SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
HỘI THỨ III
Phẩm 28: Diệu Tướng
(QUYỂN 528 - 532)
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, người trụ tưởng có, thì hoặc không thuận nhẫn, cũng không tu đạo, đắc quả, hiện quán; còn người trụ nơi tưởng không, đâu có thuận nhẫn, hoặc bậc Tịnh quán, nói rộng cho đến bậc Như Lai, hoặc tu Thánh đạo, nương sự tu Thánh đạo để đoạn trừ các phiền não. Vì vậy, bị phiền não này ngăn che, nên còn không thể đạt được pháp địa tương ưng với Thanh văn, Độc giác, huống là nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát. Nếu không nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồtát thì đâu có thể chứng đắc trí Nhất thiết tướng? Nếu không đạt trí Nhất thiết tướng thì làm sao đoạn trừ vĩnh viễn tập khí tương tục của phiền não?
Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp hoàn toàn không có, không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh thì các pháp như vậy hoàn toàn không sinh thì đâu có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Người trụ tưởng không, cũng không thuận nhẫn, cho đến cũng không đoạn trừ vĩnh viễn tập khí tương tục của phiền não, cũng không thể chứng đắc trí Nhất thiết trí. Nhưng nếu ai nương vào tướng không chẳng phải là pháp thật có, tu được thuận nhẫn cho đến đoạn trừ vĩnh viễn tập khí tương tục của phiền não, thì có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa này có tưởng có, tưởng không chăng? Có tưởng sắc uẩn cho đến thức uẩn chăng? Nói rộng cho đến có tưởng đoạn trừ vĩnh viễn tập khí tương tục của phiền não chăng? Có tưởng chứng đắc trí Nhất thiết trí chăng?
Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát này có tưởng sắc, có tưởng đoạn trừ sắc chăng? Có tưởng thọ, tưởng, hành, thức, có tưởng đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức chăng? Có tưởng nhãn xứ cho đến ý xứ, có tưởng đoạn trừ nhãn xứ cho đến ý xứ chăng? Có tưởng sắc xứ cho đến pháp xứ, có tưởng đoạn trừ sắc xứ cho đến pháp xứ chăng? Có tưởng nhãn giới cho đến ý giới, có tưởng đoạn trừ nhãn giới cho đến ý giới chăng? Có tưởng sắc giới cho đến pháp giới, có tưởng đoạn trừ sắc giới cho đến pháp giới chăng? Có tưởng nhãn thức giới cho đến ý thức giới, có tưởng đoạn trừ nhãn thức giới cho đến ý thức giới chăng? Có tưởng nhãn xúc cho đến ý xúc, có tưởng đoạn trừ nhãn xúc cho đến ý xúc chăng? Có tưởng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra, có tưởng đoạn trừ các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chăng? Có tưởng địa giới cho đến thức giới, có tưởng đoạn trừ địa giới cho đến thức giới chăng? Có tưởng nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, có tưởng đoạn trừ nhân duyên cho đến tăng thượng duyên chăng? Có tưởng tham, sân, si, có tưởng đoạn trừ tham, sân, si chăng? Có tưởng vô minh cho đến lão tử; có tưởng đoạn trừ vô minh cho đến lão tử chăng? Có tưởng khổ, tập, diệt, đạo, có tưởng đoạn trừ khổ, tập, diệt, đạo chăng? Nói rộng cho đến có tưởng tất cả tập khí tương tục của phiền não phải đoạn, có tưởng đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí tương tục của phiền não chăng? Có tưởng trí Nhất thiết trí, có tưởng đoạn trừ trí Nhất thiết trí chăng?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả pháp đều không tưởng có, cũng không tưởng không. Nếu không tưởng có, cũng không tưởng không, thì làm sao biết đó là Bồ-tát tu thuận nhẫn, cũng là tu đạo, đắc quả, hiện quán?
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát dùng không tánh làm Thánh đạo, dùng không tánh làm đắc quả, dùng không tánh làm hiện quán. Vì nhân duyên này nên biết các pháp đều lấy không tánh làm tánh.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp đều lấy không tánh làm tánh, thì tại sao Thế Tôn dùng không tánh của tất cả pháp làm tánh, mà chứng Đẳng chánh giác. Chứng đắc quả Đẳng chánh giác rồi mới gọi là Phật, đối với tất cả pháp và các cảnh giới được tự tại vô ngại?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy! Các pháp đều lấy không tánh làm tánh. Khi Ta còn tu học đạo Bồ-tát, tu hành Bố thí cho đến Bát-nhã bala-mật-đa, nhờ đó xa lìa pháp dục ác, bất thiện, có tầm, có tứ, ly sinh hỷ lạc, chứng nhập Sơ thiền. Nói rộng cho đến đoạn trừ lạc khổ trước hết, hỷ, ưu không còn, bất khổ, bất lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng nhập Thiền thứ tư, được an trụ hoàn toàn.
Bấy giờ, đối với các thiền, thiền chi, Ta tuy hoàn toàn nắm giữ tướng nhưng không chấp trước; đối với thiền và thiền chi, không đắm vị; đối với các thiền và thiền chi đều vô sở đắc, khi ấy đối với các hành tướng của bốn thiền, thanh tịnh, không còn phân biệt; đối với các thiền và thiền chi tuy hoàn toàn thuần thục nhưng chẳng nhận lấy quả báo ấy, chỉ nương nơi thiền làm cho tâm phát sinh các trí thông như Thần cảnh, Thiên nhĩ, Tha tâm, Túc trụ, Thiên nhãn.
Đối với năm Thần thông này, Ta tuy hoàn toàn nắm giữ tướng nhưng không chấp trước, không đắm vị; đối với các cảnh giới của thần thông đều vô sở đắc, cũng không phân biệt, như trú ở hư không.
Bấy giờ, Ta quán tất cả pháp đều bình đẳng, lấy không tánh bình đẳng làm tánh, trong một sát-na tương ưng với diệu tuệ, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, nghĩa là hiện chứng biết: Đây là Thánh đế khổ, đây là Thánh đế tập, đây là Thánh đế diệt, đây là Thánh đế đạo, đều đồng một tướng gọi là không tướng. Không tướng như thế cũng chẳng thể nắm bắt được, nhờ vậy thành tựu mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt và mười tám pháp Phật bất cộng... vô biên công đức. Đem diệu trí của Phật, giáo hóa ba nhóm hữu tình khác nhau, tùy theo chỗ thích hợp dùng phương tiện giáo hóa làm cho chúng được lợi ích an vui, thù thắng.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm thế nào ngay trong tánh không tánh của tất cả các pháp, phát sinh bốn thiền, năm Thần thông, chứng đại Bồ-đề, đầy đủ các công đức, làm lợi lạc ba nhóm hữu tình?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu các pháp dục ác, bất thiện... có chút tự tánh hoặc tha tánh làm tự tánh thì khi Ta còn tu học đạo Bồ-tát đáng lẽ chẳng thông suốt được tất cả pháp dục ác, bất thiện..., đều dùng không tánh làm tự tánh, xa lìa dục ác, nhập vào các thiền, được an trụ hoàn toàn. Vì các pháp dục ác, bất thiện... không có tự tánh và tha tánh, chỉ dùng không tánh làm tự tánh, nên khi ta còn tu học đạo Bồ-tát mới thông suốt các pháp dục ác, bất thiện, đều dùng không tánh làm tự tánh, xa lìa dục ác, nhập vào các thiền, được an trụ hoàn toàn.
Thiện Hiện nên biết, nếu năm Thần thông có chút tự tánh, hoặc tha tánh làm tự tánh thì khi ta còn tu học đạo Bồ-tát đáng lẽ chẳng thông suốt tất cả thần thông, đều dùng không tánh làm tự tánh, phát sinh các thứ thần thông tự tại, đối với cảnh giới diệu dụng vô ngại. Vì các thần thông không có tự tánh, tha tánh, chỉ dùng không tánh làm tự tánh, nên khi ta còn tu học đạo Bồ-tát thông suốt các thần thông đều dùng không tánh làm tự tánh, phát sinh các thứ thần thông tự tại, đối với các cảnh giới diệu dụng vô ngại.
Thiện Hiện nên biết, nếu quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật có chút tự tánh hoặc tha tánh làm tự tánh, thì khi Ta còn tu học đạo Bồ-tát đáng lẽ chẳng thông suốt quả vị Giác ngộ cao tột và các công đức của chư Phật, đều dùng không tánh làm tự tánh, nên chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, đầy đủ các công đức. Vì quả vị Giác ngộ cao tột và các công đức của chư Phật không có tự tánh và tha tánh, chỉ dùng không tánh làm tự tánh, nên khi ta còn tu học đạo Bồ-tát thông suốt quả vị Giác ngộ cao tột đều dùng không tánh làm tự tánh, ngay trong một sát-na tương ưng diệu tuệ, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, đầy đủ các công đức.
Thiện Hiện nên biết, nếu các hữu tình có chút tự tánh hoặc tha tánh làm tự tánh thì khi Ta thành Phật rồi đáng lẽ cũng không thông suốt tất cả hữu tình đều dùng không tánh làm tự tánh, an lập hữu tình thành ba nhóm khác nhau, tùy theo chỗ thích hợp, dùng phương tiện giáo hóa dẫn dắt làm cho chúng được lợi ích, an vui thù thắng. Vì các hữu tình không có tự tánh và tha tánh, chỉ dùng không tánh làm tự tánh nên Ta thành Phật rồi, thông suốt tất cả hữu tình đều dùng không tánh làm tự tánh, do đó Ta an lập ba nhóm hữu tình khác nhau, tùy theo chỗ thích hợp dùng phương tiện giáo hóa, làm cho chúng được lợi ích, an vui thù thắng.
Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát biết tất cả pháp lấy không tánh làm tánh mà vẫn ở trong pháp ấy phát khởi bốn thiền, phát khởi năm Thần thông, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, đầy đủ các công đức, an lập ba nhóm hữu tình khác nhau, tùy theo chỗ thích hợp dùng phương tiện giáo hóa làm cho họ được lợi ích, an vui thù thắng, thì tại sao Đại Bồ-tát lúc mới phát tâm ở trong tánh không tánh của tất cả pháp tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh. Và vì tuần tự tác nghiệp, tác học, hành hạnh này nên chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, làm lợi ích an vui các hữu tình?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát ở vị mới phát tâm, hoặc được nghe Phật hoặc được nghe từ các bậc Thánh chân thật đã cúng dường Phật nhiều như Bồ-tát, Độc giác và các quả A-la-hán, Bất hoàn, Nhất lai, Dự lưu rằng chứng pháp không tánh làm tánh đạt đến hoàn toàn viên mãn mới gọi là Phật, tuần tự chứng đắc các pháp không tánh làm tánh, gọi là Bồ-tát cho đến Dự lưu, tin sâu các pháp không tánh làm tánh gọi là Hiền thiện sĩ. Do đó, tất cả pháp và các hữu tình đều lấy không tánh làm tánh. Pháp và hữu tình không có một chút tự tánh nào, dầu nhỏ như đầu sợi lông, có thể nắm bắt được.
Nghe việc này rồi, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: “Nếu tất cả pháp và các hữu tình đều lấy không tánh làm tự tánh, chứng đắc pháp này mới gọi là Phật cho đến Dự lưu, tin sâu pháp này mới gọi Hiền thiện sĩ, thì ta đối với quả vị Giác ngộ cao tột hoặc sẽ chứng đắc, hoặc không chứng đắc. Bởi vì các pháp và hữu tình luôn luôn lấy không tánh làm tự tánh, nên ta nhất định phải phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; đắc Chánh giác rồi, nếu có các hữu tình thực hành hữu tưởng thì ta dùng phương tiện giáo hóa làm cho họ trụ vào vô tưởng.”
Đại Bồ-tát này đã suy nghĩ rồi, phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, độ thoát các loài hữu tình, chứng đắc Niết-bàn, mới tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh; như các Đại Bồtát đời quá khứ phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, trước hết tuần tự tác nghiệp, tu học, hành hạnh nên chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Đại Bồ-tát này cũng lại như vậy, trước nên tu học Bố thí ba-la-mật-đa, thứ đến nên tu học Tịnh giới ba-la-mật-đa, tuần tự cho đến cuối cùng là tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Hiện nên biết, Đại Bồ-tát này từ lúc phát tâm tu học Bố thí ba-la-mật-đa tự mình hành bố thí, cũng khuyên người khác hành bố thí, luôn tự mình khen ngợi công đức bố thí, hoan hỷ tán thán người hành bố thí. Nhờ nhân duyên này nên bố thí viên mãn và được địa vị, tài sản lớn, thường hành bố thí, xa lìa tâm bỏn sẻn, tùy theo nhu cầu của hữu tình mà cung cấp đầy đủ các thức ăn uống và vật dụng. Đại Bồ-tát này nhờ Bố thí nên thọ trì uẩn giới, sinh trong cõi trời, người, vô cùng tôn quý. Nhờ thực hành giới nên được uẩn định, nhờ thực hành giới, định nên được uẩn tuệ, nhờ thực hành giới, định, tuệ nên được uẩn giải thoát, nhờ thực hành giới, định, tuệ, giải thoát nên được uẩn giải thoát tri kiến, nhờ thực hành giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến viên mãn nên vượt qua các địa Thanh văn, Độc giác, chứng nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát. Đã nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật. Làm các việc này rồi mới có khả năng chứng đắc trí Nhất thiết trí, chuyển pháp luân vi diệu, dùng pháp ba thừa giáo hóa độ thoát các loài hữu tình, làm cho họ thoát khỏi sinh tử, chứng đắc Niết-bàn.
Đại Bồ-tát này do bố thí nên tuy có khả năng tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh như vậy, nhưng đối với tất cả đều vô sở đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh.
Lại nữa này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát này từ lúc phát tâm tu học Tịnh giới ba-la-mật-đa nên tự mình hành tịnh giới, cũng khuyên người khác hành tịnh giới, luôn tự mình khen ngợi công đức tịnh giới, hoan hỷ tán thán người hành tịnh giới. Nhờ nhân duyên này uẩn giới thanh tịnh, được sinh trong cõi trời, người, vô cùng tôn quý, bố thí tài vật cho kẻ nghèo cùng. Đã thực hành việc bố thí rồi, an trụ trong các uẩn giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Nhờ các uẩn giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến thanh tịnh nên vượt các địa Thanh văn, Độc giác, chứng nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát. Đã nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật. Làm các việc này rồi mới có khả năng chứng đắc trí Nhất thiết trí, vận chuyển pháp luân vi diệu, dùng pháp ba thừa giáo hóa độ thoát các loài hữu tình, làm cho chúng thoát khỏi sinh tử, chứng đắc Niết-bàn.
Đại Bồ-tát này do trì tịnh giới nên tuy có khả năng tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh như vậy, nhưng đối với tất cả pháp đều vô sở đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh.
Lại nữa này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát này từ lúc phát tâm tu học An nhẫn ba-la-mật-đa nên tự mình hành an nhẫn, cũng khuyên người khác hành an nhẫn, luôn tự mình khen ngợi công đức an nhẫn, hoan hỷ tán thán người hành an nhẫn. Đại Bồ-tát này khi hành an nhẫn, có thể đem tài sản bố thí cho các hữu tình, làm cho chúng được đầy đủ.
Đã thực hành bố thí rồi, an trụ trong các uẩn giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Nhờ các uẩn giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến uẩn thanh tịnh nên vượt các vị Thanh văn, Độc giác, chứng nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồtát. Đã nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật. Làm các việc này rồi mới có khả năng chứng đắc trí Nhất thiết trí, vận chuyển pháp luân vi diệu, đem pháp ba thừa giáo hóa độ thoát các loài hữu tình, làm cho chúng thoát khỏi sinh tử, chứng đắc Niết-bàn.
Đại Bồ-tát này do hành an nhẫn nên tuy có khả năng tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự theo hành như vậy, nhưng đối trong tất cả pháp đều không nắm bắt. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh.
Lại nữa này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát này từ lúc phát tâm tu học Tinh tấn ba-la-mật-đa, nên tự mình hành tinh tấn, cũng khuyên người khác hành tinh tấn, luôn tự mình khen ngợi công đức tinh tấn, hoan hỷ tán thán người hành tinh tấn. Đại Bồ-tát này khi hành tinh tấn có thể đem tài sản bố thí cho các hữu tình, làm cho họ được đầy đủ. Đã thực hành bố thí rồi, an trụ trong các uẩn giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Nhờ các uẩn giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến thanh tịnh nên vượt các địa Thanh văn, Độc giác, chứng nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát. Đã nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật. Làm các việc này rồi mới có khả năng chứng đắc trí Nhất thiết trí, chuyển pháp luân vi diệu, đem pháp ba thừa giáo hóa độ thoát các loài hữu tình, làm cho chúng thoát khỏi sinh tử, chứng đắc Niết-bàn.
Đại Bồ-tát này do hành tinh tấn nên tuy có khả năng tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh như vậy, nhưng đối với tất cả pháp đều vô sở đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh.
Lại nữa này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát này từ lúc phát tâm tu học Tĩnh lự ba-la-mật-đa, nên tự mình nhập Tĩnh lự, Vô lượng, định Vô sắc; khuyên người khác nhập Tĩnh lự, Vô lượng, định Vô sắc; luôn tự mình khen ngợi công đức Tĩnh lự, Vô lượng, định Vô sắc; hoan hỷ tán thán người nhập Tĩnh lự, Vô lượng, định Vô sắc.
Đại Bồ-tát này khi hành tĩnh lự có thể đem tài sản bố thí cho các loài hữu tình, làm cho chúng được đầy đủ. Đã thực hành bố thí rồi, an trụ trong các uẩn giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Nhờ các uẩn giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến thanh tịnh nên vượt qua các địa Thanh văn, Độc giác, chứng nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát. Đã nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật. Làm các việc này rồi mới có khả năng chứng đắc trí Nhất thiết trí, chuyển pháp luân vi diệu, đem pháp ba thừa giáo hóa độ thoát các loài hữu tình, làm cho họ thoát khỏi sinh tử, chứng đắc Niết-bàn.
Đại Bồ-tát này do hành tĩnh lự nên tuy có khả năng tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh như vậy, nhưng đối với tất cả pháp đều vô sở đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh.
Lại nữa này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát này từ lúc phát tâm tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến thù thắng an lập hữu tình, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tự mình hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, luôn tự mình khen ngợi công đức sáu pháp Ba-la-mật-đa, hoan hỷ tán thán người hành sáu pháp Ba-la-mậtđa.
Đại Bồ-tát này do Bố thí cho đến Bát-nhã bala-mật-đa, thành tựu phương tiện thiện xảo, vượt các địa Thanh văn, Độc giác, chứng nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát. Đã nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật. Làm các việc này rồi mới có khả năng chứng đắc trí Nhất thiết trí, chuyển pháp luân vi diệu, đem pháp ba thừa giáo hóa độ thoát các loài hữu tình, làm cho họ thoát khỏi sinh tử, chứng đắc Niết-bàn.
Đại Bồ-tát này do hành Bát-nhã nên tuy có khả năng tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh như vậy nhưng đối với tất cả pháp đều vô sở đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh.
Thiện Hiện nên biết, đây là Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm, nương theo học sáu pháp Ba-la-mậtđa, tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh, làm lợi ích an vui cho loài hữu tình.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm, trong khi tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh, dùng tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí, tin hiểu các pháp đều lấy không tánh làm tự tánh, trước hết nên tu học tùy niệm Phật, thứ đến tu học tùy niệm Pháp, tuần tự cho đến cuối cùng là tu học tùy niệm Thiên.
Thiện Hiện nên biết, thế nào là Đại Bồ-tát tu học tùy niệm Phật? Nghĩa là Đại Bồ-tát khi tu học tùy niệm Phật không nên dùng sắc, thọ, tưởng, hành, thức để tư duy Như Lai Ứng Chánh đẳng giác. Vì sao? Vì sắc cho đến thức đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì không có, nếu không có thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, thì gọi là tùy niệm Phật.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu học tùy niệm Phật, không nên dùng sắc thân hoàng kim, có ánh sáng một tầm với ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp mà tư duy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì sắc thân, kim quang, tướng hảo như vậy đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì không có; nếu không có thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, thì gọi là tùy niệm Phật.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu học tùy niệm Phật, không nên dùng các uẩn giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến để tư duy về Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì các uẩn như thế đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì không có; nếu không có thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, thì gọi là tùy niệm Phật.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu học tùy niệm Phật, không nên dùng năm loại mắt, sáu phép thần thông, mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng và vô lượng, vô biên các pháp của Phật để tư duy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì không có; nếu không có thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, thì gọi là tùy niệm Phật.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu học tùy niệm Phật, không nên dùng pháp duyên khởi để tư duy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì các pháp duyên khởi đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì không có; nếu không có thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, thì gọi là tùy niệm Phật.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên tu học tùy niệm Phật như vậy. Nếu tu học tùy niệm Phật như vậy thì tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh. Nếu Đại Bồ-tát có khả năng tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh như vậy thì có thể viên mãn bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, nói rộng cho đến trí Nhất thiết tướng, nhờ đó chứng đắc trí Nhất thiết trí, Đại Bồ-tát này dùng không tánh của tất cả pháp làm tánh. Nhờ sức phương tiện nên hiểu tất cả pháp đều không có tự tánh, trong ấy không có tưởng có, cũng lại không có tưởng không.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát nên tu học tùy niệm Phật như thế, nghĩa là trong ấy ngay cả Phật còn chẳng thể nắm bắt được, huống gì có tùy niệm Phật.
Lại nữa này Thiện Hiện, thế nào là Đại Bồ-tát tu học tùy niệm Pháp? Nghĩa là Đại Bồ-tát khi tu học tùy niệm Pháp, không nên tư duy pháp thiện, pháp ác; hoặc pháp hữu ký, pháp vô ký; pháp thế gian, pháp xuất thế gian; hoặc pháp có ái nhiễm, pháp không ái nhiễm; hoặc pháp Thánh, pháp chẳng phải Thánh; hoặc pháp hữu lậu, pháp vô lậu; hoặc pháp sinh trong ba cõi, pháp không sinh trong ba cõi; hoặc pháp hữu vi, pháp vô vi. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì không có; nếu không có thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, thì gọi là tùy niệm Pháp.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên tu học tùy niệm Pháp như thế. Nếu tu học tùy niệm Pháp như thế thì đây là tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh. Nếu Đại Bồ-tát có khả năng tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh như thế, thì có thể viên mãn bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, nói rộng cho đến trí Nhất thiết tướng. Do đây chứng đắc trí Nhất thiết trí.
Đại Bồ-tát này dùng không tánh của tất cả pháp làm tánh, nhờ sức phương tiện nên học tất cả pháp đều không có tự tánh. Trong ấy không có tướng có, cũng lại không có tướng không.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát nên tu học tùy niệm Pháp như thế, nghĩa là trong ấy, ngay cả pháp còn chẳng thể nắm bắt được, huống gì có tùy niệm Pháp.
Lại nữa này Thiện Hiện, thế nào là Đại Bồ-tát tu học tùy niệm Tăng? Nghĩa là Đại Bồ-tát khi tu học tùy niệm Tăng, nên nghĩ rằng, chúng đệ tử Phật đầy đủ các công đức, là những bậc Thánh trong bốn hướng, bốn quả tất cả đều là do vô vi hiển bày, đều lấy không tánh làm tự tánh. Do nhân duyên này nên không tưởng nghĩ. Vì sao? Vì bậc Thiện sĩ như vậy đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì không có; nếu không có thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, thì gọi là tùy niệm Tăng.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên tu học tùy niệm Tăng như thế. Nếu tu học tùy niệm Tăng như thế thì đây là tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh. Nếu Đại Bồ-tát có khả năng tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh như thế thì có thể viên mãn bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, nói rộng cho đến trí Nhất thiết tướng. Nhờ đó chứng đắc trí Nhất thiết trí.
Đại Bồ-tát này dùng không tánh của tất cả pháp làm tánh, do sức phương tiện nên học tất cả pháp đều không có tự tánh. Trong ấy không có tưởng có, cũng không có tưởng không.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát nên tu học tùy niệm Tăng như thế, nghĩa là trong ấy ngay cả Tăng còn chẳng thể nắm bắt được, huống gì có tùy niệm Tăng.
Lại nữa này Thiện Hiện, thế nào là Đại Bồ-tát tu học tùy niệm giới? Nghĩa là Đại Bồ-tát khi tu học tùy niệm giới từ lúc đầu phát tâm nên tùy niệm Thánh giới không khuyết, không hở, không tỳ vết, không nhơ uế, không bị chấp giữ, xứng đáng thọ cúng dường, được người trí khen ngợi, thọ trì pháp thiện vi diệu, viên mãn tùy thuận, tư duy định thù thắng, giới này lấy không tánh làm tánh; do nhân duyên này nên không tư duy. Vì sao? Vì Thánh giới như thế đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì không có; nếu không có thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, thì gọi là tùy niệm giới.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên tu học tùy niệm giới như thế. Nếu tu học tùy niệm giới như thế thì đây là tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh. Nếu Đại Bồ-tát có khả năng tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh như thế thì có thể viên mãn bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, nói rộng cho đến trí Nhất thiết tướng. Nhờ đó chứng đắc trí Nhất thiết trí.
Đại Bồ-tát này dùng không tánh của tất cả pháp làm tánh, do sức phương tiện nên hiểu tất cả pháp đều không có tự tánh. Trong ấy không có tưởng có, cũng không có tưởng không.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát nên tu học tùy niệm giới như thế, nghĩa là trong ấy ngay cả giới còn không có thể nắm bắt được, huống gì có tùy niệm giới.
Lại nữa này Thiện Hiện, thế nào là Đại Bồ-tát tu học tùy niệm xả? Nghĩa là Đại Bồ-tát khi tu học tùy niệm xả, từ lúc đầu phát tâm nên dùng không tánh làm tánh, phương tiện tu tùy niệm xả, nên khi xả tài vật hoặc xả pháp, không nên nghĩ: “Ta có thể xả bỏ hoặc không thể xả bỏ.” Nếu khi xả các chi phần trong thân thể, cũng không nên nghĩ: “Ta nên xả bỏ hoặc không thể xả bỏ”, cũng không tư duy về sự bố thí và phước báo của sự bố thí. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì không có, nếu không có thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, thì gọi là tùy niệm xả.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên tu học tùy niệm xả như thế. Nếu tu học tùy niệm xả như thế thì đây là tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh. Nếu Đại Bồ-tát có khả năng tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh như thế thì có thể viên mãn bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, nói rộng cho đến trí Nhất thiết tướng. Nhờ đó chứng đắc trí Nhất thiết trí.
Đại Bồ-tát này dùng pháp không tánh làm tánh, do sức phương tiện nên hiểu tất cả pháp đều không có tự tánh. Trong ấy không có tưởng có, cũng không có tưởng không.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát nên tu học tùy niệm xả như thế, nghĩa là trong ấy, ngay cả xả còn chẳng thể nắm bắt được, huống gì có tùy niệm xả!
Lại nữa này Thiện Hiện, thế nào là Đại Bồ-tát tu học tùy niệm thiên? Nghĩa là Đại Bồ-tát khi tu học tùy niệm thiên, từ lúc đầu phát tâm nên dùng không tánh làm tánh, phương tiện tu tùy niệm thiên, nghĩ như vầy: “Các bậc Dự lưu sinh trong sáu cõi trời Dục, các bậc Bất hoàn sinh vào hai cõi trên. Tất cả như thế đều không thể nắm bắt, không thể nhớ nghĩ. Vì sao? Vì chư Thiên này đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì không sở hữu. Nếu không sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, thì gọi là tùy niệm thiên.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên tu học tùy niệm thiên như thế. Nếu tu học tùy niệm thiên như thế, đó là tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh.
Nếu Đại Bồ-tát có khả năng tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh như thế thì có thể viên mãn bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, nói rộng cho đến trí Nhất thiết tướng. Nhờ đó chứng đắc trí Nhất thiết trí. Đại Bồ-tát này dùng không tánh của tất cả pháp làm tánh, do sức phương tiện nên hiểu tất cả pháp đều không có tự tánh. Trong ấy, không có tưởng có, cũng không có tưởng không.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát nên tu học tùy niệm thiên như thế, nghĩa là trong ấy, ngay cả Thiên còn chẳng thể nắm bắt được, huống gì có tùy niệm thiên!
Thiện Hiện nên biết, đây là Đại Bồ-tát từ lúc đầu phát tâm nương tu học sáu pháp tùy niệm, tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh, làm lợi ích an vui cho hữu tình.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu muốn viên mãn sự tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh thì dùng không tánh của tất cả pháp làm tánh. Do sức phương tiện nên học pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh, nên học chân như cho đến cảnh giới không thể nghĩ bàn, nên học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, nên học bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, nói rộng cho đến nên học trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Đại Bồ-tát này khi học đạo Bồ-đề như thế, hiểu tất cả pháp đều lấy không tánh làm tự tánh. Đối với pháp còn không có chút niệm nhỏ nào có thể nắm bắt được, huống gì có nhớ nghĩ sắc, thọ, tưởng, hành, thức; nói rộng cho đến trí Nhất thiết trí. Các điều nhớ nghĩ và pháp được nhớ nghĩ như vậy nếu còn chút mảy may nào thật có thì không có sự việc ấy.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tuy tuần tự tác nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự hành hạnh nhưng đối với pháp ấy tâm không lay chuyển, vì tất cả pháp đều không có tự tánh.
Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp đều không có tự tánh thì cũng không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến không có trí Nhất thiết trí, không có Phật, Pháp, Tăng, đạo quả, nhiễm, tịnh, cũng không sở đắc, không hiện quán, thế thì tất cả pháp đều là không có?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, ý ông nghĩ sao? Ngay trong tánh không tánh của tất cả pháp, tánh có, tánh không, có thể nắm bắt được chăng?
Thiện Hiện thưa:
–Bạch Thế Tôn, không!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu trong tánh không tánh của tất cả pháp, tánh có, tánh không đều chẳng thể nắm bắt được, thì nay tại sao ông nói rằng: “Nếu tất cả pháp đều không có tự tánh thì cũng không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; nói rộng cho đến tất cả pháp cũng đều không có.”?
Thiện Hiện thưa rằng:
–Bạch Thế Tôn, đối với nghĩa này, theo con không có gì nghi ngờ, nhưng chỉ sợ có các Bí-sô ở đời sau hoặc cầu Thanh văn, hoặc cầu Độc giác, hoặc cầu quả Phật, các vị ấy sẽ nghĩ: “Nếu tất cả pháp đều không có tự tánh, vậy thì ai nhiễm, ai tịnh, ai trói buộc, ai tháo mở?” Những vị ấy ở nơi nghĩa nhiễm tịnh, buộc mở chẳng hiểu rõ nên phá giới, phá kiến, phá oai nghi, phá đời sống thanh tịnh. Do đây nên bị đọa trong ba đường ác, chịu nhiều đau khổ, trầm luân sinh tử, khó được giải thoát. Con xem thấy ở đời sau sẽ có những việc đáng kinh sợ như vậy, cho nên mới thưa hỏi, chứ riêng con thật không có nghi ngờ.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, lành thay, lành thay! Ông mới có thể vì ở đời sau mà hỏi như vậy, nhưng trong tánh không tánh của tất cả pháp, hoặc có, hoặc không đều chẳng thể nắm bắt được, chớ nên đối với pháp này chấp lấy tánh có, hoặc không.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp đều lấy không tánh làm tự tánh thì các Đại Bồ-tát quán những nghĩa nào mà vì làm lợi ích an vui cho các hữu tình, cầu đạt quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, vì tất cả pháp đều lấy không tánh làm tự tánh nên các Đại Bồ-tát vì muốn làm lợi ích các loài hữu tình nên cầu đạt quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì các loài hữu tình còn chấp có thường, đoạn, chấp vào sự chứng đắc, khó mà điều phục, ngu si điên đảo, khó được giải thoát.
Thiện Hiện nên biết, người còn chấp vào sự chứng đắc, do tưởng có chứng đắc nên không sở đắc, không hiện quán, cũng không có quả vị Giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu người nào còn chấp sự chứng đắc thì không sở đắc, không hiện quán, cũng không có quả vị Giác ngộ cao tột. Còn người không chấp sự chứng đắc thì có đắc, có hiện quán, có quả vị Giác ngộ cao tột chăng?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu không chấp sự chứng đắc tức là đắc, tức là hiện quán, tức là quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì người ấy chẳng làm hoại tướng pháp giới.
Thiện Hiện nên biết, nếu người nào đối với không chấp sự chứng đắc này, muốn có sự chứng đắc, muốn đắc hiện quán, muốn đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên biết đó là muốn hoại pháp giới. Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu người nào chấp sự chứng đắc thì không sở đắc, không hiện quán, cũng không có quả vị Giác ngộ cao tột. Còn nếu không chấp sự chứng đắc tức là đắc, tức là hiện quán, là quả vị Giác ngộ cao tột. Ở trong cái không chấp, không sở đắc, không hiện quán, cũng không có quả vị Giác ngộ cao tột, như vậy thì các Đại Bồ-tát làm sao chứng đắc có Sơ địa, Nhị địa, cho đến Thập địa? Làm sao chứng đắc có Vô sinh pháp nhẫn? Làm sao chứng đắc có quả Dị thục để dẫn phát thần thông? Làm sao đắc có quả Dị thục phát sinh Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa? Làm sao chứng đắc có sự an trụ kết quả Dị thục như thế để sinh các pháp, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, gần gũi chư Phật để cúng dường thức ăn thượng diệu, đạt được căn lành, cho đến quả vị Giác ngộ cao tột, được kết quả vô cùng tận, mãi cho đến sau khi nhập vào Niết-bàn, để lại xá-lợi và các đệ tử vẫn được sự cúng dường, cung kính, thế lực căn lành vẫn lưu tồn mãi mãi?
Phật bảo:
–Này Thiện Hiện, vì tất cả pháp không chấp sự chứng đắc nên các Đại Bồ-tát chứng đắc Sơ địa, Nhị địa, cho đến Thập địa, tức là nhờ đó nên chứng đắc có Vô sinh pháp nhẫn, cũng nhờ đó mà chứng đắc có phát sinh thần thông, nhờ đó mà chứng đắc có phát sinh Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhờ đó nên được an trụ vào quả Dị thục để phát sinh các pháp, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, gần gũi chư Phật để cúng dường các thứ thượng diệu, đạt được căn lành cho đến quả vị Giác ngộ cao tột, được kết quả vô cùng tận, mãi cho đến sau khi nhập vào Niết-bàn, để lại xá-lợi và các đệ tử vẫn được sự cúng dường, cung kính, thế lực căn lành vẫn lưu tồn mãi mãi.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp đều không có sự chứng đắc, thì sáu pháp Ba-la-mật-đa như Bố thí... và các thần thông có gì khác nhau?
Phật bảo:
–Này Thiện Hiện, sự không chứng đắc sáu pháp Ba-la-mật-đa như Bố thí... và các thần thông đều không khác nhau. Chỉ vì muốn làm cho người chấp vào sự chứng đắc xa lìa các sự đắm nhiễm, phương tiện tuyên thuyết sáu pháp Ba-la-mật-đa như Bố thí... và các thần thông có tướng khác nhau. Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì nhân duyên nào người mà nói không có sự chứng đắc, sáu phép Ba-la-mật-đa như Bố thí... và các thần thông không khác nhau? Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa không chấp sự bố thí, không chấp người thí, không chấp kẻ nhận, không chấp vật thí, không chấp quả thí mà hành bố thí, không chấp tịnh giới mà trì tịnh giới, không chấp an nhẫn mà tu an nhẫn, không chấp tinh tấn mà là siêng năng tinh tấn, không chấp tĩnh lự mà nhập tĩnh lự, không chấp Bát-nhã mà học Bát-nhã, không chấp thần thông mà phát sinh thần thông, không chấp bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo mà tu bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; nói rộng cho đến không chấp trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, không chấp các hữu tình mà đem lại sự thành tựu cho hữu tình, không chấp các cõi Phật mà làm nghiêm tịnh cõi Phật, không chấp Phật pháp mà chứng Bồ-đề.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không đối tượng chứng đắc. Nếu Đại Bồ-tát có thể hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa không đối tượng chứng đắc như thế thì Thiên ma, ngoại đạo không thể phá hoại được.
Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm thế nào chỉ một tâm hiện khởi thì gồm đủ cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; nói rộng cho đến ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, tức là tu hành Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp thì đều được Bát-nhã ba-la-mật-đa bảo hộ, đưa đến viên mãn.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chỉ một tâm hiện khởi thì gồm đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm bất cứ việc gì đều được thâu tóm trong Bát-nhã ba-la-mật-đa, chỉ một tâm hiện khởi gồm đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì việc tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, cho đến việc làm phát sinh ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp, đều được Bátnhã ba-la-mật-đa bảo hộ, nên xa lìa hai tưởng.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tuy hành sáu pháp Ba-la-mật-đa cho đến tuy làm phát sinh ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp, nhưng không có hai tưởng?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát- nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì muốn viên mãn Bố thí ba-la-mật-đa, nên ngay trong pháp Bố thí ba-lamật-đa gồm thâu tất cả Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến tám mươi vẻ đẹp mà hành bố thí. Do nhân duyên này, nên không có hai tưởng.
Như vậy, cho đến vì muốn viên mãn tám mươi vẻ đẹp nên ngay trong tám mươi vẻ đẹp cũng gồm thâu tất cả Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến ngay trong tám mươi vẻ đẹp mà làm phát sinh tám mươi vẻ đẹp. Do nhân duyên này nên không có hai tưởng.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát vì hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa trụ tâm vô lậu mà hành Bố thí ba-lamật-đa, nói rộng cho đến khi làm phát sinh tám mươi vẻ đẹp với tâm vô lậu mà làm phát sinh tám mươi vẻ đẹp. Vì vậy cho nên tuy hành Bố thí bala-mật-đa, cho đến làm phát sinh tám mươi vẻ đẹp nhưng không có hai tưởng.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu khi hành Bố thí ba-lamật-đa trụ tâm vô lậu mà hành Bố thí ba-la-mật-đa cho đến khi phát sinh tám mươi vẻ đẹp, trụ tâm vô lậu mà làm phát sinh tám mươi vẻ đẹp?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát- nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng tâm ly tướng, không thấy các tướng, mà hành Bố thí ba-la-mật-đa thì không thấy ai hành bố thí, thí vật gì, ai nhận vật thí, do đâu bố thí, vì đâu bố thí, vì sao thực hành bố thí? Trụ trong tâm ly tướng vô lậu này, ly ái, ly xan, mà hành Bố thí ba-la-mật-đa thì bấy giờ không thấy việc làm bố thí, cũng không thấy tâm vô lậu này cho đến không thấy tất cả Phật pháp. Đại Bồ-tát như vậy, là trụ tâm vô lậu mà hành Bố thí ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng tâm ly tướng thì không thấy các tướng mà làm phát sinh tám mươi vẻ đẹp, nghĩa là không thấy ai là người làm phát sinh, ai là được phát sinh, do việc này mà phát sinh, vì việc này mà phát sinh. Vì sao phát sinh tám mươi vẻ đẹp? Trụ trong tâm ly tướng vô lậu này không nhiễm, không đắm trước mà phát sinh tám mươi vẻ đẹp. Bấy giờ không thấy phát sinh tám mươi vẻ đẹp, cũng lại không thấy tâm vô lậu này, cho đến không thấy tất cả Phật pháp. Đại Bồ-tát như vậy, dùng tâm vô lậu mà làm phát sinh tám mươi vẻ đẹp.
Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát nào khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa biết tất cả pháp không tướng, không đắc, cũng không tạo tác, thì làm sao viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa? Làm sao viên mãn pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh? Làm sao viên mãn chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn? Làm sao viên mãn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo? Làm sao viên mãn bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Làm sao viên mãn bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc? Làm sao viên mãn pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện? Làm sao viên mãn tám Giải thoát, cho đến mười Biến xứ? Làm sao viên mãn bậc Cực hỷ, cho đến bậc Pháp vân? Làm sao viên mãn tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa? Làm sao viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông? Làm sao viên mãn mười lực của Như Lai, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng? Làm sao viên mãn đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả? Làm sao viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả? Làm sao viên mãn trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng? Làm sao viên mãn tất cả hạnh Đại Bồ-tát? Làm sao viên mãn quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật? Làm sao viên mãn ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên dùng tâm ly tướng vô lậu mà tu Bố thí ba-la-mật-đa. Các hữu tình nào cần ăn thì cho ăn, cần uống thì cho uống, cần các vật dụng thì cho các vật dụng. Các hữu tình nào cần xin các phần trong thân thể như: đầu, mắt, tủy, não, da, thịt, đốt lóng, gân cốt, thân mạng... thì cũng đều bố thí cho họ. Nếu họ xin các thứ bên ngoài như: quốc gia, thành trì, vợ con, quyến thuộc thân yêu hay các thứ tốt đẹp khác thì cũng đều vui vẻ bố thí cho họ.
Khi Bồ-tát hành bố thí như vậy, giả sử có người đến trước mặt quở trách: “Cần gì Bồ-tát phải làm việc bố thí không lợi ích này? Người nào hành bố thí như thế, đời này đời sau thân tâm sẽ mệt mỏi, chịu nhiều khổ não”, thì Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa ấy, tuy nghe vậy, nhưng chẳng hề thoái tâm. Chỉ suy nghĩ: “Tuy người kia đến quở trách ta, nhưng tâm ta không hối hận. Ta nên dũng mãnh hơn, bố thí vật cần dùng cho các hữu tình, thân tâm không mệt mỏi.”
Đại Bồ-tát ấy đem phước bố thí này bình đẳng san sẻ cho các hữu tình và cùng hồi hướng về trí Nhất thiết trí. Khi bố thí và hồi hướng như vậy, Bồtát không thấy các tướng. Đó là không thấy ai thí, ai nhận thí, thí vật gì, ở đâu mà thí; do đâu, vì đâu, vì sao hành bố thí? Cũng lại không thấy ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, hồi hướng cái gì; do đâu, vì đâu, vì sao hồi hướng? Đối với tất cả các sự việc như thế đều chẳng thấy. Vì sao? Vì các pháp như thế đều do pháp không bên trong, cho nên không. Như vậy cho đến pháp không tướng, nên không. Khi quán tất cả các pháp, không có pháp nào là chẳng không rồi, Đại Bồ-tát suy nghĩ: “Ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, hồi hướng cái gì; do đâu, vì đâu, vì sao hồi hướng? Các pháp như thế đều chẳng thể nắm bắt được.” Đại Bồ-tát này do quán sát và suy nghĩ như vậy mà phát sinh hồi hướng, nên gọi là hồi hướng trọn vẹn. Nhờ đó có thể đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, cũng có thể viên mãn việc làm Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến cũng có thể viên mãn tám mươi vẻ đẹp.
Tuy Đại Bồ-tát này có thể Bố thí ba-la-mật-đa như thế, nhưng không nhận lấy quả Dị thục của sự bố thí. Tuy không nhận lấy quả Dị thục của sự bố thí nhưng do Bố thí ba-la-mật-đa thanh tịnh hoàn toàn nên tùy theo ý muốn mà hiện tất cả của cải, giống như chư Thiên ở cõi Tha hóa tự tại, tất cả các vật cần dùng đều theo tâm mà hiện bày.
Đại Bồ-tát này cũng lại như vậy, các thứ cần dùng đều tùy theo ý muốn mà hiện ra. Do nhờ thế lực của việc bố thí này tăng trưởng nên Bồ-tát có thể dùng các thứ vật dụng thượng hạng cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn, cũng làm cho sung túc cho các chúng trời, người. Đại Bồ-tát ấy do Bố thí ba-la-mật-đa này độ khắp các loài hữu tình, dùng phương tiện thiện xảo, đem pháp ba thừa mà giáo hóa họ tùy theo ý muốn, làm cho họ được lợi ích, an vui.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa do sức của tâm vô lậu, xa lìa các tướng nên ở trong tất cả pháp không tướng, không đắc, không tạo tác, viên mãn Bố thí ba-la-mật-đa, cũng có thể viên mãn các pháp thiện khác.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể dùng tâm vô lậu làm tướng mà tu Tịnh giới ba-la-mật-đa, đó là pháp tóm thâu các chi Thánh đạo vô lậu, như thế là đắc giới thanh tịnh hoàn toàn. Tịnh giới như thế không khuyết, không hở, không tỳ vết, không nhơ uế, không chấp giữ, xứng đáng nhận cúng dường, được người trí khen ngợi. Nhờ tịnh giới này, đối với tất cả pháp đều không chấp giữ, nghĩa là không chấp có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến không chấp có ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp, không chấp có dòng dõi lớn Sát-đế-lợi cho đến dòng dõi lớn Cư sĩ, không chấp có bốn chúng Đại thiên vương, cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ; không chấp có quả Dự lưu, cho đến Độc giác Bồ-đề; không chấp có ngôi Chuyển luân vương và các ngôi Tiểu vương, Tể quan..., chỉ đem sự trì giới như thế, bình đẳng san sẻ cho các hữu tình và cùng hồi hướng về trí Nhất thiết trí. Trong khi hồi hướng, dùng không tướng, không sở đắc, không hai làm phương tiện, chứ chẳng phải dùng tướng có, có sở đắc, có hai làm phương tiện; chỉ nương vào thế tục, không nương vào thắng nghĩa. Nhờ nhân duyên này, tất cả Phật pháp đều được viên mãn.
Đại Bồ-tát ấy do trì Tịnh giới ba-la-mật-đa này, dùng phương tiện thiện xảo, nhập bốn phần tĩnh lự thắng tấn, không đắm trước, làm phương tiện nên làm phát sinh thần thông. Đại Bồ-tát này dùng Thiên nhãn thanh tịnh của dị thục hiện thế, có thể thấy chư Phật hiện tại khắp mười phương, cho đến chứng đắc trí Nhất thiết trí, đối với các sự việc đã thấy được đều không quên mất; dùng Thiên nhĩ thanh tịnh vượt người thường, có thể nghe được chư Phật mười phương thuyết pháp, cho đến chứng đắc trí Nhất thiết trí, đối với các điều đã nghe chẳng bao giờ quên mất; theo pháp đã nghe, thường làm các việc lợi ích cho mình và cho người, không để uổng phí; dùng Tha tâm trí có thể biết được chư Phật khắp mười phương và tâm, tâm sở của các loài hữu tình; biết rồi có thể tùy theo nhu cầu của tất cả hữu tình mà làm các việc lợi ích cho họ; dùng Túc trụ trí biết được các nghiệp quá khứ của các hữu tình, do sự tạo nghiệp không mất nên sinh vào các chỗ này, chỗ kia, thọ các sự khổ vui; biết rồi vì họ mà nói nhân duyên nghiệp cũ, làm cho họ nhớ biết để làm việc lợi ích; dùng Lậu tận trí giáo hóa hữu tình, hoặc làm cho họ chứng quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, nói rộng cho đến an trú quả vị Giác ngộ cao tột.
Nói tóm lại, Đại Bồ-tát này sinh ra ở bất cứ chỗ nào cũng tùy theo hữu tình, có thể dùng phương tiện sai khác làm cho họ an trú các thiện phẩm.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nhờ sức tâm vô lậu xa lìa các tướng, nên ở trong tất cả pháp không tướng, không đắc, không tạo tác, viên mãn Tịnh giới ba-la-mật-đa và có thể viên mãn các thiện pháp khác.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên dùng tâm vô lậu lìa tướng mà tu An nhẫn ba-la-mật-đa. Đại Bồtát này từ lúc mới phát tâm cho đến khi an tọa nơi tòa Bồ-đề vi diệu, trong khoảng trung gian giả sử các loài hữu tình đều cầm các thứ khí cụ đến làm hại, thì Đại Bồ-tát này không sinh tâm sân giận. Lúc ấy, Bồ-tát nên tu hai nhẫn: Một là nên chịu đựng tất cả những sự nhục mạ, gia hại của các hữu tình, không sinh tâm giận dữ, hóa giải sân hận. Hai là nên phát sinh Vô sinh pháp nhẫn.
Nếu nghe các lời nói cay độc, nhục mạ, hoặc xúc phạm các loại dao gậy làm hại thì Đại Bồ-tát nên quán sát suy nghĩ: “Ai nhục mạ? Ai chịu nhục mạ? Ai làm hại? Ai bị hại? Ai giận dữ? Ai nhẫn chịu?” Lại nên quán kỹ: “Tất cả pháp lành đều hoàn toàn không, pháp còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có pháp tánh; pháp tánh cũng còn không có huống là có hữu tình.” Khi quán như vậy, người mạ nhục hoặc người bị mạ nhục, người hại hoặc người bị hại đều chẳng thấy có, cho đến bị mổ xẻ, cắt đứt thân thể từng đoạn, Bồ-tát vẫn nhẫn được, không sinh niệm gì khác. Đối với các pháp tánh, Bồ-tát như thật quán sát mới có thể chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn.
Thế nào là Vô sinh pháp nhẫn? Nghĩa là làm cho tất cả phiền não chẳng phát sinh, Trí tuệ vi diệu thường không gián đoạn; quán sát tất cả pháp hoàn toàn chẳng sinh. Vì vậy gọi là Vô sinh pháp nhẫn.
Đại Bồ-tát này an trụ trong hai pháp nhẫn như thế, nên mau được viên mãn sáu pháp Ba-la-mậtđa như Bố thí..., nói rộng cho đến mau được viên mãn tám mươi vẻ đẹp.
Đại Bồ-tát này an trụ các pháp Phật như thế rồi, đối với các thần thông xuất thế ngay trong vô lậu của bậc Thánh đều được viên mãn, không giống như thần thông của các Thanh văn, Độc giác. An trụ trong thần thông thù thắng như thế rồi, Bồ-tát dùng Thiên nhãn thanh tịnh thường thấy chư Phật trong hiện tại khắp mười phương cho đến chứng đắc trí Nhất thiết trí, luôn tùy niệm Phật, thường không gián đoạn; dùng Thiên nhĩ thanh tịnh thường nghe chư Phật mười phương thuyết pháp, thọ trì chẳng quên rồi như thật giảng thuyết cho các loài hữu tình; dùng Tha tâm trí có thể biết tâm và tâm sở của chư Phật Thế Tôn, cũng có thể biết chính xác tâm và tâm sở của các loài hữu tình, tùy theo căn cơ mà nói chánh pháp, làm cho họ phát sinh sự hiểu biết thù thắng; dùng Túc trụ trí biết các hữu tình đời trước gieo trồng căn lành khác nhau, biết rồi dùng phương tiện thị hiện khuyên bảo, dẫn dắt, khen ngợi, khích lệ, chúc mừng, làm cho họ được lợi ích; dùng Lậu tận trí tùy theo căn cơ của họ mà an lập họ ở pháp ba thừa.
Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo làm nghiêm tịnh cõi Phật, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, mau được đầy đủ trí Nhất thiết trí, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, vận chuyển pháp luân vi diệu làm lợi ích cho tất cả.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nhờ sức tâm vô lậu xa lìa các tướng, nên đối trong các pháp không tướng, không đắc, không tạo tác, viên mãn An nhẫn ba-lamật-đa và cũng có thể viên mãn các thiện pháp khác.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên dùng tâm vô lậu lìa tướng mà tu Tinh tấn ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy thành tựu thân tâm tinh tấn mạnh mẽ, nhập vào Sơ tĩnh lự cho đến có thể nhập Tĩnh lự thứ tư. Nương vào bốn Tĩnh lự này phát sinh các thần thông biến hiện, cho đến đưa tay rờ tới mặt trời mặt trăng, tự do xoay chuyển không thấy khó khăn; thành tựu thân dũng mãnh tinh tấn, nên dùng sức thần thông, trong chừng giây lát, có thể đến được hằng hà sa số thế giới của chư Phật khắp mười phương, lại đem các món thượng hạng vừa ý cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn. Nhờ đó, quả báo căn lành vô tận, dần dần chứng đắc trí Nhất thiết trí. Nhờ sức mạnh của căn lành này tăng trưởng, đã được thành Phật rồi, lại được vô lượng, Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian, đem vô lượng món thượng diệu, vừa ý cung kính cúng dường. Nhờ căn lành này, sau khi nhập Niết-bàn, để lại xá-lợi và các đệ tử, vẫn được vô lượng, Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian cung kính cúng dường.
Đại Bồ-tát này lại dùng thần lực có thể đến hằng hà sa số thế giới của chư Phật khắp mười phương. Ở chỗ chư Phật lắng nghe chánh pháp rồi thọ trì, cho đến khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, không thể quên mất.
Đại Bồ-tát này dùng thần lực có thể đến hằng hà sa số thế giới của chư Phật khắp mười phương đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, tinh tấn tu học trí Nhất thiết tướng, đã được viên mãn rồi, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, vận chuyển pháp luân vi diệu độ thoát các loài hữu tình.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát thành tựu thân tinh tấn dũng mãnh nên có thể làm cho Tinh tấn ba-la-mật-đa mau được viên mãn.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát thành tựu tâm tinh tấn dũng mãnh nên mau viên mãn các Thánh đạo vô lậu và các chi đạo, thuộc về Tinh tấn ba-la-mật-đa. Nhờ đó, có thể làm cho tất cả các nghiệp bất thiện nơi thân, ngữ, ý không phát sinh được.
Đại Bồ-tát ấy đối với các pháp không bao giờ chấp giữ, thường hoặc vô thường, khổ hoặc vui, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, cảnh giới hữu vi hoặc cảnh giới vô vi, hoặc Dục giới, hoặc Sắc giới, hoặc Vô sắc giới, hoặc bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, hoặc bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, hoặc ba pháp môn giải thoát, hoặc vô lượng, vô biên các pháp Phật khác đều chẳng chấp giữ thường hoặc vô thường... cũng không chấp giữ quả Dự lưu cho đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Đại Bồ-tát ấy cũng chẳng chấp giữ đây là bậc Dự lưu, là bậc Nhất lai cho đến đây là Phật; cũng không chấp giữ hữu tình nào thấy hoàn toàn thì gọi là bậc Dự lưu. Hữu tình nào làm mỏng hạ phần kết sử thì gọi là bậc Nhất lai. Hữu tình nào đoạn tận hạ phần kết sử thì gọi là bậc Bất hoàn. Hữu tình nào đoạn tận thượng phần kết sử thì gọi là bậc A-lahán. Hữu tình nào đạt được Độc giác thì gọi là Độc giác. Hữu tình nào đạt được trí Đạo tướng thì gọi là Bồ-tát. Hữu tình nào đạt được trí Nhất thiết tướng thì gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
Đại Bồ-tát này đối với các pháp và các hữu tình như thế đều không chấp giữ. Vì sao? Vì tất cả pháp và các hữu tình đều không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Đại Bồ-tát này thành tựu tâm tinh tấn dũng mãnh nên dù làm các việc lợi ích cho hữu tình mà vẫn không tiếc thân mạng, vẫn đối với các hữu tình đều không chấp trước.
Mặc dù đã viên mãn sự tu Tinh tấn ba-la-mậtđa, nhưng vẫn đối với Tinh tấn ba-la-mật-đa đều không chấp trước; dù đã viên mãn tất cả Phật pháp nhưng đối với Phật pháp đều không chấp trước; dù đã nghiêm tịnh tất cả cõi Phật nhưng đối với cõi Phật đều không chấp trước.
Đại Bồ-tát này thành tựu thân tâm tinh tấn như thế, dù đã xa lìa tất cả pháp ác, cũng có thể thu nhận tất cả pháp lành nhưng không chấp trước. Vì không chấp trước nên ở cõi Phật này đến cõi Phật kia, ở thế giới này đến thế giới kia đều muốn làm lợi ích cho các loài hữu tình, nên ý muốn thị hiện các việc thần thông, thì đều có thể thị hiện tự tại vô ngại. Nghĩa là hoặc thị hiện rưới các hoa đẹp, rải các hương thơm, trổi các âm nhạc, hiện mây, tiếng sấm chấn động cả đại địa, hoặc thị hiện bảy món báu đẹp đẽ trang nghiêm thế giới, thân phóng ánh sáng làm cho chúng sinh đui mù đều được thấy rõ; hoặc thị hiện thân phát ra các mùi hương vi diệu, những vật nhơ uế đều được thơm tho sạch sẽ, hoặc thị hiện xây dựng đền cúng tế, ở trong đó không làm hại các loài hữu tình. Nhân đó giáo hóa dẫn dắt vô lượng hữu tình, làm cho họ nhập vào chánh đạo, xa lìa sự giết hại sinh mạng, cho đến việc tà kiến, hoặc thực hành việc Bố thí cho đến Bát-nhã, nhiếp hóa hữu tình.
Vì muốn làm lợi ích các loài hữu tình nên hoặc là xả bỏ của báu, hoặc xả bỏ vợ con, hoặc xả bỏ ngôi vua, hoặc xả bỏ phần thân thể, hoặc bỏ cả thân mệnh, tùy theo các loài hữu tình, nên dùng phương tiện như thế, như thế mới được làm lợi lạc cho họ, thì liền dùng phương tiện như thế, như thế mà làm lợi lạc cho họ.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa do sức tâm vô lậu xa lìa các tướng nên ở trong tất cả pháp không tướng, không đắc, không tác, viên mãn Tinh tấn ba-lamật-đa và có thể viên mãn các pháp thiện khác.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên dùng tâm vô lậu lìa tướng mà tu Tĩnh lự ba-la-mật-đa thì trừ định của Như Lai, còn đối với các định khác, Đại Bồ-tát ấy đều có thể viên mãn. Đại Bồ-tát ấy xa lìa pháp dục ác, bất thiện, có tầm, có tứ, ly sinh hỷ lạc, nhập vào Sơ tĩnh lự cho đến chứng nhập Tĩnh lự thứ tư, được an trụ hoàn toàn.
Đại Bồ-tát ấy dùng tâm tương ưng Từ, nói rộng cho đến dùng tâm tương ưng Xả duyên khắp mười phương mà an trụ hoàn toàn. Đại Bồ-tát ấy vượt qua các tưởng sắc, diệt tưởng có đối đãi không tư duy các thứ tưởng, nhập vào vô biên không, Không vô biên xứ, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trụ hoàn toàn. Đại Bồ-tát ấy an trú Tĩnh lự ba-lamật-đa đối với tám Giải thoát, chín Định thứ đệ, đều có thể an trú dù thuận nghịch hoàn toàn. Đại Bồ-tát ấy đối với Không, Vô tướng, Vô nguyện, Đẳng trì an trụ hoàn toàn.
Đối với định Vô gián, định Như điển quang, định Kim cang dụ, định Thánh Chánh... an trụ hoàn toàn.
Đại Bồ-tát ấy an trú Tĩnh lự ba-la-mật-đa, tu ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề và trí Đạo tướng đều được viên mãn, dùng trí Đạo tướng tóm thâu tất cả Tam-ma-địa rồi, tuần tự tu hành vượt lên địa Chỉ quán, cho đến tu hành vượt lên bậc Độc giác rồi, mới chứng vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát. Đã nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, tu hạnh các địa, viên mãn quả Phật, Đại Bồ-tát ấy đối với các địa dù tuần tự tu vượt qua cho đến chưa chứng đắc trí Nhất thiết trí, trong giai đoạn ấy, không chấp lấy quả chứng.
Đại Bồ-tát ấy an trú Tĩnh lự ba-la-mật-đa, từ cõi Phật này đến cõi Phật kia gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, ở chỗ chư Phật trồng nhiều căn lành, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, từ thế giới này đến thế giới kia làm lợi ích an vui cho hữu tình, thân tâm không mệt mỏi. Hoặc dùng Bố thí cho đến Bát-nhã, nhiếp hóa các hữu tình, hoặc dùng uẩn giới cho đến giải thoát tri kiến để nhiếp hóa các hữu tình, hoặc dạy cho họ an trụ quả Dự lưu, nói rộng cho đến dạy cho họ an trụ quả vị Giác ngộ cao tột. Tùy theo thế lực căn lành của loài hữu tình, làm cho pháp lành tăng trưởng, dùng các thứ phương tiện làm cho họ an trụ. Đại Bồ-tát ấy an trú Tĩnh lự ba-la-mật-đa có thể làm phát sinh tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chứng đắc bốn sự hiểu biết thông suốt thù thắng, chứng đắc Thần thông dị thục thù thắng.
Đại Bồ-tát ấy thành tựu Thần thông dị thục thù thắng, quyết định không thọ bào thai, quyết định không thọ vui dâm dục, quyết định không lệ thuộc vào chiếc xe thọ sinh, quyết định không bị tội lỗi thọ sinh làm ô nhiễm. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy khéo thấy khéo biết tất cả pháp hoàn toàn đều như huyễn hóa.
Tuy Đại Bồ-tát biết các hành đều như huyễn hóa, nhưng vì nương vào Bi nguyện lợi lạc cho hữu tình; tuy nương vào Bi nguyện lợi lạc cho hữu tình mà vẫn hiểu hữu tình và sự hoạt động của chúng đều chẳng thể nắm bắt được; tuy hiểu loài hữu tình và sự hoạt động của chúng đều chẳng thể nắm bắt được nhưng vẫn an lập tất cả hữu tình làm cho chúng an trụ trong pháp chẳng thể nắm bắt được.
Đây là nương nơi Thế tục đế, chẳng phải nương nơi Thắng nghĩa đế.
Đại Bồ-tát ấy an trú Tĩnh lự ba-la-mật-đa, tu hành tất cả tĩnh lự giải thoát, đẳng trì, đẳng chí cho đến viên mãn quả vị Giác ngộ cao tột, luôn không xa lìa việc tu Tĩnh lự ba-la-mật-đa.
Đại Bồ-tát ấy hành trí Đạo tướng phương tiện làm phát sinh trí Nhất thiết tướng, an trụ trong ấy, đoạn trừ vĩnh viễn tập khí tương tục của phiền não, làm lợi mình lợi người, làm phước điền thanh tịnh cho tất cả, Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian đáng thọ nhận sự cung kính cúng dường của thế gian.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, do sức tâm vô lậu xa lìa các tướng nên ở trong tất cả pháp, không tướng, không đắc, không tác, viên mãn Tĩnh lự ba-la-mậtđa và có thể viên mãn các pháp thiện khác.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên dùng tâm vô lậu lìa tướng mà tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồtát ấy hoàn toàn không thấy một pháp nhỏ nào thật có. Nghĩa là không thấy có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho đến các pháp hữu lậu và vô lậu là hoàn toàn thật có; cũng lại không thấy các pháp như vậy có sinh có diệt, hoặc có loại tăng thêm, hoặc có loại giảm xuống, hoặc có chứa nhóm, hoặc có phân ly. Như thật quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho đến các pháp hữu lậu và vô lậu đều là hư dối, đều không bền chắc, đều không có tự tánh.
Đại Bồ-tát ấy khi quán sát như vậy, chẳng sở đắc tự tánh của sắc, chẳng sở đắc tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho đến chẳng sở đắc tự tánh của các pháp hữu lậu, chẳng sở đắc tự tánh của pháp vô lậu.
Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, khi quán như vậy đối với tất cả pháp phát sinh sự tin, hiểu sâu sắc, đều lấy không tánh làm tự tánh.
Đối với những việc như thế sinh tin hiểu rồi, có thể hành pháp không bên trong cho đến hành pháp không không tánh tự tánh. Khi hành như vậy, đối với tất cả pháp không chấp trước, nghĩa là không chấp trước sắc, cũng không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho đến không chấp trước tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng không chấp trước quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không sở hữu có khả năng viên mãn đạo Bồđề, nghĩa là có khả năng viên mãn các Ba-la-mậtđa như Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã; nói rộng cho đến tám mươi vẻ đẹp. Đại Bồ-tát ấy an trụ đạo Bồ-đề như thế rồi, lại có khả năng viên mãn quả Phật dị thục, nghĩa là viên mãn các Ba-la-mật-đa như Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã và vô lượng pháp phần Bồ-đề khác. Đại Bồ-tát ấy an trụ quả Phật dị thục như thế, do quả Dị thục phát sinh năng lực thần thông, dùng phương tiện làm lợi ích các loài hữu tình, tùy theo các hữu tình, đáng dùng Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa mà độ thoát họ, thì liền dùng Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa mà độ thoát họ; nên dùng uẩn giới cho đến giải thoát tri kiến mà độ thoát, thì liền dùng uẩn giới cho đến giải thoát tri kiến mà độ thoát họ. Người nào đáng làm cho họ an trú quả Dư lưu hoặc quả Nhất lai cho đến quả vị Giác ngộ cao tột, liền dùng phương tiện làm cho họ an trụ quả Dự lưu hoặc quả Nhất lai cho đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Đại Bồ-tát ấy có thể làm các việc như biến hiện thần thông; muốn đến hằng hà sa số thế giới đều tự ý đi đến; muốn hiện các thứ trân bảo trong các thế giới mà mình đã đến, đều tùy ý hiện; muốn làm cho các hữu tình trong các thế giới mà mình đã đến, thọ dụng các trân bảo quý giá, tùy theo chỗ ưa muốn của họ đều làm cho họ được đầy đủ.
Đại Bồ-tát ấy ở thế giới này đến thế giới khác đều làm lợi ích an vui cho các hữu tình, thấy tướng nghiêm tịnh các thế giới có thể tự mình độ thoát tùy theo ý muốn, làm trang nghiêm cõi Phật. Giống như chư Thiên Tha hóa tự tại, cần dùng các thứ vừa ý đều tùy tâm hiện ra, Bồ-tát ấy cũng vậy, tùy ý thọ dụng các thứ, trang nghiêm vô lượng cõi Phật. Sự thọ dụng ở các cõi Phật này đều nhiệm mầu thanh tịnh, xa lìa các pháp tạp nhiễm, tùy theo ý muốn mà hiển hiện.
Đại Bồ-tát ấy do thân dị thục này mà Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa và do thân dị thục này sinh ra các thần thông vi diệu. Cũng do thân dị thục này sinh đạo Bồ-đề nên hành trí Đạo tướng, nhờ trí Đạo tướng được thành thục nên chứng đắc trí Nhất thiết tướng. Nhờ chứng đắc trí này nên đối với tất cả pháp không còn chấp lấy, nghĩa là không chấp lấy sắc, cũng không chấp lấy thọ, tưởng, hành, thức; nói rộng cho đến cũng không chấp lấy pháp thiện, pháp ác, pháp thế gian hoặc pháp xuất thế gian, pháp hữu lậu hoặc pháp vô lậu, pháp hữu vi hoặc pháp vô vi, cũng không chấp lấy quả tu chứng là quả vị Giác ngộ cao tột, cũng không chấp lấy các vật đã thọ dụng ở các cõi Phật, trong ấy hữu tình đối với tất cả pháp cũng không chấp lấy. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy trước không chấp lấy tất cả pháp nên đối với tất cả pháp đều không sở đắc, vì các hữu tình tùy thuận giảng thuyết, tất cả pháp tánh, không chấp lấy.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, do sức tâm vô lậu xa lìa các tướng, nên ở trong tất cả pháp không tướng, không đắc, không tác, viên mãn Bát-nhã ba-lamật-đa và có thể viên mãn các thiện pháp khác.
Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, làm thế nào các Đại Bồ-tát đối với các pháp không tạp, không tướng, tự tướng không mà có thể viên mãn Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa? Làm sao đối với tất cả pháp vô lậu không khác nhau mà bày ra sự khác nhau? Làm sao biết rõ tướng sai khác của các pháp như thế? Làm sao ở trong Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu sáu pháp Ba-la-mật-đa và tất cả các pháp thế gian, xuất thế gian? Làm sao đối với các pháp tướng khác mà thích bày một tướng, đó là không tướng và ở trong pháp một tướng, không tướng, hiện bày các loại pháp tướng khác nhau?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như bóng, như ảnh trong gương, như quáng nắng, như huyễn, như hóa, như thành Càn-thát-bà, vì các hữu tình mà tu hành Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, như thật biết rõ năm thủ uẩn như mộng, cho đến như thành Cànthát-bà, hoàn toàn không tướng. Vì sao? Vì mộng cho đến thành Càn-thát-bà đều không tự tánh. Nếu pháp không tự tánh thì pháp ấy không tướng; nếu pháp ấy không tướng tức là pháp một tướng nên gọi là không tướng. Do nhân duyên này, nên biết tất cả người thí, kẻ nhận, vật thí, tánh thí, quả thí, duyên thí hoàn toàn không tướng. Nên biết như vậy mà hành bố thí thì có thể viên mãn sự tu hành Bố thí ba-la-mật-đa. Nếu có thể viên mãn sự tu hành Bố thí ba-la-mật-đa thì đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, thường không xa lìa và an trú sáu pháp Ba-la-mật-đa này thì có thể viên mãn bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cũng có thể viên mãn bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; nói rộng cho đến viên mãn trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Đại Bồ-tát ấy an trú các pháp vô lậu thánh thiện dị thục sinh như vậy, dùng sức thần thông có thể đến được hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương, đem vô lượng vật dụng thượng hạng cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn và làm việc lợi ích cho các loài hữu tình. Người đáng dùng Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa để độ, liền dùng Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa mà độ thoát. Người đáng dùng các thiện pháp khác để độ, liền dùng các thiện pháp khác mà độ thoát.
Đại Bồ-tát ấy thành tựu căn lành thù thắng như vậy đối với tất cả pháp đều được tự tại, tuy thọ trong sinh tử nhưng chẳng bị tội lỗi của sinh tử làm ô nhiễm. Vì muốn làm lợi ích cho các loài hữu tình nên thọ nhận sự giàu sang tự tại ở cõi trời, cõi người. Do thế lực giàu sang tự tại nên làm các việc lợi ích cho các hữu tình, dùng bốn Nhiếp pháp để nhiếp hóa họ, Đại Bồ-tát này biết tất cả pháp đều vô tướng, nên tuy biết quả Dư lưu nhưng không trụ quả ấy, cho đến tuy biết Độc giác Bồ-đề cũng vẫn không trụ Độc giác Bồ-đề. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy như thật biết rõ tất cả pháp rồi và muốn chứng đắc trí Nhất thiết tướng, không giống với các bậc Thanh văn, Độc giác.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát biết tất cả pháp đều vô tướng, nên như thật biết rõ sáu pháp Ba-la-mật-đa như Bố thí... và vô lượng, vô biên các pháp Phật khác cũng đều vô tướng. Do nhân duyên này, có thể viên mãn tất cả Phật pháp, mới có khả năng chứng đắc trí Nhất thiết trí, ở đời vị lai làm lợi ích an vui cho các hữu tình.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như bóng, như ảnh trong gương, như quáng nắng, như huyễn, như hóa, như thành Càn-thát-bà, viên mãn Tịnh giới ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy như thật biết rõ năm thủ uẩn này như mộng cho đến như thành Càn-thát-bà, liền viên mãn vô tướng Tịnh giới bala-mật-đa. Tịnh giới như thế không khuyết, không hở, không tỳ vết, không nhơ uế, không chấp giữ, đáng được cúng dường, được người trí khen ngợi, thọ trì tốt đẹp, rốt ráo tốt đẹp, là Thánh vô lậu, thuộc về đạo xuất thế. An trú giới này mới có thể thọ trì hoàn toàn, thọ giới thiết lập, đắc giới tự nhiên, giới luật nghi, giới hữu biểu, giới vô biểu, giới hiện hành, giới chẳng hiện hành, giới oai nghi, giới chẳng phải oai nghi. Tuy thành tựu đầy đủ các giới như thế, nhưng đối với các giới này Đại Bồtát không còn chấp trước, không nghĩ rằng: “Ta nhờ giữ giới này sẽ được sinh vào dòng dõi lớn Sátđế-lợi cho đến dòng dõi lớn Cư sĩ, được giàu sang tự tại.” Lại không nghĩ: “Ta nhờ giữ giới này sẽ sinh làm tiểu vương hoặc làm đại vương, Luân vương, hoặc làm phụ tướng, được giàu sang tự tại.” Lại không nghĩ: “Ta nhờ giữ giới này sẽ được sinh trong cõi trời Tứ đại Thiên vương, cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ, được giàu sang tự tại.” Lại không nghĩ: “Ta nhờ giữ giới này sẽ được chứng quả Dự lưu cho đến quả vị Giác ngộ cao tột.” Vì sao? Vì các pháp như thế đều đồng một tướng, gọi là không tướng, không trú, không nắm bắt được. Pháp không tướng không nắm bắt không tướng, pháp có tướng không nắm bắt có tướng, pháp không tướng không nắm bắt có tướng, pháp có tướng không nắm bắt không tướng. Do nhân duyên này đều không, không nắm bắt.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mau viên mãn đắc Tịnh giới ba-la-mật-đa vô tướng. Đã viên mãn Tịnh giới ba-la-mật-đa vô tướng mau nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát. Đã nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát thì chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát. Đã chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát nên tu hành trí Đạo tướng, thẳng đến trí Nhất thiết tướng, đắc năm Thần thông dị thục sinh thù thắng. Lại đắc năm trăm tất cả pháp môn Đàla-ni, cũng được năm trăm tất cả pháp môn Tamma-địa. Trụ ở địa này lại đắc bốn sự hiểu biết thông suốt từ cõi Phật này đến cõi Phật kia gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật.
Đại Bồ-tát ấy vì hóa độ hữu tình nên tuy thị hiện lưu chuyển trong các đường sinh tử nhưng không hề bị tội lỗi kia làm ô nhiễm. Như người huyễn hóa tuy hiện các việc đi, đứng, nằm, ngồi nhưng thật sự không có các việc qua lại chân thật, tuy hiện ra các thứ lợi ích an vui cho loài hữu tình nhưng đối với các hữu tình và sự hoạt động của họ đều không sở đắc.
Ví như có Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tên là Tô-phiến-đa chứng đắc Bồ-đề rồi, vận chuyển pháp luân vi diệu độ thoát vô lượng chúng sinh làm cho thoát khỏi sinh tử, chứng đắc Niếtbàn. Khi ấy, không có loài hữu tình nào dám nhận sự thọ ký của Phật, Ngài liền biến hóa ra một vị Phật ở đời lâu dài, rồi tự xả bỏ thọ mạng, nhập vào Niết-bàn. Thân Phật biến hóa ấy trụ một kiếp rồi thọ ký đại Bồ-đề lại cho một vị Bồ-tát, sau đó thị hiện vào Niết-bàn tuyệt đối.
Thân Phật biến hóa kia tuy đã làm các việc lợi ích cho các hữu tình nhưng đều không sở đắc, nghĩa là chẳng sở đắc sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến chẳng sở đắc tất cả các pháp hữu lậu hay vô lậu và các hữu tình.
Các Đại Bồ-tát ấy cũng lại như vậy, tuy tạo tác mà không sở đắc.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, viên mãn Tịnh giới ba-la-mật-đa. Do Tịnh giới ba-la-mật-đa được viên mãn nên mới tóm thâu tất cả Phật pháp. Nhờ chứng đắc trí Nhất thiết trí, ở đời vị lai làm lợi ích an vui cho các hữu tình.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như bóng, như ảnh trong gương, như quáng nắng, như huyễn, như hóa, như thành Càn-thát-bà, viên mãn An nhẫn ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy như thật biết rõ năm thủ uẩn này như mộng, cho đến như thành Cànthát-bà liền viên mãn An nhẫn ba-la-mật-đa vô tướng.
Này Thiện Hiện, vì sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết rõ năm thủ uẩn như mộng cho đến như thành Càn-thát-bà, liền viên mãn An nhẫn ba-la-mật-đa vô tướng?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy như thật biết rõ năm thủ uẩn không có thật tướng nên tu hai thứ nhẫn, liền viên mãn An nhẫn ba-la-mật-đa vô tướng.
Những gì là hai? Một là An thọ nhẫn, hai là Quán sát nhẫn.
An thọ nhẫn nghĩa là các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến lúc an tọa nơi tòa Bồ-đề vi diệu, trong khoảng thời gian ấy giả sử có các loài hữu tình đến quở mắng, dùng dao gậy làm hại thì Bồtát An nhẫn ba-la-mật-đa không sinh tâm niệm hờn giận, cũng lại không sinh tâm niệm trả thù. Đại Bồtát chỉ nghĩ: “Các hữu tình kia rất đáng thương xót, phiền não trói buộc tâm họ, chẳng được tự tại cho nên mới phát sinh ác nghiệp với ta như vậy. Nay ta không nên giận ghét họ.” Lại nghĩ rằng: “Bởi ta gây tạo các uẩn oan gia nên các hữu tình ấy phát sinh ác nghiệp với ta như vậy. Chỉ tự trách mình, không nên giận họ.” Khi Bồ-tát ấy quán sát kỹ như vậy, đối với các loài hữu tình kia sinh tâm thương xót. Như vậy gọi là An thọ nhẫn.
Quán sát nhẫn là các Đại Bồ-tát suy nghĩ: “Các hành như huyễn, hư dối chẳng thật, chẳng được tự tại, cũng như hư không, vô ngã cho đến cái biết, cái thấy chỉ là hư vọng, do phân biệt khởi ra. Tất cả đều là sự biến hiện của tự tâm. Ai quở trách ta? Ai làm hại ta? Ai bị quở trách, bị làm hại? Tất cả đều là do tâm hư vọng, phân biệt. Nay ta không nên sinh tâm chấp trước. Các pháp như vậy, do tự tánh không, thắng nghĩa không nên đều không sở hữu.” Khi Đại Bồ-tát quán sát kỹ như vậy, như thật biết rõ các hành trống không, vắng lặng, đối với tất cả pháp không sinh niệm tưởng nào khác. Như vậy gọi là Quán sát nhẫn.
Đại Bồ-tát ấy tu học hai thứ nhẫn như vậy, nên mới có thể viên mãn An nhẫn ba-la-mật-đa vô tướng. Nhờ đó nên chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Vô sinh pháp nhẫn là như thế nào? Thế nào là Đoạn? Thế nào là Trí?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, do sức mạnh của pháp nhẫn này nên cho đến một chút phần pháp ác, bất thiện cũng không phát sinh được, vì vậy gọi là Vô sinh pháp nhẫn, pháp nhẫn này làm cho tất cả phiền não ngã, ngã sở và mạn, hoàn toàn vắng lặng, như thật nhẫn thọ các hành như mộng, nói rộng cho đến như thành Càn-thát-bà, nhẫn này gọi là Trí, chứng đắc Trí này mới gọi là đắc Vô sinh pháp nhẫn.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Vô sinh pháp nhẫn của Thanh văn, Độc giác cùng với Vô sinh pháp nhẫn của các hàng Bồ-tát có khác nhau chăng?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, những bậc Dự lưu cho đến Độc giác, hoặc Trí, hoặc Đoạn cũng gọi là nhẫn của Đại Bồ-tát. Lại có nhẫn của Đại Bồ-tát là nhẫn các pháp hoàn toàn chẳng sinh. Đó là khác nhau.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát thành tựu nhẫn thù thắng như vậy, vượt qua tất cả hàng Thanh văn, Độc giác. Các Đại Bồ-tát an trụ trong nhẫn dị thục như thế, hành đạo Bồ-tát nên viên mãn trí Đạo tướng, thành tựu trí Đạo tướng như vậy, nên luôn không xa lìa bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; cũng không xa lìa pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; cũng không xa lìa Dị thục thần thông. Do không xa lìa Dị thục thần thông, từ cõi Phật này đến cõi Phật kia gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật. Làm những việc này rồi, mới có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể mau viên mãn An nhẫn ba-la-mật-đa vô tướng. Do An nhẫn bala-mật-đa này được viên mãn nên mới viên mãn tất cả Phật pháp. Nhờ đó, chứng đắc trí Nhất thiết trí, ở đời vị lai làm lợi ích an vui cho hữu tình.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như bóng, như ảnh trong gương, như quáng nắng, như huyễn, như hóa, như thành Càn-thát-bà, như thật biết rõ năm thủ uẩn như mộng cho đến như thành Cànthát-bà không có thật tướng rồi, phát khởi thân tâm dũng mãnh, tinh tấn. Đại Bồ-tát ấy phát khởi thân tinh tấn rồi nhanh chóng phát sinh thần thông thù thắng, nên đến được các thế giới của chư Phật khắp mười phương, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, ở chỗ các Đức Phật trồng nhiều căn lành, làm lợi ích an vui cho các hữu tình, thường làm nghiêm tịnh các cõi Phật.
Đại Bồ-tát ấy do thân tinh tấn, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, dùng pháp ba thừa làm phương tiện làm họ an trụ.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, do thân tinh tấn mau được viên mãn Tinh tấn ba-la-mật-đa vô tướng. Đại Bồ-tát ấy phát tâm dũng mãnh tinh tấn nên làm phát sinh các chi Thánh đạo vô lậu, tóm thâu Thánh đạo, viên mãn Tinh tấn ba-la-mật-đa, ngay trong các pháp gồm thâu các thiện pháp. Đó là bốn Niệm trụ, nói rộng cho đến trí Nhất thiết tướng.
Đại Bồ-tát ấy do tâm tinh tấn nên được viên mãn các tướng hảo, phóng hào quang lớn chiếu soi vô biên cõi. Do tâm tinh tấn hoàn toàn nên đoạn trừ vĩnh viễn tập khí tương tục của phiền não, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột và vận chuyển pháp luân vi diệu, đầy đủ ba mươi hai tướng, làm cho khắp đại thiên thế giới chấn động sáu cách. Các hữu tình trong đó được ánh sáng chiếu soi, thấy sự biến động này, nghe được tiếng chánh pháp, tùy theo căn cơ của họ, đối với đạo ba thừa chứng không thoái chuyển cho đến cứu cánh.
Này Thiện Hiện, như vậy là các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, viên mãn Tinh tấn ba-la-mật-đa. Do Tinh tấn ba-la-mật-đa này nên làm các việc lợi mình, lợi người; mau được viên mãn tất cả Phật pháp. Nhờ vậy, chứng đắc trí Nhất thiết trí, tận đời vị lai làm lợi ích an vui cho các hữu tình.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như bóng, như ảnh trong gương, như quáng nắng, như huyễn, như hóa, như thành Càn-thát-bà, viên mãn Tĩnh lự ba-la-mật-đa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, thế nào gọi là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng..., cho đến như thành Cànthát-bà, viên mãn Tĩnh lự ba-la-mật-đa?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết rõ năm thủ uẩn như mộng..., cho đến như thành Càn-thát-bà là không thật tướng rồi, nhập vào bốn Tĩnh lự và bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, tu các đẳng trì Không, Vô tướng, Vô nguyện, tu đẳng trì Như điển quang và Kim cang dụ thánh chánh, trụ trong Tam-mađịa Kim cang dụ, trừ định của Đức Như Lai, đối với tất cả định, hoặc định của Nhị thừa, hoặc các định thù thắng khác, tất cả đều có thể nhập an trụ hoàn toàn, nhưng đối với các Tam-ma-địa như vậy, không sinh tâm đắm trước, cũng không chấp trước quả vị tu chứng. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy như thật biết rõ các tĩnh lự... và tất cả pháp đều đồng lấy không tướng, không tánh làm tánh; không nên dùng không tướng chấp trước không tướng; không nên dùng không tánh chấp trước không tánh. Vì không chấp trước nên nhất định không thuận theo sức mạnh của các định, sinh vào cõi Sắc hay cõi Vô sắc. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả thế giới đều không chấp trước, đối với người nhập định và cảnh giới nhập định, do nhân duyên này, vì nhân duyên này mà nhập định, chỗ nhập định, thời gian nhập định cũng không chấp trước. Đại Bồ-tát ấy vì đối với tất cả pháp không chấp trước nên được mau viên mãn Tĩnh lự ba-la-mật-đa vô tướng. Do Tĩnh lự ba-la-mật-đa này được viên mãn nên vượt qua các địa Thanh văn, Độc giác.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát ấy do Tĩnh lự ba-la-mật-đa vô tướng này viên mãn nên vượt qua các địa Thanh văn, Độc giác?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy học pháp không bên trong trọn vẹn cho đến pháp không không tánh tự tánh, nên mới viên mãn Tĩnh lự bala-mật-đa vô tướng, vượt lên các địa Thanh văn, Độc giác. Đại Bồ-tát ấy trụ trong các pháp không, đối với tất cả pháp đều không chấp trước nên không thấy có pháp nào, xa lìa các không. Đại Bồtát ấy do an trụ trong đó nên vô sở đắc quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề, cũng vô sở đắc tất cả hạnh Đại Bồ-tát và vô sở đắc quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Vì trong các không, không có pháp, cũng không có cái không, Đại Bồ-tát ấy do trụ vào không này nên vượt lên các địa Thanh văn, Độc giác, chứng nhập Chánh tánh ly sinh của Bồtát.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát lấy gì làm sinh?
Lấy gì làm ly sinh?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát lấy tất cả cái có sở đắc làm sinh, lấy tất cả cái không sở đắc làm ly sinh.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát lấy gì làm cái có sở đắc? Lấy gì làm không sở đắc?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát lấy tất cả pháp làm cái có sở đắc, nghĩa là Đại Bồ-tát lấy sắc uẩn làm cái có sở đắc; lấy thọ, tưởng, hành, thức uẩn làm cái có sở đắc, nói rộng cho đến lấy trí Nhất thiết trí làm cái có sở đắc. Các Đại Bồ-tát lấy các thứ pháp môn như thế làm cái có sở đắc, chính cái có sở đắc gọi là sinh, như ăn uống sinh ra bệnh hoạn.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát lấy tất cả pháp không hoạt động, vô sở đắc, không giảng thuyết, không hiển thị làm chẳng thể nắm bắt được. Nghĩa là Đại Bồ-tát lấy sắc cho đến trí Nhất thiết trí không hoạt động, vô sở đắc, không giảng thuyết, không hiển thị làm chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao? Vì từ tánh của sắc cho đến trí Nhất thiết trí đều không thể hoạt động, cũng không thể nắm bắt, cũng không thể giảng thuyết, cũng không thể chỉ bày. Các Đại Bồ-tát lấy các pháp môn, không hoạt động, vô sở đắc, không giảng thuyết, không hiển thị như thế làm cái không sở đắc, chính cái không sở đắc ấy là ly sinh. Các Đại Bồ-tát chứng nhập vị Chánh tánh ly sinh rồi, viên mãn tất cả các tĩnh lự giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, đã không tùy theo sức mạnh của thiền định thọ sinh, mà còn theo các sức mạnh của phiền não tham, sân, si mà thọ sinh là điều không có.
Đại Bồ-tát ấy an trụ trong đây, tạo ra các nghiệp, do sức mạnh của nghiệp mà trôi lăn trong các cõi thì cũng không có sự việc ấy. Đại Bồ-tát ấy tuy trụ trong nhóm các hành như huyễn, làm lợi ích an vui cho các hữu tình nhưng không chấp trước huyễn và các hữu tình.
Khi Đại Bồ-tát ấy đối với các việc không có sở đắc, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, luôn không mệt mỏi nhàm chán.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể mau được viên mãn Tĩnh lự ba-la-mật-đa vô tướng. Do Tĩnh lự bala-mật-đa này được viên mãn nên có thể viên mãn tất cả Phật pháp. Nhờ đó, chứng đắc trí Nhất thiết trí, cũng tận đời vị lai chuyển pháp luân vi diệu, làm lợi ích an vui các loài hữu tình, thường không gián đoạn. Tuy là có việc làm đã chuyển pháp luân vi diệu vô thượng như thế, nhưng không có cái sở đắc, vì người thuyết pháp và người được nghe đều không có tự tánh.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như bóng, như bóng nắng, như quáng nắng, như huyễn, như hóa, như ảo thành, viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy như thật biết rõ tất cả pháp tánh như mộng..., cho đến như ảo thành đều không chân thật, liền được viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa vô tướng.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết rõ tất cả pháp tánh như mộng..., cho đến như ảo thành?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy mộng, không thấy người thấy mộng; không nghe tiếng vang, không thấy người nghe tiếng vang; không thấy bóng, không thấy người thấy bóng; không thấy bóng nắng, không thấy người thấy bóng nắng; không thấy sóng nắng, không thấy người thấy sóng nắng; không thấy huyễn, không thấy người thấy huyễn; không thấy hóa, không thấy người thấy hóa; không thấy ảo thành, không thấy người thấy ảo thành. Vì sao? Vì mộng, người thấy mộng..., cho đến ảo thành, người thấy ảo thành đều là sự chấp trước của phàm phu ngu si điên đảo.
Các A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát và các Như Lai đều không thấy mộng và người thấy mộng..., nói rộng cho đến không thấy ảo thành và người thấy ảo thành. Vì sao? Vì tất cả pháp đều lấy không tánh làm tánh, chẳng phải thành, chẳng phải thật, vô tướng, vô vi, không phải thật có tánh và Niết-bàn... cũng vậy. Nếu tất cả pháp đều lấy không tánh làm tánh, nói rộng cho đến Niết-bàn, thì làm sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp, phát sinh tưởng có tánh, tưởng thành, tưởng thật, tưởng có, tưởng hữu vi có thật tánh. Nếu phát sinh các tưởng này, thì không có sự việc ấy. Vì sao? Vì nếu tất cả pháp có mảy may tự tánh, có thành, có thật, có tướng, hữu vi, có thật tánh thì có thể nắm bắt được, thì sự tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng phải là Bát-nhã bala-mật-đa, vì chẳng đắc tánh, tướng chân thật của các pháp.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp uẩn sắc; chẳng chấp các uẩn thọ, tưởng, hành, thức cho đến chẳng chấp trí Nhất thiết trí. Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp môn như thế không còn chấp trước, liền viên mãn Sơ địa cho đến Thập địa của Bồ-tát, nhưng trong ấy không sinh tham đắm. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy được viên mãn năm điều chẳng đắc từ Sơ địa cho đến Thập địa, thì làm sao ở trong ấy phát sinh tham đắm được. Đại Bồ-tát ấy tuy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mà chẳng sở đắc Bát-nhã bala-mật-đa.
Do đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa không có sở đắc nên đối với tất cả pháp cũng không có sở đắc. Đại Bồ-tát ấy tuy quán Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu tất cả pháp nhưng đối với tất cả pháp đều không có sở đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp cùng Bátnhã ba-la-mật-đa này không hai, không khác. Vì sao? Vì tánh của tất cả chẳng thể phân biệt, nói là chân như, là pháp giới, là thật tế, vì các pháp không tạp, không khác.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tự tánh của tất cả pháp không tạp, không sai khác thì làm sao cho rằng đây là thiện, đây là chẳng phải thiện; đây là hữu lậu, đây là vô lậu; đây là thế gian, đây là xuất thế gian; đây là hữu vi, đây là vô vi, với vô lượng sự sai khác như vậy?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Thật tánh của các pháp có thể nói là thiện chăng? Lại có thể nói là quả Dự lưu..., cho đến có thể nói quả vị Giác ngộ cao tột của Phật chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, không!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, do nhân duyên này nên biết tánh của các pháp không tạp, cũng không sai khác, không tướng, không sinh, không diệt, không ngại, không giảng thuyết, không chỉ bày ra được.
Thiện Hiện nên biết, khi Ta còn học đạo Bồtát, đối với các pháp tánh đều không có nắm bắt, nghĩa là chẳng nắm bắt sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nắm bắt nhãn xứ cho đến ý xứ; chẳng nắm bắt sắc xứ cho đến pháp xứ; chẳng nắm bắt nhãn giới cho đến ý giới; chẳng nắm bắt sắc giới cho đến pháp giới; chẳng nắm bắt nhãn thức giới cho đến ý thức giới; chẳng nắm bắt nhãn xúc cho đến ý xúc; chẳng nắm bắt các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; chẳng nắm bắt địa giới cho đến thức giới; chẳng nắm bắt nhân duyên cho đến tăng thượng duyên; chẳng nắm bắt các pháp theo duyên sinh ra; chẳng nắm bắt vô minh cho đến lão tử; chẳng đắc cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc; chẳng nắm bắt pháp thiện, chẳng phải thiện; chẳng nắm bắt pháp hữu lậu, vô lậu; chẳng nắm bắt pháp thế gian, xuất thế gian; chẳng nắm bắt pháp hữu vi, vô vi; nói rộng cho đến chẳng nắm bắt quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề; chẳng nắm bắt hạnh Đại Bồ-tát, chẳng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành quả vị Giác ngộ cao tột, thường nên siêng năng tu học tự tánh của các pháp. Nếu luôn siêng năng tu học tự tánh của các pháp thì mới có thể làm thanh tịnh hoàn toàn đạo đại Bồđề, cũng có thể viên mãn các hạnh Bồ-tát, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, an trụ trong pháp này mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, đem pháp ba thừa làm phương tiện điều phục các loài hữu tình, làm cho họ không còn luân hồi trong ba cõi, được vào Niết-bàn an vui rốt ráo.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nên dùng vô tướng làm phương tiện tu học Bát-nhã bala-mật-đa để mau được viên mãn. Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn thì mới có thể tóm thâu tất cả pháp Phật; nhờ đó chứng đắc trí Nhất thiết trí, tận cùng đời vị lai làm lợi ích an vui cho hữu tình.
Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu các pháp như mộng,... nói rộng cho đến như ảo thành đều là không thật, đều lấy không tánh làm tánh, tự tướng đều không, thì làm sao có thể cho rằng đây là thiện, đây là chẳng phải thiện, đây là thế gian, đây là xuất thế gian, đây là hữu lậu, đây là vô lậu, đây là hữu vi, đây là vô vi? Nói rộng cho đến đây là quả Dự lưu, đây là pháp có thể chứng đắc quả Dự lưu. Như vậy, cho đến đây là quả vị Giác ngộ cao tột của Phật, đây là pháp có thể chứng đắc quả vị Phật?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, kẻ phàm phu kém hiểu biết ở thế gian đối với mộng tưởng thật có mộng, tưởng thật có người thấy mộng; đối với ảo thành tưởng thật có ảo thành, cũng tưởng thật có người thấy ảo thành. Kẻ phàm phu kém hiểu biết tưởng thật có mộng như thế rồi, điên đảo chấp trước. Hoặc thân, khẩu, ý tạo ra những nghiệp bất thiện; hoặc thân, khẩu, ý tạo ra những nghiệp thiện; hoặc thân, khẩu, ý tạo ra những nghiệp vô ký; hoặc thân, khẩu, ý tạo ra những nghiệp chẳng phải phước đức; hoặc thân, khẩu, ý tạo ra những nghiệp phước đức; hoặc thân, khẩu, ý tạo ra những nghiệp bất động..., bởi các nghiệp nên phải luân hồi sinh tử, chịu khổ vô cùng. Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trụ trong hai pháp không để quan sát các pháp. Hai pháp không đó là: cứu cánh và vô tế. Đại Bồ-tát ấy an trụ trong hai pháp không như thế, vì các loài hữu tình giảng thuyết chánh pháp như vầy: “Sắc... cho đến thức là không, không sở hữu; nhãn xứ... cho đến ý xứ là không, không sở hữu; sắc xứ... cho đến pháp xứ là không, không sở hữu; nhãn giới... cho đến ý giới là không, không sở hữu; sắc giới... cho đến pháp giới là không, không sở hữu; nhãn thức giới... cho đến ý thức giới là không, không sở hữu; nhãn xúc... cho đến ý xúc là không, không sở hữu; các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra... cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra là không, không sở hữu; địa giới... cho đến thức giới là không, không sở hữu; nhân duyên... cho đến tăng thượng duyên là không, không sở hữu. Các pháp do duyên sinh ra là không, không sở hữu; các pháp vô minh... cho đến lão tử là không, không sở hữu.”
Lại nói như vầy: “Sắc, thọ, tưởng, hành, thức như mộng... cho đến như ảo thành đều không có tự tánh; nhãn xứ cho đến ý xứ như mộng... cho đến như thành đều không có tự tánh; sắc xứ... cho đến pháp xứ như mộng... cho đến như ảo thành đều không có tự tánh; nhãn giới cho đến ý giới như mộng... cho đến như ảo thành đều không có tự tánh; sắc giới... cho đến pháp giới như mộng... cho đến như ảo thành đều không có tự tánh; nhãn thức giới... cho đến ý thức giới như mộng... cho đến như ảo thành đều không có tự tánh; nhãn xúc... cho đến ý xúc như mộng... cho đến như ảo thành đều không có tự tánh; các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra... cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra như mộng... cho đến như ảo thành đều không có tự tánh; địa giới... cho đến thức giới như mộng... cho đến như ảo thành đều không có tự tánh; nhân duyên... cho đến tăng thượng duyên như mộng... cho đến như ảo thành đều không có tự tánh; các pháp do duyên sinh ra như mộng... cho đến như ảo thành đều không có tự tánh; vô minh... cho đến các pháp lão tử như mộng... cho đến như ảo thành đều không có tự tánh.”
Lại nói như vầy: “Trong đó không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có nhãn xứ... cho đến ý xứ; không có sắc xứ... cho đến pháp xứ; không có nhãn giới... cho đến ý giới; không có sắc giới... cho đến pháp giới; không có nhãn thức giới... cho đến ý thức giới; không có nhãn xúc... cho đến ý xúc; không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra... cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; không có địa giới... cho đến thức giới; không có nhân duyên... cho đến tăng thượng duyên; không có các pháp do duyên sinh ra; không có các pháp vô minh... cho đến lão tử.”
Lại nói như vầy: “Trong đó không có mộng, không có người thấy mộng; nói rộng cho đến không có ảo thành, không có người thấy ảo thành.”
Lại nói như vầy: “Các pháp như thế đều không có sự thật, đều lấy không tánh làm tánh, các ngươi do hư dối phân biệt nên đối với cái không có sắc uẩn... cho đến thức uẩn, thấy có sắc uẩn... cho đến thức uẩn. Đối với cái không có nhãn xứ... cho đến ý xứ, thấy có nhãn xứ... cho đến ý xứ. Đối với cái không có sắc xứ... cho đến pháp xứ, thấy có sắc xứ... cho đến pháp xứ. Đối với cái không có nhãn giới... cho đến ý giới, thấy có nhãn giới... cho đến ý giới. Đối với cái không có sắc giới... cho đến pháp giới, thấy có sắc giới... cho đến pháp giới. Đối với cái không có nhãn thức giới... cho đến ý thức giới thấy có nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Đối với cái không có nhãn xúc... cho đến ý xúc thấy có nhãn xúc... cho đến ý xúc. Đối với cái không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra, thấy có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra. Đối với cái không có địa giới... cho đến thức giới, thấy có địa giới... cho đến thức giới. Đối với cái không có nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, thấy có nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Đối với cái không có các pháp do duyên sinh ra thấy có các pháp do duyên sinh ra. Đối với cái không có các pháp vô minh... cho đến lão tử thấy có các pháp vô minh... cho đến lão tử.”
Lại nói như vầy: “Tất cả pháp tánh của uẩn, xứ, giới... đều do các duyên hòa hợp tạo ra, điên đảo, hiện khởi đều bị tóm thâu vào các nghiệp dị thục. Vì lý do nào, các ngươi đối với các pháp hiển vọng không có sự thật này, khởi tưởng cho là sự thật?”
Khi ấy Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo, nếu các loài hữu tình, kẻ nào xan tham thì dùng phương tiện cứu vớt, làm cho họ xa lìa xan tham. Các hữu tình này xa lìa xan tham rồi nên khuyên họ tu Bố thí ba-lamật-đa. Các hữu tình ấy nhờ bố thí nên được địa vị giàu sang tự tại. Lại ở nơi ấy dùng phương tiện cứu vớt họ, khuyên tu Tịnh giới ba-la-mật-đa. Các hữu tình ấy nhờ tịnh giới nên được sinh vào các cõi lành, giàu sang tự tại. Lại ở nơi ấy dùng phương tiện cứu vớt họ, khuyên tu Tĩnh lự ba-la-mật-đa. Các hữu tình ấy nhờ Tĩnh lự nên được sinh vào cõi Phạm thế, an trụ tự tại ở Tĩnh lự thứ nhất. Từ Tĩnh lự thứ nhất dùng phương tiện cứu vớt họ, làm cho họ an trụ Tĩnh lự thứ hai. Như vậy, tuần tự dùng phương tiện cứu vớt, cho đến khi làm cho họ an trụ Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Các hữu tình ấy nhờ thí, giới, định nên được quả báo thù thắng, nên sinh nhiều tham đắm. Bấy giờ, Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo cứu vớt cho họ ra khỏi chỗ thấp kém ấy, an trụ vào cõi Niết-bàn tuyệt đối. Nghĩa là dùng phương tiện tùy theo căn cơ, làm cho họ nương vào ba thừa, khuyên tu Thánh đạo; hoặc làm cho họ an trụ vào bốn Niệm trụ, cho đến tám chi Thánh đạo; hoặc làm cho họ an trụ vào pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; hoặc làm cho họ an trụ vào tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ; hoặc làm cho họ an trụ vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; hoặc làm cho họ an trụ vào sự quán sát thuận nghịch mười hai nhân duyên; hoặc làm cho họ an trụ vào sáu pháp Ba-la-mật-đa; hoặc làm cho họ an trụ vào pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh; hoặc làm cho họ an trụ vào chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; hoặc làm cho họ an trụ vào các địa Bồ-tát, hoặc làm cho họ an trụ vào tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc làm cho họ an trụ vào năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc làm cho họ an trụ vào mười lực của Như Lai, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc làm cho họ an trụ vào đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; hoặc làm cho họ an trụ vào pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc làm cho họ an trụ vào trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo thành tựu các pháp vô sắc, vô kiến, vô đối, chân vô lậu và an trụ trong ấy, các hữu tình nào đáng chứng đắc quả Dự lưu thì nên thị hiện khuyên bảo, dẫn dắt, khen ngợi, khích lệ, chúc mừng, dùng phương tiện cứu vớt cho họ chứng đắc quả Dự lưu. Nói rộng cho đến các hữu tình nào đáng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì nên thị hiện khuyên bảo, dẫn dắt, khen ngợi, khích lệ, chúc mừng, dùng phương tiện cứu vớt cho họ chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát hai pháp không, tuy biết các pháp như mộng... cho đến như ảo thành đều không thật có, không tánh làm tánh, tự tướng đều không, nhưng vẫn phân định là thiện, là chẳng phải thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi. Nói rộng cho đến là quả Dự lưu, là pháp có thể chứng đắc quả Dự lưu. Như vậy, cho đến là quả vị Giác ngộ cao tột của Phật, là pháp có thể chứng đắc quả vị Phật, đều không tạp loạn.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, rất kỳ đặc hy hữu, quán sát hai pháp không, rốt ráo không giới hạn, an trú hai pháp không, rốt ráo không giới hạn. Tuy biết các pháp như mộng, cho đến như ảo thành đều không thật có, lấy không tánh làm tánh, tự tướng vốn không, nhưng có khả năng phân định vô lượng pháp môn thiện, hay chẳng phải thiện một cách không nhầm lẫn?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông đã nói! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, rất kỳ đặc hy hữu. Tuy biết các pháp đều không tánh, rốt ráo không giới hạn, đều chẳng thật có, như mộng... cho đến như ảo thành, tự tướng vốn không, lấy không tánh làm tánh, nhưng vẫn phân định các loại pháp môn thiện, chẳng phải thiện một cách không nhầm lẫn. Nếu các ông biết pháp rất kỳ đặc hy hữu của Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hàng Thanh văn, Độc giác đều không thành tựu, không thể so lường được, thì hàng Thanh văn và Độc giác các ông đối với các Đại Bồ-tát còn không thể đối đáp, huống là các hữu tình khác có thể đối đáp!
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, những gì gọi là các pháp hy hữu rất kỳ đặc của Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa, mà hàng Thanh văn, Độc giác đều không thành tựu, không thể so lường được?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, ông hãy lắng nghe và nên suy nghĩ. Ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói. Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có những pháp rất kỳ đặc hy hữu, làm cho tâm ông hoan hỷ.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trụ trong kết quả đạt được là vô lượng, vô số công đức chân tịnh như sáu pháp để đến bờ giác, năm Thần thông vi diệu, ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề và Đà-la-ni, biện thuyết thông suốt..., dùng sức thần thông đi khắp mười phương, các hữu tình nào đáng dùng bố thí... cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa để độ thoát thì đem bố thí... cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa để mà độ thoát. Người đáng dùng Tĩnh lự thứ nhất cho đến Tĩnh lự thứ tư để độ thoát thì dùng Tĩnh lự thứ nhất cho đến Tĩnh lự thứ tư mà độ thoát. Người đáng dùng Từ vô lượng cho đến Xả vô lượng để độ thoát thì dùng Từ vô lượng... cho đến Xả vô lượng để độ thoát. Người đáng dùng định Không vô biên cho đến định Phi tưởng phi phi tưởng xứ để độ thoát, thì dùng định Không vô biên cho đến định Phi tưởng phi phi tưởng xứ mà độ thoát. Người đáng dùng bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo để độ thoát, thì đem bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo mà độ thoát. Người đáng dùng pháp môn giải thoát Không... cho đến môn giải thoát Vô nguyện để độ thoát thì dùng pháp môn giải thoát Không cho đến pháp môn giải thoát Vô nguyện mà độ thoát. Người đáng dùng các thiện pháp thù thắng khác để độ thoát thì dùng các thiện pháp thù thắng khác mà độ thoát.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, thế nào gọi là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trụ trong kết quả đạt được là các công đức chân tịnh như sáu pháp để đến bờ giác, năm Thần thông để bố thí độ thoát loài hữu tình?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, bố thí của cải, đồ vật cần dùng cho các loài hữu tình; nghĩa là hữu tình cần ăn uống thì cho ăn uống, hoặc cần xe cộ thì cho xe cộ, hoặc cần y phục thì cho y phục, hoặc cần hương hoa thì cho hương hoa, hoặc cần các thứ của cải khác đều bố thí cho họ được đầy đủ; hoặc cúng dường các vật dụng cho hàng Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, chư Phật Thế Tôn. Khi bố thí như thế, tâm bình đẳng, tưởng không sai biệt mà hành bố thí. Như thí cho người trì giới hoặc phạm giới cũng vậy, như thí cho người hoặc phi nhân cũng vậy, như thí cho người trong đạo hoặc ngoại đạo cũng vậy, như thí cho bậc Thánh hoặc kẻ phàm cũng vậy, như thí cho người sang kẻ hèn cũng vậy. Trên từ chư Phật, dưới cho đến bàng sinh đều bình đẳng không phân biệt, chẳng thấy phước điền hơn kém khác nhau. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát hiểu rõ tự tướng của tất cả pháp và các hữu tình đều không, hoàn toàn không sai khác, nên hành bố thí mà không khởi tưởng khác. Đại Bồ-tát ấy do không khởi tưởng khác mà hành bố thí nên sẽ được quả báo không sai khác không phân biệt, nghĩa là được viên mãn trí Nhất thiết trí và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác.
Thiện Hiện nên biết, Đại Bồ-tát nào thấy kẻ đến xin mà suy nghĩ: “Người đến đây, nếu là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, vì là ruộng phước nên ta hiến cúng; nếu chẳng phải là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, mà là bàng sinh, vì chẳng phải là ruộng phước nên ta không bố thí cho.” Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ như vậy là trái với pháp Bồ-tát. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát cần phải tịnh hóa tự tâm thì ruộng phước mới tịnh. Thấy những kẻ đến xin không nên nghĩ: “Hữu tình như thế đến xin thì ta nên cho; hoặc hữu tình như thế đến xin thì ta không nên cho.” Nếu Bồ-tát nghĩ như vậy thì trái với tâm đại Bồ-đề đã phát nghĩa là các Đại Bồ-tát vốn phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, ta vì hữu tình mà làm chỗ nương tựa, làm hòn đảo, nhà cửa, chỗ cứu hộ..., thấy kẻ đến xin nên nghĩ: “Nay hữu tình này nghèo cùng côi cút, ta nên dùng sự bố thí để cứu giúp họ.” Do duyên bố thí này họ có thể chuyển hóa, ít muốn, biết đủ, xa lìa sự giết hại, nói rộng cho đến xa lìa lời nói tạp uế, cũng có thể điều phục tham sân, tà kiến. Do nhân duyên này, sau khi qua đời, sinh vào dòng dõi lớn Sát-đế-lợi cho đến dòng dõi lớn Cư sĩ, hoặc sinh vào những nơi nào cũng giàu sang, dư dả, tu các nghiệp lành; hoặc nhờ nhân duyên lợi ích do bố thí này, lần lượt nương vào ba thừa mà được giải thoát.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nếu bị các oán thù, hoặc các hữu tình đến làm hại, hoặc vì thiếu thốn mà cầu xin thì Đại Bồ-tát ấy không nên sinh tâm phân biệt: “Người này có đáng cho, còn người này không đáng cho” mà chỉ sinh tâm bình đẳng, tùy theo họ, xin phần thân thể và các của cải, quốc gia, thành trì, vợ con... đều nên thí cho họ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy vì lợi ích an vui cho các hữu tình nên cầu đến quả vị Giác ngộ cao tột. Người nào còn sinh tâm phân biệt “Người này đáng cho, còn người này không nên cho” liền bị chư Phật, Độc giác, Thanh văn, Bồ-tát, Trời, Người, A-tốlạc, các chúng Hiền thánh đều quở trách: “Ai cần mời ngươi phát tâm Bồ-đề, thề nguyện độ khắp các loài hữu tình. Nếu người không có chỗ nương tựa, giúp đỡ cho họ có chỗ nương tựa; người không nhà cửa, giúp cho họ có nhà cửa; người không được cứu giúp, nên cứu giúp; kẻ không có chỗ nương náu, giúp cho có chỗ nương náu; kẻ chẳng được an vui, làm cho họ được an vui... Nay ngươi lại chọn lựa có nên cho hay không nên cho!”
Lại nữa này Thiện Hiện, nếu có người nào hay là loài phi nhân, đi đến chỗ Đại Bồ-tát để cầu xin tay chân hay phần thân thể, Đại Bồ-tát ấy chẳng nên khởi tâm phân biệt là cho hay không cho, chỉ nghĩ rằng: “Tùy theo họ xin gì, ta đều cho hết.” Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thường suy nghĩ: “Ta vì lợi ích cho các hữu tình nên thọ thân này, có kẻ đến xin thì phải bố thí cho họ, không nên không cho.” Nếu thấy có người đến xin, nên nghĩ rằng: “Thân này của ta đây vốn là vì người khác mà thọ sinh, họ không đến lấy ta còn đem đến cho, huống là họ đến cầu xin mà ta không cho?” Nghĩ như vậy rồi vui mừng hớn hở, tự cắt phần thân thể mình mà trao cho họ; lại tự vui mừng là nay được lợi lớn; nghĩa là xả tạp uế, được thân thuần tịnh.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa cầu Đại Bồ-tát nên học như vậy.
Lại nữa này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát thấy có kẻ đến xin liền nghĩ: “Nay ở đây, ai là người bố thí, ai là người thọ nhận bố thí vật gì, do đâu, vì đâu, vì sao bố thí? Tự tánh các pháp đều chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì các pháp như thế đều hoàn toàn không, chẳng phải trong pháp không mà có cho, có lấy, có thí, có nhận.”
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên học như thế này: Các pháp đều không. Đó là hoặc do pháp không bên trong cho nên không, cho đến hoặc do pháp không không tánh tự tánh nên không, cho nên không. Đại Bồ-tát ấy an trụ vào không này mà hành bố thí luôn không gián đoạn, viên mãn Bố thí bala-mật-đa. Nhờ Bố thí ba-la-mật-đa này được viên mãn nên khi bị người khác cắt xẻo, cướp đoạt tất cả tài vật bên ngoài hoặc trong mà tâm hoàn toàn không phân biệt giận hờn, chỉ nghĩ rằng: “Tất cả các pháp và hữu tình đều không, thì ai cắt xẻo ta? Ai cướp đoạt của ta? Ai thọ nhận vật đó? Ai ở trong đây quán pháp không này?”
Lại nữa này Thiện Hiện, Ta dùng Phật nhãn xem khắp hằng hà sa số thế giới của chư Phật mười phương, có Đại Bồ-tát vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình nên phát thệ nguyện vào trong địa ngục, thấy các hữu tình chịu nhiều thứ khổ, thấy rồi phát sinh ba pháp để khai thị, dẫn dắt. Những gì là ba? Một là thần thông; hai là dự báo; ba là giáo giới.
Đại Bồ-tát ấy trước dùng oai lực của thần biến khai thị, dẫn dắt, diệt trừ các dụng cụ làm khổ như: nước sôi, lửa dữ, đao gươm... nơi địa ngục. Kế đến là dùng oai lực của lời nói để khai thị, dẫn dắt, dự báo, ghi nhận những điều suy nghĩ của hữu tình để vì họ mà nói pháp. Sau đó là dùng oai lực của giáo giới khai thị, dẫn dắt, làm cho hữu tình kia phát sinh đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả và vì họ mà nói pháp, làm cho các loài hữu tình nơi địa ngục ấy đối với Bồ-tát phát sinh lòng tin thanh tịnh. Nhờ nhân duyên này, thoát khỏi cảnh địa ngục, được sinh lên cõi trời, hoặc sinh trong loài người, dần dần nương vào pháp ba thừa mà được giải thoát.
Lại nữa này Thiện Hiện, Ta dùng Phật nhãn xem khắp hằng hà sa số thế giới của chư Phật mười phương, thấy có Đại Bồ-tát gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy khi gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thân tâm vui mừng, mến ưa cung kính chứ chẳng phải không vui mừng, mến ưa cung kính. Đại Bồ-tát ấy, đối với chánh pháp mà chư Phật Thế Tôn đã thuyết, cung kính lắng nghe, thọ trì đọc tụng, cho đến chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng hề quên mất. Tùy theo pháp đã nghe, nên vì hữu tình giảng nói không sai trái, làm cho họ được lợi ích an vui thù thắng, cho đến chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, luôn không nhàm chán mỏi mệt.
Lại nữa này Thiện Hiện, Ta dùng Phật nhãn xem khắp hằng hà sa số thế giới của chư Phật mười phương, thấy có Đại Bồ-tát vì muốn làm lợi ích cho các loài hữu tình trong loài bàng sinh nên tự nghĩ phải xả thân mạng. Đại Bồ-tát ấy thấy các bàng sinh bị lửa đói bức bách, muốn tàn hại lẫn nhau, sinh tâm thương xót, tự cắt thân mình thành từng phần tung rải khắp mười phương, mặc tình cho chúng ăn nuốt. Các loài bàng sinh được ăn thân của Bồ-tát rồi liền đối với Bồ-tát sinh tâm kính mến, xấu hổ. Nhờ nhân duyên này được thoát khỏi loài bàng sinh, được sinh lên cõi trời, hoặc sinh trong loài người, gặp được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, được nghe thuyết chánh pháp, tu hành đúng lý, dần dần nương vào pháp ba thừa mà được giải thoát.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nên vì thế gian mà làm việc khó làm, được nhiều lợi ích; nghĩa là vì lợi ích an vui cho các loài hữu tình nên tự phát tâm Vô thượng đại Bồ-đề, cũng làm cho người khác phát tâm, tự hành các pháp chánh hạnh đúng với chân lý, cũng dạy người thực hành để thoát khỏi khổ sinh tử, được vui Niết-bàn.
Lại nữa này Thiện Hiện, Ta dùng Phật nhãn xem khắp hằng hà sa số thế giới của chư Phật mười phương, thấy có Đại Bồ-tát vì muốn làm lợi ích cho các loài hữu tình trong đường quỷ đói, nên tự nghĩ muốn đi đến trong cõi ấy, dùng phương tiện để chấm dứt các khổ đói khát. Các khổ đã dứt, loài quỷ đói kia đối với Bồ-tát sinh tâm kính mến, xấu hổ. Đại Bồ-tát vì chúng thuyết giảng pháp yếu, xa lìa xan tham, làm cho chúng nghe xong sinh tâm bố thí. Nhờ căn lành này thoát khỏi loài quỷ đói, được sinh lên cõi trời, hoặc sinh trong loài người, gặp được Như Lai, gần gũi cúng dường, nghe chánh pháp dần dần tu hành chánh hạnh ba thừa cho đến được vào Niết-bàn tuyệt đối.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát đối với các loài hữu tình an trụ đại Bi, phát sinh vô biên phương tiện thiện xảo cứu vớt, làm cho họ nhập vào Niết-bàn của ba thừa.
Lại nữa này Thiện Hiện, Ta dùng Phật nhãn xem khắp hằng hà sa số thế giới của chư Phật mười phương, thấy có Đại Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo hoặc vì trời, chúng bốn Đại thiên vương mà thuyết giảng chánh pháp, cho đến hoặc vì trời Tha hóa tự tại mà thuyết giảng chánh pháp. Chư Thiên kia nghe Bồ-tát thuyết chánh pháp rồi dần dần nương vào ba thừa, siêng tu chánh hạnh, tùy theo đó, chứng nhập Niết-bàn rốt ráo. Trong hàng chư Thiên kia có các Thiên tử say đắm năm món dục lạc trên cõi trời cùng với chỗ ở là cung điện bằng các món báu, Đại Bồ-tát ấy thị hiện nổi lửa thiêu đốt cung điện kia, làm cho họ sinh tâm chán sợ. Nhân đó, thuyết pháp như vầy: “Này các Thiên tử, hãy quán sát kỹ, các hành là vô thường, khổ, không, vô ngã, không đáng tin cậy. Ai là người có trí, đối với các thứ này mà sinh tâm tham đắm?”
Khi các Thiên tử nghe pháp âm này rồi, sinh tâm nhàm chán xa lìa năm món dục lạc, tự quán thân mạng hư dối, vô thường, giống như cây chuối, như điện chớp, như sóng nắng, quán các cung điện như lao ngục. Quán sát như vậy rồi, dần dần nương vào ba thừa, siêng tu chánh hạnh, hướng đến viên mãn tịch tĩnh.
Lại nữa này Thiện Hiện, Ta dùng Phật nhãn xem khắp hằng hà sa số thế giới của chư Phật mười phương, thấy có Đại Bồ-tát thấy các Phạm thiên chấp lấy các thiên kiến, mới dùng phương tiện giáo hóa làm cho họ nhàm chán, bảo rằng: “Này Thiên tiên, các ngươi vì sao ở trong nhóm các hành không, vô tướng, hư dối chẳng thật, mà phát sinh các thiên kiến ác như thế? Nên mau xả bỏ, tin thọ chánh pháp, các người sẽ được cam lồ vô thượng.” Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát an trụ đại Bi vì loài hữu tình giảng thuyết chánh pháp.
Này Thiện Hiện, đó là các pháp rất kỳ đặc hy hữu của Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa này Thiện Hiện, Ta dùng Phật nhãn thanh tịnh không chướng ngại xem khắp hằng hà sa số thế giới của chư Phật mười phương, thấy có Đại Bồ-tát dùng bốn Nhiếp pháp giáo hóa các hữu tình. Những gì là bốn? Một là Bố thí; hai là Ái ngữ; ba là Lợi hành; bốn là Đồng sự.
Này Thiện Hiện, thế nào gọi là Đại Bồ-tát dùng việc bố thí giáo hóa các hữu tình? Nghĩa là Đại Bồtát ấy dùng hai loại bố thí để giáo hóa các hữu tình: một là tài thí, hai là pháp thí.
Thế nào gọi là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa có thể dùng tài thí để giáo hóa các hữu tình? Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa thường dùng các thứ ăn uống, y phục, phòng nhà, đồ nằm, xe cộ, dầu đèn, âm nhạc, hương hoa, kim ngân, trân báu, những đồ trang sức... bố thí cho các hữu tình. Hoặc đem thê thiếp, nam nữ lớn nhỏ, tôi tớ kẻ hầu hạ, voi ngựa, trâu dê và các thứ thuốc men bố thí cho các hữu tình. Hoặc đem kho tàng, thành ấp, xóm làng và ngôi vua bố thí cho các hữu tình. Hoặc đem phần thân thể, tay chân, đầu mắt, tủy não... thí cho các hữu tình.
Đại Bồ-tát ấy đem các thứ vật ấy để ở các ngã tư, lên đài cao, nói to rằng: “Tất cả các hữu tình, vị nào cần dùng thứ gì, tùy ý đến lấy, đừng có ngại ngùng, như lấy của mình, đừng nghĩ của người khác, cho đến thân của ta đây gồm những thứ tay, chân, đầu, mắt, tủy não... cứ tùy ý lấy dùng đối với các vị ta không tiếc gì cả.
Đại Bồ-tát ấy bố thí cho các hữu tình vật cần dùng rồi, lại khuyên họ quy y Tam bảo Phật, Pháp, Tăng hoặc khuyên họ trì năm giới Cận sự, hoặc khuyên thọ trì tám giới Cận trụ, hoặc khuyên thọ trì mười nẻo nghiệp thiện, hoặc khuyên tu học bốn Tĩnh lự, hoặc khuyên tu học bốn Vô lượng tâm, hoặc khuyên tu học bốn Định vô sắc, hoặc khuyên tu học sáu pháp tùy niệm, hoặc khuyên tu học quán bất tịnh, quán hơi thở, hoặc khuyên tu học mười pháp tưởng thiện, hoặc khuyên tu học ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, hoặc khuyên tu học ba pháp môn giải thoát, hoặc khuyên tu học tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ, hoặc khuyên tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa, hoặc khuyên an trụ pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh, hoặc khuyên an trụ chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, hoặc khuyên an trụ bốn Thánh đế, hoặc khuyên tu học bậc Tịnh quán cho đến bậc Như Lai, hoặc khuyên tu học bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân; hoặc khuyên tu học tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, hoặc khuyên tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông, hoặc khuyên tu học mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc khuyên tu học đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, hoặc khuyên tu học ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp; hoặc khuyên tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc khuyên tu học trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; hoặc khuyên tu học quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề, hoặc khuyên tu học tất cả hạnh Đại Bồ-tát, hoặc khuyên tu học quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo thực hiện bố thí của cải cho các hữu tình rồi, lại khéo an lập họ làm cho an trụ trong pháp an ổn vô thượng, cho đến làm cho chứng đắc trí Nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện, đây là pháp rất kỳ đặc hy hữu của Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa này Thiện Hiện, thế nào gọi là Đại Bồtát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên dùng pháp thí giáo hóa các hữu tình? Nghĩa là pháp thí của Đại Bồ-tát có hai thứ: một là pháp thí thế gian, hai là pháp thí xuất thế gian.
Thế nào gọi là pháp thí thế gian của Đại Bồtát? Nghĩa là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa vì các hữu tình mà giảng thuyết khai thị, phân biệt rõ ràng diệu pháp thế gian. Đó là: Quán bất tịnh, hoặc niệm hơi thở, hoặc bốn Tĩnh lự, hoặc bốn Vô lượng, hoặc bốn Định vô sắc, hoặc năm Thần thông, hoặc các pháp của phàm phu ở thế gian. Như vậy gọi là pháp thí thế gian. Đại Bồtát ấy hành diệu pháp thí thế gian rồi, dùng các thứ phương tiện giáo hóa hữu tình, làm cho họ an trụ vào Thánh pháp và quả Thánh pháp.
Thế nào gọi là Thánh pháp và quả Thánh pháp? Thiện Hiện nên biết, nói Thánh pháp, đó là: Ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề và các định Không, Vô tướng, Vô nguyện... Nói quả Thánh pháp, đó là quả Dự lưu, nói rộng cho đến Độc giác Bồ-đề.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Thánh pháp của Đại Bồ-tát là trí quả Dự lưu cho đến trí Độc giác Bồ-đề, trí quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; hoặc trí ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, cho đến trí mười lực của Như Lai; hoặc trí đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; hoặc trí vô lượng Phật pháp khác; hoặc trí của các pháp thế gian và xuất thế gian; hoặc trí của các pháp hữu vi và vô vi. Các trí Nhất thiết tướng như thế, đây gọi là Thánh pháp. Còn quả Thánh pháp là đoạn trừ vĩnh viễn tập khí tương tục của tất cả phiền não.
Lại nữa này Thiện Hiện, các Thánh pháp của Đại Bồ-tát là các pháp vô lậu như sáu pháp Ba-lamật-đa, nói rộng cho đến trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng... Còn quả Thánh pháp là chân như, pháp giới, cứu cánh Niết-bàn đã chứng đắc.
Như vậy gọi là quả chân Thánh pháp.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát cũng có thể chứng đắc trí Nhất thiết tướng chăng?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy! Các Đại Bồ-tát cũng có thể chứng đắc trí Nhất thiết tướng.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát cũng có thể chứng đắc trí Nhất thiết tướng, thì cùng với các Như Lai có gì khác nhau?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, có khác nhau chứ. Tướng đó như thế nào? Nghĩa là các Đại Bồ-tát gọi là tùy đắc trí Nhất thiết tướng, còn các Như Lai gọi là đã đắc trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Vì chẳng phải tâm của các Đại Bồ-tát cùng với định của các Như Lai có thể rời nhau được. Vì chúng Đại Bồ-tát cùng các Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác đồng trụ tánh vô sai biệt của các pháp. Đối với các pháp tướng, cầu biết khắp một cách đứng đắn thì gọi là Bồ-tát; còn đạt đến cứu cánh thì gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Đối với tự tướng, cộng tướng của tất cả pháp, quét sạch mê mờ thanh tịnh hoàn toàn, khi trụ nhân vị gọi là Bồ-tát, còn đạt đến quả vị gọi là Như Lai. Vì vậy, nên Bồ-tát cùng các Như Lai tuy đồng gọi là chứng đắc trí Nhất thiết tướng nhưng có sự sai khác.
Này Thiện Hiện, đây gọi là pháp thí thế gian của các Đại Bồ-tát.
Các Đại Bồ-tát nương vào pháp thí thế gian như thế để có thể tu hành pháp thí xuất thế gian. Nghĩa là các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo, trước bố thí thiện pháp thế gian cho hữu tình, sau làm cho chúng nhàm chán xa lìa thiện pháp thế gian, an trụ vào Thánh pháp vô lậu xuất thế, cho đến làm cho họ chứng đắc trí Nhất thiết trí.
Thế nào gọi là Thánh pháp xuất thế?
Các Đại Bồ-tát vì các hữu tình mà giảng thuyết, khai thị, phân biệt rõ ràng thì gọi là pháp thí.
Thiện Hiện nên biết, tất cả pháp không đồng với pháp thiện của phàm phu, Bồ-tát nào tu học đúng đắn, làm cho các hữu tình ra khỏi thế gian, được an ổn thì gọi là xuất thế, đó là ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, ba pháp môn giải thoát, tám Giải thoát, chín Định thứ đệ, bốn Thánh đế, Trí ba-lamật-đa, các trí không,... mười bậc Bồ-tát, năm loại mắt, sáu phép thần thông, mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp, tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa... các thiện pháp vô lậu như thế, tất cả đều gọi là Thánh pháp xuất thế.
Đại Bồ-tát nào vì các hữu tình mà giảng thuyết, khai thị, phân biệt rõ ràng các pháp như thế thì gọi là pháp thí xuất thế của Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, ba mươi bảy pháp phần Bồđề ở trong này là những gì? Đó là bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo. Như vậy gọi là ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề.
Này Thiện Hiện, thế nào là bốn Niệm trụ? Nghĩa là Đại Bồ-tát đối với trong thân hoặc ngoài thân, hoặc trong ngoài thân, quán sát toàn thân trên thân, đầy đủ chánh cần, chánh trí, chánh niệm, đoạn trừ tham ưu ở đời, quán sát sự tu tập ngay trong thân, quán sự đoạn diệt ngay trong thân. Nhờ vị ấy quán sát toàn thân ngay trong thân, quán sự tu tập ngay trong thân, quán sự đoạn diệt ngay trong thân, không chỗ nương tựa, đối với các pháp thế gian không bị chấp giữ. Đây gọi là pháp thứ nhất.
Đối với thọ, tâm, pháp cũng như vậy. Đây gọi là bốn Niệm trụ.
Này Thiện Hiện, bốn Chánh đoạn là thế nào?
–Nghĩa là Đại Bồ-tát đối với pháp ác bất thiện chưa phát sinh, làm cho không sinh; còn pháp ác bất thiện đã sinh rồi làm cho đoạn diệt. Đối với pháp thiện chưa phát sinh, làm cho sinh; còn pháp thiện đã sinh rồi làm cho bền chắc, không lãng quên, tu hành viên mãn, càng thêm tăng trưởng, mở mang trí tuệ, sinh tâm ưa thích, siêng năng tinh tấn, giữ tâm vững bền.
Đây gọi là bốn Chánh đoạn.
Này Thiện Hiện, bốn Thần túc là những gì? Đó là Dục thần túc Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu tu tập; Cần thần túc Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu tu tập; Tâm thần túc Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu tu tập; Quán thần túc Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu tu tập của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, năm Căn là những gì? Đó là Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Định căn, Tuệ căn của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, năm Lực là những gì? Đó là Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực, Tuệ lực của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, bảy chi Đẳng giác là những gì? Đó là Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Hỷ giác chi, Khinh an giác chi, Định giác chi, Xả giác chi của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, tám chi Thánh đạo là những gì? Đó là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, ba pháp môn giải thoát là những gì? Đó là Không, Vô tướng, Vô nguyện của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, thế nào là pháp môn giải thoát Không? Nghĩa là Đại Bồ-tát dùng hành tướng không, chẳng phải ngã để nhiếp tâm về một mối.
Này Thiện Hiện, thế nào là pháp môn giải thoát Vô tướng? Đó là Đại Bồ-tát dùng hành tướng tịch tĩnh nhiếp tâm về một mối.
Này Thiện Hiện, thế nào là pháp môn giải thoát Vô nguyện? Nghĩa là Đại Bồ-tát dùng hành tướng khổ, vô thường, để nhiếp tâm về một mối.
Này Thiện Hiện, thế nào là tám Giải thoát là như thế nào? Nghĩa là Đại Bồ-tát đối với cái có sắc mà quán có sắc, gọi là giải thoát thứ nhất. Trong không tưởng sắc mà quán các sắc bên ngoài, gọi là giải thoát thứ hai. Thân tác chứng thanh tịnh thắng giải, gọi là giải thoát thứ ba. An trụ hoàn toàn vào định Không vô biên xứ gọi là giải thoát thứ tư. An trụ hoàn toàn vào định Thức vô biên xứ, gọi là giải thoát thứ năm. An trụ hoàn toàn vào định Vô sở hữu xứ, gọi là giải thoát thứ sáu. An trụ hoàn toàn vào định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, gọi là giải thoát thứ bảy. An trụ hoàn toàn vào định Diệt tưởng thọ, gọi là giải thoát thứ tám. Đó gọi là tám Giải thoát.
Này Thiện Hiện, thế nào là chín Định thứ đệ? Nghĩa là Đại Bồ-tát xa lìa pháp dục ác, bất thiện, có tầm, có tứ, ly sinh hỷ lạc, nhập vào Sơ thiền, an trụ hoàn toàn, gọi là Định thứ đệ thứ nhất... Tuần tự cho đến vượt tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập vào định Diệt tưởng thọ, an trụ hoàn toàn, gọi là Định thứ đệ thứ chín. Đó gọi là chín Định thứ đệ.
Này Thiện Hiện, bốn trí Thánh đế là những gì? Đó là Trí khổ, Trí tập, Trí diệt, Trí đạo của Đại Bồtát.
Này Thiện Hiện, Ba-la-mật-đa là những gì? Đó là Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Trí ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, trí của các không là những gì? Đó là trí của pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh và trí chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Như vậy gọi là trí của các không.
Này Thiện Hiện, mười địa của Bồ-tát là những gì? Đó là bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, năm loại mắt là những gì? Đó là Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn đối tượng mong cầu của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, sáu phép thần thông là những gì? Đó là Thần cảnh trí chứng thông, Thiên nhĩ trí chứng thông, Tha tâm trí chứng thông, Túc trụ tùy niệm trí chứng thông, Thiên nhãn trí chứng thông, Lậu tận trí chứng thông, đối tượng tu học của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, mười lực của Như Lai là những gì?
Một là, các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với cái đúng đạo lý như thật biết là đúng đạo lý, đối với cái không đúng đạo lý như thật biết là không đúng đạo lý.
Hai là, các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với các nghiệp và chỗ thọ sinh cùng kết quả của nghiệp nhân của các hữu tình ở quá khứ, hiện tại, vị lai đều biết như thật.
Ba là, các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với các thế giới sai khác chẳng phải là một trong thế gian đều biết như thật.
Bốn là, các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với các loại thắng giải sai khác chẳng phải một của các hữu tình đều biết như thật.
Năm là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với các căn hơn kém của các hữu tình đều biết như thật.
Sáu là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với các hành nghiệp khắp các cảnh giới đều biết như thật.
Bảy là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với sự hình thành sai khác của tất cả tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, tạp nhiễm, thanh tịnh đều biết như thật.
Tám là, các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với vô lượng sự việc đời trước như các hành các thuyết, các tưởng thuộc về quá khứ của các hữu tình, hoặc một đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời, vô lượng đời; hoặc một kiếp, mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, vô lượng kiếp đều biết như thật.
Chín là, các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng Thiên nhãn thanh tịnh, vượt hơn người thường, thấy các sự việc thiện ác của loài hữu tình, khi sinh khi tử, nói rộng cho đến tùy theo sức mạnh của nghiệp, sinh vào các cõi thiện ác đều biết như thật.
Mười là, các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với các lậu tận, tâm vô lậu giải thoát, tuệ vô lậu giải thoát đều biết như thật. Đối với pháp tự lậu tận, chân giải thoát, tự chứng thông tuệ được an trụ hoàn toàn, nói rộng cho đến không thọ đời sau.
Như vậy gọi là mười lực của Như Lai.
Này Thiện Hiện, bốn điều không sợ là như thế nào?
Một là, các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng: Ta là Bậc Chánh Đẳng Giác, giả sử có Samôn, Bà-la-môn, Trời, Ma, Phạm, kẻ thế gian khác dựa vào giáo pháp để vấn nạn, hoặc làm cho phải suy nghĩ: Phật đối với pháp ấy không phải là Chánh Đẳng Giác thì Ta đối với vấn nạn kia thấy chính xác là không đúng. Do thấy chính xác vấn nạn kia là không đúng nên Ta được an trụ, không lo sợ. Tự nói rằng Ta ở ngôi vị Đại Tiên tôn quý, ở trong đại chúng rống tiếng rống Sư tử, chuyển pháp luân rất thanh tịnh mà tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Ma, Phạm, hoặc người khác trong thế gian hoàn toàn không thể chuyển được như vậy.
Hai là, các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng Ta đã đoạn hết các lậu, giả sử có Sa-môn, Bàla-môn, Trời, Ma, Phạm, kẻ thế gian khác dựa vào giáo pháp để vấn nạn, hoặc làm cho phải suy nghĩ: Phật chưa đoạn hết các lậu thì Ta đối với vấn nạn kia thấy chính xác là không đúng. Do thấy chính xác vấn nạn kia là không đúng nên Ta được an trụ, không lo sợ. Tự nói rằng, Ta ở ngôi vị Đại Tiên tôn quý, ở trong đại chúng rống tiếng rống Sư tử, chuyển pháp luân rất thanh tịnh mà tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Ma, Phạm, các kẻ thế gian khác hoàn toàn không thể chuyển được như vậy.
Ba là, các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng, Ta vì các hàng đệ tử mà nói pháp thường làm chướng ngại rằng nhiễm ô chắc chắn là chướng ngại. Giả sử có Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Ma, Phạm, các kẻ thế gian khác dựa vào giáo pháp để vấn nạn, hoặc làm cho phải suy nghĩ rằng, nhiễm ô là pháp không thể làm chướng ngại thì Ta đối với sự vấn nạn kia thấy chính xác là không đúng nên ta được an trụ, không lo sợ. Tự nói rằng, Ta ở ngôi vị Đại Tiên tôn quý, ở trong đại chúng rống tiếng Sư tử, chuyển pháp luân rất thanh tịnh mà tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Ma, Phạm, các kẻ thế gian khác hoàn toàn không thể chuyển được.
Bốn là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng, Ta vì các hàng đệ tử mà nói đạo xuất thế, các bậc Thánh tu tập nhất định được giải thoát, nhất định thông suốt, đoạn hết các khổ, không còn khổ nữa. Giả sử có Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Ma, Phạm, kẻ thế gian khác dựa vào giáo pháp để vấn nạn, hoặc làm cho phải suy nghĩ, có người tu theo đạo này chẳng được xuất ly, chẳng được thông suốt, chẳng đoạn hết khổ, không còn khổ nữa thì Ta đối với sự vấn nạn kia thấy chính xác là không đúng do thấy nạn kia chính xác là không đúng nên ta được an trụ, không lo sợ. Tự nói rằng, Ta ở ngôi vị Đại Tiên tôn quý, ở trong đại chúng rống tiếng rống Sư tử, chuyển pháp luân rất thanh tịnh mà tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Ma, Phạm, các thế gian hoàn toàn không thể chuyển được như vậy.
Như vậy gọi là bốn điều không sợ.
Này Thiện Hiện, bốn sự hiểu biết thông suốt là những gì? Đó là bốn sự hiểu biết thông suốt; hiểu biết thông suốt về nghĩa, hiểu biết thông suốt về pháp, hiểu biết thông suốt về ngôn từ, hiểu biết thông suốt về biện tài. Như vậy gọi là bốn sự hiểu biết thông suốt.
Thế nào là hiểu biết thông suốt về nghĩa? Là trí tuệ duyên với ý nghĩa thông suốt.
Thế nào là hiểu biết thông suốt về pháp? Là trí tuệ duyên với pháp thông suốt.
Thế nào là hiểu biết thông suốt về ngôn từ? Là trí tuệ duyên với lời nói thông suốt.
Thế nào là hiểu biết thông suốt về biện tài? Là trí tuệ duyên với biện tài thông suốt.
Này Thiện Hiện, mười tám pháp Phật bất cộng là những gì? Đó là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thường không lầm lỗi, không nói gấp gáp, không quên chánh niệm, luôn luôn định tâm, không có vọng tưởng, biết chọn bỏ, chí muốn không thoái, tinh tấn không lùi, nhớ nghĩ không lui, trí tuệ không lui, giải thoát không lui, giải thoát tri kiến không thôi, tất cả thân nghiệp do trí hướng dẫn, theo trí mà chuyển; tất cả ý nghiệm do trí hướng dẫn, theo trí mà chuyển; hoặc trí hoặc kiến ở đời quá khứ không dính mắc; hoặc trí hoặc kiến ở đời vị lai không dính mắc; hoặc trí hoặc kiến ở đời hiện tại không dính mắc. Đây gọi là mười tám pháp Phật bất cộng.
Này Thiện Hiện, ba mươi hai tướng như thế nào?
Một là dưới chân của Phật có tướng bằng phẳng, đẹp đẽ, vững vàng giống như đáy hộp. Tuy đất có chỗ cao thấp nhưng theo bước chân Phật đều được bằng phẳng.
Hai là dưới chân của Phật có các vân như bánh xe ngàn căm đều tròn đầy.
Ba là tay chân của Phật đều mềm mại như bông vải, không gì sánh bằng.
Bốn là các ngón tay và chân của Phật đều thon dài, tròn đẹp hơn người, tiêu biểu cho sự trường thọ.
Năm là giữa mỗi kẻ ngón tay của Phật như chim nhạn, đều có màn lưới, lẫn lộn sắc vàng, giống như thêu vẽ.
Sáu là gót chân của Phật rộng dài, tròn đầy, cùng với lòng chân cân đối, hơn các hữu tình.
Bảy là mu bàn chân của Phật, cao đầy đặn, mềm mại, đẹp đẽ, cùng với gót chân cân đối.
Tám là đôi vế của Phật thon dài, tròn như đùi nai chúa Y-nê-da Tiên.
Chín là hai cánh tay của Phật dài, thẳng, tròn đầy như vòi voi chúa, buông tới đầu gối.
Mười là âm tướng của Phật thế kín đáo, giống như long mã, cũng như voi chúa.
Mười một là lỗ chân lông của Phật mỗi lỗ có một sợi, mềm mại, xanh biếc, xoay quanh bên hữu. Mười hai là tóc lông của Phật ngay đều, mọc thẳng, xoay quanh bên hữu, mềm mại, xanh biếc, trang nghiêm thân sắc vàng vô cùng xinh đẹp.
Mười ba là da của Phật mỏng mịn, trơn láng; bụi, đất, nước đều không dính được.
Mười bốn là da của Phật màu vàng ròng, lóng lánh sáng sạch như đài vàng đẹp, các báu trang nghiêm, ai cũng ưa nhìn.
Mười lăm là trong lòng hai tay và chân của Phật, sau ót và hai vai, bảy chỗ đầy đặn sáng sạch, mềm mại, vô cùng đẹp đẽ.
Mười sáu là vai, cổ của Phật đầy đặn đặc biệt.
Mười bảy là hông, nách của Phật đầy đặn, chắc chắn.
Mười tám là dung nghi của Phật đầy đặn, khôi ngô.
Mười chín là thân tướng của Phật to lớn đoan nghiêm.
Hai mươi là thân tướng của Phật cao lớn, tròn đầy như cây Nặc-cù-đà.
Hai mươi mốt là cằm, ngực và phần thân trên của Phật dáng dấp nở nang như Sư tử chúa.
Hai mươi hai là ánh quang trên thân của Phật chiếu ra mỗi mặt một tầm.
Hai mươi ba là tướng răng của Phật có bốn mươi chiếc đều đặn, bằng phẳng, sạch khít, chân sâu, trắng hơn ngọc tuyết kha.
Hai mươi bốn là răng nanh của Phật trắng đẹp, nhọn bén.
Hai mươi lăm là chư Phật thường được vị ngon nhất trong các vị vì mạch yết hầu thẳng nên có thể đưa vị ngon hảo hạng khắp cả ngàn mạch trong thân thể.
Hai mươi sáu là tướng lưỡi của Phật mỏng, sạch, rộng dài, có thể che cả mặt, đến mé tóc bên tai.
Hai mươi bảy là giọng điệu Phạm âm của Phật thanh nhã rộng khắp, tùy theo chúng nhiều hay ít đều nghe được. Tiếng vang rền như tiếng trống trời, nói ra lời êm đẹp thanh tao như tiếng chim Tần-già.
Hai mươi tám là lông mi của Phật giống như trâu chúa, xanh biếc, bằng thẳng, không xen tạp nhau.
Hai mươi chín là tròng mắt của Phật xanh biếc, trong sáng, ở giữa có vòng màu hồng, tròng trắng, đen rõ ràng.
Ba mươi là diện mạo của Phật tròn đầy như trăng rằm, tướng mày như vòng cung Thiên đế.
Ba mươi mốt là giữa chặn mày của Phật có tướng lông trắng mềm mại xoay bên hữu như bông vải, trắng sáng hơn ngọc tuyết kha.
Ba mươi hai là Ô-sắc-nị-sa (nhục kế) trên đỉnh đầu của Phật nhô cao, tròn trịa như lọng trời.
Đó gọi là ba mươi hai tướng của Phật.
Này Thiện Hiện, tám mươi vẻ đẹp của Phật là những gì?
Một là móng tay của Phật thon dài, mỏng mướt, trắng sạch như hoa đồng đỏ.
Hai là các ngón chân tay của Phật đều tròn, thon dài, ngay thẳng, mềm mại, chẳng lộ xương.
Ba là chân tay của Phật ngay bằng, không so le, ở giữa đều đầy kín.
Bốn là chân tay của Phật tròn trịa như ý, mềm sạch, sáng láng, màu như hoa sen.
Năm là mạch gân của Phật chằng chịt, bền chắc, ẩn sâu chẳng lộ.
Sáu là hai mắt cá chân của Phật đều ẩn, chẳng lộ.
Bảy là bước đi của Phật thẳng tới, thong thả như voi chúa.
Tám là bước đi của Phật oai nghi ngay thẳng, tề chỉnh như Sư tử chúa.
Chín là bước đi của Phật vững bằng, thong thả, chẳng nhanh chẳng chậm, giống như trâu chúa.
Mười là khi Phật đi hoặc đứng, oai nghi của Phật nhàn nhã, bước đi như chim nhạn chúa.
Mười một là khi Phật ngó lui liền xoay bên hữu, cả thân chuyển theo như rồng voi chúa.
Mười hai là lóng xương của Phật tròn thẳng, ngay theo thứ lớp, đẹp đẽ hoàn toàn.
Mười ba là lóng xương của Phật liên kết không hở, giống như rồng nằm.
Mười bốn là đầu gối của Phật, đẹp đẽ, vững chắc, tròn đầy.
Mười lăm là chỗ kín của Phật văn vẻ đẹp đẽ, oai thế đầy đủ, viên mãn thanh tịnh.
Mười sáu là các bộ phận trên thân của Phật mướt trơn, sáng đẹp, sạch sẽ, bụi đất không dính.
Mười bảy là dung mạo của Phật uy nghiêm, không sợ, không khiếp nhược.
Mười tám là các bộ phận trên thân của Phật chắc chắn, dày kín, liên kết với nhau.
Mười chín là phần thân của Phật an định, dày nặng, thường không lay động, viên mãn, không hư hoại.
Hai mươi là thân tướng của Phật vững như núi chúa, chung quanh đoan nghiêm, sáng sạch, không có bụi nhơ.
Hai mươi mốt là chung quanh thân Phật có ánh sáng, khi bước đi thường tự soi sáng.
Hai mươi hai là hình bụng của Phật vuông thẳng không lõm, mềm mại chẳng lộ, các tướng trang nghiêm.
Hai mươi ba là rốn của Phật sâu đẹp, xoay tròn bên hữu, sạch sẽ sáng trong.
Hai mươi bốn là rốn của Phật dày, chẳng lõm, chẳng lồi, chung quanh đẹp đẽ.
Hai mươi lăm là da của Phật không có ghẻ lở, cũng không có chấm đen, các vết sẹo.
Hai mươi sáu là lòng tay của Phật đầy đặn, mềm mại, dưới chân bằng phẳng.
Hai mươi bảy là chỉ tay của Phật sâu, dài, rõ, thẳng, tươi nhuận, không đứt đoạn.
Hai mươi tám là môi của Phật tươi sáng, hồng hào như trái tần-bà, trên dưới cân đối.
Hai mươi chín là gương mặt của Phật không dài, không ngắn, không lớn, không nhỏ, cân xứng đẹp đẽ.
Ba mươi là tướng lưỡi của Phật mềm mỏng, rộng dài, màu như đồng đỏ.
Ba mươi mốt là tiếng nói của Phật phát ra vang vọng sâu xa như voi chúa rống, rõ ràng, thanh thoát.
Ba mươi hai là âm vận của Phật hay tốt hoàn toàn, như tiếng vang nơi hang sâu.
Ba mươi ba là mũi của Phật cao, dài, ngay thẳng, không hở trống.
Ba mươi bốn là những chiếc răng của Phật vuông vức, ngay thẳng, trắng đẹp.
Ba mươi lăm là những chiếc răng của Phật tròn trắng, sáng đều đặn, nhọn bén.
Ba mươi sáu là mắt của Phật trong sáng, phân minh.
Ba mươi bảy là tướng mắt của Phật rộng dài, giống như cánh hoa sen xanh vô cùng đẹp đẽ.
Ba mươi tám là mí mắt của Phật trên dưới đều nhau, khép kín không hở.
Ba mươi chín là đôi mày của Phật dài, chẳng bạc, rậm nhỏ, mềm mại.
Bốn mươi là đôi mày của Phật mướt trơn, đều đặn, màu biếc lưu ly.
Bốn mươi mốt là đôi mày của Phật cao, cong, sáng mướt, hình như trăng đầu tháng.
Bốn mươi hai là tai của Phật dày, rộng lớn, dài, trái tai thòng xuống.
Bốn mươi ba là hai tai của Phật xinh đẹp, bằng phẳng, không có khiếm khuyết.
Bốn mươi bốn là dung nghi của Phật làm cho mọi người trông thấy không tổn hại, ô nhiễm, đều sinh kính mến.
Bốn mươi lăm là trán của Phật rộng, viên mãn, bằng thẳng, hình tướng đẹp đẽ đặc biệt.
Bốn mươi sáu là phần thân của Phật nửa trên đầy đặn như Sư tử chúa, oai nghiêm tuyệt đối.
Bốn mươi bảy là tóc của Phật dài mượt, xanh biếc, dày khít, chẳng bạc.
Bốn mươi tám là tóc của Phật thơm sạch, nhỏ mịn, mướt láng, xoay quanh bên hữu.
Bốn mươi chín là tóc của Phật bằng thẳng không rối, cũng không dính đùm.
Năm mươi là tóc của Phật chắc chắn không đứt, cũng không rơi rụng.
Năm mươi mốt là tóc của Phật sáng trơn đẹp lạ, bụi đất không dính.
Năm mươi hai là phần thân của Phật vững vàng, đầy chắc hơn Na-la-diên.
Năm mươi ba là thân thể của Phật cao lớn, ngay thẳng.
Năm mươi bốn là bảy khiếu trên thân của Phật trong sạch, tròn đẹp.
Năm mươi lăm là phần thân của Phật có sức mạnh thù thắng, không ai sánh bằng.
Năm mươi sáu là thân tướng của Phật được mọi người thích nhìn, thường không nhàm chán.
Năm mươi bảy là gương mặt của Phật dài rộng vừa vặn, trong sáng như trăng rằm mùa thu.
Năm mươi tám là dung mạo của Phật thư thái, sáng láng, trước khi nói hay mỉm cười, có thuận không trái.
Năm mươi chín là diện mạo của Phật sáng láng, vui vẻ, đã xa lìa các lỗi nhăn nhó sân giận.
Sáu mươi là phần thân của Phật trong sạch, không nhơ uế, không hôi hám.
Sáu mươi mốt là lỗ chân lông của Phật thường có mùi hương thơm như ý vi diệu.
Sáu mươi hai là miệng của Phật thường thoảng hương thơm tối thượng thù thắng.
Sáu mươi ba là tướng đầu của Phật tròn trịa, đẹp đẽ như quả mạt-đạt-na, cũng như lọng trời.
Sáu mươi bốn là lông thân của Phật xanh biếc, sáng sạch, như màu sắc rực rỡ trên cổ chim công.
Sáu mươi lăm là pháp âm của Phật nói ra dù nhiều người hay ít người cũng chẳng thêm bớt, hợp lý không sai.
Sáu mươi sáu là tướng đỉnh của Phật không ai thấy được.
Sáu mươi bảy là tay chân của Phật có màng lưới, kẻ ngón rõ ràng, trang nghiêm, xinh đẹp, màu như đồng đỏ.
Sáu mươi tám là khi Phật bước đi, chân cách đất khoảng chừng bốn ngón, hiện rõ dấu chân.
Sáu mươi chín là Đức Phật tự giữ vững không cần dìu đỡ, thân không nghiêng động, cũng không xiêu ngã.
Bảy mươi là uy đức của Phật vang dội rất xa, kẻ ác tâm thấy thì vui, kẻ sợ hãi thấy thì an.
Bảy mươi mốt là âm thanh của Phật chẳng cao, chẳng thấp, tùy theo ý muốn của chúng sinh mà thuyết pháp cho họ hòa hợp vui vẻ.
Bảy mươi hai là Đức Phật tùy theo ý thích của hữu tình, vì chúng thuyết pháp cho thích hợp.
Bảy mươi ba là chư Phật đều đồng một thứ tiếng, diễn nói chánh pháp tùy theo các loài hữu tình, làm cho họ được hiểu biết.
Bảy mươi bốn là chư Phật thuyết pháp đều theo thứ lớp, đều có nhân duyên, lời nói tốt đẹp.
Bảy mươi lăm là Đức Phật xem các loài hữu tình đều bình đẳng, khen thiện, chê ác nhưng không thương ghét.
Bảy mươi sáu là Đức Phật trước quán sát rồi sau mới làm, đầy đủ mô phạm, làm cho mọi người hiểu biết một cách thanh tịnh, hoàn hảo.
Bảy mươi bảy là tướng tốt của Phật, tất cả loài hữu tình không thể thấy hết.
Bảy mươi tám là xương đỉnh của Phật cứng chắc, tròn đầy.
Bảy mươi chín là dung nhan của Phật trẻ mãi không già, thường tươi đẹp.
Tám mươi là lòng bàn tay, bàn chân và trước ngực của Phật đều có đức tướng cát tường, xoáy tròn quanh giống như thêu vẽ, màu hồng đỏ.
Đó là tám mươi vẻ đẹp.
Này Thiện Hiện, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thành tựu các tướng, hảo như vậy nên ánh sáng nơi thân tự nhiên chiếu khắp thế giới ba lần ngàn, bao trùm tất cả. Khi Ta khởi tâm liền soi chiếu khắp vô lượng, vô biên thế giới. Nhưng vì thương xót các hữu tình nên thâu ánh sáng, chỉ chiếu soi mỗi phương một tầm. Vì nếu khi ánh sáng nơi thân chiếu sáng thì che lấp các cánh sáng của mặt trời, mặt trăng, các loài hữu tình không thể biết được ngày, đêm, tháng, năm, ngày, giờ để làm việc, nên làm việc gì cũng không thành tựu. Âm thanh chư Phật vang khắp thế giới ba lần ngàn. Nếu khi có tác ý liền vang vọng đến vô lượng, vô biên, vô số thế giới. Nhưng vì sự lợi ích cho các hữu tình nên âm thanh tùy theo sức nghe của chúng sinh không thêm, không bớt.
Này Thiện Hiện, công đức thù thắng như thế là do, khi Ta còn ở địa Bồ-tát hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa, đã thành tựu nên nay tướng hảo viên mãn, trang nghiêm, tất cả hữu tình thấy đều vui mừng, đều được các sự lợi ích rộng lớn.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên dùng hai pháp Bố thí là tài sản và giáo pháp để nhiếp hóa các hữu tình. Đây là pháp hy hữu đặc biệt.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát dùng việc Ái ngữ nhiếp hóa các hữu tình là thế nào? Nghĩa là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dùng tiếng dịu dàng vì các hữu tình trước nói Bố thí ba-la-mật-đa, kế đến nói về Tịnh giới ba-lamật-đa... Như vậy cho đến cuối cùng là nói Bátnhã ba-la-mật-đa để làm phương tiện nhiếp hóa.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát dùng âm thanh dịu dàng nói về sáu pháp Ba-la-mật-đa để nhiếp hóa các hữu tình. Vì sao? Vì sáu pháp Ba-lamật-đa này có thể bao trùm tất cả các pháp lành.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát dùng việc Lợi hành nhiếp hóa các hữu tình là thế nào? Nghĩa là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, luôn luôn dùng mọi phương tiện khuyên bảo các hữu tình siêng năng tu hành Bố thí cho đến Bát-nhã bala-mật-đa và các pháp lành vi diệu khác, thường không nhàm chán.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát dùng việc Đồng sự nhiếp hóa các hữu tình là như thế nào? Nghĩa là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng thần thông thù thắng và sức đại nguyện hiện ở trong địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ, cõi trời, người, cùng làm việc với họ để làm phương tiện nhiếp hóa, làm cho họ được lợi ích.
Thiện Hiện nên biết, các Đại Bồ-tát nên dùng bốn Nhiếp pháp như vậy làm phương tiện thiện xảo nhiếp hóa các hữu tình, làm cho họ được lợi ích, an vui thù thắng.
Đây là các pháp hy hữu đặc biệt.
Lại nữa này Thiện Hiện, Ta dùng Phật nhãn xem hằng hà sa số thế giới Phật khắp mười phương, thấy có Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa, dạy bảo, trao truyền cho các Đại Bồ-tát rằng: “Thiện nam, đến đây! Ông phải siêng năng tu học để làm phát sinh môn văn tự Đà-la-ni, nghĩa là siêng học một chữ, hai chữ cho đến bốn mươi hai chữ để làm phát sinh một cách tự tại. Lại nên khéo học tất cả ngữ ngôn đều tóm thâu vào một chữ, hai chữ, cho đến bốn mươi hai chữ để làm phát sinh một cách tự tại. Lại nên khéo học một chữ có thể gồm thâu cả bốn mươi hai chữ, học bốn mươi hai chữ tóm thâu vào một chữ để làm phát sinh một cách tự tại.”
Lại nữa này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát đều phải khéo học bốn mươi hai chữ thâu vào một chữ, một chữ cũng bao trùm cả bốn mươi hai chữ. Học như thế rồi, đối với các môn chữ đều được thiện xảo. Đối với việc làm phát sinh các môn chữ được tự được thiện xảo rồi, lại đối với môn không chữ làm phát sinh một cách thiện xảo, như các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với pháp thiện xảo, đối với chữ thiện xảo. Vì đối với các pháp, các chữ thiện xảo nên đối với không chữ cũng được thiện xảo. Do thiện xảo nên có thể vì loài hữu tình, nói pháp có chữ nói pháp không chữ. Vì pháp không chữ nói pháp có chữ. Vì sao? Vì lìa chữ, không chữ thì không có Phật pháp, nhưng vượt khỏi các chữ thì gọi là chân Phật pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp hữu tình đều là pháp không rốt ráo, pháp không giới hạn.
Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp và các hữu tình đều là pháp không rốt ráo, pháp không không giới hạn, nên vượt các chữ ấy thì tự tánh của tất cả pháp và các hữu tình rốt ráo chẳng thể nắm bắt được, như vậy thì chúng Đại Bồ-tát làm sao tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa cho đến Bố thí ba-la-mật-đa? Hoặc tu hành bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc? Hoặc tu hành ba mươi bảy pháp phần Bồđề? Hoặc tu hành Tam-ma-địa Không, Vô tướng, Vô nguyện? Hoặc an trụ pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh? Hoặc an trụ chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn? Hoặc an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo? Hoặc tu hành tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ? Hoặc tu hành bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân? Hoặc tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa? Hoặc tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông? Hoặc tu hành mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng? Hoặc tu hành đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả? Hoặc tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả? Hoặc tu hành trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng? Hoặc tu hành ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp? Đại Bồ-tát làm sao ngay trong đời này hành sáu pháp đạt đến bờ giác và các thần thông, vì các hữu tình giảng thuyết chánh pháp?
Bạch Thế Tôn, tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được, sự biểu hiện của hữu tình cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên sắc cho đến thức cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhãn xứ cho đến ý xứ cũng chẳng thể nắm bắt được. Sắc xứ cho đến pháp xứ cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhãn giới cho đến ý giới cũng chẳng thể nắm bắt được. Sắc giới cho đến pháp giới cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhãn xúc cho đến ý xúc cũng chẳng thể nắm bắt được. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng thể nắm bắt được. Địa giới cho đến thức giới cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng chẳng thể nắm bắt được. Các pháp do duyên sinh ra cũng chẳng thể nắm bắt được. Vô minh cho đến lão tử cũng chẳng thể nắm bắt được. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cho đến tám mươi vẻ đẹp cũng chẳng thể nắm bắt được.
Như vậy, bạch Thế Tôn, trong chẳng thể nắm bắt được không có các hữu tình và sự biểu hiện của họ, cũng không có các sắc, thọ, tưởng, hành, thức và sự biểu hiện của chúng; cho đến cũng không có tám mươi vẻ đẹp và sự biểu hiện của chúng. Tất cả pháp hữu tình và sự biểu hiện của chúng đã chẳng thể nắm bắt được, đều không sở hữu thì Đại Bồ-tát làm sao khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì các hữu tình mà giảng thuyết các pháp? Không có chúng Đại Bồ-tát tự an trụ pháp bất chánh, vì các hữu tình nói pháp bất chánh, khuyên các hữu tình trụ pháp bất chánh, đem pháp điên đảo an lập hữu tình. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa Bồ-đề còn không chứng đắc, huống là chứng đắc pháp phần Bồ-đề! Bồ-tát còn không chứng đắc, huống là chứng đắc pháp Bồ-tát! Như vậy làm sao tu đạo Bồ-đề, vì các hữu tình mà giảng thuyết chánh pháp?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Tất cả hữu tình và sự biểu hiện của họ, cũng như tất cả pháp và sự biểu hiện của chúng đều chẳng thể nắm bắt được. Vì chẳng thể nắm bắt được nên đều không sở hữu, vì không sở hữu nên biết pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh tự tánh đều không; nên biết chân như là không cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng không; nên biết Thánh đế khổ là không cho đến Thánh đế đạo cũng không; nên biết sắc uẩn là không cho đến thức uẩn cũng không; nên biết nhãn xứ là không cho đến ý xứ cũng không; nên biết sắc xứ là không cho đến pháp xứ cũng không; nên biết nhãn giới là không cho đến ý giới cũng không; nên biết sắc giới là không cho đến pháp giới cũng không; nên biết là nhãn thức giới không cho đến ý thức giới cũng không; nên biết nhãn xúc là không cho đến ý xúc cũng không; nên biết các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là không cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng không; nên biết địa giới là không cho đến thức giới cũng không; nên biết nhân duyên là không cho đến tăng thượng duyên cũng không; nên biết các pháp do duyên sinh ra đều là không; nên biết vô minh không, cho đến lão tử cũng không; nên biết ngã là không cho đến cái thấy cũng không; nên biết Bố thí ba-la-mật-đa là không cho đến Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không; nên biết bốn Tĩnh lự là không, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng không; nên biết bốn Niệm trụ là không cho đến tám chi Thánh đạo cũng không; nên biết pháp môn giải thoát Không là không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng không; nên biết tám môn giải thoát là không cho đến mười Biến xứ cũng không; nên biết bậc Tịnh quán là không cho đến bậc Như Lai cũng không; nên biết bậc Cực hỷ là không cho đến bậc Pháp vân cũng không; nên biết tất cả pháp môn Đà-la-ni là không, tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng không; nên biết năm loại mắt là không, sáu phép thần thông cũng không; nên biết mười lực của Như Lai là không, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng không; nên biết đại Từ không, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả cũng không; nên biết ba mươi hai tướng Đại sĩ là không, tám mươi vẻ đẹp cũng không; nên biết pháp không quên mất là không, tánh luôn luôn xả cũng không; nên biết trí Nhất thiết là không, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng không; nên biết quả Dự lưu là không, cho đến Độc giác Bồ-đề cũng không; nên biết tất cả hạnh Đại Bồ-tát là không, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không; nên biết làm nghiêm tịnh cõi Phật là không, đem lại sự thành tựu cho hữu tình cũng không.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thấy tất cả pháp không có pháp nào là đều chẳng không, rồi mới vì các hữu tình mà giảng thuyết các pháp làm cho xa lìa sự điên đảo. Mặc dù vì hữu tình mà giảng thuyết các pháp nhưng đối với hữu tình và tất cả pháp đều vô sở đắc, đối với các tướng không chẳng thêm chẳng bớt, không lấy, không bỏ. Do nhân duyên này, tuy nói các pháp nhưng không có chỗ để nói.
Thiện Hiện nên biết, Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp, khi quán như thế chứng đắc trí vô chướng. Do chứng đắc trí này nên chẳng làm hư hoại các pháp, không còn phân biệt, vì các hữu tình mà như thật giảng thuyết, làm cho chúng lìa vọng tưởng điên đảo chấp trước, tùy theo căn cơ đạt đến quả Ba thừa. Như có Như Lai hóa làm một vị Phật. Vị Phật này có thể hóa làm vô lượng một ức hữu tình. Khi ấy vị hóa Phật kia có thể dạy cho chúng đã hóa ra ấy, hoặc làm cho chúng tu hành Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa, nói rộng cho đến làm cho tu hành trí Nhất thiết tướng, hoặc làm cho chứng đắc quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề, hoặc làm cho an trú tất cả hạnh Đại Bồ-tát, hoặc làm cho chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Ý ông nghĩ sao? Khi ấy vị hóa Phật và chúng hữu tình được hóa ra, thì đối với các pháp có sự phân biệt và phá hoại không?
Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, không có. Các sự biến hóa đối với tất cả pháp không có phân biệt.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, do nhân duyên này nên biết chúng Đại Bồ-tát cũng lại như vậy hành, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vì các hữu tình ứng cơ thuyết pháp, tuy chẳng phân biệt, chẳng phá hoại pháp tướng nhưng có thể như thật an lập hữu tình, làm cho họ an trụ vào chỗ nên trụ. Tuy đối với hữu tình và tất cả pháp đều không sở đắc nhưng làm cho hữu tình giải thoát vọng tưởng điên đảo, chấp trước, dùng không buộc, không mở làm phương tiện. Vì sao? Vì bản tánh của sắc cho đến thức không buộc, không mở. Nếu bản tánh của pháp không buộc, không mở thì pháp này chẳng phải sắc cho đến chẳng phải thức. Vì sao? Vì sắc cho đến thức đều hoàn toàn thanh tịnh, nói rộng cho đến bản tánh của các pháp hữu vi và pháp vô vi không buộc, không mở. Nếu bản tánh của pháp không buộc, không mở, thì pháp ấy chẳng hữu vi, chẳng vô vi. Vì sao? Vì hữu vi cho đến vô vi đều hoàn toàn thanh tịnh.
Như vậy này Thiện Hiện, các Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tuy vì hữu tình tuyên nói các pháp nhưng đối với tánh hữu tình và các pháp, hoàn toàn vô sở đắc. Vì sao? Vì các hữu tình và tất cả pháp đều chẳng thể nắm bắt được.
Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng không chỗ trụ làm phương tiện trụ trong cái vô sở đắc của tất cả pháp. Nghĩa là dùng không chỗ trụ mà làm phương tiện trụ trong cái không của uẩn sắc, dùng không chỗ trụ mà làm phương tiện trụ trong cái không của các uẩn thọ, tưởng, hành, thức uẩn; nói rộng cho đến dùng không chỗ trụ mà làm phương tiện, trụ trong cái không của pháp hữu vi, dùng không chỗ trụ mà làm phương tiện trụ trong cái không của pháp vô vi.
Thiện Hiện nên biết, sắc uẩn không chỗ trụ; thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chỗ trụ. Cái không của sắc uẩn không chỗ trụ; cái không của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chỗ trụ...
Tuần tự cho đến pháp hữu vi không chỗ trụ, pháp vô vi cũng không chỗ trụ. Cái không của pháp hữu vi không chỗ trụ, cái không của pháp vô vi cũng không chỗ trụ. Vì sao? Vì các pháp và cái không của các pháp như thế đều không tự tánh, đều chẳng thể nắm bắt được, chẳng phải pháp không tự tánh chẳng thể nắm bắt được mà lại có chỗ trụ.
Thiện Hiện nên biết, chẳng phải pháp không tánh trụ pháp không tánh. Chẳng phải pháp có tánh, trụ pháp có tánh. Chẳng phải pháp không tánh, trụ pháp có tánh. Chẳng phải pháp có tánh, trụ pháp không tánh. Chẳng phải pháp tự tánh, trụ pháp tự tánh. Chẳng phải pháp tha tánh, trụ pháp tha tánh. Chẳng phải pháp tự tánh, trụ pháp tha tánh. Chẳng phải pháp tha tánh, trụ pháp tự tánh.
Vì sao? Vì tất cả pháp đều chẳng thể nắm bắt được; pháp chẳng thể nắm bắt được, thì trụ vào đâu?
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các pháp không này tu tập trừ bỏ các pháp, cũng có thể như thật giảng thuyết, khai thị cho hữu tình.
Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì đối với chư Phật, Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn, các chúng Hiền thánh đều không tội lỗi. Vì sao? Vì chư Phật, Bồtát, Độc giác, Thanh văn đối với pháp tánh này đều có thể tùy thuận giác ngộ, đã tùy thuận giác ngộ rồi nên vì các hữu tình mà tùy thuận giảng thuyết. Tuy vì hữu tình giảng thuyết các pháp nhưng đối với pháp tánh không chuyển đổi, không vượt qua. Vì sao? Vì thật tánh các pháp tức là pháp giới, chân như, thật tế; pháp giới, chân như, thật tế như thế đều không thể chuyển đổi, cũng không thể vượt qua. Vì sao? Vì pháp giới, chân như, thật tế như thế đều không có tự tánh, đều chẳng thể nắm bắt được, vì chẳng phải là chẳng thể nắm bắt được nên có chuyển đổi vượt qua.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu chân pháp giới, chân như, thật tế không chuyển đổi vượt qua thì sắc uẩn cho đến hữu vi, vô vi cùng chân pháp giới, chân như, thật tế có khác nhau không?
Phật dạy:
–Không khác. Bởi vì sắc uẩn cho đến hữu vi, vô vi chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu sắc cho đến pháp hữu vi, vô vi đều chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế thì vì sao Thế Tôn lập ra nghiệp đen đưa đến quả báo xấu, đó là địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ? Lập ra nghiệp trắng đưa đến quả báo tốt, đó là cõi người, cõi trời? Lập ra nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng, đó là một phần bàng sinh, ngạ quỷ và một phần người? Lập ra nghiệp không đen không trắng đưa đến quả báo không xấu không tốt, đó là quả Dự lưu cho đến quả vị Giác ngộ cao tột? Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Ta nương vào thế tục mà đặt ra nhân quả khác nhau như thế, chẳng nương vào thắng nghĩa, vì Thắng nghĩa đế chẳng thể nói có nhân quả khác nhau. Vì sao? Vì trong Thắng nghĩa đế, các pháp tánh tướng chẳng thể phân biệt, không thuyết, không chỉ bày, thì làm sao có được nhân quả khác nhau.
Thiện Hiện nên biết, trong Thắng nghĩa đế, từ sắc uẩn cho đến hữu vi, vô vi không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh vì đó là không, rốt ráo đến chỗ không không biên giới.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu nương vào thế tục để thiết lập phần vị nhân quả khác nhau, không nương vào thắng nghĩa, thì lẽ ra tất cả phàm phu cũng có quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-đề và quả vị Giác ngộ cao tột của Phật?
Phật bảo:
–Thiện Hiện, ý ông nghĩ sao? Kẻ phàm phu có như thật hiểu được lý của hai đế Thế tục và Thắng nghĩa chăng? Nếu như thật hiểu lý của hai đế ấy thì đáng lẽ họ cũng có quả Dự lưu..., nhưng tất cả kẻ phàm phu vì không hiểu như thật được lý của hai đế thế tục và thắng nghĩa nên không có Thánh đạo và tu Thánh đạo, không thể lập ra Thánh quả khác nhau, chỉ có hàng Thánh giả mới có thể như thật hiểu Thế tục và Thắng nghĩa nên có Thánh đạo và tu Thánh đạo. Vì vậy nên lập ra Thánh quả khác nhau.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, người tu Thánh đạo, có chắc chắn đạt được Thánh quả chăng?
Phật dạy:
–Không đạt được.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, người không tu Thánh đạo, có đạt được Thánh quả chăng?
Phật dạy:
–Không đạt được.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, như vậy thì đáng lẽ không có ai đạt được Thánh quả cả?
Phật bảo Thiện Hiện:
–Tuy nương vào thế tục, có đạt Thánh quả nhưng chẳng phải thắng nghĩa. Nếu nương thắng nghĩa thì không tu Thánh đạo, cũng có thể đạt Thánh quả, cũng chẳng phải không tu Thánh đạo có thể đạt Thánh quả, chẳng rời Thánh đạo có thể đạt Thánh quả, cũng chẳng trụ Thánh đạo có thể đạt Thánh quả. Vì sao? Vì nương theo đạo và đạo quả của Thắng nghĩa đế, thì tu hay không tu đều chẳng thể nắm bắt được.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tuy vì hữu tình lập ra các Thánh quả khác nhau nhưng ở trong cảnh giới hữu vi, vô vi thì không phân biệt Thánh quả như thế.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu ở trong cảnh giới hữu vi, vô vi không thể phân biệt các Thánh quả, thì tại sao Thế Tôn thuyết có đoạn trừ ba kết sử đạt quả Dự lưu; làm mỏng dục, tham và sân đạt quả Nhất lai; đoạn tận năm hạ phần kiết đạt quả Bất hoàn; đoạn tận năm thượng phần kiết đạt quả A-la-hán; biết rõ các pháp có tu tập đều là pháp diệt, đạt được Độc giác Bồ-đề; đoạn trừ vĩnh viễn tập khí tương tục của phiền não sở tri đạt được quả vị Giác ngộ cao tột của Phật?
Bạch Thế Tôn, con phải làm thế nào để biết được ý nghĩa sâu xa mà Ngài đã nói, tức là ở trong cảnh giới hữu vi, vô vi không phân biệt quả Dự lưu...?
Phật bảo:
–Thiện Hiện, ý ông nghĩ sao? Ta nói quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, quả vị Giác ngộ cao tột của Phật, Thánh quả như thế là hữu vi hay vô vi?
Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Thánh quả như thế đều là vô vi, chẳng phải hữu vi.
Phật bảo:
–Thiện Hiện, ý ông nghĩ sao? Trong cảnh giới vô vi có phân biệt không?
Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, không có.
Phật bảo:
–Thiện Hiện, ý ông nghĩ sao? Các thiện nam, thiện nữ nào thông suốt tất cả pháp hữu vi, vô vi đều đồng một tướng, gọi là không tướng, thì ngay lúc ấy các thiện nam, thiện nữ này đối với các pháp có sự phân biệt: đây là hữu vi hoặc vô vi chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, không có.
Phật bảo Thiện Hiện:
–Các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, tuy vì hữu tình mà giảng thuyết các pháp nhưng không phân biệt pháp tướng đã nói, là pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh. Đại Bồ-tát này tự mình đối với các pháp không chấp trước, cũng có thể dạy người khác đối với các pháp không chấp trước. Nghĩa là đối với pháp Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không chấp trước; đối với bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng không chấp trước; đối với bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo cũng không chấp trước; đối với pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng không chấp trước; đối với chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng không chấp trước; đối với Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo cũng không chấp trước; đối với pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện cũng không chấp trước; đối với tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ cũng không chấp trước; đối với bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân cũng không chấp trước; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng không chấp trước; đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng không chấp trước; đối với mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng không chấp trước; đối với đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả cũng không chấp trước; đối với ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp cũng không chấp trước; đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng không chấp trước; đối với trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng không chấp trước; đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát cũng không chấp trước; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không chấp trước; đối với trí Nhất thiết trí cũng không chấp trước.
Đại Bồ-tát ấy đối với các pháp đã nói như thế, tự mình không chấp trước, cũng dạy người khác đối với các pháp như thế không chấp trước. Đại Bồ-tát ấy đối với các pháp này vì không chấp trước nên đối với tất cả chỗ đều được vô ngại.
Như người được Thế Tôn biến hóa ra, tuy hành Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhưng đối với quả kia không chấp, không đắm, chỉ vì hữu tình đạt được Niết-bàn.
Như vậy, cho đến tuy hành trí Nhất thiết trí nhưng đối với quả kia không chấp, không đắm, chỉ vì hữu tình đạt được Niết-bàn. Các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi, hoặc vô vi không chấp, không đắm, vô trụ, vô ngại. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy đạt được tướng vi diệu của tất cả pháp.
[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]