SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

HỘI THỨ III

Phẩm 26: Phương tiện thiện xảo
(QUYỂN 523 - 526)

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.

QUYỂN 523

QUYỂN 524

QUYỂN 525

QUYỂN 526


QUYỂN 523

Phẩm 26: Phương tiện thiện xảo(1)

Bấy giờ, Thiện Hiện suy nghĩ: “Bát-nhã ba-lamật-đa như thế rất là sâu xa, quả vị Giác ngộ cao tột của Phật cũng sâu xa. Ta sẽ hỏi Phật hai nghĩa sâu xa này.” Nghĩ vậy xong, Thiện Hiện bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tức là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật tức là Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa. Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật đều rất thâm sâu không cùng tận. Vậy vì sao nói cả hai là vô tận?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật đều như hư không, không cùng tận nên nói là vô tận.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa tiếp:

–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát phải làm thế nào để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Các Đại Bồ-tát nên quán sắc vô tận để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên quán thọ, tưởng, hành, thức vô tận để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mậtđa; nói rộng cho đến nên quán trí Nhất thiết trí vô tận để sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nên quán sắc như hư không vô tận để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thọ, tưởng, hành, thức như hư không vô tận để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa; nói rộng cho đến nên quán trí Nhất thiết trí như hư không vô tận để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nên quán vô minh duyên hành như hư không vô tận để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán hành duyên thức như hư không vô tận để dẫn phát Bátnhã ba-la-mật-đa; nên quán thức duyên danh sắc như hư không vô tận để dẫn phát Bát-nhã ba-lamật-đa; nên quán danh sắc duyên lục xứ như hư không vô tận để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán lục xứ duyên xúc như hư không vô tận để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán xúc duyên thọ như hư không vô tận để dẫn phát Bátnhã ba-la-mật-đa; nên quán thọ duyên ái như hư không vô tận để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán ái duyên thủ như hư không vô tận để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thủ duyên hữu như hư không vô tận để dẫn phát Bát-nhã bala-mật-đa; nên quán hữu duyên sinh như hư không vô tận để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán sinh duyên lão tử, sầu bi khổ não như hư không vô tận để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy.

Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát quán sát mười hai duyên khởi xa lìa hai bên là diệu quán bất cộng của chúng Đại Bồ-tát ấy.

Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát ngồi tòa Kim cang dưới cội Bồ-đề, như thật quán sát mười hai duyên khởi, giống như hư không không cùng tận nên liền chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát lấy hành tướng như hư không vô tận mà hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, như thật quán sát mười hai duyên khởi thì vị ấy không rơi vào quả vị Thanh văn, Độc giác và mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện nên biết, những thiện nam nào trụ Bồ-tát thừa đối với quả vị Giác ngộ cao tột nếu bị thoái chuyển là đều do không dựa vào tác ý phương tiện thiện xảo để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa, do đó nên không hiểu rõ. Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào để lấy hành tướng như hư không vô tận, mà như thật quán sát mười hai duyên khởi để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Thiện Hiện nên biết, những thiện nam trụ vào Bồ-tát thừa đối với quả vị Giác ngộ cao tột, nếu có thoái chuyển là đều do xa lìa phương tiện thiện xảo để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát đối với quả vị Giác ngộ cao tột mà không bị thoái chuyển là do tất cả đều dựa vào phương tiện thiện xảo để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy nhờ vào phương tiện thiện xảo này mà tu hành Bát-nhã bala-mật-đa, lấy hành tướng như hư không vô tận để dẫn phát Bát-nhã ba-la-mật-đa, như thật quán sát mười hai duyên khởi. Nhờ nhân duyên này, Đại Bồ-tát ấy mau viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát khi quán sát pháp duyên khởi như vậy không thấy có pháp nào sinh ra mà không có nhân. Không thấy có pháp nào diệt mà không có nhân. Không thấy có pháp nào mà tánh tướng nó thường trụ, không sinh, không diệt. Không thấy có pháp nào có ngã, hữu tình nói rộng cho đến cái biết, cái thấy. Không thấy có pháp nào là thường hay vô thường, là vui hay khổ, ngã hay vô ngã, tịnh hay bất tịnh, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, xa lìa hay không xa lìa.

Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát luôn nên quán sát duyên khởi như vậy để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết, có lúc Đại Bồ-tát như thật quán sát pháp môn duyên khởi để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, khi ấy Đại Bồ-tát không thấy sắc uẩn cho đến thức uẩn, thường hay vô thường, khổ hay lạc, ngã hay vô ngã, tịnh hay bất tịnh, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, xa lìa hay không xa lìa. Nói rộng cho đến không thấy trí Nhất thiết trí là thường hay vô thường, khổ hay lạc, ngã hay vô ngã, tịnh hay bất tịnh, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, xa lìa hay không xa lìa Thiện Hiện nên biết, có lúc Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, khi ấy mặc dầu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng không thấy có sở hành là Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng không thấy có pháp thấy sở hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng không thấy có sự không thấy như vậy. Mặc dầu hành Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa nhưng không thấy có sở hành là Tĩnh lự cho đến Bố thí ba-la-mật-đa, cũng không thấy có pháp thấy sở hành Tĩnh lự cho đến Bố thí ba-lamật-đa, cũng không thấy có sự không thấy như vậy. Nói rộng cho đến mặc dù tu trí Nhất thiết trí nhưng không thấy có sở tu là trí Nhất thiết trí; cũng không thấy có pháp thấy sở tu trí Nhất thiết trí, cũng không thấy có sự không thấy như vậy.

Thiện Hiện nên biết, đối với tất cả pháp, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết, có lúc đối với tất cả pháp, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc để làm phương tiện tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Khi ấy, ác ma rất đau khổ giống như trúng mũi tên độc. Ví như có người, cha mẹ qua đời nên thân tâm đau khổ, ác ma cũng vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, có phải chỉ có một ác ma thấy các Bồ-tát đối với tất cả pháp dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên rất đau khổ giống như trúng mũi tên độc, hay là tất cả ác ma khắp thế giới ba lần ngàn cũng như vậy?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Tất cả ác ma khắp cả thế giới ba lần ngàn cũng như vậy. Tất cả ác ma không thể ngồi yên nơi chỗ của mình.

Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát thường phải an trụ vào hành trụ chân tịnh Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa. Các Đại Bồ-tát nào thường an trụ vào hành trụ chân tịnh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mà có Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian rình tìm chỗ dở của các vị ấy thì không bao giờ được, cũng không thể nào quấy nhiễu làm chướng ngại được.

Cho nên, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì phải siêng năng tinh tấn an trụ vào hành trụ chân tịnh Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát an trụ đúng đắn vào hành trụ chân tịnh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì có thể tu hành viên mãn Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát tu hành đúng đắn Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa thì liền có thể tu viên mãn đầy đủ tất cả Ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát tu hành đúng đắn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế nào thì có thể tu viên mãn Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Nếu Đại Bồ-tát không điên đảo khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đem tâm tương ưng với trí Nhất thiết trí mà hành Bố thí cho đến Bátnhã, đem công đức này san sẻ cho tất cả hữu tình, cùng hồi hướng về trí Nhất thiết trí.

Như thế, này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát tu hành đúng đắn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì có thể tu hành viên mãn Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, làm thế nào mà Đại Bồ-tát an trụ vào Bố thí ba-la-mật-đa gồm cả Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Hoặc có Đại Bồ-tát dùng tâm không ái nhiễm, không xan tham để hành Bố thí và đem Bố thí này san sẻ cho các hữu tình cùng hồi hướng về trí Nhất thiết trí; đối với các hữu tình khởi lòng thương yêu, biểu hiện nơi thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp và lìa bỏ ác giới. Đó là Đại Bồ-tát an trụ Bố thí ba-lamật-đa gồm cả Tịnh giới ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát dùng tâm không ái nhiễm, không xan tham để hành Bố thí và đem Bố thí này san sẻ cho các hữu tình cùng hồi hướng về trí Nhất thiết trí. Nếu bị người nhận hoặc các hữu tình khác hủy báng, mạ nhục làm hại một cách phi lý, thì Bồtát đối với họ không thay đổi tâm, thân, khẩu mà sân giận đối đáp lại, chỉ sinh lòng Từ bi thương xót họ, đem lời hòa nhã hổ thẹn xin lỗi. Đó là Đại Bồtát an trụ vào Bố thí ba-la-mật-đa gồm cả An nhẫn ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát dùng tâm không ái nhiễm, không xan tham hành Bố thí và đem bố thí này san sẻ cho các hữu tình cùng hồi hướng về trí Nhất thiết trí. Nếu bị người nhận hoặc các hữu tình khác hủy nhục chê bai gây hại một cách phi lý, thì bấy giờ Bồ-tát liền nghĩ: “Mọi người tạo ra những loại nghiệp như vậy, trở lại tự mình nhận lấy quả báo như vậy. Ta không nên hơn thua bởi những hành động đó với họ để rồi phế bỏ nghiệp tu của mình.” Lại nghĩ: “Đối với người ấy và các hữu tình khác ta nên làm tăng trưởng tâm xả, tâm bố thí, không luyến tiếc.” Nghĩ vậy xong thân tâm tăng thượng, tinh tấn thực hành bố thí. Đó là Đại Bồ-tát an trụ Bố thí ba-la-mật-đa gồm cả Tinh tấn ba-la-mật-đa. Hoặc có Đại Bồ-tát dùng tâm không nhiễm ái, không xan tham để hành Bố thí và đem bố thí này bình đẳng san sẻ cho các hữu tình cùng hồi hướng về trí Nhất thiết trí. Đối với những người nhận và cảnh giới khác tâm không tán loạn, không cầu các dục ở ba cõi, Nhị thừa, chỉ cầu quả Phật thì đó là Đại Bồ-tát an trụ Bố thí ba-la-mật-đa mà gồm cả Tĩnh lự ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát dùng tâm không ái nhiễm, không xan tham để hành bố thí và đem bố thí này san sẻ cho các hữu tình cùng hồi hướng về trí Nhất thiết trí, quán các người thọ nhận, người bố thí, vật bố thí đều như huyễn, không thấy sự bố thí này có tổn giảm hay lợi ích với các hữu tình, thông đạt tất cả pháp hoàn toàn đều không, chẳng thể nắm bắt được thì đó là Đại Bồ-tát an trụ Bố thí ba-la-mậtđa gồm cả Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Làm thế nào Đại Bồ-tát an trụ vào Tịnh giới ba-la-mật-đa gồm cả Bố thí cho đến Bát-nhã ba-lamật-đa?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Tịnh giới ba-la-mậtđa, thân đầy đủ luật nghi, khẩu đầy đủ luật nghi, ý đầy đủ luật nghi, mà tạo các nghiệp phước. Nhờ nghiệp phước này mà lìa việc sát sinh cho đến tà kiến, không mong cầu quả vị Thanh văn, Độc giác, chỉ cầu quả vị Giác ngộ cao tột. Bấy giờ, Bồ-tát an trụ vào Tịnh giới để thực hành rộng rãi tuệ thí, tùy theo các hữu tình cần thức ăn cho thức ăn, cần thức uống cho thức uống, cần đồ vật gì cho đồ vật đó. Lại đem căn lành bố thí này bình đẳng san sẻ cho các hữu tình, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, không cầu quả vị Thanh văn, Độc giác. Đó là Đại Bồ-tát an trụ Tịnh giới ba-la-mật-đa gồm cả Bố thí ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Tịnh giới ba-la-mậtđa, giả sử các hữu tình tranh nhau đến cắt xẻ thân Bồ-tát ra từng khúc rồi mang đi, Bồ-tát không sinh một niệm sân giận nào với người đó, chỉ nghĩ: “Nay ta đạt được lợi ích tốt đẹp lớn, nghĩa là đã xả bỏ thân hôi thối nguy ách này mà được thân Kim cang thanh tịnh của Phật”, thì đó là Đại Bồ-tát an trụ Tịnh giới ba-la-mật-đa gồm cả An nhẫn ba-lamật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Tịnh giới ba-la-mậtđa, thân tâm tinh tấn không gián đoạn, mặc áo giáp đại Bi phát thệ nguyện rộng lớn: “Tất cả hữu tình bị chìm đắm trong biển khổ, ta sẽ cứu vớt họ đưa đến bờ Niết-bàn cam lồ.” Đó là Đại Bồ-tát an trụ Tịnh giới ba-la-mật-đa gồm cả Tinh tấn ba-la-mậtđa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Tịnh giới ba-la-mật- đa mặc dầu nhập vào Sơ tĩnh lự cho đến định Diệt tưởng thọ, nhưng không rơi vào quả vị Thanh văn, Độc giác, cũng không chứng thật tế, nhờ nguyện lực xưa mà được tồn tại. Lại nghĩ như vầy: “Các loài hữu tình bị chìm đắm trong biển khổ, tự mình không thể ra được. Nay ta đã trụ Tịnh giới, dùng phương tiện để dẫn phát thần thông Tĩnh lự, nhất định sẽ cứu vớt chúng sinh đưa đến bờ Niết-bàn thường lạc.” Đó là Đại Bồ-tát an trụ Tịnh giới bala-mật-đa gồm cả Tĩnh lự ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Tịnh giới ba-la-mậtđa không thấy pháp nào là hữu vi hay vô vi, hoặc thuộc hữu tướng hay vô tướng, hoặc thuộc hữu số hay vô số, chỉ quán các pháp không lìa chân như, nói rộng cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chân như... này cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhờ phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà không rơi vào quả vị Thanh văn, Độc giác, chỉ hướng đến ngôi quả vị Giác ngộ cao tột. Đó là Đại Bồ-tát an trụ Tịnh giới ba-la-mật-đa gồm cả Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, làm thế nào mà Đại Bồ-tát an trụ An nhẫn ba-la-mật-đa gồm cả Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ An nhẫn ba-la-mật- đa, từ lúc mới phát tâm cho đến khi ngồi tòa Bồđề, trong thời gian ấy nếu có các loài hữu tình đến hủy báng, khinh khi nhục mạ một cách phi lý, cho đến cắt xẻ thân ra từng khúc mang đi, thì khi ấy Bồ-tát hoàn toàn không sân giận, chỉ nghĩ: “Các loài hữu tình này rất đáng thương, bị phiền não độc hại quấy loạn nên thân tâm không được tự do, không chỗ nương tựa, không người cứu giúp, bị bần cùng nghèo khổ hành hạ. Ta hãy bố thí cho họ những vật cần dùng như thức ăn, uống, áo quần và những thứ đồ đạc khác. Sau đó đem căn lành của sự bố thí này bình đẳng san sẻ cho các hữu tình, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồđề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng.” Đó là Đại Bồtát an trụ An nhẫn ba-la-mật-đa gồm cả Bố thí bala-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ An nhẫn ba-la-mậtđa, từ lúc mới phát tâm cho đến ngồi tòa Bồ-đề, trong thời gian ấy cho đến vì lý do tự cứu mạng sống nên không làm tổn hại đến các hữu tình, cho đến không khởi các ác tà kiến. Khi Bồ-tát tu Tịnh giới như vậy, không cầu quả vị Thanh văn, Độc giác. Lại đem căn lành Tịnh giới ấy bình đẳng san sẻ cho các hữu tình, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, lấy vô sở đắc làm phương tiện, khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng. Đó là Đại Bồ-tát an trụ An nhẫn ba-lamật-đa mà gồm cả Tịnh giới ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ An nhẫn ba-la-mậtđa phát sinh dũng mãnh, tinh tấn tăng thượng, thường nghĩ: “Nếu một hữu tình ở ngoài một dotuần, ngoài mười, một trăm cho đến vô lượng dotuần, hoặc ở ngoài một thế giới, hoặc ngoài mười, một trăm, cho đến vô lượng thế giới mà có thể độ được, ta nhất định sẽ đến dùng phương tiện giáo hóa để làm cho hữu tình ấy thọ trì tám học xứ, hoặc năm học xứ, hoặc mười học xứ, hoặc cụ túc học xứ hoặc khiến trụ quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán, hoặc trụ Độc giác Bồ-đề, hoặc khiến họ trụ nơi quả vị Bồ-tát cho đến quả vị Giác ngộ cao tột, ta còn không từ mệt mỏi huống chi giáo hóa cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đều đạt được lợi ích an lạc mà lại mỏi mệt! Lại đem căn lành tinh tấn này bình đẳng san sẻ cho các hữu tình và cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng.” Đó là Đại Bồtát an trụ An nhẫn ba-la-mật-đa gồm cả Tinh tấn ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ An nhẫn ba-la-mậtđa tâm không loạn, lìa bỏ pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, ly sinh hỷ lạc, nhập vào Sơ tĩnh lự, nói rộng cho đến định Diệt tưởng thọ. Trong các định này tùy theo tâm và tâm sở pháp và các căn lành phát sinh hòa hợp tất cả, lại bình đẳng san sẻ cho các hữu tình, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, lấy vô sở đắc để làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng. Đối với các tĩnh lự và chi tĩnh lự hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Đó là Đại Bồ-tát an trụ An nhẫn ba-la-mật-đa gồm cả Tĩnh lự ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ An nhẫn ba-la-mậtđa để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, tu pháp quán pháp trên pháp, mặc dầu dùng hành tướng của xa lìa, hoặc lấy hành tướng của tịch tĩnh, hoặc dùng hành tướng vô tận, hoặc dùng hành tướng vĩnh viễn diệt, dù quán tất cả pháp nhưng đối với các pháp tánh không thể tác chứng, cho đến ngồi tòa Bồ-đề, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, rời khỏi tòa này rồi chuyển diệu pháp luân làm lợi ích an lạc cho các hữu tình. Lại đem căn lành diệu tuệ này bình đẳng san sẻ cho các hữu tình, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy, xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng. Đó là Đại Bồ-tát an trụ An nhẫn ba-la-mật-đa gồm cả Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, làm thế nào Đại Bồ-tát an trụ Tinh tấn ba-la-mật-đa gồm cả Bố thí cho đến Bátnhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Tinh tấn ba-la-mậtđa, thân tâm tinh tấn không giải đãi, cầu các pháp lành cũng không mệt mỏi, luôn nghĩ: “Ta nhất định sẽ đắc trí Nhất thiết trí, không thể không đắc.” Đại Bồ-tát ấy vì muốn làm lợi lạc cho tất cả hữu tình nên phát nguyện: “Nếu có một hữu tình ở ngoài một do-tuần, hoặc mười, một trăm cho đến vô lượng do-tuần, hoặc ở ngoài một thế giới, hoặc ngoài mười, một trăm cho đến vô lượng thế giới là người đáng độ thì ta nhất định đến đó dùng phương tiện giáo hóa. Nếu là thiện nam trụ nơi Bồ-tát thừa thì khiến vị ấy trụ quả vị Giác ngộ cao tột; nếu là thiện nam trụ nơi Thanh văn thừa thì khiến họ trụ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn và A-la-hán. Nếu là thiện nam trụ nơi Độc giác thừa thì khiến vị ấy an trụ Độc giác Bồ-đề. Nếu các hữu tình khác, thì khiến họ an trụ mười nẻo nghiệp thiện, rồi ta dùng pháp thí, tài thí để cung cấp đầy đủ cho họ, phương tiện dẫn dắt họ. Lại đem căn lành bố thí này bình đẳng san sẻ cho các hữu tình, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, không cầu quả vị Thanh văn, Độc giác, dùng vô sở đắc để làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy, xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng.” Đó là Đại Bồ-tát an trụ Tinh tấn ba-lamật-đa gồm cả Bố thí ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Tinh tấn ba-la-mậtđa, từ khi mới phát tâm cho đến lúc ngồi tòa Bồ-đề vi diệu, tự lìa sát sinh cho đến tà kiến, cũng khuyến khích người khác lìa bỏ sát sinh cho đến tà kiến, tùy thuận và khen ngợi sự bỏ sát sinh và tà kiến, vui mừng hoan hỷ với người không sát sinh và tà kiến. Đại Bồ-tát ấy giữ Tịnh giới ba-la-mật-đa này không cầu quả Nhị thừa và quả báo ba cõi. Chỉ đem căn lành tịnh giới này bình đẳng san sẻ cho các hữu tình, cùng hồi hướng vị quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy, xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu và lấy gì hồi hướng. Đó là Đại Bồ-tát an trụ Tinh tấn ba-la-mật-đa gồm cả Tịnh giới ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Tinh tấn ba-la-mậtđa, lúc mới phát tâm cho đến khi ngồi tòa Bồ-đề, trong thời gian ấy, người và phi nhân... tranh nhau đến xúc não, hoặc chặt thân thể ra từng khúc rồi tự tiện đem đi. Khi ấy, Bồ-tát không nghĩ: “Ai đâm chém ta? Ai chặt đứt ta? Ai mang đi?” Chỉ nghĩ: “Nay ta được lợi ích lớn. Các hữu tình đó vì làm lợi ích cho ta nên đến chặt xẻo thân thể ta ra từng phần. Nhưng ta vốn vì tất cả hữu tình mà thọ thân này. Họ đến tự lấy vật của ta là để thành tựu việc cho ta.” Bồ-tát tư duy thật tướng các pháp rất kỹ như vậy để tu an nhẫn, rồi đem căn lành thù thắng của an nhẫn này không cầu quả vị Thanh văn, Độc giác, chỉ đem căn lành an nhẫn này bình đẳng san sẻ cho hữu tình, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy, xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng. Đó là Đại Bồ-tát an trụ Tinh tấn ba-la-mật-đa gồm cả An nhẫn ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Tinh tấn ba-la-mậtđa siêng năng tu học các định, nghĩa là lìa dục, lìa pháp ác bất thiện, có tầm, có tứ, ly sinh hỷ lạc, nhập vào Sơ tĩnh lự cho đến nhập vào Tĩnh lự thứ tư, luôn có tư tưởng ban vui cho các hữu tình và nhập vào Từ vô lượng, nói rộng cho đến nhập vào Xả vô lượng. Đối với các sắc luôn khởi tưởng nhàm chán thô xấu và nhập vào định Không vô biên xứ, nói rộng cho đến định Diệt tưởng thọ. Đại Bồ-tát ấy mặc dầu nhập Tĩnh lự, Vô lượng, Vô sắc, diệt định như vậy, nhưng không nhận lấy quả Dị thục của nó. Chỉ theo hữu tình nào đáng được giáo hóa thì vì làm lợi ích nên vào nơi đó. Đã sinh vào đó rồi, dùng bốn Nhiếp pháp, sáu pháp Ba-la-mật-đa mà làm lợi ích cho họ. Đại Bồ-tát ấy nương vào các tĩnh lự mà phát khởi thần thông thù thắng, đi từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thưa hỏi tánh tướng các pháp sâu xa, tinh tấn siêng năng mà dẫn phát căn lành thù thắng, đem căn lành này dùng vô sở đắc làm phương tiện, bình đẳng san sẻ cho các hữu tình, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy, xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng. Đó là Đại Bồ-tát an trụ Tinh tấn ba-la-mật-đa gồm cả Tĩnh lự ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Tinh tấn ba-la-mậtđa không thấy Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mậtđa là danh, sự, tánh, tướng; không thấy bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo là danh, sự, tánh, tướng; cho đến không thấy trí Nhất thiết trí là danh, sự, tánh, tướng. Cũng không thấy tất cả pháp là danh, sự, tánh, tướng. Trong tất cả các pháp không khởi niệm tưởng, không có chấp trước, lời nói đi đôi với việc làm. Lại đem căn lành diệu tuệ này bình đẳng san sẻ cho các hữu tình, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy, xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng. Đó là Đại Bồ-tát an trụ Tinh tấn ba-la-mật-đa gồm cả Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, làm thế nào Đại Bồ-tát an trụ vào Tĩnh lự ba-la-mật-đa gồm cả Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Tĩnh lự ba-la-mật- đa, đối với hữu tình, thực hành tài thí, pháp thí. Nghĩa là lìa dục, lìa pháp ác bất thiện, có tầm, có tứ, ly sinh hỷ lạc, nhập vào Sơ tĩnh lự, nói rộng cho đến nhập vào định Diệt tưởng thọ. Đại Bồ-tát ấy đem tâm không tán loạn mà giảng nói chánh pháp về sự thực hành tài thí, pháp thí cho các hữu tình. Đại Bồ-tát ấy tự mình thực hành tài thí, pháp thí và thường khuyến hóa người khác thực hành tài thí, pháp thí, thường khen ngợi pháp hành tài thí, pháp thí một cách đúng đắn, luôn luôn hoan hỷ, khen ngợi người thực hành tài thí, pháp thí. Đại Bồ-tát ấy đem căn lành này không cầu quả vị Thanh văn, Độc giác, chỉ đem căn lành bố thí này bình đẳng san sẻ cho các hữu tình cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc để làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy, xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng. Đó là Đại Bồ-tát an trụ Tĩnh lự ba-lamật-đa gồm cả Bố thí ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Tĩnh lự ba-la-mật-đa thọ trì Tịnh giới, không bao giờ khởi tâm tương ưng với tham, sân, si và hại, cũng không khởi tâm tương ưng với xan tham, tật đố, phá giới, chỉ luôn phát sinh tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại đem căn lành tịnh giới này không cầu quả vị Thanh văn, Độc giác, bình đẳng san sẻ cho các hữu tình cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồđề như vậy, xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng. Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào Tĩnh lự ba-la-mật-đa gồm cả Tịnh giới ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Tĩnh lự ba-la-mật-đa tu hành An nhẫn, quán sắc như đống bọt, quán thọ như bong bóng, quán tưởng như sóng nắng, quán hành như cây chuối, quán thức như việc huyễn hóa. Khi quán như vậy, đối với năm thủ uẩn luôn quán tưởng là không bền chắc. Lại nghĩ: “Các pháp đều là không, lìa ngã và ngã sở. Sắc là sắc của ai? Thọ là thọ của ai? Tưởng là tưởng của ai? Hành là hành của ai? Thức là thức của ai?” Khi quán như vậy lại nghĩ: “Các pháp đều không, không có ngã và ngã sở thì ai cắt chặt, ai bị cắt chặt, ai hủy nhục, ai bị hủy nhục, ở trong đó ai nổi sân giận.” Bồ-tát nương vào tĩnh lự như vậy, khi quán sát thật kỹ thì có thể an nhẫn hoàn toàn. Lại đem căn lành an nhẫn này bình đẳng san sẻ cho các hữu tình, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy, xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng. Đó là Đại Bồ-tát an trụ Tĩnh lự ba-la-mật-đa gồm cả An nhẫn ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Tĩnh lự ba-la-mật-đa siêng năng tinh tấn, lìa dục, lìa pháp ác bất thiện, có tầm, có tứ, ly sinh hỷ lạc, nhập Sơ tĩnh lự, nói rộng cho đến nhập Tĩnh lự thứ tư. Khi Bồ-tát tu tĩnh lự như vậy đối với các tĩnh lự và chi tĩnh lự đều không chấp tướng, phát sinh những Thần cảnh trí thông, có thể làm vô biên việc thần biến lớn, hoặc phát sinh Thiên nhĩ trí thông, sáng suốt thanh tịnh vượt hơn lỗ tai của người, trời, có thể như thật nghe tất cả âm thanh các loài hữu tình, phi tình trong mười phương thế giới. Hoặc phát sinh Tha tâm trí thông có thể như thật biết tâm và tâm sở pháp của các hữu tình khác trong mười phương thế giới. Hoặc phát sinh Túc trú trí thông như thật nhớ biết các việc đời trước của vô lượng hữu tình trong mười phương thế giới. Hoặc phát sinh Thiên nhãn trí thông, sáng suốt thanh tịnh vượt qua cái thấy của người, trời, có thể như thật thấy sắc tượng cho đến nghiệp quả của các loài hữu tình, vô tình trong mười phương thế giới. Đại Bồ-tát ấy an trụ vào năm Thần thông thanh tịnh này, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thưa hỏi pháp nghĩa sâu xa của Như Lai, gieo trồng vô lượng căn lành chân tịnh, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, siêng năng tinh tấn tu thắng hạnh của Bồ-tát. Đem căn lành này không cầu quả ba cõi và Nhị thừa bình đẳng san sẻ cho hữu tình, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy, phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng. Đó là Đại Bồ-tát an trụ Tĩnh lự bala-mật-đa gồm cả Tinh tấn ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Tĩnh lự ba-la-mậtđa, quán sắc uẩn cho đến thức uẩn chẳng thể nắm bắt được, nói rộng cho đến quán trí Nhất thiết trí cũng chẳng thể nắm bắt được, quán cảnh giới hữu vi chẳng thể nắm bắt được. Quán cảnh giới vô vi cũng chẳng thể nắm bắt được. Như vậy Bồ-tát quán tất cả pháp đều chẳng thể nắm bắt được nên không tạo tác. Vì không tạo tác nên không sinh, không diệt. Vì không sinh, không diệt nên không giữ, không bỏ. Vì không giữ, không bỏ nên hoàn toàn thanh tịnh, thường trụ không biến đổi. Vì sao? Vì tất cả pháp, chư Phật có ra đời hay không ra đời, đều an trụ pháp tánh, pháp giới, pháp trụ, không sinh, không diệt, thường không biến đổi. Đại Bồtát ấy, tâm không bao giờ tán loạn, luôn luôn an trụ vào tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí, như thật quán sát thấy tánh tất cả pháp hoàn toàn không sở hữu. Lại đem căn lành diệu tuệ này bình đẳng cho hữu tình cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng. Đó là Đại Bồ-tát an trụ Tĩnh lự ba-la-mật-đa bao gồm cả Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, làm thế nào Đại Bồ-tát an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm cả Bố thí cho đến Tĩnh lự ba-la-mật-đa?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào Bát-nhã ba-la-mậtđa quán tất cả pháp đều không, không sở hữu.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa tiếp:

–Làm sao Đại Bồ-tát an trụ vào Bát-nhã ba-lamật-đa quán tất cả pháp đều không, đều không sở hữu?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Các Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa quán pháp không bên trong và tánh của pháp không bên trong đều chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không bên ngoài, tánh của pháp không bên ngoài đều chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không cả trong ngoài, tánh của pháp không cả trong ngoài đều chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không lớn, tánh của pháp không lớn đều chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không không, tánh của pháp không không đều chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không thắng nghĩa, tánh của pháp không thắng nghĩa đều chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không hữu vi, tánh của pháp không hữu vi đều chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không vô vi và tánh của pháp không vô vi đều chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không rốt ráo và tánh của pháp không rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không không biên giới và tánh của pháp không không biên giới đều chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không tản mạn, tánh của pháp không tản mạn đều chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không bản tánh, tánh của pháp không bản tánh đều chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không tướng, tánh của pháp không tướng đều chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không nơi tất cả pháp, tánh của pháp không nơi tất cả pháp đều chẳng thể nắm bắt được.

Đại Bồ-tát ấy an trụ trong mười bốn pháp không như vậy không đắc sắc là không, hoặc bất không; không đắc thọ, tưởng, hành, thức là không, hoặc bất không; nói rộng cho đến không đắc trí Nhất thiết trí là không, hoặc bất không; không đắc cảnh giới hữu vi là không, hoặc bất không; không đắc cảnh giới vô vi là không, hoặc bất không. Đại Bồ-tát ấy an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu có bố thí cho tất cả hữu tình, thức ăn, thức uống và các đồ đạc khác, quán tất cả là không; người bố thí, người được bố thí, phước bố thí, quả bố thí, quán tất cả cũng là không. Khi ấy, Bồ-tát nhờ an trụ không mà quán ái nhiễm, xan lẫn đều không cho khởi. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã bala-mật-đa từ lúc mới phát tâm cho đến an tọa tòa Bồ-đề vi diệu, phân biệt như thế, tất cả đều không sinh khởi. Như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không bao giờ khởi tâm ái, tâm xan tham. Đại Bồ-tát này cũng vậy, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa vĩnh viễn không bao giờ sinh tâm ái nhiễm, tâm xan tham.

Thiện Hiện nên biết, như vậy Bát-nhã ba-lamật-đa là thầy của Đại Bồ-tát, có thể khiến cho chúng Đại Bồ-tát không sinh khởi tất cả phân biệt vọng tưởng, hành bố thí đều không nhiễm trước. Đại Bồ-tát ấy đem căn lành này dùng vô sở đắc làm phương tiện, bình đẳng san sẻ cho hữu tình, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy, xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng. Đó là Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm cả Bố thí ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mậtđa mà thọ trì Tịnh giới, tâm của tất cả Thanh văn, Độc giác không phát khởi được. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy quán các vị Thanh văn, Độc giác đều chẳng thể nắm bắt được, tâm hồi hướng ấy cũng chẳng thể nắm bắt được, thân, ngữ luật nghi hồi hướng cũng chẳng thể nắm bắt được. Đại Bồ-tát ấy an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa từ lúc mới phát tâm cho đến ngồi tòa Bồ-đề, ở trong thời gian đó, tự mình lìa sát sinh cho đến tà kiến, cũng khuyên người khác lìa bỏ sát sinh cho đến tà kiến, không có tâm trái ngược với pháp, luôn xiển dương việc lìa bỏ sát sinh cho đến tà kiến, hoan hỷ khen ngợi người lìa bỏ sát sinh cho đến tà kiến. Đại Bồ-tát ấy đem căn lành của tịnh giới đã phát sinh, không cầu quả Nhị thừa và quả báo trong ba cõi mà bình đẳng san sẻ cho hữu tình, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như thế, xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng. Đó là Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mậtđa gồm cả Tịnh giới ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mậtđa sinh nhẫn tùy thuận. Đã đắc được nhẫn này rồi luôn nghĩ như vầy: “Trong tất cả pháp không có một pháp nào hoặc khởi, hoặc diệt, hoặc sinh, hoặc già, hoặc bệnh, hoặc chết, hoặc người mắng, hoặc người bị mắng, hoặc người phỉ báng, hoặc người bị phỉ báng, hoặc người cắt xẻ, đâm, đánh, trói, xúc não, gia hại, hoặc bị cắt xẻ đâm, đánh, trói. Tất cả tánh tướng này đều là không, trong đó không nên vọng tưởng phân biệt. Đại Bồ-tát ấy đắc nhẫn này từ lúc mới phát tâm cho đến ngồi tòa Bồ-đề vi diệu, trong thời gian này, giả sử tất cả loài hữu tình đều đến mắng chửi hủy báng nhục mạ, lấy đao trượng gạch ngói làm tổn hại đánh đập cắt xẻo cho đến phân xẻ thân ra từng khúc, thì tâm Bồ-tát lúc ấy cũng không biến đổi, chỉ nghĩ: “Thật kỳ lạ thay! Trong tánh của các pháp hoàn toàn không có những việc hủy báng, mắng chửi, nhục mạ, nhưng do hữu tình vọng tưởng phân biệt cho là thật có, nên tạo ra nghiệp ác phiền não. Đời hiện tại, tương lai chịu các khổ não.” Đại Bồ-tát ấy đem căn lành này bình đẳng san sẻ cho các hữu tình cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Khi hồi hướng đại Bồ-đề, xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng. Đó là Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm cả An nhẫn bala-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mậtđa dũng mãnh tinh tấn, giảng nói chánh pháp cho các hữu tình, để họ an trụ Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; hoặc khiến họ an trụ bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, hoặc khiến họ an trụ các công đức khác. Đại Bồ-tát ấy thành tựu những phương tiện thiện xảo, thân tâm tinh tấn dùng sức thần thông đi đến một thế giới, hoặc mười, hoặc trăm cho đến vô lượng, vô biên thế giới hữu tình để giảng nói chánh pháp, dùng phương tiện giáo hóa, khiến họ an trụ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; hoặc khiến họ an trụ Độc giác Bồ-đề; hoặc khiến họ chứng đắc trí Nhất thiết trí. Đại Bồ-tát ấy mặc dầu làm việc này nhưng không trụ vào cảnh giới hữu vi, cũng không trụ vào cảnh giới vô vi. Lại đem căn lành tinh tấn này bình đẳng san sẻ cho các hữu tình, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, dùng không sở hữu để làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề, xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng. Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào Bát-nhã bala-mật-đa gồm cả Tinh tấn ba-la-mật-đa.

Hoặc có Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mậtđa, ngoài định của chư Phật ra, đối với thắng định của tất cả Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát đều có thể tùy ý xuất nhập tự tại. Đại Bồ-tát ấy an trụ vào thắng định tự tại của Bồ-tát; đối với tám Giải thoát đều có thể tự tại ra vào thuận nghịch, đó là hữu sắc quán các sắc giải thoát cho đến diệt tưởng thọ giải thoát. Đại Bồ-tát ấy lại đối với chín Định thứ đệ hoặc thuận hoặc nghịch đều ra vào tự tại, đó là bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, định Diệt tưởng thọ. Đối với tám Giải thoát, chín Định thứ đệ, Đại Bồ-tát ấy thuận nghịch xuất nhập, đã thành thục hoàn toàn rồi có thể nhập Tam-ma-địa Sư tử tần thân của Đại Bồ-tát.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Sư tử tần thân của Đại Bồ-tát?

–Nghĩa là Đại Bồ-tát lìa dục, lìa pháp ác bất thiện, có tầm, có tứ, ly sinh hỷ lạc, nhập vào Sơ tĩnh lự tuần tự cho đến vượt qua tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập vào định Diệt tưởng thọ. Lại ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào lại định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tuần tự cho đến nhập vào Sơ tĩnh lự. Đó là Tam-ma-địa Sư tử tần thân của Đại Bồ-tát.

Đại Bồ-tát ấy đối với Tam-ma-địa Sư tử tần thân đã thành thục hoàn hảo rồi, lại nhập vào Tamma-địa Tập tán của Đại Bồ-tát.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tập tán của Đại Bồ-tát?

–Nghĩa là Đại Bồ-tát ly dục, pháp ác bất thiện, có tầm, có tứ. ly sinh hỷ lạc, nhập vào Sơ tĩnh lự. Ra khỏi Sơ tĩnh lự tuần tự cho đến nhập vào định Diệt tưởng thọ. Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào Sơ tĩnh lự. Ra khỏi Sơ tĩnh lự nhập vào định Diệt tưởng thọ. Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào Tĩnh lự thứ hai. Ra khỏi Tĩnh lự thứ hai nhập vào định Diệt tưởng thọ. Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào Tĩnh lự thứ ba. Ra khỏi định thứ ba nhập vào định Diệt tưởng thọ. Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào Tĩnh lự thứ tư. Ra khỏi Tĩnh lự thứ tư nhập vào định Diệt tưởng thọ. Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào định Không vô biên xứ. Ra khỏi định Không vô biên xứ nhập vào định Diệt tưởng thọ. Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào định Thức vô biên xứ. Ra khỏi định Thức vô biên xứ nhập vào định Diệt tưởng thọ. Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào định Vô sở hữu xứ. Ra khỏi định Vô sở hữu xứ nhập vào định Diệt tưởng thọ. Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ra khỏi định Phi tưởng phi phi tưởng xứ nhập vào định Diệt tưởng thọ. Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập lại vào định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ra khỏi định Phi tưởng phi phi tưởng xứ trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định trở lại nhập vào định Diệt tưởng thọ. Ra khỏi định Diệt tưởng thọ trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định nhập vào định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ra khỏi định Phi tưởng phi phi tưởng xứ trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định nhập vào định Vô sở hữu xứ. Ra khỏi định Vô sở hữu xứ trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định nhập vào định Thức vô biên xứ. Ra khỏi định Thức vô biên xứ trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định nhập vào định Không vô biên xứ. Ra khỏi định Không vô biên xứ trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định nhập vào Tĩnh lự thứ tư. Ra khỏi Tĩnh lự thứ tư trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định nhập vào Tĩnh lự thứ ba. Ra khỏi Tĩnh lự thứ ba trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định nhập vào Tĩnh lự thứ hai. Ra khỏi Tĩnh lự thứ hai trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định nhập vào Sơ tĩnh lự. Ra khỏi Sơ tĩnh lự trụ vào tâm bất định.

Đó là Tam-ma-địa Tập tán của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát an trụ Tam-ma-địa Tập tán như vậy thì đắc thật tánh bình đẳng của tất cả pháp. Đại Bồ-tát ấy lại đem căn lành tĩnh lự này bình đẳng san sẻ cho hữu tình cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề, xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng. Đó là Đại Bồtát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm cả Tĩnh lự bala-mật-đa.

QUYỂN 524

Phẩm 26: Phương tiện thiện xảo(2)

Bấy giờ Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột đã trải qua bao nhiêu thời gian?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Đại Bồ-tát ấy phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột đã trải qua vô số trăm ngàn ức triệu kiếp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, đã từng gần gũi cúng dường bao nhiêu Đức Phật?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Đại Bồ-tát đã từng gần gũi cúng dường hằng hà sa Đức Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy đã trồng những căn lành vi diệu gì?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Đại Bồ-tát từ lúc phát tâm đến nay không có căn lành nào xuất phát từ Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa mà không tinh tấn tu hành viên mãn. Nhờ đó mà thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy rất là hy hữu.

Phật dạy Thiện Hiện:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông đã nói! Các Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy rất là hy hữu.

Thiện Hiện nên biết, giống như mặt trời, mặt trăng vận chuyển chiếu sáng khắp bốn đại châu thế giới làm các công việc. Tất cả các loài hữu tình, vô tình có mặt trong đó theo thế lực của ánh sáng ấy mà di chuyển và thành tựu việc của mình. Cũng vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa chiếu sáng năm pháp Ba-la-mật-đa khác làm các sự nghiệp. Năm pháp Ba-la-mật-đa là Bố thí... theo thế lực của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà thành tựu việc của mình.

Thiện Hiện nên biết, năm pháp Ba-la-mật-đa là Bố thí… đều nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa nhiếp thọ mới được gọi là Ba-la-mật-đa. Giống như Chuyển luân vương, nếu không có bảy báu thì không gọi là Chuyển luân vương. Cần phải đầy đủ bảy báu mới gọi là Chuyển luân vương. Cũng vậy, năm pháp Ba-la-mật-đa là Bố thí... nếu lìa Bát-nhã ba-la-mậtđa thì không được gọi là Ba-la-mật-đa. Phải nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên mới được gọi là Ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết, ví như có người nữ xinh đẹp, giàu có, nếu không được chồng mạnh mẽ bảo vệ thì dễ bị người xấu làm nhục. Nếu cô ta có người chồng mạnh mẽ bảo vệ thì không bị người xấu làm nhục. Cũng vậy, năm pháp Ba-la-mật-đa là Bố thí… cũng như thế nếu không có sức của Bát-nhã ba-la-mật-đa bảo hộ thì dễ bị Thiên ma và quyến thuộc của chúng phá hoại, ngăn cản. Nếu được Bát-nhã ba-la-mật-đa bảo hộ thì tất cả Thiên ma và quyến thuộc của chúng không thể nào phá hoại và ngăn cản được.

Thiện Hiện nên biết, ví như quân tướng dũng mãnh nhuần nhuyễn binh pháp, khéo chuẩn bị đầy đủ những loại áo giáp, đao, gậy kiên cố thì oán địch nước bên cạnh không thể nào xâm lăng được. Cũng vậy, năm pháp Ba-la-mật-đa là Bố thí... nếu không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì quyến thuộc Thiên ma, kẻ tăng thượng mạn cho đến những Bồ-tát thuộc Chiên-đồ-la không thể nào phá hoại được.

Thiện Hiện nên biết, ví như các vua nhỏ trong châu Thiệm-bộ, tùy thời đến triều kiến Chuyển luân thánh vương, theo Chuyển luân thánh vương để được dạo chơi cảnh đẹp. Cũng vậy, năm pháp Ba-la-mật-đa là Bố thí… theo hỗ trợ Bát-nhã bala-mật-đa, nhờ thế lực của Bát-nhã ba-la-mật-đa hướng dẫn nên mau hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện nên biết, ví như các con sông ở phía Đông châu Thiệm-bộ đều chảy về sông Hằng, từ sông Hằng mà chảy vào biển lớn. Cũng vậy, năm pháp Ba-la-mật-đa là Bố thí... đều được Bát-nhã ba-la-mật-đa hướng dẫn nên có thể đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện nên biết, ví như tay phải của người có thể làm mọi việc, cũng như vậy, Bát-nhã ba-lamật-đa có thể dẫn dắt tất cả pháp thiện thù thắng.

Thiện Hiện nên biết, ví như tay trái của người làm việc không thuận tiện, cũng vậy, năm pháp Bala-mật-đa trước không thể phát sinh pháp thiện thù thắng.

Thiện Hiện nên biết, ví như các dòng sông, bất cứ lớn nhỏ, nếu chảy vào biển lớn thì đều cùng một vị mặn. Cũng vậy, năm pháp Ba-la-mật-đa là Bố thí… cần phải nhập vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thì mới có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí. Do sự chứng đắc này nên gọi là đến bờ bên kia.

Thiện Hiện nên biết, ví như Chuyển luân vương đi đến đâu đều có bốn bộ quân tùy tùng, bánh xe báu thì đi trước dẫn đầu. Vua và bốn bộ quân nghĩ đến ăn uống thì bánh xe liền dừng lại. Sau khi ăn uống xong, vua nghĩ đến đi thì bánh xe liền đi trước. Bánh xe ấy đi hay dừng đều theo ý muốn của vua. Đi đến phương nào, bánh xe không đi trước. Cũng vậy, năm pháp Ba-la-mật-đa là Bố thí… cùng các pháp lành muốn hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, cốt yếu phải lấy Bát-nhã ba-lamật-đa dẫn đầu đi trước; tiến hay dừng không bao giờ lìa bỏ nhau. Nếu đến quả vị Phật cũng không đến trước.

Thiện Hiện nên biết, ví như Chuyển luân vương đầy đủ bảy báu, muốn đi đâu đều có bốn bộ quân bảy báu trước sau hộ tống. Bấy giờ, mặc dầu bánh xe báu đi đầu tiên nhưng nó không phân biệt tướng trước sau. Cũng vậy, năm pháp Ba-la-mật-đa trước cùng với pháp lành muốn hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, nhất định lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa dẫn đầu. Nhưng Bát-nhã ba-la-mật-đa này không nghĩ rằng: “Ta dẫn đầu năm pháp Ba-la-mật-đa kia, ta đi trước hết và cách Ba-la-mật-đa kia tùy tùng theo ta.” Năm pháp Ba-la-mật-đa cũng không nghĩ: “Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa ở trước chúng ta, chúng ta đi theo sau.” Vì sao? Vì tự tánh của sáu pháp Ba-la-mật-đa và tất cả pháp đều là không, không thể tạo tác, không có chủ tể, hư giả không thật, trống không, không sở hữu, không có tướng tự tại. Ví như sóng nắng, bóng sóng, trăng dưới nước, sự chuyển hóa, mộng… Trong đó hoàn toàn không có tác dụng phân biệt và không có thể tướng chân thật.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, nếu tự tánh của tất cả pháp đều không, hoàn toàn không có tác dụng và không có thể tướng chân thật, thì các Đại Bồ-tát làm sao tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa là Bố thí… để chứng quả vị Giác ngộ cao tột?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Khi các Đại Bồ-tát siêng năng tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa, thường nghĩ rằng: “Hữu tình ở thế gian, tâm luôn luôn điên đảo, đắm chìm trong khổ sinh tử, không thể tự thoát được. Nếu ta không tu thắng hạnh bằng phương tiện thiện xảo thì không thể cứu vớt khổ sinh tử của họ. Ta phải vì các loài hữu tình kia mà siêng năng tu phương tiện thiện xảo Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, mau hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, cứu vớt đại khổ sinh tử cho các hữu tình.”

Sau khi nghĩ vậy, Đại Bồ-tát vì các hữu tình mà xả bỏ tất cả những vật bên trong lẫn bên ngoài. Xả bỏ rồi, lại nghĩ: “Đối với những vật này, ta hoàn toàn không có gì để xả bỏ. Vì sao? Vì tự tánh của vật trong lẫn ngoài này đều không, không có gì xả bỏ, chẳng phải của riêng ta.” Nhờ sự quán sát-này, Đại Bồ-tát ấy tu Bố thí ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Đại Bồ-tát ấy vì các hữu tình, trọn đời không phạm giới. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ như vậy: “Ta vì các hữu tình mà cầu đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột, quyết định không nên sát sinh cho đến tà kiến, cũng nhất định không cầu cảnh diệu dục và lạc thú của chư Thiên, cũng nhất định không cầu quả vị Nhị thừa chỉ tự giải thoát.” Nhờ sự quán sát-này, Đại Bồ-tát ấy tu hành Tịnh giới ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Đại Bồ-tát ấy vì các hữu tình nên không sân giận. Giả sử luôn bị người hủy báng, mạ nhục, cắt xẻ thân ra từng mảnh, chịu nhiều khổ đau, nhưng không khởi một tâm niệm ác. Vì sao? Vì Đại Bồtát ấy quán sát cả âm thanh như tiếng vọng trong hang, quán sắc như đống bọt nước, nên không sân giận họ. Nhờ sự quán sát-này, Đại Bồ-tát tu hành An nhẫn ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chóng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Đại Bồ-tát ấy vì các hữu tình mà siêng năng cầu pháp lành cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Trong thời gian đó, không bao giờ lười biếng. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ rằng: “Nếu ta lười biếng thì không thể cứu vớt tất cả hữu tình xa lìa đại khổ sinh tử, cũng không thể nào đắc trí Nhất thiết trí.” Nhờ quán sát như vậy, Đại Bồ-tát ấy tu hành Tinh tấn ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Đại Bồ-tát ấy vì các hữu tình nên siêng năng tinh tấn tu thắng định cho đến quả vị Giác ngộ cao tột, không bao giờ có tâm loạn động như tham, sân, si… Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ: “Nếu ta khởi tâm loạn động bằng tham, sân, si thì không thể thành tựu việc làm lợi ích cho mọi người, cũng không thể chứng đắc sở cầu là quả vị Phật.” Nhờ quán sát như vậy, Đại Bồ-tát này tu hành Tĩnh lự ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Đại Bồ-tát ấy vì các hữu tình, không lìa Bátnhã ba-la-mật-đa cho đến quả vị Giác ngộ cao tột, luôn siêng năng tinh tấn tu học tuệ vi diệu thù thắng. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát thường nghĩ: “Nếu lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì ta không thể đem lại sự thành tựu cho hữu tình, cũng không có thể chứng quả vị Giác ngộ cao tột.” Nhờ quán sát như vậy, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Do nhân duyên này, mặc dầu tự tánh của tất cả pháp đều không, hoàn toàn không có tác dụng, không có thể tướng chân thật, nhưng các Đại Bồtát siêng năng tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa thì cũng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu sáu pháp Ba-la-mật-đa này, tánh không khác nhau, đều được Bát-nhã bala-mật-đa nhiếp thọ thì tại sao nói Bát-nhã ba-lamật-đa đối với năm pháp Ba-la-mật-đa là tối thắng, là tôn quý, là vi diệu, là không gì trên?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông đã nói! Sáu pháp Ba-la-mật-đa là Bố thí... tánh không khác nhau. Tất cả đều được Bát-nhã ba-la-mật-đa nhiếp thọ. Nếu không có Bát-nhã ba-la-mật-đa nhiếp thọ thì năm pháp Ba-la-mật-đa là Bố thí... không được gọi là Ba-la-mật-đa, cần phải nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thì năm pháp Ba-la-mật-đa là Bố thí... mới được gọi là Ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết, có loài hữu tình mặc dầu có những thân thể với màu sắc khác nhau, nhưng đến gần với núi lớn Diệu cao thì đều cùng một màu. Như vậy, năm pháp Ba-la-mật-đa trước mặc dầu có những phẩm loại khác nhau nhưng đều được Bát-nhã ba-la-mật-đa nhiếp thọ đều nhờ Bátnhã ba-la-mật-đa mà tu hành được thành tựu viên mãn, tất cả đều nhập vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, không nên đặt ra những tên sai khác.

Lại nữa, năm pháp Ba-la-mật-đa trước nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mới có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí, mới được gọi là đến bờ bên kia. Cho nên sáu pháp Ba-la-mật-đa đều đồng một vị, tánh không khác nhau, không nên đặt ra đây là Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì sáu pháp Ba-la-mật-đa đều có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí, đều đến bờ bên kia, tánh không khác nhau. Do đó mà sáu pháp Ba-la-mật-đa là Bố thí... không nên đặt ra tên gọi khác nhau.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

Bạch Thế Tôn, Ba-la-mật-đa và tất cả pháp theo thật nghĩa đều không có sự khác nhau giữa đây kia, hơn kém… Vậy sao nói Bát-nhã Ba-lamật-đa đối với năm pháp Ba-la-mật-đa là tối thắng, là tôn quý, là vi diệu, là không gì trên?

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông đã nói! Nếu theo thật nghĩa thì Ba-la-mật-đa và tất cả pháp đều không khác nhau giữa đây kia, hơn kém, chỉ căn cứ vào sự tác dụng của lời nói thế tục mà nói có sự khác nhau giữa đây kia, hơn kém và đặt ra có Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa là vì muốn độ thoát các loài hữu tình. Tác dụng thế tục là sinh, già, bệnh, chết, nhưng sinh, già, bệnh, chết, của các loài hữu tình đều chẳng thật có, chỉ là giả lập mà thôi. Vì sao? Vì hữu tình không, nên biết các pháp đều không sở hữu. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không đạt tất cả pháp hoàn toàn không sở hữu, nên có thể cứu vớt tác dụng thế tục sinh, già, bệnh, chết của hữu tình. Do đó nên nói, đối với năm pháp Bala-mật-đa thì Bát-nhã ba-la-mật-đa rất tối thắng, tôn quý, vi diệu, vô thượng.

Thiện Hiện nên biết, giống như Chuyển luân vương có ngọc nữ báu. Đối với loài người thì ngọc nữ báu ấy rất tối thắng, tôn quý, vi hiệu, vô thượng. Cũng vậy, đối với năm pháp Ba-la-mật-đa thì Bátnhã ba-la-mật-đa rất tối thắng, tôn quý, vi diệu, vô thượng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, vì sao Như Lai chỉ luôn khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với các Bala-mật-đa kia như Bố thí là tối thắng, tôn quý, vi diệu, vô thượng?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa này tóm thâu tất cả pháp, hòa hợp, nhập vào trí Nhất thiết trí, an trụ bất động, dùng vô sở đắc làm phượng tiện.

Cụ thọ Thiện hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế có nắm bắt, hay xả bỏ các pháp lành không?

Phật dạy:

–Không! Đối với tất cả pháp, Bát-nhã ba-lamật-đa như thế không nắm bắt, không xả bỏ. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp đều không, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được và không thể xả bỏ.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế không nắm bắt, không xả bỏ những pháp nào?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế không nắm bắt, không xả bỏ sắc cho đến trí Nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, tại sao Bồ-tát không nắm bắt, không xả bỏ sắc cho đến trí Nhất thiết trí?

Phật dạy:

–Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế không tư duy về sắc, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí. Cho nên không nắm bắt, không xả bỏ sắc, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, vì sao Bát-nhã ba-la-mật-đa không tư duy sắc, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa này đối với sắc, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí, không tư duy tất cả tướng, cũng không tư duy về tất cả sở duyên. Cho nên không tư duy về tất cả sắc, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát không tư duy về sắc, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí thì làm sao tăng trưởng sự gieo căn lành? Nếu không viên mãn Ba-la-mật-đa? Thì làm sao chứng đắc trí Nhất thiết trí?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Nếu Đại Bồ-tát ấy có thể làm tăng trưởng sự gieo trồng căn lành đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa. Vì Ba-la-mậtđa được viên mãn nên liền chứng đắc trí Nhất thiết trí. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát không tư duy về các sắc, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí thì mới có thể tu đầy đủ các hạnh Đại Bồ-tát và chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát không tư duy các sắc, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí mới có thể tu đầy đủ các hạnh Đại Bồ-tát và chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Các Đại Bồ-tát nếu tư duy sắc, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí thì có sở đắc. Vì có sở đắc nên bị vướng vào ba cõi. Nếu vướng vào ba cõi thì không thể tu đầy đủ các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát không tư duy về sắc, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí thì không có sở đắc. Vì không có sở đắc nên không bị vướng vào ba cõi. Vì không vướng vào ba cõi nên có thể tu đầy đủ các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Cho nên này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn tu đầy đủ các hạnh của Đại Bồ-tát, mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không nên tư duy đắm nhiễm vào các pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát muốn siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì phải trụ vào đâu?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Nếu Đại Bồ-tát muốn siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì không nên trụ vào sắc cho đến trí Nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, vì lý do gì mà Đại Bồ-tát muốn siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nên trụ vào sắc cho đến trí Nhất thiết trí?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Nếu Đại Bồ-tát siêng năng tinh tấn tu học Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa thì không nên chấp trước vào tất cả pháp, không nên trụ vào sắc cho đến trí Nhất thiết trí. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy không thấy có pháp nào để chấp trước và để an trụ.

Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát ấy dùng không chấp trước và không an trụ làm phương tiện nên có thể siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát nghĩ: “Không chấp trước, không an trụ như thế mà siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì đó tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, là hành Bát-nhã bala-mật-đa. Nếu ta không chấp trước, không an trụ như thế mà siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa thì đó là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.” Đại Bồ-tát ấy do nghĩ chấp tướng như thế là xa lìa Bát-nhã ba-lamật-đa. Nếu xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa là xa lìa Bố thí ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không chấp trước tất cả pháp, chẳng phải Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa có sự chấp trước và tánh chấp trước. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn không có sự tánh để có thể chấp trước các pháp.

Cho nên này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp và Bát-nhã ba-la-mật-đa đều không chấp trước.

Thiện Hiện nên biết, khi Đại Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, tưởng như vậy: “Đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Ta hành Bát-nhã ba-la-mậtđa tức là hành tất cả thật tướng của tất cả pháp.” Do tưởng như vậy nên Đại Bồ-tát liền thoái lui Bátnhã ba-la-mật-đa. Nếu thoái lui Bát-nhã ba-la-mậtđa tức là thoái lui Bố thí ba-la-mật-đa cho đến trí Nhất thiết trí. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là căn bản của tất cả pháp trắng. Nếu thoái lui Bát-nhã ba-la-mật-đa là thoái lui tất cả pháp trắng. Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát nghĩ: “Bátnhã ba-la-mật-đa này bao gồm Bố thí ba-la-mậtđa, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí” thì Đại Bồtát ấy làm thoái lui Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu thoái lui Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không thể nhiếp thọ Bố thí ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí. Vì sao? Vì không xa lìa Bát-nhã ba-lamật-đa thì có thể giữ gìn tất cả pháp phần Bồ-đề và có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát nghĩ: “An trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa thì nhất định được thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột”, do nghĩ như vậy, Đại Bồtát ấy đã làm thoái lui Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu thoái lui Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không được thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì được thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột. Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát nghĩ: “An trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể dẫn phát Bố thí ba-la-mật-đa, cho đến dẫn phát đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả”, do nghĩ như vậy, Đại Bồ-tát ấy đã thoái lui Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu thoái lui Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không thể dẫn phát Bố thí ba-la-mật-đa cho đến dẫn phát đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả. Vì sao? Vì không lìa Bátnhã ba-la-mật-đa mới có thể dẫn phát an trú thắng pháp.

Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát suy nghĩ: “Phật biết các pháp, không có tướng nhiếp thọ, tự chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Chứng Bồ-đề rồi giảng nói, chỉ bày thật tướng các pháp cho các hữu tình”, do nghĩ như vậy, Đại Bồ-tát ấy làm thoái lui Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì đối với pháp, Như Lai không biết, không hay, không nói, không chỉ dạy. Vì sao? Vì thật tánh của các pháp không thể hay, biết, không thể đặt bày, thì làm sao có người hay, biết, nói, chỉ dạy tất cả pháp. Nếu nói thật có người hay, biết, nói, chỉ dạy tất cả pháp thì không có điều đó.

Bấy giờ Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm thế nào để xa lìa các sai lầm đó?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Các Đại Bồ-tát nếu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa nghĩ như vậy: “Tất cả pháp đều không sở hữu nên chẳng thể nắm bắt được. Nếu các pháp đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được thì cũng không có người đang chứng Đẳng giác, cũng không có sự giảng nói, chỉ dạy”, đó là hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, lìa bỏ các lỗi lầm. Nếu các Đại Bồ-tát chấp pháp không sở hữu, pháp chẳng thể nắm bắt được, đó là lìa Bát-nhã ba-lamật-đa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không chấp trước, không giữ gìn tất cả pháp. Nếu có chấp trước, có giữ gìn các pháp tức là lìa Bátnhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa là xa lìa hay không xa lìa? Cho đến Bố thí ba-la-mật-đa đối với Bố thí ba-lamật-đa là xa lìa hay không xa lìa? Nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí đối với trí Nhất thiết trí là xa lìa hay không xa lìa?

–Bạch Thế Tôn, nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa dầu xa lìa hay không xa lìa thì làm thế nào Đại Bồ-tát không chấp trước việc làm phát sinh, Bát-nhã ba-la-mật-đa? Cho đến Bố thí ba-la-mật-đa đối với Bố thí ba-la-mật-đa dầu xa lìa hay không xa lìa thì làm thế nào Đại Bồtát không chấp trước việc làm phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa? Nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí đối với trí Nhất thiết trí dầu xa lìa hay không xa lìa, làm thế nào Đại Bồ-tát không chấp trước việc làm phát sinh trí Nhất thiết trí?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã ba-lamật-đa chẳng phải xa lìa, chẳng phải không xa lìa, cho nên Đại Bồ-tát không chấp trước việc làm phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Như vậy cho đến Bố thí ba-la-mật-đa đối với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải xa lìa, chẳng phải không xa lìa, cho nên Đại Bồ-tát không chấp trước việc làm phát sinh Bố thí ba-la-mật-đa. Nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí đối với trí Nhất thiết trí chẳng phải xa lìa, chẳng phải không xa lìa, cho nên Đại Bồ-tát không chấp trước việc làm phát sinh trí Nhất thiết trí. Vì sao? Vì chẳng phải tự tánh, chẳng phải lìa tự tánh mà có thể làm phát sinh việc an trụ tự tánh.

Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không chấp trước sắc, nói đây là sắc, sắc thuộc về cái kia. Nói rộng cho đến không chấp trước trí Nhất thiết trí, nói đây là trí Nhất thiết trí, trí Nhất thiết trí này thuộc về cái kia. Vì Đại Bồ-tát ấy không chấp trước tất cả pháp như thế nên có thể làm phát sinh Bát-nhã ba-lamật-đa, cho đến có thể làm phát sinh trí Nhất thiết trí. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa chấp trước vào các pháp, nói đây là pháp, pháp này thuộc về cái kia, thì không thể tùy ý làm phát sinh sự an trụ công đức thù thắng.

Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không quán sắc là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, là tịnh hay bất tịnh, là không hay bất không, là xa lìa hay không xa lìa… cho đến không quán trí Nhất thiết trí là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, là tịnh hay bất tịnh, là không hay bất không, là xa lìa hay không xa lìa… Đại Bồ-tát ấy không quán sát tất cả pháp như vậy thì có thể làm phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến có thể làm phát sinh trí Nhất thiết trí. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa quán sát các pháp là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, là tịnh hay bất tịnh, là không hay bất không, là xa lìa hay không xa lìa, thì không thể tùy ý làm phát sinh sự an trụ công đức thù thắng.

Lại nữa này Thiện Hiện, nếu các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tức là tu hành Bố thí ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến cũng tu hành trí Nhất thiết trí.

Lại nữa này Thiện Hiện, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đi chỗ nào thì tất cả Ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề đều đi theo. Nếu Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa đến đâu thì tất cả Ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác cũng đến đó. Giống như Chuyển luân vương đi đâu thì đều có bốn bộ quân dũng mãnh tùy tùng. Nếu Chuyển luân vương đến đâu thì đều có bốn bộ quân dũng mãnh theo đến đó. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng vậy, đi đâu, đến đâu thì năm Ba-la-mật-đa là Bố thí… và các pháp phần Bồ-đề khác đều đi theo hoàn toàn đạt đến trí Nhất thiết trí. Giống như người đánh xe giỏi, điều khiển xe tứ mã tránh xa đường hiểm mà đi vào đường chánh tùy theo ý muốn đi đến nơi đến chốn. Cũng vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này giỏi điều khiển tất cả Ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác, tránh xa con đường nguy hiểm từ sinh tử đến Niết-bàn, mà đi trên con đường chân chánh, tự lợi lợi tha để đạt đến sở cầu là trí Nhất thiết trí.

Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, đối với các Đại Bồ-tát thì thế nào là đạo? Thế nào là chẳng phải đạo?

Phật dạy:

–Đạo của Thanh văn, Độc giác, đạo của phàm phu thì chẳng phải là đạo của Bồ-tát. Vì nương vào đây không thể đạt đến trí Nhất thiết trí. Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa làm phát sinh tất cả pháp phần Bồ-đề. Đạo của Đại Bồ-tát ấy dựa vào đây, nhất định đạt đến trí Nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện trên thế gian là một Đại sự, nghĩa là thị hiện tướng đạo, tướng chẳng phải đạo của chúng Đại Bồ-tát, để các Đại Bồ-tát ấy biết đạo hay chẳng phải đạo mà mau chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Phật dạy Thiện Hiện:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện trên thế gian là việc lớn, nghĩa là thị hiện tướng đạo, chẳng phải đạo để các Đại Bồ-tát ấy biết đạo hay chẳng phải đạo mà mao chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Lại nữa này Thiện Hiện, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ra đời là một việc lớn, nghĩa là độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình để đạt được lợi ích an vui thù thắng.

Thiện Hiện nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mặc dầu làm ra vô lượng việc lợi lạc cho người, nhưng không chấp giữ vào đó.

Thiện Hiện nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mặc dầu thị hiện sự nghiệp đã làm nhưng không chấp lấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức; cho đến không chấp lấy trí Nhất thiết trí; cũng không chấp lấy những sự nghiệp của Thanh văn, Độc giác làm ra.

Thiện Hiện nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mặc dầu dẫn đầu tất cả chúng Đại Bồ-tát để hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, xa lìa quả vị Thanh văn, Độc giác nhưng đối với các pháp thì không sinh, không diệt, vì lấy tánh của pháp trụ làm định lượng.

Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu đối với tất cả pháp không sinh, không diệt thì tại sao khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa vì các hữu tình, phải hành Bố thí, giữ Tịnh giới, chịu An nhẫn, siêng năng Tinh tấn, nhập Tĩnh lự, tu Bát-nhã?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa với trí Nhất thiết trí, vì các hữu tình nên hành Bố thí, giữ Tịnh giới, chịu An nhẫn, siêng năng Tinh tấn, nhập Tĩnh lự, tu Bát-nhã. Đại Bồtát ấy đem căn lành này bình đẳng san sẻ cho các hữu tình, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Đại Bồ-tát ấy đem căn lành này hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột thì tu sáu pháp Ba-la-mậtđa mau được viên mãn; cũng tu Từ, Bi, Hỷ, Xả của Bồ-tát mau được viên mãn. Nhờ vậy, mau đắc trí Nhất thiết trí, cho đến khi ngồi tòa Bồ-đề, không bao giờ xa lìa sáu pháp Ba-la-mật-đa như thế. Nếu Đại Bồ-tát thường không xa lìa sáu pháp Ba-lamật-đa như thế, tức là không xa lìa trí Nhất thiết trí.

Cho nên này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn mau chứng đắc trí Nhất thiết trí thì phải siêng năng tinh tấn tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa, luôn phải siêng năng tinh tấn tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát thường siêng năng tinh tấn tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa như vậy thì tất cả căn lành mau được viên mãn, chóng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Cho nên, này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát luôn luôn tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa không được lơ đễnh.

Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, làm thế nào để Đại Bồ-tát luôn tương ưng sáu pháp Ba-la-mật-đa không được lơ đễnh?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Nếu Đại Bồ-tát như thật quán sắc chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng; như thật quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Nói rộng cho đến như thật quán trí Nhất thiết trí chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Đại Bồ-tát ấy luôn tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa, không bao giờ lơ đễnh.

Lại nữa này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ: “Ta không nên trụ nơi sắc, cũng không trụ nơi chẳng phải sắc. Nói rộng cho đến ta không nên trụ trí Nhất thiết trí, cũng không nên trụ nơi chẳng phải trí Nhất thiết trí. Vì sao? Vì sắc chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ. Nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ.” Đại Bồ-tát ấy luôn tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa không bao giờ lơ đễnh.

Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát dùng phương tiện vô trụ như thế tu hành sáu pháp Ba-lamật-đa thì Đại Bồ-tát ấy mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện nên biết, như người muốn ăn quả Yêm-một-la (quả xoài), quả Bàn-na-bà (quả na) trước tiên phải lấy hạt của nó trồng vào đất tốt, theo thời gian phân bón, săn sóc, sửa sang, lần lần nó phát triển mầm chồi, thân, cành, lá. Gặp thời tiết hòa hợp nó trổ hoa, kết trái, đến khi quả chín, hái ăn.

Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Giác ngộ cao tột, trước tiên phải học sáu pháp Ba-la-mật-đa. Lại đối với hữu tình, dùng Bố thí, hoặc dùng Ái ngữ, hoặc dùng Lợi hành, hoặc dùng Đồng sự để cảm hóa họ. Đã cảm hóa họ rồi, dạy bảo họ an trụ Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, khiến họ an trụ vào pháp phần Bồ-đề như bốn Niệm trụ… Sau khi an trụ, được giải thoát tất cả đại khổ sinh tử, chứng đắc an lạc thường trụ, tịch tĩnh vĩnh viễn Bồ-tát ấy sẽ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, đến tận đời vị lai luôn luôn làm lợi ích cho tất cả.

Cho nên này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với các pháp không muốn nhờ vào duyên khác mà lại tự khai ngộ, muốn đem lại sự thành tựu cho hữu tình, muốn làm nghiêm tịnh cõi Phật, muốn mau an ổn ngồi tòa Bồ-đề vi diệu, muốn hàng phục các ác ma, muốn mau chứng đắc trí Nhất thiết trí, muốn chuyển pháp luân độ chúng hữu tình thì nên học sáu pháp Ba-la-mật-đa, dùng bốn Nhiếp pháp làm phương tiện để cảm hóa các loài hữu tình, giải thoát các khổ sinh tử. Khi Bồ-tát siêng năng tu học như vậy thì nên luôn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Phật nói Bồ-tát phải siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa chăng?

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy! Ta nói Bồ-tát nên siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp, muốn được tự tại thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có đầy đủ oai lực lớn, có thể làm cho các Đại Bồ-tát được tự tại với tất cả pháp.

Thiện Hiện nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là cửa mà các pháp lành hướng đến. Ví như biển lớn là cửa của tất cả dòng sông chảy về. Cho nên này Thiện Hiện, nếu là thiện nam Thanh văn thừa, thiện nam Độc giác thừa, thiện nam Bồ-tát thừa thì phải siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này.

Thiện Hiện nên biết, ví như người bắn giỏi, mặc áo giáp kiên cố, cầm cung tên tốt không sợ địch thù. Cũng vậy, các Đại Bồ-tát giữ gìn phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí, làm cho quân ma, ngoại đạo và những phái luận khác không thể nào thắng được. Cho nên này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển bánh xe diệu pháp độ chúng hữu tình thì phải siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-lamật-đa thì được chư Phật Thế Tôn ở quá khứ, vị lai và hiện tại luôn hộ niệm.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát thường siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại cùng hộ niệm?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Nếu Đại Bồ-tát thường siêng năng tu học Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa tức là tu hành Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí, được chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai và hiện tại cùng hộ niệm.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát ấy tu hành Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tịnh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí như thế nào để được chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai và hiện tại cùng hộ niệm?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Khi Đại Bồ-tát ấy tu hành Bố thí ba-la-mậtđa, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí, quán Bố thí ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí đều chẳng thể nắm bắt được, chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại cùng hộ niệm.

Lại nữa này Thiện Hiện, chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại mặc dầu thường hộ niệm Đại Bồ-tát ấy nhưng không dùng sắc, thọ, tưởng, hành, thức nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí để dẫn phát sự hộ niệm, vì sắc cho đến trí Nhất thiết trí đều chẳng thể nắm bắt được.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát tuy nhiều pháp phải học nhưng không có học pháp nào!

Phật dạy Thiện Hiện:

–Đúng vậy, đúng vậy! Các Đại Bồ-tát mặc dầu nhiều pháp phải học nhưng không có học pháp nào. Vì sao? Vì thật sự không có pháp để chúng Đại Bồtát tu học.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

–Phật giảng nói pháp tóm lược hay sâu rộng tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa cho chúng Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân vi diệu độ thoát hữu tình thì đối với pháp tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa này dù tóm lược hay sâu rộng phải đều lắng nghe, thọ trì, đọc tụng để được thông suốt. Thông suốt rồi tư duy đúng lý. Sau khi tư duy phải quán sát rõ ràng, đúng đắn. Quán sát rồi làm cho tâm và tâm sở đối với tướng sở duyên không bị lay động?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói!

Lại nữa này Thiện Hiện, đối với giáo pháp tương ưng sáu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Phật Thế Tôn đã nói dù tóm lược hay sâu rộng các Đại Bồ-tát đều phải siêng năng tinh tấn, phải như thật biết rõ về tướng rộng hẹp của các pháp.

Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát làm thế nào để như thật biết rõ tướng rộng hẹp của các pháp?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Nếu Đại Bồ-tát như thật biết rõ tướng chân như của sắc, như thật biết rõ tướng chân như của thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho đến như thật biết rõ tướng chân như của trí Nhất thiết trí thì Đại Bồ-tát ấy như thật biết rõ tướng rộng hẹp của tất cả pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là tướng chân như của sắc? Thế nào là tướng chân như của thọ, tưởng, hành, thức? Nói rộng cho đến thế nào là tướng chân như của trí Nhất thiết trí để các Đại Bồ-tát như thật biết rõ mà học, như thật biết rõ tướng rộng hẹp của tất cả pháp?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Chân như của sắc không sinh, không diệt, không trụ, không đổi nhưng có thể giả lập. Đó gọi là tướng chân như của sắc. Chân như của thọ, tưởng, hành, thức cũng không sinh, không diệt, không trụ, không thay đổi nhưng mà có thể giả lập. Đó gọi là tướng chân như của thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến chân như của trí Nhất thiết trí không sinh, không diệt, không trụ, không đổi nhưng có thể giả lập. Đó gọi là tướng chân như của trí Nhất thiết trí.

Các Đại Bồ-tát nên như thật biết rõ để học, phải như thật biết rõ tướng rộng hẹp của tất cả pháp.

Lại nữa này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát như thật biết rõ tướng thật tế của sắc, như thật biết rõ về tướng thật tế của thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho đến như thật biết rõ về tướng thật tế của trí Nhất thiết trí thì Đại Bồ-tát ấy như thật biết rõ tướng rộng hẹp của tất cả pháp.

Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là tướng thật tế của sắc, thế nào là tướng thật tế của thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho đến thế nào là tướng thật tế của trí Nhất thiết trí, để các Đại Bồ-tát như thật biết rõ mà tu học, để như thật biết rõ tướng rộng hẹp của tất cả pháp?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Không có biên giới của sắc, đó gọi là tướng thật tế của sắc. Không có biên giới của thọ, tưởng, hành, thức, đó gọi là tướng thật tế của thọ, tưởng hành, thức. Nói rộng cho đến không có biên giới của trí Nhất thiết trí, đó gọi là tướng thật tế của trí Nhất thiết trí. Các Đại Bồ-tát như thật biết rõ để học, như thật biết rõ về tướng rộng hẹp của tất cả pháp.

Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát như thật biết rõ tướng pháp giới của sắc; như thật biết rõ tướng pháp giới của thọ, tưởng, hành, thức; nói rộng cho đến như thật biết rõ về tướng pháp giới của trí Nhất thiết trí thì Đại Bồ-tát ấy như thật biết rõ về tướng rộng hẹp của tất cả pháp.

Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là tướng pháp giới của sắc; thế nào là tướng pháp giới của thọ, tưởng, hành, thức; nói rộng cho đến thế nào là tướng pháp giới của trí Nhất thiết trí để các Đại Bồ-tát như thật biết rõ mà học, như thật biết rõ tướng rộng hẹp của tất cả pháp.

Phật dạy:

–Sắc như hư không, không chướng không ngại, không sinh, không diệt, không gián đoạn, không liên tục nhưng không giả lập, gọi đó là tướng pháp giới của sắc. Thọ, tưởng, hành, thức như hư không, không chướng ngại, không sinh, không diệt, không gián đoạn, không liên tục nhưng không giả lập, gọi đó là tướng pháp giới của thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí như hư không, không chướng không ngại, không sinh, không diệt, không gián đoạn, không liên tục nhưng không giả lập, gọi đó là tướng pháp giới của trí Nhất thiết trí. Các Đại Bồ-tát như thật biết rõ để học, như thật biết rõ tướng rộng hẹp của tất cả pháp.

Bấy giờ Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát làm thế nào để biết tướng rộng hẹp của tất cả pháp?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Các Đại Bồ-tát như thật biết rõ về tất cả pháp không hợp, không tan thì Đại Bồ-tát ấy sẽ biết tướng rộng hẹp của tất cả pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, tất cả pháp không hợp, không tan là những pháp nào?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Sắc không hợp, không tan. Thọ, tưởng, hành, thức không hợp, không tan, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí không hợp, không tan. Tham dục, sân giận, ngu si không hợp, không tan. Cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc không hợp, không tan. Cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi không hợp, không tan. Vì sao? Vì các pháp ấy không có tự tánh. Nếu không có tự tánh thì không sở hữu. Nếu không sở hữu thì không thể nói có hợp hay có tan. Các Đại Bồ-tát biết rõ tất cả pháp như vậy thì biết rõ tướng rộng hẹp của tất cả pháp.

QUYỂN 525

Phẩm 26: Phương tiện thiện xảo(3)

Bấy giờ Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, như vậy gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa tóm lược. Các Đại Bồ-tát học trong đó có thể làm được nhiều việc. Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa tóm lược như vậy, chúng Bồ-tát mới tu học cần nên học, cho đến Đại Bồ-tát trụ địa thứ mười cũng phải siêng năng tinh tấn tu học. Nếu Đại Bồ-tát luôn siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mậtđa tóm lược như vậy thì có thể như thật biết tướng rộng hẹp của tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa tóm lược như thế là pháp môn vi diệu, chỉ có chúng Đại Bồtát lợi căn mới có thể ngộ nhập được.

Phật dạy Thiện Hiện:

–Pháp môn ấy, hàng Đại Bồ-tát căn tánh lanh lợi, căn tánh trung bình, căn tánh ám độn… đều có thể ngộ nhập pháp môn ấy không bị chướng ngại. Các Đại Bồ-tát căn định hay không định, nếu chuyên tâm tu học thì cũng đều ngộ nhập.

Thiện Hiện nên biết, pháp môn ấy rất vi diệu thanh tịnh. Những người biếng nhác, ít tinh tấn, mất chánh niệm, tâm tán loạn, tu tập ác tuệ thì không thể ngộ nhập được. Còn những ai không giải đãi, luôn tinh tấn, đầy đủ chánh niệm, nhiếp tâm chuyên chú, tu tập diệu tuệ mới có thể ngộ nhập.

Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát muốn trụ hàng Bồ-tát không thoái chuyển, lần lượt đến địa thứ mười thì nên siêng năng dùng phương tiện để nhập vào pháp môn này. Nếu Đại Bồ-tát muốn mau chứng đắc trí Nhất thiết trí phải siêng năng dùng phương tiện để nhập vào pháp môn này.

Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát theo học những gì đã nói trong kinh điển Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa này thì Đại Bồ-tát đó có thể học Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa; cũng có thể học pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh, có thể theo học chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; cũng có thể theo học Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo; cũng có thể theo học bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; cũng có thể theo học bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cũng có thể theo học pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; cũng có thể theo học tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ; cũng có thể theo học bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân; cũng có thể theo học tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng có thể theo học năm loại mắt, sáu phép thần thông, cũng có thể theo học mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; cũng có thể theo học đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; cũng có thể theo học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng có thể theo học trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; cũng có thể theo học tất cả hạnh Đại Bồ-tát; cũng có thể học quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; cũng có thể theo học trí Nhất thiết trí. Sau khi Đại Bồ-tát ấy đã học như vậy rồi thì có thể chứng đắc Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa cho đến trí Nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát học theo những gì đã nói trong kinh điển Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa này thì đối với tất cả ma sự Đại Bồ-tát ấy đều biết rõ, nên vừa sinh khởi liền diệt ngay.

Cho nên này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn mau diệt trừ tất cả nghiệp chướng, muốn nhiếp thọ hoàn toàn phương tiện thiện xảo thì phải học Bátnhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết, lúc nào Đại Bồ-tát siêng năng tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa thì lúc ấy Đại Bồtát liền được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại đang nói chánh pháp ở vô lượng, vô biên thế giới cũng hộ niệm. Vì sao? Vì chư Phật ở quá khứ, hiện tại, vị lai đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà ra.

Cho nên này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên nghĩ như vầy: “Pháp mà chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đã chứng đắc, ta cũng sẽ chứng đắc.”

Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát phải siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Cho nên này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát không nên xa lìa tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tùy thuận tu hành, dù trong khảy móng tay, thì Đại Bồ-tát ấy đạt được phước đức rất nhiều. Giả sử có người dùng phương tiện thiện xảo giáo hóa tất cả hữu tình trong thế giới ba lần ngàn, đều khiến họ an trụ Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc khiến họ an trụ giải thoát, giải thoát tri kiến thanh tịnh, hoặc khiến họ an trụ quả Dự lưu cho đến quả A-la-hán, hoặc khiến họ an trụ vào Độc giác Bồ-đề, người ấy mặc dầu được phước nhiều vô lượng, nhưng vẫn không bằng phước đức của người tùy thuận tu hành kinh điển Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa chỉ trong khoảng khảy móng tay. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sinh tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; có thể sinh ra tất cả sự giải thoát, giải thoát tri kiến thanh tịnh; có thể sinh tất cả quả Dự lưu cho đến quả Độc giác Bồ-đề. Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều từ Bát-nhã ba-lamật-đa mà được xuất hiện, độ thoát vô lượng, vô biên hữu tình.

Lại nữa này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát không lìa tác ý tương ưng trí Nhất thiết trí mà hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa trải qua khoảng chốc lát, hoặc trải qua nửa ngày, một ngày, hoặc trải qua nửa tháng, một tháng, hoặc trải qua một thời gian, hoặc trải qua trải qua một năm, nửa năm, hoặc trải qua một kiếp, trăm kiếp cho đến vô số đại kiếp thì Đại Bồ-tát được phước đức nhiều hơn người giáo hóa các hữu tình trong hằng hà sa thế giới khắp mười phương, khiến họ an trụ Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc khiến họ an trụ giải thoát, giải thoát tri kiến thanh tịnh, khiến họ an trụ quả Dự lưu cho đến quả A-lahán, khiến họ an trụ phước đức mà Độc giác Bồđề đã đạt. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, hiện tại, vị lai. Các Ngài vì các hữu tình tùy thuận thiết lập Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa vì các hữu tình tùy thuận thiết lập sự giải thoát, giải thoát tri kiến thanh tịnh; tùy thuận thiết lập quả Dự lưu cho đến quả A-lahán; tùy thuận thiết lập quả Độc giác Bồ-đề; tùy thuận thiết lập quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Phước đức này hơn phước đức người trước.

Lại nữa này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát trụ sống theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói, thì nên biết, Đại Bồ-tát ấy đã trụ nơi quả vị không thoái chuyển, thường được chư Phật hộ niệm, thành tựu phương tiện thiện xảo tối thắng, đã từng gần gũi cúng dường, cung kính vô lượng ức triệu Phật; ở chỗ chư Phật đã gieo trồng vô lượng căn lành thắng diệu, đã được vô lượng thiện hữu chân tịnh bảo vệ; từ lâu đã tu tập Bố thí… sáu pháp Bala-mật-đa. Nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết, Đại Bồ-tát ấy trụ vào địa Đồng Chân, tất cả sự nguyện cầu đều được viên mãn, luôn gặp chư Phật không bao giờ xa cách, không bao xa lìa các căn lành, luôn đem lại sự thành tựu cho hữu tình, cũng thường làm nghiêm tịnh cõi Phật. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác luôn cúng dường, cung kính, tôn trọng ca ngợi chư Phật Thế Tôn; nghe và thọ trì tu hành giáo pháp của Bồ-tát thừa.

Thiện Hiện nên biết, Đại Bồ-tát ấy đã đắc biện tài vô tận, đã đắc tất cả pháp môn Đà-la-ni thù thắng, thành tựu sắc thân vi diệu tối thượng, đã được chư Phật thọ ký viên mãn, tùy theo sở thích vì độ các hữu tình mà thọ các loại thân, đều được tự tại.

Thiện Hiện nên biết, Đại Bồ-tát ấy đã nhập trọn vẹn vào sở duyên hành tướng, tất cả môn chữ, chẳng phải chữ, pháp nghĩa hữu ngôn vô ngôn, khái niệm một, hai và nhiều, khái niệm nữ nam chẳng phải hai, khái niệm các pháp quá khứ, hiện tại và vị lai, các văn các nghĩa, các uẩn, các xứ, các giới duyên khởi và chi duyên khởi, thế gian, Niếtbàn, tướng pháp giới, tướng hữu vi, tướng vô vi, tướng hành, tướng chẳng phải hành, tướng tướng, tướng chẳng phải tướng, tánh có, tánh không, tánh tự, tánh tha, trói buộc, lìa trói buộc, trói buộc lìa trói buộc, tương ưng, không tương ưng, tương ưng không tương ưng, chân như, tánh không hư vọng, tánh không đổi khác, pháp tánh, pháp giới, pháp định, pháp trụ, tánh nhân, tánh chẳng phải nhân, tánh duyên, tánh chẳng phải duyên, Thánh đế, Tĩnh lự, Vô lượng, Vô sắc, Bố thí cho đến Bát-nhã bala-mật-đa, bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ, tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả môn Tam-ma-địa, năm loại mắt, sáu phép thần thông, địa Đại Bồ-tát, mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, các tướng tốt, các vẻ đẹp, tánh không quên mất, tánh luôn luôn xả, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi, giới, chẳng phải giới, không, chẳng không, tác ý sắc cho đến tác ý thức, nói rộng cho đến tác ý trí Nhất thiết trí, không của tướng sắc, không của tướng thức, nói rộng cho đến không của tướng trí Nhất thiết trí, đạo khinh an, đạo bất khinh an, sinh, trụ, dị, diệt, chánh kiến, tà kiến, kiến, phi kiến, tham, sân, si, không tham, không sân, không si, sự trói buộc của nhận thức, sự trói buộc của phiền não, sự đoạn diệt của chúng, danh, sắc, danh sắc, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, nhân duyên, đẳng vô gián duyên, hành tướng, nhân quả, khổ, tập, diệt, đạo, quả Dự lưu và đạo của quả Dự lưu, quả Nhất lai và đạo của quả Nhất lai, quả Bất hoàn và đạo của quả Bất hoàn, quả A-la-hán và đạo của quả A-la-hán, Độc giác Bồ-đề và đạo của Độc giác Bồ-đề, Vô thượng Bồ-đề và đạo của Vô thượng Bồ-đề, trí Nhất thiết và đạo của trí Nhất thiết, trí Đạo tướng và đạo của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng và đạo của trí Nhất thiết tướng, căn và căn viên mãn, căn thắng liệt, tuệ lanh lẹ, tuệ sắc bén, tuệ nhanh nhẹn, tuệ thấu đáo, tuệ rộng lớn, tuệ sâu xa, tuệ to lớn, tuệ không chướng ngại, quá khứ, vị lai, hiện tại, phương tiện, niềm vui, niềm vui tăng trưởng, văn nghĩa, an lập ba thừa phương tiện.

Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa làm phát sinh Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì đạt được vô lượng, vô biên công đức thù thắng lợi ích như vậy.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế nào? Làm phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế nào? Tu Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế nào?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Các Đại Bồ-tát nên quán sắc uẩn cho đến thức uẩn vì tịch tĩnh, vì có thể phá hoại, vì không tự tại, vì thể nó hư ngụy, vì không bền chắc, nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; nói rộng cho đến nên quán trí Nhất thiết trí tịch tĩnh, có thể phá hoại, không tự tại, thể hư ngụy, không bền chắc để hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, ông hỏi các Đại Bồ-tát làm phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế nào? Giống như làm phát sinh cái không của hư không, Đại Bồ-tát làm phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, ông hỏi các Đại Bồ-tát tu Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế nào? Giống như sự tu hành từ bỏ, Đại Bồ-tát tu Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa làm phát sinh Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa và hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa phải mất bao lâu?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến khi ngồi tòa Bồ-đề vi diệu, nên hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, nên làm phát sinh Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa, nên tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát trụ vào những tâm nào để không gián đoạn về việc hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm phát sinh Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa, tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến khi cứu cánh không dung chứa những tác ý nào khác, chỉ luôn luôn an trụ vào tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí là nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên làm phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết, Đại Bồ-tát ấy cho đến khiến tâm và tâm sở pháp đối với cảnh không chuyển, mới được gọi là hành Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa, làm phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát tu hành làm phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có đắc trí Nhất thiết trí chăng?

–Không, Thiện Hiện!

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát không hành, không làm phát sinh, không tu Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa, có đắc trí Nhất thiết trí chăng?

–Không, Thiện Hiện!

–Bạch Thế Tôn, có phải các Đại Bồ-tát cũng hành, làm phát sinh, tu, cũng không hành, không làm phát sinh, không tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có đắc trí Nhất thiết trí chăng?

–Không, Thiện Hiện!

–Bạch Thế Tôn, có phải các Đại Bồ-tát chẳng hành, chẳng làm phát sinh, chẳng tu, chẳng phải không hành, chẳng phải không làm phát sinh, chẳng phải không tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể đắc trí Nhất thiết trí chăng?

–Không, Thiện Hiện!

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát làm sao đắc trí Nhất thiết trí?

–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát phải như chân như có thể đắc trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, thế nào phải như chân như?

–Này Thiện Hiện, phải như thật tế.

Bạch Thế Tôn, thế nào là phải như thật tế?

–Này Thiện Hiện, phải như cảnh giới pháp.

Bạch Thế Tôn, thế nào là phải như cảnh giới pháp?

–Này Thiện Hiện, phải như cảnh giới ngã cho đến cảnh giới Bổ-đặc-già-la.

Bạch Thế Tôn, thế nào là cảnh giới ngã cho đến cảnh giới Bổ-đặc-già-la?

–Này Thiện Hiện, ông nghĩ thế nào? Ngã cho đến Bổ-đặc-già-la có thể nắm bắt chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Này Thiện Hiện, nếu ngã cho đến Bổ-đặc-giàla đã chẳng thể nắm bắt được thì làm sao Ta dựng lên cảnh giới của ngã cho đến cảnh giới của Bổđặc-già-la?

Như vậy này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát không giả lập Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng không giả lập trí Nhất thiết trí, cũng không giả lập tất cả pháp thì Đại Bồ-tát ấy nhất định sẽ chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, có phải chỉ có Bát-nhã ba-lamật-đa không thể giả lập hay là Tĩnh lự ba-la-mậtđa... cũng không thể giả lập?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Không những Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể giả lập mà còn Tĩnh lự… năm pháp Ba-la-mật-đa cũng không thể giả lập; hoặc pháp của Thanh văn, pháp của Độc giác, pháp của Bồ-tát, pháp của chư Phật, pháp hữu vi, pháp vô vi… tất cả pháp ấy đều không thể giả lập.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp đều không thể giả lập, thì tại sao giả lập đây là địa ngục, đây là bàng sinh, đây là ngạ quỷ, đây là người, đây là trời, đây là Dự lưu, đây là Nhất lai, đây là Bất hoàn, đây là A-la-hán, đây là Độc giác, đây là Bồ-tát, đây là chư Phật, đây là tất cả pháp?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Ý ông nghĩ sao? Hữu tình giả lập và pháp giả lập thật có thể nắm bắt được chăng?

Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, không!

Phật dạy Thiện Hiện:

–Nếu hữu tình giả lập và pháp giả lập thật chẳng thể nắm bắt được làm sao Ta có thể giả lập đây là địa ngục… nói rộng cho đến đây là tất cả pháp? Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên học tất cả pháp đều không thể giả lập để hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, khi các Đại Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, đâu không nên học sắc, đâu không nên học thọ, tưởng, hành, thức; nói rộng cho đến đâu không nên học trí Nhất thiết trí?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên học sắc không tăng, không giảm; nên học thọ, tưởng, hành, thức không tăng giảm; nói rộng cho đến nên học trí Nhất thiết trí không tăng, không giảm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, khi các Đại Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, vì sao nên học sắc không tăng, không giảm, nên học thọ, tưởng, hành, thức không tăng, không giảm; nên học trí Nhất thiết trí không tăng, không giảm như thế nào?

Phật dạy:

–Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vì không sinh, không diệt nên học sắc; vì không sinh, không diệt nên học thọ, tưởng, hành, thức; nói rộng cho đến vì không sinh, không diệt nên học trí Nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, khi các Đại Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, vì sao vì không sinh, không diệt nên học sắc; vì sao vì không sinh, không diệt nên học thọ, tưởng, hành, thức? Cho đến vì sao vì không sinh, không diệt nên học trí Nhất thiết trí? Phật dạy:

–Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên học các hành không sinh khởi, không tạo tác, hoặc bỏ, hoặc tu.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, khi các Đại Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, vì sao nên học các hành không sinh khởi, không tạo tác, hoặc bỏ hoặc tu?

Phật dạy:

–Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa quán tự tướng tất cả pháp đều không, nên học các hành không sinh khởi, không tạo tác, hoặc bỏ hoặc tu.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, khi các Đại Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán tự tướng của tất cả pháp đều không như thế nào?

Phật dạy:

–Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán sắc với cái không của tướng sắc; nên quán thọ, tưởng, hành, thức với cái không của tướng thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của Phật với cái không của tướng quả vị Giác ngộ cao tột của Phật, nên quán trí Nhất thiết trí với cái không của tướng trí Nhất thiết trí.

Như vậy này Thiện Hiện, khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán tự tướng của các pháp đều không.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu quán sắc với các không của tướng sắc; quán thọ, tưởng, hành, thức với cái không của tướng thọ, tưởng, hành, thức; nói rộng cho đến quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; quán trí Nhất thiết trí với cái không của tướng trí Nhất thiết trí thì làm sao Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Nếu các Đại Bồ-tát hoàn toàn không có đối tượng để hành, đó là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, duyên gì mà Đại Bồ-tát hoàn toàn không có đối tượng để hành đó là hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Do Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thể nắm bắt được, các Đại Bồ-tát cũng chẳng thể nắm bắt được, sự hành cũng chẳng thể nắm bắt được, người hành, nhân duyên hành, thời gian hành, nơi chốn hành đều chẳng thể nắm bắt được.

Cho nên, này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hoàn toàn không đối tượng để hành, đó là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vì trong đó tất cả các hý luận đều chẳng thể nắm bắt được.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Nếu Đại Bồ-tát hoàn toàn không có đối tượng hành, đó là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì Đại Bồ-tát mới học làm sao hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Đại Bồ-tát mới học từ lúc mới phát tâm, đối với tất cả pháp luôn luôn học không có đối tượng chứng đắc. Học như vậy xong, dùng không đối tượng chứng đắc làm phương tiện tu Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến dùng không đối tượng chứng đắc làm phương tiện để tu trí Nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Vì sao có hai gọi là có đối tượng chứng đắc? Vì sao không có hai gọi là không có đối tượng chứng đắc?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Nhãn và sắc là hai, cho đến ý và pháp là hai. Nói rộng cho đến quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật và chư Phật là hai. Như vậy, tất cả hễ có hý luận đều gọi là hai, mà hễ có hai thì đều có đối tượng chứng đắc. Chẳng phải nhãn và chẳng phải sắc là không hai, cho đến chẳng phải ý và chẳng phải pháp là không hai. Nói rộng cho đến chẳng quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng phải Phật là không hai. Như vậy, tất cả lìa hý luận đều gọi là không hai, mà không hai thì đều không có đối tượng chứng đắc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, có phải do có đối tượng chứng đắc nên không có đối tượng chứng đắc, hay là do không có đối tượng chứng đắc nên không có đối tượng chứng đắc?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Chẳng phải do có đối tượng chứng đắc nên không có đối tượng chứng đắc, cũng chẳng phải do không có đối tượng chứng đắc nên không có đối tượng chứng đắc. Nhưng có đối tượng chứng đắc và không có đối tượng chứng đắc, tánh đều bình đẳng nên gọi là không có đối tượng chứng đắc.

Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát siêng năng tu học trong tánh bình đẳng của có đối tượng chứng đắc và không có đối tượng chứng đắc.

Thiện Hiện nên biết, khi các Đại Bồ-tát học như vậy thì gọi là học nghĩa không có đối tượng chứng đắc của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, xa lìa được các lỗi lầm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, khi các Đại Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa không chấp trước có đối tượng chứng đắc, không chấp trước không có đối tượng chứng đắc, thì Đại Bồ-tát ấy làm sao tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa để có thể từ địa này tiến lên địa khác, lần lượt được viên mãn và do đó chứng đắc trí Nhất thiết trí?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng trụ vào có đối tượng chứng đắc, chẳng trụ vào không có đối tượng chứng đắc để hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì có thể từ địa này tiến lên địa khác, dần dần viên mãn cho đến chứng đắc trí Nhất thiết trí. Vì sao? Vì Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa không có đối tượng chứng đắc, trí Nhất thiết trí cũng không có đối tượng chứng đắc. Người hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nơi chốn hành, thời gian hành cũng không có đối tượng chứng đắc, không có đối tượng chứng đắc này cũng không có đối tượng chứng đắc.

Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy. Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thể nắm bắt được, trí Nhất thiết trí cũng chẳng thể nắm bắt được, người hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, thời gian hành, nơi chốn hành cũng chẳng thể nắm bắt được, không thể nắm bắt được này cũng không thể nắm bắt được, thì khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các Đại Bồ-tát làm sao ưa thích lựa chọn tất cả pháp, đó là đây là sắc, đây là thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho đến đây là quả vị Giác ngộ cao tột, đây là trí Nhất thiết trí thanh tịnh?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Khi các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mặc dầu ưa thích lựa chọn các pháp nhưng không nắm bắt sắc, không nắm bắt thọ, tưởng, hành, thức cho đến không nắm bắt trí Nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, khi các Đại Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu không nắm bắt sắc, không nắm bắt thọ, tưởng, hành, thức; cho đến không nắm bắt trí Nhất thiết trí thì làm sao có thể viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa? Nếu không viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa thì làm sao có thể nhập địa vị Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát thì làm sao có thể làm nghiêm tịnh cõi Phật, đem lại sự thành tựu cho hữu tình? Nếu không thể làm nghiêm tịnh cõi Phật, đem lại sự thành tựu cho hữu tình thì làm sao đắc trí Nhất thiết trí? Nếu không đắc trí Nhất thiết trí thì làm sao có thể chuyển pháp luân vi diệu, làm các Phật sự? Nếu không chuyển pháp luân vi diệu, làm các Phật sự thì làm sao giải thoát hữu tình khỏi các khổ sinh tử để họ được Niết-bàn rốt ráo an lạc? Phật dạy Thiện Hiện:

–Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không vì sắc mà hành Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa; không vì thọ, tưởng, hành, thức mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nói rộng cho đến không vì quả vị Giác ngộ cao tột mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không vì trí Nhất thiết trí mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát vì việc gì nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật dạy Thiện Hiện:

Các Đại Bồ-tát không có làm việc gì nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn không có đối tượng tạo tác. Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa cũng không có đối tượng tạo tác. Quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không có đối tượng tạo tác. Các Đại Bồ-tát cũng không có đối tượng tạo tác. Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát lấy không đối tượng tạo tác để làm phương tiện hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp đều không có đối tượng tạo tác thì không nên thành lập sự khác nhau của thừa là Thanh văn, Độc giác và Vô thượng.

Phật dạy Thiện Hiện:

–Chẳng phải pháp không có đối tượng tạo tác có thể thành lập được mà cần pháp có đối tượng tạo tác mới có thể thành lập được. Vì sao? Vì các hữu tình phàm phu ngu si thiếu trí chấp trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức; nói rộng cho đến do trí Nhất thiết trí. Do chấp trước nên niệm sắc thì sở đắc sắc, niệm thọ, tưởng, hành, thức thì sở đắc thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến niệm trí Nhất thiết trí thì sở đắc trí Nhất thiết trí. Do niệm sở đắc cho nên suy nghĩ như vầy: “Ta nhất định sẽ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cứu các hữu tình ra khỏi khổ lớn sinh tử có thể đắc Niết-bàn an lạc rốt ráo.”

Thiện Hiện nên biết, kẻ phàm phu ngu si thiếu trí ấy do điên đảo nên suy nghĩ như vậy, đó là phỉ báng Phật. Vì sao? Vì Phật dùng năm loại mắt cầu sắc chẳng thể nắm bắt được, cầu thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được, cầu quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được, cầu các hữu tình cũng chẳng thể nắm bắt được. Các phàm phu ngu si ấy mù mịt không có mắt tuệ nên chấp trước vào các pháp. Nếu họ sẽ chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột cứu thoát hữu tình ra khỏi khổ lớn sinh tử, được Niết-bàn thường lạc rốt ráo, thì chắc chắn không có điều đó.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều lấy năm loại mắt cầu sắc chẳng thể nắm bắt được, cầu thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nắm bắt được, cho đến cầu quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không thể nắm bắt được, cầu các hữu tình cũng chẳng thể nắm bắt được, thì đáng lẽ không chứng quả vị Giác ngộ cao tột, cứu thoát hữu tình ra khỏi khổ lớn sinh tử có thể đắc Niết-bàn thường lạc rốt ráo. Nếu vậy thì làm sao Thế Tôn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, an lập hữu tình với ba nhóm khác nhau, đó là nhóm Chánh tánh định, nhóm Tà tánh định và nhóm Bất định.

Phật dạy Thiện Hiện:

Ta dùng năm loại mắt quán sát như thật, chắc chắn là ta thật không chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, an lập hữu tình với ba nhóm khác nhau. Nhưng các hữu tình vì ngu si điên đảo nên đối với pháp chẳng thật mà tưởng pháp thật, đối với hữu tình không thật mà tưởng có tình thật. Ta vì diệt trừ những kiến chấp hư vọng đó; nên nương vào thế tục mà nói chứ không y cứ vào thắng nghĩa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Như Lai chẳng lẽ không an trụ vào thắng nghĩa để chứng đại Bồ-đề?

–Không, Thiện Hiện!

–Bạch Thế Tôn, Như Lai chẳng lẽ không an trụ vào vọng tưởng điên đảo để chứng đại Bồ-đề?

–Không, Thiện Hiện!

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu Như Lai không an trụ vào thắng nghĩa chứng đại Bồ-đề, cũng không an trụ vào vọng tưởng điên đảo chứng đại Bồ-đề, thì chẳng lẽ Như Lai không chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

–Không! Mặc dầu Ta chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột nhưng không có đối tượng an trụ. Nghĩa là không trụ cảnh giới hữu vi, cũng không trụ cảnh giới vô vi.

Thiện Hiện nên biết, ví như những người do Phật biến hóa, tuy không trụ cảnh giới hữu vi, cũng không trụ cảnh giới vô vi, nhưng có những việc lui, tới, ngồi, nằm... Những người như Phật biến hóa ra như thế hoặc hành Bố thí cho đến Bát-nhã ba-lamật-đa; hoặc trụ pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc trụ chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; hoặc trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; hoặc tu bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; hoặc tu bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; hoặc tu pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; hoặc tu tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ; hoặc bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân; hoặc tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc tu mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc tu đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; hoặc tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc tu trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; hoặc tu hạnh của Đại Bồ-tát, hoặc chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân vi diệu, làm các Phật sự. Người được ba nhóm khác nhau. Ý ông nghĩ sao? Người do chư Phật biến hóa đó thật có những việc lui, tới, ngồi, nằm, cho đến thật có an lập hữu tình thành ba nhóm khác nhau chăng?

Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, không!

Phật dạy Thiện Hiện:

Đúng vậy, đúng vậy! Chư Phật Thế Tôn biết tất cả pháp đều giống như biến hóa, nói tất cả pháp cũng như biến hóa, mặc dầu có đối tượng tạo tác nhưng không chân thật, tuy độ hữu tình nhưng không có người được độ. Giống như người được biến hóa lại hóa độ cho hữu tình khác.

Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phải giống như người do Phật biến hóa. Mặc dầu có hành động nhưng không chấp trước.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp đều như sự biến hóa thì chư Phật cũng vậy. Như vậy, thì chư Phật và người được biến hóa có gì khác nhau?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Phật và người được biến hóa cùng tất cả pháp thật sự không khác nhau. Vì sao? Vì tất cả sự nghiệp chư Phật đã làm thì người do Phật biến hóa cũng đều có thể làm. Sự nghiệp người do Phật biến hóa đã làm thì chư Phật Thế Tôn cũng đều có thể. Cho nên chư Phật và người được biến hóa cùng tất cả pháp thật sự không khác nhau. Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu không có người do chư Phật biến hóa thì riêng Phật có thể làm ra sự nghiệp, còn nếu không có chư Phật thì người được hóa kia có thể riêng mình làm các việc được chăng?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Họ cũng có thể làm được.

Thiện Hiện lại hỏi:

–Bạch Thế Tôn, việc ấy như thế nào?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Như có Như Lai hiệu là Thiện Tịch Tuệ, đã độ xong những người đáng độ; khi ấy không có Bồ-tát nào được Phật thọ ký, Ngài liền hóa một vị Phật để trụ thế gian, khi Ngài tự nhập vào cảnh giới Đại Niết-bàn tuyệt đối thì vị Phật đó làm các Phật sự trong nửa kiếp. Quá hơn nửa kiếp, vị hóa Phật đó thọ ký đại Bồ-đề cho một Bồ-tát rồi hiện nhập Niết-bàn, khi đó các chúng Trời, Người, A-tốlạc… đều nói là Phật ấy nay nhập Niết-bàn, nhưng thân của hóa Phật ấy thật không sinh diệt.

Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên tin các pháp đều như biến hóa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu thân chư Phật không khác với sự biến hóa thì làm sao có thể làm ruộng phước chân tịnh? Nếu các hữu tình vì giải thoát mà đối với chư Phật cung kính cúng dường cho đến khi Niết-bàn thì phước ấy vô tận. Đối với hóa Phật mà cung kính cúng dường thì phước đó cũng phải cứu cánh vô tận.

Phật dạy Thiện Hiện:

–Thân chư Phật là do pháp tánh, có thể làm ruộng phước chân tịnh cho thí chủ. Hóa thân của Phật cũng như vậy, đều khiến cho thí chủ cung kính cúng dường đến khi chấm dứt sinh tử, phước ấy vô tận.

Thiện Hiện nên biết, hãy gác lại lượng phước đức có được do cung kính cúng dường chư Phật và hóa thân Phật qua một bên, nếu thiện nam, thiện nữ đối với chư Phật có lòng Từ, cung kính suy nghĩ, nhớ đến công đức chân tịnh của Ngài thì thiện nam, thiện nữ ấy đến khi chấm dứt sinh tử, căn lành cũng vô tận.

Thiện Hiện nên biết, lại gác lượng phước đức có được do lòng Từ cung kính suy nghĩ nhớ các công đức chân tịnh ấy qua một bên, nếu thiện nam, thiện nữ vì cúng dường Phật, thậm chí một cánh hoa tung trong hư không, thì thiện nam, thiện nữ ấy đến tận lúc chấm dứt sinh tử, được căn lành vô lượng.

Thiện Hiện nên biết, lại gác lượng phước đức có được do lòng Từ cung kính suy nghĩ nhớ các công đức chân tịnh ấy qua một bên, nếu thiện nam, thiện nữ vì cúng dường Phật, thậm chí một cánh hoa tung trong hư không qua một bên, nếu thiện nam, thiện nữ thậm chí xưng “Nam-mô Phật-đà đại Từ bi” thì thiện nam, thiện nữ ấy đến lúc chấm dứt sinh tử, căn lành cũng vô tận, luôn được hưởng thọ phước lạc trong cõi trời, người cho đến cuối cùng đắc Bát-niết-bàn.

Như vậy này Thiện Hiện, cung kính cúng dường chư Phật và hóa thân Phật đạt được những lợi ích rộng lớn như vậy. Cho nên, Thiện Hiện nên biết, chư Phật và hóa thân Phật đều là thí chủ, là ruộng phước chân tịnh không khác nhau, vì lấy pháp tánh của các pháp làm định lượng.

Lại nữa này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát lấy pháp tánh của các pháp ấy để làm định lượng, làm phương tiện thiện xảo hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Sau khi nhập vào pháp tánh các pháp rồi nhưng đối với các pháp không làm hư hoại pháp tánh. Nghĩa là không phân biệt đây là Bát-nhã cho đến Bố thí ba-la-mật-đa, đây là pháp tánh của Bátnhã cho đến Bố thí ba-la-mật-đa. Nói rộng cho đến đây là trí Nhất thiết trí, đây là pháp tánh của trí Nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết, khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nên phân biệt pháp tánh của các pháp có khác nhau mà làm hư hoại pháp tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu các Đại Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa không nên phân biệt pháp tánh của các pháp, nếu làm vậy sẽ hư hoại pháp tánh thì tại sao Thế Tôn tự nói pháp tánh của các pháp khác nhau để làm hư hoại pháp tánh? Nghĩa là Phật thường nói, đây là sắc cho đến thức; đây là nhãn xứ cho đến ý xứ; đây là sắc xứ cho đến pháp xứ; đây là nhãn giới cho đến ý thức giới; đây là sáu xúc; đây là sáu thọ; đây là sáu giới; đây là bốn duyên; đây là vô minh cho đến lão tử; đây là pháp bên trong; đây là pháp bên ngoài; đây là pháp lành; đây là pháp ác; đây là pháp hữu lậu; đây là pháp vô lậu; đây là pháp thế gian; đây là pháp xuất thế gian; đây là pháp cộng; đây là pháp bất cộng; đây là pháp hữu vi; đây là pháp vô vi… Phật đã thường nói những pháp khác nhau như vậy chẳng lẽ Thế Tôn tự hoại tánh của pháp?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Ta không tự hoại pháp tánh của pháp, chỉ dùng danh tướng làm phương tiện giả nói để các hữu tình ngộ nhập pháp tánh bình đẳng, thoát khỏi sinh tử, chứng đắc Niết-bàn.

Cho nên này Thiện Hiện, mặc dầu Như Lai nói các pháp khác nhau nhưng không gọi là làm hư hoại pháp tánh của các pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu Phật chỉ dùng danh tướng để giả nói pháp tánh của các pháp, khiến các hữu tình ngộ nhập vào pháp tánh bình đẳng thì tại sao đối với không danh tướng Phật dùng danh tướng để nói mà bảo là không hư hoại?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Ta theo thế tục, đối với các pháp giả lập danh tướng, vì các hữu tình mà dùng phương tiện để giảng nói, vì không chấp trước nên không hư hoại. Thiện Hiện nên biết, giống như những kẻ ngu si nghe nói các khổ liền chấp trước danh tướng mà không hiểu rõ đó là giả nói, chẳng phải chư Như Lai và đệ tử Như Lai nghe nói các khổ rồi chấp trước danh tướng, mà biết như thật, chỉ theo thế tục mà nói, chứ không có danh tướng của các pháp chân thật.

Thiện Hiện nên biết, nếu các bậc Thánh đối với danh mà chấp trước danh, đối với tướng mà chấp trước tướng, thì đối với không cũng chấp trước không, đối với vô tướng chấp trước vô tướng, đối với vô nguyện chấp trước vô nguyện, đối với chân như chấp trước chân như, đối với thật tế chấp trước thật tế, đối với pháp giới chấp trước pháp giới, đối với vô vi chấp trước vô vi.

Thiện Hiện nên biết, tất cả pháp ấy chỉ có giả danh, chỉ có giả tướng, không chân thật, trong đó bậc Thánh cũng không chấp trước, chỉ mượn danh tướng.

Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát trụ vào tất cả pháp nhưng chỉ mượn danh tướng, hành Bátnhã ba-la-mật-đa nhưng trong đó không chấp trước.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Nếu các pháp chỉ có danh tướng thì các Đại Bồ-tát tại sao phát tâm Bồ-đề, chịu các khổ cực để hành hạnh Bồ-tát? Nghĩa là tự mình chịu khổ cực để tu hành Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến chịu khổ cực tu hành trí Nhất thiết trí đều được viên mãn?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Tất cả pháp chỉ có danh và tướng. Danh tướng ấy chỉ là giả lập, tánh của danh tướng là không. Các loài hữu tình vì điên đảo chấp trước nên bị luân hồi sinh tử chịu các khổ não, không thể giải thoát. Cho nên Bồ-tát vì làm lợi ích cho họ mà phát tâm Bồđề chịu các khổ cực, hành hạnh Bồ-tát, dần dần chứng đắc trí Nhất thiết trí, chuyển pháp luân vi diệu, lấy pháp ba thừa làm phương tiện để cứu giúp họ ra khỏi sinh tử, an trụ cảnh giới Niết-bàn, nhưng các danh tướng không sinh, không diệt, cũng không trụ không khác, có thể giả lập.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Phật nói trí Nhất thiết trí là trí Nhất thiết trí chăng?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Ta nói trí Nhất thiết trí là trí Nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thường nói trí Nhất thiết trí tóm lược có ba, đó là trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Ba lại trí này, tướng của nó có gì khác nhau?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Trí Nhất thiết là trí đồng với trí Thanh văn và Độc giác. Trí Đạo tướng là trí đồng với trí Đại Bồtát. Trí Nhất thiết tướng là diệu trí riêng của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, vì sao trí Nhất thiết là trí đồng với trí Thanh văn và Độc giác?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Trí Nhất thiết là pháp môn sai biệt của pháp bên trong, bên ngoài… Thanh văn, Độc giác cũng có thể biết rõ pháp môn sai biệt của pháp bên trong, bên ngoài này… nhưng không thể biết tướng của trí Nhất thiết và tất cả loại tướng của tất cả pháp. Trí Nhất thiết là trí đồng với trí Thanh văn và Độc giác.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, vì sao trí Đạo tướng là trí đồng với trí Đại Bồ-tát?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Các Đại Bồ-tát nên học biết hết tất cả tướng đạo lộ, đó là tướng đạo Thanh văn, tướng đạo Độc giác, tướng đạo Bồ-tát, tướng đạo Như Lai. Đối với các đạo lộ này, các Đại Bồ-tát luôn nên tu học, làm cho viên mãn. Mặc dầu làm cho các đạo lộ này cần làm việc phải làm nhưng không thể làm cho họ chứng thật tế, vì trí Đạo tướng là trí đồng với trí Đại Bồ-tát.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát tu đạo của Như Lai, sau khi được viên mãn lẽ nào không chứng thật tế?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Các Đại Bồ-tát đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, nếu tu các đại nguyện chưa viên mãn thì vẫn chưa chứng thật tế.

Nếu đã viên mãn thì mới có thể chứng thật tế.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát có phải trụ vào đạo mà chứng thật tế chăng?

Phật dạy:

–Không!

Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát có phải trụ vào nơi chẳng phải đạo mà chứng thật tế chăng?

Phật dạy:

–Không!

Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát có phải trụ vào đạo và chẳng phải đạo mà chứng thật tế chăng?

Phật dạy:

–Không!

Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát có phải trụ vào nơi chẳng phải đạo và chẳng phải chẳng phải đạo mà chứng thật tế chăng?

Phật dạy:

–Không!

Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, nếu như vậy thì các Đại Bồ-tát trụ vào đâu để chứng thật tế?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Ý ông nghĩ sao? Có phải ông trụ vào đạo mà được hết các lậu, tâm giải thoát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Này Thiện Hiện, có phải ông trụ vào nơi chẳng phải đạo mà được hết các lậu tâm giải thoát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Này Thiện Hiện, có phải ông trụ vào đạo, chẳng phải đạo mà được hết các lậu, tâm giải thoát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Này Thiện Hiện, có phải ông trụ vào phi đạo, chẳng phải chẳng phải đạo mà được hết các lậu, tâm giải thoát chăng?

–Bạch Thế Tôn, không!

–Vậy ông trụ vào đâu mà được hết các lậu, tâm hoàn toàn giải thoát?

Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, con chẳng trụ vào đâu để được hết các lậu, tâm hoàn toàn giải thoát, nhưng con được hết các lậu, tâm được hoàn toàn giải thoát, là hoàn toàn không trụ vào đâu.

Phật dạy Thiện Hiện:

–Các Đại Bồ-tát cũng vậy, hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa hoàn toàn không trụ vào đâu mà chứng thật tế.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, vì sao trí Nhất thiết tướng là trí Nhất thiết tướng?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Biết tất cả pháp đồng một tướng, đó là tướng tịch diệt, cho nên gọi là trí Nhất thiết tướng.

Lại nữa này Thiện Hiện, các tướng trạng của hành có thể biểu hiện các pháp. Như Lai như thật biết rõ tất cả cho nên gọi là trí Nhất thiết tướng.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, hoặc trí Nhất thiết hoặc trí Đạo tướng, hoặc trí Nhất thiết tướng, ba trí này khi đoạn phiền não có khác nhau chăng? Có hữu dư đoạn, vô dư đoạn chăng?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Chẳng có sai khác khi đoạn phiền não, nhưng đối với tất cả tập khí tương tục của phiền não thì Như Lai đã đoạn hẳn, còn Thanh văn, Độc giác thì chưa đoạn hẳn tập khí tương tục.

Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, các phiền não đã đoạn, đắc vô vi chăng?

Phật dạy:

–Có.

Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, Thanh văn, Độc giác không đắc vô vi, phiền não có đoạn chăng?

Phật dạy:

–Không.

Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, trong pháp vô vi có sự sai khác chăng?

Phật dạy:

–Không.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Nếu pháp vô vi không có sự sai khác thì vì sao Phật nói tất cả Như Lai đã đoạn hẳn khí tương tục còn Thanh văn, Độc giác vẫn chưa đoạn hẳn tập khí tương tục?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Tập khí tương tục thật chẳng phải phiền não, nhưng các Thanh văn, Độc giác đã đoạn phiền não, nhưng vẫn còn có một phần nhỏ tướng trạng, giống như tham, sân, si… phát ra từ thân, ngữ. Tức là nói: “Đây là tập khí tương tục, chính tương tục này làm cho phàm phu ngu si phát sinh bất lợi; còn tương tục của Thanh văn, Độc giác phát sinh không bất lợi.” Tất cả tập khí tương tục như thế, Như Lai đã đoạn hẳn.

Bấy giờ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, đạo và Niết-bàn đều không có tự tánh. Vậy tại sao Phật nói đây là Dự lưu cho đến Độc giác, đây là Bồ-tát, đây là Như Lai?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Các vị Dự lưu cho đến Độc giác, các Bồ-tát và chư Như Lai, tất cả đều là sự biểu hiện của vô vi.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, trong pháp vô vi, thật sự có khác nhau giữa Dự lưu cho đến Như Lai chăng?

Phật dạy:

–Không!

Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, nếu vậy thì tại sao Phật nói Dự lưu cho đến Như Lai, tất cả đều là sự biểu hiện của vô vi?

Phật dạy Thiện Hiện:

–Ta căn cứ theo thế tục mà nói, hiển bày có Dự lưu... sự hiển bày khác nhau ấy đều không căn cứ theo thắng nghĩa, vì chẳng phải trong thắng nghĩa có thể hiển bày. Vì sao? Vì chẳng phải trong thắng nghĩa có sự biểu hiện của ngôn ngữ hay trí tuệ phân biệt, hoặc gồm cả hai loại. Nhưng vì do các ngôn thuyết thế tục kia làm đoạn các pháp nên giả lập các loại ngôn thuyết thế tục cho các pháp đời sau.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, nếu tự tướng của tất cả pháp đều không, thì đời trước còn không có huống là có đời sau? Vậy tại sao giả lập có đời sau?

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Tự tướng của tất cả pháp sở hữu đều không, đời trước còn không có huống là đời sau! Nếu đời sau thật có thì điều đó chắc chắn không xảy ra. Nhưng các hữu tình không hiểu rõ tự tướng của tất cả pháp đều không; vì làm lợi ích cho họ nên dùng phương tiện giả nói đây là đời trước, đây là đời sau. Nhưng trong cái không của tự tướng các pháp thì đời trước, đời sau đều chẳng thể nắm bắt được.

Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát đã thông đạt tự tướng của tất cả pháp là không rồi tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát thông đạt tự tướng của các pháp đều không rồi mà hành Bátnhã ba-la-mật-đa thì không chấp trước vào các pháp đó, nghĩa là không chấp trước bên trong, hay bên ngoài, thiện hay bất thiện, thế gian hay xuất thế gian, hữu lậu hay vô tận, hữu vi hay vô vi, pháp Thanh văn hay pháp Độc giác, pháp Bồ-tát hay pháp chư Phật, chỉ căn cứ vào thế tục mà giả lập là có; chứ không căn cứ vào thắng nghĩa nên không chấp trước.

QUYỂN 526

Phẩm 26: Phương tiện thiện xảo(4)

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Ngài thường nói Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này nương vào nghĩa nào mà được gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, do Bát-nhã ba-la-mật-đa này đạt đến bờ giác, là cứu cánh của tất cả các pháp, nương vào nghĩa này nên gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.

Lại nữa này Thiện Hiện, do Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai đều nương vào Bát-nhã bala-mật-đa này để đạt đến bờ giác, nương nghĩa này nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa này Thiện Hiện, do Bát-nhã ba-la-mậtđa này nương theo nghĩa lý thù thắng, phân tích các pháp cho đến không có một phần nhỏ nào có thể nắm bắt được, nương vào nghĩa này, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa này Thiện Hiện, do Bát-nhã ba-la-mậtđa này bao trùm chân như, pháp giới, pháp tánh, nói rộng cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, nương nghĩa này nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lại nữa này Thiện Hiện, do Bát-nhã ba-la-mậtđa này không có pháp nhỏ nào mà nó tương ưng hoặc chẳng tương ưng, có sắc hoặc không sắc, có thấy hoặc không thấy, có đối hoặc không đối, nương nghĩa này nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, một tướng gọi là không tướng.

Lại nữa này Thiện Hiện, do Bát-nhã ba-la-mậtđa này có khả năng sinh tất cả pháp lành thù thắng, sinh tất cả trí tuệ biện tài, làm phát sinh các cái vui thế gian và xuất thế gian, chiếu soi tất cả nghĩa lý sâu xa, nương nghĩa này nên gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.

Lại nữa này Thiện Hiện, do Bát-nhã ba-la-mậtđa này nghĩa lý chắc thật không động, không hoại, nương nghĩa này nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì tất cả ác ma và quyến thuộc của ma, hàng Thanh văn, Độc giác, Phạm chí ngoại đạo, bạn ác, oán thù đều không thể phá hoại được. Vì sao? Vì trong kinh Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa này nói, tất cả pháp tự tướng là không, nên các ác ma không thể làm gì được.

Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát nên theo nghĩa chân thật này mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tức là tự tướng của tất cả pháp đều không, thì tất cả ác duyên không thể làm cho lay động, hư hoại.

Lại nữa này Thiện Hiện, muốn hành nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa này thì các Đại Bồ-tát nên dùng vô sở đắc làm phương tiện để thực hành các nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã, cũng hành các nghĩa Khổ trí, Tập trí, Diệt trí, Đạo trí, Pháp trí, Loại trí, Thế tục trí, Tha tâm trí, Tận trí, Vô sinh trí, như thuyết trí.

Như vậy này Thiện Hiện, vì hành nghĩa lý Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa nên các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, nghĩa và chẳng phải nghĩa đều chẳng thể nắm bắt được, Đại Bồ-tát hành nghĩa lý sâu xa của Bátnhã ba-la-mật-đa nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào? Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, hành nghĩa lý sâu xa của Bátnhã ba-la-mật-đa các Đại Bồ-tát phải suy nghĩ: “Ta chẳng nên hành tham dục phi nghĩa, chẳng nên hành sân nhuế phi nghĩa, chẳng nên hành ngu si phi nghĩa, chẳng nên hành kiêu mạn phi nghĩa, chẳng nên hành tà kiến phi nghĩa, cho đến chẳng nên hành tất cả kiến thú phi nghĩa. Cũng chẳng nên hành tham dục, sân nhuế, ngu si, kiêu mạn, tà kiến, kiến thú và các pháp phi nghĩa khác.” Vì sao? Vì chân như, thật tế của tham, sân, si... không cùng các pháp là nghĩa hay chẳng phải nghĩa. Lại nữa này Thiện Hiện, hành nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa, các Đại Bồ-tát suy nghĩ: “Ta chẳng nên hành nghĩa, chẳng phải nghĩa của sắc; chẳng nên hành nghĩa hoặc chẳng phải nghĩa của thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến chẳng nên hành nghĩa, chẳng phải nghĩa của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; chẳng nên hành nghĩa, chẳng phải nghĩa của trí Nhất thiết.” Vì sao? Vì khi ta đạt quả vị Giác ngộ cao tột, tìm nghĩa và chẳng phải nghĩa của tất cả pháp đều chẳng thể nắm bắt được. Thiện Hiện nên biết, chư Phật ra đời hoặc không ra đời thì các pháp, pháp giới, pháp trụ, pháp định, pháp nhĩ vẫn thường trụ, không có pháp đối với pháp nào là nghĩa hay chẳng phải nghĩa.

Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nên lìa sự chấp trước nghĩa, chẳng phải nghĩa để hành nghĩa lý Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, vì sao Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này không cùng với các pháp là nghĩa hay chẳng phải nghĩa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này đối với các pháp hữu vi, vô vi đều không có đối tượng tạo tác, chẳng ân, chẳng oán, không ích, không tổn. Vì lý do này nên không cùng các pháp là nghĩa hay chẳng phải nghĩa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, có phải chư Phật, hàng đệ tử và tất cả Hiền thánh đều lấy vô vi làm nơi chân thật để hướng đến chăng?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Tất cả Hiền thánh đều lấy vô vi làm mục đích hướng đến, nhưng pháp vô vi không làm lợi ích hay tổn hại các pháp khác. Ví như hư không, chân như, thật tế không làm lợi ích hay tổn hại các pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của các Đại Bồ-tát cũng lại như thế, không làm lợi ích, hay tổn hại các pháp, cho nên Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng cùng các pháp là nghĩa hoặc chẳng phải nghĩa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, có phải các Đại Bồ-tát cần phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa vô vi mới có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí chăng?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Các Đại Bồ-tát cần học phải Bátnhã ba-la-mật-đa vô vi sâu xa mới có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí, dùng pháp không hai làm phương tiện.

Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, có phải dùng pháp không hai để đắc pháp không hai chăng?

Phật dạy:

–Không phải.

Thiện Hiện thưa:

–Vậy thì dùng pháp hai để đắc pháp không hai chăng?

Phật dạy:

–Không phải.

Thiện Hiện thưa:

–Nếu không có hai pháp, không dùng pháp hai và đắc pháp không hai để đắc, thì các Đại Bồ-tát làm sao đạt được trí Nhất thiết trí?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, pháp hai không hai đều chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy, đối tượng để chứng đắc trí Nhất thiết trí chẳng dùng pháp hai, pháp không hai để đắc, nhưng pháp không đối tượng chứng đắc có khả năng đạt pháp không đối tượng chứng đắc. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và trí Nhất thiết trí đều chẳng thể nắm bắt được, nên không đắc mà đắc mới gọi là thật đắc.

Khi ấy Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa này vô cùng sâu xa, các Đại Bồ-tát có thể làm việc khó làm: vô sở đắc hữu tình, cũng vô sở đắc sự hoạt động của hữu tình nhưng vì hữu tình mà cầu đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột. Ví như có người trồng cây giữa hư không là việc rất khó. Các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, vô sở đắc hữu tình và vô sở đắc sự hoạt động của chúng, chỉ vì hữu tình mà cầu đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột là việc rất khó.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Bát-nhã ba-la-mật-đa này vô cùng sâu xa, các Đại Bồ-tát có thể làm việc khó làm, vô sở đắc hữu tình và vô sở đắc sự hoạt động của hữu tình, nhưng vì hữu tình mà cầu đạt quả vị Giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát mặc dù không thấy thật có hữu tình và sự hoạt động của chúng, nhưng các hữu tình ngu si điên đảo chấp là thật có nên trầm luân sinh tử, chịu khổ vô cùng. Vì cứu độ chúng nên Bồ-tát cầu đến quả vị Giác ngộ cao tột. Được Bồ-đề rồi, dùng phương tiện thiện xảo để độ thoát chúng. Ví như có người trồng cây chỗ đất tốt, mặc dù người ấy không biết gốc, thân, nhánh, lá, hoa, quả của cây này ai sẽ hưởng nhưng khi trồng rồi, tùy thời tiết, người ấy siêng năng tưới bón, chăm sóc, giữ gìn. Về sau cây này dần dần lớn lên, gốc, thân, nhánh, lá, hoa, quả sum suê, được nhiều người dùng đến, chữa lành bệnh, được an vui. Các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, mặc dù chẳng thấy có Phật quả, có hữu tình, nhưng vì hữu tình nên cầu đến quả vị Giác ngộ cao tột, tuần tự tu hành sáu pháp đạt đến bờ giác và vô lượng pháp phần Bồ-đề khác khi đã viên mãn rồi, mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, khiến hữu tình thọ dụng nhánh, lá, hoa, quả ở cây Phật, đều được lợi ích.

Thiện Hiện nên biết, sự ích lợi của nhánh lá có nghĩa là các hữu tình nương cây Phật này để được thoát khổ của cảnh giới ác.

Sự lợi ích của hoa, nghĩa là các hữu tình nương cây Phật này, được sinh vào dòng dõi lớn Sát-đếlợi, cho đến sinh vào dòng dõi lớn Cư sĩ, hoặc sinh vào cõi trời Tứ Thiên vương, cho đến sinh vào cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Sự lợi ích của quả, nghĩa là các hữu tình nương cây Phật này, chứng đắc quả Dự lưu cho đến quả Độc giác Bồ-đề, hoặc quả vị Giác ngộ cao tột.

Các hữu tình này đắc Bồ-đề rồi, lại dùng nhánh, lá, hoa, quả, của cây Phật làm lợi ích cho loài hữu tình khác, khiến họ cũng được thoát khổ của cảnh ác, được vui nơi cõi trời, người, tuần tự an lập nhập vào cảnh giới Niết-bàn của Ba thừa.

Thiện Hiện nên biết, mặc dù các Đại Bồ-tát làm việc lợi ích lớn như thế, nhưng không thấy thật có hữu tình đắc Niết-bàn, chỉ thấy vọng tưởng tịch diệt.

Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vô sở đắc hữu tình và sự hoạt động của chúng, nhưng để trừ vọng tưởng điên đảo của họ, mà cầu đến quả vị Giác ngộ cao tột. Do nhân duyên này nên nói là việc vô cùng khó khăn.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát phải biết như Phật. Vì sao? Vì chúng sinh nương vào các Đại Bồtát này mới có thể đoạn trừ các nỗi khổ trong địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, cũng có thể đoạn trừ nỗi khổ không an ổn, bần cùng và hèn kém trong ba cõi.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Các Đại Bồ-tát phải biết như Phật. Nếu thế gian này không có chúng Bồ-tát phát tâm đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột thì không có ba đời mười phương chư Phật, cũng không có Độc giác và các Thanh văn, không thể đoạn trừ các nỗi khổ trong địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, cũng không thể đoạn trừ nỗi khổ không an ổn, bần cùng và hèn kém trong ba cõi.

Vì vậy này Thiện Hiện, như ông đã nói các Đại Bồ-tát phải biết như Phật.

Lại nữa này Thiện Hiện, ông nên biết các Đại Bồ-tát tức là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì nếu do chân như này mà giả lập Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thì cũng do chân như này mà giả lập Độc giác. Nếu do chân như này mà giả lập Độc giác thì cũng do chân như này mà giả lập Thanh văn. Nếu do chân như này mà giả lập Thanh văn thì cũng do chân như này mà giả lập tất cả Hiền thánh. Nếu do chân như này mà giả lập tất cả Hiền thánh thì cũng do chân như này mà giả lập sắc uẩn. Nếu do chân như này mà giả lập uẩn sắc thì cũng do chân như này mà giả lập các uẩn thọ, tưởng, hành, thức. Nếu do chân như này mà giả lập các uẩn thọ, tưởng, hành, thức uẩn thì cũng do chân như này mà giả lập nhãn xứ. Nếu do chân như này mà giả lập nhãn xứ, thì cũng do chân như này mà giả lập các nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ . Cứ khai triển như vậy, cho đến tất cả nếu do chân như này mà giả lập quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật thì cũng do chân như này mà giả lập trí Nhất thiết trí. Nếu do chân như này mà giả lập trí Nhất thiết trí thì cũng do chân như này mà giả lập cảnh giới hữu vi. Nếu do chân như này mà giả lập cảnh giới hữu vi thì cũng do chân như này mà giả lập cảnh giới vô vi. Nếu do chân như này mà giả lập cảnh giới vô vi thì cũng do chân như này mà giả lập tất cả pháp. Nếu do chân như này mà giả lập tất cả pháp thì cũng do chân như này mà giả lập tất cả hữu tình. Nếu do chân như này mà giả lập tất cả hữu tình, thì cũng do chân như này mà giả lập tất cả Đại Bồ-tát.

Như vậy này Thiện Hiện, nếu là chân như của Như Lai, chân như của Độc giác, chân như của Thanh văn, chân như của tất cả Hiền thánh, chân như của tất cả các sắc, chân như của các pháp, chân như của hữu tình, chân như của tất cả Đại Bồ-tát thì chân như ấy như thật, đều không sai khác, do không khác nên gọi là chân như.

Đối với chân như này, các Đại Bồ-tát tu học viên mãn, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Vì vậy này Thiện Hiện, ông phải biết chúng Đại Bồ-tát tức là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, vì tất cả pháp, tất cả hữu tình đều lấy chân như làm định lượng vậy.

Vì vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát cần nên học chân như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này. Nếu học chân như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì có thể học chân như tất cả pháp. Nếu có thể học chân như tất cả pháp thì có thể viên mãn chân như của tất cả pháp. Nếu có thể viên mãn chân như của tất cả pháp thì đối chân như của tất cả pháp được tự tại. Nếu đối chân như của tất cả pháp được tự tại, thì có thể khéo biết căn tánh hơn kém của tất cả hữu tình. Nếu có thể khéo biết căn tánh hơn kém của tất cả hữu tình, thì có thể xét biết rõ một cách đúng đắn sự sai khác của hữu tình. Nếu có thể xét biết rõ đúng đắn sự sai khác của hữu tình thì biết rõ sự tạo nghiệp và thọ quả báo của hữu tình. Nếu biết tất cả sự tạo nghiệp và thọ quả báo của hữu tình thì nguyện và trí viên mãn. Nếu nguyện và trí viên mãn thì có thể tịnh tu diệu trí trong ba đời. Nếu có thể tịnh tu diệu trí trong ba đời thì có thể viên mãn trí Nhất thiết trí. Nếu có thể viên mãn trí Nhất thiết trí thì có thể hành hạnh Bồ-tát không điên đảo. Nếu có thể hành hạnh Bồ-tát không điên đảo, thì có thể đem lại sự thành tựu cho hữu tình. Nếu có thể đem lại sự thành tựu cho hữu tình thì có thể làm nghiêm tịnh cõi Phật. Nếu có thể làm nghiêm tịnh cõi Phật, thì có thể chứng đắc được sự mong cầu là quả vị Giác ngộ cao tột. Nếu có thể chứng đắc được sự mong cầu là quả vị Giác ngộ cao tột thì có thể chuyển bánh xe diệu pháp như thật. Nếu có thể chuyển bánh xe diệu pháp như thật thì có thể tùy thuận an lập chúng sinh vào đạo Ba thừa. Nếu có thể tùy thuận an lập chúng sinh vào đạo Ba thừa thì mới có thể dẫn dắt chúng sinh vào cõi Vô dư y Bát-niết-bàn.

Như vậy này Thiện Hiện, vì thấy tất cả công đức tự lợi, lợi tha như thế, nên các Đại Bồ-tát mới phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, nỗ lực dũng mãnh hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa một cách kiên cố không thoái chuyển.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát nào mà muốn làm lợi ích cho các hữu tình, có thể phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, tu hành đúng như pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, thì Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian đều cung kính cúng dường.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu các Đại Bồ-tát vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình có thể phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột như thuyết tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa này, thì Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian đều cung kính cúng dường.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu các Đại Bồ-tát khắp vì tất cả hữu tình làm những việc lợi ích, có thể phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột thì được bao nhiêu phước?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát này được phước vô lượng, không thể tính đếm hay thí dụ được.

Thiện Hiện nên biết, giả sử tất cả hữu tình ở thế giới của chư Phật đầy khắp trong thế giới ba lần ngàn, đều hướng đến vị Thanh văn, Độc giác, ý ông nghĩ sao? Phước đức các hữu tình này có nhiều chăng?

Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Phước đức mà họ đạt được vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, phước đức của họ đạt được so với phước đức của một vị Bồ-tát đạt được do phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình, theo lời ông hỏi, thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn, cho đến cũng không bằng một phần trăm ngàn, ức, triệu. Vì sao? Vì hàng Thanh văn, Duyên giác đều nương vào các Đại Bồ-tát mà có, chẳng phải Đại Bồ-tát nương Thanh văn, Duyên giác mà có.

Lại nữa này Thiện Hiện, hãy tạm gác lại lượng phước đức đạt được của tất cả hữu tình trong thế giới ba lần ngàn do hướng đến bậc Thanh văn, Duyên giác, giả như tất cả hữu tình đầy trong thế giới ba lần ngàn đều trụ bậc Tịnh quán, ý ông nghĩ sao? Các hữu tình này phước đức có nhiều chăng? Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Phước đức mà họ đạt được vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, phước đức của họ đạt được so với phước đức của một vị Bồ-tát đạt được do phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình, theo lời ông hỏi, thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn, cho đến cũng không bằng một phần trăm ngàn, ức, triệu. Vì sao? Vì hàng Thanh văn, Độc giác đều nương vào các Đại Bồ-tát mà có, chẳng phải Đại Bồ-tát nương Thanh văn, Độc giác mà có.

Lại nữa này Thiện Hiện, hãy tạm gác lại lượng phước đức của tất cả hữu tình trong thế giới ba lần ngàn đều trụ bậc Tịnh quán, giả như tất cả hữu tình đầy trong thế giới ba lần ngàn, đều trụ bậc Chủng tánh hoặc bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc giác, theo ý ông nghĩ sao? Các hữu tình này phước đức có nhiều chăng? Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Phước đức mà họ đạt được vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, phước đức của họ đạt được so với phước đức của một vị Bồ-tát đạt được do phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình, theo lời ông hỏi, thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn, cho đến cũng không bằng một phần trăm ngàn, ức, triệu. Vì sao? Vì hàng Thanh văn, Độc giác đều nương vào các Đại Bồ-tát mà có. Chẳng phải Đại Bồ-tát nương Thanh văn, Độc giác mà có.

Lại nữa này Thiện Hiện, giả sử tất cả hữu tình đầy khắp trong thế giới ba lần ngàn cõi Phật, đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình, phước đức của chúng Đại Bồ-tát này đạt được so với phước đức của một vị Đại Bồ-tát nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn, cho đến cũng không bằng một phần trăm ngàn, ức, triệu.

Lại nữa này Thiện Hiện, giả sử tất cả hữu tình đầy khắp trong thế giới ba lần ngàn cõi Phật đều nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát thì phước đức của chúng Đại Bồ-tát này đạt được so với phước đức của một Đại Bồ-tát do hướng đến Bồ-đề thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn, cho đến cũng không bằng một phần trăm ngàn, ức, triệu.

Lại nữa này Thiện Hiện, giả sử tất cả hữu tình đầy khắp trong thế giới ba lần ngàn cõi Phật đều hướng đến Bồ-đề, phước đức của chúng Đại Bồtát này đạt được so với phước đức của một Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn, cho đến cũng không bằng một phần trăm ngàn, ức, triệu.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát mới phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột phải tư duy pháp gì?

Phật bảo:

–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát này thường chánh tư duy về trí Nhất thiết tướng.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa:

–Bạch Thế Tôn, trí Nhất thiết tướng lấy gì làm tánh? Duyên vào đâu? Tăng thượng gì? Hành tướng gì? Có tướng gì?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, trí Nhất thiết tướng lấy không tánh làm tánh, không tướng, không nhân, không chỗ cảnh giác, không sinh, không hiện.

Lại nữa, ông còn hỏi, trí Nhất thiết tướng duyên vào đâu, tăng thượng gì, hành tướng gì, có tướng gì? Thiện Hiện nên biết, trí Nhất thiết tướng lấy không tánh làm chỗ duyên, lấy chánh niệm làm tăng thượng, lấy vắng lặng làm hành tướng, lấy không tướng làm tướng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, có phải chỉ riêng trí Nhất thiết tướng lấy không tánh làm tánh, hay là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy không tánh làm tánh?

Nói rộng cho đến có phải quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng lấy không tánh làm tánh, hay là cảnh giới hữu vi và cảnh giới vô vi cũng lấy không tánh làm tánh?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, chẳng những trí Nhất thiết tướng lấy không tánh làm tánh, mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy không tánh làm tánh, cho đến cảnh giới hữu vi và cảnh giới vô vi cũng lấy không tánh làm tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, vì lý do gì mà trí Nhất thiết tướng lấy không tánh làm tánh? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy không tánh làm tánh, cho đến cảnh giới hữu vi và cảnh giới vô vi cũng lấy không tánh làm tánh?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, vì tự tánh của trí Nhất thiết tướng là không, nếu tự tánh của pháp là không, thì pháp ấy lấy không tánh làm tánh; tự tánh của sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến cảnh giới hữu vi và cảnh giới vô vi cũng là không. Nếu tự tánh của pháp là không thì pháp này lấy không tánh làm tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, vì lý do gì tự tánh của trí Nhất thiết tướng là không, tự tánh của sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi cũng không có tự tánh?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, trí Nhất thiết tướng không có tự tánh hòa hợp. Nếu pháp không có tự tánh hòa hợp, thì pháp ấy lấy không tánh làm tánh. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi cũng không có tự tánh hòa hợp. Nếu pháp không có tự tánh hòa hợp thì pháp ấy lấy không tánh làm tánh. Vì lý do này, nên các Đại Bồtát phải biết tất cả pháp đều lấy không tánh làm tự tánh.

Lại nữa này Thiện Hiện, tất cả pháp đều lấy Không, Vô tướng, Vô nguyện làm tự tánh. Vì lý do này, nên các Đại Bồ-tát phải biết tất cả pháp đều lấy không tánh làm tự tánh.

Lại nữa này Thiện Hiện, tất cả pháp đều lấy chân như làm tự tánh. Nói rộng hơn, cho đến lấy cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn làm tự tánh. Vì lý do này nên các Đại Bồ-tát biết tất cả pháp đều lấy không tánh làm tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp ấy đều không tánh thì các Đại Bồ-tát mới phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, thành tựu những phương tiện thiện xảo nào để có thể hành Bố thí cho đến Bátnhã ba-la-mật-đa đem lại sự thành tựu cho hữu tình, cho đến làm nghiêm tịnh cõi Phật? Nói rộng cho đến thành tựu những phương tiện thiện xảo nào để có thể hành trí Nhất thiết trí, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy được thành tựu phương tiện thiện xảo vi diệu, mặc dù biết tất cả pháp đều lấy không tánh làm tánh, như vẫn tinh tấn đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật. Tuy tinh tấn đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, nhưng vẫn thông suốt tất cả hữu tình, các cõi Phật và đều lấy không tánh làm tự tánh.

Thiện Hiện nên biết, Đại Bồ-tát ấy tuy hành Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, học đạo Bồ-đề nhưng vẫn biết Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mậtđa, đạo Bồ-đề này đều lấy không tánh làm tự tánh. Nói rộng, cho đến tuy hành trí Nhất thiết trí, học đạo Bồ-đề, nhưng vẫn biết trí Nhất thiết trí và đạo Bồ-đề đều lấy không tánh làm tự tánh.

Thiện Hiện nên biết, Đại Bồ-tát ấy tu sáu độ đạt đến bờ giác, học đạo Bồ-đề như thế, nói rộng, cho đến tu hành trí Nhất thiết trí, học đạo Bồ-đề như thế, nhưng nếu chưa thành tựu mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng và vô lượng, vô biên các pháp Phật khác thì đều gọi là học đạo Bồ-đề chưa viên mãn.

Nếu Đại Bồ-tát học đạo này đã được viên mãn thì đối với tất cả Ba-la-mật-đa cũng viên mãn. Vì Ba-la-mật-đa đã viên mãn nên trong một sát-na tương ưng Bát-nhã, liền có thể chứng đắc trí Nhất thiết tướng.

Bấy giờ, tất cả tập khí phiền não nhỏ nhặt vĩnh viễn không còn phát sinh, nên gọi là đoạn sạch không còn gì, được mệnh danh là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Lại dùng Phật nhãn thanh tịnh vô ngại quán các pháp trong mười phương ba đời còn chẳng đắc “không” huống gì đắc “có”.

Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên quán tất cả pháp đều lấy không tánh làm tự tánh.

Này Thiện Hiện, đây gọi là các Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo nhiệm mầu, nghĩa là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa quán tất cả pháp còn chẳng đắc “không”, huống gì đắc “có”.

Thiện Hiện nên biết, Đại Bồ-tát ấy hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, khi tu Bố thí, đối với việc bố thí, người cho, người nhận, vật được cho và tâm Bồ-đề còn chẳng thấy không, huống gì thấy có; khi tu Tịnh giới, đối với tịnh giới này, chỗ giữ tịnh giới, người trì tịnh giới, tâm giữ tịnh giới, còn chẳng thấy không, huống gì thấy có; khi tu An nhẫn, đối với pháp an nhẫn này, chỗ tu an nhẫn, người tu an nhẫn, tâm tu an nhẫn còn chẳng thấy không, huống gì thấy có; khi tu Tinh tấn, đối với sự tinh tấn này, chỗ tu tinh tấn, người hành tinh tấn, tâm tu tinh tấn còn chẳng thấy không, huống gì thấy có; khi tu Tĩnh lự, đối với tĩnh lự này, chỗ tu tĩnh lự, người hành tĩnh lự, tâm tu tĩnh lự còn chẳng thấy không, huống gì thấy có; khi tu Bát-nhã, đối với Bát-nhã này, chỗ tu Bát-nhã, người hành Bátnhã, tâm tu Bát-nhã còn chẳng thấy không, huống gì thấy có. Nói rộng cho đến khi chứng trí Nhất thiết trí, đối với trí Nhất thiết trí này, hoặc người đắc, hoặc nhân duyên đắc và nơi chốn thời gian đắc còn chẳng thấy không, huống gì thấy có. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ: “Các pháp đều lấy không tánh làm tự tánh. Không tánh như thế, bản tánh nó vốn như vậy, chẳng phải Phật, hàng Thanh văn, Độc giác làm ra; cũng không có ai làm ra, vì tất cả pháp đều không tác giả, đều lìa tác giả vậy.” Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, chẳng lẽ các pháp lìa tánh các pháp?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy!

Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp đều lìa tánh pháp thì làm sao pháp lìa đó biết được pháp lìa có hoặc chăng?

Vì sao? Vì pháp không không thể biết được pháp không, pháp có không thể biết pháp có, pháp không không thể biết pháp có, pháp có không thể biết pháp không. Như vậy, tất cả pháp đều lấy vô vi làm tánh, thì làm thế nào Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chỉ rõ các pháp có hoặc không?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, khi hành Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa, các Đại Bồ-tát tùy theo thế tục chỉ rõ các pháp có hoặc không, chứ không vin theo thắng nghĩa.

Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế tục và thắng nghĩa có khác nhau chăng?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, ngoài thế tục không có thắng nghĩa. Vì sao? Vì chân như của thế tục tức là thắng nghĩa. Do vì các loài hữu tình điên đảo vọng chấp, đối với chân như này không biết, không thấy. Các Đại Bồ-tát vì lợi ích chúng sinh, tùy theo tướng của thế tục chỉ rõ các pháp hoặc có, hoặc không, không theo thắng nghĩa.

Lại nữa này Thiện Hiện, đối với năm uẩn, các hữu tình vọng tưởng thật có, không biết chẳng phải thật có, còn các Đại Bồ-tát vì lợi ích chúng sinh nên chỉ rõ các uẩn hoặc có, hoặc không để chúng sinh nhân đây thấu suốt các uẩn, các pháp chẳng phải có, chẳng phải không và chẳng muốn họ chấp thật có vô tướng.

Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nên siêng năng tinh tấn lìa các chấp có không, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và vì các chúng sinh làm những việc lợi ích to lớn.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Như Lai thường nói các hạnh Bồ-tát, các hạnh đó là gì?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, hạnh Bồ-tát là Vô thượng Bồ-đề, nên gọi là hành, hoặc làm những việc lợi ích cho chúng sinh nên gọi là hạnh Bồ-tát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát hành hạnh Bồtát?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nên đối với không của sắc, hành hạnh Bồ-tát, đối với không của thọ, tưởng, hành, thức, hành hạnh Bồ-tát. Nói rộng cho đến đối với không của trí Nhất thiết hành hạnh Bồ-tát, đối với không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hành hạnh Bồ-tát, đối với không của sự nghiêm tịnh cõi Phật hành hạnh Bồ-tát, đối với không của việc đem lại sự thành tựu cho hữu tình hành hạnh Bồ-tát, đối với không của Đà-la-ni làm phát sinh biện tài mà hành hạnh Bồ-tát, đối với không của Đà-la-ni làm phát sinh văn tự mà hành hạnh Bồ-tát, đối với không của Đà-la-ni ngộ nhập văn tự mà hành hạnh Bồ-tát, đối với không của Đàla-ni ngộ nhập không văn tự mà hành hạnh Bồ-tát; đối với không của cảnh giới hữu vi hành hạnh Bồtát, đối với không của cảnh giới vô vi hành hạnh Bồ-tát.

Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát khi tu hành hạnh Bồ-tát như vậy, như quả vị Giác ngộ cao tột của Phật, đối với các pháp không khởi hai tướng.

Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế gọi là quả vị Giác ngộ cao tột và vì hữu tình mà hành hạnh Bồtát.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Như Lai ở đâu cũng thường nói Phật-đà, vậy tên Phật-đà này y vào nghĩa nào để nói?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, ai đã giác ngộ nghĩa chân thật thì gọi là Phật-đà, giác ngộ được pháp chân thật thì gọi là Phật-đà. Đối với nghĩa chân thật có thể hiểu thông suốt thì gọi là Phật-đà. Đối với tất cả pháp, giác ngộ hoàn toàn thật tánh của nó, tận cùng thật tánh của nó thì gọi là Phật-đà. Như thật khai ngộ cho tất cả hữu tình xa lìa các điên đảo thì gọi là Phật-đà.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Như Lai ở đâu cũng thường nói Bồ-đề, vậy tên Bồ-đề này y vào nghĩa nào để nói?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, Bồ-đề có nghĩa là không, là chân như, là thật tế, là pháp giới, là pháp tánh.

Lại nữa này Thiện Hiện, giả lập danh tướng, đặt bày ngôn từ để làm cho giác ngộ chân thật tối thượng tối diệu, thì gọi là Bồ-đề.

Lại nữa này Thiện Hiện, Bồ-đề là chân, là thật, chẳng hư dối, chẳng biến đổi.

Lại nữa này Thiện Hiện, Bồ-đề là không thể phá hoại, không thể phân biệt.

Lại nữa này Thiện Hiện, giác ngộ chân tịnh của chư Phật thì gọi là Bồ-đề.

Lại nữa này Thiện Hiện, do đó chư Phật đối với tất cả pháp, tất cả chủng tướng, hiện Chánh đẳng giác thì gọi là Bồ-đề.

Lại nữa này Thiện Hiện, chỉ giả đặt ra danh ngôn thế tục, không thật có, chẳng thể nắm bắt được thì gọi là Bồ-đề.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát vì Bồ-đề nên tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến tu trí Nhất thiết trí, khi tập hợp các căn lành thì pháp nào làm lợi ích, hoặc làm tổn hại, làm tăng hoặc giảm, sinh hoặc diệt, nhiễm hoặc tịnh?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát vì Bồ-đề nên tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí, khi tập hợp các căn lành, đối với tất cả pháp không làm lợi ích hay tổn hại, không tăng, không giảm, không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này vì Bồ-đề nên tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả pháp dùng cái không duyên vào đâu làm phương tiện nên không lợi ích, tổn hại, không tăng giảm, không sinh diệt, không nhiễm tịnh mà được hiện tiền.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì Bồ-đề nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả pháp dùng cái không duyên vào đâu làm phương tiện, chẳng làm lợi ích hay tổn hại, chẳng tăng giảm, chẳng sinh diệt, chẳng nhiễm tịnh thì Đại Bồ-tát này khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm thế nào để gồm thâu các Ba-la-mật-đa như Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã và làm thế nào gồm thâu trí Nhất thiết tướng? Làm thế nào vượt qua bậc Thanh văn, Độc giác và bậc phàm phu thẳng đến Chánh tánh ly sinh của Bồtát, tu hành các địa của Đại Bồ-tát tuần tự chứng đắc trí Nhất thiết trí?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát- nhã ba-la-mật-đa sâu xa không dựa vào hai, nên bao gồm cả Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến không dựa vào hai cho nên tuần tự chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, không dựa vào hai, nên bao gồm cả Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không dựa vào hai, nên tuần tự chứng đắc trí Nhất thiết trí thì Đại Bồ-tát làm thế nào từ lúc đầu phát tâm cho đến tâm cuối cùng, luôn luôn tăng trưởng pháp lành thù thắng?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát dựa vào hai mà thực hành thì các pháp lành chẳng được tăng trưởng. Vì sao? Vì kẻ phàm phu ngu muội đều dựa vào hai, nên pháp lành đã phát sinh không được tăng trưởng, còn các Đại Bồ-tát chẳng dựa vào hai nên từ khi phát tâm cho đến tâm cuối cùng thường tăng trưởng pháp lành thù thắng.

Vì vậy, này Thiện Hiện, căn lành của các Đại Bồ-tát vững chắc không thể khuất phục, Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian, không thể phá hoại, không thể làm rơi vào quả vị Thanh văn, Độc giác, không bị các pháp ác bất thiện của thế gian dẫn dắt, sai khiến hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, cho đến trí Nhất thiết trí, các pháp lành đã có không được tăng trưởng.

Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát không nên hành không hai Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không hai.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát vì căn lành nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chăng?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, không phải vậy. Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát không vì căn lành mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cũng không phải vì căn không lành mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì pháp của các Đại Bồ-tát là như vậy. Nếu chưa gần gũi cúng dường, cung kính chư Phật Thế Tôn, nếu các căn lành chưa được viên mãn hoàn toàn, nếu chưa tận lực phục vụ bạn lành chân tịnh thì chắc chắn không thể chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là các Đại Bồ-tát gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, làm cho căn lành viên mãn hoàn toàn, tận lực phục vụ bạn lành chân tịnh, mau chứng đắc trí Nhất thiết trí?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi mới phát tâm gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, theo Phật nghe Phật thuyết khế kinh cho đến luận nghĩa, nghe rồi thọ trì, đọc tụng, ôn tập cho được thông suốt hoàn toàn. Đã thông suốt hoàn toàn rồi mới tư duy đúng lý. Đã tư duy rồi, thấy rõ ý nghĩa sâu xa. Thấy rõ ý nghĩa sâu xa rồi mới có thể thông đạt hoàn toàn. Đã thông đạt hoàn toàn rồi mới đắc Đàla-ni, phát sinh sự hiểu biết vô ngại, cho đến khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, sinh ở chỗ nào đối với giáo nghĩa chánh pháp đã được nghe, thọ trì chẳng quên mất, ở chỗ chư Phật, trồng nhiều căn lành. Nhờ năng lực giữ vững căn lành nên vị ấy nên không đọa vào ác thú, mà sinh chỗ an vui. Lại nhờ giữ vững căn lành nên tâm an vui thanh tịnh. Do sức giữ vững tâm an vui thanh tịnh nên thường không điên đảo, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật. Lại nhờ giữ vững căn lành nên thường chẳng xa lìa bạn lành chân tịnh. Đó là các Như Lai, Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn cùng những người hay khen ngợi Phật, Pháp, Tăng.

Này Thiện Hiện, như vậy gọi là Đại Bồ-tát gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, làm cho căn lành viên mãn hoàn toàn, tận lực phục vụ bạn lành chân tịnh, mau chứng đắc trí Nhất thiết trí. Vì vậy, này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa muốn mau chứng đắc trí Nhất thiết trí, phải siêng năng tinh tấn gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thâu nhiếp viên mãn căn lành thù thắng, phục vụ bạn lành chân tịnh không bao giờ mệt mỏi nhàm chán.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu các Đại Bồ-tát không gần gũi cúng dường chư Phật, không thành tựu căn lành thù thắng, không tận lực phục vụ bạn lành chân tịnh, thì chẳng lẽ chứng đắc trí Nhất thiết trí? Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu các Đại Bồ-tát không gần gũi cúng dường chư Phật, không thành tựu căn lành thù thắng, không tận lực phục vụ bạn lành chân tịnh, thì chẳng xứng đáng nhận là Đại Bồ-tát, huống gì có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí. Vì sao? Vì có Đại Bồ-tát gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, trồng nhiều căn lành, tận lực phục vụ bạn lành chân tịnh, còn chưa thể chứng đắc trí Nhất thiết trí, huống gì là chẳng gần gũi cúng dường chư Phật, chẳng trồng căn lành, chẳng tận lực phục vụ bạn lành chân tịnh mà có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí sao? Nếu những vị này có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí thì nhất định không có việc ấy.

Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn nhận tên Đại Bồ-tát, muốn mau chứng đắc trí Nhất thiết trí thì thường nên gần gũi cúng dường chư Phật, trồng nhiều căn lành thắng diệu một cách rốt ráo, tận lực phục vụ bạn lành chân tịnh không sinh mệt mỏi chán nản.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, vì lý do gì có Đại Bồ-tát cũng gần gũi cúng dường chư Phật, trồng nhiều căn lành, tận lực phục vụ bạn lành chân tịnh, mà chẳng chứng đắc trí Nhất thiết trí?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, bởi vì Đại Bồ-tát đó xa lìa phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa. Mặc dù có gần gũi cúng dường chư Phật, có trồng nhiều căn lành, tận lực phục vụ bạn lành chân tịnh, nhưng vị ấy không thể chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào gọi là phương tiện thiện xảo? Các Đại Bồ-tát thành tựu các phương tiện thiện xảo phải làm việc gì để chứng đắc trí Nhất thiết trí?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát từ khi phát tâm, trong lúc tu hành Bố thí ba-la-mật-đa, dùng tác ý tương ưng trí Nhất thiết trí hoặc cúng dường chư Phật, Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn, hoặc bố thí cho những người khác hay loài phi nhân thì Đại Bồ-tát này được thành tựu tác ý tương ưng trí Nhất thiết trí. Như vậy, Đại Bồ-tát này hành bố thí mà không tưởng mình bố thí, không nghĩ có người nhận, cũng không nghĩ ta và cái thuộc về ta. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này quán tánh tướng của tất cả pháp đều không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt nhập vào tướng của các pháp, biết tất cả pháp không tác, không động, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ-tát này thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, luôn luôn tăng trưởng căn lành thắng diệu. Nhờ tăng trưởng căn lành này nên có thể hành Bố thí ba-la-mật-đa để đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật. Mặc dù hành bố thí nhưng Bồ-tát vẫn không mong cầu quả báo của sự bố thí, tức là chẳng tham đắm quả báo thù thắng sinh tử. Chỉ vì cứu độ kẻ chưa được cứu độ và muốn giải thoát người chưa được giải thoát, nên các vị ấy siêng tu tập Bố thí ba-lamật-đa.

Lại nữa này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát từ khi phát tâm tu hành Tịnh giới ba-la-mật-đa, dùng tác ý tương ưng trí Nhất thiết trí thọ trì tịnh giới, tâm không phát sinh tham, sân, si, không bị phiền não ràng buộc, cũng không phát sinh các pháp bất thiện làm ngăn ngại Bồ-đề, đó là xan tham, ác giới, sân giận, lười biếng, tâm hạ liệt, tâm tán loạn, ác tuệ và các tâm kiêu mạn khác..., cũng không phát sinh tác ý tương ưng Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này quán tánh tướng tất cả pháp đều không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt nhập vào tướng của các pháp, biết tất cả pháp không tác, không động, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ-tát này thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, luôn luôn tăng trưởng căn lành thắng diệu. Nhờ căn lành này thường tăng trưởng, có thể hành Tịnh giới ba-la-mật-đa, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật. Mặc dù hành tịnh giới nhưng các vị ấy vẫn không mong cầu quả báo của giới, tức là chẳng tham đắm quả báo thù thắng sinh tử, chỉ vì cứu độ người chưa được cứu độ và muốn giải thoát người chưa được giải thoát, nên các vị ấy siêng tu Tịnh giới ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. (mỗi mỗi đều nói rộng ở trước)

Lại nữa này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ngay từ đầu phát tâm, dùng phương tiện thiện xảo, dùng tác ý tương ưng trí Nhất thiết trí nhập vào bốn Tĩnh lự và bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, thì Đại Bồtát này tuy đối với Tĩnh lự, Vô lượng, Vô sắc vào ra tự tại nhưng chẳng nhận lấy quả Dị thục ấy. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã thành tựu phương tiện thiện xảo tối thắng, quán tánh tướng các Tĩnh lự, Vô lượng, Vô sắc đều không, không sinh, không thành, không chuyển, không diệt nhập vào tướng các pháp, biết tất cả pháp không tạo tác, không hành động, nhập vào tướng các hành. Đại Bồ-tát này thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, thì luôn luôn tăng trưởng căn lành thắng diệu. Nhờ căn lành này tăng trưởng, nên Đại Bồ-tát có thể hành Tĩnh lự, Vô lượng, Vô sắc. Do hành Tĩnh lự, Vô lượng, Vô sắc nên các vị ấy có thể tự tại đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật.

Lại nữa này Thiện Hiện, nếu Bồ-tát ngay từ đầu phát tâm, dùng phương tiện thiện xảo, dùng tác ý tương ưng trí Nhất thiết trí, tuy tu hành về kiến đạo sở đoạn, tu về đạo sở đoạn nhưng vô sở đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồđề. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này quán tánh tướng của tất cả pháp đều không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt nên nhập vào tướng của các pháp, biết tất cả pháp không tạo tác, không hành động, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ-tát này thành tựu phương tiện thiện xảo tối thắng, luôn luôn tăng trưởng căn lành thù thắng. Nhờ căn lành này tăng trưởng nên Đại Bồ-tát có thể hành tất cả pháp phần Bồ-đề, vượt qua bậc Thanh văn, Độc giác, nhập vị Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát.

Đây gọi là Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát và cũng do có pháp nhẫn này nên Đại Bồ-tát có thể thường tự tại đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật.

Lại nữa này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phương tiện thiện xảo, dùng tác ý tương ưng trí Nhất thiết trí, tuy được tự tại vào ra thuận nghịch, tám Giải thoát, chín Định thứ đệ nhưng luôn luôn vô sở đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn và A-la-hán, Độc giác Bồ-đề. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này quán tánh tướng của tất cả pháp đều không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt nhập vào tướng của các pháp, biết tất cả pháp không tạo tác, không hành động, nhập vào tướng của các hành. Đại Bồtát này thành tựu phương tiện thiện xảo tối thắng, luôn luôn làm tăng trưởng căn lành thù thắng. Nhờ căn lành thù thắng này thường tăng trưởng, nên Đại Bồ-tát có thể tự tại đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, chứng nhập vị Bồ-tát không thoái chuyển, được thọ ký nhẫn.

Lại nữa này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phương tiện thiện xảo, dùng tác ý tương ưng trí Nhất thiết trí, tinh tấn tu hành mười lực của Như Lai và vô lượng, vô biên các pháp Phật khác nhưng nếu chưa đem lại sự thành tựu cho hữu tình, chưa làm nghiêm tịnh cõi Phật thì vẫn chưa chứng đắc trí Nhất thiết trí. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này quán tánh tướng của tất cả pháp đều không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt nhập vào tướng của các pháp, biết tất cả pháp không tạo tác, không hành động, nhập vào tướng các hành. Đại Bồ-tát này đầy đủ phương tiện thiện xảo tối thắng, luôn luôn tăng trưởng căn lành thù thắng. Nhờ căn lành này tăng trưởng, Đại Bồ-tát có thể tự tại đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, tuần tự chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Như vậy gọi là phương tiện thiện xảo. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như thế thì bất cứ việc gì nhất định có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí. Phương tiện thiện xảo thù thắng như thế là đều do hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được thành tựu. Vì thế, này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nên siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này.


Trước

[Đầu trang][Mục lục Kinh Đại Bát Nhã]

Tiếp theo


[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]


[Mục lục tổng quát]