SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
HỘI THỨ I
Phẩm 70: CHẲNG THỂ ĐỘNG
(QUYỂN 386 - 390)
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu các hữu tình và sự nêu bày của hữu tình đều rốt ráo chẳng thể nắm bắt được thì các Đại Bồ-tát vì ai mà tu Bát-nhã ba-la-mậtđa?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát lấy cảnh giới Niết-bàn làm lượng nên tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu cảnh giới hữu tình cùng với cảnh giới Niết-bàn khác nhau thì các Đại Bồtát chẳng nên tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì cảnh giới hữu tình chẳng khác cảnh giới Niết-bàn cho nên Đại Bồ-tát vì hữu tình tu hành Bát-nhã bala-mật-đa.
Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng pháp Niết-bàn chẳng hủy hoại an lập hữu tình ở trong cảnh Niết-bàn.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu cảnh giới hữu tình tức cảnh giới Niết-bàn thì tại sao Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng pháp Niết-bàn chẳng hủy hoại để an lập hữu tình trong cảnh giới Niết-bàn?
Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, an lập hữu tình ở trong cảnh giới Niết-bàn, thì tức là an lập cảnh giới Niết-bàn ở trong cảnh giới Niết-bàn?
Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, an lập cảnh giới Niết-bàn ở trong cảnh giới Niết-bàn, thì tức là an lập tự tánh nơi tự tánh. Nhưng chẳng thể an lập an lập tự tánh nơi tự tánh.
Bạch Thế Tôn, vì sao có thể nói Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng pháp Niết-bàn chẳng hủy hoại để an lập hữu tình ở trong cảnh giới Niết-bàn?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, chẳng thể an lập Niết-bàn nơi Niết-bàn, cũng chẳng thể an lập tự tánh nơi tự tánh. Nhưng các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, với phương tiện thiện xảo có thể an lập hữu tình ở trong cảnh giới Niết-bàn, nhưng cảnh giới hữu tình chẳng khác cảnh giới Niết-bàn.
Này Thiện Hiện, như thế cảnh giới hữu tình cùng với cảnh giới Niết-bàn không hai, không hai phần.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, những gì gọi là phương tiện thiện xảo của các Đại Bồ-tát, khi các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa? Do diệu lực của phương tiện thiện xảo này, nên an lập hữu tình ở trong cảnh giới Niết-bàn nhưng chẳng có thể hủy hoại tướng Niết-bàn?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, từ khi mới phát tâm đã thành tựu phương tiện thiện xảo như thế. Do diệu lực của phương tiện thiện xảo này nên an lập hữu tình ở trong bố thí; đã an lập rồi thì vì họ nêu giảng về bố thí, khoảng trước, sau, giữa không có tướng sai biệt. Nói thế này: Này thiện nam, bố thí như thế, khoảng trước, sau, giữa tất cả đều không. Người thí, kẻ nhận, kết quả của sự bố thí cũng đều không. Như thế, tất cả các sự việc ấy, trong cảnh giới Niếtbàn hoàn toàn không có sở hữu, đều chẳng thể nắm bắt được. Các ngươi chớ chấp nơi bố thí có sự sai khác, kẻ thí, người nhận, kết quả của bố thí, Niếtbàn cũng có sự sai khác. Nếu các ngươi chẳng chấp nơi bố thí: Người thí, kẻ nhận, kết quả của bố thí, Niết-bàn cũng có sự sai khác, thì phước đã tu bố thí sẽ đưa đến giải thoát, đắc quả giải thoát, quyết dùng nẻo giải thoát mà nêu rõ cho đời sau. Lại nói: Này các thiện nam, các ngươi dùng sự tu tập bố thí này; nhưng chớ chấp giữ sắc, chớ chấp giữ thọ, tưởng, hành, thức; chớ chấp giữ nhãn xứ, chớ chấp giữ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chớ chấp giữ sắc xứ, chớ chấp giữ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chớ chấp giữ nhãn giới, chớ chấp giữ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chớ chấp giữ sắc giới, chớ chấp giữ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chớ chấp giữ nhãn thức giới, chớ chấp giữ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chớ chấp giữ nhãn xúc, chớ chấp giữ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chớ chấp giữ các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chớ chấp giữ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; chớ chấp giữ địa giới, chớ chấp giữ thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chớ chấp giữ nhân duyên, chớ chấp giữ đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; chớ chấp giữ các pháp từ duyên sinh ra; chớ chấp giữ vô minh, chớ chấp giữ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; chớ chấp giữ Bố thí ba-la-mật-đa, chớ chấp giữ Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; chớ chấp giữ bốn Tĩnh lự, chớ chấp giữ bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chớ chấp giữ bốn Niệm trụ, chớ chấp giữ bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chớ chấp giữ pháp môn giải thoát Không, chớ chấp giữ pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chớ chấp giữ pháp không bên trong, chớ chấp giữ pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chớ chấp giữ chân như, chớ chấp giữ pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; chớ chấp giữ Thánh đế khổ, chớ chấp giữ Thánh đế tập, diệt, đạo; chớ chấp giữ tám Giải thoát, chớ chấp giữ tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chớ chấp giữ tất cả pháp môn Đà-la-ni, chớ chấp giữ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chớ chấp giữ bậc Cực hỷ, chớ chấp giữ bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chớ chấp giữ năm loại mắt, chớ chấp giữ sáu phép thần thông; chớ chấp giữ mười lực của Phật, chớ chấp giữ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chớ chấp giữ ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, chớ chấp giữ tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; chớ chấp giữ pháp không quên mất, chớ chấp giữ tánh luôn luôn xả; chớ chấp giữ trí Nhất thiết, chớ chấp giữ trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; chớ chấp giữ quả Dự lưu, chớ chấp giữ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; chớ chấp giữ tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chớ chấp giữ quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; chớ chấp giữ pháp thế gian, chớ chấp giữ pháp xuất thế gian; chớ chấp giữ pháp hữu lậu, chớ chấp giữ pháp vô lậu; chớ chấp giữ pháp hữu vi, chớ chấp giữ pháp vô vi. Vì sao vì tất cả sự bố thí và tánh của sự bố thí là không, tất cả người nhận và tánh của người nhận là không tất cả kết quả của bố thí và tánh nơi kết quả của bố thí là không; trong cái không, bố thí chẳng thể nắm bắt được, người thí chẳng thể nắm bắt được, người nhận chẳng thể nắm bắt được, kết quả của bố thí chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì các pháp như thế và các pháp khác tự tánh của chúng đều là rốt ráo không. Trong cái rốt ráo không ấy, các pháp như thế đều chẳng thể nắm bắt được.
Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, từ khi mới phát tâm đã thành tựu phương tiện thiện xảo như thế; do diệu lực của phương tiện thiện xảo ấy nên an lập hữu tình ở trong tịnh giới, đã an lập rồi, nói thế này: Này các thiện nam, nay các ngươi đối với các hữu tình nên hết lòng thương xót, xa lìa sự giết hại, xa lìa việc không cho mà lấy, xa lìa dâm dục, tà hạnh, xa lìa lời nói hư dối, xa lìa lời nói ly gián, xa lìa lời nói thô ác, xa lìa lời nói hỗn tạp, xa lìa tham dục, xa lìa sân hận, xa lìa tà kiến. Vì sao? Này thiện nam, vì các pháp như thế hoàn toàn không có tự tánh. Các ngươi chẳng nên phân biệt chấp trước. Các ngươi lại nên quán sát kỹ pháp nào là sinh mà muốn dứt bỏ mạng nó? Lại vì duyên cớ gì mà dứt mạng ấy? Pháp nào gọi là vật không cho mà lấy mà muốn lấy vật ấy? Lại vì duyên cớ gì mà lấy vật ấy? Pháp nào gọi là đối tượng hành tà mà muốn hành tà hạnh? Lại vì duyên cớ gì mà hành tà hạnh? Pháp nào gọi là đối tượng nên nói hư dối mà muốn nói hư dối? Lại vì duyên cớ gì mà nói hư dối? Pháp nào gọi là đối tượng nên ly gián mà muốn ly gián? Lại vì duyên cớ gì mà nói lời nói ly gián? Pháp nào gọi là đối tượng nên hủy nhục mà muốn hành hủy nhục? Lại vì duyên cớ gì mà nói lời thô ác? Pháp nào gọi là các sự hỗn tạp mà muốn nói lời hỗn tạp? Lại vì duyên cớ gì mà nói lời hỗn tạp? Pháp nào gọi là vật nên tham mà muốn khởi lòng tham muốn? Lại vì duyên cớ gì mà khởi tham muốn? Pháp nào gọi là đối tượng nên sân mà muốn khởi sân? Lại vì duyên cớ gì mà khởi giận dữ? Pháp nào gọi là đối tượng tà kiến mà muốn khởi tà kiến? Lại vì duyên cớ gì mà khởi tà kiến? Tất cả các pháp như thế tự tánh đều là không.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, có khả năng khéo đem lại sự thành tựu cho các loài hữu tình, vì họ mà nói quả bố thí và tịnh giới, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, khiến họ biết quả bố thí và tịnh giới tự tánh đều là không. Khi họ đã hiểu rõ quả của sự tu bố thí và tịnh giới tự tánh đều là không rồi thì có thể đối với pháp ấy chẳng sinh chấp trước; do chẳng chấp trước nên tâm không tán loạn; do tâm không tán loạn có thể phát sinh diệu tuệ; do diệu tuệ này nên đoạn trừ vĩnh viễn tùy miên và các thứ phiền não trói buộc, hội nhập cảnh giới Niết-bàn tuyệt đối.
Này Thiện Hiện, như vậy là nương vào thế tục mà nói, chẳng dựa vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong không, không có một pháp nhỏ nào có thể nắm bắt được, hoặc đã hội nhập Niết-bàn, hoặc sẽ hội nhập Niết-bàn, hoặc người hội nhập Niết-bàn, hoặc do đó mà được hội nhập Niết-bàn, tất cả như thế hoàn toàn không có sở hữu, đều rốt ráo không; tánh không rốt ráo ấy tức là Niết-bàn, lìa Niết-bàn này thì không có một pháp riêng biệt nào.
Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, từ khi mới phát tâm, đã thành tựu phương tiện thiện xảo như thế; do diệu lực của phương tiện thiện xảo ấy, nhận thấy các hữu tình tâm thường dấy khởi nhiều sân hận, nên vô cùng thương xót dùng các phương tiện chỉ dạy nói thế này: Này các thiện nam, nên tu an nhẫn, ưa thích pháp an nhẫn, chế ngự tâm mình, thọ hạnh an nhẫn. Việc làm cho người giận tự tánh là không thì tại sao đối với nó lại phát khởi giận dữ? Các ngươi lại nên quán sát kỹ càng vì đâu mà mình nổi giận? Ai sân hận? Sân hận đối với ai? Các pháp ấy bản tánh đều là không; pháp bản tánh không đó chưa từng chẳng không; tánh không như thế chẳng phải Như Lai tạo ra, chẳng phải hàng Độc giác tạo ra, cũng chẳng phải do Trời, Rồng, chư Thần, Dượcxoa, Càn-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-đồ, Khẩnnại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, Nhân phi nhân tạo ra, cũng chẳng phải do chúng trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại tạo ra; cũng chẳng phải do trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm tạo ra; cũng chẳng phải do trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh tạo ra; cũng chẳng phải do trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh tạo ra; cũng chẳng phải do trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả tạo ra; cũng chẳng phải do trời Vô tưởng, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh tạo ra; cũng chẳng phải do trời Không vô biên xứ, trời Thức vô biên xứ, trời Vô sở hữu xứ, trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ tạo ra. Các ngươi lại nên quán sát như thật về sân giận ấy do đâu mà sinh, thuộc về ai? Hiện được lợi ích gì? Tất cả pháp như thế bản tánh đều là không, chẳng phải trong tánh không ấy có thể có sân hận cho nên cần phải an nhẫn để đem lại lợi ích cho mình.
Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, với phương tiện thiện xảo, an lập hữu tình ở nơi lý của tánh không, nhân quả của tánh không, dần dần đem quả vị Giác ngộ cao tột chỉ bày, khuyến khích, dẫn dắt, ngợi khen, chúc mừng, khiến họ khéo an trú, mau có thể chứng đắc. Này Thiện Hiện, như thế là nương vào thế tục mà nói, chẳng dựa vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong bản tánh của không, chủ thể chứng đắc, đối tượng được chứng đắc, nơi chốn, thời gian chứng đắc, tất cả đều chẳng phải có.
Này Thiện Hiện, đó gọi là thật tế, là lý của bản tánh không; các Đại Bồ-tát vì muốn đem lại lợi ích cho các hữu tình, nên nương vào thật tế, vào lý của bản tánh không này, khi tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, chẳng nắm bắt được hữu tình, lại cũng chẳng nắm bắt được sự nêu bày về hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tất cả pháp đều lìa hữu tình.
Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, từ khi mới phát tâm đã thành tựu phương tiện thiện xảo như thế; do diệu lực của phương tiện thiện xảo ấy, thấy các hữu tình thân tâm thường biếng trễ, mất hết tinh tấn, nên dùng phương tiện khuyên bảo, dẫn dắt, khiến họ thân tâm phát khởi tinh tấn, tu các pháp thiện, nói thế này: Này các thiện nam, trong bản tánh không, không có pháp biếng trễ, không có người biếng trễ, không có chỗ biếng trễ, không có lúc biếng trễ, không có do việc này mà phát sinh biếng trễ, tất cả các pháp ấy đều là bản tánh không, chẳng vượt lý không. Các ngươi nên phát khởi tinh tấn cả nơi thân tâm, bỏ các thứ biếng trễ, dốc tu pháp thiện, đó là tu Bố thí ba-la-mật-đa, hoặc tu Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; hoặc tu bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; hoặc tu bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; hoặc tu pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; hoặc an trú nơi pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc an trú nơi chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; hoặc an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; hoặc tu tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; hoặc tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc tu bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; hoặc tu năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc tu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc tu đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; hoặc tu ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; hoặc tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc tu trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; hoặc tu tất cả các pháp Phật khác, trong khi tu tập chớ sinh, nếu sinh thì phải chịu khổ não vô cùng. Này các thiện nam, tất cả pháp ấy bản tánh đều là không, không có các chướng ngại. Các ngươi nên quán về lý của bản tánh không, trong cái không chướng ngại ấy, không có việc biếng trễ, không có người biếng trễ, nơi chốn, thời gian, nhân duyên của việc này cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, như thế các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa với phương tiện thiện xảo, an lập hữu tình, khiến họ an trú nơi lý của bản tánh không nơi các pháp; tuy khiến họ an trú nhưng không có hai tưởng. Vì sao? Vì lý của bản tánh không là không hai, không hai phần, chẳng phải đối với pháp không hai ấy có thể dấy khởi hai tưởng.
Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nương vào bản tánh không, để chỉ dạy trao truyền cho các loài hữu tình, khiến họ siêng năng tinh tấn, nói thế này:
–Này các thiện nam, đối với pháp thiện, ngươi phải siêng năng tinh tấn, như khi tu Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa thì đối với các pháp này chớ tư duy về hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thì đối với các pháp này chớ tư duy về hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo thì đối với các pháp này chớ tư duy về hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện thì đối với các pháp này chớ tư duy về hai và chẳng hai tướng. Nếu khi an trú nơi pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thì đối với các pháp này chớ tư duy về hai và chẳng hai tướng. Nếu khi an trú nơi chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thì đối với các pháp này chớ tư duy về hai và chẳng hai tướng. Nếu khi an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo thì đối với các pháp này chớ tư duy về hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ thì đối với các pháp này chớ tư duy về hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì đối với các pháp này chớ tư duy về hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân thì đối với các pháp này chớ tư duy về hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu năm loại mắt, sáu phép thần thông thì đối với các pháp này chớ tư duy về hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng thì đối với các pháp này chớ tư duy về hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả thì đối với các pháp này chớ tư duy về hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc thì đối với các pháp này chớ tư duy về hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả thì đối với các pháp này chớ tư duy về hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thì đối với các pháp này chớ tư duy về hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu tất cả các pháp Phật khác thì đối với các pháp này cũng chẳng nên tư duy về hai và chẳng hai tướng. Vì sao? Này thiện nam, các pháp như thế đều là bản tánh không, lý của bản tánh không ấy là chẳng nên tư duy về hai và chẳng hai.
Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, với phương tiện thiện xảo hành hạnh Bồ-tát đem lại sự thành tựu cho các hữu tình. Các loài hữu tình đã thành tựu đầy đủ rồi, thì tùy theo căn cơ của chúng, lần lượt an lập, hoặc khiến trụ nơi quả Dự lưu, hoặc khiến trụ nơi quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, hoặc khiến trụ nơi bậc Đại Bồ-tát, hoặc nơi quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, từ khi mới phát tâm đã thành tựu được phương tiện thiện xảo như thế; do diệu lực của phương tiện thiện xảo ấy, nhận thấy các hữu tình, tâm nhiều loạn động, đối với các cảnh dục chẳng có thể tĩnh lặng, nên dùng phương tiện khiến họ nhập Tam-ma-địa thù thắng, bảo họ thế này: Hãy đến đây, các thiện nam, ngươi nên tu tập Tam-ma-địa thù thắng, chớ khởi tán loạn và tưởng về pháp đẳng trì. Vì sao? Này các thiện nam, vì tất cả pháp ấy đều là bản tánh không; trong bản tánh không ấy không có pháp nào có thể nắm bắt, có thể gọi là tán loạn hay là nhất tâm. Nếu các ngươi có thể an trú nơi định thù thắng này thì việc thiện mà mình làm đều mau thành tựu tốt đẹp, cũng tùy theo ý muốn, an trú nơi bản tánh không. Thế nào gọi là việc thiện mà mình làm? Đó là khởi nghiệp nơi thân, ngữ, ý thanh tịnh thù thắng, hoặc tu Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa; hoặc tu bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; hoặc tu bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; hoặc tu pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; hoặc an trú nơi pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc an trú nơi chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; hoặc an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; hoặc tu tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; hoặc tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; hoặc hướng đến Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát; hoặc tu các Địa của Đại Bồ-tát; hoặc tu năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc tu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc tu đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; hoặc tu ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; hoặc tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc tu trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; hoặc tu đạo Thanh văn, đạo Độc giác, đạo Bồ-tát, đạo Như Lai; hoặc tu quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác và quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; hoặc đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, hoặc làm nghiêm tịnh cõi Phật. Tất cả pháp thiện thanh tịnh thù thắng như thế, do diệu lực từ pháp định thù thắng nên đều mau thành tựu và tùy theo sở nguyện, an trú nơi bản tánh không.
Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, với phương tiện thiện xảo, vì muốn đem lại lợi ích cho các hữu tình, nên từ khi mới phát tâm cho đến lúc đạt được cứu cánh, luôn dốc làm việc thiện lợi, thường không gián đoạn; vì muốn đem lại lợi ích cho các hữu tình nên từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn; ở chỗ các Đức Phật ấy luôn nghe, thọ chánh pháp, bỏ thân thọ thân, trải vô lượng kiếp cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, ở trong khoảng thời gian ấy, chẳng bao giờ quên mất.
Này Thiện Hiện, các Bồ-tát ấy đắc các pháp Đà-la-ni, nên thân, ngữ, ý thường không thoái chuyển giảm sút. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy luôn luôn dốc tu đầy đủ về trí Nhất thiết trí, nên có làm việc gì thường khéo tư duy. Do khéo léo tu tập đầy đủ trí Nhất thiết trí, nên làm việc gì thường khéo tư duy, đối với tất cả nẻo tu tập đều có thể tu tập, đó là con đường tu tập của Thanh văn hoặc con đường tu tập của Độc giác, hoặc con đường tu tập của Bồtát, hoặc con đường tu tập của Như Lai, hoặc con đường tu tập thù thắng của chư Thiên, hoặc con đường tu tập thù thắng của loài người, hoặc con đường tu tập phát sinh thần thông thù thắng của các Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát do con đường tu tập phát sinh thần thông thù thắng này, thường tạo mọi lợi ích, không hề bị thoái thất. Đại Bồ-tát ấy an trụ nơi thần thông thù thắng do phước báo mà có này, thường làm các việc lợi lạc lóng lao cho các hữu tình, tuy trải qua sinh tử luân hồi trong các cõi, nhưng thần thông thù thắng ấy thường không giảm mất.
Này Thiện Hiện, như thế các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, an trú nơi bản tánh không, với phương tiện thiện xảo, có thể khéo đem lại lợi lạc cho các hữu tình.
Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, từ khi mới phát tâm, đã thành tựu được phương tiện thiện xảo như thế. Do diệu lực của phương tiện thiện xảo này, an trú nơi bản tánh không, nhận thấy các hữu tình trí tuệ kém cõi, ngu si điên đảo tạo các nghiệp ác nên dùng phương tiện dẫn dắt vào nẻo trí tuệ thù thắng, nói thế này: Này các thiện nam, nên tu Bát-nhã ba-lamật-đa, quán tất cả pháp, bản tánh là vắng lặng. Nếu các ngươi dốc tu Bát-nhã này, quán tất cả pháp bản tánh đều không thì các việc tu hành nơi thân, ngữ, ý đều hướng đến giải thoát; đắc quả Niết-bàn quyết dùng con đường giải thoát nêu rõ cho đời sau. Các thiện nam, tất cả các pháp ấy đều là bản tánh không. Trong bản tánh không đó hữu tình và pháp tuy chẳng thể nắm bắt được, nhưng việc tu hành cũng không bị thoái thất. Vì sao? Này các thiện nam, vì trong bản tánh không, không có pháp tăng giảm, không có người tăng giảm. Vì sao? Vì tất cả bản tánh không chẳng phải có tự tánh, chẳng phải không có tự tánh, lìa các phân biệt, dứt các hý luận, cho nên ở trong đó không tăng, không giảm. Do đó các việc làm không bao giờ mất. Vì vậy, các ngươi phải tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán bản tánh không, làm việc nên làm.
Này Thiện Hiện, như thế các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, với phương tiện thiện xảo chỉ dạy trao truyền cho các loài hữu tình, khiến họ tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán bản tánh không, tu các nghiệp thiện.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chỉ dạy trao truyền cho hữu tình như thế khiến tu các nghiệp thiện thường không lười bỏ. Đó là thường tự hành mười nẻo nghiệp thiện, cũng khuyên người thường hành mười nẻo nghiệp thiện; thường tự thọ trì năm giới, cũng khuyên người thường thọ trì năm giới; thường tự thọ trì tám giới, cũng khuyên người thường thọ trì tám giới; thường tự thọ trì giới xuất gia, cũng khuyên người thường thọ trì giới xuất gia; thường tự tu bốn Tĩnh lự, cũng khuyên người thường tự tu bốn Tĩnh lự; thường tự tu bốn Vô lượng, cũng khuyên người thường tự tu bốn Vô lượng; thường tự tu bốn Định vô sắc, cũng khuyên người thường tự tu bốn Định vô sắc; thường tự tu bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, cũng khuyên người thường tu bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; thường tự tu pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, cũng khuyên người thường tu pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; thường tự tu Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí ba-la-mật-đa, cũng khuyên người thường tu Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí ba-lamật-đa; thường tự an trú nơi pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng khuyên người thường an trú nơi pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh; thường tự an trú nơi chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, cũng khuyên người thường an trú nơi chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; thường tự an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng khuyên người thường an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; thường tự tu tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, cũng khuyên người thường tu tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; thường tự tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, cũng khuyên người thường tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-mađịa; thường tự tu các địa của Bồ-tát, cũng khuyên người thường tu các địa của Bồ-tát; thường tự tu năm loại mắt, sáu phép thần thông; thường tự học mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng khuyên người thường học mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; thường tự học đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, cũng khuyên người thường tu đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; thường tự học ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, cũng khuyên người thường học ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; thường tự học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, cũng khuyên người thường học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; thường tự học trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, cũng khuyên người thường học trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; thường tự khởi trí của quả Dự lưu nhưng chẳng an trú trong đó, cũng thường khuyên người khởi trí của quả Dự lưu; hoặc khiến an trú; thường tự khởi trí của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, nhưng chẳng an trú trong đó, cũng khuyên người khởi trí của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, hoặc khiến an trú; thường tự khởi trí của quả vị Độc giác nhưng chẳng an trú trong đó, cũng thường khuyên người khởi trí của quả vị Độc giác, hoặc khiến an trú; thường tự khởi đạo hạnh của quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, như thế các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, với phương tiện thiện xảo, tự tu các nghiệp thiện thường không lười bỏ, lại chỉ dạy trao truyền cho các hữu tình khiến tu các nghiệp thiện thường không lười bỏ.
Này Thiện Hiện, đó gọi là các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa có phương tiện thiện xảo. Các Đại Bồ-tát do diệu lực từ phương tiện thiện xảo ấy nên an lập hữu tình trong cảnh giới Niết-bàn nhưng không hề hủy hoại tướng của Niếtbàn.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp đều là bản tánh không, trong bản tánh không ấy, hữu tình và pháp đều chẳng thể nắm bắt được; do vậy, trong đó cũng không có cái phi pháp, thế tại sao Đại Bồ-tát vì các hữu tình, mong chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thường làm lợi ích?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Các pháp hiện có đều là bản tánh không, trong bản tánh không ấy hữu tình và pháp đều chẳng thể nắm bắt được. Do vậy, trong đó cũng có phi pháp.
Này Thiện Hiện, nếu tất cả pháp bản tánh chẳng không, thì khi các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng nên an trú nơi lý của bản tánh không, tu chứng quả vị Giác ngộ cao tột, vì nhằm đem lại lợi ích cho các hữu tình nên giảng nói pháp bản tánh không.
Này Thiện Hiện, vì tất cả pháp đều bản tánh không nên Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, an trú nơi lý của bản tánh không nơi tất cả pháp, tu chứng quả vị Giác ngộ cao tột, vì nhằm đem lại lợi lạc cho các hữu tình nên giảng nói pháp bản tánh không.
Này Thiện Hiện, những pháp nào bản tánh đều không mà Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, rõ biết như thật về bản tánh không rồi, an trụ nơi bản tánh không ấy, vì hữu tình thuyết pháp?
Này Thiện Hiện, sắc, bản tánh không; thọ, tưởng, hành, thức bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, rõ biết như thật về các uẩn bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không ấy, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, nhãn xứ, bản tánh không nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, bản tánh không; sắc xứ, bản tánh không thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, rõ biết như thật về các xứ bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, nhãn giới, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, bản tánh không; sắc giới, bản tánh không, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, bản tánh không; nhãn thức giới, bản tánh không nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, bản tánh không; nhãn xúc, bản tánh không nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, bản tánh không; các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, bản tánh không các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, bản tánh không; địa giới, chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, rõ biết như thật về các giới bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, nhân duyên, bản tánh không, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, bản tánh không; các pháp từ duyên sinh ra, bản tánh không; vô minh, chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, bản tánh không; vô minh, bản tánh không hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, rõ biết như thật về duyên khởi bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, Bố thí ba-la-mật-đa, bản tánh không, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí ba-la-mật-đa, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, rõ biết như thật về các Ba-la-mật-đa bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, bốn Tĩnh lự, bản tánh không, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết rõ như thật về tĩnh, vô lượng, vô sắc, bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, bốn Niệm trụ, bản tánh không, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, biết rõ như thật về bốn Niệm trụ... các pháp phần Bồ-đề, bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, pháp môn giải thoát Không, bản tánh không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết rõ như thật về các pháp môn giải thoát bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, pháp không bên trong, bản tánh không, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, bản tánh không; Đại Bồtát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết rõ như thật về không tánh bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, Thánh đế khổ, bản tánh không, Thánh đế tập, diệt, đạo, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết rõ như thật về Thánh đế bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, tám Giải thoát, bản tánh không, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết rõ như thật về giải thoát, thắng xứ, các định, biến xứ bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, tất cả pháp môn Đà-la-ni, bản tánh không, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, biết rõ như thật về pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, bậc Cực hỷ, bản tánh không, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, biết rõ như thật về các địa của Bồ-tát bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, năm loại mắt, bản tánh không, sáu phép thần thông, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết rõ như thật về các loại mắt, thần thông bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, mười lực của Phật, bản tánh không, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết rõ như thật về các lực, điều không sợ, sự hiểu biết thông suốt, pháp bất cộng bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, đại Từ, bản tánh không, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết rõ như thật về các đại vô lượng bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, bản tánh không, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, biết rõ như thật về các tướng, vẻ đẹp phụ thuộc bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, pháp không quên mất, bản tánh không, tánh luôn luôn xả, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết rõ như thật về pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, trí Nhất thiết, bản tánh không, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết rõ như thật về các trí bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, quả Dự lưu, bản tánh không, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, biết rõ như thật về quả Thanh văn thừa, quả vị Độc giác bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Này Thiện Hiện, tất cả hạnh Đại Bồ-tát, bản tánh không, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, bản tánh không, đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục bản tánh không; Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết rõ như thật về các hạnh Đại Bồ-tát, Bồ-đề, Niết-bàn bản tánh không như thế rồi, an trú nơi bản tánh không, vì các hữu tình nêu giảng về pháp bản tánh không như thế.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu tánh của pháp không bên trong bản tánh chẳng không, nếu tánh của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh bản tánh chẳng không, thì các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nên vì các hữu tình giảng nói tất cả các pháp đều là bản tánh không; nếu nói như thế là hủy hoại bản tánh. Nhưng lý của bản tánh không là chẳng thể hủy hoại, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn. Vì sao? Vì lý của bản tánh không là không phương, không xứ, không từ đâu đến, cũng không về đâu. Lý không như thế cũng gọi là pháp trụ. Trong ấy không có pháp, không tụ, không tán, không giảm, không tăng, không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tất cả các pháp ấy bản tánh là an trú. Các Đại Bồ-tát an trú trong đó, mong đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng thấy các pháp hoàn toàn không có chốn trụ, nên gọi là pháp trụ. Các Đại Bồtát an trú trong đó, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhận thấy tất cả pháp bản tánh không rồi, nhất định đối với quả vị Giác ngộ cao tột đạt được không thoái chuyển. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy có pháp nào có thể làm chướng ngại; vì thấy tất cả pháp không chướng ngại nên đối với quả vị Giác ngộ cao tột chẳng sinh nghi hoặc, vì vậy mà chẳng hề thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, trong bản tánh không, ngã chẳng thể nắm bắt được, hữu tình chẳng thể nắm bắt được, sự nêu bày về hữu tình chẳng thể nắm bắt được; dòng sinh mạng, khả năng sinh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, khả năng thọ quả báo, khả năng khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy, cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, sắc chẳng thể nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, sắc xứ chẳng thể nắm bắt được; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, sắc giới chẳng thể nắm bắt được; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, nhãn thức giới chẳng thể nắm bắt được; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, nhãn xúc chẳng thể nắm bắt được; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nắm bắt được; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, địa giới chẳng thể nắm bắt được; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, nhân duyên chẳng thể nắm bắt được; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, các pháp từ duyên sinh ra đều chẳng thể nắm bắt được. Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, vô minh chẳng thể nắm bắt được; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, Bố thí ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, pháp không bên trong chẳng thể nắm bắt được; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, bốn Niệm trụ chẳng thể nắm bắt được; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, bốn Tĩnh lự chẳng thể nắm bắt được; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, tám Giải thoát chẳng thể nắm bắt được; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, pháp môn giải thoát Không chẳng thể nắm bắt được; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, bậc Cực hỷ của Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân của Bồ-tát cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được; sáu phép thần thông cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, mười lực của Phật chẳng thể nắm bắt được; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được; tánh luôn luôn xả cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, trí Nhất thiết chẳng thể nắm bắt được; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, quả Dự lưu chẳng thể nắm bắt được; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, pháp sắc, chẳng phải sắc chẳng thể nắm bắt được; pháp hữu kiến, vô kiến, hữu đối, vô đối, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, trong bản tánh không, ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ chẳng thể nắm bắt được, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, như bốn chúng đệ tử mà Phật hóa ra là Bí-sô, Bí-sô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tưca, giả sử có vị Hóa Phật trải qua trăm ngàn ức tựu kiếp vì bốn chúng ấy thuyết giảng giáo pháp quan trọng, theo ý ông thì sao? Hóa chúng như thế có thể đắc quả Dự lưu, hoặc đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, hoặc đắc quả vị Giác ngộ cao tột chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không! Vì sao? Vì các hóa chúng ấy hoàn toàn không có thật, là pháp không thật thì chẳng có thể có việc đắc quả.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các pháp cũng vậy, đều là bản tánh không, hoàn toàn không thật có, thì ở trong đó cái gì là Đại Bồ-tát, vì hữu tình gì, nói pháp gì có thể khiến đắc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, hoặc quả vị Giác ngộ cao tột?
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát tuy vì hữu tình nêu giảng các pháp bản tánh không, nhưng các hữu tình thật chẳng thể đạt được. Các Đại Bồ-tát thương xót họ bị rơi vào pháp điên đảo, nên dốc cứu vớt khiến họ an trú nơi pháp không điên đảo; không điên đảo nghĩa là không phân biệt, không phân biệt thì không điên đảo, nếu có phân biệt thì có điên đảo vì chúng cùng một loại.
Này Thiện Hiện, trong các cái không phân biệt, không điên đảo, không có ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, khả năng sinh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, khả năng thọ quả báo, khả năng khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy; cũng không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; cũng không có nhãn xứ, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; cũng không có sắc xứ, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; cũng không có nhãn giới, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; cũng không có sắc giới, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; cũng không có nhãn thức giới, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; cũng không có nhãn xúc, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; cũng không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, không có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; cũng không có địa giới, không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới; cũng không có nhân duyên, không có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; cũng không có các pháp từ duyên sinh ra; cũng không có vô minh, không có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; cũng không có Bố thí ba-la-mật-đa, không có Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; cũng không có pháp không bên trong, không có pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng không có bốn Niệm trụ, không có bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; cũng không có Thánh đế khổ, không có Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng không có bốn Tĩnh lự, không có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cũng không có tám Giải thoát, không có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; cũng không có tất cả pháp môn Đà-la-ni, không có tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng không có pháp môn giải thoát Không, không có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; cũng không có bậc Cực hỷ, không có bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; cũng không có năm loại mắt, không có sáu phép thần thông; cũng không có mười lực của Phật, không có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng không có pháp không quên mất, không có tánh luôn luôn xả; cũng không có trí Nhất thiết, không có trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; cũng không có quả Dự lưu, không có quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; cũng không có tất cả hạnh Đại Bồ-tát, không có quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; cũng không có pháp sắc, chẳng phải sắc, không có pháp hữu kiến, vô kiến, hữu đối, vô đối, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi; cũng không có ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, không có tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc.
Này Thiện Hiện, sự không có sở hữu này tức là bản tánh không. Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, an trú trong đó nhận thấy các hữu tình rơi vào tưởng điên đảo, nên dùng phương tiện thiện xảo cứu vớt khiến họ được giải thoát, đó là khiến giải thoát: Không có ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, khả năng sinh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, khả năng thọ quả báo, khả năng khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy; các tưởng về hữu tình cho đến cái thấy. Cũng khiến giải thoát: Không có sắc và tưởng về sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức và tưởng về thọ, tưởng, hành, thức; cũng khiến giải thoát: Không có nhãn xứ và tưởng về nhãn xứ, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tưởng về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; cũng khiến giải thoát: Không có sắc xứ và tưởng về sắc xứ, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tưởng về thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; cũng khiến giải thoát: Không có nhãn giới và tưởng về nhãn giới, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới và tưởng về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; cũng khiến giải thoát: Không có sắc giới và tưởng về sắc giới, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới và tưởng về thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; cũng khiến giải thoát: Không có nhãn thức giới và tưởng về nhãn thức giới, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới và tưởng về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; cũng khiến giải thoát: Không có nhãn xúc và tưởng về nhãn xúc, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc và tưởng về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; cũng khiến giải thoát: Không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra và tưởng về các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, không có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra và tưởng về các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; cũng khiến giải thoát: Không có địa giới và tưởng về địa giới, không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tưởng về thủy, hỏa, phong, không, thức giới; cũng khiến giải thoát: Không có nhân duyên và tưởng về nhân duyên, không có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và tưởng về đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; cũng khiến giải thoát: Không có pháp từ duyên sinh ra và tưởng về pháp từ duyên sinh ra; cũng khiến giải thoát: Không có vô minh và tưởng về vô minh, không có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não và tưởng về hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não; cũng khiến giải thoát: Không có Bố thí ba-lamật-đa và tưởng về Bố thí ba-la-mật-đa, không có Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa và tưởng về Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; cũng khiến giải thoát: Không có pháp không bên trong và tưởng về pháp không bên trong, không có pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và tưởng về pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; cũng khiến giải thoát: Không có bốn Niệm trụ và tưởng về bốn Niệm trụ, không có bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo và tưởng về bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; cũng khiến giải thoát: Không có Thánh đế khổ và tưởng về Thánh đế khổ, không có Thánh đế tập, diệt, đạo và tưởng về Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng khiến giải thoát:
Không có bốn Tĩnh lự và tưởng về bốn Tĩnh lự, không có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc và tưởng về bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cũng khiến giải thoát: Không có tám Giải thoát và tưởng về tám Giải thoát, không có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ và tưởng về tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; cũng khiến giải thoát: Không có pháp môn Đà-la-ni và tưởng về pháp môn Đà-la-ni, không có pháp môn Tam-ma-địa và tưởng về pháp môn Tam-ma-địa; cũng khiến giải thoát: Không có pháp môn giải thoát Không và tưởng về pháp môn giải thoát Không, không có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện và tưởng về pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; cũng khiến giải thoát: Không có bậc Cực hỷ và tưởng về bậc Cực hỷ, không có bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân và tưởng về bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân; cũng khiến giải thoát: Không có năm loại mắt và tưởng về năm loại mắt, không có sáu phép thần thông và tưởng về sáu phép thần thông; cũng khiến giải thoát: Không có mười lực của Phật và tưởng về mười lực của Phật, không có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng và tưởng về bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; cũng khiến giải thoát: Không có pháp không quên mất và tưởng về pháp không quên mất, không có tánh luôn luôn xả và tưởng về tánh luôn luôn xả; cũng khiến giải thoát: Không có trí Nhất thiết và tưởng về trí Nhất thiết, không có trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng và tưởng về trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; cũng khiến giải thoát: Không có quả Dự lưu và tưởng về quả Dự lưu, không có quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác và tưởng về quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; cũng khiến giải thoát: Không có tất cả hạnh Đại Bồ-tát và tưởng về tất cả hạnh Đại Bồ-tát, không có quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật và tưởng về quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; cũng khiến giải thoát: Không có pháp sắc, chẳng phải sắc và tưởng về pháp sắc, chẳng phải sắc, không có pháp hữu kiến, vô kiến, hữu đối, vô đối, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi và tưởng về pháp hữu kiến, vô kiến cho đến hữu vi, vô vi; cũng khiến giải thoát: Không có ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ và tưởng về ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, không có tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc và tưởng về tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; cũng khiến giải thoát: Các pháp hữu lậu như năm thủ uẩn..., cũng khiến giải thoát: Các pháp vô lậu như bốn Niệm trụ... Vì sao? Này Thiện Hiện, vì các pháp vô lậu như bốn Niệm trụ... cũng chẳng phải như Thắng nghĩa đế không sinh, không diệt, không tướng, không tạo tác, không hý luận, không phân biệt; cũng phải giải thoát cả Thắng nghĩa đế tức là bản tánh không. Bản tánh không ấy tức là đối tượng chứng đắc của chư Phật là quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, nên biết, trong đó không có ngã có thể nắm bắt được, cũng không có hữu tình, dòng sinh mạng, khả năng sinh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, khả năng thọ quả báo, khả năng khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy có thể nắm bắt được; không có sắc có thể nắm bắt được, cũng không có thọ, tưởng, hành, thức có thể nắm bắt được; không có nhãn xứ có thể nắm bắt được, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể nắm bắt được; không có sắc xứ có thể nắm bắt được, cũng không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể nắm bắt được; không có nhãn giới có thể nắm bắt được, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có thể nắm bắt được; không có sắc giới có thể nắm bắt được, cũng không có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có thể nắm bắt được; không có nhãn thức giới có thể nắm bắt được, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có thể nắm bắt được; không có nhãn xúc có thể nắm bắt được, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có thể nắm bắt được; không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có thể nắm bắt được, cũng không có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có thể nắm bắt được; không có địa giới có thể nắm bắt được, cũng không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể nắm bắt được; không có nhân duyên có thể nắm bắt được, cũng không có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có thể nắm bắt được; không có các pháp từ duyên sinh ra có thể nắm bắt được; không có vô minh có thể nắm bắt được, cũng không có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não có thể nắm bắt được; không có Bố thí ba-lamật-đa có thể nắm bắt được, cũng không có Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa có thể nắm bắt được; không có pháp không bên trong có thể nắm bắt được, cũng không có pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh có thể nắm bắt được; không có bốn Niệm trụ có thể nắm bắt được, cũng không có bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có thể nắm bắt được; không có Thánh đế khổ có thể nắm bắt được, cũng không có Thánh đế tập, diệt, đạo có thể nắm bắt được; không có bốn Tĩnh lự có thể nắm bắt được, cũng không có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có thể nắm bắt được; không có tám Giải thoát có thể nắm bắt được, cũng không có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có thể nắm bắt được; không có tất cả pháp môn Đà-la-ni có thể nắm bắt được, cũng không có tất cả pháp môn Tam-ma-địa có thể nắm bắt được; không có pháp môn giải thoát Không có thể nắm bắt được, cũng không có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có thể nắm bắt được; không có bậc Cực hỷ có thể nắm bắt được, cũng không có bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân có thể nắm bắt được; không có năm loại mắt có thể nắm bắt được, cũng không có sáu phép thần thông có thể nắm bắt được; không có mười lực của Phật có thể nắm bắt được, cũng không có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng có thể nắm bắt được; không có pháp không quên mất có thể nắm bắt được, cũng không có tánh luôn luôn xả có thể nắm bắt được; không có trí Nhất thiết có thể nắm bắt được, cũng không có trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có thể nắm bắt được; không có quả Dự lưu có thể nắm bắt được, cũng không có quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác có thể nắm bắt được; không có tất cả hạnh Đại Bồ-tát có thể nắm bắt được, cũng không có quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được; không có pháp sắc, chẳng phải sắc có thể nắm bắt được, cũng không có pháp hữu kiến, vô kiến, hữu đối, vô đối, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi có thể nắm bắt được; không có ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ có thể nắm bắt được, cũng không có tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát chẳng vì đạo quả vị Giác ngộ cao tột mà cầu hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, chỉ vì bản tánh không của các pháp mà cầu hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, bản tánh không ấy khoảng trước, sau, giữa, thường bản tánh không, chưa từng chẳng không. Các Đại Bồ-tát an trú nơi bản tánh không Ba-la-mật-đa, vì muốn giải thoát cho các loại hữu tình do chấp tưởng về hữu tình và tưởng về pháp, nên hành trí Đạo tướng. Đại Bồ-tát ấy khi hành trí Đạo tướng tức hành tất cả con đường tu tập đó là con đường tu tập của Thanh văn, con đường tu tập của Độc giác, con đường tu tập của Bồ-tát, hoặc con đường tu tập của Như Lai.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả đạo đã được viên mãn liền có thể đem lại sự thành tựu cho các hữu tình được giáo hóa, cũng có thể làm nghiêm tịnh đối tượng mong đạt là cõi Phật, lưu lại các hạnh về thọ mạng đến khi chứng quả vị Giác ngộ cao tột; đã chứng quả vị Giác ngộ cao tột rồi thì có thể khiến cho Phật nhãn luôn hiện hữu. Phật nhãn là gì? Tức là bản tánh không, đó là Phật nhãn.
Này Thiện Hiện, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ, tất cả đều dùng bản tánh không làm Phật nhãn. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở vị lai, tất cả đều dùng bản tánh không làm Phật nhãn. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở hiện tại nơi vô biên thế giới trong mười phương, tất cả đều dùng bản tánh không làm Phật nhãn.
Này Thiện Hiện, nhất định không có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nào lìa bản tánh không mà xuất hiện ở đời, chư Phật xuất hiện ở đời nhằm giảng nói về nghĩa bản tánh không; hữu tình được giáo hóa cần phải nghe Phật nói về lý của bản tánh không mới có thể hội nhập Thánh đạo, chứng quả Thánh đạo; lìa bản tánh không thì không còn có phương tiện nào khác. Cho nên này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cần phải an trú vững vàng nơi lý của bản tánh không, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa và các hạnh Đại Bồ-tát khác. Nếu an trú vững vàng nơi lý của bản tánh không, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa và các hạnh Đại Bồ-tát khác thì chẳng bao giờ trí Nhất thiết trí bị mất mát.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát rất là hy hữu! Tuy hành tất cả các pháp đều là bản tánh không, nhưng đối với bản tánh không chưa từng hoại mất. Đó là chẳng chấp sắc khác với bản tánh không, cũng chẳng chấp thọ, tưởng, hành, thức khác bản tánh không; chẳng chấp nhãn xứ khác bản tánh không, cũng chẳng chấp nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ khác bản tánh không; chẳng chấp sắc xứ khác bản tánh không, cũng chẳng chấp thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ khác bản tánh không; chẳng chấp nhãn giới khác bản tánh không, cũng chẳng chấp nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới khác bản tánh không; chẳng chấp sắc giới khác bản tánh không, cũng chẳng chấp thanh, hương, vị, xúc, pháp giới khác bản tánh không; chẳng chấp nhãn thức giới khác bản tánh không, cũng chẳng chấp nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới khác bản tánh không; chẳng chấp nhãn xúc khác bản tánh không, cũng chẳng chấp nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc khác bản tánh không; chẳng chấp các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra khác bản tánh không, cũng chẳng chấp các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra khác bản tánh không; chẳng chấp địa giới khác bản tánh không, cũng chẳng chấp thủy, hỏa, phong, không, thức giới khác bản tánh không; chẳng chấp nhân duyên khác bản tánh không, cũng chẳng chấp đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên khác bản tánh không; chẳng chấp các pháp từ duyên sinh ra khác bản tánh không; chẳng chấp vô minh khác bản tánh không, cũng chẳng chấp hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não khác bản tánh không; chẳng chấp Bố thí ba-la-mật-đa khác bản tánh không, cũng chẳng chấp Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa khác bản tánh không; chẳng chấp pháp không bên trong khác bản tánh không, cũng chẳng chấp pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh khác bản tánh không; chẳng chấp bốn Niệm trụ khác bản tánh không, cũng chẳng chấp bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo khác bản tánh không; chẳng chấp Thánh đế khổ khác bản tánh không, cũng chẳng chấp Thánh đế tập, diệt, đạo khác bản tánh không; chẳng chấp bốn Tĩnh lự khác bản tánh không, cũng chẳng chấp bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc khác bản tánh không; chẳng chấp tám Giải thoát khác bản tánh không, cũng chẳng chấp tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ khác bản tánh không; chẳng chấp tất cả pháp môn Đà-la-ni khác bản tánh không, cũng chẳng chấp tất cả pháp môn Tam-ma-địa khác bản tánh không; chẳng chấp pháp môn giải thoát Không khác bản tánh không, cũng chẳng chấp pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện khác bản tánh không; chẳng chấp bậc Cực hỷ khác bản tánh không, cũng chẳng chấp bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân khác bản tánh không; chẳng chấp năm loại mắt khác bản tánh không, cũng chẳng chấp sáu phép thần thông khác bản tánh không; chẳng chấp mười lực của Phật khác bản tánh không, cũng chẳng chấp bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng khác bản tánh không; chẳng chấp pháp không quên mất khác bản tánh không, cũng chẳng chấp tánh luôn luôn xả khác bản tánh không; chẳng chấp trí Nhất thiết khác bản tánh không, cũng chẳng chấp trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng khác bản tánh không; chẳng chấp quả Dự lưu khác bản tánh không, cũng chẳng chấp quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác khác bản tánh không; chẳng chấp tất cả hạnh Đại Bồ-tát khác bản tánh không, cũng chẳng chấp quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật khác bản tánh không.
Bạch Thế Tôn, sắc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức tức là bản tánh không, bản tánh không tức là thọ, tưởng, hành, thức; nhãn xứ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; sắc xứ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; nhãn giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhãn giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; sắc giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc giới, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; nhãn thức giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhãn thức giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; nhãn xúc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhãn xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra tức là bản tánh không, bản tánh không tức là các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra tức là bản tánh không, bản tánh không tức là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; địa giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là địa giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là thủy, hỏa, phong, không, thức giới; nhân duyên tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên tức là bản tánh không, bản tánh không tức là đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; pháp từ duyên sinh ra tức là bản tánh không, bản tánh không tức là pháp từ duyên sinh ra; vô minh tức là bản tánh không, bản tánh không tức là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não tức là bản tánh không, bản tánh không tức là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não; Bố thí bala-mật-đa tức là bản tánh không, bản tánh không tức là Bố thí ba-la-mật-đa, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là bản tánh không, bản tánh không tức là Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; pháp không bên trong tức là bản tánh không, bản tánh không tức là pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh tức là bản tánh không, bản tánh không tức là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; bốn Niệm trụ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; Thánh đế khổ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo tức là bản tánh không, bản tánh không tức là Thánh đế tập, diệt, đạo; bốn Tĩnh lự tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; tám Giải thoát tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; tất cả pháp môn Đà-la-ni tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tất cả pháp môn Tam-ma-địa; pháp môn giải thoát Không tức là bản tánh không, bản tánh không tức là pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện tức là bản tánh không, bản tánh không tức là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; bậc Cực hỷ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân; năm loại mắt tức là bản tánh không, bản tánh không tức là năm loại mắt, sáu phép thần thông tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sáu phép thần thông; mười lực của Phật tức là bản tánh không, bản tánh không tức là mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; pháp không quên mất tức là bản tánh không, bản tánh không tức là pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tánh luôn luôn xả; trí Nhất thiết tức là bản tánh không, bản tánh không tức là trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng tức là bản tánh không, bản tánh không tức là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; quả Dự lưu tức là bản tánh không, bản tánh không tức là quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác tức là bản tánh không, bản tánh không tức là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; tất cả hạnh Đại Bồ-tát tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật tức là bản tánh không, bản tánh không tức là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Các Đại Bồ-tát rất là hy hữu, tuy hành tất cả pháp đều là bản tánh không, nhưng đối với bản tánh không không hề làm hoại mất!
Này Thiện Hiện, sắc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác sắc, sắc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác thọ, tưởng, hành, thức, thọ, tưởng, hành, thức tức là bản tánh không, bản tánh không tức là thọ, tưởng, hành, thức.
Này Thiện Hiện, nhãn xứ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhãn xứ, nhãn xứ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Này Thiện Hiện, sắc xứ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác sắc xứ, sắc xứ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Này Thiện Hiện, nhãn giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhãn giới, nhãn giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhãn giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Này Thiện Hiện, sắc giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác sắc giới, sắc giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc giới; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Này Thiện Hiện, nhãn thức giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhãn thức giới, nhãn thức giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhãn thức giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Này Thiện Hiện, nhãn xúc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhãn xúc, nhãn xúc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhãn xúc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Này Thiện Hiện, các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra tức là bản tánh không, bản tánh không tức là các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra tức là bản tánh không, bản tánh không tức là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra.
Này Thiện Hiện, địa giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác địa giới, địa giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Này Thiện Hiện, nhân duyên chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhân duyên, nhân duyên tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhân duyên; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên tức là bản tánh không, bản tánh không tức là đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.
Này Thiện Hiện, các pháp từ duyên sinh ra chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác các pháp từ duyên sinh ra, các pháp từ duyên sinh ra tức là bản tánh không, bản tánh không tức là các pháp từ duyên sinh ra.
Này Thiện Hiện, vô minh chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác vô minh, vô minh tức là bản tánh không, bản tánh không tức là vô minh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não tức là bản tánh không, bản tánh không tức là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Này Thiện Hiện, Bố thí ba-la-mật-đa chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác Bố thí ba-la-mật-đa, Bố thí ba-la-mật-đa tức là bản tánh không, bản tánh không tức là Bố thí ba-lamật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là bản tánh không, bản tánh không tức là Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, pháp không bên trong chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác pháp không bên trong, pháp không bên trong tức là bản tánh không, bản tánh không tức là pháp không bên trong; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh tức là bản tánh không, bản tánh không tức là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Này Thiện Hiện, bốn Niệm trụ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác bốn Niệm trụ, bốn Niệm trụ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Này Thiện Hiện, Thánh đế khổ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác Thánh đế khổ, Thánh đế khổ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác Thánh đế tập, diệt, đạo, Thánh đế tập, diệt, đạo tức là bản tánh không, bản tánh không tức là Thánh đế tập, diệt, đạo.
Này Thiện Hiện, bốn Tĩnh lự chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác bốn Tĩnh lự, bốn Tĩnh lự tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bốn Tĩnh lự; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Này Thiện Hiện, tám Giải thoát chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác tám Giải thoát, tám Giải thoát tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tám Giải thoát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Này Thiện Hiện, tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Đàla-ni tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tamma-địa chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Tam-ma-địa tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tất cả pháp môn Tam-mađịa.
Này Thiện Hiện, pháp môn giải thoát Không chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Không tức là bản tánh không, bản tánh không tức là pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện tức là bản tánh không, bản tánh không tức là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Này Thiện Hiện, bậc Cực hỷ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác bậc Cực hỷ, bậc Cực hỷ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bậc Cực hỷ; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.
Này Thiện Hiện, năm loại mắt chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác năm loại mắt, năm loại mắt tức là bản tánh không, bản tánh không tức là năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác sáu phép thần thông, sáu phép thần thông tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sáu phép thần thông.
Này Thiện Hiện, mười lực của Phật chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác mười lực của Phật, mười lực của Phật tức là bản tánh không, bản tánh không tức là mười lực của Phật; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Này Thiện Hiện, ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc.
Này Thiện Hiện, pháp không quên mất chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác pháp không quên mất, pháp không quên mất tức là bản tánh không, bản tánh không tức là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác tánh luôn luôn xả, tánh luôn luôn xả tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tánh luôn luôn xả.
Này Thiện Hiện, trí Nhất thiết chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác trí Nhất thiết, trí Nhất thiết tức là bản tánh không, bản tánh không tức là trí Nhất thiết; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng tức là bản tánh không, bản tánh không tức là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Này Thiện Hiện, quả Dự lưu chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác quả Dự lưu, quả Dự lưu tức là bản tánh không, bản tánh không tức là quả Dự lưu; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác tức là bản tánh không, bản tánh không tức là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác.
Này Thiện Hiện, tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác tất cả hạnh Đại Bồ-tát, tất cả hạnh Đại Bồ-tát tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tất cả hạnh Đại Bồ-tát; quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật tức là bản tánh không, bản tánh không tức là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu sắc khác bản tánh không, bản tánh không khác sắc, sắc chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức khác bản tánh không, bản tánh không khác thọ, tưởng, hành, thức, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức.
Này Thiện Hiện, nếu nhãn xứ khác bản tánh không, bản tánh không khác nhãn xứ, nhãn xứ chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ khác bản tánh không, bản tánh không khác nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Này Thiện Hiện, nếu sắc xứ khác bản tánh không, bản tánh không khác sắc xứ, sắc xứ chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ khác bản tánh không, bản tánh không khác thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Này Thiện Hiện, nếu nhãn giới khác bản tánh không, bản tánh không khác nhãn giới, nhãn giới chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải nhãn giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới khác bản tánh không, bản tánh không khác nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Này Thiện Hiện, nếu sắc giới khác bản tánh không, bản tánh không khác sắc giới, sắc giới chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải sắc giới; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới khác bản tánh không, bản tánh không khác thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Này Thiện Hiện, nếu nhãn thức giới khác bản tánh không, bản tánh không khác nhãn thức giới, nhãn thức giới chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải nhãn thức giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới khác bản tánh không, bản tánh không khác nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Này Thiện Hiện, nếu nhãn xúc khác bản tánh không, bản tánh không khác nhãn xúc, nhãn xúc chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải nhãn xúc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc khác bản tánh không, bản tánh không khác nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Này Thiện Hiện, nếu các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra khác bản tánh không, bản tánh không khác các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra khác bản tánh không, bản tánh không khác các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra.
Này Thiện Hiện, nếu địa giới khác bản tánh không, bản tánh không khác địa giới, địa giới chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới khác bản tánh không, bản tánh không khác thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Này Thiện Hiện, nếu nhân duyên khác bản tánh không, bản tánh không khác nhân duyên, nhân duyên chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải nhân duyên; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên khác bản tánh không, bản tánh không khác đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.
Này Thiện Hiện, nếu các pháp từ duyên sinh ra khác bản tánh không, bản tánh không khác các pháp từ duyên sinh ra, các pháp từ duyên sinh ra chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải các pháp từ duyên sinh ra.
Này Thiện Hiện, nếu vô minh khác bản tánh không, bản tánh không khác vô minh, vô minh chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải vô minh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não khác bản tánh không, bản tánh không khác hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Này Thiện Hiện, nếu Bố thí ba-la-mật-đa khác bản tánh không, bản tánh không khác Bố thí ba-lamật-đa, Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải Bố thí ba-lamật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa khác bản tánh không, bản tánh không khác Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu pháp không bên trong khác bản tánh không, bản tánh không khác pháp không bên trong, pháp không bên trong chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải pháp không bên trong; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh khác bản tánh không, bản tánh không khác pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Này Thiện Hiện, nếu bốn Niệm trụ khác bản tánh không, bản tánh không khác bốn Niệm trụ, bốn Niệm trụ chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo khác bản tánh không, bản tánh không khác bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Này Thiện Hiện, nếu Thánh đế khổ khác bản tánh không, bản tánh không khác Thánh đế khổ, Thánh đế khổ chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo khác bản tánh không, bản tánh không khác Thánh đế tập, diệt, đạo, Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải Thánh đế tập, diệt, đạo.
Này Thiện Hiện, nếu bốn Tĩnh lự khác bản tánh không, bản tánh không khác bốn Tĩnh lự, bốn Tĩnh lự chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải bốn Tĩnh lự; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc khác bản tánh không, bản tánh không khác bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Này Thiện Hiện, nếu tám Giải thoát khác bản tánh không, bản tánh không khác tám Giải thoát, tám Giải thoát chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải tám Giải thoát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ khác bản tánh không, bản tánh không khác tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Này Thiện Hiện, nếu tất cả pháp môn Đà-la-ni khác bản tánh không, bản tánh không khác tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa khác bản tánh không, bản tánh không khác tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Này Thiện Hiện, nếu pháp môn giải thoát Không khác bản tánh không, bản tánh không khác pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Không chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện khác bản tánh không, bản tánh không khác pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Này Thiện Hiện, nếu bậc Cực hỷ khác bản tánh không, bản tánh không khác bậc Cực hỷ, bậc Cực hỷ chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải bậc Cực hỷ; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân khác bản tánh không, bản tánh không khác bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.
Này Thiện Hiện, nếu năm loại mắt khác bản tánh không, bản tánh không khác năm loại mắt, năm loại mắt chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải năm loại mắt; sáu phép thần thông khác bản tánh không, bản tánh không khác sáu phép thần thông, sáu phép thần thông chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải sáu phép thần thông.
Này Thiện Hiện, nếu mười lực của Phật khác bản tánh không, bản tánh không khác mười lực của Phật, mười lực của Phật chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải mười lực của Phật; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng khác bản tánh không, bản tánh không khác bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Này Thiện Hiện, nếu ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ khác bản tánh không, bản tánh không khác ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc khác bản tánh không, bản tánh không khác tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc.
Này Thiện Hiện, nếu pháp không quên mất khác bản tánh không, bản tánh không khác pháp không quên mất, pháp không quên mất chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả khác bản tánh không, bản tánh không khác tánh luôn luôn xả, tánh luôn luôn xả chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải tánh luôn luôn xả.
Này Thiện Hiện, nếu trí Nhất thiết khác bản tánh không, bản tánh không khác trí Nhất thiết, trí Nhất thiết chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải trí Nhất thiết; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng khác bản tánh không, bản tánh không khác trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Này Thiện Hiện, nếu quả Dự lưu khác bản tánh không, bản tánh không khác quả Dự lưu, quả Dự lưu chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải quả Dự lưu; quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán, quả vị Độc giác khác bản tánh không, bản tánh không khác quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán, quả vị Độc giác.
Này Thiện Hiện, nếu tất cả hạnh Đại Bồ-tát khác bản tánh không, bản tánh không khác tất cả hạnh Đại Bồ-tát, tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải tất cả hạnh Đại Bồ-tát; quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật khác bản tánh không, bản tánh không khác quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, thì các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đã chẳng nên quán tất cả pháp đều là bản tánh không để chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột!
Này Thiện Hiện, vì sắc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác sắc, sắc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác thọ, tưởng, hành, thức, thọ, tưởng, hành, thức tức là bản tánh không, bản tánh không tức là thọ, tưởng, hành, thức.
Này Thiện Hiện, vì nhãn xứ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhãn xứ, nhãn xứ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Này Thiện Hiện, vì sắc xứ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác sắc xứ, sắc xứ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Này Thiện Hiện, vì nhãn giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhãn giới, nhãn giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhãn giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Này Thiện Hiện, vì sắc giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác sắc giới, sắc giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc giới; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Này Thiện Hiện, vì nhãn thức giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhãn thức giới, nhãn thức giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhãn thức giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Này Thiện Hiện, vì nhãn xúc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhãn xúc, nhãn xúc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhãn xúc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Này Thiện Hiện, vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra tức là bản tánh không, bản tánh không tức là các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra tức là bản tánh không, bản tánh không tức là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra.
Này Thiện Hiện, vì địa giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác địa giới, địa giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Này Thiện Hiện, vì nhân duyên chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác nhân duyên, nhân duyên tức là bản tánh không, bản tánh không tức là nhân duyên; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên tức là bản tánh không, bản tánh không tức là đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.
Này Thiện Hiện, vì các pháp từ duyên sinh ra chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác các pháp từ duyên sinh ra, các pháp từ duyên sinh ra tức là bản tánh không, bản tánh không tức là các pháp từ duyên sinh ra.
Này Thiện Hiện, vì vô minh chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác vô minh, vô minh tức là bản tánh không, bản tánh không tức là vô minh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não tức là bản tánh không, bản tánh không tức là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Này Thiện Hiện, vì Bố thí ba-la-mật-đa chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác Bố thí ba-la-mật-đa, Bố thí ba-la-mật-đa tức là bản tánh không, bản tánh không tức là Bố thí ba-lamật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là bản tánh không, bản tánh không tức là Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, vì pháp không bên trong chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác pháp không bên trong, pháp không bên trong tức là bản tánh không, bản tánh không tức là pháp không bên trong; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh tức là bản tánh không, bản tánh không tức là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Này Thiện Hiện, vì bốn Niệm trụ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác bốn Niệm trụ, bốn Niệm trụ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Này Thiện Hiện, vì Thánh đế khổ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác Thánh đế khổ, Thánh đế khổ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác Thánh đế tập, diệt, đạo, Thánh đế tập, diệt, đạo tức là bản tánh không, bản tánh không tức là Thánh đế tập, diệt, đạo.
Này Thiện Hiện, vì bốn Tĩnh lự chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác bốn Tĩnh lự, bốn Tĩnh lự tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bốn Tĩnh lự; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Này Thiện Hiện, vì tám Giải thoát chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác tám Giải thoát, tám Giải thoát tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tám Giải thoát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Này Thiện Hiện, vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Đàla-ni tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tamma-địa chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Tam-ma-địa tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tất cả pháp môn Tam-mađịa.
Này Thiện Hiện, vì pháp môn giải thoát Không chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Không tức là bản tánh không, bản tánh không tức là pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện tức là bản tánh không, bản tánh không tức là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Này Thiện Hiện, vì bậc Cực hỷ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác bậc Cực hỷ, bậc Cực hỷ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bậc Cực hỷ; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.
Này Thiện Hiện, vì năm loại mắt chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác năm loại mắt, năm loại mắt tức là bản tánh không, bản tánh không tức là năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác sáu phép thần thông, sáu phép thần thông tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sáu phép thần thông.
Này Thiện Hiện, vì mười lực của Phật chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác mười lực của Phật, mười lực của Phật tức là bản tánh không, bản tánh không tức là mười lực của Phật; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng tức là bản tánh không, bản tánh không tức là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Này Thiện Hiện, vì ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ tức là bản tánh không, bản tánh không tức là ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc.
Này Thiện Hiện, vì pháp không quên mất chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác pháp không quên mất, pháp không quên mất tức là bản tánh không, bản tánh không tức là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác tánh luôn luôn xả, tánh luôn luôn xả tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tánh luôn luôn xả.
Này Thiện Hiện, vì trí Nhất thiết chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác trí Nhất thiết, trí Nhất thiết tức là bản tánh không, bản tánh không tức là trí Nhất thiết; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng tức là bản tánh không, bản tánh không tức là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Này Thiện Hiện, vì quả Dự lưu chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác quả Dự lưu, quả Dự lưu tức là bản tánh không, bản tánh không tức là quả Dự lưu; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác quả Nhất lai,
Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác tức là bản tánh không, bản tánh không tức là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác.
Này Thiện Hiện, vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác tất cả hạnh Đại Bồ-tát, tất cả hạnh Đại Bồ-tát tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tất cả hạnh Đại Bồ-tát; quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật tức là bản tánh không, bản tánh không tức là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, nên các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán tất cả các pháp đều là bản tánh không, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì lìa bản tánh không thì không có một pháp nào là thật, là thường, có thể hoại, có thể đoạn. Trong bản tánh không cũng không có một pháp nào là thật, là thường, có thể hoại, có thể đoạn. Chỉ có những kẻ ngu si mê lầm điên đảo mới dấy khởi tưởng sai khác, đó là chấp sắc khác bản tánh không, hoặc chấp thọ, tưởng, hành, thức khác bản tánh không; hoặc chấp nhãn xứ khác bản tánh không, hoặc chấp nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ khác bản tánh không; hoặc chấp sắc xứ khác bản tánh không, hoặc chấp thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ khác bản tánh không; hoặc chấp nhãn giới khác bản tánh không, hoặc chấp nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới khác bản tánh không; hoặc chấp sắc giới khác bản tánh không, hoặc chấp thanh, hương, vị, xúc, pháp giới khác bản tánh không; hoặc chấp nhãn thức giới khác bản tánh không, hoặc chấp nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới khác bản tánh không; hoặc chấp nhãn xúc khác bản tánh không, hoặc chấp nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc khác bản tánh không; hoặc chấp các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra khác bản tánh không, hoặc chấp các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra khác bản tánh không; hoặc chấp địa giới khác bản tánh không, hoặc chấp thủy, hỏa, phong, không, thức giới khác bản tánh không; hoặc chấp nhân duyên khác bản tánh không, hoặc chấp đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên khác bản tánh không; hoặc chấp các pháp từ duyên sinh ra khác bản tánh không; hoặc chấp vô minh khác bản tánh không, hoặc chấp hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não khác bản tánh không; hoặc chấp Bố thí ba-la-mậtđa khác bản tánh không, hoặc chấp Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa khác bản tánh không; hoặc chấp pháp không bên trong khác bản tánh không, hoặc chấp pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh khác bản tánh không; hoặc chấp bốn Niệm trụ khác bản tánh không, hoặc chấp bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo khác bản tánh không; hoặc chấp Thánh đế khổ khác bản tánh không, hoặc chấp Thánh đế tập, diệt, đạo khác bản tánh không; hoặc chấp bốn Tĩnh lự khác bản tánh không, hoặc chấp bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc khác bản tánh không; hoặc chấp tám Giải thoát khác bản tánh không, hoặc chấp tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ khác bản tánh không; hoặc chấp tất cả pháp môn Đà-la-ni khác bản tánh không, hoặc chấp tất cả pháp môn Tam-ma-địa khác bản tánh không; hoặc chấp pháp môn giải thoát Không khác bản tánh không, hoặc chấp pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện khác bản tánh không; hoặc chấp bậc Cực hỷ khác bản tánh không, hoặc chấp bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân khác bản tánh không; hoặc chấp năm loại mắt khác bản tánh không, hoặc chấp sáu phép thần thông khác bản tánh không; hoặc chấp mười lực của Phật khác bản tánh không, hoặc chấp bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng khác bản tánh không; hoặc chấp pháp không quên mất khác bản tánh không, hoặc chấp tánh luôn luôn xả khác bản tánh không; hoặc chấp trí Nhất thiết khác bản tánh không, hoặc chấp trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng khác bản tánh không; hoặc chấp quả Dự lưu khác bản tánh không, hoặc chấp quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác khác bản tánh không; hoặc chấp tất cả hạnh Đại Bồ-tát khác bản tánh không, hoặc chấp quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật khác bản tánh không.
Này Thiện Hiện, các phàm phu ngu si ấy chấp các pháp khác với bản tánh không rồi, chẳng biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức; vì chẳng biết nên chấp trước sắc, chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; vì chấp trước nên đối với sắc chấp có ngã và ngã sở, đối với thọ, tưởng, hành, thức chấp có ngã và ngã sở. Vì vọng chấp nên tham đắm các vật trong ngoài, thọ nhận sắc, thọ, tưởng, hành, thức của thân sau. Bởi vậy chẳng thể giải thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết sầu buồn khổ não của các nẻo, qua lại trong ba cõi, luân chuyển vô cùng. Do nhân duyên ấy, các Đại Bồ-tát an trú nơi bản tánh không Ba-la-mật-đa, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng chấp sắc, cũng chẳng hoại sắc hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng hoại thọ, tưởng, hành, thức hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp nhãn xứ, cũng chẳng hoại nhãn xứ hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng hoại nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp sắc xứ, cũng chẳng hoại sắc xứ hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng hoại thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp nhãn giới, cũng chẳng hoại nhãn giới hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, cũng chẳng hoại nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp sắc giới, cũng chẳng hoại sắc giới hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, cũng chẳng hoại thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp nhãn thức giới, cũng chẳng hoại nhãn thức giới hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, cũng chẳng hoại nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp nhãn xúc, cũng chẳng hoại nhãn xúc hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, cũng chẳng hoại nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, cũng chẳng hoại các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, cũng chẳng hoại các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp địa giới, cũng chẳng hoại địa giới hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng hoại thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp nhân duyên, cũng chẳng hoại nhân duyên hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, cũng chẳng hoại đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp các pháp từ duyên sinh ra, cũng chẳng hoại các pháp từ duyên sinh ra hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp vô minh, cũng chẳng hoại vô minh hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, cũng chẳng hoại hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp Bố thí ba-la-mật-đa, cũng chẳng hoại Bố thí ba-la-mật-đa hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa, cũng chẳng hoại Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp pháp không bên trong, cũng chẳng hoại pháp không bên trong hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng chẳng hoại pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp bốn Niệm trụ, cũng chẳng hoại bốn Niệm trụ hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, cũng chẳng hoại bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp Thánh đế khổ, cũng chẳng hoại Thánh đế khổ hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng hoại Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp bốn Tĩnh lự, cũng chẳng hoại bốn Tĩnh lự hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, cũng chẳng hoại bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp tám Giải thoát, cũng chẳng hoại tám Giải thoát hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, cũng chẳng hoại tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng hoại tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng chẳng hoại tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp pháp môn giải thoát Không, cũng chẳng hoại pháp môn giải thoát Không hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, cũng chẳng hoại pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp bậc Cực hỷ, cũng chẳng hoại bậc Cực hỷ hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, cũng chẳng hoại bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp năm loại mắt, cũng chẳng hoại năm loại mắt hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp sáu phép thần thông, cũng chẳng hoại sáu phép thần thông hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp mười lực của Phật, cũng chẳng hoại mười lực của Phật hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng chẳng hoại bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, cũng chẳng hoại ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, cũng chẳng hoại tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp pháp không quên mất, cũng chẳng hoại pháp không quên mất hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp tánh luôn luôn xả, cũng chẳng hoại tánh luôn luôn xả hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp trí Nhất thiết, cũng chẳng hoại trí Nhất thiết hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, cũng chẳng hoại trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp quả Dự lưu, cũng chẳng hoại quả Dự lưu hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, cũng chẳng hoại quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán, quả vị Độc giác hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng chẳng hoại tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc không hoặc chẳng không; chẳng chấp quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, cũng chẳng hoại quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc không hoặc chẳng không. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì sắc chẳng hoại không, không chẳng hoại sắc, cho đây là sắc, đây là không; thọ, tưởng, hành, thức chẳng hoại không, không chẳng hoại thọ, tưởng, hành, thức, cho đây là thọ, tưởng, hành, thức, đây là không.
Này Thiện Hiện, nhãn xứ chẳng hoại không, không chẳng hoại nhãn xứ, cho đây là nhãn xứ, đây là không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng hoại không, không chẳng hoại nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cho đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, đây là không.
Này Thiện Hiện, sắc xứ chẳng hoại không, không chẳng hoại sắc xứ, cho đây là sắc xứ, đây là không; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng hoại không, không chẳng hoại thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cho đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, đây là không.
Này Thiện Hiện, nhãn giới chẳng hoại không, không chẳng hoại nhãn giới, cho đây là nhãn giới, đây là không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng hoại không, không chẳng hoại nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, cho đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, đây là không. Này Thiện Hiện, sắc giới chẳng hoại không, không chẳng hoại sắc giới, cho đây là sắc giới, đây là không; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng hoại không, không chẳng hoại thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, cho đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, đây là không.
Này Thiện Hiện, nhãn thức giới chẳng hoại không, không chẳng hoại nhãn thức giới, cho đây là nhãn thức giới, đây là không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng hoại không, không chẳng hoại nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, cho đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, đây là không.
Này Thiện Hiện, nhãn xúc chẳng hoại không, không chẳng hoại nhãn xúc, cho đây là nhãn xúc, đây là không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng hoại không, không chẳng hoại nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, cho đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, đây là không.
Này Thiện Hiện, các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng hoại không, không chẳng hoại các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, cho đây là các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, đây là không; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng hoại không, không chẳng hoại các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, cho đây là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, đây là không.
Này Thiện Hiện, địa giới chẳng hoại không, không chẳng hoại địa giới, cho đây là địa giới, đây là không; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng hoại không, không chẳng hoại thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cho đây là thủy, hỏa, phong, không, thức giới, đây là không.
Này Thiện Hiện, nhân duyên chẳng hoại không, không chẳng hoại nhân duyên, cho đây là nhân duyên, đây là không; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng hoại không, không chẳng hoại đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, cho đây là đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, đây là không.
Này Thiện Hiện, các pháp từ duyên sinh ra chẳng hoại không, không chẳng hoại các pháp từ duyên sinh ra, cho đây là các pháp từ duyên sinh ra, đây là không.
Này Thiện Hiện, vô minh chẳng hoại không, không chẳng hoại vô minh, cho đây là vô minh, đây là không; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng hoại không, không chẳng hoại hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não, cho đây là hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, đây là không.
Này Thiện Hiện, Bố thí ba-la-mật-đa chẳng hoại không, không chẳng hoại Bố thí ba-la-mật-đa, cho đây là Bố thí ba-la-mật-đa, đây là không; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa chẳng hoại không, không chẳng hoại Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa, cho đây là Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây là không.
Này Thiện Hiện, pháp không bên trong chẳng hoại không, không chẳng hoại pháp không bên trong, cho đây là pháp không bên trong, đây là không; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng hoại không, không chẳng hoại pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, cho đây là pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, đây là không.
Này Thiện Hiện, bốn Niệm trụ chẳng hoại không, không chẳng hoại bốn Niệm trụ, cho đây là bốn Niệm trụ, đây là không; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng hoại không, không chẳng hoại bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, cho đây là bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, đây là không.
Này Thiện Hiện, Thánh đế khổ chẳng hoại không, không chẳng hoại Thánh đế khổ, cho đây là Thánh đế khổ, đây là không; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng hoại không, không chẳng hoại Thánh đế tập, diệt, đạo, cho đây là Thánh đế tập, diệt, đạo, đây là không.
Này Thiện Hiện, bốn Tĩnh lự chẳng hoại không, không chẳng hoại bốn Tĩnh lự, cho đây là bốn Tĩnh lự, đây là không; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng hoại không, không chẳng hoại bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, cho đây là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, đây là không.
Này Thiện Hiện, tám Giải thoát chẳng hoại không, không chẳng hoại tám Giải thoát, cho đây là tám Giải thoát, đây là không; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng hoại không, không chẳng hoại tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, cho đây là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, đây là không.
Này Thiện Hiện, pháp môn Đà-la-ni chẳng hoại không, không chẳng hoại pháp môn Đà-la-ni, cho đây là pháp môn Đà-la-ni, đây là không; pháp môn Tam-ma-địa chẳng hoại không, không chẳng hoại pháp môn Tam-ma-địa, cho đây là pháp môn Tamma-địa, đây là không.
Này Thiện Hiện, pháp môn giải thoát Không chẳng hoại không, không chẳng hoại pháp môn giải thoát Không, cho đây là pháp môn giải thoát Không, đây là không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng hoại không, không chẳng hoại pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, cho đây là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, đây là không.
Này Thiện Hiện, bậc Cực hỷ chẳng hoại không, không chẳng hoại bậc Cực hỷ, cho đây là bậc Cực hỷ, đây là không; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng hoại không, không chẳng hoại bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, cho đây là bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, đây là không.
Này Thiện Hiện, năm loại mắt chẳng hoại không, không chẳng hoại năm loại mắt, cho đây là năm loại mắt, đây là không; sáu phép thần thông chẳng hoại không, không chẳng hoại sáu phép thần thông, cho đây là sáu phép thần thông, đây là không.
Này Thiện Hiện, mười lực của Phật chẳng hoại không, không chẳng hoại mười lực của Phật, cho đây là mười lực của Phật, đây là không; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng hoại không, không chẳng hoại bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cho đây là bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, đây là không.
Này Thiện Hiện, ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, chẳng hoại không, không chẳng hoại ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, cho đây là ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, đây là không; tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc chẳng hoại không, không chẳng hoại tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, cho đây là tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, đây là không.
Này Thiện Hiện, pháp không quên mất chẳng hoại không, không chẳng hoại pháp không quên mất, cho đây là pháp không quên mất, đây là không; tánh luôn luôn xả chẳng hoại không, không chẳng hoại tánh luôn luôn xả, cho đây là tánh luôn luôn xả, đây là không.
Này Thiện Hiện, trí Nhất thiết chẳng hoại không, không chẳng hoại trí Nhất thiết, cho đây là trí Nhất thiết, đây là không; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng hoại không, không chẳng hoại trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, cho đây là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, đây là không.
Này Thiện Hiện, quả Dự lưu chẳng hoại không, không chẳng hoại quả Dự lưu, cho đây là quả Dự lưu, đây là không; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán, quả vị Độc giác chẳng hoại không, không chẳng hoại quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, cho đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán, quả vị Độc giác, đây là không.
Này Thiện Hiện, tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng hoại không, không chẳng hoại tất cả hạnh Đại Bồtát, cho đây là tất cả hạnh Đại Bồ-tát, đây là không; quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng hoại không, không chẳng hoại quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, cho đây là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, đây là không.
Này Thiện Hiện, thí như hư không chẳng hoại hư không, cảnh giới hư không bên trong chẳng hoại cảnh giới hư không bên ngoài, cảnh giới hư không bên ngoài chẳng hoại cảnh giới hư không bên trong. Như vậy, này Thiện Hiện, sắc chẳng hoại không, không chẳng hoại sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng hoại không, không chẳng hoại thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, nhãn xứ chẳng hoại không, không chẳng hoại nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng hoại không, không chẳng hoại nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, sắc xứ chẳng hoại không, không chẳng hoại sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng hoại không, không chẳng hoại thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, nhãn giới chẳng hoại không, không chẳng hoại nhãn giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng hoại không, không chẳng hoại nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, sắc giới chẳng hoại không, không chẳng hoại sắc giới; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng hoại không, không chẳng hoại thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, nhãn thức giới chẳng hoại không, không chẳng hoại nhãn thức giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng hoại không, không chẳng hoại nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, nhãn xúc chẳng hoại không, không chẳng hoại nhãn xúc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng hoại không, không chẳng hoại nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng hoại không, không chẳng hoại các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng hoại không, không chẳng hoại các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, địa giới chẳng hoại không, không chẳng hoại địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng hoại không, không chẳng hoại thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, nhân duyên chẳng hoại không, không chẳng hoại nhân duyên; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng hoại không, không chẳng hoại đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, các pháp từ duyên sinh ra chẳng hoại không, không chẳng hoại các pháp từ duyên sinh ra, cho đây là 1, đây là không.
Này Thiện Hiện, vô minh chẳng hoại không, không chẳng hoại vô minh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng hoại không, không chẳng hoại hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, Bố thí ba-la-mật-đa chẳng hoại không, không chẳng hoại Bố thí ba-la-mật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa chẳng hoại không, không chẳng hoại Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, pháp không bên trong chẳng hoại không, không chẳng hoại pháp không bên trong; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng hoại không, không chẳng hoại pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, bốn Niệm trụ chẳng hoại không, không chẳng hoại bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng hoại không, không chẳng hoại bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, Thánh đế khổ chẳng hoại không, không chẳng hoại Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng hoại không, không chẳng hoại Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, bốn Tĩnh lự chẳng hoại không, không chẳng hoại bốn Tĩnh lự; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng hoại không, không chẳng hoại bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không. Này Thiện Hiện, tám Giải thoát chẳng hoại không, không chẳng hoại tám Giải thoát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng hoại không, không chẳng hoại tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, pháp môn Đà-la-ni chẳng hoại không, không chẳng hoại pháp môn Đà-la-ni; pháp môn Tam-ma-địa chẳng hoại không, không chẳng hoại pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, pháp môn giải thoát Không chẳng hoại không, không chẳng hoại pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng hoại không, không chẳng hoại pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không. Này Thiện Hiện, bậc Cực hỷ chẳng hoại không, không chẳng hoại bậc Cực hỷ; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng hoại không, không chẳng hoại bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, năm loại mắt chẳng hoại không, không chẳng hoại năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng hoại không, không chẳng hoại sáu phép thần thông. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, mười lực của Phật chẳng hoại không, không chẳng hoại mười lực của Phật; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng hoại không, không chẳng hoại bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, chẳng hoại không, không chẳng hoại ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc chẳng hoại không, không chẳng hoại tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, pháp không quên mất chẳng hoại không, không chẳng hoại pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng hoại không, không chẳng hoại tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, trí Nhất thiết chẳng hoại không, không chẳng hoại trí Nhất thiết; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng hoại không, không chẳng hoại trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, quả Dự lưu chẳng hoại không, không chẳng hoại quả Dự lưu; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác chẳng hoại không, không chẳng hoại quả Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán, quả vị Độc giác. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Này Thiện Hiện, tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng hoại không, không chẳng hoại tất cả hạnh Đại Bồtát, cho đây là tất cả hạnh Đại Bồ-tát, đây là không; quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng hoại không, không chẳng hoại quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, cho đây là không, đây là bất không.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp đều là bản tánh không, trong bản tánh không ấy hoàn toàn không có sai biệt, thì các Đại Bồ-tát an trú ở đâu để phát khởi tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, với lời nguyện rằng: Ta sẽ chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột? Bạch Thế Tôn, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật không có hai hình tướng, chẳng phải là hai hành tướng để có thể chứng quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật không có hai hình tướng, chẳng phải là hai hành tướng để có thể chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao?
Này Thiện Hiện, vì Bồ-đề không hai, cũng không phân biệt. Nếu đối với Bồ-đề mà hành hai tướng, có phân biệt thì chắc chắn không có thể chứng đắc.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát đối với Bồ-đề chẳng hành hai tướng, cũng chẳng phân biệt, hoàn toàn không trụ vào đâu để phát khởi tầm cầu quả vị Giác ngộ cao tột. Các Đại Bồ-tát đối với tất cả các pháp chẳng hành hai tướng, cũng chẳng phân biệt, hoàn toàn không có đối tượng hành hóa thì có thể chứng đạt quả vị đại giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, đối tượng mong đạt đến của các Đại Bồ-tát là quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng phải hành hai tướng mà có thể chứng đắc.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hiện đạt được sự giác ngộ, hoàn toàn không có đối tượng để hành hóa. Đó là chẳng hành sắc, cũng chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức; chẳng hành nhãn xứ, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng hành sắc xứ, cũng chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng hành nhãn giới, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng hành sắc giới, cũng chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng hành nhãn thức giới, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng hành nhãn xúc, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng hành các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, cũng chẳng hành các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; chẳng hành địa giới, cũng chẳng hành thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng hành nhân duyên, cũng chẳng hành đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; chẳng hành các pháp từ duyên sinh ra; chẳng hành vô minh, cũng chẳng hành hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; chẳng hành Bố thí ba-la-mật-đa, cũng chẳng hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp không bên trong, cũng chẳng hành pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng hành bốn Niệm trụ, cũng chẳng hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chẳng hành Thánh đế khổ, cũng chẳng hành Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng hành bốn Tĩnh lự, cũng chẳng hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chẳng hành tám Giải thoát, cũng chẳng hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng hành pháp môn giải thoát Không, cũng chẳng hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chẳng hành bậc Cực hỷ, cũng chẳng hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chẳng hành năm loại mắt, cũng chẳng hành sáu phép thần thông; chẳng hành mười lực của Phật, cũng chẳng hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng hành ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, cũng chẳng hành tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; chẳng hành pháp không quên mất, cũng chẳng hành tánh luôn luôn xả; chẳng hành trí Nhất thiết, cũng chẳng hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; chẳng hành quả Dự lưu, cũng chẳng hành quả Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán, quả vị Độc giác; chẳng hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng chẳng hành quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì các Đại Bồ-tát hiện đạt được sự giác ngộ, chẳng duyên vào danh, tiếng để chấp nơi ngã, ngã sở, nghĩa là chẳng nghĩ thế này: Ta hành sắc, ta hành thọ, tưởng, hành, thức; cũng chẳng nghĩ là ta hành nhãn xứ, ta hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; cũng chẳng nghĩ là ta hành sắc xứ, ta hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; cũng chẳng nghĩ là ta hành nhãn giới, ta hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; cũng chẳng nghĩ là ta hành sắc giới, ta hành thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; cũng chẳng nghĩ là ta hành nhãn thức giới, ta hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; cũng chẳng nghĩ là ta hành nhãn xúc, ta hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; cũng chẳng nghĩ là ta hành các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, ta hành các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; cũng chẳng nghĩ là ta hành địa giới, ta hành thủy, hỏa, phong, không, thức giới; cũng chẳng nghĩ là ta hành nhân duyên, ta hành đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; cũng chẳng nghĩ là ta hành các pháp từ duyên sinh ra; cũng chẳng nghĩ là ta hành vô minh, ta hành hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; cũng chẳng nghĩ là ta hành Bố thí ba-la-mật-đa, ta hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa; cũng chẳng nghĩ là ta hành pháp không bên trong, ta hành pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng chẳng nghĩ là ta hành bốn Niệm trụ, ta hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; cũng chẳng nghĩ là ta hành Thánh đế khổ, ta hành Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng chẳng nghĩ là ta hành bốn Tĩnh lự, ta hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cũng chẳng nghĩ là ta hành tám Giải thoát, ta hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; cũng chẳng nghĩ là ta hành tất cả pháp môn Đàla-ni, ta hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng chẳng nghĩ là ta hành pháp môn giải thoát Không, ta hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; cũng chẳng nghĩ là ta hành bậc Cực hỷ, ta hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; cũng chẳng nghĩ là ta hành năm loại mắt, ta hành sáu phép thần thông; cũng chẳng nghĩ là ta hành mười lực của Phật, ta hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng chẳng nghĩ là ta hành ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, ta hành tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; cũng chẳng nghĩ là ta hành pháp không quên mất, ta hành tánh luôn luôn xả; cũng chẳng nghĩ là ta hành trí Nhất thiết, ta hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; cũng chẳng nghĩ là ta hành quả Dự lưu, ta hành quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; cũng chẳng nghĩ là ta hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát, ta hành quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hiện đạt được sự giác ngộ, chẳng phải thủ mà hành, chẳng phải xả mà hành.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát hiện đạt được sự giác ngộ, chẳng thủ mà hành, chẳng xả mà hành thì các Đại Bồ-tát ấy sẽ hành ở chỗ nào?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Các hóa thân cả Phật hiện đạt được sự giác ngộ sẽ hành ở chỗ nào, có phải thủ mà hành, có phải xả mà hành chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không! Các hóa thân của Phật đúng là không thật có thì sao có thể nói là hiện đạt được sự giác ngộ có đối tượng, nơi chốn hành hóa hoặc thủ hoặc xả? Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Sự giác ngộ trong mộng của các A-la-hán, sẽ hành chỗ nào, có phải thủ mà hành có phải xả mà hành chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không! Các A-la-hán, các lậu đã vĩnh viễn dứt sạch, các thứ hôn trầm, thùy miên, các loại phiền não trói buộc, che lấp đều diệt, rốt ráo không mộng thì làm sao sẽ có sự giác ngộ trong mộng, có đối tượng, nơi chốn hành hóa hoặc thủ hoặc xả?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, hiện đạt được sự giác ngộ cũng giống như thế, chẳng phải thủ mà hành, chẳng phải xả mà hành, hoàn toàn không có chỗ hành, vì bản tánh không vậy.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, hiện đạt đến sự giác ngộ, chẳng phải thủ mà hành, chẳng phải xả mà hành, hoàn toàn không có chốn hành hóa, nghĩa là chẳng hành sắc, cũng chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức; chẳng hành nhãn xứ, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng hành sắc xứ, cũng chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng hành nhãn giới, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng hành sắc giới, cũng chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng hành nhãn thức giới, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng hành nhãn xúc, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng hành các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, cũng chẳng hành các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; chẳng hành địa giới, cũng chẳng hành thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng hành nhân duyên, cũng chẳng hành đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; chẳng hành các pháp từ duyên sinh ra; chẳng hành vô minh, cũng chẳng hành hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; chẳng hành Bố thí ba-la-mật-đa, cũng chẳng hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp không bên trong, cũng chẳng hành pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng hành bốn Niệm trụ, cũng chẳng hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chẳng hành Thánh đế khổ, cũng chẳng hành Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng hành bốn Tĩnh lự, cũng chẳng hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chẳng hành tám Giải thoát, cũng chẳng hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng hành pháp môn giải thoát Không, cũng chẳng hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chẳng hành bậc Cực hỷ, cũng chẳng hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chẳng hành năm loại mắt, cũng chẳng hành sáu phép thần thông; chẳng hành mười lực của Phật, cũng chẳng hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng hành ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, cũng chẳng hành tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; chẳng hành pháp không quên mất, cũng chẳng hành tánh luôn luôn xả; chẳng hành trí Nhất thiết, cũng chẳng hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; chẳng hành quả Dự lưu, cũng chẳng hành quả Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán, quả vị Độc giác; chẳng hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng chẳng hành quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, thì Bạch Thế Tôn, há chẳng phải Đại Bồ-tát chẳng hành Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa; chẳng hành pháp không bên trong, chẳng hành pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng hành bốn Niệm trụ, chẳng hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chẳng hành Thánh đế khổ, chẳng hành Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng hành bốn Tĩnh lự, chẳng hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chẳng hành tám Giải thoát, chẳng hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng hành pháp môn giải thoát Không, chẳng hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chẳng nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát; chẳng hành bậc Cực hỷ, chẳng hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chẳng hành năm loại mắt, chẳng hành sáu phép thần thông; chẳng hành mười lực của Phật, chẳng hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng hành ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, chẳng hành tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; chẳng hành pháp không quên mất, chẳng hành tánh luôn luôn xả; chẳng hành trí Nhất thiết, chẳng hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; chẳng an trú nơi thần thông thù thắng của Bồ-tát, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật mà chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, không phải như vậy! Các Đại Bồ-tát hiện đạt được sự giác ngộ, tuy không có chốn hành hóa nhưng các Đại Bồ-tát cần phải hành Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa; cần phải hành pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cần phải hành bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; cần phải hành Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cần phải hành bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cần phải hành tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; cần phải hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cần phải hành pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chẳng nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát; cần phải hành bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; cần phải hành năm loại mắt, sáu phép thần thông; cần phải hành mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cần phải hành ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; cần phải hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cần phải hành trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; cần phải an trú nơi thần thông thù thắng của Bồtát, đem lại sự thành tựu cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát hiện đạt được sự giác ngộ, nếu không có chốn hành hóa thì sẽ không có Đại Bồ-tát, chẳng an trú nơi Bố thí ba-lamật-đa, chẳng an trú nơi Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; chẳng an trú nơi pháp không bên trong, chẳng an trú nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; chẳng an trú nơi bốn Niệm trụ, chẳng an trú nơi bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; chẳng an trú nơi Thánh đế khổ, chẳng an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; chẳng an trú nơi bốn Tĩnh lự, chẳng an trú nơi bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; chẳng an trú nơi tám Giải thoát, chẳng an trú nơi tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; chẳng an trú nơi tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng an trú nơi tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; chẳng an trú nơi pháp môn giải thoát Không, chẳng an trú nơi pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; chẳng nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát; chẳng an trú nơi bậc Cực hỷ, chẳng an trú nơi bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; chẳng an trú nơi năm loại mắt, chẳng an trú nơi sáu phép thần thông, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; chẳng an trú nơi mười lực của Phật, chẳng an trú nơi bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; chẳng an trú nơi ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, chẳng an trú nơi tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; chẳng an trú nơi pháp không quên mất, chẳng an trú nơi tánh luôn luôn xả, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; chẳng an trú nơi trí Nhất thiết, chẳng an trú nơi trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; chẳng an trú nơi thần thông thù thắng của Bồ-tát, đem lại sự thành tựu cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật tu tập lâu dài khiến được viên mãn, để đắc quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, không phải thế! Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hiện đạt được sự giác ngộ, tuy không có chốn hành hóa, nhưng các Đại Bồ-tát cần phải an trú nơi Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; cần phải an trú nơi pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; cần phải an trú nơi bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; cần phải an trú nơi Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; cần phải an trú nơi bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; cần phải an trú nơi tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; cần phải an trú nơi tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; cần phải an trú nơi pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; cần phải nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát; cần phải an trú nơi bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; cần phải an trú nơi năm loại mắt, sáu phép thần thông, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; cần phải an trú nơi mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; cần phải an trú nơi ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; cần phải an trú nơi pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; cần phải an trú nơi trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, tu tập lâu dài khiến được viên mãn; cần phải an trú nơi thần thông thù thắng của Bồ-tát, đem lại sự thành tựu cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật tu tập lâu dài khiến được viên mãn, mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu tập các căn lành chưa thật sự viên mãn thì chẳng bao giờ chứng đắc đối tượng mong đạt tới là quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn đạt được quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên an trú nơi bản tánh không của sắc, nên an trú nơi bản tánh không của thọ, tưởng, hành, thức; nên an trú nơi bản tánh không của nhãn xứ, nên an trú nơi bản tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; nên an trú nơi bản tánh không của sắc xứ, nên an trú nơi bản tánh không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; nên an trú nơi bản tánh không của nhãn giới, nên an trú nơi bản tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; nên an trú nơi bản tánh không của sắc giới, nên an trú nơi bản tánh không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; nên an trú nơi bản tánh không của nhãn thức giới, nên an trú nơi bản tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; nên an trú nơi bản tánh không của nhãn xúc, nên an trú nơi bản tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; nên an trú nơi bản tánh không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, nên an trú nơi bản tánh không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; nên an trú nơi bản tánh không của địa giới, nên an trú nơi bản tánh không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; nên an trú nơi bản tánh không của nhân duyên, nên an trú nơi bản tánh không của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; nên an trú nơi bản tánh không của các pháp từ duyên sinh ra; nên an trú nơi bản tánh không của vô minh, nên an trú nơi bản tánh không của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; nên an trú nơi bản tánh không của Bố thí ba-la-mật-đa, nên an trú nơi bản tánh không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên an trú nơi bản tánh không của pháp không bên trong, nên an trú nơi bản tánh không của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; nên an trú nơi bản tánh không của bốn Niệm trụ, nên an trú nơi bản tánh không của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; nên an trú nơi bản tánh không của Thánh đế khổ, nên an trú nơi bản tánh không của Thánh đế tập, diệt, đạo; nên an trú nơi bản tánh không của bốn Tĩnh lự, nên an trú nơi bản tánh không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; nên an trú nơi bản tánh không của tám Giải thoát, nên an trú nơi bản tánh không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; nên an trú nơi bản tánh không của tất cả pháp môn Đà-la-ni, nên an trú nơi bản tánh không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nên an trú nơi bản tánh không của pháp môn giải thoát Không, nên an trú nơi bản tánh không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; nên an trú nơi bản tánh không của bậc Cực hỷ, nên an trú nơi bản tánh không của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; nên an trú nơi bản tánh không của năm loại mắt, nên an trú nơi bản tánh không của sáu phép thần thông; nên an trú nơi bản tánh không của mười lực của Phật, nên an trú nơi bản tánh không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; nên an trú nơi bản tánh không của ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, nên an trú nơi bản tánh không của tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; nên an trú nơi bản tánh không của pháp không quên mất, nên an trú nơi bản tánh không của tánh luôn luôn xả; nên an trú nơi bản tánh không của trí Nhất thiết, nên an trú nơi bản tánh không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; nên an trú nơi bản tánh không của quả Dự lưu, nên an trú nơi bản tánh không của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán, quả vị Độc giác; nên an trú nơi bản tánh không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát; nên an trú nơi bản tánh không của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; nên an trú nơi bản tánh không của tất cả các pháp; nên an trú nơi bản tánh không của tất cả hữu tình, tu tập các công đức khiến được viên mãn rồi thì mới chứng quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, bản tánh không của các pháp ấy và bản tánh không của hữu tình vô cùng tịch tĩnh, không có pháp nhỏ nào có thể tăng, có thể giảm, có thể sinh, có thể diệt, có thể đoạn, có thể thường, có thể nhiễm, có thể tịnh, có thể đắc quả, có thể hiện quán.
Này Thiện Hiện, nên biết, Đại Bồ-tát nương vào thế tục mà nói, nêu bày các pháp, cho nên nói tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, rõ biết như thật về bản tánh không rồi, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chứ chẳng phải là nương vào chân thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong chân thắng nghĩa, không có sắc có thể nắm bắt được, cũng không có thọ, tưởng, hành, thức có thể nắm bắt được; không có nhãn xứ có thể nắm bắt được, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể nắm bắt được; không có sắc xứ có thể nắm bắt được, cũng không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể nắm bắt được; không có nhãn giới có thể nắm bắt được, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có thể nắm bắt được; không có sắc giới có thể nắm bắt được, cũng không có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có thể nắm bắt được; không có nhãn thức giới có thể nắm bắt được, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có thể nắm bắt được; không có nhãn xúc có thể nắm bắt được, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có thể nắm bắt được; không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có thể nắm bắt được, cũng không có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có thể nắm bắt được; không có địa giới có thể nắm bắt được, cũng không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể nắm bắt được; không có nhân duyên có thể nắm bắt được, cũng không có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có thể nắm bắt được; không có các pháp từ duyên sinh ra có thể nắm bắt được; không có vô minh có thể nắm bắt được, cũng không có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não có thể nắm bắt được; không có Bố thí ba-la-mật-đa có thể nắm bắt được, cũng không có Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể nắm bắt được; không có pháp không bên trong có thể nắm bắt được, cũng không có pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh có thể nắm bắt được; không có bốn Niệm trụ có thể nắm bắt được, cũng không có bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có thể nắm bắt được; không có Thánh đế khổ có thể nắm bắt được, cũng không có Thánh đế tập, diệt, đạo có thể nắm bắt được; không có bốn Tĩnh lự có thể nắm bắt được, cũng không có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có thể nắm bắt được; không có tám Giải thoát có thể nắm bắt được, cũng không có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có thể nắm bắt được; không có tất cả pháp môn Đàla-ni có thể nắm bắt được, cũng không có tất cả pháp môn Tam-ma-địa có thể nắm bắt được; không có pháp môn giải thoát Không có thể nắm bắt được, cũng không có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có thể nắm bắt được; không có bậc Cực hỷ có thể nắm bắt được, cũng không có bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân có thể nắm bắt được; không có năm loại mắt có thể nắm bắt được, cũng không có sáu phép thần thông có thể nắm bắt được; không có mười lực của Phật có thể nắm bắt được, cũng không có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng có thể nắm bắt được; không có ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ có thể nắm bắt được, cũng không có tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc có thể nắm bắt được; không có pháp không quên mất có thể nắm bắt được, cũng không có tánh luôn luôn xả có thể nắm bắt được; không có trí Nhất thiết có thể nắm bắt được, cũng không có trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có thể nắm bắt được; không có quả Dự lưu có thể nắm bắt được, cũng không có quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác có thể nắm bắt được; không có tất cả hạnh Đại Bồ-tát có thể nắm bắt được, cũng không có quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; không có người hành hạnh Đại Bồ-tát có thể nắm bắt được, cũng không có người hành quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, các pháp như thế, đều nương vào ngôn từ của thế tục mà nêu bày, diễn đạt chứ chẳng nương vào thắng nghĩa.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, từ khi mới phát tâm, tuy dốc hết tâm lực vì các hữu tình hành hạnh Bồ-đề, nhưng đối với tâm này hoàn toàn không có sở đắc, đối với các hữu tình cũng không có sở đắc, đối với đại Bồđề cũng không có sở đắc, đối với Phật, Bồ-tát cũng không có sở đắc.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp hoàn toàn không có sở đắc, đều chẳng thể nắm bắt được thì tại sao Đại Bồ-tát hành hạnh Bồ-đề, tại sao có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Khi trước, ông nương vào lãnh vực đoạn mà đoạn trừ các phiền não, được căn vô lậu, an trú nơi định không gián đoạn, đắc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, thì khi ấy ông có thấy hữu tình, hoặc tâm, hoặc đạo, hoặc các đạo quả có thể nắm bắt được chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu khi đó ông hoàn toàn không có sở đắc thì tại sao nói là đắc quả A-la-hán? Thiện Hiện đáp:
–Vì nương vào thế tục mà nói, chẳng dựa vào thắng nghĩa.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Các Đại Bồ-tát cũng giống như thế, nương vào thế tục mà nói, hành hạnh Bồ-đề và đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chứ chẳng dựa vào thắng nghĩa.
Này Thiện Hiện, vì nương vào thế tục nên nêu bày có sắc, nêu bày có thọ, tưởng, hành, thức; vì nương vào thế tục nên nêu bày có nhãn xứ, nêu bày có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; vì nương vào thế tục nên nêu bày có sắc xứ, nêu bày có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; vì nương vào thế tục nên nêu bày có nhãn giới, nêu bày có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; vì nương vào thế tục nên nêu bày có sắc giới, nêu bày có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; vì nương vào thế tục nên nêu bày có nhãn thức giới, nêu bày có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; vì nương vào thế tục nên nêu bày có nhãn xúc, nêu bày có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; vì nương vào thế tục nên nêu bày có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, nêu bày có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; vì nương vào thế tục nên nêu bày có địa giới, nêu bày có thủy, hỏa, phong, không, thức giới; vì nương vào thế tục nên nêu bày có nhân duyên, nêu bày có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; vì nương vào thế tục nên nêu bày có các pháp từ duyên sinh ra; vì nương vào thế tục nên nêu bày có vô minh, nêu bày có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; vì nương vào thế tục nên nêu bày có Bố thí ba-la-mật-đa, nêu bày có Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa; vì nương vào thế tục nên nêu bày có pháp không bên trong, nêu bày có pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; vì nương vào thế tục nên nêu bày có bốn Niệm trụ, nêu bày có bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; vì nương vào thế tục nên nêu bày có Thánh đế khổ, nêu bày có Thánh đế tập, diệt, đạo; vì nương vào thế tục nên nêu bày có bốn Tĩnh lự, nêu bày có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; vì nương vào thế tục nên nêu bày có tám Giải thoát, nêu bày có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; vì nương vào thế tục nên nêu bày có tất cả pháp môn Đà-la-ni, nêu bày có tất cả pháp môn Tam-ma-địa; vì nương vào thế tục nên nêu bày có pháp môn giải thoát Không, nêu bày có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; vì nương vào thế tục nên nêu bày có bậc Cực hỷ, nêu bày có bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; vì nương vào thế tục nên nêu bày có năm loại mắt, nêu bày có sáu phép thần thông; vì nương vào thế tục nên nêu bày có mười lực của Phật, nêu bày có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vì nương vào thế tục nên nêu bày có ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, nêu bày có tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; vì nương vào thế tục nên nêu bày có pháp không quên mất, nêu bày có tánh luôn luôn xả; vì nương vào thế tục nên nêu bày có trí Nhất thiết, nêu bày có trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; vì nương vào thế tục nên nêu bày có quả Dự lưu, nêu bày có quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; vì nương vào thế tục nên nêu bày có tất cả hạnh Đại Bồ-tát, nêu bày có quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; vì nương vào thế tục nên nêu bày có hữu tình, nêu bày có Bồ-tát, chư Phật Thế Tôn, chứ chẳng dựa vào thắng nghĩa.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát chẳng thấy có pháp nào có thể ở nơi quả vị Giác ngộ cao tột mà có tăng có giảm, có thêm có bớt, vì tất cả pháp đều là bản tánh không vậy.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát đối với tất cả các pháp, quán bản tánh không hãy còn chẳng thể nắm bắt được, huống là mới phát tâm mà có thể nắm bắt được; huống là tu Bố thí ba-la-mật-đa mà có cái có thể nắm bắt được, huống là tu Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có cái có thể nắm bắt được; huống là an trú nơi pháp không bên trong mà có cái có thể nắm bắt được, huống là an trú nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà có cái có thể nắm bắt được; huống là tu bốn Niệm trụ mà có cái có thể nắm bắt được, huống là tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà có cái có thể nắm bắt được; huống là an trú nơi Thánh đế khổ mà có cái có thể nắm bắt được, huống là an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo mà có cái có thể nắm bắt được; huống là tu bốn Tĩnh lự mà có cái có thể nắm bắt được, huống là tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà có cái có thể nắm bắt được; huống là tu tám Giải thoát mà có cái có thể nắm bắt được, huống là tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà có cái có thể nắm bắt được; huống là tu pháp môn Đà-la-ni mà có cái có thể nắm bắt được, huống là tu pháp môn Tam-ma-địa mà có cái có thể nắm bắt được; huống là tu pháp môn giải thoát Không mà có cái có thể nắm bắt được, huống là tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà có cái có thể nắm bắt được; huống là tu bậc Cực hỷ mà có cái có thể nắm bắt được, huống là tu bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân mà có cái có thể nắm bắt được; huống là tu năm loại mắt mà có cái có thể nắm bắt được, huống là tu sáu phép thần thông mà có cái có thể nắm bắt được; huống là tu mười lực của Phật mà có cái có thể nắm bắt được, huống là tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà có cái có thể nắm bắt được; huống là tu ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ mà có cái có thể nắm bắt được, huống là tu tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà có cái có thể nắm bắt được; huống là tu pháp không quên mất mà có cái có thể nắm bắt được, huống là tu tánh luôn luôn xả mà có cái có thể nắm bắt được; huống là tu trí Nhất thiết mà có cái có thể nắm bắt được, huống là tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà có cái có thể nắm bắt được; huống là tu tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà có cái có thể nắm bắt được, huống là tu quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà có cái có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát ở nơi đối tượng tu tập, an trú nơi tất cả Pháp Phật mà có sở đắc thì đó là việc không có.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát tu hành quả vị Giác ngộ cao tột, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi ích cho hữu tình thường không gián đoạn.
[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]