SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
HỘI THỨ I
Phẩm 77: BỒ-TÁT THƯỜNG ĐỀ
(QUYỂN 398 - 399)
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, làm thế nào để chỉ dạy, trao truyền cho Bồ-tát mới bắt đầu tu tập, khiến họ tin hiểu tự tánh các pháp của rốt ráo đều không?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đâu phải tất cả các pháp trước có sau không, nhưng tất cả pháp chẳng phải là có chẳng phải là không, không có tự tánh, không có tha tánh, trước đã chẳng phải là có, sau cũng chẳng phải là không, tự tánh thường không, không gì khiến sợ hãi, nên chỉ dạy trao truyền cho Bồ-tát mới bắt đầu tu tập như thế, khiến họ tin hiểu tự tánh của các pháp rốt ráo đều không.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn cầu Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì nên như Đại Bồ-tát Thường Đề cầu Đại Bồ-tát ấy nay ở tại chỗ Đức Phật Đại Vân Lôi Âm tu hành phạm hạnh.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát Thường Đề cầu Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát Thường Đề khi xưa cầu Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng tiếc thân mạng, không màng của báu, chẳng cần tiếng khen, chẳng mong được cung kính mà cầu Bát-nhã bala-mật-đa. Bồ-tát ấy thường ưa ở nơi chốn thanh vắng, bỗng nhiên nghe trong hư không có tiếng: Này hàng thiện nam, ông nên đi về hướng Đông thì quyết định được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Khi đi, ông chớ nệ mệt mỏi, chớ lo ngủ nghỉ, chớ nghĩ về ăn uống, chớ tưởng về ngày đêm, chớ sợ nóng lạnh, đối với các pháp trong ngoài, tâm chớ tán loạn. Khi đi, chẳng được ngoái nhìn hai bên, chớ ngó trước sau, trên dưới, bốn phía, chớ phá bỏ oai nghi, chớ hủy hoại thân tướng; chớ động nơi sắc, chớ động nơi thọ, tưởng, hành, thức; chớ động nơi nhãn xứ, chớ động nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chớ động nơi sắc xứ, chớ động nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chớ động nơi nhãn giới, chớ động nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chớ động nơi sắc giới, chớ động nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chớ động nơi nhãn thức giới, chớ động nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chớ động nơi nhãn xúc, chớ động nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chớ động nơi các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chớ động các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; chớ động nơi địa giới, chớ động nơi thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chớ động nơi nhân duyên, chớ động nơi đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; chớ động nơi các pháp từ duyên sinh ra; chớ động nơi vô minh, chớ động nơi hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; chớ động nơi Bố thí ba-la-mật-đa, chớ động nơi Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa; chớ động nơi bốn Niệm trụ, chớ động nơi bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chớ động nơi pháp không bên trong, chớ động nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chớ động nơi chân như, chớ động nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; chớ động nơi Thánh đế khổ, chớ động nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; chớ động nơi bốn Tĩnh lự, chớ động nơi bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chớ động nơi tám Giải thoát, chớ động nơi tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chớ động nơi tất cả pháp môn Đà-la-ni, chớ động nơi tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chớ động nơi pháp môn giải thoát Không, chớ động nơi pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chớ động nơi bậc Cực hỷ, chớ động nơi bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chớ động nơi năm loại mắt, chớ động nơi sáu phép thần thông; chớ động nơi bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chớ động nơi pháp không quên mất, chớ động nơi tánh luôn luôn xả; chớ động nơi trí Nhất thiết, chớ động nơi trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; chớ động nơi quả Dự lưu, chớ động nơi các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác; chớ động nơi hạnh Đại Bồ-tát, chớ động nơi quả vị Giác ngộ cao tột; chớ động nơi pháp thế gian, chớ động nơi pháp xuất thế gian; chớ động nơi pháp hữu lậu, chớ động nơi pháp vô lậu; chớ động nơi pháp hữu vi, chớ động nơi pháp vô vi. Vì sao? Này hàng thiện nam, vì nếu ở nơi pháp có sự động thì đối với Phật pháp chẳng có thể an trú. Nếu đối với Phật pháp chẳng có thể an trú thì sẽ bị luân hồi nơi sinh tử trong các cõi. Nếu bị luân hồi nơi sinh tử trong các cõi thì chẳng có thể đắc Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Thường Đề nghe tiếng nói trong hư không ân cần khuyên bảo mình như thế thì hết mực hoan hỷ, khen là chưa từng có, liền chắp tay cung kính đáp lại:
–Như lời vừa chỉ giáo, tôi xin nghe theo. Vì sao? Vì tôi muốn sẽ vì tất cả các hữu tình làm ánh sáng lớn, tôi muốn sẽ tập hợp tất cả các pháp thù thắng của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tôi muốn sẽ chứng đắc quả vị Đại giác ngộ cao tột.
Khi ấy, tiếng trong hư không lại nói với Bồ-tát Thường Đề:
–Hay thay, hay thay! Thiện nam tử, ông sẽ đối với pháp sâu xa là Không, Vô tướng, Vô nguyện nên sinh tin hiểu. Ông nên dùng tâm lìa bỏ tất cả các tướng mà cầu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, ông nên dùng tâm lìa tướng ngã, tướng hữu tình, dòng sinh mạng, khả năng sinh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng thọ quả báo, cái biết, cái thấy để cầu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Này hàng thiện nam, ông đối với các bạn xấu ác nên tìm cách xa lìa, đối với các bạn lành nên gần gũi cúng dường. Nếu có thể vì ông mà khéo léo thuyết giảng các pháp tịnh tĩnh, không, vô tướng, vô nguyện, không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, lại có thể vì ông mà thị hiện chỉ dạy, dẫn dắt, khen ngợi, chúc mừng trí Nhất thiết trí, thì đó là bạn lành.
Này hàng thiện nam, nếu ông thực hiện được như thế thì chẳng bao lâu sẽ được nghe Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, hoặc nghe từ trong kinh điển, hoặc nghe từ Bồ-tát; nơi nào mà ông được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì nên ở nơi ấy nên khởi tưởng về bậc Đại sư, ông phải biết ân, nhớ nghĩ là sẽ dốc sức báo đáp.
Này hàng thiện nam, ông nên nghĩ như thế này: Nơi mà ta theo nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là bạn lành chân thật hơn hết của ta. Vì ta theo họ được nghe pháp vi diệu ấy, nên đối với quả vị Giác ngộ cao tột, mau đạt địa vị không thoái chuyển. Ta do vị ấy mà được gần Bậc Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thường sinh vào cõi nước nghiêm tịnh của chư Phật, cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn, lắng nghe chánh pháp, vun trồng các cội đức, xa lìa tất cả sự bận rộn, đầy đủ an nhàn, luôn luôn tăng trưởng căn lành thù thắng. Ông nên tư duy, lường tính quán sát các công đức đem lại lợi lạc thù thắng như thế, thì các Bồ-tát, Pháp sư luôn vì ông mà giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, ông luôn nên cung kính, phụng sự tưởng như là chư Phật.
Này hàng thiện nam, ông chớ mang tâm cầu lợi lộc, tiếng khen của thế tục mà theo bậc Pháp sư, chỉ vì yêu quý cung kính cúng dường giáo pháp vô thượng mà gắn bó với bậc Pháp sư.
Này hàng thiện nam, ông phải biết rõ về ma sự, nghĩa là có ác ma vì nhằm phá hoại chánh pháp và Pháp sư nên tạo ra các cảnh giới đủ mọi sắc, thanh, hương, vị, xúc, lôi cuốn ân cần mời gọi. Khi ấy, vị Pháp sư với phương tiện thiện xảo, vì muốn chế ngự thu phục ác ma kia, khiến cho các hữu tình gieo trồng căn lành nên thị hiện đồng sự với thế gian, tuy nhận sự dâng hiến kia, nhưng không nhiễm đắm. Đối với việc này ông chớ sinh uế tưởng mà nên nhớ nghĩ này: Ta chưa có thể biết rõ phương tiện thiện xảo của Bồ-tát thuyết pháp. Vị Pháp sư thuyết pháp này đã khéo sử dụng phương tiện, vì nhằm chế ngự thu phục hữu tình khó giáo hóa, lại muốn khiến cho các hữu tình vun trồng các cội đức nên đã khiêm tốn hòa đồng với thế sự, hiện thọ các dục, nhưng Bồ-tát này chẳng chấp pháp tướng, không tham đắm, không bị chướng ngại, không hề hủy phạm.
Này hàng thiện nam, bấy giờ ông nên quán về nghĩa lý chân thật của các pháp. Thế nào là nghĩa lý chân thật của các pháp? Đó là tất cả các pháp đều không nhiễm, không tịnh... Vì sao? Này thiện nam, vì tự tánh của tất cả các pháp đều là không, không có ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, khả năng sinh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng thọ quả báo, cái biết, cái thấy, tất cả đều như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như dợn nắng, như bóng sáng, như trò biến hóa, như thành ảo.
Này hàng thiện nam, nếu có thể quán sát về nghĩa lý chân thật của các pháp như thế, lại luôn gắn bó với Pháp sư, thì chẳng bao lâu sẽ thành tựu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa thiện nam tử, đối với các ma sự khác, ông cũng nên biết rõ. Đó là khi thuyết Pháp sư thấy ông cầu thỉnh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hoàn toàn chẳng tỏ lòng cảm mến, trái lại còn xử sự thậm tệ. Trong trường hợp này, ông chẳng nên giận dữ, ngược lại càng tăng thêm tâm yêu quý, cung kính pháp, thường gắn bó với Pháp sư chớ sinh chán nản, mệt mỏi.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Thường Đề, nghe tiếng chỉ dạy lần nữa trên không trung rồi, càng thêm vui mừng, theo đó đi về hướng Đông, thời gian chưa bao lâu, lại nghĩ: “Sao ta chẳng hỏi tiếng trên không trung đã khiến ta đi về hướng Đông, vậy thì còn cách xa hay gần, đến thành ấp nào, lại còn phải theo ai để nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?” Nghĩ như vậy rồi, liền dừng lại nơi ấy, vật vã buồn than, lo sầu khóc lóc, trải qua chốc lát thì nghĩ: “Ta ở nơi đây qua một ngày đêm, cho đến hoặc bảy ngày bảy đêm, chẳng hề mệt mỏi, chẳng màng chuyện ngủ nghỉ, chẳng nghĩ tới ăn uống, chẳng tưởng về ngày đêm, chẳng sợ lạnh nóng, đối với các pháp trong ngoài tâm chẳng tán loạn. Nếu chưa biết rõ còn cách thành ấp chỗ đến xa gần và nơi chốn để theo nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì chẳng bao giờ khởi tâm rời bỏ chỗ này.”
Thiện Hiện nên biết, ví như cha mẹ chỉ có mỗi đứa con đẹp đẽ, thông minh, có nhiều tài năng nên thương yêu hết mực. Đứa con ấy đang mạnh khỏe, bỗng nhiên mạng chung. Bấy giờ, cha mẹ buồn đau than khóc, chỉ nhớ đến mỗi đứa con mình, chẳng nghĩ gì khác. Bồ-tát Thường Đề cũng lại như thế, trong lúc này chẳng nghĩ gì khác, chỉ nghĩ: “Khi nào ta sẽ được nghe Bát nhã Bát-nhã ba-la-mật-đa? Trước đây tại sao ta chẳng hỏi âm thanh trên không trung đã khuyên ta đi về hướng Đông là đến nơi nào, cách xa hay gần, lại theo ai để nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?”
Thiện Hiện nên biết, Đại Bồ-tát Thường Đề khi đang thở than tự trách như thế, bỗng nhiên ở phía trước có hình Phật hiện, khen ngợi Đại Bồ-tát Thường Đề:
–Hay thay, hay thay! Này thiện nam, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ khi còn là Bồ-tát, dùng hạnh tinh tấn chịu đựng khổ cực để cầu Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cũng như nay ông đã dốc hết tâm sức để cầu.
Lại nữa thiện nam, ông đem tâm tinh tấn dũng mãnh, cung kính ưa thích cầu pháp như thế, từ đây đi về hướng Đông, trải qua khoảng năm trăm dotuần, có thành của vị Đại vương tên là Cụ Diệu Hương; thành ấy cao rộng, bảy thứ châu báu tạo thành; bên ngoài thành có bảy lớp tường vách, bảy lớp lầu quán, bảy lớp lan can, bảy lớp hào báu, bảy lớp cây Đa-la báu giăng hàng, đều do bảy báu tạo thành bao bọc chung quanh. Các tường vách... ấy cùng làm tăng vẻ đẹp cho nhau, phát ra đủ các thứ ánh sáng hết mực tươi đẹp dễ mến. Thành báu to lớn này mỗi mặt rộng khoảng mười hai do-tuần, luôn thanh tịnh rộng rãi, người vật đông đúc, yên lành, giàu có, an lạc. Trong đó có năm trăm đường sá, chợ búa giống nhau, đẹp như tranh vẽ. Ở các ngã tư đường đều có dòng nước trong đi qua thì dùng thuyền báu, qua lại luôn thông suốt; ngả đường nào cũng sạch sẽ đẹp đẽ, rưới bằng nước thơm, rải bằng danh hoa, thành và bờ tường đều có tường và lầu gác cao ngăn địch làm bằng vàng ròng, thắp sáng bằng các ngọc báu, ánh sáng rực rỡ xen vào giữa bờ tường là bằng cây báu, gốc, rễ, thân, nhánh, lá và hoa quả của các cây ấy đều do các loại báu đặc biệt tạo thành. Bờ tường, lầu gác và các cây báu đều phủ bằng lưới vàng, kết bằng dây báu, treo bằng linh vàng, nối bằng chuông lắc, khi gió nhẹ thoảng qua thì phát ra âm thanh êm diệu, giống như khéo hòa tấu năm loại kỹ nhạc; vô lượng hữu tình trong thành báu ấy ngày đêm thường được nghe vui vẻ diệu lạc. Bao bọc bên ngoài thành có bảy lớp hào báu, trong hào ấy tràn đầy nước tám công đức, nhiệt độ đều hòa, trong vắt như gương; trong hào đâu đâu cũng có thuyền bảy báu, trang hoàng đẹp đẽ, ai cũng ưa nhìn; hữu tình ở đây do nghiệp đã tạo từ đời trước, thường cùng nhau xuống thuyền, bềnh bồng dạo chơi. Trong các hào nước có đủ loài hoa lạ, nào hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen vàng, hoa sen trắng và đủ các loài hoa báu khác, sắc hương tươi thắm đẹp đẽ, phủ khắp mặt nước. Tóm lại thì không thiếu bất cứ loài danh hoa nào trong thế giới ba ngàn. Chung quang thành lớn có năm trăm cảnh vườn, trang hoàng bằng nhiều thứ thật đáng yêu thích. Trong mỗi cảnh vườn có năm trăm ao, ao ấy to rộng một dặm, trang hoàng bằng bảy báu, làm vừa lòng mọi người. Trong các ao, có bốn loài hoa quý: Hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen vàng, hoa sen trắng to như bánh xe, sáng tỏ mặt nước; hoa ấy đều các báu tạo thành, màu xanh thì hiện xanh, ảnh màu xanh, sáng xanh; màu vàng thì hiện vàng, ảnh vàng, sáng vàng; màu đỏ thì hiện đỏ, ảnh đỏ, sáng đỏ; màu trắng thì hiện trắng, ảnh trắng, sáng trắng. Các ao trong vườn có nhiều loài chim quý như khổng tước, anh vũ, hồng nhạn, vàng anh, ngỗng trời trắng, uyên ương, yết-la-tần-ca, mạng mạng... Tiếng kêu hòa nhau, vui đùa trong đó. Những ao trong đó không thuộc về ai, các loài hữu tình kia do trải qua thời gian dài lâu tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với pháp môn thâm diệu đều sinh lòng tin tưởng, ưa thích; đời trước cùng tạo nghiệp thù thắng như thế nên đời nay cùng hưởng quả này.
Lại nữa thiện nam, trong thành Diệu hương có nơi cao ráo, đẹp đẽ đó là cung của Đại Bồ-tát Pháp Dũng ở, cung này to rộng một do-tuần, các báu trang nghiêm kỳ diệu, khả ái, bao quanh bờ cung có bảy lớp bờ tường, bảy lớp lầu gác, bảy lớp lan can, bảy lớp hào báu, bảy lớp cây Đa-la báu thẳng hàng; tường vách... trang hoàng đẹp đẽ trang nghiêm, thật đẹp mắt; có bốn cảnh vườn đẹp bao quanh cung này: Một là Thường hỷ, hai là Lưu ly, ba là Hoa nghiêm, bốn là Hương sức; trong mỗi khu vườn đều có tám cái ao: Một là Hiền thiện, hai là Hiền thượng, ba là Hoan hỷ, bốn là Hỷ thượng, năm là An ổn, sáu là Cụ an, bảy là Ly bố, tám là Không thoái. Bốn mặt của các ao, mỗi mặt có một thành báu: một là vàng, hai là bạc, ba là phệ-lưuly, bốn là phả-chi-ca-yết-kê, dùng toàn các báu làm đáy ao; cát vàng rải trên, nước màu êm lặng; mỗi bến ao đều có tám bậc thềm, dùng đủ các loại diệu bảo trang hoàng, dùng loại vàng tốt nhất làm đường đi, hai bên thềm có cây chuối bằng vàng ròng thẳng hàng, trang trí đang xen; trong các ao ấy gồm đủ bốn loại hoa quý: Hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen vàng, hoa sen trắng; màu sắc đan xen trải dày trên nước; quanh bốn phía ao có cây với hoa tỏa ngát hương khi gió mát thổi động rơi vào trong nước; các ao đầy đủ tám công đức thơm như chiên-đàn, sắc vị đầy đủ, có le le, nhạn... bơi lặn đùa vui trong đó. Đại Bồ-tát Pháp Dũng ở trong cung này cùng với sáu vạn tám ngàn thị nữ dạo chơi khắp ao vườn, cùng vui hưởng năm thứ diệu dục. Nam nữ lớn, nhỏ trong thành Diệu hương vì muốn chiêm ngưỡng Bồ-tát Pháp Dũng và nghe pháp cho nên có lúc được vào vườn Thường hỷ, ao Hiền thiện... cũng cùng vui hưởng năm dục.
Lại nữa thiện nam, Đại Bồ-tát Pháp Dũng cùng với các thị nữ thọ hưởng diệu lạc rồi, ngày đêm ba thời thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa. Trong thành Diệu hương có các thị nữ trẻ vì Đại Bồ-tát Pháp Dũng trải tòa Sư tử trên đài cao làm bằng bảy báu, lại dùng các thứ vật báu để trang hoàng đẹp đẽ. Bốn chân của tòa ấy đều do cùng loại báu tạo thành: Một là vàng, hai là bạc, ba là phệ-lưu-ly, bốn là phả-chi-ca; trên tòa ấy lại trải thêm một lớp nệm, kế tiếp là lót chăn thêu, phủ bằng lụa trắng buộc bằng dãi hồng hai bên bảo tòa đặt hai gối đỏ, các dãi màn rũ xuống vải hoa hương thơm tinh khiết; tòa ấy cao rộng nửa do-tuần. Ở trên không trung giăng bằng màn thêu, bên trong chưng bày trướng ngọc, lớn nhỏ cân xứng với tòa, các tua hoa lòng thòng treo bằng chuông vàng. Vì tôn kính Pháp nên bốn bên tòa, rải hoa ngũ sắc, đốt hương vô giá. Lại dùng các loại hương nước, hương bột, hương xoa rải trên đất; la liệt đủ thứ cờ phướn lọng báu. Bồ-tát Pháp Dũng vào mỗi khi lên bảo tòa này, vì đại chúng thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa; mỗi lần thuyết pháp đều có vô lượng các chúng Trời, Rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, Atố-lạc, Yết-lộ-đồ, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, Nhân phi nhân... cùng vân tập đến, cung kính cúng dường Bồ-tát Pháp Dũng, lãnh hội, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa. Khi ấy, các đại chúng đã nghe pháp rồi, có người thọ trì đọc tụng, có người biên chép, có người lần lượt đọc, có người tư duy, có người nghe theo lời dạy mà tu tập, có người khai ngộ cho người khác. Do nhân duyên ấy các loại hữu tình ở trong đường ác được pháp bất đọa và đối với quả vị Giác ngộ cao tột vĩnh viễn không thoái chuyển.
Này thiện nam, ông nên siêng năng tinh tấn, mau mau đi đến chỗ Đại Bồ-tát Pháp Dũng khiến ông được nghe điều mong đạt tới là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát Pháp Dũng là bạn lành chân tịnh lâu dài của ông, thị hiện dạy bảo dẫn dắt, khích lệ, chúc mừng, khiến ông mau chứng đắc đối tượng mong đạt tới là quả vị Giác ngộ cao tột. Bồ-tát Pháp Dũng ở đời quá khứ dùng hạnh siêng năng chịu khó cầu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cũng như ông bây giờ theo phương tiện cầu vậy, ông nên nhanh đến chỗ Bồ-tát Pháp Dũng, chớ sinh nghi ngại, chớ kể ngày đêm, chẳng bao lâu sẽ được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Thường Đề nghe lời ấy rồi, tâm sinh thích thú, vô cùng vui mừng nghĩ thế này: “Ta sẽ gặp Bồ-tát Pháp Dũng để được nghe Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa!”
Này Thiện Hiện, nên biết thí như có người bị tên độc, bị khổ bức bách chẳng còn tưởng nghĩ gì khác, chỉ nghĩ: “Khi nào ta gặp được lương y, được nhổ mũi tên này, được thoát khổ này?” Bồ-tát Thường Đề cũng giống như thế, vào lúc ấy không nghĩ gì khác chỉ nghĩ: “Khi nào ta sẽ gặp được Bồtát Pháp Dũng, gần gũi để cúng dường, được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa, nghe rồi có thể vĩnh viễn đoạn trừ các thứ kiến thức chấp theo hữu sở đắc, những phân biệt hư vọng, mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.”
Này Thiện Hiện, nên biết Bồ-tát Thường Đề khi nghĩ như thế, ngay tại chỗ ấy, đối với tất cả pháp, phát khởi trí kiến không chướng ngại, do trí kiến này liền có thể nhập ngay vô lượng pháp môn Tam-ma-địa thù thắng, đó là Tam-ma-địa quán tự tánh của tất cả các pháp, Tam-ma-địa ở nơi tự tánh vô sở đắc của tất cả pháp, Tam-ma-địa phá sự vô trí của tất cả pháp, Tam-ma-địa đạt được sự vô sai biệt của tất cả pháp, Tam-ma-địa thấy sự không đổi khác của tất cả pháp, Tam-ma-địa có thể chiếu soi tất cả pháp, Tam-ma-địa lìa sự tối tăm của tất cả pháp, Tam-ma-địa đắc nghĩa lý không sai biệt của tất cả pháp, Tam-ma-địa biết hoàn toàn cái không sở đắc của tất cả pháp, Tam-ma-địa tung rải tất cả hoa, Tam-ma-địa nêu dẫn tính vô ngã của tất cả pháp, Tam-ma-địa lìa huyễn, Tam-ma-địa dẫn phát chiếu rõ hình tượng trong gương, Tam-ma-địa dẫn phát ngữ ngôn của tất cả hữu tình, Tam-ma-địa khiến tất cả hữu tình hoan hỷ, Tam-ma-địa khéo tùy thuận ngữ ngôn của tất cả hữu tình, Tam-mađịa dẫn phát mọi thứ ngôn ngữ văn cú, Tam-mađịa không sợ hãi, không đoạn diệt, Tam-ma-địa có thể nói bản tánh chẳng thể nêu bày của tất cả pháp, Tam-ma-địa được giải thoát vô ngại, Tam-ma-địa xa lìa tất cả trần cấu, Tam-ma-địa thiện xảo danh cú, văn từ, Tam-ma-địa khởi thắng quán tất cả pháp, Tam-ma-địa đắc sự tận cùng vô ngại của tất cả pháp, Tam-ma-địa như hư không, Tam-ma-địa kim cang dụ, Tam-ma-địa tuy thị hiện hành sắc nhưng không phạm, Tam-ma-địa đạt được thắng pháp, Tam-ma-địa đắc pháp nhãn không thoái chuyển, Tam-ma-địa xuất pháp giới, Tam-ma-địa an ổn điều phục, Tam-ma-địa sư tử phấn tấn khiếm khư hao hống, Tam-ma-địa ánh đoạt nhất thiết hữu tình, Tam-ma-địa xa lìa tất cả cấu, Tam-ma-địa đối với tất cả pháp không nhiễm, Tam-ma-địa liên hoa trang nghiêm, Tam-ma-địa đoạn trừ tất cả nghi, Tam-ma-địa tùy thuận nhất thiết kiên cố, Tam-mađịa xuất nhất thiết pháp. Tam-ma-địa đắc thần thông lực vô úy, Tam-ma-địa hiện tiền thông đạt nhất thiết pháp, Tam-ma-địa hoại nhất thiết pháp ấn, Tam-ma-địa hiện nhất thiết pháp vô sai biệt, Tam-ma-địa lìa tất cả rừng thiên kiến, Tam-ma-địa lìa tất cả tối tăm, Tam-ma-địa lìa tất cả tướng, Tam-ma-địa thoát tất cả chấp trước, Tam-ma-địa lìa tất cả biếng nhác, Tam-ma-địa đắc pháp thâm diệu sáng tỏ, Tam-ma-địa như núi Diệu cao, Tamma-địa chẳng thể dẫn đoạt, Tam-ma-địa hàng phục xua trừ tất cả ma quân, Tam-ma-địa chẳng vướng mắc ba cõi, Tam-ma-địa dẫn phát nhất thiết thù thắng quang minh, như thế cho Tam-ma-địa hiện kiến chư Phật. Bồ-tát Thường Đề an trú trong các pháp Tam-ma-địa như thế, hiện thấy chư Phật Như Lai trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới khắp mười phương vì các chúng Đại Bồ-tát thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Khi ấy, chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều cùng khen ngợi, an ủi, dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ-tát Thường Đề rằng:
–Hay thay, hay thay! Thiện nam tử, chúng ta khi xưa hành đạo Bồ-tát cũng như ông ngày nay, dùng hạnh tinh tấn chịu khổ để cầu Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa; khi dốc sức cầu tìm cũng như ông ngày nay đắc các pháp Tam-muội như thế. Chúng ta lúc ấy đắc vô lượng Tam-muội thù thắng, tu hành rốt ráo rồi mới có thể thành tựu Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, với phương tiện thiện xảo, do đó có thể làm viên mãn tất cả các pháp Phật, liền được an trú ở bậc không thoái chuyển. Chúng ta quán các Tam-ma-địa này, tự tánh sẵn có là không nhập, không xuất, cũng chẳng thấy pháp có chủ thể nhập, xuất, cũng chẳng thấy đây là chủ thể tu tập các hạnh Đại Bồ-tát, cũng chẳng thấy đây là chủ thể tu tập quả vị Giác ngộ cao tột. Chúng ta khi ấy vì đối với tất cả pháp không chấp trước nên chính đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa. vì chúng ta an trú nơi nẻo vô sở chấp này, nên có thể đạt được thân chân kim sắc, ánh sáng tỏa ra một tầm, đủ ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, viên mãn trang nghiêm, lại có thể chứng đắc Phật trí vô thượng chẳng thể nghĩ bàn, Phật giới vô thượng, Phật định vô thượng, Phật tuệ vô thượng chẳng thể nghĩ bàn; tất cả công đức Ba-la-mật-đa đều viên mãn; vì có thể thành tựu viên mãn tất cả công đức Ba-la-mật-đa nên Phật còn chẳng có thể lấy lượng để nêu bày hết, huống chi là Thanh văn, Độc giác... Vì vậy, này thiện nam, đối với pháp này, ông càng cung kính, mến yêu dốc cầu, không được lơi lỏng; nếu đối với pháp này càng sinh cung kính, mến yêu, dốc cầu thường gắn bó, thì đối với quả vị Giác ngộ cao tột dễ có thể chứng đắc.
Lại nữa này thiện nam, đối với bạn lành ông nên thường cung kính, mến yêu, dốc cầu, tưởng như chư Phật. Vì sao? Này thiện nam, nếu Bồ-tát thường được bạn lành hết lòng giúp đỡ che chở thì mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Khi ấy, Đại Bồ-tát Thường Đề liền bạch chư Phật mười phương rằng:
–Ai là bạn lành của con, con xin sẽ gần gũi, cung kính, cúng dường?
Chư Phật mười phương bảo với Thường Đề:
–Có Đại Bồ-tát Pháp Dũng là bạn lành chân tịnh lâu dài của ông, có thể che chở giúp đỡ, khiến ông thành tựu đối tượng mong đạt tới là quả vị Giác ngộ cao tột, cũng khiến ông học được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì Bồ-tát ấy luôn luôn giúp ích cho ông lâu dài nên là bạn lành của ông, ông nên gần gũi cúng dường, cung kính.
Lại nữa thiện nam, nếu một kiếp hoặc hai hoặc ba, như thế cho đến hoặc trăm ngàn kiếp, hoặc hơn thế nữa, ông cung kính tôn thờ Bồ-tát Pháp Dũng, lại dùng tất cả các thứ vật dụng đem lại an lạc thượng diệu, cho đến dùng các loại sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp vi diệu của cả thế giới ba lần ngàn cúng dường hết thì cũng chưa có thể báo đáp ân của Bồ-tát ấy trong giây lát. Vì sao? Này thiện nam, vì ông nhờ oai lực của Bồ-tát Pháp Dũng mà hiện đạt được vô lượng pháp môn Tam-ma-địa thắng diệu như thế, lại sẽ nhờ Bồ-tát ấy khiến ông đạt được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa, mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Khi mười phương Phật dùng phương tiện khen ngợi an ủi dạy bảo trao truyền cho Bồ-tát Thường Đề, khiến Bồ-tát hoan hỷ rồi thì bỗng nhiên biến mất.
Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Thường Đề từ pháp Tam-ma-địa hiện chứng xuất, chẳng thấy chư Phật thì trong lòng buồn bực, nghĩ thế này: “Ta vừa thấy mười phương chư Phật, trước từ đâu đến, nay đi về đâu? Ai có thể vì ta dứt trừ nghi vấn ấy?” Lại nghĩ thế này: “Bồ-tát Pháp Dũng đã từ lâu tu học phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rồi, đắc vô lượng pháp môn Đà-la-ni và Tam-mađịa, đối với thần thông tự tại của Bồ-tát đã đạt đến mức rốt ráo, đã từng cúng dường vô lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ở chỗ chư Phật phát thệ nguyện rộng lớn, vun trồng các căn lành, trong thời gian lâu dài vì ta mà làm bạn lành, thường quan tâm hỗ trợ ta, khiến được lợi lạc. Ta mau đến chỗ Đại Bồ-tát Pháp Dũng hỏi mười phương chư Phật đã thấy vừa rồi là trước từ đâu đến và nay thì đi về đâu? Bồ-tát ấy có thể vì ta đoạn trừ nghi vấn này.”
Này Thiện Hiện, nên biết khi ấy Đại Bồ-tát Thường Đề suy nghĩ như vậy rồi, đối với Đại Bồtát Pháp Dũng càng tăng thêm tâm kính mến thanh tịnh. Lại nghĩ thế này: “Ta nay muốn đến chỗ Đại Bồ-tát Pháp Dũng nên dùng vật gì để cúng dường? Nhưng ta nghèo nàn thiếu thốn, không có các thứ hoa hương, hương nước, hương bột, y phục, chuỗi báu, cờ phướn, lọng báu, nhạc hay, đèn sáng, mạtni, trân châu, phệ-lưu-ly, phả-chi-ca bảo, vàng, bạc, san hô, loa bối, bích ngọc và các vật dụng thượng diệu khác, để có thể dùng cúng dường Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Bồ-tát Pháp Dũng. Ta quyết định chẳng nên đến chỗ Đại Bồ-tát Pháp Dũng với tay trắng như vậy, nếu ta đến không thì cảm thấy chẳng vui, lấy gì biểu lộ để biết được tâm chí thành cầu pháp? Ta nay nên tự bán thân cầu vật giá trị dùng để cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Bồ-tát Pháp Dũng. Vì sao? Vì trong thời gian vô tận, ta sinh ở các cõi, vô biên thân mạng đã từng bị hư hoại, hủy diệt; từ vô thỉ, sinh tử là do nhân duyên tham dục nên đọa vào các địa ngục chịu vô lượng khổ, chưa vì sự cúng dường Diệu pháp và Pháp sư thuyết pháp như thế mà từ bỏ thân mạng, cho nên nay ta quyết định bán thân mạng mình để cầu tài vật, dùng cúng dường Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Bồ-tát Pháp Dũng.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Thường Đề nghĩ như thế rồi, dần dần đi về hướng Đông, đến một thành lớn, rộng rãi trang nghiêm, dân chúng đông đúc, yên ổn giàu có an lạc. Bồ-tát Thường Đề vào chợ, đi vòng khắp nơi, lớn tiếng rao rằng: “Nay tôi tự bán thân, ai muốn mua người! Nay tôi tự bán, ai muốn mua người!”
Khi ấy ác ma thấy sự việc, liền suy nghĩ: “Bồtát Thường Đề vì yêu mến quý trọng pháp nên muốn tự bán thân, gọi là để cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Đại Bồ-tát Pháp Dũng, nhân đó sẽ đạt được sự thỉnh vấn đúng như lý về phương tiện thiện xảo của Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa. Đó là sẽ hỏi thế này: Đại Bồ-tát với phương tiện tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa như thế nào để mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột? Nghe hỏi như thế rồi, Bồ-tát Pháp dũng sẽ vì Bồ-tát này mà thuyết giảng Diệu pháp vô cùng sâu xa khiến người nghe kiến thức được mở rộng, giống như biển cả ma và quyến thuộc chẳng thể phá hoại được dần dần có thể thành tựu viên mãn tất cả công đức, nhờ đó tạo mọi lợi ích cho các loài hữu tình, khiến tự chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Bồ-tát ấy lại có thể khiến cho các loài hữu tình chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, lần lượt kế thừa làn cho cảnh giới của ta trở nên trống vắng. Ta sẽ tìm cách ngăn chặn âm thanh rao bán kia, khiến cho các hàng Trưởng giả, Cư sĩ, Bà-la-môn... trong thành này đều chẳng thể nghe được.” Nghĩ rồi ác ma bèn thực hiện. Chỉ trừ trong thành có một nữ trưởng giả do diệu lực của căn lành từ đời trước nên ma chẳng có thể ngăn được. Bồ-tát Thường Đề do nhân duyên đó dù trải qua thời gian lâu dài mà bán thân chẳng được nên sầu lo khổ não, đứng ở một chỗ than khóc kể lể: –Tôi có tội gì mà vì muốn cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Đại Bồ-tát Pháp Dũng, nên tuy tự bán thân nhưng chẳng được ai mua.
Khi ấy Thiên đế Thích thấy rồi bèn nghĩ: “Bậc thiện nam này vì việc cúng dường Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Bồ-tát Pháp Dũng, vì yêu mến kính trọng chánh pháp nên tự bán thân mình. Ta nên thử xem đây là thật sự vì mến mộ đạo pháp hay là dối trá lừa gạt thế gian?” Nghĩ như thế rồi, liền tự hóa làm một Bà-la-môn trẻ tuổi, đi đến chỗ Đại Bồ-tát Thường Đề:
–Ông nay vì nhân duyên gì mà đứng đây than khóc ưu sầu chẳng vui?
Bồ-tát Thường Đề đáp:
–Này cậu bé, ta vì muốn cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Bồtát Pháp Dũng, nhưng vì nghèo thiếu không có các vật báu, vì vốn yêu mến quý trọng chánh pháp, nên muốn tự bán thân nhưng khắp trong thành này không ai hỏi đến, tự nghĩ mình phước mỏng nên buồn rầu đứng đây.
Lúc này Bà-la-môn nói với Thường Đề:
–Hiện nay tôi muốn làm lễ tế trời, chẳng dùng thân người, chỉ cần máu người, tủy người và tim người, ông có thể bán cho tôi chăng?
Bồ-tát Thường Đề nghe rồi nghĩ rằng: “Nay ta nhất định sẽ đạt được lợi lạc thù thắng. Vì sao? Vì những vật mà người kia cần mua ta đều có đủ. Do giá trị của các vật ấy, ta sẽ được cúng dường Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp Bồ-tát Pháp Dũng, khiến ta có đầy đủ phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.”
Khi nghĩ như thế rồi, hết sức vui mừng, dùng lời êm dịu đáp lời người Bà-la-môn:
–Những vật mà ngài muốn mua tôi đều có thể bán.
Bà-la-môn nói:
–Trị giá bao nhiêu?
Thường Đề đáp:
–Trả bao nhiêu tùy ý.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Thường Đề nói như vậy rồi liền dùng tay phải cầm dao bén đâm vào cánh tay trái cho máu chảy ra; lại lóc đùi vế bên phải, thịt da rơi xuống đất, đập xương lấy tủy đưa cho Bàla-môn. Lại đến bên bờ tường toan mổ tim ra, khi ấy có nữ trưởng giả ở trên gác cao, trước đó đã nghe Thường Đề lớn tiếng rao bán thân, sau lại thấy Bồ-tát lại tự cắt thân mình, liền nghĩ: “Bậc thiện nam này do nhân duyên gì mà làm khốn khổ thân mình, ta nên thăm hỏi.” Nghĩ rồi bèn xuống gác, đến chỗ Thường Đề hỏi:
–Vì sao mà trước đây ông rao tự bán thân, nay thì làm rơi đổ máu tủy, lại còn muốn mổ cả tim nữa?
Thường Đề đáp:
–Chị không biết sao? Tôi vì muốn cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa Pháp sư thuyết pháp là Bồ-tát Pháp Dũng, nhưng do nghèo thiếu, không có các vật dụng quý giá, vì quý trọng đạo pháp nên trước tự bán thân mà không người nào mua. Nay bán ba vật này cho ông Bà-la-môn.
Nữ trưởng giả nói:
–Nay ông tự bán thân với huyết, tim, tủy là muốn dùng tài vật để cúng dường Bát-nhã ba-lamật-đa và Pháp sư thuyết pháp là Bồ-tát Pháp Dũng, việc ấy sẽ thu được những công đức thù thắng gì?
Thường Đề đáp:
–Bồ-tát Pháp Dũng đối với pháp sâu xa đã được tự tại sẽ vì tôi mà nói về phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Mọi chỗ học vấn, giáo hóa, hành trì, tạo tác của Đại Bồ-tát ấy, nếu tôi lãnh hội được rồi, sẽ theo đúng lời dạy mà tu hành, đem lại sự thành tựu cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật thì mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, được thân sắc vàng, đủ ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc đều viên mãn trang nghiêm, ánh sáng tỏa ra một tầm, các thứ hào quang khác thì vô lượng, đầy đủ mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, năm loại mắt thanh tịnh, sáu phép thần thông, giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn đều thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn; trí kiến không chướng ngại, trí kiến vô thượng, đắc trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, đầy đủ tất cả pháp bảo vô đem bố thí đều khắp cho tất cả hữu tình, làm chỗ nương tựa cho họ. Tôi xả bỏ thân mạng là để cúng dường Bồ-tát ấy, sẽ đạt được những công đức thù thắng đó.
Nữ trưởng giả nghe nói Phật pháp vi diệu thù thắng chẳng thể nghĩ bàn thì vô cùng vui mừng hết sức xúc động, liền cung kính chắp tay, thưa với Thường Đề:
–Điều Đại sĩ nói là vi diệu tối thắng, lớn lao bậc nhất, rất là hy hữu; vì đạt được tất cả pháp Phật như thế, hãy còn nên xả bỏ thân mạng luôn được quý coi trọng nhiều như số cát sông Hằng, huống chi là chỉ xả bỏ một thân mạng! Vì sao? Vì nếu đạt được công đức vi diệu như thế thì có thể đem lại lợi lạc cho tất cả hữu tình. Đại sĩ nhà nghèo hãy còn gì công đức vi diệu như thế mà chẳng tiếc thân mạng, huống chi nhà ta giàu có nhiều của báu, vì công đức như thế mà chẳng cúng dường sao? Nay Đại sĩ chớ nên tự hại thân mình, ngài cần những vật phẩm cúng dường nào tôi sẽ dâng cho ngài hết, đó là vàng, bạc, ngọc báu phệ-lưu-ly, ngọc báu phả-chica, mạt-ni, trân châu, xử tàng, thạch tàng, loa bối, bích ngọc, đế thanh, đại thanh, san hô, hổ phách, các thứ khác: Châu ngọc, hoa hương, chuỗi báu, cờ phướn, lọng báu, nhạc hay, đèn đuốc, xe cộ, y phục và đủ các thứ cúng dường thượng diệu khác. Ngài có thể đem cúng dường pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Bồ-tát Pháp Dũng. Xin Đại sĩ chớ nên hại mình nữa! Bản thân tôi cũng nguyện theo Đại sĩ đến chỗ Bồ-tát Pháp Dũng để được chiêm ngưỡng cùng vun trồng căn lành, vì được nghe thuyết giảng các pháp Phật ấy.
Khi ấy, Thiên đế Thích liền hiện nguyên hình ở trước Bồ-tát Thường Đề, cung kính nghiêng mình, khen ngợi:
−Hay thay, hay thay! Đại sĩ vì đạo pháp mà thể hiện tâm chí thành vững chắc như thế. Chư Phật quá khứ khi làm Bồ-tát cũng như Đại sĩ, dùng nguyện lực kiên cố để cầu phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thỉnh vấn về các lãnh vực tu học, giáo hóa, hành trì, tạo tác của Bồtát, tâm không mỏi mệt, đem lại sự thành tựu cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Đại sĩ nên biết, tôi thật chẳng hề dùng đến huyết, tim, tủy của con người để tế lễ gì cả, chỉ đến thử ngài thôi. Nay ngài cần những gì, tôi sẽ hiến cúng để đền cái tội đã khinh suất, xúc phạm làm tổn hại ngài.
Bồ-tát Thường Đề đáp:
–Tôi chỉ nguyện là dốc đạt được quả vị Giác ngộ cao tột. Thiên chủ có thể làm thỏa mãn nguyện này chăng?
Bấy giờ, Thiên đế Thích bỗng nhiên cảm thấy hổ thẹn, bèn thưa với Bồ-tát Thường Đề:
–Điều này ngoài sức của tôi! Chỉ có chư Phật Đại Thánh Pháp Vương, ở nơi pháp luôn được tự tại mới có khả năng đáp ứng nguyện ấy. Thưa Đại sĩ, ngoài quả vị Giác ngộ cao tột ra, nay ngài còn ước muốn những điều nào khác, tôi xin sẽ đáp ứng? Bồ-tát Thường Đề đáp:
–Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng là ước muốn của tôi, ông có thể ban cho chăng?
Thiên đế Thích lại bội phần xấu hổ, thưa với Bồ-tát Thường Đề:
−Đối với ước muốn này tôi cũng chẳng có thể ban cho được. Nhưng tôi có khả năng khiến thân tướng của Đại sĩ bình phục như cũ, ngài có ước muốn như thế chăng?
Thường Đề đáp:
−Sở nguyện như thế, tôi có thể tự hoàn thành, khỏi nhọc sức của Thiên chủ. Vì sao? Vì nếu tôi bày tỏ sự việc với mười phương chư Phật, phát lời chân thành rằng: Nay tự bán thân là vì yêu kính chánh pháp chứ chẳng làm việc dối trá, lừa gạt, mê hoặc thế gian, do nhân duyên này, nhất định đối với quả vị Giác ngộ cao tột chẳng thoái chuyển, thì sẽ khiến thân tôi bình phục như cũ; lời này chưa dứt, có thể khiến cho thân tướng tôi trở lại như xưa, đâu phải nhờ tới oai lực của ngài!
Thiên đế Thích nói:
−Đúng vậy, đúng vậy! Thần lực của Phật chẳng thể nghĩ bàn; Bồ-tát chí thành việc gì mà chẳng xong! Nhưng do chính tôi đã làm tổn hại đến thân của Đại sĩ, cúi xin Đại sĩ từ bi cho được tôi hoàn thành việc này.
Bồ-tát Thường Đề nói với Đế Thích:
–Ông đã ân cần như vậy thì tùy theo ý ông.
Khi ấy, Thiên đế Thích liền dùng oai lực của mình khiến thân tướng của Bồ-tát Thường Đề lành lặn như cũ, thậm chí chẳng thấy một vết sẹo nào, dung mạo lại đoan nghiêm hơn trước. Đế Thích xấu hổ từ tạ, nhiễu quanh theo hướng bên phải rồi biến mất.
Bấy giờ, nữ trưởng giả thấy sự việc hy hữu của Bồ-tát Thường Đề nên càng thêm quý trọng, cung kính chắp tay thưa với Bồ-tát Thường Đề:
–Xin Đại sĩ rũ tâm từ bi, ghé đến chỗ nhà con trong giây lát. Những phẩm vật cần để cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Bồ-tát Pháp Dũng là những phẩm vật thượng diệu, con thưa với cha mẹ thì sẽ được tất cả. Con và đám người hầu cận cũng từ giã cha mẹ, cùng Đại sĩ đi đến thành Diệu hương để cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Đại Bồ-tát Pháp Dũng.
Lúc này, Bồ-tát Thường Đề thuận theo sở nguyện của nữ trưởng giả nên cùng đi đến nhà nàng, dừng lại ngoài cửa. Nữ trưởng giả liền vào nhà thưa với cha mẹ:
–Xin cho con nhiều tràng hoa, hương xoa, hương bột... các thứ y phục, chuỗi báu, cờ phướn, dù lọng quý, nhạc hay, dầu tô, mạt-ni, trân châu, ngọc báu phệ-lưu-ly, ngọc báu phả-chi-ca, san hô, hổ phách, loa bối, bích ngọc, xử tàng, thạch tàng, đế thanh, đại thanh và các loại phẩm vật cúng dường khác như vàng bạc... tất cả đều thuộc loại thượng diệu mà trong nhà chúng ta sẵn có, cũng cho con năm trăm thị nữ đã từng theo hầu trước đây mang các phẩm vật cúng dường ấy cùng đi với Bồ-tát Thường Đề, đến thành Diệu hương để cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết giảng pháp là Bồ-tát Pháp Dũng. Bồ-tát ấy sẽ vì con mà thuyết giảng pháp yếu, con được nghe rồi, theo đúng như lời dạy tu hành, nhất định đạt được vô biên pháp Phật vi diệu.
Cha mẹ nữ trưởng giả nghe xong tỏ ra kinh sợ, liền hỏi con gái:
–Bồ-tát Thường Đề nay đang ở đâu, là hạng người nào?
Nàng liền thưa:
–Hiện đang ở ngoài cửa nhà ta. Vị Đại sĩ ấy vì muốn cứu độ cho tất cả hữu tình thoát khỏi sinh tử khổ não nên dốc cầu quả vị Giác ngộ cao tột. Và vị Đại sĩ ấy vì quý trọng chánh pháp nên chẳng tiếc thân mạng, vì muốn cúng dường Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa là đối tượng tu học của hàng Bồ-tát và Pháp sư thuyết pháp là Đại Bồ-tát Pháp Dũng cho nên đã vào trong thành này, đi vòng khắp nơi, lớn tiếng rao rằng: “Nay ta bán thân, ai muốn mua người! Ta nay bán thân, ai muốn mua người!” Trải qua thời gian khá lâu, bán thân chẳng được, sầu lo khổ não, đứng yên một chỗ than khóc: “Ta có tội gì, chỉ vì muốn cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Đại Bồ-tát Pháp Dũng nên tự bán thân mà chẳng ai mua!” Khi ấy, Thiên đế Thích vì muốn thử lòng, liền tự hóa làm một Bà-la-môn trẻ tuổi, đi đến trước ngài hỏi: “Này nam tử, vì sao ông đứng đây lo sầu chẳng vui.” Vị Đại sĩ đó đáp: “Này cậu bé, ta vì muốn cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Đại Bồ-tát Pháp Dũng, nhưng ta nghèo thiếu không có các phẩm vật quý giá, vì yêu mến quý trọng chánh pháp nên quyết định bán thân, nhưng trong khắp thành này không ai hỏi đến. Tự nghĩ phước mỏng nên đứng đây lo buồn.” Bà-lamôn nghe vậy liền nói với Đại sĩ: “Ta nay muốn tế trời chẳng dùng thân người, chỉ cần máu, tủy và tim, ông có thể bán cho ta chăng?” Đại sĩ nghe xong, vô cùng mừng rỡ, dùng lời êm dịu đáp lại Bà-la-môn: “Vật mà ngài cần mua, tôi có thể bán đủ.” Bà-la-môn nói: “Trị giá bao nhiêu?” Đại sĩ đáp: “Tùy ý ngài trả.” Bấy giờ Đại sĩ nói như thế rồi, liền đưa tay phải cầm lấy dao bén đâm vào tay trái của mình cho máu chảy ra; lại lóc đùi vế phải, da thịt rơi xuống đất, đập xương lấy tủy đưa cho người Bà-la-môn. Lại đến bên tường toan mổ lấy tim. Lúc ấy, con ở trên gác cao từ xa trông thấy việc ấy liền nghĩ: “Bậc thiện nam này, do nhân duyên gì mà tự làm khốn khổ thân mình, ta phải đến hỏi.” Nghĩ rồi, con liền xuống lầu, đến chỗ Đại sĩ, hỏi: “Vì lý do gì mà trước đây ông tự rao bán thân; nay ra máu, tủy, lại muốn mổ tim?” Đại sĩ ấy trả lời con rằng: “Chị chẳng biết sao? Tôi vì nhằm cúng dường pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Bồ-tát Pháp Dũng. Nhưng tôi nghèo thiếu, không có các thứ tài sản quý giá, vì yêu quý kính trọng chánh pháp nên trước đây tôi tự bán thân mà không ai mua. Nay bán ba thứ này cho vị Bà-la-môn này.” Con hỏi: “Ông nay tự bán thân, huyết, tim, tủy muốn lấy vật dụng cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa và Pháp sư thuyết pháp là Bồ-tát Pháp Dũng thì sẽ đạt được những công thù thắng gì?” Vị ấy đáp lời con: “Bồ-tát Pháp Dũng đối với các pháp sâu xa đã được tự tại, sẽ vì ta nói về phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa. Những lãnh vực về tu học, giáo hóa, hạnh trì, tạo tác của Bồ-tát ấy, ta được nghe rồi sẽ theo đúng lời chỉ dạy mà tu hành, đem lại sự thành tựu cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, có được thân sắc vàng, đủ ba mươi hai tướng của Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc viên mãn trang nghiêm, hào quang thường tỏa ra một tầm, còn các thứ hào quang khác thì vô lượng, lại gồm đủ mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, năm loại mắt, sáu phép thần thông, giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn, trí kiến không chướng ngại, trí kiến vô thượng, đắc trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, đầy đủ tất cả các pháp bảo vô thượng, bố thí đều khắp cho tất cả hữu tình, làm chỗ nương tựa cho họ. Ta xả bỏ thân mạng vì nhằm cúng dường Bồ-tát ấy, sẽ đạt được những công đức thù thắng như vậy. Con nghe nói đến Phật pháp vi diệu thù thắng chẳng thể nghĩ bàn như thế thì hết sức hoan hỷ, vô cùng xúc động, cung kính chắp tay thưa với Đại sĩ ấy: “Điều mà Đại sĩ đã nói là vi diệu tối thắng lớn lao bậc nhất, thật là hy hữu. Để đạt được tất cả pháp Phật như thế mà xả bỏ hằng hà sa thân mạng quý trọng mới xứng đáng, huống là chỉ bỏ một thân mạng! Vì sao? Vì nếu đạt được công đức vi diệu như thế thì có thể đem lại lợi lạc cho tất cả hữu tình. Nhà Đại sĩ nghèo còn vì công đức vi diệu như thế mà chẳng tiếc thân mạng huống gì nhà con giàu, có nhiều châu báu, vì công đức như thế mà lại tiếc đến của cải hay sao! Nay Đại sĩ chớ nên tự hại mình. Những phẩm vật cần cúng dường, con sẽ cung cấp hết, đó là vàng, bạc, ngọc báu phệlưu-ly, ngọc báu phả-chi-ca, mạt-ni, trân châu, xử tàng, thạch tàng, loa bối, bích ngọc, đế thanh, đại thanh, san hô, hổ phách và vô lượng phẩm vật quý giá khác như hoa hương, chuỗi báu, cờ phướn, dù lọng báu, nhạc hay, đèn sáng, xe cộ, y phục và các vật dụng cúng dường thượng diệu khác, ngài có thể đem cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Bồ-tát Pháp Dũng. Cúi xin Đại sĩ chớ tự hại mình. Thân con cũng nguyện theo chân Đại sĩ đi đến chỗ Đại Bồ-tát Pháp Dũng, để cùng được chiêm ngưỡng, cũng là để vun trồng căn lành, được nghe nói về Phật pháp.” Bấy giờ, Thiên đế Thích liền hiện nguyên hình, đứng trước Đại sĩ ấy, cúi mình chắp tay khen ngợi Đại sĩ: “Hay thay, hay thay! Vì pháp mà tâm nguyện chí thành kiên cố đến như thế! Chư Phật quá khứ khi còn làm Bồtát, cũng như Đại sĩ dùng nguyện lực kiên cố để cầu phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa, thỉnh vấn tất cả lãnh vực tu học giáo hóa, hành trì, tạo tác của Bồ-tát tâm không mệt mỏi, đem lại sự thành tựu cho các hữu tình làm nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Đại sĩ nên biết, tôi thật chẳng hề dùng máu, tim, tủy người để tế lễ gì cả mà đến để thử ngài thôi. Sở nguyện hiện nay của ngài là gì? Tôi sẽ đáp ứng nhằm bù lại cái tội đã khinh suất, xúc phạm, làm tổn hại ngài.” Vị Đại sĩ ấy đáp: “Sở nguyện chính của tôi là chỉ nhằm đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột. Thiên chủ có thể đáp ứng được chăng?” Khi ấy Thiên đế Thích bỗng nhiên cảm thấy xấu hổ, bèn thưa với Đại sĩ: “Điều này ngoài sức của tôi. Chỉ có chư Phật, bậc Đại Thánh Pháp Vương, đối với pháp luôn tự tại thì mới có thể thỏa mãn nguyện này. Thưa Đại sĩ, ngoài quả vị Giác ngộ cao tột ra, ngài còn mong cầu điều gì khác, tôi sẽ xin đáp ứng?” Vị Đại sĩ đáp: “Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng là sở nguyện của tôi, ngài có thể ban cho chăng?” Thiên đế Thích nghe nói thế càng thêm xấu hổ liền thưa với Đại sĩ: “Đối với nguyện này tôi cũng chẳng thể đáp ứng được. Nhưng tôi có thần lực khiến thân của Đại sĩ bình phục như cũ, ngài có cần điều này chăng?” Vị Đại sĩ đáp: “Sở nguyện như thế, tự tôi có thể hoàn thành, khỏi nhọc sức Thiên chủ. Vì sao? Vì nếu tôi bày tỏ khắp mười phương chư Phật phát lời chân thật rằng: Nay con tự bán mình, thật sự là kính mộ đạo pháp, chẳng mang lòng dối trá, lường gạt để mê hoặc thế gian. Do nhân duyên này nhất định đối với quả vị Giác ngộ cao tột chẳng thoái chuyển, thì khiến cho thân con được bình phục như cũ. Lời này chưa dứt thì có thể khiến thân tôi lành lặn trở lại như trước đâu cần đến oai lực của ngài!” Thiên đế Thích nói: “Đúng vậy, đúng vậy! Thần lực của Phật chẳng thể nghĩ bàn, Bồ-tát tâm chí thành thì việc gì chẳng xong. Nhưng do tôi làm tổn hại đến thân Đại sĩ, xin ngài từ bi cho tôi hoàn thành công việc này. Đại sĩ nói với Đế Thích: “Ông đã ân cần như vậy, thôi thì tùy ý ông.” Thế là Thiên đế Thích liền dùng oai lực của mình khiến thân hình của Đại sĩ kia bình phục như cũ, thậm chí chẳng thấy vết sẹo nhỏ nào, hình dáng còn đẹp đẽ hơn trước. Đế Thích xấu hổ tạ từ, nhiễu quanh theo phía bên phải rồi bỗng nhiên biến mất.
Con đã chứng kiến việc hy hữu ấy càng tăng thêm lòng yêu kính, nên chắp tay thưa rằng:
–Xin Đại sĩ rủ lòng từ bi ghé lại nơi nhà con trong chốc lát. Những nhu cầu về các phẩm vật để cúng dường pháp Ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Bồ-tát Pháp Dũng, con xin thưa bày với cha mẹ thì sẽ được tất cả. Con và đám thị nữ theo hầu cũng từ giã cha mẹ, theo chân Đại sĩ cùng đi đến thành Diệu hương, vì muốn cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Đại Bồ-tát Pháp Dũng.
Nay vị Đại sĩ ấy vì lòng hiếu thành của con, chẳng quên sở nguyện, đã đi đến trước cửa nhà ta. Cúi xin cha mẹ cho nhiều phẩm vật quý giá và cho phép con cùng với năm trăm thị nữ mang những phẩm vật cúng dường ấy theo chân Bồ-tát Thường Đề, đi đến thành Diệu hương lễ bái, cúng dường pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và Pháp sư thuyết pháp là Đại Bồ-tát Pháp Dũng, để được nghe thuyết giảng các pháp Phật.
Bấy giờ, cha mẹ nghe sự việc con gái mình nêu bày, vô cùng vui mừng, khen chưa từng có, liền bảo con gái:
–Theo lời con nói, Bồ-tát Thường Đề rất là ít có, có thể mang áo giáp đại công đức như thế, dũng mãnh, tinh tấn, cầu các pháp Phật; pháp Phật được mong cầu là vi diệu tối thắng, rộng lớn, thanh tịnh, chẳng thể nghĩ bàn, có công năng dẫn dắt các loài hữu tình ở thế gian, khiến đạt được lợi ích an lạc thù thắng. Con đối với pháp ấy đã dốc tâm kính trọng, muốn theo bậc Thiện hữu đem các phẩm vật cúng dường đến thành Diệu hương cúng dường pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa và Pháp sư thuyết pháp là Bồ-tát Pháp Dũng, vì muốn chứng các pháp Phật thì tại sao cha mẹ lại chẳng tùy hỷ! Bây giờ cho con đi, cha mẹ cũng muốn cùng đi với con, con hoan hỷ chăng?
Người con liền thưa:
–Con thật hết sức hoan hỷ. Con còn tùy thuận pháp thiện của người khác huống chi là cha mẹ?
Cha mẹ bảo:
–Con nên mau chuẩn bị các phẩm vật cúng dường và những người hầu, rồi cùng đi.
Lúc này, nữ trưởng giả liền chuẩn bị xong năm trăm cỗ xe, trang hoàng bằng bảy báu, cũng khiến năm trăm thị nữ thường theo hầu tự ý lấy các châu báu làm đồ trang sức. Lại lấy vàng bạc, ngọc báu phệ-lưu-ly, ngọc báu phả-chi-ca, mạt-ni, trân châu, đế thanh, đại thanh, loa bối, bích ngọc, san hô, hổ phách, xử tàng, thạch tàng và vô lượng của báu khác, các loại hoa hương, y phục, chuỗi báu, cờ phướn, lọng quý, nhạc hay, dầu tô, của báu thượng diệu, mỗi loại nhiều vô lượng và đủ các thứ phẩm vật cúng dường thượng diệu khác. Nữ trưởng giả đã chuẩn bị xong các việc ấy như vậy rồi, cung kính thỉnh Bồ-tát Thường Đề dùng một xe đi trước; cô ta, cha mẹ và năm trăm thị nữ mỗi người dùng một xe, vây quanh theo hầu Bồ-tát Thường Đề, dần dần tiến về hướng Đông, đến thành Diệu hương, thấy thành cao rộng đều do bảy báu tạo thành. Ở ngoài thành ấy, chung quanh đều có bảy lớp bờ tường, bảy lớp lầu quán, bảy lớp lan can, bảy lớp hào báu, bảy lớp hàng cây Đa-la thẳng tắp đều có bảy báu tạo thành; bờ tường ấy... đan xen tăng thêm vẻ đẹp cho nhau; phát ra đủ các loại ánh sáng thật đáng yêu thích. Thành báu to lớn này, mỗi bên khoảng mười hai do-tuần, thanh tịnh, rộng rãi, người vật đông đúc, an ổn, giàu có, yên vui; trong thành có năm trăm ngã tư, chợ búa, cân xứng với nhau đẹp như tranh vẽ. Ở các ngã tư đều có dòng nước trong, liên lạc thì dùng thuyền báu qua lại, không hề ách tắc; ngã tư nào cũng sạch sẽ, đẹp đẽ, rưới bằng nước thơm, rải bằng danh hoa; thành và bờ tường đều có bờ cao, lầu gác ngăn địch đều do vàng ròng tạo nên; thắp sáng bằng các châu báu, ánh sáng rực rỡ; ở khoảng giữa có các bờ tường xen lẫn các cây báu, tất cả cây này, gốc, thân, cành, lá và hoa, quả đều do các thứ báu đặt biệt làm nên; tường thành, lầu gác và các cây báu phủ bằng lưới vàng, nối kết bằng dây báu, treo bằng linh vàng, nối bằng chuông quý, gió thoảng lay động phát ra âm thanh diệu, giống như khéo hòa tấu năm loại âm nhạc. Ngoài thành, chung quanh có bảy lớp hào báu, trong đó, tràn đầy nước tám công đức, nhiệt độ điều hòa, gạch trong như gương; trong hào, đâu đâu cũng có thuyền bằng bảy báu, trang hoàng đẹp đẽ, ai cũng ưa nhìn. Trong các hào nước có đủ loại hoa quý, sắc hương tươi thắm rực rỡ, che khắp mặt hào. Có năm trăm cảnh vườn ở chung quanh thành lớn, trang hoàng đủ loại, trông rất đẹp mắt; trong mỗi cảnh vườn có năm trăm ao, ao ấy rộng dài một dặm, cũng dùng bảy báu điểm tô, làm đẹp lòng mọi người, nơi các ao đều có hoa bốn sắc, lớn như bánh xe tỏa sáng phủ khắp mặt nước; hoa ấy đều do bảy báu tạo nên. Trong các vườn ao lại có nhiều loài chim, tiếng kêu hòa nhau, tan, hợp, bay lượn vui chơi. Đoàn người dần dần đi tới trước, tức thì từ xa thấy Đại Bồ-tát Pháp Dũng an tọa trên tòa Sư tử, ở chính giữa đài bảy báu, có vô lượng, vô số trăm ngàn ức triệu hội chúng vây quanh sau trước, đang vì họ nói pháp.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Thường Đề vừa thấy Đại Bồ-tát Pháp Dũng thì thân tâm hoan hỷ an lạc, giống như vị Bí-sô giữ vững tâm nơi một cảnh, bỗng nhiên được nhập vào cõi Thiền thứ ba, vừa được trông thấy rồi liền nghĩ: “Chúng ta chẳng nên dùng xe đi thẳng đến chỗ Đại Bồ-tát Pháp Dũng.” Nghĩ thế rồi, liền xuống xe sửa lại y phục, cùng lúc nữ trưởng giả, cha mẹ nàng và năm trăm thị nữ đều cùng xuống xe; mọi người đều dùng các vật báu và y phục thượng diệu trang điểm nơi thân rồi mang các phẩm vật cúng dường cung kính vây quanh Bồ-tát Thường Đề, từ từ bước đến chỗ Đại Bồ-tát Pháp Dũng. Bên con đường nơi chỗ ở của Bồ-tát Pháp Dũng, có đài Đại Bát-nhã bằng bảy báu, dùng gỗ chiên-đàn đỏ để trang hoàng, treo linh, chuông báu, phát ra âm thanh vi diệu, chung quanh đều thả lưới trân châu, nơi bốn góc treo bốn thứ châu báu để làm đèn sáng, ngày đêm luôn tỏa chiếu khắp, bốn mặt đài báu có bốn lư lương làm bằng bạch ngân, tô điểm bằng các châu báu, luôn luôn đốt bằng hương hắc trầm thủy và rải các loại hoa quý để cúng dường. Trong đài có tòa do bảy báu tạo thành, trên đó trải một lớp nệm thêu lụa; ở trên tòa này lại có một cái hòm, do bốn báu hợp thành, trang hoàng lộng lẫy: Một là vàng, hai là bạc, ba là phệ-lưu-ly, bốn là đế thanh báu, mài mực lưu ly viết Bát-nhã ba-la-mật-đa trên lá vàng ròng, đặt vào trong hòm, luôn luôn niêm phong đóng ấn trong đài, đâu đâu cũng treo cờ phướn, hoa báu trưng bày hài hòa xinh xắn. Bồ-tát Thường Đề, nữ trưởng giả... thấy đài báu này trang nghiêm, đẹp đẽ đều chắp tay cung kính, khen ngợi chưa từng có. Lại thấy Đế Thích và vô lượng trăm ngàn chúng trời ở bên đài báu, mang đủ các thứ hương bột thượng diệu, các loại ngọc vụn, hương hoa tinh khiết, vàng bạc, hoa... rải trên đài báu. Trên không trung lại hòa tấu kỹ nhạc trời.
Bồ-tát Thường Đề thấy việc ấy rồi bèn hỏi Đế Thích:
–Vì duyên gì Thiên chủ và các chúng trời cúng dường đài này?
Thiên đế Thích:
–Đại sĩ nay há chẳng biết sao? Ở trong đài này có pháp vô thượng gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, là mẹ của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chư Đại Bồ-tát, có công năng sinh ra, gồm thâu tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chư Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát đối với pháp này dốc tâm tinh cần tu học thì mau đạt được tất cả công đức giải thoát, có thể thành tựu tất cả Phật pháp, mau chứng đắc trí Nhất thiết trí. Do nhân duyên ấy tôi và chư quyến thuộc đối với pháp này phải cung kính cúng dường.
Bồ-tát Thường Đề nghe rồi hoan hỷ hỏi tiếp Thiên đế Thích:
–Như thế thì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hiện ở chỗ nào? Tôi muốn cúng dường, mong ngài chỉ cho.
Thiên đế Thích nói:
–Đại sĩ biết chăng! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa ở trong hòm bằng bảy báu, trên tòa bảy báu trong đài này, dùng ngọc phệ-lưu-ly làm chữ viết trên lá bằng vàng ròng. Bồ-tát Pháp Dũng tự niêm phong và đóng ấn lại. Chúng tôi chẳng dám mở ra xem.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Thường Đề và nữ trưởng giả, cha mẹ nàng cùng năm trăm thị nữ nghe nói như vậy rồi liền lấy các phẩm vật mang theo như hương hoa ngọc báu, y phục, chuỗi ngọc, cờ phướn, lọng quý, nhạc hay, đèn sáng và các phẩm vật cúng dường khác phân làm hai phần, trước mang một phần đến chỗ đài báu cúng dường Bátnhã ba-la-mật-đa; lại đem một phần cùng đi tới chỗ Đại Bồ-tát Pháp Dũng. Đến nơi, thấy Đại Bồ-tát Pháp Dũng ngồi trên tòa Sư tử, đại chúng vây quanh, liền lấy hoa hương, cờ phướn, lọng quý, y phục, chuỗi ngọc, nhạc hay, đèn sáng cùng các thứ ngọc báu... trải bày cúng dường vị Thuyết pháp sư này và pháp được nói. Bồ-tát Pháp Dũng dùng thần lực khiến các loại hoa quý đã tung rải ở nơi không trung, trên đỉnh đầu mình bỗng nhiên hợp thành một đài hoa quý, các báu trang nghiêm, tươi đẹp kỳ lạ. Lại khiến các loại hương thơm đã rải bay trên hư không, ngay trên đài hoa, bỗng nhiên hợp thành lọng hương quý, có các loại ngọc báu trang hoàng. Lại khiến các loại y phục quý báu đã rải, bay lên hư không, ngang trên lọng hương, bỗng nhiên hợp thành cái màn quý, cũng dùng các báu tô điểm đẹp đẽ; còn các loại rải bày khác như cờ phướn, lọng quý, nhạc hay, đèn sáng, các thứ chuỗi ngọc... tự nhiên vọt lên ở bên màn lọng trên đài, bao quanh đẹp đẽ, xếp bày khéo léo.
Bồ-tát Thường Đề, nữ trưởng giả... thấy việc này rồi, vô cùng vui mừng, khác miệng cùng lời đều cùng khen ngợi Đại Bồ-tát Pháp Dũng:
–Nay Đại sư của ta rất là hy hữu, có thể hiện rõ diệu lực từ đại oai thần như thế, khi làm Bồ-tát còn có công năng như vậy, huống chi là lúc chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột!
Khi ấy, Bồ-tát Thường Đề và nữ trưởng giả, cùng các quyến thuộc vì hết lòng yêu kính tôn quý Đại Bồ-tát Pháp Dũng nên đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, tất cả đều phát nguyện vào đời vị lai quyết định thành tựu quả vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, do căn lành thù thắng này, chúng con nguyện vào đời vị lai khi tinh cần tu học đạo Bồtát, đối với pháp môn sâu xa, thông đạt vô ngại như Đại sư Bồ-tát Pháp Dũng hiện nay; do căn lành thù thắng này, chúng con nguyện ở đời vị lai, khi tinh cần tu học đạo Bồ-tát, có thể dùng đài giác bằng bảy báu thượng diệu và các phẩm vật cúng dường khác cúng dường pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa như Đại sư Bồ-tát Pháp Dũng hiện nay; do căn lành thù thắng này, chúng con nguyện vào đời vị lai khi tinh cần tu học đạo Bồ-tát, sẽ được ngồi nơi tòa Sư tử ở giữa đại chúng, thuyết giảng về nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoàn toàn không chút sợ hãi như Đại Bồ-tát Pháp Dũng hiện nay; do căn lành thù thắng này, chúng con nguyện vào đời vị lai khi tinh cần tu học đạo Bồ-tát thành tựu được diệu lực phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-lamật-đa, có thể mau chóng thành tựu đối tượng mong đạt tới là quả vị Giác ngộ cao tột như Đại sư Bồ-tát Pháp Dũng hiện nay; do căn lành thú thắng này, chúng con nguyện vào đời vị lai khi tinh tấn tu học đạo Bồ-tát đắc thần thông thù thắng, biến hóa tự tại đem lại lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình như Đại sư Bồ-tát Pháp Dũng hiện nay.
Bồ-tát Thường Đề, nữ trưởng giả cùng các quyến thuộc mang những phẩm vật cúng dường dâng lên cúng dường pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa và Pháp sư thuyết pháp là Đại Bồ-tát Pháp Dũng rồi, đảnh lễ sát chân, chắp tay, cung kính, nhiễu theo bên phải ba vòng, lui ra đứng một bên.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Thường Đề cúi mình chắp tay thưa với Đại Bồ-tát Pháp Dũng:
–Tôi thường ưa thích ở chỗ thanh vắng cầu Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, một hôm nọ, bỗng nhiên nghe có tiếng ở trên không trung nói rằng: “Này hàng thiện nam, ông nên đi về hướng Đông, nhất định được nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Tôi nghe trên không trung chỉ dạy như thế rồi, lòng rất đỗi vui mừng, liền đi về hướng Đông, chưa được bao lâu thì suy nghĩ: “Tại sao mình chẳng hỏi tiếng trên không trung khiến ta đi về hướng Đông kia là cách xa hay gần, đi đến thành ấp nào? Lại nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa với ai? Nghĩ như thế rồi, liền dừng lại một chỗ nọ, tự vật vã, buồn than, lo sầu trải qua bảy ngày, đêm chẳng hề mệt mỏi, chẳng nghĩ tới chuyện ngủ nghỉ, chẳng màng ăn uống, chẳng tưởng ngày đêm, chẳng sợ lạnh nóng, đối với các pháp trong, ngoài, tâm chẳng loạn động, chỉ nghĩ thế này: “Khi nào ta sẽ được nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa? Trước đây, tại sao ta chẳng hỏi tiếng trên không trung khuyên ta đi về hướng Đông là cách xa hay gần, đến chỗ nào, lại nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa với ai?” Khi tôi đang ưu sầu, tự than giận như thế thì bỗng nhiên ở trước mặt có hình Phật hiện ra bảo tôi: “Này thiện nam, ông đem tâm cầu pháp một cách hết sức dũng mãnh, tinh tấn, yêu thích, cung kính như thế, đi về hướng Đông này, quá khoảng năm trăm do-tuần, có vương thành lớn tên là Cụ diệu hương, trong thành có Bồ-tát tên là Pháp Dũng thường vì vô lượng trăm ngàn hữu tình thuyết giảng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa. Ông nên theo vị Bồ-tát ấy để được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lại nữa này hàng thiện nam, Bồ-tát Pháp Dũng là bậc bạn lành thanh tịnh dài lâu của ông, thị hiện để chỉ dạy, dẫn dắt, khen ngợi, chúc mừng, khiến ông mau chứng đắc đối tượng mong đạt tới là quả vị Giác ngộ cao tột. Bồ-tát Pháp Dũng ở đời quá khứ, dùng hạnh siêng năng chịu khổ để cầu Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, cũng như ông nay dùng các phương tiện để mong cầu. Ông mau đến chỗ Đại Bồ-tát Pháp Dũng, chớ sinh nghi ngại, chớ kể ngày đêm, chẳng bao lâu sẽ được lãnh hội Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa. Khi ấy, tôi được nghe lời nói như vậy rồi, tâm sinh vui thích, mừng vui vô cùng, liền nghĩ: “Khi nào ta sẽ gặp Bồ-tát Pháp Dũng để theo ngài được nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa? Nghe rồi, có thể đoạn trừ vĩnh viễn, các thứ phân biệt hư vọng thấy có sở đắc, mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.” Khi nghĩ như vậy, đối với tất cả các pháp liền có thể hiện khởi trí kiến vô ngại. Do trí kiến này nên được hiện nhập vô lượng pháp môn Tam-ma-địa thù thắng. Tôi an trú trong Tam-mađịa như thế, hiện thấy vô lượng, vô số, vô biên chư Phật Như Lai khắp mười phương thế giới, vì các chúng Đại Bồ-tát thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mậtđa. Lúc đó, chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều cùng khen ngợi, an ủi, ân cần dạy bảo, trao truyền cho tôi rằng: “Hay thay, hay thay! Thiện nam, chúng tôi khi xưa hành đạo Bồ-tát cũng như ông ngày nay, dùng hạnh tinh tấn, chịu khổ cầu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; trong khi dốc cầu pháp ấy cũng như ông hiện giờ đã đắc các pháp Tam-ma-địa như thế. Bấy giờ, chúng tôi tu vô lượng pháp Tam-ma-địa thù thắng được rốt ráo, thì có thể thành tựu phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Do đó, có thể thành tựu tất cả các pháp Phật, liền được an trú ở bậc không thoái chuyển.” Khi ấy mười phương chư Phật đều chỉ dạy, an ủi khiến tôi được hoan hỷ rồi, bỗng nhiên biến mất. Tôi ra khỏi pháp Tam-ma-địa đã chứng, chẳng còn thấy chư Phật nên cảm thấy buồn bã suy nghĩ: “Ta vừa thấy chư Phật mười phương, trước từ đâu đến, nay đi về đâu? Ai có thể vì ta dứt trừ nghi vấn này?” Lại nghĩ tiếp: “Bồ-tát Pháp Dũng từ lâu đã tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đã đắc vô lượng pháp môn Đà-la-ni và Tam-ma-địa, đối với thần thông tự tại của Bồ-tát đã được cứu cánh, đã từng cúng dường vô lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ở chỗ chư Phật, phát thệ nguyện rộng lớn, vun trồng các căn lành, trong thời gian lâu dài là bạn lành của chúng ta, thường quan tâm giúp đỡ ta, khiến đạt được lợi lạc. Ta nên mau đi đến chỗ Đại Bồ-tát Pháp Dũng, thưa hỏi việc thấy chư Phật mười phương vừa rồi là các Ngài trước từ đâu đến, nay đi về đâu? Bồ-tát ấy có thể vì ta mà giải đáp nghi vấn ấy.” Bấy giờ, tôi nghĩ như vậy rồi, quyết tâm dốc sức đi dần về hướng Đông, thắm thoát lâu ngày vào thành ấp này, dần tiến đến trước, xa thấy Đại sư an tọa tòa Sư tử trên đài bảy báu, đại chúng vây quanh vì họ mà thuyết giảng chánh pháp. Ngay ở chốn này, vừa trông thấy Đại sư là thân tâm an vui, giống như Bí-sô bỗng nhiên vào được cõi Thiền thứ ba. Cho nên nay tôi thỉnh vấn Đại sư về chư Phật mười phương mà tôi đã thấy trước đây là trước từ đâu đến, nay đi về đâu? Cúi xin Đại sư vì tôi mà nêu bày sự việc để tôi được biết rõ, đã biết rõ rồi, thì đời đời sẽ được gặp chư Phật.
[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]