SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

HỘI THỨ II

Phẩm 62: Đồng tánh
(QUYỂN 455 - 456)

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.

QUYỂN 455

QUYỂN 456


QUYỂN 455

Phẩm 62: Đồng tánh (1)

Khi ấy Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn, thế nào là đồng tánh của Đại Bồ-tát do các Đại Bồ-tát học ở trong đó nên gọi là đồng học?

Phật bảo Thiện Hiện:

–Pháp không bên trong là đồng tánh của Đại Bồ-tát, pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là đồng tánh của Đại Bồ-tát, vì các Đại Bồ-tát học ở trong đó nên gọi là đồng học.

Do sự đồng học này nên họ mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, sắc, tánh không của sắc; thọ, tưởng, hành, thức, tánh không của thọ, tưởng, hành, thức là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Nhãn xứ, tánh không của nhãn xứ cho đến ý xứ, tánh không của ý xứ là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Sắc xứ, tánh không của sắc xứ cho đến pháp xứ, tánh không của pháp xứ là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Nhãn giới, tánh không của nhãn giới cho đến ý giới, tánh không của ý giới là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Sắc giới, tánh không của sắc giới cho đến pháp giới, tánh không của pháp giới là đồng tánh của Đại Bồtát. Nhãn thức giới, tánh không của nhãn thức giới cho đến ý thức giới, tánh không của ý thức giới là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Nhãn xúc, tánh không của nhãn xúc cho đến ý xúc, tánh không của ý xúc là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, tánh không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra, tánh không của các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Địa giới, tánh không của địa giới cho đến thức giới, tánh không của thức giới là đồng tánh của Đại Bồtát. Vô minh, tánh không của vô minh cho đến lão tử, tánh không của lão tử là đồng tánh của Đại Bồtát. Bố thí ba-la-mật-đa, tánh không của Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, tánh không Bát-nhã ba-la-mật-đa là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Pháp không bên trong, tánh không của pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh, tánh không của pháp không không tánh tự tánh là đồng tánh của Đại Bồ-tát.

Chân như, tánh không của chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, tánh không của cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là đồng tánh của Đại Bồtát. Thánh đế khổ, tánh không của Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo, tánh không của Thánh đế tập, diệt, đạo là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Bốn Niệm trụ, tánh không của bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, tánh không của tám chi Thánh đạo là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Bốn Tĩnh lự, tánh không của bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, tánh không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Tám Giải thoát, tánh không của tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ, tánh không của mười Biến xứ là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Pháp môn giải thoát Không, tánh không của pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, tánh không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Bậc Tịnh quán, tánh không của bậc Tịnh quán cho đến bậc Như Lai, tánh không của bậc Như Lai là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Bậc Cực hỷ, tánh không của bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân, tánh không của bậc Pháp vân là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Tất cả pháp môn Đà-la-ni, tánh không của tất cả pháp môn Đà-lani; tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tánh không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Năm loại mắt, tánh không của năm loại mắt; sáu phép thần thông, tánh không của sáu phép thần thông là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Mười lực của Như Lai, tánh không của mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tánh không của mười tám pháp Phật bất cộng là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Pháp không quên mất, tánh không của pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả, tánh không của tánh luôn luôn xả là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Trí Nhất thiết, tánh không của trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, tánh không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Quả Dự lưu, tánh không của quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề, tánh không của Độc giác Bồ-đề là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Tất cả hạnh của Đại Bồ-tát, tánh không của tất cả hạnh của Đại Bồ-tát là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Quả vị Giác ngộ cao tột của Phật, tánh không của quả vị Giác ngộ cao tột của Phật là đồng tánh của Đại Bồ-tát. Do Đại Bồ-tát trụ ở trong đó để học, nên gọi là đồng học. Do sự đồng học này họ mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Khi ấy, Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sắc chấm dứt nên học, vì thọ, tưởng, hành, thức chấm dứt nên học là học trí Nhất thiết trí phải không? Vì lìa sắc nên học, vì lìa thọ, tưởng, hành, thức nên học là trí Nhất thiết trí phải không? Vì sắc diệt nên học, vì thọ, tưởng, hành, thức diệt nên học là học trí Nhất thiết trí phải không? Vì sắc không sinh nên học, vì thọ, tưởng, hành, thức không sinh nên học là học trí Nhất thiết trí phải không?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát làm như vậy cho đến vì tất cả hạnh của Đại Bồ-tát chấm dứt nên học, vì quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chấm dứt nên học là học trí Nhất thiết trí phải không? Vì tất cả hạnh của Đại Bồ-tát lìa nên học, vì quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật lìa nên học là học trí Nhất thiết trí phải không? Vì tất cả hạnh của Đại Bồ-tát diệt nên học, vì quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật diệt nên học là học trí Nhất thiết trí phải không? Vì tất cả hạnh của Đại Bồ-tát không sinh nên học, vì quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật không sinh nên học là học trí Nhất thiết trí phải không?

Phật bảo Thiện Hiện:

–Như lời ông đã nói, Đại Bồ-tát nào vì sắc chấm dứt, xa lìa, diệt và không sinh nên học là học trí Nhất thiết trí phải không? Vì thọ, tưởng, hành, thức chấm dứt, xa lìa, diệt, không sinh nên học là học trí Nhất thiết trí phải không? Như vậy cho đến vì tất cả hạnh của Đại Bồ-tát chấm dứt, xa lìa, diệt, không sinh nên học là học trí Nhất thiết trí phải không? Vì quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chấm dứt, xa lìa, diệt, không sinh nên học là học trí Nhất thiết trí phải không?

Này Thiện Hiện, ý ông nghĩ sao? Chân như của sắc có chấm dứt, xa lìa, tiêu diệt, đoạn trừ không? Chân như của thọ, tưởng, hành, thức có chấm dứt, xa lìa, tiêu diệt, đoạn trừ không? Như vậy cho đến chân như của tất cả hạnh Đại Bồ-tát có chấm dứt, xa lìa, tiêu diệt, đoạn trừ không? Chân như quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật có chấm dứt, xa lìa, tiêu diệt, đoạn trừ không?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không có! Bạch Thiện Thệ, không có!

Phật bảo Thiện Hiện:

–Đại Bồ-tát nào học như vậy đối với chân như là học trí Nhất thiết trí. Thiện Hiện nên biết, chân như không thể chấm dứt, không thể xa lìa, không thể tiêu diệt, không thể đoạn trừ, không thể chứng đắc, Đại Bồ-tát nào học như vậy đối với chân như là học trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Thiện Hiện, lúc Đại Bồ-tát nào học như vậy là học Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, là học pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh, là học chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, là học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, là học bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, là học bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, là học tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ, là học pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, là học bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân, là học tất cả pháp môn Đàla-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, là học năm loại mắt, sáu phép thần thông, là học mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, là học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, là học trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, là học tất cả hạnh của Đại Bồ-tát, là học quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.

Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào học Bố thí ba-la-mật-đa cho đến quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật thì nên biết đó là học trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Thiện Hiện, lúc Đại Bồ-tát nào học như vậy cho đến học tất cả sự rốt ráo ở bờ kia thì tất cả Thiên, Ma và các ngoại đạo không có năng lực hàng phục và vị ấy mau đến địa vị không thoái chuyển của Bồ-tát. Chỗ hành dụng của vị ấy ứng hợp với chỗ mà tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tổ phụ đã hành dụng ở đó có thể hộ trì Chánh pháp chứ không bị vạn duyên xoay chuyển trở lại, có thể làm việc tác pháp ứng hợp với chỗ thành thục tất cả hữu tình, khéo léo trang nghiêm cõi Phật của mình; đó là khéo léo tu học đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả và vô số Phật pháp khác.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào học như thế là học ba lần chuyển vận mười hai hành tướng của bánh xe pháp vô lượng, là học cách an tâm trăm ngàn, trăm ức, muôn ức chúng sinh làm cho họ nhập Niết-bàn ở cõi Vô dư y Niết-bàn, là học diệu hạnh Phật chủng thường còn là học mở cửa cam lồ của chư Phật, là học an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình giúp họ đứng vững nơi pháp Tam thừa, là học thị hiện cho tất cả hữu tình thấy cảnh giới vô vi chân thật hoàn toàn vắng lặng, đó là tu học trí Nhất thiết trí. Đối với việc học như thế thì các hữu tình căn tánh chậm lụt không thể học được. Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào muốn cứu vớt tất cả hữu tình ra khỏi nỗi khổ lớn sinh tử thì nên học như vậy.

Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào học như vậy thì quyết định không đọa vào cảnh giới địa ngục, bàng sinh, diệm-ma, ngạ quỷ, chắc chắn không sinh biên địa hạ tiện, chắc chắn không sinh vào nhà Chiên-đà-la, nhà đồ tể và những nhà bần cùng hạ tiện không tuân theo giới luật, quyết không đui, điếc, câm, ngọng, cùi tay, què chân, các căn và tay chân bị tàn tật, thiếu hụt, lưng gù, điên cuồng, ung thư, hủi lát, bệnh trĩ, ghẻ dữ... không có quá cao hoặc thấp cũng không đen cháy, không bị các thứ bệnh ghẻ dơ bẩn.

Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào học như vậy đời đời thường có đầy đủ quyến thuộc, hình dạng xinh đẹp, nói năng oai nghiêm, được mọi người kính yêu, nơi mà họ sinh không có các việc giết hại sinh mạng cho đến tà kiến, trọn không nắm giữ tà pháp hư dối, không dùng tà pháp để tự nuôi sống, cũng không nhận các hữu tình phá giới, ác kiến hủy báng làm bạn thân.

Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào học như thế thì chẳng sinh vào cõi trời Trường thọ là nơi chìm đắm trong các thú vui và ít có trí tuệ. Vì sao vậy? Đó là vì Đại Bồ-tát này thuần thục thế lực phương tiện thiện xảo; do thế lực phương tiện thiện xảo này họ có thể nhập vào các Tĩnh lự, Vô lượng, Định vô sắc nhưng không theo thế lực ấy thọ sinh vào các cõi đó. Do được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa giữ gìn nên họ thành tựu năng lực phương tiện thiện xảo như vậy, tuy thường đạt được các tầng định nhưng ra vào tự tại và không theo thế lực của các tầng định ấy mà sinh vào cõi trời Trường thọ, phế bỏ việc tu tập các diệu hạnh thù thắng của Bồ-tát.

Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào học như vậy thì đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả và mười tám pháp Phật bất cộng, vô lượng, vô biên diệu pháp của chư Phật đều được thanh tịnh. Nhớ thanh tịnh, họ không bị dừng lại ở địa vị Thanh văn, Độc giác.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu bản tánh tất cả các pháp là thanh tịnh thì các vị Đại Bồ-tát vì sao lại được thanh tịnh đối với diệu pháp của Phật?

Phật bảo Thiện Hiện:

–Đúng vậy, đúng vậy, như lời ông nói. Tự tánh các pháp xưa nay vốn thanh tịnh. Ở trong tất cả các pháp vốn có thanh tịnh, các vị Đại Bồ-tát siêng năng tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thông suốt như thật, không chìm đắm, không ngăn ngại, xa lìa tất cả phiền não đắm nhiễm cho nên nói Bồtát lại được thanh tịnh.

Lại nữa Thiện Hiện, tuy bản tánh tất cả các pháp là thanh tịnh nhưng kẻ phàm phu ngu si không biết, không hiểu. Vì muốn làm cho họ hiểu biết giác ngộ, nên Đại Bồ-tát này tu hành Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, an trú vào pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh, an trú vào chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, an trú vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, tu hành bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, tu hành bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, tu hành tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ, tu hành pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, tu hành bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân, tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông tu hành mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tu hành trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.

Đối với tất cả các pháp có bản tánh thanh tịnh, Đại Bồ-tát này học như vậy nên được thanh tịnh đối với mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, có thể thông suốt hoàn toàn tâm hạnh khác nhau của các hữu tình, dùng phương tiện thiện xảo giúp cho các hữu tình chứng ngộ được bản tánh các pháp vốn thanh tịnh và chứng đắc được Niết-bàn hoàn toàn an lạc.

Thiện Hiện nên biết, giống như trên mặt đất chỉ có ít chỗ sinh ra vàng bạc, châu báu, mà có nhiều chỗ sinh ra đá, cát, ngói, gạch, các hữu tình cũng như vậy, ít người có thể học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghĩa là các Bồ-tát tu theo Đại thừa, phần lớn đều học pháp Thanh văn, Độc giác là người cầu tự lợi thuộc thừa trung và hạ.

Thiện Hiện nên biết, giống như trong cõi người, ít người có thể tu nghiệp Chuyển luân vương, phần lớn đều thực hành nghiệp làm vua nước nhỏ, các loài hữu tình cũng như vậy, ít người có thể tu đạo trí Nhất thiết trí, phần nhiều đều thực hành đạo Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết, trong số các Bồ-tát cầu mong hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, chỉ có ít người chứng quả vị Giác ngộ cao tột còn phần lớn đều rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết, chúng sinh nào trụ nơi Bồtát thừa, nếu không xa lìa phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì chắc chắn đạt được địa vị không thoái chuyển, nếu ai xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì chắc chắn sẽ bị thoái chuyển quả vị Giác ngộ cao tột. Vì vậy, Đại Bồ-tát nào muốn đạt được địa vị không thoái chuyển, muốn gia nhập vào trong số Bồ-tát không thoái chuyển nên siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không được ngừng nghỉ.

Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào tu học phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy thì trọn đời không phát sinh tâm hành keo kiệt, phá giới, giận hờn, giải đãi, tán loạn, ác tuệ; cũng không phát sinh tâm hành tham dục, giận dữ, ngu si, kiêu mạn; cũng không phát sinh tâm hành phóng dật, nhầm lẫn và các tội lỗi khác; không phát sinh tâm hành chấp trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức; cũng không phát sinh tâm hành chấp trước nhãn xứ cho đến ý xứ; không phát sinh tâm hành chấp trước sắc xứ cho đến pháp xứ; cũng không phát sinh tâm hành chấp trước nhãn giới cho đến ý giới; cũng không phát sinh tâm hành chấp trước sắc giới cho đến pháp giới; không phát sinh tâm hành chấp trước nhãn thức giới cho đến ý thức giới; cũng không phát sinh tâm hành chấp trước nhãn xúc cho đến ý xúc; không phát sinh tâm hành chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; cũng không phát sinh tâm hành chấp trước địa giới cho đến thức giới; không phát sinh tâm hành chấp trước vô minh cho đến lão tử; cũng không phát sinh tâm hành chấp trước Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; không phát sinh tâm hành chấp trước pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh; cũng không phát sinh tâm hành chấp trước chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; không phát sinh tâm hành chấp trước Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; cũng không phát sinh tâm hành chấp trước bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; không phát sinh tâm hành chấp trước tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ; cũng không phát sinh tâm hành chấp trước bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; không phát sinh tâm hành chấp trước pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; cũng không phát sinh tâm hành chấp trước bậc Tịnh quán cho đến bậc Như Lai; không phát sinh tâm hành chấp trước bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân; cũng không phát sinh tâm hành chấp trước năm loại mắt, sáu phép thần thông; không phát sinh tâm hành chấp trước mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; cũng không phát sinh tâm hành chấp trước ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ; không phát sinh tâm hành chấp trước pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng không phát sinh tâm hành chấp trước tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; không phát sinh tâm hành chấp trước trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; cũng không phát sinh tâm hành chấp trước quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề; không phát sinh tâm hành chấp trước tất cả các hạnh của Đại Bồ-tát; cũng không phát sinh tâm hành chấp trước quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao vậy? Đó là vì Đại Bồ-tát này thực hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không thấy có pháp nào là pháp có thể nắm bắt được. Do không có chỗ được nên họ không phát sinh tâm hành chấp trước các pháp như sắc...

QUYỂN 456

Phẩm 62: Đồng tánh (2)

Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào tu học Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì nhờ các oai đức của phương tiện thiện xảo nên nắm giữ tất cả Ba-la-mật-đa, tăng trưởng tất cả Ba-la-mật-đa, dẫn dắt tất cả Ba-la-mật-đa. Vì sao vậy? Này Thiện Hiện, đó là vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chứa đựng tất cả Ba-la-mật-đa, này Thiện Hiện, giống như Tát-ca-da kiến (thân kiến) có thể bao hàm sáu mươi hai tà kiến, cũng vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bao hàm tất cả Ba-la-mật-đa. Này Thiện Hiện, giống như tất cả người chết, do mạng căn diệt nên các căn cũng diệt theo, Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa cũng như vậy, năm pháp Ba-la-mật-đa như Bố thí... đều tùy theo đó. Nếu không có Bátnhã ba-la-mật-đa thì cũng không có tất cả Ba-la-mật-đa.

Vì vậy, này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào muốn đến bờ kia rốt ráo của tất cả Ba-la-mật-đa thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này.

Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào tu học Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì trở thành người tôn quý thù thắng nhất đối với các hữu tình. Vì sao vậy? Bởi vì Đại Bồ-tát này đã có thể tu học pháp cao siêu hơn hết.

Lại nữa Thiện Hiện, ý ông nghĩ sao? Các loài hữu tình ở thế giới ba lần ngàn có nhiều không?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ còn rất nhiều, huống gì còn các loài hữu tình ở thế giới ba lần ngàn sao lại không nhiều!

Phật bảo Thiện Hiện:

–Đúng vậy, đúng vậy, như ông đã nói! Thiện Hiện, giả sử các loài hữu tình trong thế giới ba lần ngàn đồng thời đều được thân người. Sau khi được thân người, họ đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột và tu hành các hạnh của Đại Bồ-tát cùng một lượt. Sau khi tu hành viên mãn, họ đều chứng quả vị Giác ngộ cao tột cùng một lúc. Có Đại Bồtát trọn đời đem các thứ vòng hoa xinh đẹp bậc nhất, hương hoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan báu, dù lọng, âm nhạc, đèn sáng, nhà cửa, giường nằm, đồ ăn uống, thuốc trị bệnh để cúng dường, cung kính tôn trọng, ngợi khen các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này, thì theo ý ông nhờ nhân duyên đó, Đại Bồ-tát này được phước có nhiều không?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều!

Phật bảo Thiện Hiện:

–Đại Bồ-tát nào thường thích lắng nghe thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, hoàn toàn thông suốt tư duy như lý, tu hành theo lời dạy, biên chép, truyền bá thì thu được phước đức nhiều hơn phước đức nói trên vô lượng lần. Vì sao vậy? Đó là vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có đầy đủ ý nghĩa và công dụng to lớn có thể giúp các vị Đại Bồ-tát sớm đạt được quả vị Giác ngộ cao tột.

Vì vậy, này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào muốn đứng đầu tất cả hữu tình, muốn làm lợi ích tất cả hữu tình, muốn cứu giúp những người không có ai cứu giúp, làm nơi nương tựa cho những người không có nương tựa, làm nơi hướng đến cho những người không nơi hướng đến, làm mắt cho những người mù, làm ánh sáng cho những người không có ánh sáng, chỉ đường chánh cho những người lạc đường, làm cho những người chưa đạt Niết-bàn đạt được Niết-bàn, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này.

Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào muốn đạt được quả vị Giác ngộ cao tột, muốn đi vào cảnh giới Như Lai đã đi, muốn dạo chơi ở nơi Phật dạo chơi, muốn rống tiếng sư tử rống của Như Lai, muốn đánh trống Pháp vô thượng của chư Phật, muốn gióng chuông Pháp vô thượng của chư Phật, muốn thổi ốc Pháp vô thượng của chư Phật, muốn lên Pháp tòa vô thượng của chư Phật, muốn tuyên bày nghĩa Pháp vô thượng của chư Phật, muốn phá tan lưới nghi của tất cả hữu tình, muốn vào cảnh giới cam lồ của chư Phật, muốn hưởng thọ pháp lạc vi diệu của chư Phật, muốn chứng công đức thù thắng của Như Lai, thì hãy học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy.

Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào có thể học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì không có công đức thiện căn nào mà không nắm giữ được, không có công đức thiện căn nào mà chẳng đạt được. Vì sao vậy? Đó là vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là nơi của tất cả công đức thiện căn nương tựa.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này sao có thể nắm giữ và chứng đắc công đức thiện căn của tất cả Thanh văn và Độc giác được?

Phật bảo Thiện Hiện:

–Đại Bồ-tát này cũng có thể nắm giữ và chứng đắc tất cả công đức thiện căn Thanh văn, Độc giác nhưng không an trụ, không vướng mắc ở trong đó.

Sau khi đã dùng trí thù thắng để quan sát chân chánh họ vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác, nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát. Không có công đức thiện căn nào mà các Đại Bồ-tát này không nắm giữ, chứng đắc được.

Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì ở gần trí Nhất thiết trí và mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đều là ruộng phước chân thật của tất cả thế gian, Trời, Người, A-tố-lạc... vượt lên trên phước điền của thế gian, Sa-môn, Phạm chí, Thanh văn, Độc giác và mau chứng được trí Nhất thiết trí, sinh ở đâu cũng không bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa, không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào có thể học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, nên biết vị ấy đã được không thoái chuyển đối với trí Nhất thiết trí, có thể hiểu biết chân chánh đối với tất cả các pháp, xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác, gần gũi quả vị Giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào nghĩ như vầy: “Đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây là lúc tu, đây là nơi tu, ta có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, ta nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, xả bỏ những pháp cần bỏ, chắc chắn sẽ chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì Đại Bồ-tát này chẳng thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng không thể hiểu Bát-nhã ba-la-mậtđa.” Vì sao vậy? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không có nghĩ như vầy: “Ta là Bát-nhã ba-la-mậtđa, đây là lúc tu, đây là nơi tu, đây là người tu, đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa là chỗ các pháp, đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa là chỗ soi rõ các pháp, đây là quả vị Giác ngộ cao tột mà Bát-nhã ba-la-mật-đa chứng đắc.” Nếu biết như thế là thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào nghĩ như vầy: “Đây chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây chẳng phải là lúc tu, đây chẳng phải là chỗ tu, chẳng phải người tu, chẳng phải nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà xa lìa tất cả các pháp nên xả bỏ, chẳng phải nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà chắc chắn chứng được trí Nhất thiết trí.” Vì sao vậy? Bởi vì tất cả các pháp đều đứng vững ở chân như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, mọi thứ ở trong đó đều không sai khác. Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào thực hành như vậy là thực hành Bát-nhã ba-la-mậtđa.


Trước

[Đầu trang][Mục lục Kinh Đại Bát Nhã]

Tiếp theo


[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]


[Mục lục tổng quát]