SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
HỘI THỨ I
Phẩm 72: LÀM NGHIÊM TỊNH CÕI PHẬT
(QUYỂN 393 - 394)
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện suy nghĩ:
–Pháp nào gọi là con đường tu tập của Đại Bồtát mà các Đại Bồ-tát an trú nơi ấy, thường mặc các loại áo giáp đại công đức, đem lại lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình?
Phật biết rõ tâm niệm ấy nên bảo Thiện Hiện:
–Này Thiện Hiện, nên biết, Bố thí ba-la-mật-đa là con đường tu tập của Đại Bồ-tát, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là con đường tu tập của Đại Bồ-tát; pháp không bên trong là con đường tu tập của Đại Bồ-tát, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là con đường tu tập của Đại Bồ-tát; bốn Niệm trụ là con đường tu tập của Đại Bồ-tát, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo là con đường tu tập của Đại Bồ-tát; Thánh đế khổ là con đường tu tập của Đại Bồ-tát, Thánh đế tập, diệt, đạo là con đường tu tập của Đại Bồ-tát; bốn Tĩnh lự là con đường tu tập của Đại Bồ-tát, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là con đường tu tập của Đại Bồ-tát; tám Giải thoát là con đường tu tập của Đại Bồ-tát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là con đường tu tập của Đại Bồ-tát; tất cả pháp môn Đà-la-ni là con đường tu tập của Đại Bồ-tát, tất cả pháp môn Tam-ma-địa là con đường tu tập của Đại Bồ-tát; pháp môn giải thoát Không là con đường tu tập của Đại Bồ-tát, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là con đường tu tập của Đại Bồ-tát; bậc Cực hỷ là con đường tu tập của Đại Bồtát, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là con đường tu tập của Đại Bồ-tát; năm loại mắt là con đường tu tập của Đại Bồ-tát, sáu phép thần thông là con đường tu tập của Đại Bồ-tát; mười lực của Phật là con đường tu tập của Đại Bồ-tát, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng là con đường tu tập của Đại Bồ-tát; pháp không quên mất là con đường tu tập của Đại Bồ-tát, tánh luôn luôn xả là con đường tu tập của Đại Bồ-tát; trí Nhất thiết là con đường tu tập của Đại Bồ-tát, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là con đường tu tập của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Thiện Hiện, nói tóm lại, tất cả pháp đều là con đường tu tập của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Có pháp nào mà các Đại Bồ-tát chẳng nên học và các Đại Bồ-tát chẳng học pháp ấy mà có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Này Thiện Hiện, nhất định không có pháp nào mà các Đại Bồ-tát chẳng nên học. Các Đại Bồ-tát nếu chẳng học pháp này thì nhất định chẳng có thể chứng đắc đối tượng mong đạt tới là quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nếu Đại Bồ-tát chẳng học tất cả các pháp thì chẳng bao giờ có thể đạt được trí Nhất thiết trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp tự tánh đều là không thì làm thế nào Đại Bồ-tát học tất cả các pháp? Chẳng lẽ Thế Tôn đối với pháp không hý luận mà tạo ra sự hý luận, cho rằng có các pháp, là pháp này, là pháp kia, do vậy nên vậy; đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian; đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu; đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi; đây là pháp phàm phu, đây là pháp Dự lưu, đây là pháp Nhất lai, đây là pháp Bất hoàn, đây là pháp A-la-hán, đây là pháp Độc giác, đây là pháp Bồ-tát, đây là pháp Như Lai.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Các pháp hiện có tự tánh đều là không.
Này Thiện Hiện, nếu tất cả pháp tự tánh chẳng là không thì đáng lẽ các Đại Bồ-tát chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, vì tất cả pháp tự tánh đều là không cho nên các Đại Bồ-tát mới có thể đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, như lời ông hỏi, nếu tất cả pháp tự tánh đều là không, thì làm thế nào Đại Bồtát học tất cả các pháp, chẳng lẽ Thế Tôn đối với pháp không hý luận tạo ra sự hý luận, cho rằng có các pháp, là pháp này, là pháp kia, do vậy nên vậy; đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian cho đến đây là pháp Bồ-tát, đây là pháp Như Lai, thì này Thiện Hiện, nếu các hữu tình biết tất cả pháp đều là tự tánh không thì các Đại Bồ-tát chẳng nên học tất cả pháp, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, vì các hữu tình mà an lập, thuyết giảng. Nhưng Này Thiện Hiện, vì các hữu tình chẳng biết các pháp đều là tự tánh không, nên các Đại Bồ-tát phải học tất cả pháp, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, vì các hữu tình an lập thuyết giảng.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát đối với con đường tu tập của Bồ-tát, khi mới tu học nên quán sát kỹ, tự tánh của các pháp hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, chỉ do chấp trước hòa hợp tạo ra. Ta nên quán sát kỹ tự tánh các pháp đều rốt ráo không, chẳng nên đối với chúng có sự chấp trước, đó là chẳng nên chấp trước sắc, chẳng nên chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên chấp trước nhãn xứ, chẳng nên chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng nên chấp trước sắc xứ, chẳng nên chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng nên chấp trước nhãn giới, chẳng nên chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng nên chấp trước sắc giới, chẳng nên chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng nên chấp trước nhãn thức giới, chẳng nên chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng nên chấp trước nhãn xúc, chẳng nên chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng nên chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng nên chấp trước các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; chẳng nên chấp trước địa giới, chẳng nên chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng nên chấp trước nhân duyên, chẳng nên chấp trước đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; chẳng nên chấp trước các pháp từ duyên sinh ra; chẳng nên chấp trước vô minh, chẳng nên chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; chẳng nên chấp trước Bố thí ba-lamật-đa, chẳng nên chấp trước Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng nên chấp trước pháp không bên trong, chẳng nên chấp trước pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng nên chấp trước bốn Niệm trụ, chẳng nên chấp trước bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chẳng nên chấp trước Thánh đế khổ, chẳng nên chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nên chấp trước bốn Tĩnh lự, chẳng nên chấp trước bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chẳng nên chấp trước tám Giải thoát, chẳng nên chấp trước tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chẳng nên chấp trước tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng nên chấp trước tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng nên chấp trước pháp môn giải thoát Không, chẳng nên chấp trước pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chẳng nên chấp trước bậc Cực hỷ, chẳng nên chấp trước bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chẳng nên chấp trước năm loại mắt, chẳng nên chấp trước sáu phép thần thông; chẳng nên chấp trước mười lực của Phật, chẳng nên chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng nên chấp trước pháp không quên mất, chẳng nên chấp trước tánh luôn luôn xả; chẳng nên chấp trước trí Nhất thiết, chẳng nên chấp trước trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; chẳng nên chấp trước quả Dự lưu, chẳng nên chấp trước quả Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán, quả vị Độc giác; chẳng nên chấp trước tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng nên chấp trước quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Vì tất cả các pháp tự tánh đều là không, tánh không chẳng nên chấp trước tánh không; trong cái không, tánh không hãy còn chẳng thể nắm bắt được huống hồ là có tánh không có thể chấp trước không.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi quán sát tất cả pháp như thế, đối với tánh của các pháp tuy không chấp trước, nhưng đối với các pháp thường học không biết mệt mỏi.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú trong sự học này, quán các hữu tình tâm hành sai biệt, đó là quán sát kỹ các hữu tình ấy tâm hành theo chốn nào; đã quán kỹ rồi, rõ biết như thật là tâm của họ chỉ hành theo nẻo chấp trước h ư vọng. Bấy giờ, Bồ-tát suy nghĩ: Tâm họ đã hành theo nẻo chấp trước hư vọng thì ta khiến họ giải thoát chắc chắn chẳng phải là khó.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ như vậy rồi, an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa với phương tiện thiện xảo chỉ dạy trao truyền cho các hữu tình rằng: Hiện nay, các ngươi đều nên xa lìa nẻo chấp trước hư vọng, hướng vào chánh pháp, tu các hạnh lành.
Lại nói thế này: Hiện nay, các ngươi nên hành Bố thí ba-la-mật-đa, sẽ được các thứ vật dụng, không thiếu thốn gì, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong ấy hoàn toàn không có sự chắc thật. Các ngươi nên hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.
Các ngươi nên hành pháp không bên trong, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Các ngươi nên hành pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.
Các ngươi nên hành bốn Niệm trụ, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Các ngươi nên hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.
Các ngươi nên hành Thánh đế khổ, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Các ngươi nên hành Thánh đế tập, diệt, đạo, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.
Các ngươi nên hành bốn Tĩnh lự, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Các ngươi nên hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.
Các ngươi nên hành tám Giải thoát, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Các ngươi nên hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.
Các ngươi nên hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Các ngươi nên hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.
Các ngươi nên hành pháp môn giải thoát Không, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Các ngươi nên hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.
Các ngươi nên hành bậc Cực hỷ, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Các ngươi nên hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.
Các ngươi nên hành năm loại mắt, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Các ngươi nên hành sáu phép thần thông, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.
Các ngươi nên hành mười lực của Phật, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Các ngươi nên hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.
Các ngươi nên hành pháp không quên mất, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Các ngươi nên hành tánh luôn luôn xả, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.
Các ngươi nên hành trí Nhất thiết, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Các ngươi nên hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.
Các ngươi nên hành quả Dự lưu, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Các ngươi nên hành quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.
Các ngươi nên hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Các ngươi nên hành quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, nhưng chớ cậy vào điều này mà sinh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú nơi Bátnhã ba-la-mật-đa, với phương tiện thiện xảo khi chỉ dạy trao truyền cho các hữu tình hành đạo Bồ-đề không có chấp trước. Vì sao? Vì tánh của tất cả các pháp chẳng nên chấp trước, hoặc chủ thể chấp, đối tượng bị chấp đều không có tự tánh, vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành đạo Bồ-đề như thế, đối với tất cả pháp hoàn toàn không chốn trụ; vì lấy không có chốn trụ làm phương tiện nên tuy hành Bố thí ba-la-mật-đa nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ; tuy hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành hóa, hình tướng hành hóa, tất cả đều là không. Tuy hành pháp không bên trong nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ; tuy hành pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành hóa, hình tướng hành hóa, tất cả đều là không. Tuy hành bốn Niệm trụ nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ; tuy hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành hóa, hình tướng hành hóa, tất cả đều là không. Tuy hành Thánh đế khổ nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ; tuy hành Thánh đế tập, diệt, đạo nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành hóa, hình tướng hành hóa, tất cả đều là không. Tuy hành bốn Tĩnh lự nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ; tuy hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành hóa, hình tướng hành hóa, tất cả đều là không. Tuy hành tám Giải thoát nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ; tuy hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành hóa, hình tướng hành hóa, tất cả đều là không. Tuy hành tất cả pháp môn Đà-la-ni nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ; tuy hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành hóa, hình tướng hành hóa, tất cả đều là không. Tuy hành pháp môn giải thoát Không nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ; tuy hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành hóa, hình tướng hành hóa, tất cả đều là không. Tuy hành bậc Cực hỷ nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ; tuy hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành hóa, hình tướng hành hóa, tất cả đều là không. Tuy hành năm loại mắt nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ; tuy hành sáu phép thần thông nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành hóa, hình tướng hành hóa, tất cả đều là không. Tuy hành mười lực của Phật nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ; tuy hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành hóa, hình tướng hành hóa, tất cả đều là không. Tuy hành pháp không quên mất nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ; tuy hành tánh luôn luôn xả nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành hóa, hình tướng hành hóa, tất cả đều là không. Tuy hành trí Nhất thiết nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ; tuy hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành hóa, hình tướng hành hóa, tất cả đều là không. Tuy hành quả Dự lưu nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ; tuy hành quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành hóa, hình tướng hành hóa, tất cả đều là không. Tuy hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ; tuy hành quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật nhưng ở trong đó hoàn toàn không chốn trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành hóa, hình tướng hành hóa, tất cả đều là không.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tuy có thể đắc quả Dự lưu nhưng chẳng trụ trong quả ấy, tuy có thể đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác nhưng chẳng trụ trong những quả ấy. Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì nhân duyên gì mà Đại Bồtát ấy tuy có thể đắc quả Dự lưu nhưng chẳng trụ trong đó; tuy có thể đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán, quả vị Độc giác nhưng chẳng trụ trong đó?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy có hai nhân duyên, tuy có thể đắc quả Dự lưu nhưng chẳng trụ trong đó; tuy có thể đắc quả Nhất lai cho đến quả vị Độc giác nhưng chẳng trụ trong đó. Hai nhân duyên ấy là gì? Một là quả ấy hoàn toàn không có tự tánh, chủ thể trụ, đối tượng được trụ đều chẳng thể nắm bắt được. Hai là đối với quả ấy chẳng vừa ý, vì vậy chẳng trụ. Nghĩa là Đại Bồ-tát ấy thường nghĩa thế này: Ta nhất định đắc quả Dự lưu, chẳng phải là chẳng đắc, nhưng chẳng nên trụ trong đó; ta nhất định đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, chẳng phải là chẳng đắc, nhưng chẳng nên trụ trong đó. Vì sao? Vì từ khi ta mới phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột đến nay, ở trong bất cứ lúc nào, chẳng nghĩ tưởng gì khác, chỉ mong đạt được quả vị Giác ngộ cao tột. Ta nhất định sẽ chứng đắc quả vị ấy thì ở nửa đường há nên trụ nơi một quả nào khác.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy từ khi mới phát tâm cho đến khi nhập Chánh tánh ly sinh của Bồtát, không hề có tư tưởng nào khác, chỉ mong đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy từ khi đắc địa thứ nhất cho đế khi đắc địa thứ mười không hề có tư tưởng nào khác, chỉ mong đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy dốc khuyên cầu quả vị Giác ngộ cao tột, ở bất cứ lúc nào tâm không tán loạn, như có dấy khởi nghiệp nơi thân, ngữ, ý nào đều tương ưng với tâm Bồ-đề.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú nơi tâm Bồ-đề, thực hiện, phát huy con đường tu tập đạt giác ngộ chẳng bị cảnh khác làm nhiễu loạn tâm.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả các pháp đều chẳng sinh thì tại sao Đại Bồ-tát thực hiện, phát huy con đường tu tập đạt giác ngộ?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy! Tất cả các pháp đều chẳng sinh. Ở đây, trong trường hợp không có đối tượng tạo tác, hướng tới, thì làm sao biết được tất cả các pháp đều chẳng sinh.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Như Lai dù xuất hiện ở đời, hoặc chẳng xuất hiện ở đời thì các pháp, pháp giới, pháp nhĩ vẫn là thường trú.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy! Như Lai dù xuất hiện ở đời, hoặc chẳng xuất hiện ở đời thì các pháp, pháp giới, pháp nhĩ vẫn thường trú. Nhưng các hữu tình chẳng thể hiểu rõ các pháp, pháp giới, pháp nhĩ là thường trú. Các Đại Bồ-tát vì nhằm đem lại lợi ích nên thực hiện, phát huy con đường tu tập đạt giác ngộ, nhờ con đường ấy mà thoát khỏi các khổ nơi sinh tử.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát có phải dùng nẻo sinh mà chứng đắc Bồ-đề chăng?
Phật dạy:
–Không!
–Bạch Thế Tôn, có phải dùng nẻo bất sinh mà chứng đắc Bồ-đề chăng?
Phật dạy:
–Không!
–Bạch Thế Tôn, có phải dùng nẻo sinh, bất sinh mà chứng đắc Bồ-đề chăng?
Phật dạy:
–Không!
–Bạch Thế Tôn, có phải dùng nẻo chẳng phải sinh, chẳng phải bất sinh mà chứng đắc Bồ-đề chăng?
Phật dạy:
–Không!
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vậy Đại Bồ-tát làm thế nào để chứng đắc Bồ-đề?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, chẳng dùng đạo để chứng đắc Bồ-đề, cũng chẳng dùng chẳng phải đạo để chứng đắc Bồ-đề. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Bồđề tức là đạo, đạo tức là Bồ-đề.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu Bồ-đề tức là đạo, đạo tức là Bồ-đề, nên đã đắc Bồ-đề, nếu vậy thì tại sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác lại vì họ nói về ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cùng mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng... và vô lượng pháp Phật, khiến họ tu chứng?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Ông há có thể cho rằng Phật đắc Bồ-đề chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không! Vì sao? Bạch Thế Tôn, vì Phật tức là Bồđề, Bồ-đề tức là Phật, do đấy chẳng nên gọi là Phật đắc Bồ-đề.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy! Nhưng điều ông hỏi là há chẳng phải các Đại Bồ-tát đã đắc đạo Bồ-đề, nên đã đức Bồ-đề, thì này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát tu tập đạo Bồ-đề chưa được viên mãn, thế thì tại sao có thể nói là đã đắc Bồ-đề?
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nếu đã thành tựu viên mãn Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; nếu đã thành tựu viên mãn pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; nếu đã thành tựu viên mãn bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; nếu đã thành tựu viên mãn Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; nếu đã thành tựu viên mãn bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; nếu đã thành tựu viên mãn tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; nếu đã thành tựu viên mãn tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-mađịa; nếu đã thành tựu viên mãn pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; nếu đã thành tựu viên mãn bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; nếu đã thành tựu viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông; nếu đã thành tựu viên mãn mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; nếu đã thành tựu viên mãn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; nếu đã thành tựu viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; nếu đã thành tựu viên mãn trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; nếu đã thành tựu viên mãn tất cả hạnh Đại Bồ-tát, nếu đã thành tựu viên mãn sự quán sát mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch; nếu đã thành tựu viên mãn tất cả thần thông tự tại của Bồ-tát; nếu đã thành tựu viên mãn Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na thù thắng; nếu đã thành tựu viên mãn tất cả hành trang cần thiết về phước đức trí tuệ; nếu đã thành tựu viên mãn việc đem lại sự thành tựu cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; nếu đã thành tựu viên mãn vô lượng, vô biên chẳng thể nghĩ bàn các diệu pháp của chư Phật, thì từ đấy liên tục dùng một sát-na nơi định Kim cang dụ tương ưng với diệu tuệ; vĩnh viễn đoạn trừ tất cả phiền não, hai chướng về sở tri, các tập khí tương tục thô trọng, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì mới gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với tất cả các pháp được hoàn toàn tự tại, đem lại lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình tận đời vị lai.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát làm nghiêm tịnh cõi Phật như thế nào?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến lúc đạt tới cứu cánh, thường tự tạo được thanh tịnh nơi thân, ngữ, ý thô trọng, cũng tạo được thanh tịnh nơi thân, ngữ, ý thô trọng của người khác. Đại Bồ-tát ấy vì tạo được thanh tịnh nơi ba thô trọng của mình và người, nên có thể làm nghiêm tịnh đối tượng mong đạt được là cõi Phật.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, những gì là thân, ngữ, ý thô trọng của Đại Bồ-tát?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, hoặc sát hại sinh mạng, hoặc chẳng cho mà lấy, hoặc dâm dục tà hạnh, các hạnh ác bất thiện của thân như thế gọi là thân thô trọng của Đại Bồ-tát. Hoặc nói lời hư dối, hoặc nói lời ly gián, hoặc nói lời thô ác, hoặc nói lời hỗn tạp, các hạnh ác bất thiện như thế của lời nói gọi là ngữ thô trọng của Đại Bồ-tát. Hoặc tham dục, hoặc sân hận, hoặc tà kiến, các hạnh ác bất thiện của ý như thế gọi là ý thô trọng của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của Đại Bồ-tát chẳng thanh tịnh, thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát có tâm tham lam keo kiệt, tâm phạm giới, tâm sân giận, tâm biếng trễ, tâm tán loạn, tâm ác tuệ thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa các Địa của Đại Bồ-tát thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tham đắm việc chứng quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, hoặc quả vị Độc giác cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng về sắc, khởi tưởng về thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về nhãn xứ, khởi tưởng về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về sắc xứ, khởi tưởng về thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về nhãn giới, khởi tưởng về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về sắc giới, khởi tưởng về thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về nhãn thức giới, khởi tưởng về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về nhãn xúc, khởi tưởng về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, khởi tưởng về các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về địa giới, khởi tưởng về thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về nhân duyên, khởi tưởng về đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về các pháp từ duyên sinh ra cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về vô minh, khởi tưởng về hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về Bố thí ba-la-mật-đa, khởi tưởng về Tịnh giới, An nhẫn,
Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về pháp không bên trong, khởi tưởng về pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về bốn Niệm trụ, khởi tưởng về bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về Thánh đế khổ, khởi tưởng về Thánh đế tập, diệt, đạo cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về bốn Tĩnh lự, khởi tưởng về bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về tám Giải thoát, khởi tưởng về tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về tất cả pháp môn Đà-la-ni, khởi tưởng về tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về pháp môn giải thoát Không, khởi tưởng về pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về bậc Cực hỷ, khởi tưởng về bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về năm loại mắt, khởi tưởng về sáu phép thần thông cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về mười lực của Phật, khởi tưởng về bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, khởi tưởng về tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về pháp không quên mất, khởi tưởng về tánh luôn luôn xả cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về trí Nhất thiết, khởi tưởng về trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về quả Dự lưu, khởi tưởng về quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về tất cả hạnh Đại Bồ-tát, khởi tưởng về quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, khởi tưởng về phàm phu, khởi tưởng về Thanh văn, tưởng về Độc giác, tưởng về Bồ-tát, tưởng về Như Lai, cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về địa ngục, khởi tưởng về bàng sinh, quỷ giới, tưởng về thiên, nhân, nam, nữ, cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng về Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; khởi tưởng về thiện, bất thiện, vô ký, khởi tưởng về thế gian, xuất thế gian, khởi tưởng về hữu lậu, vô lậu, khởi tưởng về hữu vi, vô vi cũng gọi là thô trọng.
Này Thiện Hiện, vô lượng, vô biên các thứ chấp trước đối với các pháp như thế; sự phân biệt hư vọng và các nghiệp nơi thân, ngữ, ý đã khởi của chúng sinh cùng tánh không an trụ nổi của các loài ấy đều gọi là thô trọng.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy xa lìa các thứ thô trọng như đã nêu bày, tự hành Bố thí ba-la-mậtđa, cũng chỉ dạy người hành Bố thí ba-la-mật-đa. Nếu các hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần y phục cho y phục, cần xe cộ cho xe cộ, cần nhà cửa cho nhà cửa, cần nô bộc cho nô bộc, cần thị vệ cho thị vệ, cần hoa hương cho hoa hương, cần đồ trang sức cho đồ trang sức, cần phướn lọng cho phướn lọng, cần nhạc hay cho nhạc hay, cần đồ nằm cho đồ nằm, cần đèn sáng cho đèn sáng, cần giường tòa cho giường tòa, tùy theo nhu cầu về các thứ vật dụng, tùy thời tùy xứ thảy đều cho hết, như điều mình tự làm đem chỉ dạy cho người cũng vậy. Bố thí như thế rồi, đem căn lành này ban cho các hữu tình cùng có như nhau; hồi hướng đến đối tượng mong đạt được là làm nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, đem lại lợi lạc cho hữu tình.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tự hành Tịnh giới ba-la-mật-đa, cũng dạy người hành Tịnh giới ba-la-mật-đa, tự hành An nhẫn ba-la-mật-đa, cũng dạy người hành An nhẫn ba-la-mật-đa, tự hành Tinh tấn ba-la-mật-đa, cũng dạy người hành Tinh tấn ba-la-mật-đa, tự hành Tĩnh lự ba-la-mật-đa, cũng dạy người hành Tĩnh lự ba-la-mật-đa, tự hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng dạy người hành Bátnhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy làm các việc này rồi, đem căn lành này ban cho các hữu tình cùng có như nhau; hồi hướng đến đối tượng mong đạt được là làm nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, đem lại lợi lạc cho hữu tình.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát dùng nguyện lực của thần thông làm cho bảy báu thượng diệu đầy ắp cả thế giới ba lần ngàn để cúng dường Phật, Pháp, Tăng; cúng dường xong, hoan hỷ phát thệ nguyện rộng lớn: Tôi đem căn lành đã gieo trồng như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, cùng hồi hướng về đối tượng mong đạt tới là làm nghiêm tịnh cõi Phật, sẽ khiến cho cõi Phật của tôi được trang nghiêm bằng bảy báu, tất cả hữu tình ở đấy tùy ý thọ dụng các thứ châu báu nhưng không nhiễm đắm.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát dùng nguyện lực của thần thông hòa tấu vô lượng các âm nhạc vi diệu trên cõi trời nơi cõi người để cúng dường Tam bảo và tháp Phật; cúng dường xong hoan hỷ phát thệ nguyện rộng lớn: Tôi đem các căn lành đã gieo trồng như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, cùng hồi hướng về đối tượng mong đạt tới là làm nghiêm tịnh cõi Phật, sẽ khiến cho quốc độ của tôi thường hòa tấu các thứ âm nhạc thượng diệu như thế; các hữu tình ở đấy được nghe rồi thân tâm vui thích, an lạc, nhưng không nhiễm đắm.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát dùng nguyện lực của thần thông khiến cho các thứ hương hoa thượng diệu đầy ắp cả thế giới ba lần ngàn nơi người và trời, rồi đem các thứ hương hoa thượng diệu ấy cúng dường Tam bảo và tháp Phật; cúng dường xong hoan hỷ phát thệ nguyện rộng lớn: Tôi đem căn lành đã gieo trồng như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, cùng hồi hướng về đối tượng mong đạt tới là làm nghiêm tịnh cõi Phật, sẽ khiến cho quốc độ của tôi thường có các loại hương hoa thượng diệu như thế, các hữu tình ở đấy thọ dụng rồi thân tâm mừng vui nhưng không nhiễm đắm.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát dùng nguyện lực của thần thông bày ra các thức ăn uống với trăm vị thượng diệu để cúng dường chư Phật, các bậc Độc giác, Thanh văn và chúng Đại Bồ-tát; cúng dường xong hoan hỷ phát thệ nguyện rộng lớn: Tôi đem căn lành đã gieo trồng như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, cùng hồi hướng về đối tượng mong đạt tới là làm nghiêm tịnh cõi Phật, khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì sẽ khiến các loài hữu tình nơi quốc độ của tôi luôn được thọ dụng các thức ăn uống trăm vị như vậy, giúp cho thân tâm mừng vui mà không nhiễm đắm.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát dùng nguyện lực của thần thông bày hiện đủ các loại hương xoa thượng diệu nơi cõi trời, cõi người cùng các thứ y phục tốt đẹp để phụng cúng chư Phật, các bậc Độc giác, Thanh văn và chúng Đại Bồ-tát, hoặc lại cúng dường Pháp và tháp Phật; cúng dường xong hoan hỷ phát thệ nguyện rộng lớn: Tôi đem căn lành đã gieo trồng như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, cùng hồi hướng về đối tượng mong đạt tới là làm nghiêm tịnh cõi Phật, khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, sẽ khiến các loài hữu tình nơi quốc độ của tôi luôn có được các thứ y phục, hương xoa như thế, tùy ý thọ dụng mà không nhiễm đắm.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát dùng nguyện lực của thần thông bày hiện đủ các thứ cảnh giới thượng diệu về sắc, thanh, hương, vị, xúc phát sinh theo ý muốn nơi cõi trời, cõi người, để cúng dường chư Phật và tháp Phật, các bậc Độc giác, Thanh văn và các Bồ-tát, cùng các loài chúng sinh khác, cúng dường rồi thì vô cùng vui mừng phát thệ nguyện rộng lớn: Tôi đem căn lành đã gieo trồng như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, cùng hồi hướng về đối tượng mong đạt tới là làm nghiêm tịnh cõi Phật, khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì sẽ khiến các loài hữu tình nơi quốc độ của tôi các loại hữu tình ở đấy tùy tâm ưa thích các cảnh giới về sắc, thanh, hương, vị, xúc thượng diệu thì ứng theo niệm mà đến, hoan hỷ thọ dụng mà không nhiễm đắm.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh tấn dũng mãnh, tự an trú nơi pháp không bên trong, cũng khuyên người an trú nơi pháp không bên trong; tự an trú nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng khuyên người an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; làm việc này rồi, lại phát nguyện rằng: Khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, sẽ khiến cho các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh tấn dũng mãnh, tự tu bốn Niệm trụ, cũng khuyên người tu bốn Niệm trụ; tự tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, cũng khuyên người tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; làm việc này rồi, lại phát nguyện rằng: Khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, sẽ khiến cho các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh tấn dũng mãnh, tự an trú nơi Thánh đế khổ, cũng khuyên người an trú nơi Thánh đế khổ; tự an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng khuyên người an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; làm việc này rồi, lại phát nguyện rằng: Khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, sẽ khiến cho các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh tấn dũng mãnh, tự tu bốn Tĩnh lự, cũng khuyên người tu bốn Tĩnh lự; tự tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, cũng khuyên người tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; làm việc này rồi, lại phát nguyện rằng: Khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, sẽ khiến cho các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh tấn dũng mãnh, tự tu tám Giải thoát, cũng khuyên người tu tám Giải thoát; tự tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, cũng khuyên người tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; làm việc này rồi, lại phát nguyện rằng: Khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, sẽ khiến cho các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh tấn dũng mãnh, tự tu pháp môn Đà-la-ni, cũng khuyên người tu pháp môn Đà-la-ni; tự tu pháp môn Tam-ma-địa, cũng khuyên người tu pháp môn Tam-ma-địa; làm việc này rồi, lại phát nguyện rằng: Khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, sẽ khiến cho các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh tấn dũng mãnh, tự tu pháp môn giải thoát Không, cũng khuyên người tu pháp môn giải thoát Không; tự tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, cũng khuyên người tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; làm việc này rồi, lại phát nguyện rằng: Khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, sẽ khiến cho các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh tấn dũng mãnh, tự tu bậc Cực hỷ, cũng khuyên người tu bậc Cực hỷ; tự tu bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, cũng khuyên người tu bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân; làm việc này rồi, lại phát nguyện rằng: Khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, sẽ khiến cho các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân. Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh tấn dũng mãnh, tự tu năm loại mắt, cũng khuyên người tu năm loại mắt; tự tu sáu phép thần thông, cũng khuyên người tu sáu phép thần thông; làm việc này rồi, lại phát nguyện rằng: Khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, sẽ khiến cho các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh tấn dũng mãnh, tự tu mười lực của Phật, cũng khuyên người tu mười lực của Phật; tự tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng khuyên người tu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; làm việc này rồi, lại phát nguyện rằng: Khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, sẽ khiến cho các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh tấn dũng mãnh, tự tu ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, cũng khuyên người tu ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; tự tu tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, cũng khuyên người tu tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; làm việc này rồi, lại phát nguyện rằng: Khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, sẽ khiến cho các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc. Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh tấn dũng mãnh, tự tu pháp không quên mất, cũng khuyên người tu pháp không quên mất; tự tu tánh luôn luôn xả, cũng khuyên người tu tánh luôn luôn xả; làm việc này rồi, lại phát nguyện rằng: Khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, sẽ khiến cho các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh tấn dũng mãnh, tự tu trí Nhất thiết, cũng khuyên người tu trí Nhất thiết; tự tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, cũng khuyên người tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; làm việc này rồi, lại phát nguyện rằng: Khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, sẽ khiến cho các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh tấn dũng mãnh, tự tu tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng khuyên người tu tất cả hạnh Đại Bồ-tát; tự tu quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, cũng khuyên người tu quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; làm việc này rồi, lại phát nguyện rằng: Khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, sẽ khiến cho các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát ấy tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, do hạnh nguyện ấy nên có thể làm nghiêm tịnh đối tượng mong đạt đến là cõi Phật.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát ấy tùy theo hạnh nguyện đã phát khởi để hành đạo Bồ-đề trong thời gian như thế đạt được viên mãn thì ngay trong chừng ấy thời gian luôn tinh tấn tu học. Do nhân duyên này, tự mình có thể thành tựu tất cả các pháp thiện, cũng có thể khiến người dần dần thành tựu tất cả các pháp thiện, tự mình có thể tu đắc thân trang nghiêm với tướng hảo thù thắng, cũng có thể khiến người dần dần tu đắc thân trang nghiêm với tướng hảo thù thắng. Do phước đức to lớn đã được gồm thâu, giữ gìn nên này Thiện Hiện, các Đại Bồtát ấy đều đối với đối tượng mong đạt tới là làm nghiêm tịnh cõi Phật, khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, các hữu tình đã được hóa độ cũng được sinh vào cõi ấy, cùng thọ hưởng pháp lạc của Đại thừa nơi cõi thanh tịnh.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy nên tu tập làm nghiêm tịnh cõi Phật như thế, đó là trong cõi ấy thường chẳng nghe có ba thứ đường ác, cũng chẳng nghe có các loại ác kiến, cũng chẳng nghe có thứ độc hại như tham, sân, si, cũng chẳng nghe có các hình tướng nam, nữ, cũng chẳng nghe có các hàng Thanh văn, Độc giác, cũng chẳng nghe có khổ, vô thường..., cũng chẳng nghe có sự gồm thâu, giữ gìn các thứ vật dụng, cũng chẳng nghe có chấp ngã, ngã sở, cũng chẳng nghe có các thứ phiền não như tùy miên, triền, kết, cũng chẳng nghe có sự vướng chấp điên đảo, cũng chẳng nghe có sự an lập những phần vị sai biệt của các quả; chỉ nghe các âm thanh nói về các pháp không, vô tướng, vô nguyện, không sinh, không diệt, không tánh... Đó là tùy theo sự ưa thích sai biệt của các hữu tình, nơi các vật bên trong, bên ngoài các rừng cây thường có gió nhẹ va chạm vào nhau phát ra các loại âm thanh vi diệu; trong các thứ âm thanh ấy nêu bày tất cả pháp đều không có tự tánh; vì không có tự tánh nên không; vì không nên vô tướng; vì vô tướng nên vô nguyện; vì vô nguyện nên không sinh; vì không sinh nên không diệt. Do đó, các pháp xưa nay vốn tịch tĩnh, là tự tánh Niết-bàn. Phật xuất hiện ở đời hoặc chẳng xuất hiện ở đời thì pháp tướng vẫn luôn là như thế. Trong cõi Phật ấy, các loài hữu tình, hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm thường được nghe âm thanh diễn nói các pháp như thế.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đều ở nơi chỗ an trụ của mình làm nghiêm tịnh cõi Phật, khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương đều cùng xưng tán danh hiệu của các Phật ấy. Nếu các hữu tình được nghe danh hiệu Phật được xưng tán như thế thì đối với quả vị Giác ngộ cao tột nhất định đạt được không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đều ở nơi chỗ an trụ của mình làm nghiêm tịnh cõi Phật, khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, vì các hữu tình thuyết giảng chánh pháp. Hữu tình được nghe rồi thì nhất định chẳng sinh nghi đó là pháp hay chẳng phải là pháp. Vì sao? Vì các loài hữu tình ấy đã hiểu rõ các pháp đều là chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác; tất cả là pháp, không chẳng phải là pháp.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát ấy đều có thể làm nghiêm tịnh cõi Phật như thế.
Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát ấy có sự giáo hóa là những chúng sinh không đủ căn lành, chưa từng ở chỗ chư Phật, Bồ-tát, Độc giác và Thanh văn vun trồng các căn lành, lại bị các bạn xấu ác chi phối, lôi cuốn nên xa lìa bạn lành, chẳng nghe chánh pháp, thường bị các thứ kiến chấp về ngã, hữu tình cùng sự chấp giữ các thứ kiến chấp khác, rơi vào sự thiên chấp về hai bên thường, đoạn. Các hữu tình ấy tự dấy khởi tà chấp, cũng thường dạy người khiến dấy khởi tà chấp; đối với Phật khởi tưởng chẳng phải Phật, chẳng phải Phật thì khởi tưởng là Phật; đối với Pháp khởi tưởng chẳng phải Pháp, chẳng phải Pháp thì khởi tưởng là Pháp; đối với Tăng khởi tưởng chẳng phải Tăng, chẳng phải Tăng thì khởi tưởng là Tăng. Do nhân duyên ấy nên phỉ báng chánh pháp, vì phỉ báng chánh pháp nên khi thân hoại mạng chung bị đọa vào các đường ác, sinh trong địa ngục chịu bao thứ khổ não dữ dội. Các Đại Bồ-tát ấy đều ở nơi quốc độ của mình, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột rồi, nhận thấy các hữu tình kia trầm luân nơi sinh tử chịu vô số nỗi thống khổ, nên dùng diệu lực của thần thông, theo phương tiện giáo hóa khiến họ lìa bỏ ác kiến, trụ trong chánh kiến; ra khỏi địa ngục sinh vào cõi người; tiếp theo Đại Bồ-tát lại dùng các loại thần thông, theo phương tiện giáo hóa, khiến họ được an trú trong nhóm chánh định. Do đấy, hoàn toàn chẳng rơi vào đường ác; lại khiến tu tập hạnh nguyện thù thắng, khi mạng chung được sinh nơi cõi Phật nghiêm tịnh, thọ dụng pháp lạc của Đại thừa nơi cõi thanh tịnh.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát ấy đều có thể đem lại sự nghiêm tịnh nơi cõi Phật như thế. Do nơi thế giới được an trụ vô cùng thanh tịnh nên các hữu tình được sinh về thế giới đó đối với tất cả các pháp đều chẳng khởi sự phân biệt hư vọng, do dự cho đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian; đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu; đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi; các thứ phân biệt do dự như vậy, hoàn toàn chẳng còn dấy khởi. Do nhân duyên này nên các loài hữu tình kia nhất định chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, như vậy là Đại Bồ-tát đã làm nghiêm tịnh cõi Phật.
[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]