SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

HỘI THỨ II

Phẩm 7: Nhập ly sinh
(QUYỂN 408)

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.


QUYỂN 408

Phẩm 7: Nhập ly sinh

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát muốn viên mãn Bố thí ba-la-mật-đa thì nên học Bát-nhã bala-mật-đa; muốn viên mãn Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết tường tận về sắc nên học Bát-nhã ba-la-mậtđa; muốn biết tường tận về thọ, tưởng, hành, thức nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết tường tận về nhãn xứ nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa; muốn biết tường tận về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết tường tận về sắc xứ nên học Bátnhã ba-la-mật-đa; muốn biết tường tận về thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nên học Bát-nhã ba-lamật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết tường tận về nhãn giới nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa; muốn biết tường tận về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết tường tận về sắc giới nên học Bát-nhã ba-la-mậtđa; muốn biết tường tận về thanh, hương, vị, xúc, pháp giới nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết tường tận về nhãn thức giới nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa; muốn biết tường tận về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới nên học Bát-nhã bala-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết tường tận về nhãn xúc nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa; muốn biết tường tận về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết tường tận về các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa; muốn biết tường tận về các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết tường tận về địa giới nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa; muốn biết tường tận về thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên học Bátnhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết tường tận về vô minh nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa; muốn biết tường tận về hành, thức, danh sắc, lục xứ, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đoạn hẳn tham dục, sân giận, ngu si nên học Bát-nhã ba-lamật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đoạn hẳn thân kiến, giới cấm thủ, nghi, dục tham, sân giận nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đoạn hẳn tham về sắc, tham vô sắc, vô minh, mạn, trạo cử nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đoạn hẳn tất cả các tùy miên trói buộc nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đoạn hẳn bốn cách ăn nên học Bát-nhã ba-la-mậtđa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đoạn hẳn bốn dòng nước mạnh làm cho thân điên đảo thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn xa lìa mười nẻo nghiệp bất thiện thì nên học Bát-nhã ba-lamật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hành bốn Tĩnh lự thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa; muốn tu hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thì nên học Bátnhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hành bốn Niệm trụ thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa, muốn tu hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đắc mười lực của Phật thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa; muốn được bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn tự tại nhập Tam-ma-địa giác chi nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn tự tại nhập xuất sáu phép thần thông nên học Bát-nhã ba-lamật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đối với bốn Tĩnh lự, bốn vô sắc, định diệt tận thứ lớp vượt qua thuận nghịch tự tại thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đối với tất cả pháp môn Đàla-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa đều được tự tại thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đối với tất cả Tam-ma-địa Sư tử du hý cho đến Tam-ma-địa Sư tử phấn tấn nhập xuất tự tại thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đối với việc vào ra Tam-ma-địa Kiền hành, Tam-ma-địa Bảo ấn, Tam-ma-địa Diệu nguyệt,

Tam-ma-địa Nguyệt tràng tướng, Tam-ma-địa Nhất thiết pháp ấn, Tam-ma-địa Quán ấn, Tamma-địa Pháp giới quyết định, Tam-ma-địa Quyết định tràng tướng, Tam-ma-địa Kim cang dụ, Tamma-địa Nhập nhất thiết pháp môn, Tam-ma-địa Tam-ma-địa vương, Tam-ma-địa Vương ấn, Tamma-địa Lực thanh tịnh, Tam-ma-địa Bảo khiếp, Tam-ma-địa Nhập nhất thiết pháp ngôn từ quyết định, Tam-ma-địa Nhập nhất thiết pháp tăng ngữ, Tam-ma-địa Quán sát thập phương, Tam-ma-địa Nhất thiết pháp Đà-la-ni môn ấn, Tam-ma-địa Nhất thiết pháp không quên mất, Tam-ma-địa Nhất thiết pháp đăng thú hành tướng ấn, Tam-mađịa Trụ hư không xứ, Tam-ma-địa Tam luân thanh tịnh, Tam-ma-địa Bất thoái thần thông, Tam-mađịa Khí dũng, Tam-ma-địa Thắng định tràng tướng và vô lượng Tam-ma-địa thù thắng khác đều được tự tại thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn làm viên mãn sở nguyện của tất cả hữu tình thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn làm viên mãn căn lành thù thắng như vậy, do căn lành này được viên mãn nên không đọa vào các đường ác, không sinh vào nhà bần tiện, không rơi vào địa vị Thanh văn và Độc giác, đối với ngôi vị Bồ-tát hoàn toàn không thoái lui thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

–Thế nào gọi là Bồ-tát bị thoái đọa?

Thiện Hiện đáp:

–Nếu các Bồ-tát không có phương tiện thiện xảo mà thực hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo an trú ba pháp môn giải thoát thì bị thoái lui ở địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, không vào được pháp Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát. Như vậy gọi là Bồ-tát bị thoái đọa.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

–Thế nào gọi là sinh?

Thiện Hiện đáp:

–Sinh là pháp ái.

Xá-lợi Tử hỏi:

–Thế nào là pháp ái? Thiện Hiện đáp:

–Nếu Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, an trú nơi không của sắc mà sinh tưởng chấp trước, an trú nơi không của thọ tưởng, hành, thức mà sinh tưởng chấp trước; an trú nơi vô tướng của sắc mà sinh tưởng chấp trước, an trú nơi vô tướng của thọ tưởng, hành, thức mà sinh tưởng chấp trước; an trú nơi vô nguyện của sắc mà sinh tưởng chấp trước, an trú nơi vô nguyện của thọ tưởng, hành, thức mà sinh tưởng chấp trước, an trú nơi tịch tĩnh của sắc mà sinh tưởng chấp trước, an trú nơi tịch tĩnh của thọ tưởng, hành, thức mà sinh tưởng chấp trước; an trú nơi xa lìa của sắc mà sinh tưởng chấp trước, an trú nơi xa lìa của thọ, tưởng, hành, thức mà sinh tưởng chấp trước; an trú nơi vô thường của sắc mà sinh tưởng chấp trước, an trú nơi vô thường của thọ, tưởng, hành, thức mà sinh tưởng chấp trước; an trú nơi khổ của sắc mà sinh tưởng chấp trước, an trú nơi khổ của thọ tưởng, hành, thức mà sinh tưởng chấp trước; an trú nơi vô ngã của sắc mà sinh tưởng chấp trước, an trú nơi vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức mà sinh tưởng chấp trước; an trú nơi bất tịnh của sắc mà sinh tưởng chấp trước, an trú nơi bất tịnh của thọ tưởng, hành, thức mà sinh tưởng chấp trước, thì thưa Hiền giả Xá-lợi Tử đó là Đại Bồ-tát tùy thuận pháp ái, chính pháp ái này gọi là sinh.

Lại nữa thưa Hiền giả Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồtát nghĩ như vầy: “Sắc này nên đoạn; thọ, tưởng, hành, thức này nên đoạn”, do đó nên sắc được đoạn, do đó nên thọ, tưởng, hành, thức được đoạn; “Khổ này nên biết hết” do đó nên khổ được biết trọn vẹn; “Tập này nên đoạn hẳn”, do đó nên tập được đoạn hẳn; “Diệt này nên chứng”, do đó nên diệt được chứng; “Đạo này nên tu tập”, do đó nên đạo được tu tập; “Đây là tạp nhiễm, đây là thanh tịnh, đây nên thân cận, đây không nên thân cận, điều này nên làm, điều này không nên làm, đây là đạo, đây chẳng phải là đạo, điều này nên học điều này không nên học, đây là Bố thí ba-la-mật-đa, đây chẳng phải là Bố thí ba-la-mật-đa, đây là Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây chẳng phải là Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây là phương tiện thiện xảo, đây chẳng phải là phương tiện thiện xảo, đây là sự sinh của Bồ-tát, đây là sự lìa sinh của Bồtát” thì thưa Hiền giả Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa an trú nơi các pháp ngôn này mà sinh tưởng đắm trước thì đó là Đại Bồ-tát tùy thuận pháp ái, chính pháp ái này gọi là sinh, như thức ăn để cách đêm hay sinh ra các bệnh hoạn.

Lúc bấy giờ, Cụ thọ Xá-lợi Tử hỏi Cụ thọ Thiện Hiện:

–Thế nào là nhập Chánh tánh ly sinh của Đại Bồ-tát?

Thiện Hiện đáp:

–Thưa Hiền giả Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không thấy pháp không bên trong, không nương pháp không bên trong mà quán pháp không bên ngoài; không thấy pháp không bên ngoài, không nương pháp không bên ngoài mà quán pháp không bên trong; không nương pháp không bên ngoài mà quán pháp không cả trong ngoài; không thấy pháp không cả trong ngoài, không nương pháp không cả trong ngoài mà quán pháp không không; không thấy pháp không không, không nương pháp không không mà quán pháp không bên trong; không nương pháp không không mà quán pháp không lớn; không thấy pháp không lớn, không nương pháp không lớn mà quán pháp không không; không nương pháp không lớn mà quán pháp không thắng nghĩa; không thấy pháp không thắng nghĩa, không nương pháp không thắng nghĩa mà quán pháp không lớn; không nương pháp không thắng nghĩa mà quán pháp không hữu vi; không thấy pháp không hữu vi, không nương pháp không hữu vi mà quán pháp không thắng nghĩa; không nương pháp không hữu vi mà quán pháp không vô vi; không thấy pháp không vô vi, không nương pháp không vô vi mà quán pháp không hữu vi; không nương pháp không vô vi mà quán pháp không rốt ráo; không thấy pháp không rốt ráo, không nương pháp không rốt ráo mà quán pháp không vô vi; không nương pháp không rốt ráo mà quán pháp không không biên giới; không thấy pháp không không biên giới, không nương pháp không không biên giới mà quán pháp không rốt ráo; không nương vào pháp không không biên giới mà quán pháp không tản mạn chẳng đổi khác; không thấy pháp không tản mạn chẳng đổi khác không nương vào pháp không tản mạn chẳng đổi khác mà quán pháp không không biên giới; không nương vào pháp không tản mạn chẳng đổi khác mà quán pháp không bản tánh; không thấy pháp không bản tánh, không nương pháp không bản tánh mà quán pháp không tản mạn chẳng đổi khác; không nương pháp không bản tánh mà quán pháp không tự tướng cộng tướng; không thấy pháp không tự tướng cộng tướng mà quán pháp không bản tánh; không nương pháp không tự tướng cộng tướng mà quán pháp không nơi tất cả pháp; không thấy pháp không nơi tất cả pháp, không nương pháp không nơi tất cả pháp mà quán pháp không tự tướng cộng tướng; không nương pháp không nơi tất cả pháp mà quán pháp không chẳng thể nắm bắt được; không thấy pháp không chẳng thể nắm bắt được, không nương pháp không chẳng thể nắm bắt được mà quán pháp không nơi tất cả pháp; không nương pháp không chẳng thể nắm bắt được mà quán pháp không không tánh; không thấy pháp không không tánh, không nương pháp không không tánh mà quán pháp không chẳng thể nắm bắt được; không nương pháp không không tánh mà quán pháp không tự tánh; không thấy pháp không tự tánh, không nương pháp không tự tánh mà quán pháp không không tánh; không nương pháp không tự tánh mà quán pháp không không tánh tự tánh; không thấy pháp không không tánh tự tánh, không nương pháp không không tánh tự tánh mà quán pháp không tự tánh, thì thưa Hiền giả Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa quán như vậy gọi là nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát.

Lại nữa thưa Hiền giả Xá-lợi Tử, các Đại Bồtát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên học như vầy: Biết như thật về sắc, không nên chấp; biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức, không nên chấp; biết như thật về nhãn xứ, không nên chấp; biết như thật về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, không nên chấp; biết như thật về sắc xứ, không nên chấp; biết như thật về thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, không nên chấp; biết như thật về nhãn giới, không nên chấp; biết như thật về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, không nên chấp; biết như thật về sắc giới, không nên chấp; biết như thật về thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, không nên chấp; biết như thật về nhãn thức giới, không nên chấp; biết như thật về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, không nên chấp; biết như thật về Bố thí ba-la-mật-đa, không nên chấp; biết như thật về Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, không nên chấp; biết như thật về bốn Tĩnh lự, không nên chấp; biết như thật về bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, không nên chấp; biết như thật về bốn Niệm trụ, không nên chấp; biết như thật về bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, không nên chấp; biết như thật về mười lực của Phật, không nên chấp; biết như thật về bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, không nên chấp.

Như vậy, thưa Hiền giả Xá-lợi Tử, các Đại Bồtát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể biết như thật tâm Bồ-đề, không nên chấp; tâm không gì bằng, không nên chấp; tâm rộng lớn, không nên chấp. Vì sao? Thưa Hiền giả Xá-lợi Tử, vì tâm này chẳng phải tâm, bản tánh thanh tịnh.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

–Tại sao tâm này bản tánh thanh tịnh?

Thiện Hiện đáp:

–Bản tánh tâm này đối với tham không tương ưng, chẳng phải không tương ưng, đối với sân không tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với si không tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với tùy miên trói buộc không tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với các tà kiến phiền não không tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với tâm các Thanh văn, Độc giác không tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Thưa Hiền giả Xá-lợi Tử, các Đại Bồtát biết tâm như vậy bản tánh thanh tịnh.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

–Tâm này có tánh chẳng phải tâm chăng?

Thiện Hiện hỏi lại:

–Trong tánh chẳng phải tâm, tánh có, tánh không có thể nắm bắt chăng?

Xá-lợi Tử đáp:

–Không thể nắm bắt được.

Thiện Hiện nói:

–Nếu trong tánh chẳng phải tâm, tánh có, tánh không nếu không thể nắm bắt được thì tại sao lại hỏi tâm này có tánh chẳng phải tâm không?

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

–Thế nào gọi là tánh chẳng phải tâm.

Thiện Hiện đáp:

–Đối với tất cả pháp không biến đổi, không phân biệt gọi là tánh chẳng phải tâm.

Xá-lợi Tử hỏi:

–Chỉ có tâm không biến đổi, không phân biệt hay là sắc, thọ, tưởng, hành, thức... cũng không biến đổi, không phân biệt? Thiện Hiện đáp:

–Cũng như tâm không biến đổi, không phân biệt; sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không biến đổi, không phân biệt. Như vậy, cho đến quả vị

Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không biến đổi, không phân biệt.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử khen ngợi Thiện Hiện:

–Lành thay, lành thay! Đúng như lời Hiền giả nói. Hiền giả đúng là Phật tử từ tâm Phật sinh, từ miệng Phật sinh, từ pháp Phật sinh, từ pháp hóa sinh, thọ nhận phần pháp Phật, không nhận phần tài vật, đối với các pháp tự mình chứng đắc Tuệ nhãn, thấy rõ mới có thể nói được như vậy. Phật thường nói Hiền giả là người đứng đầu trụ Vô tánh định trong chúng Thanh văn, đúng như lời Phật nói, chân thật không hư vọng.

Thưa Hiền giả Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên học như vậy.

Thưa Hiền giả Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể học như vậy thì nên biết Bồ-tát đó đã trụ địa vị không thoái chuyển, không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thưa Hiền giả Thiện Hiện, thiện nam, thiện nữ nào muốn học địa vị Thanh văn thì đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy nên siêng năng lắng nghe, học tập, đọc tụng, thọ trì, tư duy như lý làm cho đến chỗ rốt ráo; muốn học địa vị Độc giác cũng đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy nên siêng năng lắng nghe, học tập, đọc tụng, thọ trì, tư duy như lý làm cho đến chỗ rốt ráo; muốn học địa vị Bồ-tát cũng đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy nên siêng năng lắng nghe, học tập đọc tụng, thọ trì, tư duy như lý làm cho đến chỗ rốt ráo. Vì sao? Thưa Hiền giả Thiện Hiện, vì trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, đã giảng nói mở bày giáo pháp ba thừa, Đại Bồ-tát nào có thể học Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là học hết giáo pháp ba thừa một cách thiện xảo.


Trước

[Đầu trang][Mục lục Kinh Đại Bát Nhã]

Tiếp theo


[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]


[Mục lục tổng quát]