụ và cái danh không, bất không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của bốn Niệm trụ; hoặc hữu tướng, vô tướng của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của bốn Niệm trụ và cái danh hữu tướng, vô tướng của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của bốn Niệm trụ; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của bốn Niệm trụ và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Niệm trụ; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Niệm trụ và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Niệm trụ; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Niệm trụ và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của bốn Niệm trụ; hoặc hữu vi, vô vi của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của bốn Niệm trụ và cái danh hữu vi, vô vi của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của bốn Niệm trụ; hoặc hữu lậu, vô lậu của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của bốn Niệm trụ và cái danh hữu lậu, vô lậu của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của bốn Niệm trụ; hoặc sinh, diệt của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của bốn Niệm trụ và cái danh sinh, diệt của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của bốn Niệm trụ; hoặc thiện, chẳng phải thiện của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của bốn Niệm trụ và cái danh thiện, chẳng phải thiện của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của bốn Niệm trụ; hoặc hữu tội, vô tội của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của bốn Niệm trụ và cái danh hữu tội, vô tội của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của bốn Niệm trụ; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của bốn Niệm trụ và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của bốn Niệm trụ; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của bốn Niệm trụ và cái danh thế gian, xuất thế gian của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

QUYỂN 30

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (20)

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của bốn Niệm trụ; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của bốn Niệm trụ và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của bốn Niệm trụ; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của bốn Niệm trụ và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của bốn Niệm trụ; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của bốn Niệm trụ và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của bốn Niệm trụ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của bốn Niệm trụ; hoặc đạt được, chẳng đạt được của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của bốn Niệm trụ và cái danh đạt được, chẳng đạt được của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của bốn Niệm trụ là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như Thánh đế khổ, hoặc Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của Thánh đế khổ và cái danh của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của Thánh đế khổ; hoặc thường, vô thường của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của Thánh đế khổ và cái danh thường, vô thường của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, khổ của Thánh đế khổ; hoặc lạc, khổ của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của Thánh đế khổ và cái danh lạc, khổ của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của Thánh đế khổ; hoặc ngã, vô ngã của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của Thánh đế khổ và cái danh ngã, vô ngã của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của Thánh đế khổ; hoặc tịnh, bất tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của Thánh đế khổ và cái danh tịnh, bất tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của Thánh đế khổ; hoặc không, bất không của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của Thánh đế khổ và cái danh không, bất không của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của Thánh đế khổ; hoặc hữu tướng, vô tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của Thánh đế khổ và cái danh hữu tướng, vô tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của Thánh đế khổ; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của Thánh đế khổ và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Thánh đế khổ; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Thánh đế khổ và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của Thánh đế khổ; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của Thánh đế khổ và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của Thánh đế khổ; hoặc hữu vi, vô vi của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của Thánh đế khổ và cái danh hữu vi, vô vi của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của Thánh đế khổ; hoặc hữu lậu, vô lậu của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của Thánh đế khổ và cái danh hữu lậu, vô lậu của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của Thánh đế khổ; hoặc sinh, diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của Thánh đế khổ và cái danh sinh, diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của Thánh đế khổ; hoặc thiện, chẳng phải thiện của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của Thánh đế khổ và cái danh thiện, chẳng phải thiện của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của Thánh đế khổ; hoặc hữu tội, vô tội của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của Thánh đế khổ và cái danh hữu tội, vô tội của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của Thánh đế khổ; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của Thánh đế khổ và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của Thánh đế khổ; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của Thánh đế khổ và cái danh thế gian, xuất thế gian của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của

Thánh đế khổ; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của Thánh đế khổ và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của Thánh đế khổ; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của Thánh đế khổ và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của Thánh đế khổ; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của Thánh đế khổ và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của Thánh đế khổ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của Thánh đế khổ; hoặc đạt được, chẳng đạt được của Thánh đế tập, diệt, đạo, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của Thánh đế khổ và cái danh đạt được, chẳng đạt được của Thánh đế tập, diệt, đạo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của Thánh đế khổ là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của Thánh đế tập, diệt, đạo là Đại Bồ-tát. –Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như bốn Tĩnh lự, hoặc bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của bốn Tĩnh lự và cái danh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của bốn Tĩnh lự; hoặc thường, vô thường của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của bốn Tĩnh lự và cái danh thường, vô thường của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của bốn Tĩnh lự; hoặc lạc, hoặc khổ của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của bốn Tĩnh lự và cái danh lạc, khổ của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của bốn Tĩnh lự; hoặc ngã, vô ngã của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của bốn Tĩnh lự và cái danh ngã, vô ngã của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của bốn Tĩnh lự; hoặc tịnh, bất tịnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của bốn Tĩnh lự và cái danh tịnh, bất tịnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của bốn

Tĩnh lự; hoặc không, bất không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của bốn Tĩnh lự và cái danh không, bất không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của bốn Tĩnh lự; hoặc hữu tướng, vô tướng của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của bốn Tĩnh lự và cái danh hữu tướng, vô tướng của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của bốn Tĩnh lự; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của bốn Tĩnh lự và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Tĩnh lự; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Tĩnh lự và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Tĩnh lự; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Tĩnh lự và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của bốn

Tĩnh lự; hoặc hữu vi, vô vi của bốn Vô lượng, bốn

Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của bốn Tĩnh lự và cái danh hữu vi, vô vi của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của bốn Tĩnh lự; hoặc hữu lậu, vô lậu của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của bốn Tĩnh lự và cái danh hữu lậu, vô lậu của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của bốn Tĩnh lự; hoặc sinh, diệt của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của bốn Tĩnh lự và cái danh sinh, diệt của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của bốn Tĩnh lự; hoặc thiện, chẳng phải thiện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của bốn Tĩnh lự và cái danh thiện, chẳng phải thiện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của bốn Tĩnh lự; hoặc hữu tội, vô tội của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của bốn Tĩnh lự và cái danh hữu tội, vô tội của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của bốn Tĩnh lự; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của bốn Tĩnh lự và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của bốn Tĩnh lự; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của bốn Tĩnh lự và cái danh thế gian, xuất thế gian của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát. –Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của bốn Tĩnh lự; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của bốn Tĩnh lự và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của bốn Tĩnh lự; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của bốn Tĩnh lự và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của bốn Tĩnh lự; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của bốn Tĩnh lự và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của bốn Tĩnh lự chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của bốn Tĩnh lự; hoặc đạt được, chẳng đạt được của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của bốn Tĩnh lự và cái danh đạt được, chẳng đạt được của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của bốn Tĩnh lự là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như tám Giải thoát, hoặc tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của tám Giải thoát và cái danh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của tám Giải thoát; hoặc thường, vô thường của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của tám Giải thoát và cái danh thường, vô thường của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của tám Giải thoát; hoặc lạc, hoặc khổ của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của tám Giải thoát và cái danh lạc, khổ của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của tám Giải thoát; hoặc ngã, vô ngã của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của tám Giải thoát và cái danh ngã, vô ngã của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

QUYỂN 31

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (21)

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của tám Giải thoát; hoặc tịnh, bất tịnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của tám Giải thoát và cái danh tịnh, bất tịnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của tám Giải thoát; hoặc không, bất không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của tám Giải thoát và cái danh không, bất không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của tám Giải thoát; hoặc hữu tướng, vô tướng của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của tám Giải thoát và cái danh hữu tướng, vô tướng của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của tám Giải thoát; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của tám Giải thoát và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của tám Giải thoát; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của tám Giải thoát và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của tám Giải thoát; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của tám Giải thoát và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của tám

Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của tám Giải thoát; hoặc hữu vi, vô vi của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của tám Giải thoát và cái danh hữu vi, vô vi của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của tám Giải thoát; hoặc hữu lậu, vô lậu của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của tám Giải thoát và cái danh hữu lậu, vô lậu của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của tám Giải thoát; hoặc sinh, diệt của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của tám Giải thoát và cái danh sinh, diệt của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của tám Giải thoát; hoặc thiện, chẳng phải thiện của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của tám Giải thoát và cái danh thiện, chẳng phải thiện của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của tám Giải thoát; hoặc hữu tội, vô tội của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của tám Giải thoát và cái danh hữu tội, vô tội của tám Thắng xứ, chín

Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của tám Giải thoát; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của tám Giải thoát và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của tám Giải thoát; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của tám Giải thoát và cái danh thế gian, xuất thế gian của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của tám Giải thoát; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của tám Giải thoát và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của tám Giải thoát; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của tám Giải thoát và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niếtbàn của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của tám Giải thoát; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của tám Giải thoát và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của tám Giải thoát chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của tám Giải thoát; hoặc đạt được, chẳng đạt được của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của tám Giải thoát và cái danh đạt được, chẳng đạt được của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của tám Giải thoát là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như pháp môn giải thoát Không, hoặc pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của pháp môn giải thoát Không và cái danh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của pháp môn giải thoát Không; hoặc thường, vô thường của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của pháp môn giải thoát Không và cái danh thường, vô thường của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của pháp môn giải thoát Không; hoặc lạc, hoặc khổ của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của pháp môn giải thoát Không và cái danh lạc, khổ của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của pháp môn giải thoát Không; hoặc ngã, vô ngã của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của pháp môn giải thoát Không và cái danh ngã, vô ngã của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của pháp môn giải thoát Không; hoặc tịnh, bất tịnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của pháp môn giải thoát Không và cái danh tịnh, bất tịnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của pháp môn giải thoát Không; hoặc không, bất không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của pháp môn giải thoát Không và cái danh không, bất không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của pháp môn giải thoát Không; hoặc hữu tướng, vô tướng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của pháp môn giải thoát Không và cái danh hữu tướng, vô tướng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của pháp môn giải thoát Không; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của pháp môn giải thoát Không và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Không; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Không và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của pháp môn giải thoát Không; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của pháp môn giải thoát Không và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của pháp môn giải thoát Không; hoặc hữu vi, vô vi của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của pháp môn giải thoát Không và cái danh hữu vi, vô vi của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của pháp môn giải thoát Không; hoặc hữu lậu, vô lậu của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của pháp môn giải thoát Không và cái danh hữu lậu, vô lậu của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của pháp môn giải thoát Không; hoặc sinh, diệt của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của pháp môn giải thoát Không và cái danh sinh, diệt của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của pháp môn giải thoát Không; hoặc thiện, chẳng phải thiện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của pháp môn giải thoát Không và cái danh thiện, chẳng phải thiện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của pháp môn giải thoát Không; hoặc hữu tội, vô tội của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của pháp môn giải thoát Không và cái danh hữu tội, vô tội của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của pháp môn giải thoát Không; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của pháp môn giải thoát Không và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp môn giải thoát Không; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của pháp môn giải thoát Không và cái danh thế gian, xuất thế gian của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp môn giải thoát Không; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp môn giải thoát Không và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp môn giải thoát Không; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp môn giải thoát Không và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của pháp môn giải thoát Không; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của pháp môn giải thoát Không và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của pháp môn giải thoát Không; hoặc đạt được, chẳng đạt được của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của pháp môn giải thoát Không và cái danh đạt được, chẳng đạt được của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của pháp môn giải thoát Không là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như pháp môn Đà-la-ni, hoặc pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của pháp môn Đà-la-ni và cái danh của pháp môn Tam-ma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh của pháp môn Tamma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của pháp môn Đà-la-ni; hoặc thường, vô thường của pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của pháp môn Đà-la-ni và cái danh thường, vô thường của pháp môn Tam-mađịa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp môn Đà-lani chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của pháp môn Đà-la-ni; hoặc lạc, hoặc khổ của pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của pháp môn Đà-la-ni và cái danh lạc, khổ của pháp môn Tam-ma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp môn Đàla-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của pháp môn Đà-la-ni; hoặc ngã, vô ngã của pháp môn Tamma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của pháp môn Đà-la-ni và cái danh ngã, vô ngã của pháp môn Tam-ma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của pháp môn Đà-la-ni; hoặc tịnh, bất tịnh của pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của pháp môn Đà-la-ni và cái danh tịnh, bất tịnh của pháp môn Tam-ma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của pháp môn Tamma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của pháp môn Đà-la-ni; hoặc không, bất không của pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của pháp môn Đà-la-ni và cái danh không, bất không của pháp môn Tam-mađịa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của pháp môn Đà-la-ni; hoặc hữu tướng, vô tướng của pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của pháp môn Đà-la-ni và cái danh hữu tướng, vô tướng của pháp môn Tam-mađịa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của pháp môn Đà-la-ni; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của pháp môn Đà-la-ni và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của pháp môn Tam-ma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp môn Đà-la-ni; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp môn Đà-la-ni và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp môn Tam-ma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp môn Tamma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của pháp môn Đà-la-ni; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của pháp môn Đà-la-ni và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của pháp môn Tam-mađịa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của pháp môn Đà-la-ni; hoặc hữu vi, vô vi của pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của pháp môn Đà-la-ni và cái danh hữu vi, vô vi của pháp môn Tam-ma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của pháp môn Đà-la-ni; hoặc hữu lậu, vô lậu của pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của pháp môn Đà-la-ni và cái danh hữu lậu, vô lậu của pháp môn Tam-ma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp môn Đàla-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của pháp môn Đà-la-ni; hoặc sinh, diệt của pháp môn Tam-mađịa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của pháp môn Đà-la-ni và cái danh sinh, diệt của pháp môn Tam-ma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của pháp môn Đà-la-ni; hoặc thiện, chẳng phải thiện của pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của pháp môn Đà-la-ni và cái danh thiện, chẳng phải thiện của pháp môn Tam-ma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của pháp môn Đà-la-ni; hoặc hữu tội, vô tội của pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của pháp môn Đà-la-ni và cái danh hữu tội, vô tội của pháp môn Tam-ma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

QUYỂN 32

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (22)

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của pháp môn Đà-la-ni; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của pháp môn Đà-la-ni và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của pháp môn Tam-ma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của pháp môn Tamma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp môn Đà-la-ni; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của pháp môn Đà-la-ni và cái danh thế gian, xuất thế gian của pháp môn Tam-ma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp môn Đà-la-ni; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp môn Đà-la-ni và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp môn Tamma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp môn Tamma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp môn Đà-la-ni; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp môn Tam-mađịa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp môn Đà-la-ni và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp môn Tam-ma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của pháp môn Đà-la-ni; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của pháp môn Tam-mađịa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của pháp môn Đà-la-ni và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của pháp môn Tam-ma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp môn Đà-la-ni là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh được, chẳng đạt được của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của pháp môn Đà-la-ni; hoặc đạt được, chẳng đạt được của pháp môn Tam-ma-địa, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của pháp môn Đà-la-ni và cái danh đạt được, chẳng đạt được của pháp môn Tam-ma-địa! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của pháp môn Đà-lani là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của pháp môn Tam-ma-địa là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như bậc Cực hỷ, hoặc bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của bậc Cực hỷ và cái danh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của bậc Cực hỷ; hoặc thường, vô thường của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của bậc Cực hỷ và cái danh thường, vô thường của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của bậc Cực hỷ; hoặc lạc, hoặc khổ của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của bậc Cực hỷ và cái danh lạc, khổ của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của bậc Cực hỷ; hoặc ngã, vô ngã của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của bậc Cực hỷ và cái danh ngã, vô ngã của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của bậc Cực hỷ; hoặc tịnh, bất tịnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của bậc Cực hỷ và cái danh tịnh, bất tịnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của bậc Cực hỷ; hoặc không, bất không của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của bậc Cực hỷ và cái danh không, bất không của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của bậc Cực hỷ; hoặc hữu tướng, vô tướng của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của bậc Cực hỷ và cái danh hữu tướng, vô tướng của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của bậc Cực hỷ; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của bậc Cực hỷ và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bậc Cực hỷ; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bậc Cực hỷ và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của bậc Cực hỷ; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của bậc Cực hỷ và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của bậc Cực hỷ; hoặc hữu vi, vô vi của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của bậc Cực hỷ và cái danh hữu vi, vô vi của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của bậc Cực hỷ; hoặc hữu lậu, vô lậu của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của bậc Cực hỷ và cái danh hữu lậu, vô lậu của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của bậc Cực hỷ; hoặc sinh, diệt của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của bậc Cực hỷ và cái danh sinh, diệt của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của bậc Cực hỷ; hoặc thiện, chẳng phải thiện của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của bậc Cực hỷ và cái danh thiện, chẳng phải thiện của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của bậc Cực hỷ; hoặc hữu tội, vô tội của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của bậc Cực hỷ và cái danh hữu tội, vô tội của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của bậc Cực hỷ; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của bậc Cực hỷ và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của bậc Cực hỷ; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của bậc Cực hỷ và cái danh thế gian, xuất thế gian của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của bậc Cực hỷ; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của bậc Cực hỷ và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của bậc Cực hỷ; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của bậc Cực hỷ và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của bậc Cực hỷ; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của bậc Cực hỷ và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của bậc Cực hỷ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh được, chẳng đạt được của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của bậc Cực hỷ; hoặc đạt được, chẳng đạt được của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của bậc Cực hỷ và cái danh đạt được, chẳng đạt được của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của bậc Cực hỷ là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như năm loại mắt, hoặc sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của năm loại mắt và cái danh của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của năm loại mắt; hoặc thường, vô thường của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của năm loại mắt và cái danh thường, vô thường của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của năm loại mắt; hoặc lạc, hoặc khổ của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của năm loại mắt và cái danh lạc, khổ của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của năm loại mắt; hoặc ngã, vô ngã của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của năm loại mắt và cái danh ngã, vô ngã của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của năm loại mắt; hoặc tịnh, bất tịnh của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của năm loại mắt và cái danh tịnh, bất tịnh của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của năm loại mắt; hoặc không, bất không của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của năm loại mắt và cái danh không, bất không của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của năm loại mắt; hoặc hữu tướng, vô tướng của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của năm loại mắt và cái danh hữu tướng, vô tướng của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của năm loại mắt; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của năm loại mắt và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của năm loại mắt; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của năm loại mắt và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của năm loại mắt; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của năm loại mắt và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của năm loại mắt; hoặc hữu vi, vô vi của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của năm loại mắt và cái danh hữu vi, vô vi của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của năm loại mắt; hoặc hữu lậu, vô lậu của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của năm loại mắt và cái danh hữu lậu, vô lậu của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của năm loại mắt; hoặc sinh, diệt của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của năm loại mắt và cái danh sinh, diệt của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của năm loại mắt; hoặc thiện, chẳng phải thiện của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của sắc xứ và cái danh thiện, chẳng phải thiện của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của năm loại mắt; hoặc hữu tội, vô tội của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của năm loại mắt và cái danh hữu tội, vô tội của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của năm loại mắt; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của năm loại mắt và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của năm loại mắt; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của năm loại mắt và cái danh thế gian, xuất thế gian của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của năm loại mắt; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của năm loại mắt và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát. –Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của năm loại mắt; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của năm loại mắt và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của năm loại mắt; hoặc ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của năm loại mắt và cái danh ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ở ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của năm loại mắt chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh được, chẳng đạt được của sáu phép thần thông chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của năm loại mắt; hoặc đạt được, chẳng đạt được của sáu phép thần thông, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của năm loại mắt và cái danh đạt được, chẳng đạt được của sáu phép thần thông! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của năm loại mắt là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của sáu phép thần thông là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh nơi mười lực của Phật và cái danh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường nơi mười lực của Phật; hoặc thường, vô thường của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường nơi mười lực của Phật và cái danh thường, vô thường của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ nơi mười lực của Phật; hoặc lạc, hoặc khổ của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ nơi mười lực của Phật và cái danh lạc, khổ của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã nơi mười lực của Phật; hoặc ngã, vô ngã của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã nơi mười lực của Phật và cái danh ngã, vô ngã của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh nơi mười lực của Phật; hoặc tịnh, bất tịnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh nơi mười lực của Phật và cái danh tịnh, bất tịnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không nơi mười lực của Phật; hoặc không, bất không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không nơi mười lực của Phật và cái danh không, bất không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng nơi mười lực của Phật; hoặc hữu tướng, vô tướng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng nơi mười lực của Phật và cái danh hữu tướng, vô tướng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

QUYỂN 33

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (23)

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện nơi mười lực của Phật; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện nơi mười lực của Phật và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát? –Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh nơi mười lực của Phật; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh nơi mười lực của Phật và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa nơi mười lực của Phật; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa nơi mười lực của Phật và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi nơi mười lực của Phật; hoặc hữu vi, vô vi của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi nơi mười lực của Phật và cái danh hữu vi, vô vi của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu nơi mười lực của Phật; hoặc hữu lậu, vô lậu của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu nơi mười lực của Phật và cái danh hữu lậu, vô lậu của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt nơi mười lực của Phật; hoặc sinh, diệt của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt nơi mười lực của Phật và cái danh sinh, diệt của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện nơi mười lực của Phật; hoặc thiện, chẳng phải thiện của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện nơi mười lực của Phật và cái danh thiện, chẳng phải thiện của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội nơi mười lực của Phật; hoặc hữu tội, vô tội của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội nơi mười lực của Phật và cái danh hữu tội, vô tội của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát. –Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não nơi mười lực của Phật; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não nơi mười lực của Phật và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian nơi mười lực của Phật; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian nơi mười lực của Phật và cái danh thế gian, xuất thế gian của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh nơi mười lực của Phật; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh nơi mười lực của Phật và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn nơi mười lực của Phật; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn nơi mười lực của Phật và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài nơi mười lực của Phật; hoặc ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài nơi mười lực của Phật và cái danh ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được nơi mười lực của Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được nơi mười lực của Phật; hoặc đạt được, chẳng đạt được của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được nơi mười lực của Phật và cái danh đạt được, chẳng đạt được của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được nơi mười lực của Phật là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như đại Từ, hoặc đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của đại Từ; hoặc thường, vô thường của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của đại Từ và cái danh thường, vô thường của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của đại Từ; hoặc lạc, hoặc khổ của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của đại Từ và cái danh lạc, khổ của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của đại Từ; hoặc ngã, vô ngã của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của đại Từ và cái danh ngã, vô ngã của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của đại Từ; hoặc tịnh, bất tịnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của đại Từ và cái danh tịnh, bất tịnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của đại Từ; hoặc không, bất không của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của đại Từ và cái danh không, bất không của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của đại Từ; hoặc hữu tướng, vô tướng của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của đại Từ và cái danh hữu tướng, vô tướng của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của đại Từ; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của đại Từ và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của đại Từ; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của đại Từ và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của đại Từ; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của đại Từ và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của đại Từ; hoặc hữu vi, vô vi của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của đại Từ và cái danh hữu vi, vô vi của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của đại Từ; hoặc hữu lậu, vô lậu của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của đại Từ và cái danh hữu lậu, vô lậu của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của đại Từ; hoặc sinh, diệt của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của đại Từ và cái danh sinh, diệt của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của đại Từ; hoặc thiện, chẳng phải thiện của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của đại Từ và cái danh thiện, chẳng phải thiện của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của đại Từ; hoặc hữu tội, vô tội của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của đại Từ và cái danh hữu tội, vô tội của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của đại Từ; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của đại Từ và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của đại Từ; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của đại Từ và cái danh thế gian, xuất thế gian của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của đại Từ; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của sắc xứ và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của đại Từ; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của đại Từ và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của đại Từ; hoặc ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của đại Từ và cái danh ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của đại Từ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của đại Từ; hoặc đạt được, chẳng đạt được của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của đại Từ và cái danh đạt được, chẳng đạt được của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của đại Từ là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như ba mươi hai tướng Đại sĩ, hoặc tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc thường, vô thường của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh thường, vô thường của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc lạc, hoặc khổ của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh lạc, khổ của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc ngã, vô ngã của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh ngã, vô ngã của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc tịnh, bất tịnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh tịnh, bất tịnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc không, bất không của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh không, bất không của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc hữu tướng, vô tướng của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc hãy còn chẳng thể nắm bắt được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh hữu tướng, vô tướng của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc hữu vi, vô vi của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh hữu vi, vô vi của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc hữu lậu, vô lậu của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh hữu lậu, vô lậu của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc sinh, diệt của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh sinh, diệt của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc thiện, chẳng phải thiện của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh thiện, chẳng phải thiện của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc hữu tội, vô tội của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh hữu tội, vô tội của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

QUYỂN 34

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (24)

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh thế gian, xuất thế gian của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niếtbàn của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là

Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của tám mươi vẻ đẹp kèm theo chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của ba mươi hai tướng Đại sĩ; hoặc đạt được, chẳng đạt được của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của ba mươi hai tướng Đại sĩ và cái danh đạt được, chẳng đạt được của tám mươi vẻ đẹp kèm theo! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của ba mươi hai tướng Đại sĩ là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của tám mươi vẻ đẹp kèm theo là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của pháp không quên mất và cái danh của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của pháp không quên mất; hoặc thường, vô thường của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của pháp không quên mất và cái danh thường, vô thường của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của pháp không quên mất; hoặc lạc, hoặc khổ của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của pháp không quên mất và cái danh lạc, khổ của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của pháp không quên mất; hoặc ngã, vô ngã của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của pháp không quên mất và cái danh ngã, vô ngã của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của pháp không quên mất; hoặc tịnh, bất tịnh của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của pháp không quên mất và cái danh tịnh, bất tịnh của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của pháp không quên mất; hoặc không, bất không của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của pháp không quên mất và cái danh không, bất không của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của pháp không quên mất; hoặc hữu tướng, vô tướng của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của pháp không quên mất và cái danh hữu tướng, vô tướng của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của pháp không quên mất; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của pháp không quên mất và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp không quên mất; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp không quên mất và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của pháp không quên mất; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của pháp không quên mất và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của pháp không quên mất; hoặc hữu vi, vô vi của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của pháp không quên mất và cái danh hữu vi, vô vi của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của pháp không quên mất; hoặc hữu lậu, vô lậu của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của pháp không quên mất và cái danh hữu lậu, vô lậu của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của pháp không quên mất; hoặc sinh, diệt của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của pháp không quên mất và cái danh sinh, diệt của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của pháp không quên mất; hoặc thiện, chẳng phải thiện của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của pháp không quên mất và cái danh thiện, chẳng phải thiện của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của pháp không quên mất; hoặc hữu tội, vô tội của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của pháp không quên mất và cái danh hữu tội, vô tội của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của pháp không quên mất; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của pháp không quên mất và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp không quên mất; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của pháp không quên mất và cái danh thế gian, xuất thế gian của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp không quên mất; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của pháp không quên mất và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp không quên mất; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của pháp không quên mất và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của pháp không quên mất; hoặc ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của pháp không quên mất và cái danh ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của pháp không quên mất chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của tánh luôn luôn xả chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của pháp không quên mất; hoặc đạt được, chẳng đạt được của tánh luôn luôn xả, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của pháp không quên mất và cái danh đạt được, chẳng đạt được của tánh luôn luôn xả! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của pháp không quên mất là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của tánh luôn luôn xả là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, như trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của trí Nhất thiết; hoặc thường, vô thường của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của trí Nhất thiết và cái danh thường, vô thường của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của trí Nhất thiết; hoặc lạc, hoặc khổ của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của trí Nhất thiết và cái danh lạc, khổ của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của trí Nhất thiết; hoặc ngã, vô ngã của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của trí Nhất thiết và cái danh ngã, vô ngã của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của trí Nhất thiết; hoặc tịnh, bất tịnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của trí Nhất thiết và cái danh tịnh, bất tịnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của trí Nhất thiết; hoặc không, bất không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của trí Nhất thiết và cái danh không, bất không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của trí Nhất thiết; hoặc hữu tướng, vô tướng của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của trí Nhất thiết và cái danh hữu tướng, vô tướng của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của trí Nhất thiết; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của trí Nhất thiết và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của trí Nhất thiết; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của trí Nhất thiết và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của trí Nhất thiết; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của trí Nhất thiết và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của trí Nhất thiết; hoặc hữu vi, vô vi của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của trí Nhất thiết và cái danh hữu vi, vô vi của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của trí Nhất thiết; hoặc hữu lậu, vô lậu của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của trí Nhất thiết và cái danh hữu lậu, vô lậu của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của trí Nhất thiết; hoặc sinh, diệt của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của trí Nhất thiết và cái danh sinh, diệt của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của trí Nhất thiết; hoặc thiện, chẳng phải thiện của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của trí Nhất thiết và cái danh thiện, chẳng phải thiện của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính ái danh hữu tội, hoặc vô tội của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của trí Nhất thiết; hoặc hữu tội, vô tội của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của trí Nhất thiết và cái danh hữu tội, vô tội của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của trí Nhất thiết; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của trí Nhất thiết và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của trí Nhất thiết; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của trí Nhất thiết và cái danh thế gian, xuất thế gian của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của trí Nhất thiết; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của trí Nhất thiết và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của trí Nhất thiết; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của trí Nhất thiết và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của trí Nhất thiết; hoặc ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của trí Nhất thiết và cái danh ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của trí Nhất thiết chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của trí Nhất thiết; hoặc đạt được, chẳng đạt được của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của trí Nhất thiết và cái danh đạt được, chẳng đạt được của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của trí Nhất thiết là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

− Bạch Thế Tôn, như quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thường, vô thường của quả Dự lưu; hoặc thường, vô thường của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của quả Dự lưu, cái danh thường, vô thường của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh thường, vô thường của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như lạc, hoặc khổ của quả Dự lưu; hoặc lạc, hoặc khổ của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của quả Dự lưu và cái danh lạc, khổ của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh lạc hoặc khổ của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ngã, vô ngã của quả Dự lưu; hoặc ngã, vô ngã của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của quả Dự lưu và cái danh ngã, vô ngã của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

QUYỂN 35

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (25)

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịnh, bất tịnh của quả Dự lưu; hoặc tịnh, bất tịnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của quả Dự lưu và cái danh tịnh, bất tịnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như không, bất không của quả Dự lưu; hoặc không, bất không của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của quả Dự lưu và cái danh không, bất không của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh không, hoặc bất không của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tướng, vô tướng của quả Dự lưu; hoặc hữu tướng, vô tướng của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của quả Dự lưu và cái danh hữu tướng, vô tướng của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu nguyện, vô nguyện của quả Dự lưu; hoặc hữu nguyện, vô nguyện của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của quả Dự lưu và cái danh hữu nguyện, vô nguyện của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của quả Dự lưu; hoặc tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của quả Dự lưu và cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như xa lìa, chẳng xa lìa của quả Dự lưu; hoặc xa lìa, chẳng xa lìa của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của quả Dự lưu và cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu vi, vô vi của quả Dự lưu; hoặc hữu vi, vô vi của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của quả Dự lưu và cái danh hữu vi, vô vi của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu lậu, vô lậu của quả Dự lưu; hoặc hữu lậu, vô lậu của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của quả Dự lưu và cái danh hữu lậu, vô lậu của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như sinh, diệt của quả Dự lưu; hoặc sinh, diệt của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của quả Dự lưu và cái danh sinh, diệt của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh sinh, hoặc diệt của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thiện, chẳng phải thiện của quả Dự lưu; hoặc thiện, chẳng phải thiện của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của quả Dự lưu và cái danh thiện, chẳng phải thiện của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu tội, vô tội của quả Dự lưu; hoặc hữu tội, vô tội của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của quả Dự lưu và cái danh hữu tội, vô tội của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như hữu phiền não, vô phiền não của quả Dự lưu; hoặc hữu phiền não, vô phiền não của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của quả Dự lưu và cái danh hữu phiền não, vô phiền não của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thế gian, hoặc xuất thế gian của quả Dự lưu; hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của quả Dự lưu và cái danh thế gian, xuất thế gian của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như tạp nhiễm, thanh tịnh của quả Dự lưu; hoặc tạp nhiễm, thanh tịnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của quả Dự lưu và cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như thuộc về sinh tử, thuộc về

Niết-bàn của quả Dự lưu; hoặc thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của quả Dự lưu và cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của quả Dự lưu; hoặc ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của quả Dự lưu và cái danh ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của quả Dự lưu chẳng phải là Đại Bồ-tát; chính cái đạt được, chẳng đạt được của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, như đạt được, chẳng đạt được của quả Dự lưu; hoặc đạt được, chẳng đạt được của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của quả Dự lưu và cái danh đạt được, chẳng đạt được của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của quả Dự lưu là Đại Bồ-tát; chính cái danh đạt được, chẳng đạt được của các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của quả vị Độc giác! Danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, thường, vô thường của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, lạc, hoặc khổ của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, ngã, vô ngã nơi quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, tịnh, bất tịnh của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, không, bất không của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, vô tướng của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu tướng, vô tướng của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu nguyện, vô nguyện của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, xa lìa, chẳng xa lìa của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu vi, vô vi của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu lậu, vô lậu của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, sinh, diệt của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, thiện, chẳng phải thiện của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu tội, vô tội của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu phiền não, vô phiền não của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, thế gian, hoặc xuất thế gian của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, tạp nhiễm, thanh tịnh của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của quả vị Độc giác chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Bạch Thế Tôn, đạt được, chẳng đạt được của quả vị Độc giác, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của quả vị Độc giác! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của quả vị Độc giác là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, thường, vô thường của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, lạc, hoặc khổ của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, ngã, vô ngã tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, tịnh, bất tịnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, không, bất không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu tướng, vô tướng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu nguyện, vô nguyện của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, xa lìa, chẳng xa lìa của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu vi, vô vi của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu lậu, vô lậu của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, sinh, diệt của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, thiện, chẳng phải thiện của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu tội, vô tội của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu phiền não, vô phiền não của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, thế gian, hoặc xuất thế gian của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, tạp nhiễm, thanh tịnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, ở trong, ở ngoài, ở cả trong ngoài của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, đạt được, chẳng đạt được của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được của tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là Đại Bồ-tát.

–Lại nữa Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Bạch Thế Tôn, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thường, vô thường nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, thường, vô thường nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thường, vô thường nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thường, vô thường nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh lạc hoặc khổ nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, lạc, hoặc khổ nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh lạc, khổ nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh lạc hoặc khổ nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, ngã, vô ngã quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ngã, vô ngã nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ngã, hoặc vô ngã nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, tịnh, bất tịnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịnh, bất tịnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịnh, hoặc bất tịnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh không, hoặc bất không nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, không, bất không nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh không, bất không nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh không, hoặc bất không nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu tướng, vô tướng nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tướng, vô tướng nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tướng, hoặc vô tướng nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu nguyện, vô nguyện nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu nguyện, vô nguyện nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu nguyện, hoặc vô nguyện nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, xa lìa, chẳng xa lìa nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh xa lìa, chẳng xa lìa nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh xa lìa, hoặc chẳng xa lìa nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

QUYỂN 36

PHẨM 7: DẠY BẢO TRAO TRUYỀN (26)

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu vi, vô vi nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu vi, vô vi nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu lậu, vô lậu nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu lậu, vô lậu nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu lậu, hoặc vô lậu nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh sinh, hoặc diệt nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, sinh, diệt nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh sinh, diệt nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh sinh, hoặc diệt nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, thiện, chẳng phải thiện nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thiện, chẳng phải thiện nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thiện, hoặc chẳng phải thiện nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu tội, vô tội nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu tội, vô tội nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh hữu phiền não, vô phiền não nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, hữu phiền não, vô phiền não nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh hữu phiền não, vô phiền não nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, thế gian, hoặc xuất thế gian nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thế gian, xuất thế gian nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thế gian, hoặc xuất thế gian nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, tạp nhiễm, thanh tịnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh thuộc về sinh tử, thuộc về Niết-bàn nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh thuộc về sinh tử, hoặc thuộc về Niết-bàn nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh ở trong, ngoài, ở cả trong ngoài nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh ở trong, ngoài, hoặc ở cả trong ngoài nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Thiện Hiện, ông quán nơi nghĩa nào mà nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ-tát?

–Bạch Thế Tôn, đạt được, chẳng đạt được nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt cuộc không thể được, vì tánh của chúng chẳng có, huống chi có cái danh đạt được, chẳng đạt được nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Các danh này đã chẳng có, làm sao có thể nói chính cái danh đạt được, hoặc chẳng đạt được nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ-tát.

–Bạch Thế Tôn, sắc... các pháp và danh; các pháp thường, vô thường... kia, đã không thể được, mà nói là cái danh của sắc... các pháp và cái danh nơi các pháp thường, vô thường... của sắc là Đại Bồ-tát, là điều không có được.

Phật bảo Thiện Hiện:

−Hay thay, hay thay! Đúng vậy, đúng vậy, như ông đã nói! Thiện Hiện, vì sắc... các pháp và các pháp thường, vô thường... kia không thể được, nên cái danh của sắc... các pháp, cái danh các pháp thường, vô thường... kia cũng không thể được; vì pháp và danh không thể được, nên Đại Bồ-tát cũng không thể được; vì Đại Bồ-tát không thể được, nên việc thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không thể được.

Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên học như vậy!

Lại nữa Thiện Hiện, trước đây, ông đã nói con không thấy có pháp nào có thể gọi là Đại Bồ-tát. Đúng vậy, đúng vậy, như ông đã nói! Thiện Hiện, các pháp không thấy các pháp; các pháp không thấy pháp giới; pháp giới không thấy các pháp; pháp giới không thấy pháp giới. Thiện Hiện, pháp giới không thấy sắc giới; sắc giới không thấy pháp giới; pháp giới không thấy thọ, tưởng, hành, thức giới; thọ, tưởng, hành, thức giới không thấy pháp giới.

Thiện Hiện, pháp giới không thấy nhãn xứ giới; nhãn xứ giới không thấy pháp giới; pháp giới không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy sắc xứ giới; sắc xứ giới không thấy pháp giới; pháp giới không thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ giới; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ giới không thấy pháp giới.

Thiện Hiện, pháp giới không thấy nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới; nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới không thấy pháp giới; pháp giới không thấy nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới; nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới không thấy pháp giới; pháp giới không thấy tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy thân giới, xúc giới, thân thức giới; thân giới, xúc giới, thân thức giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy ý giới, pháp giới, ý thức giới; ý giới, pháp giới, ý thức giới không thấy pháp giới.

Thiện Hiện, pháp giới không thấy địa giới; địa giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thấy pháp giới.

Thiện Hiện, pháp giới không thấy Thánh đế khổ giới; Thánh đế khổ giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy Thánh đế tập, diệt, đạo giới; Thánh đế tập, diệt, đạo giới không thấy pháp giới. Thiện Hiện, pháp giới không thấy vô minh giới; vô minh giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não giới; hành... cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu não giới không thấy pháp giới.

Thiện Hiện, pháp giới không thấy dục giới; dục giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy sắc, vô sắc giới; sắc, vô sắc giới không thấy pháp giới.

Thiện Hiện, hữu vi giới không thấy vô vi giới; vô vi giới không thấy hữu vi giới. Vì sao thế? Thiện Hiện, vì không xa lìa hữu vi mà thiết lập vô vi; chẳng xa lìa vô vi mà thiết lập hữu vi.

Thiện Hiện, như vậy khi Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp, đều không có cái thấy. Khi đối với tất cả các pháp, không có cái thấy, thì tâm chẳng kinh hoàng, hãi hùng, sợ sệt; đối với tất cả pháp, tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng hề lo âu hối hận. Vì sao thế? Vì khi Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không thấy nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; không thấy sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; không thấy nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới; không thấy nhĩ, thanh, nhĩ thức giới; không thấy tỷ, hương, tỷ thức giới; không thấy thiệt, vị, thiệt thức giới; không thấy thân, xúc, thân thức giới; không thấy ý, pháp, ý thức giới; không thấy địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới; không thấy Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; không thấy vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; không thấy dục giới; không thấy sắc, vô sắc giới; không thấy hữu vi, vô vi; không thấy tham, sân, si, dứt bỏ tham, sân, si; không thấy ngã, các loài hữu tình, người sống, người sinh, người nuôi, cái ta, thân do ý sinh, tuổi trẻ, người làm, người sai làm, người nhận lãnh, người khiến nhận lãnh, người biết, người… thấy; không thấy Thanh văn, pháp Thanh văn; không thấy Độc giác, pháp Độc giác; không thấy Bồ-tát, pháp Bồ-tát; không thấy Phật, pháp Phật; không thấy quả vị Giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện, như vậy Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp đều không thấy; khi đối với tất cả pháp đều không thấy thì tâm chẳng kinh hoàng, hãi hùng, sợ sệt; đối với tất cả pháp, tâm chẳng chìm đắm, lo âu, hối hận.

Trưởng lão Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, tâm chẳng chìm đắm, lo âu, hối hận?

Phật dạy:

−Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả tâm, tâm sở pháp không đắc, không thấy. Do nhân duyên này, nên Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, tâm chẳng chìm đắm, lo âu, hối hận.

Trưởng lão Thiện Hiện bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, tâm chẳng kinh hoàng, hãi hùng, sợ sệt?

Phật dạy:

−Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả ý giới, ý thức giới không đắc, không thấy. Vì vậy nên Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp, tâm chẳng kinh hoàng, hãi hùng, sợ sệt.

Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát, đối với tất cả pháp đều không có cái được, nên hành trì thuận hợp Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với tất cả xứ, chẳng đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng đắc cái danh Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng đắc Bồ-tát, chẳng đắc cái danh Bồ-tát, chẳng đắc tâm Bồ-tát.

Thiện Hiện, nên dạy bảo, trao truyền như vậy cho các Đại Bồ-tát, khiến họ tu học Bát-nhã ba-lamật-đa một cách rốt ráo.


Trước

[Đầu trang][Mục lục Kinh Đại Bát Nhã]

Tiếp theo


[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]


[Mục lục tổng quát]