SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
HỘI THỨ XVI
Phẩm Bát-nhã Ba-La-Mật-Đa
(QUYỂN 593 - 600)
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Tôi nghe thế này:
Một thời Đức Thế Tôn ở bên ao cò trắng, vườn Trúc lâm, thành Vương xá. Cùng với chúng đại Bísô một ngàn hai trăm năm mươi người, vô lượng, vô số Đại Bồ-tát từ các cõi Phật đều đến tập hợp, đều là Bồ-tát chỉ còn một đời nữa. Khi ấy, Thế Tôn nói pháp cho nhiều trăm ngàn đại chúng đang cung kính vây quanh.
Lúc ấy, trong chúng có vị Đại Bồ-tát tên Thiện Dũng Mãnh, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật, mặc y che vai trái, gối phải chấm đất, chắp tay cung kính bạch Phật:
–Con muốn thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chút ít nghĩa sâu xa, cúi xin Thế Tôn thương mến cho chúng con hỏi mà trả lời.
Đức Phật bảo Thiện Dũng Mãnh:
–Cho ông hỏi, tùy ý ông hỏi, Như Lai đáp, để ông vui mừng.
Đại Bồ-tát Thiện Dũng Mãnh bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Đức Thế Tôn vì chúng Đại Bồtát giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa, sao gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa? Đại Bồ-tát làm sao tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa? Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa làm sao mau được viên mãn? Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa làm sao tất cả ác ma không gây hại, biết rõ được những việc của ma? Làm sao Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa mau viên mãn pháp trí Nhất thiết?
Thế Tôn khen ngợi Thiện Dũng Mãnh Bồ-tát:
–Lành thay, lành thay! Thiện nam, ông thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa, làm cho chúng Đại Bồ-tát được lợi ích, cũng làm chúng sinh được an vui, lợi ích an vui các trời, người, muốn làm ánh sáng cho Đại Bồ-tát đời nay đời sau... nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này.
Thế Tôn biết nhưng hỏi lại Thiện Dũng Mãnh Đại Bồ-tát:
–Ngươi căn cứ nghĩa nào mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?
Thiện Dũng Mãnh Đại Bồ-tát thưa:
–Con thương mến tất cả hữu tình muốn làm việc lợi ích an vui, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bao gồm tất cả pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Chánh đẳng giác. Cúi xin Thế Tôn thương xót chúng con mà giảng nói đủ cảnh trí Như Lai. Nếu có hữu tình nào chắc chắn thuộc về Thanh văn thừa, nghe pháp này rồi mau chứng được địa vị vô lậu của mình. Nếu loài hữu tình đối với tánh Độc giác thừa đã quyết định, nghe pháp này rồi mau nương thừa của mình mà được giải thoát. Nếu loài hữu tình đối với tánh vô thượng thừa đã quyết định, nghe pháp này rồi mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Nếu hữu tình nào dù chưa hay đã nhập vào Chánh tánh ly sinh mà đối với tánh tam thừa không quyết định, nghe pháp này rồi đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột. Cúi xin Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trả lời câu hỏi về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm cho căn lành của các hữu tình thêm sinh trưởng.
Bạch Thế Tôn, con đang vì các hữu tình tin hiểu thấp kém, thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; cũng lại không vì các hữu tình giữ tâm nghèo cùng, thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa; cũng lại không vì các hữu tình thuộc bần cùng thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; cũng lại không vì các hữu tình lười biếng trễ nhác nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa; cũng lại không vì các hữu tình bị biếng lười che khuất nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; cũng lại không vì các hữu tình rơi vào bùn ác kiến nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; cũng lại không vì các hữu tình mắc phải lưới ma, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Không vì các hữu tình không hỗ không thẹn, thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Không vì các hữu tình tánh không thanh liêm cần kiệm nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Không vì các hữu tình quên mất chánh niệm mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Không vì các hữu tình tâm thường mê loạn nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình chìm trong bùn lầy tham dục nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình làm nhiều hành động dối trá, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình làm nhiều dối gạt nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình chẳng biết báo ân, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình đầy đủ ác dục, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình muốn làm hạnh ác, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình phá hoại giới pháp, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình mà giới không trong sạch, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình hủy hoại chánh kiến, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình muốn thích hành động trong cảnh giới của ma, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình ưa khen ngợi mình, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình ưa chê bai người, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình yêu chuộng lợi dưỡng, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình tham lam y bát, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình ngầm làm việc dối trá, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình ưa thêu dệt lời xằng bậy, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình dối hiện tướng kỳ lạ, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cũng không vì các hữu tình cầu xin quá đáng, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; cũng lại không vì các hữu tình đem lợi cầu lợi, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Bạch Thế Tôn, nếu các hữu tình hết lòng vui thích trí Nhất thiết trí, trì không chấp trước, trí Tự nhiên, trí không gì bằng, trí không gì hơn. Vì họ mà con thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Các hữu tình đối với sở hữu của mình còn không có sự đắc huống chi tự khen ngợi. Vì họ nên con thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Các hữu tình đối với sở hữu khác con không sự đắc huống chê bai người. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Nếu các hữu tình xô ngã kiêu mạn như bẻ sừng thú. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Nếu các hữu tình cầu mong nhổ tên độc, các thứ phiền não. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Nếu các hữu tình tâm họ khiêm hạ như đứa con Chiên-đồ-la, con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu các hữu tình tâm họ bình đẳng như bốn đại, hư không. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp còn không có sự đắc cũng không chấp trước, huống chi đối với phi pháp. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-tát ý muốn thanh tịnh, không nịnh, không dối, tánh chất ngay thẳng, con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa.
Nếu Đại Bồ-tát trong tâm bình đẳng, thương mến muốn lợi lạc tất cả hữu tình. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Nếu Đại Bồ-tát thường đối với pháp lành, đem chỉ dạy khuyên răn hướng dẫn khen ngợi làm vui mừng cho tất cả hữu tình. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa.
Nếu Đại Bồ-tát gánh nổi gánh lớn, cỡi được xe lớn, dựng nên việc lớn. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa.
Nếu Đại Bồ-tát đem lòng Từ bi làm cho lợi lạc cho tất cả hữu tình. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Đại Bồ-tát đối với các hữu tình có thể làm người dẫn đường, hướng dẫn tài giỏi, đi đến khắp nơi. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Nếu Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không bị lệ thuộc. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Đại Bồ-tát đối với các chỗ sinh không có mong cầu. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Nếu Đại Bồ-tát ra khỏi lưới của tất cả các ma. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Nếu Đại Bồ-tát có vui thích lớn, đủ tinh tấn lớn, thường không buông lung. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa.
Nếu Đại Bồ-tát muốn đến bờ kia rốt ráo của các pháp. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Đại Bồ-tát muốn hoàn toàn dứt trừ tất cả lưới nghi. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Đại Bồ-tát đối với sự chứng trí Phật còn không kiêu mạn, không chấp, không đắm huống là đối với trí khác. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Đại Bồ-tát vượt khỏi tất cả kiêu mạn chấp trước, ở vào đường chánh, năng hành chánh đạo, thuyết giảng chánh đạo. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa.
Đại Bồ-tát nào thường làm lợi ích cho tất cả hữu tình, làm cho được lợi ích, làm cho an vui, làm cho yên ổn. Con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Bạch Đức Thế Tôn, con vì cho khắp tất cả hữu tình sự an vui không nhiễm ô, an vui vô thượng, an vui không gì hơn, an vui Niết-bàn, an vui chư Phật, an vui vô vi nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Con vì muốn dứt hẳn các thứ lưới nghi, phiền não ràng buộc tất cả hữu tình nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Con vì tự dứt các thứ lưới nghi, phiền não ràng buộc nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Con tự dứt hẳn được lưới nghi phiền não ràng buộc, mới có thể như thật vì các hữu tình nói các pháp môn, dứt lưới nghi phiền não ràng buộc.
Vì sao? Tất cả hữu tình đều thích an vui, đồng chán nguy khổ, tất cả hữu tình đều tìm cách cầu an vui. Con hoàn toàn chẳng thấy có chút an lạc nào đáng mong cầu, chỉ trừ Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Con hoàn toàn không thấy có chút an vui nào đáng cầu, chỉ trừ Đại Bồ-tát thừa. Con hoàn toàn không thấy có chút an vui nào đáng mong cầu, chỉ trừ Đại thừa. Con xem thấy ích lợi như thế muốn bố thí cho hữu tình sự an vui mầu nhiệm nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa. Con xem thấy ích lợi như thế của chúng Đại Bồ-tát nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cúi xin Thế Tôn thương xót mà trả lời.
Khi ấy, Thế Tôn bảo Thiện Dũng Mãnh Đại Bồ-tát:
–Lành thay, thiện nam! Ông có thể thương xót đại chúng sinh... nên thưa Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Ông do duyên này mà được công đức vô lượng. Ông nên lắng nghe, suy nghĩ thật kỹ, Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông.
Thiện Dũng Mãnh đáp:
–Bạch Thế Tôn, hay thay! Cúi xin Ngài giảng, chúng con thích nghe.
Phật bảo Thiện Dũng Mãnh Đại Bồ-tát:
–Ông đã hỏi Thế Tôn về Bát-nhã ba-la-mật-đa được nói cho các chúng Đại Bồ-tát ở khắp nơi. Sao gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Các ông phải biết, thật chẳng có chút pháp nào có thể gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bát-nhã ba-lamật-đa vượt khỏi tất cả các đường ngôn ngữ.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa thật không thể nói đây là Bát-nhã ba-lamật-đa. Cũng không thể nói Bát-nhã ba-la-mật-đa thuộc kia, không thể nói Bát-nhã ba-la-mật-đa do kia, cũng không thể nói Bát-nhã ba-la-mật-đa từ kia.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, thật tánh của tuệ có thể mau chứng đạt các pháp nên gọi là Bát-nhã bala-mật-đa. Trí tuệ của Như Lai còn không thể đắc, huống chi đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, Bát-nhã ấy nghĩa là hiểu các pháp và biết các pháp nên gọi là Bát-nhã.
Thiện Dũng Mãnh, Bát-nhã hiểu biết các pháp là gì?
–Nghĩa là các pháp khác nhau, ngôn ngữ cũng khác, nhưng tất cả pháp chẳng lìa ngôn ngữ. Nếu hiểu các pháp hoặc biết các pháp đều chẳng thể nói, nhưng thuận chỗ biết của hữu tình mà nói. Nên gọi là Bát-nhã.
Thiện Dũng Mãnh, Bát-nhã ấy nghĩa là giả thi thiết. Do giả thi thiết gọi là Bát-nhã. Nhưng tất cả pháp chẳng thể thi thiết, không thể chuyển động, không thể giảng nói, không thể trình bày, biết như vậy gọi là biết như thật.
Thiện Dũng Mãnh, Bát-nhã đó không phải là biết, không phải không biết, không phải đây, không phải chỗ khác, nên gọi là Bát-nhã.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bát-nhã ấy là sự hành động của trí, chẳng phải sự hoạt động của trí, không phải cảnh phi trí, cũng là cảnh phi trí, vì trí xa lìa tất cả cảnh.
Nếu trí là cảnh tức là phi trí, chẳng từ phi trí mà được có trí; cũng chẳng từ trí mà có phi trí, chẳng từ phi trí mà có phi trí; cũng chẳng từ trí mà được có trí, chẳng do phi trí gọi là trí; cũng chẳng do trí gọi là phi trí, chẳng do phi trí gọi là phi trí; cũng chẳng do trí gọi là trí. Tức phi trí gọi là trí, do đây nay trí gọi là phi trí. Trong này trí ở không thể trình bày ra, đây gọi là trí, chẳng thể trình bày đây thuộc về trí, chẳng thể trình bày nguyên do của trí, chẳng thể trình bày đây là đi theo trí, nên trong trí không có thật tánh trí, cũng không có thật trí ở trong tánh trí.
Trí và tánh trí đều không thể đắc, phi trí cùng tánh cũng như vậy, chắc chắn không do phi trí mà gọi là trí. Nếu do phi trí gọi là trí thì tất cả phàm phu đều có trí. Nếu có như thật đối với trí, phi trí đều không chỗ đắc. Đối với trí phi trí, biết tất cả như thật, đây gọi là trí. Nhưng thật tánh của trí chẳng phải như đã nói.
Vì sao? Vì thật tánh của trí lìa ngôn ngữ. Trí chẳng phải cảnh của trí, chẳng phải cảnh phi trí. Vì trí vượt khỏi tất cả cảnh, không thể nói đây là cảnh của trí hay phi trí.
Thiện Dũng Mãnh, đây gọi là như thật giảng nói tướng trí. Như vậy tướng trí thật không thể nói, không thể trình bày, nhưng thuận theo sự hiểu biết của hữu tình mà trình bày. Người kia có thể biết cũng không thể nói. Trí cảnh còn không có huống gì có kẻ trí. Nếu có thể biết như thật, tùy giác như thật gọi là Bát-nhã.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu có thể hiện quán tác chứng được như thế. Đây gọi là Bát-nhã xuất thế. Theo như đã nói, Bát-nhã xuất thế cũng không thể nói.
Vì sao? Vì thế gian còn không có huống chi là có xuất thế gian. Sự xuất còn không có huống chi là người xuất. Do đây Bát-nhã xuất thế cũng không có.
Vì sao? Vì hoàn toàn không có thế gian và xuất thế gian, người xuất và sự xuất, nên được gọi là Bát-nhã xuất thế. Nếu có sự đắc thời không gọi là Bát-nhã xuất thế, tánh Bát-nhã này cũng chẳng thể nắm bắt được vì xa lìa tánh có thể nắm bắt được của hữu và vô.
Này Thiện Dũng Mãnh, thế gian gọi là giả lập, không thể dựa vào thế gian giả lập mà thật có xuất thế. Nhưng ra khỏi các sự giả lập nên gọi xuất thế. Xuất thế đó không thật có đối với thế gian mà có xuất hay không xuất.
Vì sao? Trong này hoàn toàn không có pháp xuất hay có thể xuất, nên gọi xuất thế. Xuất thế ấy không có thế gian và xuất thế gian. Không xuất, không không xuất nên gọi xuất thế. Nếu biết rõ như thật như vậy thì gọi là Bát-nhã xuất thế. Như vậy Bát-nhã chẳng phải như đã nói.
Vì sao? Vì Bát-nhã xuất thế vượt trên tất cả đường ngôn ngữ. Tuy gọi xuất thế mà không có sự xuất, tuy gọi Bát-nhã mà không có sự biết. Sự xuất sự biết chẳng thể nắm bắt được, hay xuất hay biết cũng chẳng thể nắm bắt được. Như thật biết như vậy gọi là Bát-nhã xuất thế. Do đây nên Bát-nhã vượt ra tất cả. Thế nên gọi là Bát-nhã xuất thế.
Này Thiện Dũng Mãnh, đây cũng gọi là Bátnhã thông đạt. Như vậy Bát-nhã thông đạt sự việc gì? Nghĩa là Bát-nhã này không sự thông đạt. Nếu Bát-nhã này có sự thông đạt tức là giả lập. Nếu là giả lập thì không gọi là Bát-nhã thông đạt. Nghĩa là đối với trong này hoàn toàn không thật có. Không có ở đây, không có ở kia cũng không ở giữa, không có khả năng thông đạt, không sự thông đạt, không nơi thông đạt, không có thời gian thông đạt, không người thông đạt, nên gọi là thông đạt.
Lại nữa, ở trong này hoàn toàn không thật có, không có người tu hành, không có nơi tu hành, không đây, không kia, cũng không ở giữa nên gọi thông đạt. Tuệ thông đạt gọi là người thông đạt, tuệ thông đạt này hoàn toàn không thật có, không trên không dưới, không chậm, không mau, không tiến không lui, không qua không lại nên gọi là thông đạt.
–Này Thiện Dũng Mãnh, tuệ thông đạt là thông đạt cái gì?
–Nghĩa là thấy gì cũng hoàn toàn thông đạt.
–Do gì thông đạt?
–Là do Bát-nhã.
–Như vậy Bát-nhã làm sao thông đạt?
–Là tướng giả lập mà có thông đạt. Các tướng giả lập tất cả là phi tướng. Như vậy phi tướng gọi là tướng giả lập.
–Này Thiện Dũng Mãnh, có các thành tựu với Bát-nhã như vậy tức là có thể như thật thông đạt ba cõi. Như thật thông đạt ba cõi là thế nào?
–Nghĩa là không phải ba cõi gọi là ba cõi. Vì sao? Vì trong này không có cõi để có thể thông đạt. Thông đạt ba cõi tức chẳng phải cõi. Do thông đạt ba cõi nên gọi là thành tựu Bát-nhã thông đạt.
Thế nào là thành tựu Bát-nhã thông đạt?
–Là không có chút việc nào mà không thông đạt hoàn toàn. Đối với tất cả việc hoàn toàn thông đạt nên gọi là Bát-nhã thông đạt. Như vậy Bát-nhã đối với tất cả việc đều vượt khỏi. Nếu thành tựu Bát-nhã như vậy thì đối với các điều thấy, nghe, ngửi, nếm, hiểu rõ đều thông đạt.
Thông đạt cái gì?
–Nghĩa là vô thường, khổ, ung nhọt, bệnh, tên bắn, rỗng không, trở ngại, nguy hại, kẻ khác phá hoại, hoại pháp, động, mau diệt, không ngã, không sinh, không diệt, không tướng...
Thiện Dũng Mãnh, ai thông đạt như vậy thì gọi là mát mẻ, xa lìa tên bắn. Như có vị thuốc hay gọi là trừ mũi tên, nếu đắp vô chỗ nào có các tên độc thì đều trừ được, chất độc không ở được trong ấy, vì oai lực của thuốc thần ép đuổi ra hết. Nếu có các Bí-sô thành tựu được pháp mát mẻ trừ mũi tên này, gọi là thành tựu Bát-nhã thông đạt. Nếu luôn thực hiện đủ cả sáu thì Bát-nhã thông đạt xa lìa tất cả nhiễm trước ba cõi, vượt khỏi lưới của tất cả ác ma. Này Thiện Dũng Mãnh, ví như kim cương khoan được các vật, khoan chỗ nào cũng đều xuyên qua cả. Như vậy, nếu các Bí-sô đạt được định Kim cang dụ, do được tuệ thông đạt dung nạp, tùy theo sự quán pháp đều thông đạt. Tuệ thông đạt này được định Kim cang dụ bảo hộ, quán đến pháp nào cũng đều thông đạt. Nếu ai thành tựu trí tuệ thông đạt này, có thể xuất thế gian, diệt hết các khổ, hiện tại hết các khổ trong tương lai không bị đắm nhiễm. Tuệ thông đạt này cũng gọi là ba minh.
Thiện Dũng Mãnh, gọi minh là khái niệm vĩnh viễn diệt trừ vô minh. Đây cũng gọi biết trọn vẹn về vô minh, cũng gọi là khái niệm diệt khổ uẩn.
Như vị lương y thông minh biết rộng, làm điều gì cũng xem xét rõ ràng, nhờ xem xét rõ ràng nên được trí tuệ tuyệt diệu, biết rõ các thuốc, hiểu rõ nguyên nhân của bệnh, biết rõ bệnh tướng có thể chữa các khổ. Trị đến bệnh nào cũng lành.
Vì sao? Vì người ấy thông thạo về thuốc, nguyên nhân, tướng trạng của bệnh, phương pháp hòa hợp thuốc. Cho nên có thể trừ tất cả bệnh khổ. Như vậy, nếu có thể thành tựu đến minh thứ ba, thì diệt các vô minh, dứt tất cả khổ, trừ tất cả sinh, già, bệnh, chết và các pháp sầu bi khổ ưu não. Đây gọi là Bát-nhã thông đạt xuất thế.
Này Thiện Dũng Mãnh, Ta theo ý nghĩa này mật ý nói: Trong tất cả thế gian, tuệ là hơn hết, nghĩa là thông đạt thật tánh các pháp. Nhờ chánh tri này làm cho chấm dứt sinh vào các cõi.
Sự chấm dứt sinh vào các cõi là khái niệm gì?
–Là thông đạt hoàn toàn về khái niệm xuất ra, chìm mất.
Vì sao gọi là thông đạt xuất ra và chìm mất? –Nghĩa là hoàn toàn thông đạt các pháp có tập khởi, đều có pháp diệt tận. Như vậy gọi là thông đạt xuất và chìm mất.
Thiện Dũng Mãnh, xuất là khái niệm về sinh; chìm là khái niệm về diệt. Tuy là nói vậy mà nói không đúng về xuất và chìm.
Này Thiện Dũng Mãnh, những gì thực có tập khởi không phải có pháp xuất.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì tập khởi là cùng nhau sinh ra, không phải cùng nhau nên có sinh ra, cũng không phải có chìm, cùng nhau tùy thuận phát sinh nên gọi là tập khởi. Cùng nhau tùy thuận phát khởi, chẳng phải trong này có xuất, có chìm. Như vậy, ngay nơi tự thể tự nhiên phá hoại gọi là diệt. Trong này không có vật gì gọi là diệt, nghĩa là diệt vô gián đoạn, không phải do nơi sinh ra là có diệt nên gọi là diệt mà ngay nơi không sinh nên gọi là diệt. Như vậy, thông đạt hoặc mất hoặc chìm, không sinh, không diệt nên gọi là thông đạt hoặc xuất hoặc chìm.
Này Thiện Dũng Mãnh, nói thông đạt là có thể biết trọn vẹn về các duyên khởi, do các duyên mà các pháp được khởi lên nên gọi là duyên khởi. Như vậy duyên khởi hoàn toàn không thật có, nên gọi là sự thông đạt duyên khởi. Đây gọi là biết trọn vẹn về duyên khởi. Nghĩa là có thể hiểu rõ như thật là không khởi, vì không khởi nên gọi là duyên khởi, bình đẳng không khởi nên gọi duyên khởi, với chỗ này, khởi còn không có, huống chi có diệt. Tùy theo giác ngộ duyên khởi hoặc thuận hoặc trái đều chẳng thể nắm bắt được. Vì không cùng sinh khởi nên gọi là duyên khởi; nếu không cùng sinh khởi thì không có sinh, nếu không có sinh thì không có quá khứ, cũng không có đã sinh. Nếu không có quá khứ thì không có đã sinh, thì không có diệt, không có diệt tức trí không sinh. Do trí không sinh nên không sinh cũng không chứng diệt. Do không sinh nên cũng không diệt. Do có sinh nên thiết lập có diệt, đã không có sinh nên không diệt. Đối với tất cả pháp thấy biết thông đạt và tác chứng như vậy gọi là tận trí.
Thiện Dũng Mãnh, tận trí là chấm dứt sự không biết nên gọi là tận trí.
Thế nào gọi là tận?
–Là do không còn tận nên gọi là tận, không thấy có pháp nào để gọi là tận, lìa không biết nên gọi là tận trí. Tức là cùng tận sự không biết gọi là tận trí, biết khắp tất cả các pháp, không biết nên gọi không biết. Do tận cùng không biết nên gọi tận trí. Không phải do pháp không biết mà có tận không tận, lìa không biết nên gọi tận trí, như thật biết trọn vẹn về pháp không biết này là hoàn toàn không thật có, nên gọi là lìa. Như vậy, do trí biết pháp không biết, không còn phân biệt nên gọi là xa lìa không biết, nhưng pháp không biết thật chẳng thể nắm bắt được. Trí còn không có huống chi có không biết. Người nào có thể đối với tận cùng được giải thoát, gọi là tận trí. Dù nói như vậy mà không phải như nói. Đã có tận trí thì hoàn toàn không thể nói, chỉ là giả danh gọi là tận cùng sự không biết, cũng gọi là tận trí. Nếu đem tận trí vô tận quán sát các pháp thì tận trí cũng không. Nếu biết như vậy thì lìa tận trí đến vô tận trí. Đây là bờ vô tận, tức là không bờ, cũng là bờ Niết-bàn, tuy nói như vậy mà không phải như nói.
Vì tất cả pháp đều là không bờ, cũng là bờ Niếtbàn, các bờ đã dứt hẳn gọi là bờ Niết-bàn. Tuy là nói vậy mà không phải như nói. Vì bờ Niết-bàn lìa ngôn ngữ, tất cả ngôn ngữ đối với trong ấy hoàn toàn dứt hẳn.
Này Thiện Dũng Mãnh, Như Lai tuy nói có cảnh giới Niết-bàn, mà không phải như nói. Vì cảnh giới Niết-bàn hoàn toàn không thể nói, vượt trên tất cả lời nói. Trong cảnh giới Niết-bàn dứt hẳn các lời nói. Nếu nói như thế là tướng cảnh giới Niết-bàn, tức là nói tướng của Bát-nhã thông đạt xuất thế.
Này Thiện Dũng Mãnh, không thể nói phương xứ của Niết-bàn tại đây, tại kia. Nên Niết-bàn thật không thể nói.
Này Thiện Dũng Mãnh, vì sao trong này gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?
Thiện Dũng Mãnh, không phải Bát-nhã ba-lamật-đa này có nắm bắt được một phần nhỏ nào xa bờ kia.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa này có một phần nhỏ nào xa bờ kia, thì Như Lai phải nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có xa bờ kia. Thiện Dũng Mãnh, vì chẳng phải Bát-nhã bala-mật-đa này có xa mà sở đắc được, nên Như Lai không nói đây có xa bờ kia.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bát-nhã ba-la-mật-đa này nghĩa là hành động bằng diệu trí, đến bờ kia rốt ráo của tất cả pháp, nên gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa, tuy là nói vậy mà không phải như nói.
Vì sao? Vì không phải ngữ, không phải nghiệp mà có thể đạt đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa không thể nói được.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bát-nhã ba-la-mật-đa tùy theo các pháp, nếu có thể tùy theo giác ngộ tức trái với giác ngộ.
Vì sao? Vì trong đây không có vật gì để gọi là tùy giác. Tùy giác đã không, nên giác ngộ cũng không. Tức là đối với các pháp không có nghĩa thông đạt. Tùy giác ngộ mà thông đạt pháp tánh bình đẳng gọi là Bồ-đề. Tùy giác ngộ các pháp nên gọi Bồ-đề. Trong này không có vật gì để gọi là Bồđề nên đối với trong này cũng không tùy giác.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, nếu có được chút phần Bồ-đề nào, tức là trong Bồ-đề phải được Bồđề, nhưng trong Bồ-đề không có Bồ-đề, làm đúng như vậy là hiện chứng Bồ-đề. Vì chẳng tùy giác chẳng thông đạt nên gọi là giác ngộ, dù nói như vậy mà không phải như nói. Vì tất cả pháp không thể tùy giác, không thể thông đạt. Lại pháp và phi pháp đều không có tự tánh, do giác ngộ được lý này nên gọi là Bồ-đề.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, không phải các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể đắc Bồ-đề. Không phải các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể rõ Bồ-đề. Vì như thật Bồ-đề không thể rõ, không thể nêu ra, không phải các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác sinh Bồ-đề, vì tánh Bồ-đề không sinh, không khởi.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-đề là không có sự ràng buộc, không phải trong Bồ-đề có chút ít hữu tình, thiết lập hữu tình. Ở trong Bồ-đề đã không có hữu tình, thiết lập hữu tình, tại sao nói rằng hữu tình là sở hữu của Bồ-đề?
Này Thiện Dũng Mãnh, không phải trong Bồđề có thể đắc Bồ-đề, không phải trong Bồ-đề có thể đắc hữu tình.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, Bồ-đề siêu việt, Bồ-đề không sinh, Bồ-đề không khởi, Bồ-đề không tướng. Không phải trong Bồ-đề có tánh hữu tình, không phải trong Bồ-đề có thể đắc hữu tình. Không do hữu tình mà thiết lập Bồ-đề, không do Bồ-đề thiết lập hữu tình. Vì hữu tình tùy giác ngộ không có tự tánh, nên gọi Bồ-đề, biết trong Bồ-đề thật không có hữu tình, nên gọi là Bồ-đề Tát-đỏa.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, Bồ-đề hữu tình không phải do tưởng hữu tình hiện bày. Trừ tưởng hữu tình nên gọi Bồ-tát, tuy nói là vậy mà không phải như nói.
Vì sao? Vì Bồ-đề hữu tình lìa ngôn ngữ vậy. Bồ-đề hữu tình lìa tánh hữu tình, Bồ-đề hữu tình lìa tưởng hữu tình, biết Bồ-đề nên gọi là Bồ-tát.
Làm sao Bồ-tát có thể biết Bồ-đề?
Nghĩa là Bồ-đề siêu việt tất cả, Bồ-đề không tạo tác, Bồ-đề không sinh, Bồ-đề không diệt. Không phải tánh Bồ-đề có thể rõ Bồ-đề, cũng không phải Bồ-đề là sự hiểu rõ, không thể hiện rõ, không thể thiết cận, không thể thay đổi, nên gọi là Bồ-đề. Nếu không còn trái ngược thông đạt tùy giác, không còn sự phân biệt, chấm dứt hẳn phân biệt, gọi là Bồ-đề hữu tình, dù là nói vậy mà không phải như nói.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, Bồ-đề hữu tình không thể đắc vậy. Nếu Bồ-đề hữu tình có thể đắc, thì đắc đây là Bồ-đề, đây thuộc Bồ-đề, đây là hữu tình, đây thuộc hữu tình, nhưng không thể nói đây là Bồ-đề, đây thuộc Bồ-đề, cũng không thể nói đây là hữu tình, đây thuộc hữu tình. Vì có thể tùy giác mà thật không có hữu tình. Không có tánh hữu tình, lìa tánh hữu tình nên gọi là Bồ-tát. Do không hữu tình trừ tưởng hữu tình nên gọi là Bồ-tát.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, cảnh giới hữu tình tức là khái niệm không thật có hữu tình. Chẳng phải trong hữu tình có tánh hữu tình. Hữu tình không có nên gọi cảnh giới hữu tình. Nếu trong hữu tình có tánh hữu tình thì không nói là cảnh giới hữu tình. Cảnh giới hữu tình ấy tức là hiện không cảnh giới. Vì cảnh giới hữu tình không có tánh cảnh giới. Nếu cảnh giới hữu tình có tánh cảnh giới thì nên thật có mạng người tức là thân. Nếu cảnh giới hữu tình lìa tánh cảnh giới mà có thì phải thật có mạng người khác với thân. Nhưng cảnh giới hữu tình không thật tánh cảnh giới, chỉ do thế tục giả nói là cảnh giới. Không phải trong cảnh giới hữu tình có tánh cảnh giới, cũng không phải trong tánh cảnh giới có cảnh giới hữu tình. Không phải tánh cảnh giới là cảnh giới hữu tình, không phải lìa tánh cảnh giới có cảnh giới hữu tình. Vì tất cả pháp không có tánh cảnh giới.
Này Thiện Dũng Mãnh, Ta nương nghĩa này mật ý nói rằng: “Các cảnh giới hữu tình không thể thiết lập, có vơi có đầy.”
Vì sao? Vì cảnh giới hữu tình không có tánh, các cảnh giới hữu tình lìa hữu tình, như cảnh giới hữu tình không thể thi thiết có vơi có đầy, các pháp cũng vậy, không thể thi thiết có vơi có đầy. Vì tất cả pháp đều không thật tánh, không thể nói có vơi có đầy. Nếu có thể tùy giác các pháp như thế, tức gọi là tùy giác Phật pháp. Ta nương nghĩa này mật ý nói rằng: “Như cảnh giới hữu tình không thể thiết lập, có vơi có đầy.” Các pháp cũng vậy không thể thiết lập, có vơi có đầy. Nếu tất cả pháp có vơi có đầy, đem không chân thật mà làm phương tiện thì Phật pháp không vơi không đầy. Như vậy tùy giác tất cả pháp không vơi, không đầy. Vì tất cả pháp không vơi không đầy nên gọi là Phật pháp. Phật pháp tức khái niệm không phải Phật pháp, không phải các Phật pháp có vật có thể làm cho vơi hoặc đầy được.
Vì sao? Vì tùy giác tất cả pháp. Nếu năng tùy giác tánh tất cả pháp, trong ấy không có pháp hoặc vơi hoặc đầy. Tất cả pháp ấy là khái niệm pháp giới. Không phải pháp giới có vơi có đầy.
Vì sao? Vì pháp giới kia không có bờ bến, không phải cảnh giới hữu tình và pháp giới kia hoặc vơi hoặc đầy, hoặc được hoặc mất. Như vậy Tùy giác tức gọi là Bồ-đề. Do đây nên nói không phải Phật pháp có thể thiết lập, có vơi có đầy.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu có thể như thật không phân biệt về tánh không vơi không đầy, thì gọi là người thấy như thật. Không thể ở trong này mà có lấy bỏ. Tùy giác như vậy gọi là Bồ-đề.
Thiện Dũng Mãnh, Bồ-đề tức là tướng Phật. Sao gọi là tướng Phật? Nghĩa là tất cả tướng rốt ráo không tướng tức là Phật tướng.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, Rốt ráo không tướng cùng tướng Bồ-đề, bản tánh là xa lìa. Tùy giác như vậy gọi là Bồ-đề. Tuy là nói vậy mà không phải như nói.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, cần có thể tùy giác pháp như thế, nên gọi Bồ-tát. Nếu Bồ-tát thật không biết rõ pháp tánh như vậy mà bảo rằng ta có thể như thật tùy giác, tự xưng là Bồ-tát thì phải biết người ấy xa bậc Bồ-tát, xa pháp Bồ-tát. Đem danh Bồ-tát dối gạt Trời, Rồng, A-tố-lạc...
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu chỉ dùng lời dối tự xưng là Bồ-tát mà thành Bồ-tát thì tất cả hữu tình chẳng lẽ đều là Bồ-tát.
Này Thiện Dũng Mãnh, không phải chỉ bằng lời dối mà dự vào bậc Bồ-tát, được pháp Bồ-tát. Chẳng do lời nói mà chứng được quả vị Giác ngộ cao tột. Không do ngữ nghiệp tự xưng danh mà được Bồ-đề. Cũng không do lời tự xưng danh vào bậc Bồ-tát mà được pháp Bồ-tát.
Này Thiện Dũng Mãnh, tất cả hữu tình hành hạnh Bồ-đề mà không biết không hiểu thật tánh các pháp, không gọi Bồ-tát.
Vì sao? Vì chẳng biết hữu tình hay chẳng phải hữu tình vậy. Nếu biết hữu tình chẳng phải tánh hữu tình mà hành hạnh Bồ-đề thì thành Bồ-tát. Nhưng các hữu tình do điên đảo nên không thể hiểu rõ hành động theo cảnh giới của mình và chỗ hành động của mình. Nếu đối với hành động của mình biết rõ như thật thì chẳng còn hành hạnh có phân biệt. Bởi hành phân biệt nên tất cả phàm phu ngu si duyên cảnh hư dối, phát khởi hành động điên đảo, cũng duyên Bồ-đề nhưng phát khởi kiêu mạn chấp trước. Họ duyên cảnh hư dối sinh ra điên đảo kiêu mạn, hành hạnh phân biệt, nên không thể đắc pháp các Bồ-tát, huống chi đắc Bồ-đề. Nếu có thể biết rõ pháp ấy như vậy, thì chẳng còn phát khởi hành theo duyên hư dối, cũng không còn duyên các pháp sinh kiêu mạn. Đây gọi là Bồ-tát hành nơi không hành.
Bồ-tát không nên do phân biệt mà khởi hành phân biệt. Nếu ở chỗ này không có sự phân biệt thì không phải ở chỗ này mà có sự hành. Nếu ở chỗ này không sinh phân biệt thì không phải ở chỗ này lại có sự hành. Chư Phật Bồ-tát đối với tất cả hành không có sự phân biệt mà tu hành. Tất cả kiêu mạn hoàn toàn không sinh, Bồ-tát biết tất cả pháp như vậy. Đối với tất cả pháp còn không vin duyên, không còn phân biệt, không đi vào. Như vậy gọi là chân hạnh Bồ-tát. Vì đem không sự hành làm phương tiện, nếu các Bồ-tát có thể hành như thế thì gọi là Bồ-tát hành động chân chánh.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì có thể tùy giác các pháp, thông đạt các pháp nên gọi là Bồ-tát.
Này Thiện Dũng Mãnh, không có hữu tình, phải biết tức là khái niệm về Bồ-tát. Vì có thể từ bỏ tất cả tưởng.
Vì sao? Vì có thể rõ suốt tất cả hữu tình chẳng thật hữu tình; tất cả hữu tình đều không phải hữu tình; tất cả hữu tình đều là điên đảo chấp trước hữu tình; tất cả hữu tình đều là biến kế sở chấp hữu tình; tất cả hữu tình đều là làm duyên hư dối cho hữu tình; tất cả hữu tình đều là bại hoại cho hành của hữu tình; tất cả hữu tình đều là hữu tình do vô minh duyên hành.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, nếu pháp tất cả hữu tình không có mà các loài hữu tình tạo tác pháp kia. Đây gọi là hữu tình do vô minh duyên hành.
Pháp nào không có? Nghĩa là sự chấp ngã, sự chấp ngã sở, chấp ngã, ngã sở, sự dựa vào chấp, nhưng pháp kia không có. Nếu có pháp kia thì tất cả hữu tình đều chấp làm ngã, chấp làm ngã sở, chấp ngã, ngã sở, dựa vào sự chấp trước, sự ỷ thị là thật có, không gọi hư dối. Vì không có pháp kia mà các hữu tình lại sai lầm chấp làm ngã, chấp làm ngã sở. Sự chấp sự ỷ thị ngã, ngã sở đều không có thật có, đều có hư dối, nên nói thế này: Tất cả hữu tình không thật hữu tình, tất cả hữu tình đều là hữu tình do vô minh duyên hành.
Này Thiện Dũng Mãnh, không phải có chút thật pháp nào gọi là hữu tình để có thể chấp làm ngã, hoặc làm ngã sở, hoặc chấp cả hai. Sự chấp, sự ỷ lại đều dựa vào pháp không thật, nên nói tất cả hữu tình là không thật hữu tình. Không hữu tình ấy cũng phải biết là khái niệm chẳng thật. Nói chẳng thật ấy phải biết là khái niệm về không phải hữu tình, như trong tưởng thật không có hữu tình, tất cả hữu tình chấp sai lầm làm thật, vậy nên nói thế này: Tất cả hữu tình không thật hữu tình.
Này Thiện Dũng Mãnh, nói không thật ấy là đối với trong này không thật không sinh khổ. Vì tất cả pháp đều là không chân thật nên cũng không phát sinh. Hữu tình trong này do hư dối chấp trước mà tự ràng buộc. Nên có thể nói tất cả hữu tình đều bị hư dối làm đối tượng cho hữu tình. Họ đối với hành động của mình không thể hiểu rõ, cho nên nói là không thật hữu tình. Tức là trong này không được giác ngộ khắp cả. Nếu họ đối với các hành có giác ngộ khắp cả, phải biết người ấy nên gọi là Bồtát.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát đối với pháp hiểu biết được như thế, mới có thể gọi là chân thật Bồ-tát. Nói Bồ-tát ấy nghĩa là khái niệm có thể tùy giác ngộ cho hữu tình không thật không sinh.
Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp cũng có thể biết như thật như Phật.
Vì sao Bồ-tát biết như thật như Phật?
Nghĩa là như thật biết tánh tất cả pháp chẳng thật chẳng sinh cũng chẳng hư dối. Các Bồ-tát đối với tánh các pháp chẳng như sự chấp trước của phàm phu ngu si, chẳng như sự sở đắc của phàm phu ngu si. Như thật mà biết nên gọi là Bồ-tát.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, bởi vì Bồ-đề ấy không có sự chấp trước, không có sự phân biệt, không sự tập hợp, không sự đắc vậy.
Này Thiện Dũng Mãnh, các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tánh Bồ-đề chẳng có chút chứng đắc, vì tất cả pháp chẳng thể đắc. Đối với pháp không thể đắc nên gọi Bồ-đề. Chư Phật nói Bồ-đề tuy là nói vậy mà chẳng phải như nói, vì lìa các tướng vậy.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát phát tâm Bồ-đề suy nghĩ: Hôm nay ta phát tâm Bồ-đề, đây tức là Bồ-đề. Vì đang hướng tới Bồ-đề này nên ta phát tâm tu hành. Các Bồ-tát này có sự sở đắc nên chẳng gọi là Bồ-tát, chỉ có thể gọi là hữu tình cuồng loạn.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, do Bồ-tát xác định chấp có tánh phát sinh, xác định chấp có sự phát tâm, xác định chấp có tánh Bồ-đề.
Nếu các Bồ-tát phát tâm Bồ-đề mà có sự chấp trước, chỉ có thể gọi là hữu tình có chấp đối với tâm Bồ-đề. Chẳng gọi chân tịnh phát tâm Bồ-đề. Họ do tạo tác mà phát tâm Bồ-đề, nên lại gọi là hữu tình tạo tác chẳng gọi là Bồ-tát. Họ do gia hạnh mà phát tâm Bồ-đề, nên gọi là hữu tình gia hạnh, không gọi là Bồ-tát.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát do có sự chấp trước mà phát tâm Bồ-đề, nên chỉ có thể gọi là hữu tình phát tâm, không gọi là Bồ-tát.
Này Thiện Dũng Mãnh, không thật có thể phát tâm Bồ-đề, vì tâm Bồ-đề không thể phát. Bồ-đề không sinh cũng không tâm, các Bồ-tát kia chỉ chấp phát tâm mà không hiểu rõ tâm Bồ-đề nghĩa là không sinh.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu tánh của sinh bình đẳng tức tánh của thật bình đẳng. Nếu tánh thật bình đẳng tức là tánh tâm bình đẳng. Nếu tánh tâm bình đẳng tức là Bồ-đề. Nếu đối với trong đây có tánh như thật tức đối với trong đây không sự phân biệt. Nếu có tâm phân biệt và Bồ-đề thì bị chấp trước vào tâm và Bồ-đề. Do phát tâm Bồ-đề với hai tướng trường hợp này nên không thể gọi là người chân thật phát tâm.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-đề cùng tâm chẳng phải khác loại nhau, chẳng phải ở trong tâm có thật Bồ-đề. Chẳng phải trong Bồ-đề có tật tâm, Bồ-đề cùng tâm như thật như lý đều chẳng thể nói, là giác, là tâm, do giác ngộ như thật. Bồ-đề cùng tâm đều chẳng thể nắm bắt được, không sinh, chẳng sinh nên gọi là Bồ-tát, cũng gọi là Đại Bồ-tát và hữu tình như thật.
Vì sao? Vì như thật biết không phải thật có tánh. Như thật biết cái gì chẳng thật có tánh? Nghĩa là các thế gian đều không thật có bao gồm trong chẳng thật, chẳng thật có sinh chỉ giả xếp đặt.
Vì sao thế gian không thật có sinh chỉ là giả xếp đặt? Không thật có ấy là không thật sinh vậy. Vì không thật sinh và không thật có nên nói các pháp không thật có tánh. Do như vậy, biết không thật có tánh. Cũng có thể nói là hữu tình như thật. Ở trong thật có cũng không chấp thật có, có thể nói tùy hữu tình như thật. Tuy nói như thế mà không phải như nói.
Vì sao? Chẳng như thật lý có chút hữu tình hoặc Đại Bồ-tát.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì chứng nhập Đại thừa nên gọi là Đại Bồ-tát.
–Này Thiện Dũng Mãnh, vì sao gọi là Đại thừa?
–Trí Nhất thiết gọi là Đại thừa.
Sao gọi là trí Nhất thiết? Nghĩa là đối với các trí, hoặc trí hữu vi hoặc trí vô vi, hoặc trí thế gian hoặc trí xuất thế gian, nếu có thể chứng nhập cái trí ấy thì gọi là Đại Bồ-tát.
Vì sao? Vì có thể xa lìa tưởng về đại hữu tình gọi là Đại Bồ-tát. Lại có thể xa lìa tập hợp vô minh lớn gọi là Đại Bồ-tát. Có thể xa lìa nhóm các hành lớn gọi là Đại Bồ-tát. Có thể xa lìa nhóm vô tri lớn gọi là Đại Bồ-tát. Có thể xa lìa nhóm các khổ lớn gọi là Đại Bồ-tát.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu có thể xa lìa tưởng về đại hữu tình gọi Đại Bồ-tát. Họ đối với tất cả pháp tâm và tâm sở pháp, tuy không có sở đắc mà có thể hiểu rõ bản tánh của tâm. Họ đối với pháp Bồ-đề và pháp phần Bồ-đề tuy không có sở đắc mà có thể hiểu rõ bản tánh Bồ-đề. Họ do trí này nên không thể nào đối với nội tâm thấy có Bồ-đề.
Cũng không lìa tâm thấy có Bồ-đề, không đối với trong Bồ-đề thấy có thật tâm.
Cũng không lìa Bồ-đề thấy có thật tâm. Từ bỏ như vậy đến không còn chỗ tu tập, không còn chỗ từ bỏ. Đối với chỗ tu tập và chỗ từ bỏ đều không có sở đắc, không chỗ ỷ lại, không chỗ chấp trước. Tuy không thấy có tâm tánh Bồ-đề mà có thể phát khởi tâm đại Bồ-đề. Nếu có thể phát sinh tâm Bồđề như thế mới có thể gọi là chân thật Bồ-tát. Họ tuy phát tâm Bồ-đề như vậy nhưng đối với Bồ-đề không có sự phát sinh.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì họ đã an trụ vào đại Bồ-đề. Nếu không có sự chấp trước như vậy thì hoàn toàn không thấy có tâm và Bồ-đề sinh diệt khác nhau. Cũng không thấy có người phát tâm hướng đến đại Bồ-đề. Không thấy, không chấp, không có sự phân biệt thì phải biết đã đạt đến Vô thượng Bồ-đề. Nếu không có sự chấp trước như vậy mà phát sinh thắng giải và tâm giải thoát thì gọi là chân thật Bồ-đề.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát không lìa tưởng tâm và tưởng Bồ-đề mà phát tâm Bồ-đề là họ đã xa Bồ-đề, chẳng gần Bồ-đề.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát không thấy Bồ-đề có xa có gần, phải biết họ đã gần quả vị Giác ngộ cao tột, cũng gọi là người chân thật phát tâm Bồ-đề. Theo nghĩa này, Ta mật ý nói rằng: Người có thể tự biết không có hai tướng là họ biết như thật tất cả Phật pháp.
Vì sao? Vì họ có thể nhận rõ được ngã và hữu tình đều không có tự tánh, có thể biết khắp các pháp không hai. Do có thể biết khắp các pháp không hai, nhất định thấu suốt được ngã và hữu tình cùng tất cả pháp, đều lấy không tánh làm tự tánh, lý không sai khác. Nếu biết rõ tất cả các pháp không hai thì nếu biết rõ các Phật pháp. Nếu biết trọn vẹn các pháp không hai, tức là biết trọn vẹn tất cả Phật pháp. Nếu biết trọn vẹn vì ngã thì biết khắp ba cõi.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu biết trọn vẹn về ngã thị họ đạt đến được bờ kia của các pháp.
Sao gọi là bờ kia của các pháp?
–Nghĩa là tất cả pháp thật tánh bình đẳng, nếu chẳng sở đắc đây, cũng chẳng chấp đây. Nếu vô sở đắc bờ kia, cũng không chấp bờ kia, thì gọi là người biết trọn vẹn đến bờ kia. Tuy nói là vậy mà chẳng phải như nói.
Này Thiện Dũng Mãnh, các chúng Bồ-tát nên hướng tới các bậc Bồ-tát như thế, nên chứng các bậc Bồ-tát như thế. Phải biết tức là Bát-nhã ba-lamật-đa của Bồ-tát. Nghĩa là đối với trong ấy không có chút pháp nào có thể tới, có thể chứng. Vì đối với trong ấy không thể thiết lập để có thể đi đến.
Khi ấy, Khánh Hỷ bạch Phật:
–Các hàng tăng thượng mạn tu hành hữu tướng, đối với lời Phật đã nói chớ có sợ hãi.
Xá-lợi Tử bảo Khánh Hỷ:
–Chẳng phải cảnh giới hành động của kẻ tăng thượng mạn tu hành hữu tướng, họ làm sao sợ hãi? Vì sao? Vì kẻ có sợ hãi thì lìa tăng thượng mạn, được bạn ác bảo vệ, nghe pháp sâu xa, không thể lường được, sợ mất sự mong cầu, liền sinh sợ hãi.
Này Khánh Hỷ, có người vì muốn dứt tăng thượng mạn, hành chánh hạnh, mới có sợ hãi. Có người vì muốn dứt tăng thượng mạn siêng năng tinh tấn cũng có sợ hãi.
Vì sao? Vì họ đã có thể biết được lỗi tăng thượng mạn nên cầu tánh không mạn và cầu đoạn trừ mạn, nghe pháp sâu xa không thể lường được sợ mất sự mong cầu nên sinh sợ hãi.
Này Khánh Hỷ, nếu có người đối với mạn chẳng thấy, chẳng đắc, không ỷ không chấp thì họ đối với các pháp không sợ, không hãi.
Này Khánh Hỷ, Như Lai không vì hạng tăng thượng mạn mà nói pháp như thế, vì thế họ không chấp nhận sự sợ hãi. Có người vì muốn dứt tăng thượng mạn nên siêng năng tu hành, nghe pháp như vậy, có thể hiểu biết rõ ràng, cũng không sợ hãi.
Này Khánh Hỷ, gọi là tăng thượng mạn, phải biết là sự biểu hiện cho thắng pháp. Nếu có kẻ hiện hành tăng thượng mạn, ắt họ hiện hành tăng ích. Vì hành tăng ích chẳng phải hành bình đẳng. Kẻ ấy nếu thích hành hạnh bình đẳng thì đối với pháp sâu xa này tâm có do dự, chẳng sinh sợ hãi, cũng không tin nhận.
Này Khánh Hỷ, nếu đối với trong bình đẳng, chẳng bình đẳng đều vô sở đắc. Hoặc đối với trong bình đẳng, chẳng bình đẳng hoàn toàn không có sự ỷ thị... hoặc đối với trong bình đẳng, chẳng bình đẳng hoàn toàn không có sự chấp trước. Họ đối với các pháp không kinh, không ngại, không sợ, không hãi.
Này Khánh Hỷ, pháp sâu xa này không phải chỗ hành của các phàm phu ngu si. Pháp sâu xa này không phải cảnh giới của các phàm phu ngu si. Pháp sâu xa này chẳng phải chỗ biết của các phàm phu ngu si. Vì vượt qua tất cả chỗ hành, chỗ nhận, chỗ giác ngộ của phàm phu ngu si. Có người vì hướng đến Thanh văn thừa, tuy thực hành pháp sâu xa nhưng pháp sâu xa này không phải chỗ thực hành của họ. Có người vì hướng đến Độc giác thừa, tuy thực hành pháp sâu xa nhưng pháp sâu xa này không phải chỗ thực hành của họ. Có người hướng đến Bồ-tát thừa, nếu thực hành hữu tướng, xa lìa bạn lành, bị bạn ác hỗ trợ, đối với pháp không nhiễm đắm như vậy, cũng không thể thực hành được vì chẳng phải cảnh giới của họ.
Khánh Hỷ nên biết, chỉ trừ Thanh văn thừa và Bồ-tát thừa được bạn lành hỗ trợ, thấy chân lý cầu đại Bồ-đề thì đối với pháp sâu xa này sinh tin hiểu, đối với pháp sâu xa này có thể tùy thuận thực hành, đối với pháp sâu xa này có thể hội nhập.
Này Khánh Hỷ, nếu các Bồ-tát xa lìa các tướng, an trụ vô tướng, thực hành không sai khác. Đối với các pháp sâu xa, hoàn toàn ra khỏi các thứ lưới nghi phân biệt chấp trước, tùy theo ước muốn đều có thể thành tựu. Vị ấy đối với tâm Bồ-đề hoàn toàn không có sở đắc, đối với tánh các pháp không hiểu sai khác cũng lại không phát sinh các hành động sai khác, hướng đến chỗ nào đều có thể thông đạt. Họ đối với pháp môn sâu xa như vậy đều có thể thọ trì, tâm không nghi ngờ.
Vì sao? Họ đối với các pháp đều tùy thuận, không trái nghịch. Nếu đối với pháp, người khác có những câu hỏi, đều có thể tùy thuận trả lời, hòa hợp cả hai khiến không trái nhau. Phật vì họ nên nói pháp sâu xa này.
Khi ấy, Phật bảo Cụ thọ Khánh Hỷ:
–Ông nên thọ trì lời Xá-lợi Tử đã nói. Xá-lợi Tử cùng Ta đều nói như vậy không khác. Khánh Hỷ nên biết, kẻ tăng thượng mạn đối với giáo pháp này không thể thông đạt vì chẳng phải cảnh giới của họ, chẳng phải địa vị của họ.
Khánh Hỷ nên biết, giáo pháp như thế thuận tánh các pháp, thuận Bồ-đề của Phật, đối với Bồđề của Phật có thể giúp đỡ. Các loài hữu tình tin hiểu thấp kém, đối với Phật pháp sâu xa rộng lớn này, không thể thông đạt, không thể vâng giữ thực hành.
Khánh Hỷ nên biết, hàng tăng thượng mạn tin hiểu thấp kém, đối với Bồ-đề của Phật và pháp sâu xa thì hành động trái nghịch. Có các hành động tùy thuộc tăng thượng mạn thì không thể tin nhận pháp sâu xa này.
Khánh Hỷ nên biết, trong chúng hội này thanh tịnh tối thắng, xa lìa tạp nhiễm, từng gặp nhiều Đức Phật phát thệ nguyện rộng, vun trồng vô lượng căn lành thù thắng, từng thờ vô biên chư Phật quá khứ, đối với pháp sâu xa tin hiểu đã lâu, đối hạnh sâu xa đã tu hành thuần thục. Do đó, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tin tưởng chúng này không còn nghi ngờ. Nói ra pháp môn đều rõ ràng, không có sự tiếc vì nói pháp yếu.
Khánh Hỷ nên biết, nay chúng hội đây thanh tịnh bền chắc, không như những thứ ngói sỏi, đất mặn... đã từng cúng dường nhiều trăm ngàn Phật, đối với Phật pháp đã an trụ bền chắc.
Khánh Hỷ nên biết, như ngói sỏi ấy là khái niệm ngu si của phàm phu. Đối với pháp sâu xa không dung nạp nghĩa ấy.
Nói đất mặn ấy, phải biết là khái niệm chỉ rõ các tăng thượng mạn của hữu tình. Vì không thể sinh trưởng hạnh sâu xa.
Khánh Hỷ nên biết, chúng hội này đã xa lìa tăng thượng mạn, phát sinh căn lành lớn là bậc Pháp khí sâu xa.
Khánh Hỷ nên biết, ví như vua rồng ở ao lớn Vô nhiệt, vì có nhân duyên nên sinh tử mừng lớn, trong cung hưởng vui năm dục. Vì vui mừng nên ở trong cung mình, vua rưới mưa lớn xuống, đủ tám công đức. Khi ấy, các rồng con đều đến cung của mình cũng vui mừng, hưởng vui năm dục, hòa hợp dạo chơi, rưới mưa ngọt lớn.
Như vậy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì các chúng hội rưới mưa pháp lớn. Khi ấy, có vô lượng chúng trưởng tử Đại Bồ-tát nghe rồi kiết tập. Ở trong cõi Kham nhẫn này, đối với Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở đây vì các chúng hội rưới mưa pháp lớn, hoặc đến chỗ các cõi Phật của mình đối với các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, vì các chúng hội ở đó rưới mưa pháp lớn.
Này Khánh Hỷ, như vua rồng chúa ở biển khi vui mừng, ngay trong cung rưới mưa lớn xuống, có các rồng ở lâu trong cung tùy chỗ rưới xuống đều vui mừng nhận lãnh, đối với trận mưa lớn này biết rõ đều có phần. Các rồng con kia cũng đều vui mừng, nhận lãnh mưa lớn mà vua cha đã rưới.
Vì sao? Có các rồng con khác đối với mưa lớn ấy không biết đều có phần, nên không thể vui mừng nhận thọ. Như vậy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở trong hội đại chúng rưới mưa pháp báu sâu xa. Có chúng Đại Bồ-tát trưởng tử của Phật, từ lâu đã trồng vô lượng căn lành thù thắng, đã được sinh trưởng nơi pháp môn sâu xa, thành tựu các ý vui rộng lớn. Nhận lãnh mưa pháp môn lớn của Như Lai, nghe rồi vui mừng biết rõ đều có phần. Vì nghĩa này nên ngày nay Đức Như Lai ở trong đại chúng thanh tịnh, rống tiếng rống sư tử lớn, rưới mưa pháp lớn, làm nhiều lợi ích lớn.
Này Khánh Hỷ, như vua Chuyển luân có nhiều con, dòng họ mẹ thanh tịnh, hình tướng hùng vĩ. Vua ấy có lúc chứa nhiều kho báu, gọi hết các con đến phân phát ban cho. Trong tâm vua hoàn toàn không dối gạt hay thiên lệch. Khi ấy, các người con của vua đã được của báu, đối với vua cha càng kính mến, đều nghĩ: “Ngày nay chúng ta hiểu rõ phụ vương đã cho ta lợi đồng nhau.” Như vậy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là Đại pháp chủ làm Đại pháp vương. Tự nhiên triệu tập các đệ tử chân chánh của Phật đem kho pháp lớn phân bố ban cho. Tâm ngài hoàn toàn không hư dối thiên lệch. Khi ấy, các Phật tử đã đạt được pháp vi diệu, đối với Như Lai đồng sinh kính mến đều nghĩ thế này:
Ngày nay chúng ta biết rõ Như Lai đã cho lợi đồng nhau. Vậy chúng ta nên tinh tấn, nối truyền dòng giống của Phật chẳng cho đoạn tuyệt.
Này Khánh Hỷ, pháp báu vi diệu sâu xa này, chẳng phải các hữu tình khác có thể tin nhận. Kẻ tin hiểu thấp kém, kẻ tăng thượng mạn, kẻ thực hành ác kiến, kẻ thực hành hữu tướng, kẻ thực hành hữu đắc, kẻ bị ngã mạn phá hoại, kẻ bị tham, sân, si xô đè, kẻ đi ngoài lề đường. Các loại như vậy... gọi là hữu tình khác. Đối với pháp môn này không thể tin nhận.
Khánh Hỷ nên biết, các loài hữu tình tin hiểu thấp kém, chẳng thể quý mến của báu Luân vương, phải là con Luân vương mới sinh kính mến.
Khánh Hỷ nên biết, các loài hữu tình bần cùng thấp kém, chẳng tham tư hữu của Luân vương như: xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, quan chủ kho báu, tướng chủ binh báu và các loại y phục tốt đẹp khác và nhiều của báu quý giá như: Mạt-ni, ngọc báu, vàng, bạc, san hô, lưu ly... người nghèo khổ kia giả như gặp được, vẫn tự ti mặc cảm, chẳng thể nhận dùng. Nếu đem chuyển bán, không biết giá trị, chỉ trả giá rất thấp, theo giá trả bán ngay. Hoặc đối với của báu không biết phân biệt nên khinh thường và vứt bỏ đi.
Khánh Hỷ nên biết, người nghèo khổ kia chẳng những không hiểu rõ giá trị của báu, lại cũng không biết tên của báu. Như vậy, Khánh Hỷ, chỉ có con của pháp thân Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc các Thanh văn... hoặc các Bồ-tát đã thấy đế lý cầu đạo Bồ-đề. Được bạn lành chân tịnh giúp đỡ hộ trì mới có thể tin nhận kho pháp bảo này. Họ kính mến sâu xa, chẳng thể nắm bắt được pháp bảo không tương ưng, cũng có thể nhận dùng giáo lý chân tịnh tương ưng Phật pháp, cũng có thể tu hành đối với tất cả pháp, không chấp không tướng các hạnh Bồ-tát.
Khánh Hỷ nên biết, các loài hữu tình thấp kém nghĩa là kẻ thiếu nghe chánh pháp phá hoại sự nghe chánh pháp. Người ngu si không mắt, làm sao mong cầu kho báu chánh pháp. Giả như có gặp được, không biết kính trọng. Đối với hữu tình khác coi nhẹ mà bán rẻ, hoặc tâm khinh thường nên vứt bỏ đi.
Này Khánh Hỷ, nếu kẻ hàng thịt, hoặc kẻ gánh thây chết, hoặc các thợ thuyền, hoặc những kẻ bần tiện nuôi mạng bằng nghề xấu xa thì không bao giờ cầu nhiều trân bảo quý giá. Giả sự gặp được không tự nhận dùng, được ít giá trị liền bán cho người hoặc chán mà vứt bỏ đi.
Khánh Hỷ nên biết, hạng hàng thịt tức là khái niệm về tất cả ngoại đạo, cũng là các chúng đệ tử ngoại đạo. Các kẻ bần tiện, người sinh sống xấu xa, khác là khái niệm về phàm phu ngu si. Kẻ kia thường lún chìm trong ao bùn ác kiến. Ở tất cả thời gian tu hành có sở đắc, ưa tướng trói buộc, hành hạnh hữu tướng, hướng đến các cõi bỏ đường mà đi. Không thể mong cầu của báu Thánh pháp. Giả như gặp được không thể nhận dùng, hoặc rất chán bỏ, hoặc coi thường mà cho người.
Khánh Hỷ nên biết, nếu các Phật tử hành theo hạnh Phật, vì muốn giữ gìn mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ... vô biên Phật pháp khiến chẳng dứt mất, cầu được kho báu pháp sâu như vậy. Họ đối với kho báu pháp sâu như thế, phát khởi tưởng quý báu, biết cách nhận dùng, tinh tấn chuyên cần, giữ gìn khiến không hoại mất.
Khánh Hỷ nên biết, chẳng phải dã can có thể học được tiếng rống sư tử, phải là sư tử con do sư tử chúa sinh mới có thể học được tiếng rống ấy.
Khánh Hỷ nên biết, nói dã can là dụ cho các phàm phu ngu si tà kiến. Họ chắc chắn không thể tinh tấn siêng năng, phương tiện học tiếng rống của Chánh đẳng giác Đại sư tử. Cần phải là các đệ tử Phật sinh từ Chánh đẳng giác Tự nhiên trí mới có thể tinh tấn siêng năng tu học tiếng rống của Chánh đẳng giác Đại sư tử. Như vậy đệ tử Phật đối với pháp tài quả vị Giác ngộ cao tột mới có thể nhận dùng.
Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, kỳ diệu thay! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể tập hợp chúng hội thanh tịnh như thế.
Hy hữu thay! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể nhóm chúng hội tối thắng như thế, chúng hội tự nhiên, chúng hội khó chinh phục, chúng hội như Kim cang không động không chuyển, không rối, mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Khi ấy, Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:
–Ông đã tán thán hoàn hảo về công đức của chúng hội.
Lúc ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, công đức của chúng hội chẳng phải con có thể khen ngợi. Vì sao? Nay chúng hội này thành tựu vô lượng, vô biên công đức, như núi Diệu cao khen chẳng thể hết được.
Phật bảo Xá-lợi Tử:
–Đúng vậy, đúng vậy, như ông đã nói! Nay chúng hội này thành tựu vô lượng, vô biên công đức thù thắng thanh tịnh hiếm có. Chư Phật Thế Tôn nên xưng khen ngợi còn không thể hết huống chi các hữu tình khác.
Này Xá-lợi Tử, trong chúng hội này, không phải sức của Phật Thế Tôn có thể tập hợp, cũng chẳng phải đối với chúng hội này Như Lai có sự ưa thích làm cho họ tập hợp mà do sức căn lành của chúng này, được nghe danh Ta mà đến nhóm hội. Lại nữa, đại chúng này không vì Phật đến cũng chẳng phải thần thông của Như Lai làm cho đến, chỉ do sức căn lành của chúng này từ sự giác ngộ phát ra mà đến đây, pháp là như vậy. Nếu Phật Thế Tôn muốn nói diệu pháp sâu xa như thế, chắc chắn có các Đại Bồ-tát như thế, từ các nước Phật mà đến nhóm hội.
Này Xá-lợi Tử, chư Phật Thế Tôn ở quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc mười phương các cõi, sẽ khai thị tạng pháp Bồ-tát sâu xa mầu nhiệm để dứt tất cả nghi, ắt có đại chúng với vô lượng, vô biên các công đức tối thắng thanh tịnh như thế tập hợp. Nếu có đại chúng vô lượng, vô biên các công đức tối thắng thanh tịnh tập hợp, ắt nói tạng pháp Bồ-tát sâu xa mầu nhiệm dứt tất cả nghi.
Khi ấy, Thế Tôn bảo Thiện Dũng Mãnh Đại Bồ-tát:
–Ta ở nơi này vì các chúng Đại Bồ-tát mà tuyên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa khiến siêng năng tu học. Sự học Bát-nhã ba-la-mật-đa của chúng Bồ-tát như thế nào? Nếu có thể thông đạt được thật tánh các pháp thì đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Như vậy Bátnhã ba-la-mật-đa mầu nhiệm sâu xa không thể nói. Theo sự hiểu biết trong cảnh giới của các ông bằng văn cú của thế tục mà phương tiện diễn nói Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm cho các chúng Đại Bồ-tát nghe rồi tinh tấn siêng năng tu học.
Thiện Dũng Mãnh, chính sắc uẩn chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa; lìa sắc uẩn chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa; lìa thọ, tưởng, hành, thức uẩn chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, bờ kia của sắc uẩn không phải là sắc uẩn; bờ kia của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Như bờ kia sắc uẩn, sắc uẩn cũng vậy; bờ kia thọ, tưởng, hành, thức uẩn, thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng vậy.
Thiện Dũng Mãnh, bờ kia của sắc uẩn không phải là sắc uẩn nên nói là ly hệ của sắc uẩn; bờ kia của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức uẩn nên nói là ly hệ của thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Như bờ kia sắc uẩn, sắc uẩn cũng vậy. Nói tự tánh sắc uẩn như thế là nói sắc uẩn như tánh của nó, bản tánh chẳng thể nắm bắt được.
Như bờ kia thọ, tưởng, hành, thức uẩn; thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng vậy. Nói tự tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn như thế; tức nói thọ, tưởng, hành, thức uẩn như tánh của nó, bản tánh chẳng thể nắm bắt được.
Cũng như sắc uẩn như tánh của nó, bản tánh chẳng thể nắm bắt được. Phải biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng như vậy.
Như thọ, tưởng, hành, thức uẩn như tánh của nó, bản tánh chẳng thể nắm bắt được. Phải biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng như vậy.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ chẳng phải Bátnhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không phải Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lìa nhãn xứ chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng phải Bátnhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, bờ kia của nhãn xứ chẳng phải là nhãn xứ. Bờ kia của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Như bờ kia nhãn xứ cũng vậy, như bờ kia nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng vậy.
Thiện Dũng Mãnh, bờ kia của nhãn xứ không phải nhãn xứ. Nên nói ly hệ của nhãn xứ, bờ kia nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng phải tức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Nên nói ly hệ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, như bờ kia nhãn xứ, nhãn xứ cũng vậy. Nói tự tánh nhãn xứ như vậy, tức nói nhãn xứ như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được. Như bờ kia nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng vậy. Nói tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như vậy, tức nói nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được.
Như nhãn xứ như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được, phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng như vậy. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như tánh của nó, bản tánh chẳng thể nắm bắt được, phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng như vậy.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không phải Bát-nhã ba-la-mật-đa; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không phải Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lìa sắc xứ chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa; lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không phải Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, bờ kia của sắc xứ chẳng phải sắc xứ; bờ kia thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Như bờ kia của sắc xứ, sắc xứ cũng vậy; như bờ kia của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng vậy.
Thiện Dũng Mãnh, bờ kia sắc xứ không phải sắc xứ nên nói ly hệ của sắc xứ; bờ kia thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nên nói ly hệ của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; như bờ kia sắc xứ, sắc xứ cũng vậy.
Nói tự tánh sắc xứ như vậy, tức là nói sắc xứ như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được; như bờ kia thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng vậy.
Nói tự tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như thế tức là nói thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được.
Như sắc xứ như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được, phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng như vậy.
Như thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được, phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng như vậy.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không phải Bátnhã ba-la-mật-đa. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lìa nhãn giới không phải Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không phải Bát-nhã ba-lamật-đa.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, bờ kia của nhãn giới không phải là nhãn giới. Bờ kia của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Như bờ kia của nhãn giới, nhãn giới cũng vậy. Như bờ kia của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng vậy.
Thiện Dũng Mãnh, bờ kia của nhãn giới không phải là nhãn giới, bờ kia của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới nên nói là ly hệ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Như bờ kia nhãn giới, nhãn giới cũng vậy. Nói tự tánh nhãn giới như vậy tức là nói nhãn giới như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được.
Như bờ kia nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng vậy. Nói nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới tự tánh như vậy, là nói nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được.
Như nhãn giới như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được. Như nhãn giới như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được. Phải biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng lại như vậy.
Như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được. Phải biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng như vậy.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không phải Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không phải Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lìa sắc giới không phải Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không phải Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, bờ kia sắc giới chẳng phải là sắc giới. Bờ kia thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; cũng chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Như bờ kia sắc giới, sắc giới cũng vậy. Như bờ kia thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng vậy.
Thiện Dũng Mãnh, bờ kia sắc giới không phải là sắc giới nên nói ly hệ của sắc giới, bờ kia thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không phải tức thanh, hương, vị, xúc, pháp giới nên nói ly hệ của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Như bờ kia sắc giới, sắc giới cũng vậy.
Nói tự tánh sắc giới như vậy, là nói sắc giới như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được.
Như bờ kia thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng vậy.
Nói thanh, hương, vị, xúc, pháp giới tự tánh như vậy, tức là nói thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được, phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng như vậy.
Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được, phải biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng như vậy.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không phải Bátnhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không phải Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lìa nhãn thức giới không phải Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không phải Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, bờ kia nhãn thức giới không phải nhãn thức giới. Bờ kia nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Như bờ kia nhãn thức giới, nhãn thức giới cũng vậy. Bờ kia nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng vậy.
Thiện Dũng Mãnh, bờ kia nhãn thức giới không phải nhãn thức giới nên nói ly hệ của nhãn thức giới, bờ kia nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vậy nên nói ly hệ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Như bờ kia nhãn thức giới, nhãn thức giới cũng vậy. Nói nhãn thức giới tự tánh như vậy, tức nói nhãn thức giới như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được. Như bờ kia nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng vậy. Nói nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới tự tánh như vậy, tức là nói nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được. Như nhãn thức giới như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được, phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng như vậy.
Như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được, phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng như vậy.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không phải Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tất cả pháp cũng không phải Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, bờ kia của tất cả pháp chẳng phải tất cả pháp, như bờ kia tất cả pháp, tất cả pháp cũng vậy.
Thiện Dũng Mãnh, bờ kia tất cả pháp tức chẳng phải tất cả pháp vậy nên nói ly hệ của tất cả pháp. Như bờ kia của tất cả pháp tất cả pháp cũng vậy.
Nói tự tánh tất cả pháp như vậy tức là nói tất cả pháp như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được. Như tất cả pháp như tánh của nó bản tánh chẳng thể nắm bắt được, phải biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng như vậy.
Này Thiện Dũng Mãnh, như vậy Bát-nhã ba-lamật-đa không nương vào sắc uẩn, cũng không nương thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Bát-nhã ba-lamật-đa không nương nhãn xứ, cũng không nương nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Như vậy Bát-nhã ba-lamật-đa không nương sắc xứ cũng không nương thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Bát-nhã ba-la-mậtđa không nương nhãn giới cũng chẳng nương nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Bát-nhã ba-la-mật-đa không nương sắc giới cũng chẳng nương thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Bát-nhã ba-la-mật-đa không nương nhãn thức giới cũng không nương nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp hoàn toàn không chỗ nương.
Này Thiện Dũng Mãnh, như vậy Bát-nhã ba-lamật-đa không ở trong sắc uẩn, không ở ngoài sắc uẩn, không ở giữa hai mà xa lìa; cũng chẳng ở trong thọ, tưởng, hành, thức uẩn, chẳng ở ngoài thọ, tưởng, hành, thức uẩn, không ở giữa hai mà xa lìa.
Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không ở trong nhãn xứ, không ở ngoài nhãn xứ, không ở giữa hai mà xa lìa; cũng không ở trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, không ở ngoài nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, không giữa hai mà xa lìa.
Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không ở trong sắc xứ, không ở ngoài sắc xứ, không giữa hai bên mà xa lìa; cũng không ở trong thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, không ở ngoài thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, không giữa hai bên mà xa lìa.
Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không ở trong nhãn giới, không ở ngoài nhãn giới, không giữa hai bên mà xa lìa; cũng chẳng ở trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng ở ngoài nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng giữa hai bên mà xa lìa.
Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không ở trong sắc giới, không ở ngoài sắc giới, không giữa hai bên mà xa lìa; cũng không ở trong thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, không ở ngoài thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, không giữa hai bên mà xa lìa.
Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không ở trong nhãn thức giới, không ở ngoài nhãn thức giới, không giữa hai bên mà xa lìa; cũng không ở trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, không ở ngoài nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, không giữa hai bên mà xa lìa.
Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không ở trong tất cả pháp, không ở ngoài tất cả pháp, không giữa hai bên mà xa lìa.
Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không ở trong tất cả pháp, không ở ngoài tất cả pháp, không giữa hai bên mà xa lìa.
Này Thiện Dũng Mãnh, như vậy Bát-nhã ba-lamật-đa và sắc uẩn không tương ưng, chẳng không tương ưng; cùng thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không tương ưng, chẳng không tương ưng.
Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa cùng nhãn xứ không tương ưng, chẳng không tương ưng; cùng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không tương ưng, chẳng không tương ưng.
Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa cùng sắc xứ không tương ưng, chẳng không tương ưng; cùng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không tương ưng, chẳng không tương ưng; cùng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không tương ưng, chẳng không tương ưng.
Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa cùng nhãn giới không tương ưng, chẳng không tương ưng; cùng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không tương ưng, chẳng không tương ưng.
Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa cùng sắc giới không tương ưng, chẳng không tương ưng; cùng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không tương ưng, chẳng không tương ưng. Bát-nhã ba-la-mậtđa cùng nhãn thức giới không tương ưng, chẳng không tương ưng; cùng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không tương ưng, chẳng không tương ưng. Bát-nhã ba-la-mật-đa cùng tất cả pháp không tương ưng, chẳng không tương ưng.
Này Thiện Dũng Mãnh, chân như của sắc uẩn tánh chẳng hư dối, tánh chẳng đổi khác, như tánh của nó, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa; chân như của thọ, tưởng, hành, thức uẩn tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, như tánh của nó, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Chân như của nhãn xứ tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như của nó, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa; chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như của nó, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Chân như của sắc xứ tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như của nó, gọi là Bát-nhã bala-mật-đa; chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như của nó, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Chân như của nhãn giới tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như của nó, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa; chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như của nó, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Chân như của sắc giới tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như của nó, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa; chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như của nó, gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Chân như của nhãn thức giới tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như của nó, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa; chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như của nó, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Chân như của tất cả pháp tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như của nó, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, tánh sắc uẩn ấy lìa sắc uẩn. Vì sao? Chẳng phải trong sắc uẩn có tánh sắc uẩn, không sở hữu này gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa. Tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn ấy lìa thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Vì sao? Không phải trong thọ, tưởng, hành, thức uẩn có tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn, không sở hữu này gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Tánh nhãn xứ ấy tánh lìa nhãn xứ. Vì sao? Chẳng phải trong nhãn xứ có tánh nhãn xứ, không sở hữu này gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Không phải trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, không sở hữu này gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Tánh sắc xứ ấy lìa sắc xứ. Vì sao? Không phải trong sắc xứ có tánh sắc xứ, không sở hữu này gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ấy lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Không phải trong thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, không sở hữu này gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Tánh nhãn giới ấy lìa nhãn giới. Vì sao? Không phải trong nhãn giới có tánh nhãn giới, không sở hữu này gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới ấy lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Vì sao? Không phải trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, không sở hữu này gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Tánh sắc giới ấy lìa sắc giới. Không phải trong sắc giới có tánh sắc giới, không sở hữu này gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới ấy lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Vì sao? Không phải trong thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, không sở hữu này gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Tánh nhãn thức giới ấy lìa nhãn thức giới. Vì sao? Không phải trong nhãn thức giới có tánh nhãn thức giới, không sở hữu này gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa. Tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Vì sao? Không phải trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, không sở hữu này gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Tánh tất cả pháp ấy lìa tất cả pháp. Vì sao? Không phải trong tất cả pháp có tánh tất cả pháp, không sở hữu này gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, tự tánh sắc uẩn lìa sắc uẩn. Tự tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn lìa thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Tự tánh lìa này gọi Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Tự tánh nhãn xứ lìa nhãn xứ, tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Tự tánh lìa này gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Tự tánh sắc xứ lìa sắc xứ, tự tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Tự tánh lìa này gọi Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Tự tánh nhãn giới lìa nhãn giới. Tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Tự tánh lìa này là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Tự tánh sắc giới lìa sắc giới. Tự tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Tự tánh lìa này gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Tự tánh nhãn thức giới lìa nhãn thức giới. Tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Tự tánh lìa này gọi là Bát-nhã bala-mật-đa.
Tự tánh tất cả pháp lìa tất cả pháp. Tự tánh lìa này gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không có tự tánh sắc uẩn. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn không có tự tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Không tự tánh này gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Nhãn xứ không có tự tánh nhãn xứ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không có tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Không tự tánh này gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Sắc xứ không có tự tánh sắc xứ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không có tự tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Không tự tánh này là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Nhãn giới không có tự tánh nhãn giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không có tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Không tự tánh này là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Sắc giới không có tự tánh sắc giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không có tự tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Không tự tánh này là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Nhãn thức giới không có tự tánh nhãn thức giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không có tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Tự tánh không này là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tất cả pháp không có tự tánh tất cả pháp. Tự tánh không này là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không phải sự hành sắc uẩn. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không phải sự hành của thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không phải sự hành sắc uẩn nên không biết không thấy. Nếu đối với sắc uẩn không biết không thấy, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không phải sự hành thọ, tưởng, hành, thức uẩn nên không biết không thấy. Nếu đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn không biết không thấy, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không phải sự hành nhãn xứ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không phải sự hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không phải sự hành nhãn xứ, nên không biết không thấy. Nếu đối với nhãn xứ không biết không thấy, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không phải sự hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Nếu đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không biết không thấy., gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không phải sự hành sắc xứ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không phải sự hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không phải sự hành sắc xứ nên không biết không thấy. Nếu đối với sắc xứ không biết không thấy, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng phải sự hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nên không biết không thấy. Nếu đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không biết không thấy, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không phải sự hành nhãn giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không phải sự hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không phải sự hành nhãn giới nên không biết không thấy. Nếu đối với nhãn giới không biết không thấy, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không phải sự hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới nên không biết không thấy. Nếu đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không biết không thấy, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không phải sự hành sắc giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng chẳng phải sự hành thanh, hương, vị, xúc, pháp pháp giới.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không phải sự hành sắc giới nên không biết không thấy. Nếu đối với sắc giới không biết không thấy, gọi là Bát-nhã bala-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không phải sự hành của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Nếu đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không biết không thấy, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không phải sự hành nhãn thức giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng chẳng phải sự hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không phải sự hành nhãn thức giới nên không biết không thấy. Nếu đối với nhãn thức giới không biết không thấy, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không phải sự hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới nên không biết không thấy. Nếu đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không biết không thấy, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không phải sự hành tất cả pháp, nên không biết không thấy. Nếu đối với tất cả pháp không biết không thấy, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không bỏ tự tánh sắc uẩn. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không bỏ tự tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Nếu đối với tự tánh biết trọn vẹn như vậy, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ chẳng bỏ tự tánh nhãn xứ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không bỏ tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Nếu đối với tự tánh biết trọn vẹn như vậy, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không bỏ tự tánh sắc xứ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không bỏ tự tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Nếu đối với tự tánh biết trọn vẹn như vậy, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không bỏ tự tánh nhãn giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không bỏ tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Nếu đối với tự tánh biết trọn vẹn như vậy, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không bỏ tự tánh sắc giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không bỏ tự tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Nếu đối với tự tánh biết trọn vẹn như vậy, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không bỏ tự tánh nhãn thức giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không bỏ tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Nếu đối với tự tánh biết trọn vẹn như vậy, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không bỏ tự tánh tất cả pháp. Nếu đối với tự tánh biết trọn vẹn như vậy, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn cùng với sắc uẩn không hợp không lìa. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cùng thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không hợp không lìa. Sắc uẩn không hợp không lìa, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không hợp không lìa, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ và nhãn xứ không hợp chẳng lìa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cùng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không hợp không lìa. Nhãn xứ không hợp không lìa, gọi là Bát-nhã bala-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng hợp chẳng lìa, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ cùng với sắc xứ không hợp không lìa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cùng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không hợp không lìa. Như vậy sắc xứ không hợp không lìa, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không hợp không lìa, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới cùng nhãn giới không hợp không lìa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cùng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không hợp không lìa. Như vậy nhãn giới không hợp không lìa, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không hợp không lìa, gọi là Bát-nhã bala-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới cùng sắc giới không hợp không lìa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cùng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không hợp không lìa. Như vậy sắc giới không hợp không lìa, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới cùng nhãn thức giới không hợp không lìa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cùng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không hợp không lìa. Như vậy nhãn thức giới không hợp không lìa, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không hợp không lìa, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp cùng tất cả pháp không hợp không lìa. Như vậy tất cả pháp không hợp không lìa, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không bớt không thêm. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không bớt không thêm. Như vậy sắc uẩn không bớt không thêm, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không bớt không thêm, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không bớt không thêm. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không bớt không thêm. Như vậy nhãn xứ không bớt không thêm, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không bớt không thêm, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không bớt không thêm. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không bớt không thêm, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không bớt không thêm. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không bớt không thêm. Như vậy, nhãn giới không bớt không thêm, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không bớt không thêm, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không bớt không thêm. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không bớt không thêm. Như vậy sắc giới không bớt không thêm, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không bớt không thêm, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không bớt không thêm. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không bớt không thêm. Như vậy nhãn thức giới không bớt không thêm, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không bớt không thêm, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không bớt không thêm, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không dơ không sạch. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không dơ không sạch. Như vậy sắc uẩn không dơ không sạch, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không dơ không sạch, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không dơ không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không dơ không sạch. Như vậy nhãn xứ không dơ không sạch, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không dơ không sạch, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không dơ không sạch. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không dơ không sạch. Như vậy sắc xứ không dơ không sạch, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không dơ không sạch, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không dơ không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không dơ không sạch. Như vậy nhãn giới không dơ không sạch, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không dơ không sạch, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không dơ không sạch. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không dơ không sạch. Như vậy sắc giới không dơ không sạch, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không dơ không sạch, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không dơ không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không dơ không sạch. Như vậy nhãn thức giới không dơ không sạch, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không dơ không sạch, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không dơ không sạch. Như vậy tất cả pháp cũng không dơ không sạch, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không có pháp sạch không có pháp không sạch. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không có pháp sạch không có pháp không sạch. Như vậy năm uẩn không có pháp sạch không có pháp không sạch, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không có pháp sạch không có pháp không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không có pháp sạch không có pháp không sạch. Như vậy trong sáu xứ không có pháp sạch không có pháp không sạch, gọi là Bát-nhã bala-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không có pháp sạch không có pháp không sạch. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không có pháp sạch không có pháp không sạch. Như vậy ngoài sáu xứ không có pháp sạch không có pháp không sạch, gọi là Bát-nhã bala-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không có pháp sạch không có pháp không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không có pháp sạch không có pháp không sạch. Như vậy trong sáu giới không có pháp sạch không có pháp không sạch, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không có pháp sạch không có pháp không sạch. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không có pháp sạch không có pháp không sạch. Như vậy, ngoài sáu giới không có pháp sạch không có pháp không sạch, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không có pháp sạch không có pháp không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không có pháp sạch không có pháp không sạch, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không có pháp sạch không có pháp không sạch. Như vậy tất cả pháp không có pháp sạch không có pháp không sạch, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không dời chuyển không hướng vào. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không dời chuyển không hướng vào. Như vậy năm uẩn không dời chuyển không hướng vào, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không dời chuyển không hướng vào. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không dời chuyển không hướng vào. Như vậy sáu xứ bên trong không dời chuyển không hướng vào, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không dời chuyển không hướng vào. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không dời chuyển không hướng vào. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không dời chuyển không hướng vào, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không dời chuyển không hướng vào. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không dời chuyển không hướng vào. Như vậy sáu giới bên trong không dời chuyển không hướng vào, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không dời chuyển không hướng vào. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không dời chuyển không hướng vào. Như vậy, sáu giới bên ngoài không dời chuyển không hướng vào, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không dời chuyển không hướng vào. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không dời chuyển không hướng vào. Như vậy sáu thức giới không dời chuyển không hướng vào, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không dời chuyển không hướng vào. Như vậy tất cả pháp không dời chuyển không hướng vào, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không hệ không ly hệ. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không hệ không ly hệ. Như vậy năm uẩn không hệ không ly hệ, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không hệ không ly hệ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không hệ không ly hệ. Như vậy, sáu xứ bên trong không hệ không ly hệ, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không hệ không ly hệ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không hệ không ly hệ. Như vậy sáu xứ bên ngoài không hệ không ly hệ, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không hệ không ly hệ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không hệ không ly hệ. Như vậy sáu giới bên trong không hệ không ly hệ, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không hệ không ly hệ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không hệ không ly hệ. Như vậy sáu giới bên ngoài không hệ không ly hệ, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không hệ không ly hệ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không hệ không ly hệ. Như vậy sáu thức giới không hệ không ly hệ, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không hệ không ly hệ. Như vậy tất cả pháp không hệ không ly hệ, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không chết không sinh. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chết không sinh. Như vậy năm uẩn không chết không sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không chết không sinh. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không chết không sinh. Như vậy sáu xứ bên trong không chết không sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không chết không sinh. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không chết không sinh. Như vậy sáu xứ bên ngoài không chết không sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không chết không sinh. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không chết không sinh. Như vậy sáu giới bên trong không chết không sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không chết không sinh. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không chết không sinh. Như vậy sáu giới bên ngoài không chết không sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không chết không sinh. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không chết không sinh. Như vậy sáu thức giới không chết không sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không chết không sinh. Như vậy tất cả pháp không chết không sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không chết không sinh. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chết không sinh. Như vậy năm uẩn không chết không sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không chết không sinh. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không chết không sinh. Như vậy sáu xứ bên trong không chết không sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không chết không sinh. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không chết không sinh. Như vậy sáu xứ bên ngoài không chết không sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không chết không sinh. Như vậy sáu giới bên ngoài không chết không sinh, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không chết không sinh. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không chết không sinh. Như vậy sáu giới bên ngoài không chết không sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không chết không sinh. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không chết không sinh. Như vậy sáu thức giới không chết không sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không chết không sinh. Như vậy tất cả pháp không chết không sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển. Như vậy năm uẩn không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển. Như vậy sáu xứ bên trong không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển. Như vậy sáu xứ bên ngoài không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển. Như vậy sáu giới bên trong không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển. Như vậy sáu giới bên ngoài không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển. Như vậy sáu thức giới không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển. Như vậy tất cả pháp không lưu chuyển không có pháp lưu chuyển, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không tận, không có pháp tận. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không tận không có pháp tận. Như vậy, năm uẩn không tận, không có pháp tận, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không tận không có pháp tận. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không tận không có pháp tận. Như vậy sáu xứ bên trong không tận không có pháp tận, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không tận không có pháp tận. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không tận không có pháp tận. Như vậy sáu xứ bên ngoài không tận không có pháp tận, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không tận không có pháp tận. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không tận không có pháp tận. Như vậy sáu giới bên ngoài không tận không có pháp tận, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không tận không có pháp tận. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không tận không có pháp tận. Như vậy sáu giới bên ngoài không tận không có pháp tận, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không tận không có pháp tận. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không tận không có pháp tận. Như vậy sáu thức giới không tận không có pháp tận, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không tận không có pháp tận. Như vậy tất cả pháp không tận không có pháp tận, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không có pháp tập khởi không có pháp diệt. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không có pháp tập khởi không có pháp diệt. Như vậy năm uẩn không có pháp tập khởi không có pháp diệt, gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không có pháp tập khởi không có pháp diệt. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không có pháp tập khởi không có pháp diệt. Như vậy sáu xứ bên trong không có pháp tập khởi không có pháp diệt, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không có pháp tập khởi không có pháp diệt. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không có pháp tập khởi không có pháp diệt. Như vậy sáu xứ bên ngoài không có pháp tập khởi, không có pháp diệt, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không có pháp tập khởi không có pháp diệt. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không có pháp tập khởi không có pháp diệt. Như vậy sáu giới bên trong không có pháp tập khởi không có pháp diệt, gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không có pháp tập khởi không có pháp diệt. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không có pháp tập khởi không có pháp diệt. Như vậy sáu giới bên ngoài không có pháp tập khởi không có pháp diệt, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không có pháp tập khởi không có pháp diệt. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không có pháp tập khởi không có pháp diệt. Như vậy sáu thức giới không có pháp tập khởi không có pháp diệt, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không có pháp tập khởi không có pháp diệt. Như vậy tất cả pháp không có pháp tập khởi không có pháp diệt, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không có pháp sinh khởi không có pháp tận. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không có pháp sinh khởi không có pháp tận. Như vậy năm uẩn không có pháp sinh khởi không có pháp tận, gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không có pháp sinh khởi không có pháp tận. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không có pháp sinh khởi không có pháp tận. Như vậy sáu xứ bên trong không có pháp sinh khởi không có pháp tận, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không có pháp sinh khởi không có pháp tận. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không có pháp sinh khởi không có pháp tận. Như vậy sáu xứ bên ngoài không có pháp sinh khởi không có pháp tận, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không có pháp sinh khởi không có pháp tận. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không có pháp sinh khởi không có pháp tận. Như vậy sáu giới bên trong không có pháp sinh khởi không có pháp tận, gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không có pháp sinh khởi không có pháp tận. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không có pháp sinh khởi không có pháp tận. Như vậy sáu giới bên ngoài không có pháp sinh khởi không có pháp tận, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không có pháp sinh khởi không có pháp tận. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không có pháp sinh khởi không có pháp tận. Như vậy sáu thức giới không có pháp sinh khởi không có pháp tận, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không có pháp sinh khởi không có pháp tận. Như vậy tất cả pháp không có pháp sinh khởi không có pháp tận, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vậy năm uẩn không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vậy sáu xứ bên trong không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vậy sáu xứ bên ngoài không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vậy sáu giới bên trong không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vậy sáu giới bên ngoài không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vậy sáu thức giới không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vậy tất cả pháp không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không thường, không vô thường, không vui không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không không sạch. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không không sạch. Như vậy năm uẩn không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không không sạch, gọi là Bát-nhã bala-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không thường, không vô thường, không vui không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không không sạch. Như vậy, sáu xứ bên trong không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã không vô ngã, không sạch, không không sạch, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không thường, không vô thường, không vui không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không không sạch. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không không sạch. Như vậy sáu xứ bên trong không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không không sạch, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không thường, không vô thường, không vui không khổ, không ngã không vô ngã, không sạch không không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không thường, không vô thường, không vui không khổ, không ngã không vô ngã, không sạch không không sạch. Như vậy sáu giới bên trong không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không không sạch, gọi là Bát-nhã bala-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không thường, không vô thường, không vui không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không không sạch. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không không sạch. Như vậy sáu giới bên ngoài không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không không sạch, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không thường, không vô thường, không vui không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch không không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không thường, không vô thường, không vui không khổ, không ngã không vô ngã, không sạch không không sạch. Như vậy sáu thức giới không thường, không vô thường, không vui không khổ, không ngã không vô ngã, không sạch không không sạch, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không thường, không vô thường, không vui không khổ, không ngã không vô ngã, không sạch không không sạch. Như vậy tất cả pháp không thường, không vô thường, không vui không khổ, không ngã không vô ngã, không sạch không không sạch, gọi là Bát-nhã bala-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Như vậy năm uẩn không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Như vậy sáu xứ bên trong không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Như vậy sáu xứ bên ngoài không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si, gọi là Bát-nhã bala-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Như vậy sáu giới bên trong không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si, gọi là Bát-nhã bala-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Như vậy sáu giới bên ngoài không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Như vậy sáu thức giới không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si, gọi là Bát-nhã bala-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Như vậy tất cả pháp không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si, gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Như vậy năm uẩn không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Như vậy sáu xứ bên trong không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Như vậy sáu xứ bên ngoài không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Như vậy sáu giới bên trong không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Như vậy sáu giới bên ngoài không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Như vậy sáu thức giới không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Như vậy tất cả pháp không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người cùng phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới. Như vậy năm uẩn cũng không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới. Như vậy sáu xứ bên trong cũng không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới. Như vậy sáu giới bên trong không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không có biên giới không không biên giới. Như vậy sáu giới bên ngoài không thường, không đoạn không có biên giới không không biên giới, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới. Như vậy sáu thức giới không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới, gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới. Như vậy tất cả pháp không đoạn không thường, không có biên giới không không biên giới, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái. Như vậy năm uẩn không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái. Như vậy sáu xứ bên trong không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái. Như vậy sáu xứ bên ngoài không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái. Như vậy sáu giới bên trong không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái. Như vậy sáu giới bên ngoài không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không kiến chấp, không đoạn kiến chấp. Như vậy sáu thức giới không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái. Như vậy sáu thức giới không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái. Như vậy tất cả pháp không kiến chấp, không đoạn kiến chấp, không ái, không đoạn ái, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc uẩn không thiện, không không thiện. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không thiện, không không thiện. Như vậy năm uẩn không thiện, không không thiện, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn xứ không thiện, không không thiện. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không thiện, không không thiện. Như vậy sáu xứ bên trong không thiện, không không thiện, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc xứ không thiện, không không thiện. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không thiện, không không thiện. Như vậy sáu xứ bên ngoài không thiện, không không thiện, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn giới không thiện, không không thiện. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không thiện, không không thiện. Như vậy sáu giới bên trong không thiện, không không thiện, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, sắc giới không thiện, không không thiện. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không thiện, không không thiện. Như vậy sáu giới bên ngoài không thiện, không không thiện, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, nhãn thức giới không thiện, không không thiện. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không thiện, không không thiện. Như vậy sáu thức giới không thiện, không không thiện, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp không thiện, không không thiện. Như vậy tất cả pháp không thiện, không không thiện, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, năm uẩn không thể thiết lập, có đến có đi, có ở có không ở. Mười hai xứ, mười tám giới... cũng không thể thiết lập, có đến có đi, có ở có không ở. Uẩn, xứ, giới... không đi, không đến, không ở, không không ở. Như vậy gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, năm uẩn không thể thiết lập, có xa, có biên giới kia. Mười hai xứ, mười tám giới cũng không thể thiết lập, có xa, có biên giới kia. Uẩn, xứ, giới không xa, không biên giới kia, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, năm uẩn không thể thiết lập, có yêu thích có giận, có sợ có si. Mười hai xứ, mười tám giới cũng không thể thiết lập, có yêu thích có giận, có sợ có si. Uẩn, xứ, giới... không yêu thích, không giận, không sợ, không si, đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, năm uẩn không cho, không lấy, không giữ giới, không phạm giới, không nhẫn, không không nhẫn, không tinh tấn, không giải đãi, không đẳng trì, không loạn tâm, không diệu tuệ, không ác tuệ... Mười hai xứ, mười tám giới... cũng không cho, không lấy, không giữ giới, không phạm giới, không nhẫn, không không nhẫn, không tinh tấn, không giải đãi, không đẳng trì, không loạn tâm, không diệu tuệ, không ác tuệ. Uẩn, xứ, giới đều không cho, không lấy, không giữ giới, không phạm giới, không nhẫn, không không nhẫn, không tinh tấn, không giải đãi, không đẳng trì, không loạn tâm, không diệu tuệ, không ác tuệ. Như vậy gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, năm uẩn không điên đảo, không không điên đảo. Mười hai xứ, mười tám giới... cũng không điên đảo, không không điên đảo. Uẩn, xứ, giới đều không điên đảo, không không điên đảo. Như vậy gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Này Thiện Dũng Mãnh, năm uẩn không Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Đạo chi. Mười hai xứ, mười tám giới... cũng không Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Đạo chi. Uẩn, xứ, giới đều không Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Đạo chi. Như vậy gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, năm uẩn vô minh, không giải thoát. Mười hai xứ, mười tám giới... cũng vô minh, không giải thoát. Uẩn, xứ, giới đều vô minh, không giải thoát. Như vậy gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, năm uẩn không Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí. Uẩn, xứ, giới đều không Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí. Như vậy gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, năm uẩn không hữu lượng, không vô lượng, không thần thông, không không thần thông. Mười hai xứ, mười tám giới... cũng không hữu lượng, không vô lượng, không thần thông, không không thần thông. Uẩn, xứ, giới đều không hữu lượng, không vô lượng, không thần thông, không không thần thông. Như vậy gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, năm uẩn không không, không bất không, không hữu tướng không vô tướng, không hữu nguyện, không vô nguyện. Mười hai xứ, mười tám giới... cũng không không, không bất không, không hữu tướng không vô tướng, không hữu nguyện, không vô nguyện. Uẩn, xứ, giới cũng không không, không bất không, không hữu tướng không vô tướng, không hữu nguyện, không vô nguyện. Gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, năm uẩn không hữu vi, không vô vi, không hữu lậu, không vô lậu, không thế gian, không xuất thế gian, không có buộc, không lìa buộc. Mười hai xứ, mười tám giới... cũng không hữu vi, không vô vi, không hữu lậu, không vô lậu, không thế gian, không xuất thế gian, không có buộc, không lìa buộc. Uẩn, xứ, giới đều không hữu vi, không vô vi, không hữu lậu, không vô lậu, không thế gian, không xuất thế gian, không có buộc, không lìa buộc, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Này Thiện Dũng Mãnh, năm uẩn không có chấp trước, không không chấp trước, không hữu trí, không vô trí. Mười hai xứ, mười tám giới... cũng không có chấp trước, không không chấp trước, không hữu trí, không vô trí. Uẩn, xứ, giới đều không có chấp trước, không không chấp trước, không hữu trí, không vô trí, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, năm uẩn không nắm giữ, không lay động, không hý luận. Mười hai xứ, mười tám giới... cũng không nắm giữ, không lay động, không hý luận. Uẩn, xứ, giới đều không nắm giữ, không lay động, không hý luận. Gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, năm uẩn không có tưởng, không không tưởng. Mười hai xứ, mười tám giới... cũng không có tưởng, không không tưởng. Uẩn, xứ, giới đều không có tưởng, không không tưởng. Gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, năm uẩn không vắng lặng, không phải không vắng lặng. Mười hai xứ, mười tám giới... cũng không vắng lặng, không phải không vắng lặng. Uẩn, xứ, giới... không vắng lặng, không phải không vắng lặng, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, năm uẩn không Niếtbàn, không không Niết-bàn. Mười hai xứ, mười tám giới... cũng không Niết-bàn, không phải không Niết-bàn. Uẩn, xứ, giới đều không Niết-bàn, không phải không Niết-bàn. Gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Này Thiện Dũng Mãnh, những gì do năm uẩn phát sinh thì không phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh thật có của những gì do năm uẩn phát sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Những gì do mười hai xứ, mười tám giới… phát sinh thì không phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh thật có của những gì do mười hai xứ, mười tám giới... phát sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, những gì do duyên khởi phát sinh thì không phải là Bát-nhã ba-la-mậtđa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh thật có của những gì do duyên khởi phát sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, những gì do điên đảo phát sinh thì không phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh thật có của những gì do điên đảo phát sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, những gì do triền cái phát sinh thì không phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh thật có của những gì do triền cái phát sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, những gì do ba mươi sáu ái hành phát sinh thì không phải là Bát-nhã bala-mật-đa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh thật có của những gì do ba mươi sáu ái hành phát sinh, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, những gì do sáu mươi hai kiến chấp phát sinh thì không phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh thật có của những gì do sáu mươi hai kiến chấp phát sinh, gọi là Bát-nhã ba-lamật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, những gì do Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí phát sinh thì không phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh thật có của những gì do tĩnh lự giải thoát, đẳng trì, đẳng chí phát sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, những gì do bốn Vô lượng, năm Thần thông phát sinh thì không phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh thật có của những gì do bốn Vô lượng, năm Thần thông phát sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, những gì thuộc về các pháp căn lành, thế gian phát sinh thì không phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh thật có của những gì thuộc về các pháp căn lành, thế gian phát sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, những gì do Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Đạo chi phát sinh thì không phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh thật có của những gì do Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Đạo chi phát sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, những gì do Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo phát sinh thì không phải là Bátnhã ba-la-mật-đa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh thật có của những gì do Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo phát sinh, gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, những gì do giới, định, tuệ, giải thoát giải thoát tri kiến thanh tịnh phát sinh thì không phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh thật có của những gì do giới, định, tuệ, giải thoát giải thoát tri kiến thanh tịnh phát sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, những gì do pháp xuất thế gian vô y vô lậu thuộc vô vi phát sinh thì không phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh thật có của những gì do pháp xuất thế gian vô y vô lậu thuộc vô vi phát sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, những gì do pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, không sinh khởi, không tạo tác phát sinh thì không phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh thật có của những gì do pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, không sinh khởi, không tạo tác phát sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Này Thiện Dũng Mãnh, những gì do sáng suốt giải thoát xa lìa diệt tận Niết-bàn phát sinh thì không phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh thật có của những gì do sáng suốt giải thoát xa lìa diệt tận Niết-bàn phát sinh, gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, Bát-nhã ba-la-mật- đa như vậy không thuộc sắc uẩn cũng không thuộc thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Không thuộc nhãn xứ, cũng không thuộc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, không thuộc sắc xứ cũng không thuộc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, không thuộc nhãn giới cũng không thuộc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, không thuộc sắc giới cũng không thuộc thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Không thuộc nhãn thức giới cũng không thuộc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Không thuộc địa giới cũng không thuộc thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Không thuộc Dục giới cũng không thuộc Sắc, Vô sắc giới. Không thuộc hữu vi cũng không thuộc vô vi. Không thuộc thế gian cũng không thuộc xuất thế gian. Không thuộc hữu lậu cũng không thuộc vô lậu. Không thuộc pháp thiện cũng không thuộc pháp không thiện. Không thuộc hữu tình giới cũng không thuộc phi hữu tình giới. Cũng không xa lìa các pháp như vậy mà riêng có Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thuộc các pháp như vậy cũng không phải không thuộc. Như vậy, tánh chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như thật có của các pháp thuộc ở trên hay không thuộc ở trên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Dũng Mãnh, chân như ấy là khái niệm gì? Thiện Dũng Mãnh, chân như ấy nghĩa là tánh các pháp, không phải như chỗ phàm phu ngu si có thể nắm bắt được không phải khác cái ấy. Nhưng tánh các pháp như các Như Lai, Bồ-tát đệ tử Phật đã thấy. Pháp tánh lý thú chân thật như vậy thường không đổi khác nên gọi là chân như. Chân như đây chính là nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của Bồtát.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp như vậy không thêm, không bớt, không họp không lìa, không thiếu không đủ, không lợi không hại, không di chuyển, không hướng đến; không sinh, không diệt, không dơ không sạch, không lưu chuyển không hoàn diệt; không tập khởi, không ẩn mất; không có tướng, không không tướng, không bình đẳng, không không bình đẳng; không thế tục, không thắng nghĩa, không vui, không khổ, không thường, không vô thường, không sạch, không không sạch, không ngã không vô ngã, không chắc thật không hư dối, không người làm, không vật được làm; không dung nạp, không không dung nạp; không tin hiểu không không tin hiểu, không tự tánh không không tự tánh; không chết không sống, không sống không chết; không nổi không chìm, không nối không đứt; không hòa hợp, không không hòa hợp; không có tham, không lìa tham, không có sân không lìa sân, không có si không lìa si; không điên đảo không không điên đảo; không có chỗ duyên, không không chỗ duyên, không có hết, không không hết, không có trí không không trí; không tánh thấp không tánh cao; không có ân không không ân, không đi qua không trở lại, không có tánh không không tánh; không thương không ghét, không sáng không tối; không tinh tấn, không giải đãi, không không không bất không, không có tướng không không tướng; không có nguyện không vô nguyện, không tạo tác không không tạo tác; không ẩn mất không không ẩn mất; không vô minh không giải thoát, không vắng lặng không không vắng lặng; không Niết-bàn không không Niết-bàn; không như lý, không không như lý, không biết khắp không không biết khắp; không ra khỏi không không ra khỏi, không điều phục không không điều phục; không giữ giới, không không phạm giới, không tán loạn không không tán loạn; không diệu tuệ không ác tuệ, không thức, không không thức, không trụ, không không trụ, không có, không không có, không được không không được, không hiện quán, không không hiện quán; không tác chứng, không không tác chứng, không thông đạt, không không thông đạt. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp, không vì các sự việc này mà có mặt.
Này Thiện Dũng Mãnh, như người trong mộng nói đã mộng thấy các loại tự tánh. Nói tự tánh cảnh mộng như thế đều không thật có.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, mộng còn không có huống chi có thể nói có tự tánh cảnh mộng. Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa dù giả nói có các thứ tự tánh, nhưng Bát-nhã ba-la-mật-đa này thật không tự tánh có thể trình bày.
Này Thiện Dũng Mãnh, như mộng không vì trình bày các pháp mà xuất hiện như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lại không vì trình bày các pháp mà xuất hiện.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như người ảo thuật nói đã thấy các thứ tự tánh của huyễn. Nói tự tánh cảnh huyễn như vậy đều không thật có.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, huyễn còn không có huống chi có thể nói có tự tánh cảnh huyễn. Bátnhã ba-la-mật-đa dù giả nói có các thứ tự tánh nhưng Bát-nhã ba-la-mật-đa này thật không có tự tánh để có thể nói được.
Này Thiện Dũng Mãnh, như huyễn không vì sinh khởi các pháp mà xuất hiện. Bát-nhã ba-lamật-đa cũng lại không vì phát khởi các pháp mà xuất hiện.
Này Thiện Dũng Mãnh, như người bằng bóng sáng nói về các tự tánh của bóng sáng. Nói tự tánh của bóng sáng như thế hoàn toàn không thật có.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, bóng còn không có huống chi nói có tự tánh của bóng sáng. Bát-nhã ba-la-mật-đa tuy giả nói các thứ tự tánh như vậy. Nhưng Bát-nhã ba-la-mật-đa này thật không tự tánh để có thể nói.
Này Thiện Dũng Mãnh, như bóng không vì trình bày các pháp mà xuất hiện. Bát-nhã ba-lamật-đa này cũng không vì trình bày các pháp mà xuất hiện.
Này Thiện Dũng Mãnh, như người bằng sóng nắng trình bày các tự tánh của sóng nắng. Nói tự tánh sóng nắng như thế đều không thật có.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, nắng còn không có huống chi có thể nói tự tánh của sóng nắng. Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa tuy giả nói có các tự tánh nhưng Bát-nhã ba-la-mật-đa này thật không có tự tánh có thể nói.
Này Thiện Dũng Mãnh, như sóng nắng không vì trình bày các pháp mà xuất hiện. Như vậy Bátnhã ba-la-mật-đa cũng lại không vì trình bày các pháp mà xuất hiện.
Này Thiện Dũng Mãnh, như người đứng trong hang núi, nghe tiếng vang trong hang mà hoàn toàn không thấy, hoặc khi tự nói lại nghe tiếng của mình. Bát-nhã ba-la-mật-đa này tuy có nghe các thứ văn tự, nhưng pháp được nghe hoàn toàn không có tự tánh. Chỉ trừ khi nói thì có thể nghe hiểu.
Này Thiện Dũng Mãnh, như tiếng vang không vì trình bày các pháp mà xuất hiện. Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không vì trình bày các pháp mà xuất hiện.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như có người thấy các bọt nước liền nói các thứ tánh chất nhóm bọt. Nói tánh chất tập hợp bọt nước như thế hoặc trong hoặc ngoài hoàn toàn không thể có được.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, nói tập hợp bọt nước còn không thật có, huống gì có tự tánh mà có thể nói. Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa tuy giả nói có các thứ tự tánh nhưng Bát-nhã ba-la-mật-đa này không có tự tánh để có thể nói.
Này Thiện Dũng Mãnh, như bọt nước không vì các pháp phát khởi mà xuất hiện. Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lại không vì các pháp sinh khởi mà xuất hiện.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như có người thấy bong bóng nước nổi liền nói các thứ tự tánh bong bóng nước nổi. Nói tự tánh bong bóng nước nổi đều không thật có.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, bong bóng nổi còn chẳng thật có, huống chi tự tánh có thể nói. Bátnhã ba-la-mật-đa tuy giả nói có các thứ tự tánh nhưng Bát-nhã ba-la-mật-đa này thật không tự tánh để có thể nói.
Này Thiện Dũng Mãnh, như bong bóng nước không vì các pháp sinh khởi mà xuất hiện. Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lại không vì các pháp sinh khởi mà xuất hiện.
Này Thiện Dũng Mãnh, như người lột cây chuối để tìm lõi, tuy thật không được lõi cây mà có bẹ chuối để dùng. Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa tuy không chân thật mà có thể nói.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như có người vì muốn chỉ bày hư không rộng lớn, dù có nói ra mà không thể chỉ rõ được. Như vậy vì muốn trình bày Bát-nhã ba-la-mật-đa, tuy có nói ra mà Bát-nhã bala-mật-đa này không thể trình bày.
Này Thiện Dũng Mãnh, như hư không rộng lớn dù đem các thứ lời nói trình bày, nhưng hư không rộng lớn pháp không chân thật khó thể trình bày được. Như vậy tuy đem mọi thứ ngôn từ trình bày Bát-nhã ba-la-mật-đa mà pháp Bát-nhã ba-la-mậtđa này không có pháp chân thật nào có thể trình bày.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như bóng sáng dù có trình bày rõ mà không thật có pháp nào làm cho nắm lấy được. Tuy không thể nắm lấy mà có sự hiểu rõ. Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa tuy mượn văn tự và mọi lời lẽ để nói mà không có pháp nào thật có thể nắm lấy. Tuy không thể nắm lấy mà soi chiếu các pháp.
Này Thiện Dũng Mãnh, như ngọc ma-ni có ánh sáng lớn nhưng trong ngoài của ánh sáng này không thể nào nắm bắt được. Như vậy Bát-nhã bala-mật-đa tuy chiếu sáng tất cả pháp tánh như phần trong ngoài đều không có thể nắm bắt được.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như ánh sáng đèn tuy không dừng lại mà có thể soi rõ, làm cho người có mắt đều xem thấy các màu sắc. Như vậy Bátnhã ba-la-mật-đa tuy đối với các pháp đều không có chỗ dừng mà có thể soi rõ, khiến các Thánh giả thấy thật tánh các pháp.
Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:
–Kỳ diệu thay! Bạch Thế Tôn, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuy nói Bát-nhã ba-la-mật-đa mà Bát-nhã ba-la-mật-đa không thật trọn vẹn.
Khi ấy, Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:
–Đúng vậy, đúng vậy, như ông vừa nói! Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không thật trọn vẹn.
Vì sao? Xá-lợi Tử, năm uẩn không thật trọn vẹn, nên Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không thật trọn vẹn. Mười hai xứ, mười tám giới cũng không thật trọn vẹn, nên Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không thật trọn vẹn.
Xá-lợi Tử, vô minh không thật trọn vẹn, nên Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không thật trọn vẹn.
Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng không thật trọn vẹn, nên Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không thật trọn vẹn.
Xá-lợi Tử, thường, vô thường, khổ vui, ngã, vô ngã, tịnh bất tịnh, vắng lặng không vắng lặng, điên đảo không điên đảo, các triền cái, kiến hành, tăng ích, tổn giảm, sinh diệt, trụ diệt, tập hợp phát khởi, ẩn mất không thật trọn vẹn, nên Ta nói Bát-nhã bala-mật-đa không thật trọn vẹn.
Xá-lợi Tử, ngã, hữu tình, người sống, người sinh, người nuôi, chúng sinh, phàm phu ngu si, thân do ý sinh, tuổi trẻ, người làm, người sai làm, người phát khởi, người khiến phát khởi, người nhận, người sai nhận, người biết, người sai biết, người thấy, người làm thấy không thật trọn vẹn.
Xá-lợi Tử, pháp chắc thật, hư dối, tới lui qua lại, thấy có thấy không, trong ngoài... không thật trọn vẹn, nên Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không thật trọn vẹn.
Xá-lợi Tử, địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới, Dục, Sắc, Vô sắc giới, hữu tình giới, pháp giới không thật trọn vẹn, nên Ta nói Bát-nhã ba-la-mậtđa không thật trọn vẹn.
Xá-lợi Tử, nghiệp quả dị thục, nhân duyên, đoạn, thường, ba đời, ba thời không thật trọn vẹn, nên Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không thật trọn vẹn.
Xá-lợi Tử, bố thí, keo kiệt, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, diệu tuệ, ác tuệ, tâm ý thức không ngừng chết sống, tạp nhiễm, thanh tịnh không thật trọn vẹn, nên Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không thật trọn vẹn.
Xá-lợi Tử, Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Đạo chi, Khổ, Tập, Diệt, Đạo, Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí, vô lượng Thần thông, Không, Vô tướng, Vô nguyện không thật trọn vẹn, nên Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không thật trọn vẹn.
Xá-lợi Tử, thiện chẳng phải thiện, hữu lậu, vô lậu, thế gian, xuất thế gian, có tội vô tội, hữu vi, vô vi, hữu ký, vô ký, đen trắng, đen trắng trái nhau, kém vừa hơn, tham, sân, si không thật trọn vẹn, nên Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không thật trọn vẹn.
Xá-lợi Tử, thấy nghe hay biết, ỷ lại, an trụ, tầm tứ, sở duyên, dối nịnh, ganh ghét, xan tham, hòa hợp hai tướng không sinh, không tác, chỉ quán, minh giải, ly tận, diệt nhiễm, vứt bỏ, các chỗ nương tựa, thế tục, thắng nghĩa không thật trọn vẹn, nên Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không thật trọn vẹn.
Xá-lợi Tử, pháp Thanh văn địa, Độc giác địa, trí Nhất thiết trí, trí vô trước trí tự nhiên trí, trí vô biên, trí vô đẳng đẳng, đại nguyện của Bồ-tát, viên mãn của Thanh văn, viên mãn của Độc giác, vô lượng, vô biên không gì sánh bằng của trí Nhất thiết pháp, nhất thiết pháp như thật vô kiến, nhất thiết pháp tri kiến không thật trọn vẹn, nên Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không thật trọn vẹn.
Xá-lợi Tử, chân thật, mát mẻ, vắng lặng, cực vắng lặng, rất cực vắng lặng không thật trọn vẹn, nên Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không thật trọn vẹn.
Xá-lợi Tử, thành thục cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, tướng hảo đầy đủ, các lực vô úy, mười tám pháp Phật bất cộng không thật trọn vẹn, nên Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không thật trọn vẹn.
Xá-lợi Tử, niết-bàn cho đến tất cả pháp hoặc thiện hoặc chẳng phải thiện đều không thật trọn vẹn, nên Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không thật trọn vẹn.
Xá-lợi Tử, như hư không rộng lớn, không có sắc, không thấy, không hư dối, không tánh, không thật trọn vẹn. Bát-nhã ba-la-mật-đa vô sắc, vô kiến, vô đối, không tánh không thật trọn vẹn.
Xá-lợi Tử, ví như cái cầu vòng tuy có các sắc đẹp hiện ra nhưng không chút thật có. Như vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa tuy mượn các thứ ngôn ngữ trình bày mà tánh chất sự trình bày chẳng thể nắm bắt được.
Xá-lợi Tử, ví như hư không tuy dùng các thứ thước tấc đo lường mà chưa từng thấy đo được có chừng năm ngón tay là thật trọn vẹn. Như vậy Bátnhã ba-la-mật-đa tuy nương vào các thứ tướng ngôn ngữ trình bày nhưng chưa từng thấy có chút tự thể là thật trọn vẹn.
Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:
–Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa này rất khó thấy!
Phật đáp:
–Đúng vậy! Vì người muốn thấy không thể thấy được.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa rất là khó giác ngộ!
Phật đáp:
–Đúng vậy! Vì người giác ngộ chẳng thể nắm bắt được.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa này không thể trình bày!
Phật đáp:
–Đúng vậy! Pháp muốn trình bày vô sở đắc được.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa này không phải sự trình bày!
Phật đáp:
–Đúng vậy! Vì không phải pháp trình bày mà xuất hiện.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa lấy không tánh làm tánh!
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa lấy không tánh uẩn, xứ, giới, duyên khởi làm tự tánh, lấy không tánh của các điên đảo, các triền cái, kiến chấp, ái hành làm tự tánh. Lấy không tánh của ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, sự sinh khởi, sự nuôi dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng thọ quả báo, khả năng khiến người thọ quả báo, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, người biết, người làm cho biết, người thấy, người làm cho thấy mà làm tự tánh.
Lấy không tánh của địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới làm tự tánh. Lấy không tánh của hữu tình giới, pháp giới làm tự tánh. Lấy không tánh của Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới làm tự tánh. Lấy không tánh của bố thí, keo kiệt, giữ giới phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, diệu tuệ, ác tuệ làm tự tánh.
Lấy không tánh các pháp phần Bồ-đề, Thánh đế, Chỉ quán, vô lượng Thần thông, Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí, giải thoát làm tự tánh.
Lấy không tánh của tận ly, nhiễm diệt làm tự tánh. Lấy không tánh của không sinh trí, diệt trí, Niết-bàn làm tự tánh. Lấy không tánh của Thanh văn địa, Độc giác địa, Phật địa, Thế tục tri kiến, Thắng nghĩa tri kiến và Vô trước trí, trí Nhất thiết trí làm tự tánh.
Xá-lợi Tử thưa:
–Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì pháp hoàn thành và hoại diệt mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không vì hoàn thành pháp sinh khởi, không vì hoại diệt pháp vô ngã mà xuất hiện.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì duyên pháp làm phương tiện mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Vì tất cả pháp không vì sở duyên, nên không vì pháp như thế có thể làm sở duyên mà phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp không vì thêm bớt mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, không thấy có pháp có thể thêm bớt.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì vượt khỏi tất cả pháp mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Bát-nhã ba-la-mật-đa không thấy có pháp có thể vượt khỏi.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì tổn, ích tất cả pháp mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp tổn, ích vậy.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì tập hợp, xa lìa tất cả pháp mà xuất hiện.
Phật dạy:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp có thể hợp tan.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp mang đi để điều phục mà xuất hiện.
Phật dạy:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp mang đi để điều phục.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp làm ân, oán mà xuất hiện.
Phật dạy:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp đối với người kia làm ân oán vậy.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp có khởi lên không khởi mà xuất hiện. Phật dạy:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp có thể sinh khởi, không sinh khởi.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp có chút tương ưng không tương ưng mà xuất hiện.
Phật dạy:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp có thể cùng tương ưng không tương ưng vậy.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không vì đối với pháp có chút ở chung và không ở chung mà xuất hiện.
Phật dạy:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp có thể cùng ở chung, không ở chung. Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp có sự sinh khởi không sinh khởi mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy pháp có thể khiến sinh khởi không sinh khởi.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp có sự lưu chuyển không lưu chuyển mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp có thể làm lưu chuyển và không lưu chuyển vậy.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không có chút pháp tác dụng làm vật dụng mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có chút pháp làm tác dụng cho cái khác vì để làm vật dụng mà xuất hiện.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp chứng đắc tánh bình đẳng tánh, không bình đẳng mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có chút pháp có thể chứng tánh bình đẳng, không bình đẳng vậy.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp lấy, bỏ mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp có thể lấy hay bỏ vậy.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp có sự tác động mà xuất hiện. Phật dạy:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp đối với cái kia có sự tác động vậy.
Khi ấy, Xá-lợi Tử lại bạch Phật rằng:
–Bát-nhã ba-la-mật-đa này rất là sâu xa.
Phật đáp:
–Đúng vậy!
–Vì sao? Xá-lợi Tử, các sắc uẩn, xứ, giới sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa này rất sâu xa.
Các chi phần duyên khởi sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa rất sâu xa. Điên đảo, năm triền cái, kiến chấp, ái hành sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mậtđa rất sâu xa như vậy.
Ngã, hữu tình... sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mậtđa rất sâu xa.
Hý luận, không hý luận sâu xa nên Bát-nhã bala-mật-đa rất sâu xa. Bố thí, keo kiệt, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, giận dữ, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, diệu tuệ, ác tuệ sâu xa nên Bátnhã ba-la-mật-đa rất sâu xa. Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Đạo chi sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa rất sâu xa như vậy. Khổ, tập, diệt, đạo giải thoát, giải thoát tri kiến sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa rất sâu xa. Ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại bình đẳng sâu xa nên Bát-nhã ba-lamật-đa rất sâu xa. Các lực, những điều không sợ, mười tám pháp Phật bất cộng... sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa rất sâu xa. Vô lượng thần thông sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa rất sâu xa. Trí không chấp vào ba đời, trí tận tất cả Phật pháp, trí không sinh, trí diệt, trí vô tác, trí lìa nhiễm sâu xa nên Bátnhã ba-la-mật-đa rất sâu xa, trí bỏ các triền cái sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa rất sâu xa.
Này Xá-lợi Tử, ví như biển lớn sâu rộng không lường như thế, Bát-nhã ba-la-mật-đa này cũng sâu rộng vô lượng. Gọi là sâu nghĩa là sự chứng đạt công đức vô biên.
Này Xá-lợi Tử, ví như biển lớn vô lượng là chỗ tập hợp nhiều loại báu lớn. Như vậy Bát-nhã ba-lamật-đa tập hợp vô lượng, vô số ngọc báu các thứ đại pháp bảo.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì hiển thị tất cả pháp mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có chút pháp nào có thể hiển thị mà xuất hiện. Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp có trí không trí mà xuất hiện. Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có chút pháp nào có thể gọi là có trí và không trí.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp có chứa đựng mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp chứa đựng vậy.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp có sự tiếp nhận mà xuất hiện. Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp có thể tiếp nhận vậy.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp có chỗ nương tựa mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp có thể nương tựa.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp giữ lấy mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp có thể giữ lấy vậy.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không vì đối với pháp có sự giữ lấy mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp sinh sự giữ lấy.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp có sự đắm trước mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp có thể sinh ra đắm trước vậy.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp có sự dừng lại mà xuất hiện. Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp có thể cùng dừng lại vậy.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp có liên tục có gián đoạn mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp tiếp tục và gián đoạn.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp khởi tham, sân, si, lìa tham, sân, si mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp sinh tham, sân, si hay lìa tham, sân, si vậy.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp phát sinh người biết và người làm cho biết mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp phát khởi sự hiểu biết và làm cho hiểu biết.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp rõ biết bản tánh không bản tánh mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa không thấy pháp có thể biết bản tánh không bản tánh.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì đối với pháp có thanh tịnh mà xuất hiện.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy có pháp thanh tịnh vậy.
Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:
–Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bản tánh thanh tịnh.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Vì sao? Xá-lợi Tử, các uẩn, xứ, giới bản tánh thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa bản tánh thanh tịnh như vậy. Duyên khởi, điên đảo, kiến chấp ái hành, tham, sân, si... bản tánh thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa bản tánh thanh tịnh như vậy. Ngã và hữu tình, dòng sinh mạng, sự sinh khởi, sự nuôi dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, khả năng thọ quả báo, khả năng khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy bản tánh thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mậtđa bản tánh thanh tịnh. Đoạn, thường, vô biên bản tánh thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa bản tánh thanh tịnh. Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bản tánh thanh tịnh, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa bản tánh thanh tịnh. Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Đạo chi, Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí, Từ, Bi, Hỷ, Xả bản tánh thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa bản tánh thanh tịnh. Các không, điên đảo, khổ, tập, diệt, đạo, Thần thông, Thánh đạo, Thanh văn địa, Độc giác địa, Phật địa, Phật, Pháp, Tăng bảo, pháp Thanh văn thừa, pháp Độc giác thừa, pháp Bồ-tát thừa, giải thoát, giải thoát tri kiến, Niết-bàn bản tánh thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa bản tánh thanh tịnh. Pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, vô trước tri kiến, mười tám pháp Phật bất cộng... bản tánh thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa bản tánh thanh tịnh. Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hữu tình giới, pháp giới bản tánh thanh tịnh nên Bát-nhã ba-lamật-đa bản tánh thanh tịnh.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không sắc, không thấy, không sự đối ngại.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy chút pháp có sắc, có thấy, có sự đối ngại.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không có sự làm.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Người có thể làm chẳng thể nắm bắt được.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không sự hướng đến.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy pháp có thể hướng đến. Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể thiết lập.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy pháp có thể thiết lập.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là không cộng chung.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy pháp có thể cộng chung.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là vô tướng.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Lấy tướng các pháp chẳng thể nắm bắt được vậy.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không sự soi rõ.
Phật đáp:
–Đúng vậy! Sự có thể soi rõ không có thể nắm bắt được.
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là vô biên. Phật đáp:
–Đúng vậy! Vì sao? Xá-lợi Tử, các uẩn, xứ, giới vô biên nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên. Duyên khởi, điên đảo, kiến chấp, ái hành, tham, sân, si... vô biên nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên. Đoạn, thường, thời trước, thời sau, thời giữa vô biên nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên. Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã vô biên nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên. Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Đạo chi, không điên đảo, vô biên nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên. Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí, sở duyên, giải thoát, giải thoát tri kiến vô biên nên Bátnhã ba-la-mật-đa cũng vô biên. Thanh văn địa, Độc giác địa, Phật địa, Phật, Pháp, Tăng bảo, pháp Thanh văn thừa, pháp Độc giác thừa, pháp Bồ-tát thừa vô biên nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên. Ngã, hữu tình... Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, vô lượng thần thông, các triền cái, quá khứ, vị lai, hiện tại, tri kiến, vô trước, vô kiến, địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hữu tình giới, pháp giới... vô biên nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.
Xá-lợi Tử, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đầu, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được, đối với các pháp cũng không có sự sở đắc.
Xá-lợi Tử, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không bờ bến.
Xá-lợi Tử, như biên giới hư không rộng lớn chẳng thể nắm bắt được. Như vậy biên giới của Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được.
Xá-lợi Tử, phải biết chỗ, đầu, giữa, sau của Bát-nhã ba-la-mật-đa đều không bờ bến cũng không phương, cõi.
Xá-lợi Tử, duyên khởi, điên đảo, các triền cái, kiến chấp ái hành, tham, sân, si, ngã, hữu tình... Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã, pháp phần Bồ-đề, Tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, vô lượng thần thông, minh thoát, giải thoát tri kiến, các pháp phàm phu, pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát Phật và các pháp môn khác không bờ bến nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không bờ bến.
Xá-lợi Tử, bờ bến của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thể nắm bắt được nên gọi không bờ bến. Vì không chẳng thể nắm bắt được nên gọi không bờ bến.
Xá-lợi Tử, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì không bờ bến nên gọi là vô biên, vì vô biên nên gọi là không bờ bến.
Xá-lợi Tử, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tánh ngã tánh chấp giữ chẳng thể nắm bắt được nên gọi là không biên giới, không bến. Vì tất cả pháp không bờ, không bến nên phải biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không bờ bến. Vì hư không rộng lớn, không bờ bến nên phải biết các pháp cũng không bờ bến.
Lúc ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, chúng Đại Bồ-tát y vào pháp như vậy mà hành động trong tướng các cảnh như thế nào?
Phật liền bảo Xá-lợi Tử:
–Các chúng Đại Bồ-tát, pháp còn không thể đắc huống gì có phi pháp. Đạo còn chẳng được huống gì có phi đạo. Đối với tịnh giới còn không sự sở đắc cũng không sự chấp trì huống gì phạm giới. Các Bồ-tát này không rơi vào ba cõi, cũng không rơi vào các đường sống chết, không lệ thuộc thân mạng huống gì cảnh ngoài. Đối với dòng sống chết đã đến bờ bến, đã qua biển lớn, đã vượt nạn lớn.
Này Xá-lợi Tử, các chúng Bồ-tát, Đại Bồ-tát nương pháp như vậy mà hành động trong tướng các cảnh, biết tất cả cảnh đều không có tánh cảnh. Do nhân duyên này, các thiện sĩ đối với tất cả cảnh đều không chấp trước. Như sư tử chúa không vướng mắc các cảnh, các thiện sĩ này đối với các cảnh giới không nhiễm không tạp vượt qua tất cả cảnh, như nhà buôn lớn không bị trở ngại. Các thiện sĩ này nương pháp như vậy mà hành động trong tướng các cảnh, không bị chấp trước.
Này Xá-lợi Tử, Ta hoàn toàn không thấy trong đại chúng này có một Bồ-tát đối với pháp như vậy mà không tin hiểu sâu, đối với pháp như vậy mà nghi hoặc do dự.
Này Xá-lợi Tử, tất cả Bồ-tát ở trong chúng đây đối với pháp này đều không còn nghi hoặc, do dự. Như vậy các thiện sĩ này đối với pháp này tự mình không do dự, cũng có thể vĩnh viễn đoạn trừ tất cả sự nghi hoặc của hữu tình. Các thiện sĩ do nhân duyên này đối với tất cả pháp đều không do dự, có thể vì loài hữu tình quyết định giảng nói tất cả tánh của pháp đều không thật có.
Này Xá-lợi Tử, vào đời sau nếu có người nghe được pháp này đối với tất cả pháp cũng dứt trừ được nghi ngờ, do dự, cũng làm dứt hẳn các chỗ nghi ngờ của tất cả hữu tình. Nghĩa là tuyên nói pháp yếu như Ta đã nói.
Này Xá-lợi Tử, Ta hoàn toàn không thấy các loài hữu tình căn lành mỏng ít có thể tin hiểu sâu xa pháp này, các loài hữu tình căn lành mỏng ít đối với pháp này mà có thể dung nạp. Các tài sản pháp như vậy không phải họ có thể nhận dùng được.
Các loài hữu tình căn lành mỏng ít đối với pháp như vậy còn không nghe tên huống chi có thể giữ gìn, suy nghĩ, tu tập. Nếu có người được nghe pháp này, Ta thọ ký cho họ sẽ được pháp Phật. Đời sau, đối với các pháp Phật, họ có thể rống tiếng rống sư tử. Như ngày nay Ta ở trong đại chúng rống tiếng rống sư tử, không có tiếng sợ hãi, rống tiếng đại trượng phu, rống tiếng trí tự nhiên.
Này Xá-lợi Tử, nếu có người được nghe pháp yếu sâu xa đã nói như vậy, cho đến có thể sinh lòng tin vui không phỉ báng, Ta cũng thọ ký cho họ sẽ đạt quả vị Giác ngộ cao tột.
Vì sao? Xá-lợi Tử, nếu các hữu tình nghe pháp sâu xa hoan hỷ tin nhận rất là khó có.
Này Xá-lợi Tử, nếu các hữu tình nghe pháp sâu xa, sinh lòng rất tin muốn thì có thể phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột. Các hữu tình này rất khó có đạt được. Ta nói cho thành tựu căn lành rộng lớn, đầy đủ tư lương, mặc giáp mũ lớn, mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Như vậy nếu các hữu tình nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoan hỷ tin thích, luôn luôn nghe nhận thì họ đã được phước vô lượng, vô biên, huống chi có thể thọ trì, chuyển nói cho người khác. Nếu người chưa vào Chánh tánh ly sinh hoặc đối với Nhị thừa không quyết định, Ta đều thọ ký cho kẻ ấy được quả vị Giác ngộ cao tột, lợi lạc hữu tình tận đời vị lai thường không đoạn mất.
Này Xá-lợi Tử, nếu các hữu tình thành tựu pháp thấp kém, Ta không thấy họ đối với pháp rộng lớn có thể dung nạp. Pháp rộng lớn đó là sự giác ngộ của Phật.
Này Xá-lợi Tử, các loài hữu tình có nhiều người thành tựu pháp thấp kém, sự tin hiểu cũng đều thấp kém, không thể vun trồng căn lành rộng lớn. Họ đối với pháp không nhiễm rộng lớn sâu xa không thể tin nhận.
Này Xá-lợi Tử, các loài hữu tình thành tựu pháp rộng lớn, chỗ tin hiểu cũng đều rộng lớn, phát đến Đại thừa thành tựu xong sự nghiệp, khéo mặc giáp mũ, khéo hay suy nghĩ chọn nghĩa lý sâu xa, khéo đi đường lớn ngay thẳng không hiểm, xa lìa rừng rậm với tướng bình đẳng, không có các chông gai, sỏi đá hầm hố, sạch sẽ, không dơ, không lệch không cong, lợi ích thế gian, an vui thế gian, thương xót thế gian, cùng các trời, người làm nghĩa rộng lớn, lợi ích an vui cho các hữu tình làm chiếc thang vững chắc, làm sự soi sáng lớn, đủ đại Từ bi thương xót tất cả. Đối với hữu tình muốn làm lợi ích, muốn cùng an vui, muốn làm cho an ổn, cho khắp hữu tình các loại an vui. Như vậy hữu tình tức là Bồ-tát, Đại Bồ-tát, có thể khéo thọ dùng của báu đại pháp là Đại Bồ-tát, thường khéo tìm cầu của báu đại pháp, của báu tối thắng đều thuộc về họ không phải ai khác.
Vì sao? Nếu có loại hữu tình không gần bạn lành, chưa trồng căn lành, phước đức cạn mỏng nên tin hiểu thấp kém. Họ đối với chánh pháp không nhiễm sâu xa rộng lớn như vậy, không thể tin nhận. Ta tùy theo từng loại hữu tình có sự khác nhau nên mật ý nói: Các cõi hữu tình nhiều thứ khác. Tùy loại hơn kém mà ưa thích nhau.
Các loài hữu tình tin hiểu thấp kém lại thích hữu tình tin hiểu thấp kém. Các loài hữu tình tin hiểu rộng lớn lại thích hữu tình tin hiểu rộng lớn.
Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa lấy pháp gì làm cảnh để hành động?
Phật bảo Xá-lợi Tử:
–Bát-nhã ba-la-mật-đa này lấy pháp vô biên làm cảnh để hành động, ví như phong giới đi qua vô biên cảnh giới. Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa lấy pháp vô biên làm cảnh để hành động. Như cõi hư không qua cảnh vô biên, Bát-nhã ba-la-mật-đa này lấy pháp vô biên làm cảnh để hành động. Lại như phong giới lấy hư không rộng lớn làm cảnh để hành động. Bát-nhã ba-la-mật-đa lấy các pháp không làm cảnh để hành động.
Này Xá-lợi Tử, như hư không giới và phong giới đều không nơi chỗ để có thể thấy được; cũng lại không vì sinh khởi pháp tướng mà hiện hữu. Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với pháp đều không chỉ rõ được, cũng không vì sinh khởi pháp tướng mà hiện hữu.
Này Xá-lợi Tử, như hư không giới và phong giới đều không thể chấp giữ không thật tròn đầy; cũng không có sắc tướng để có thể tính toán.
Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa đều không thể chấp giữ không thật tròn đầy, không sắc... tướng để tính toán biết được.
Này Xá-lợi Tử, như hư không giới và phong giới không có chút pháp nào là thật tròn đầy để có thể chỉ bày. Bát-nhã ba-la-mật-đa này không có chút pháp là thật tròn đầy để chỉ bày.
Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:
–Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa lấy gì làm tướng?
Phật liền bảo Xá-lợi Tử:
–Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn không có tướng.
Này Xá-lợi Tử, như hư không giới và phong giới, không có chút pháp là thật tròn đầy có thể chỉ tướng ấy. Bát-nhã ba-la-mật-đa này không có chút pháp là thật tròn đầy có thể chỉ tướng ấy.
Vì sao? Xá-lợi Tử, Bát-nhã ba-la-mật-đa này lìa các tướng, không có chút tướng nào có thể nắm bắt được.
Này Xá-lợi Tử, như cõi hư không, không có chỗ vướng mắc chướng ngại. Bát-nhã ba-la-mật-đa này không có chỗ vướng mắc chướng ngại. Do đây nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa lấy không làm tướng.
Này Xá-lợi Tử, không phải pháp không vướng mắc có tướng có thể nắm bắt được. Nhưng vì tùy theo danh ngôn lý thú thế gian mà nói như thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa lấy không vướng mắc làm tướng.
Này Xá-lợi Tử, tuy nói Bát-nhã ba-la-mật-đa lấy không vướng mắc làm tướng, nhưng Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thể nắm bắt được. Không thể nói lấy không vướng mắc làm tướng, vì pháp không vướng mắc không có tướng trạng.
Này Xá-lợi Tử, nói không vướng mắc ấy là chấp trước biết khắp, chấp trước chẳng thể nắm bắt được, như thật tánh của chấp trước, biết khắp tất cả điên đảo chấp trước nên gọi vô trước. Không phải trong chấp trước có chấp trước nắm bắt được. Do đây nên nói như thật tánh của chấp trước, chấp trước chẳng thể nắm bắt được.
Này Xá-lợi Tử, không chấp trước tức là Bátnhã ba-la-mật-đa.
Này Xá-lợi Tử, đây là nói gọi trí và tướng không chấp trước.
Này Xá-lợi Tử, các pháp đều lấy không chấp trước làm tướng. Vì các pháp tướng không có thể nắm bắt được nên gọi tướng không chấp trước. Không có chút pháp làm pháp sinh tướng mà xuất hiện, vì đối với trong đây không tướng có thể nắm bắt được nên gọi là không tướng. Vì không tướng nên nói không chấp trước. Nếu tất cả pháp có chút tướng ấy thì đối với trong đây có chấp trước có nắm bắt được. Vì tất cả pháp tướng đều không, nên trong đây không có chấp trước để nắm bắt được. Nói các pháp lấy không chấp trước làm tướng, tuy là nói thế mà không phải như thế. Vì tướng không chấp trước không thể nói được.
Vì sao? Vì tướng không chấp trước không thật có, tánh xa lìa nên chẳng thể nắm bắt được vậy.
Này Xá-lợi Tử, tướng không chấp trước của pháp không thể chỉ rõ, không thể hiện rõ nhưng vì hữu tình mà phương tiện chỉ rõ tướng không chấp trước này nên không nên chấp trước.
Này Xá-lợi Tử, các tướng tạp nhiễm tức là vô tướng. Không phải pháp tạp nhiễm vì phát khởi tướng mà hiện hữu.
Này Xá-lợi Tử, các pháp tạp nhiễm điên đảo xuất hiện. Các điên đảo ấy đều là vô tướng. Các vô tướng ấy đều không thể nói được cho nên pháp hữu tướng tức là vô tướng.
Này Xá-lợi Tử, các pháp thanh tịnh cũng không có tướng.
Vì sao? Các pháp tạp nhiễm còn không có tướng huống gì pháp thanh tịnh mà có tướng được. Này Xá-lợi Tử, nếu người có thể biết trọn vẹn tánh như thật của các pháp tạp nhiễm, các tạp nhiễm kia đều chẳng thể nắm bắt được. Nhưng các hữu tình do điên đảo nên khởi lên các tạp nhiễm. Các điên đảo ấy đều không chân thật. Nếu không chân thật thì không thật thể, cũng không thật tướng. Nếu có khả năng biết trọn vẹn như thật như vậy tức là thanh tịnh. Các tướng tạp nhiễm còn không thể đắc huống chi tướng thanh tịnh mà có thể nắm bắt được. Thế nên hai pháp thanh tịnh và tạp nhiễm đều không có tướng, không thật trọn vẹn.
Này Xá-lợi Tử, các pháp không tướng không thật trọn vẹn, gọi là không chấp trước. Nên nói các pháp không chấp trước làm tướng vì tất cả pháp là tướng không chấp trước nên gọi là không chấp trước. Phàm phu ngu si chấp vào tướng không chấp trước.
Này Xá-lợi Tử, như vậy gọi là nói tất cả pháp lấy không chấp trước làm tướng, phải biết tướng không chấp trước đây tức là chỗ hành động của trí, cũng là chỗ hành động của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chỗ hoạt động của tướng trí không chấp trước này, cũng gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa đi khắp vô biên cảnh. Các tánh không chấp trước phải biết nên nói là đi khắp vô biên cảnh.
Này Xá-lợi Tử, chỗ hành động này nên biết rằng nêu rõ không phải chỗ hành động. Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa không phải tướng chỗ hoạt động mà có thể trình bày.
Này Xá-lợi Tử, cảnh của sự hành động ấy phải biết chỉ hiển bày không phải cảnh của sự hành động. Vì tất cả pháp tánh như thật, tánh như sở hữu đều chẳng thể nắm bắt được. Tất cả pháp không phải cảnh của sự hành động, vì tất cả pháp không phải tánh của cảnh vậy. Nếu có khả năng biết khắp các pháp thì gọi là hành động tất cả cảnh. Tuy nói như vậy mà không phải như nói. Hoặc có khả năng biết khắp các pháp đều không có sự chấp trước gọi là tướng không chấp trước. Do nghĩa lý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa lấy không chấp trước làm tướng.
Này Xá-lợi Tử, đã nói pháp yếu sâu xa về cảnh trí của Như Lai. Nếu muốn giảng nói phân biệt, trình bày giúp đỡ chút ít nào, sự giúp đỡ trong đây chỉ có bậc kiến đế hướng tới giác ngộ lớn. Các hàng Thanh văn và Bồ-tát, Đại Bồ-tát đã không thoái chuyển và bậc thấy đầy đủ về Bổ-đặc-già-la, đối với không sinh thừa không còn bị quay trở lại.
Bậc thấy đầy đủ Bổ-đặc-già-la cũng đối với pháp yếu sâu xa như vậy có thể chân chánh tu hành xa lìa nghi hoặc. Bậc thân chứng Bồ-tát đã được tịnh nhẫn đối với pháp yếu này quyết không còn nghi ngờ.
Này Xá-lợi Tử, phàm phu ngu si đối với pháp vi diệu này không phải là chỗ họ làm được. Này Xá-lợi Tử, pháp giáo tương ưng Bát-nhã ba-lamật-đa nói trên rất khó đắc. Hoàn toàn không bao giờ rơi vào tầm tay các loài hữu tình tin hiểu thấp kém. Nếu các hữu tình đã từng phụng thờ nhiều Phật, thành tựu căn lành, thanh tịnh tối thắng, tin hiểu rộng lớn thì pháp giáo tương ưng Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa nói trên mới rơi vào tay của họ. Phải biết các loài hữu tình đã trồng vô lượng căn lành rộng lớn, thành tựu ý vui, nhu hòa, thanh tịnh, quá khứ đã ở vô lượng chỗ Phật, trồng giống Bồđề, phát thệ nguyện rộng, làm hạnh Bồ-tát, cỡi xe Phật cỡi, gần gũi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như lý thưa hỏi pháp sâu xa. Giáo pháp tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa rơi vào tay các vị ấy. Phải biết các hữu tình đã chứng được Vô sinh pháp nhẫn hoặc gần chứng Vô sinh pháp nhẫn. Giáo pháp tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa này rơi vào tay các vị ấy phải biết các loài hữu tình như vậy mau chứng được quả vị Giác ngộ cao tột, ngoại trừ vì nguyện lực Từ bi nên không cầu mau chứng. Phải biết các loài hữu tình này đã được chư Phật thọ ký, hoặc không lâu sẽ được thọ ký. Phải biết, giả như các loài hữu tình này chưa được Phật hiện tại thọ ký thì như người đã được Phật hiện tại thọ ký.
Này Xá-lợi Tử, nếu các hữu tình căn lành chưa thuần thục, vì phước đức mỏng, còn không được nghe tên kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này huống gì được cầm nắm đọc tụng, nhận giữ, biên chép, cúng dường, vì người khác giảng rộng. Họ không bao giờ có khả năng như vậy. Nếu các hữu tình căn lành đã thành thục nhờ sức nguyện đời trước nên được gặp kinh này, nghe, nhận giữ, biên chép, đọc tụng, cung kính, cúng dường vì người khác giảng nói.
Này Xá-lợi Tử, nếu các hữu tình căn lành vững chắc, ý vui nhu hòa với thiện thì giáo pháp tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa mới rơi vào tay các vị ấy. Ta thọ ký cho các thiện nam, thiện nữ kia... hoặc Bồ-tát thừa, hoặc Thanh văn thừa do được pháp này lòng rất ưa thích. Dù trước đây họ giải đãi, tâm ưa vui ngủ nghỉ, phát sinh không chánh tri không sống chánh niệm, hoặc tâm tán loạn, hoặc ham ăn uống, hoặc ưa của báu, hoặc thích lời thô, hoặc vui bạo ác, hoặc ngạo mạn, hoặc căn ám độn không hiểu rõ. Họ do sức căn lành như vậy, tất cả lỗi nói trước đều chuyển đổi. Do được pháp yếu sâu xa này, giả sử là Thanh văn chuyển thành Bồtát đối với pháp sâu xa thêm sinh vui thích. Đối với các cảnh giới có thể không buông lung, đối với các pháp lành vui thích tu hành, mạnh mẽ tinh tấn lìa các giải đãi. Nhất tâm chánh niệm, giữ gìn các căn, không nói lời thô, không làm bạo ác. Luôn phải cung kính, thích học tập đa văn, nỗ lực tinh tấn, không bị tham nhiễm, có thể lựa chọn pháp nghĩa sâu xa. Nếu muốn đầy đủ công đức như vậy phải siêng năng tu học pháp yếu sâu xa.
Này Xá-lợi Tử, nếu các Bồ-tát hoặc Thanh văn thừa nghe pháp yếu này thì được quả thù thắng. Nghĩa là nghe pháp yếu sâu xa này, quyết định không trở lại làm các việc buông lung. Đối với các pháp ác không sinh tin theo, muốn tinh tấn trọn vẹn đều không lui giảm. Đối với sự tu hành không xem thường trì hoãn. Đối với pháp tà bên ngoài không thích nghĩ tìm. Đối với pháp tham, sân, si không biểu hiện nhiều. Các quả tương xứng như vậy vô lượng, vô biên đều do được nghe pháp yếu sâu xa này.
Này Xá-lợi Tử, pháp yếu sâu xa không phải chỉ có tai nghe liền gọi là quả. Cần phải không buông lung tinh tấn tu hành, hiểu rõ như thật xa lìa các ác. Mình và người đều lợi mới gọi là quả.
Lại nữa, người nghe pháp nghĩa là đối với pháp yếu biết rõ như thật, tinh tấn tu học, không đối với chánh pháp phát sinh sự hiểu lầm sai khác. Người nào đối với chánh pháp phát sinh sự hiểu và làm sai khác nên biết kẻ ấy không gọi là nghe pháp.
Này Xá-lợi Tử, các ông đều nên đối với nghĩa của phương tiện thiện xảo đã nghe phát sinh sự hiểu không trái ngược, an trụ chánh hạnh. Nếu đối với nghĩa của pháp, phát khởi sự hiểu biết trái ngược, không tu hành chân chánh, phải biết họ đối với chánh pháp của Phật nhất định không thuận nhẫn. Xá-lợi Tử, ở trong Chánh pháp và Tỳ-nại-da của Ta thì người nào làm đúng như pháp gọi là thuận nhẫn. Nói thuận nhẫn ấy nghĩa là đối với chánh pháp chọn lựa không trái, phát triển chánh hạnh.
Này Xá-lợi Tử, người nào đầy đủ thuận nhẫn an trụ chánh hạnh, phải biết kẻ ấy chắc chắn không rơi vào trong các đường ác địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ mau có thể chứng đắc quả thù thắng của thắng pháp.
Này Xá-lợi Tử, các hữu tình nào không thể tin giữ chút căn lành nào, nghĩa là họ có thể thoát khỏi các đường ác, cũng không thể giữ việc siêng tu tinh tấn, cho đến đối với pháp chưa đủ chánh kiến thì đối với các đường ác vẫn còn rơi vào.
Này Xá-lợi Tử, nếu đối với chánh pháp tu học đầy đủ, đắc thuận nhẫn rồi thì mới có thể không gây tạo và nhận lấy nghiệp quả đường ác, không còn giải đãi phát sinh ra phần thuận thoái lui; đối với chỗ thấp kém không sợ rơi vào; đối với sự tu hành, tâm không khinh lờn chậm hoãn.
Vì sao? Xá-lợi Tử, đối với trong phần tạp nhiễm và thanh tịnh họ có khả năng biết rõ một cách đúng đắn, được thấy như thật thông đạt tất cả pháp không sinh chấp trước về sự phát khởi tâm hư dối điên đảo. Họ đối với nghĩa lý sâu xa của pháp đã được chánh kiến, đầy đủ thuận nhẫn, thông minh nhanh lẹ, nhu hòa mềm mại, giữ giới thanh tịnh. Do được thuận nhẫn cho nên sự thực hành khuôn phép chánh hạnh luật nghi hoàn toàn đầy đủ. Trời, Rồng, Dược-xoa, A-tố-lạc... còn cung kính họ, huống gì loài người. Tất cả Trời, Rồng, Dượcxoa, A-tố-lạc… đối với họ còn phải thương tưởng, quay về cúng dường, vây quanh ủng hộ, khiến không có ác duyên làm tổn hại thân thể và chỗ tu hành, huống gì loài người, cho nên, cần tu chánh pháp thuận nhẫn. Nếu ai được thuận nhẫn thì sẽ được Trời, Rồng, Dược-xoa, A-tố-lạc... thường theo ủng hộ, luôn luôn cung kính cúng dường.
Lúc ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
–Vì sao Cụ thọ im lặng không nói, vì sao không nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa? Hôm nay Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang làm chứng, hôm nay đại chúng đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là Pháp khí chân thật, ý muốn thanh tịnh xin nghe pháp sâu xa.
Thiện Hiện đáp:
–Vâng! Xá-lợi Tử, tôi đối với các pháp đều không thấy gì, nên im lặng không nói.
Xá-lợi Tử, tôi hoàn toàn không thấy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng không thấy có các chúng Bồ-tát, không có khả năng nói, không thấy có chỗ nói. Cũng lại không thấy do đây, vì đây, nhân đây, thuộc đây, nương đây mà nói. Tôi đối với trong đây đã không thấy gì, sao lại bảo tôi vì các chúng Bồtát giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Giả sử tôi muốn nói, ai là người nói, cái gì là điều được nói. Tôi cũng không biết do đâu. Vì sao? Nguyên nhân gì? Thuộc cái gì? Nương vào cái gì mà nói, thì tôi làm sao giảng nói Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa này?
Xá-lợi Tử, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thể giảng nói, không thể trình bày, không thể hý luận.
Xá-lợi Tử, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không có khả năng tuyên nói, không có khả năng trình bày, không có khả năng hý luận. Nếu có thể phương tiện trình bày như vậy tức là trình bày Bátnhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không phải quá khứ, không vị lai, không hiện tại.
Xá-lợi Tử, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thể lấy tướng quá khứ mà nói, không thể lấy tướng vị lai mà nói, không thể lấy tướng hiện tại mà nói.
Xá-lợi Tử, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không có tướng nên không thể nói được.
Xá-lợi Tử, Ta hoàn toàn không thấy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có tướng như thế nào để có thể đem tướng này tuyên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử, tướng của ba đời uẩn, xứ, giới... không phải Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như sở hữu của tướng ba đời uẩn, xứ, giới, là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Xá-lợi Tử, chân như, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như sở hữu của tướng ba đời uẩn, xứ, giới không thể thiết lập, không thể trình bày, không thể hý luận, không phải ngữ nghiệp có thể nói và được nói đến.
Xá-lợi Tử, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không do trình bày tướng các pháp mà xuất hiện; không do trình bày tướng uẩn, xứ, giới mà xuất hiện; không do trình bày tướng có hành không các hành mà xuất hiện; không do trình bày tướng duyên khởi mà xuất hiện; không do trình bày tướng danh sắc mà xuất hiện; không do trình bày tướng ngã, hữu tình... mà xuất hiện; không do trình bày tướng pháp giới mà xuất hiện; không do trình bày tướng có hệ, ly hệ mà xuất hiện; không do trình bày tướng nhân duyên mà xuất hiện; không do trình bày tướng khổ vui mà xuất hiện; không do trình bày tướng an lập, không an lập mà xuất hiện; không do trình bày tướng sinh diệt mà xuất hiện; không do trình bày tướng dơ sạch mà xuất hiện; không do trình bày tướng bản tánh, không phải bản tánh mà xuất hiện; không do trình bày tướng thế tục, thắng nghĩa mà xuất hiện; không do trình bày tướng chắc thật, hư dối mà xuất hiện; không do trình bày tướng dời chuyển, vào ra mà xuất hiện.
Vì sao? Xá-lợi Tử, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa lìa các tướng nên không thể trình bày: Đây là Bátnhã ba-la-mật-đa, ở đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa; do đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa; nhân đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa; thuộc đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa; nương đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Xá-lợi Tử, tôi không thấy pháp nào do pháp này mà trình bày rõ Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Xá-lợi Tử, không có chút pháp nào có thể hiển lộ, có thể lấy được Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Xá-lợi Tử, chẳng phải Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa có thể hiển lộ, có thể lấy các uẩn, xứ, giới, duyên khởi giải thoát.
Này Xá-lợi Tử, các diệu tuệ thông đạt xuất thế gian, cũng không thể hiển lộ, lấy Bát-nhã ba-lamật-đa.
Này Xá-lợi Tử, pháp không thể hiển lộ, lấy được các pháp thì làm sao trình bày Bát-nhã ba-lamật-đa.
Này Xá-lợi Tử, nếu có thể biết rõ nghĩa lý chân thật các pháp thì có thể biết rõ, giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Xá-lợi Tử, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không do nêu rõ pháp của nó mà xuất hiện.
Này Xá-lợi Tử, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không do trình bày uẩn, xứ, giới mà xuất hiện; không do trình bày danh và sắc mà xuất hiện; không do trình bày các pháp dơ sạch mà xuất hiện; không do trình bày các duyên khởi mà xuất hiện; không do trình bày các điên đảo mà xuất hiện; không do trình bày ngã, hữu tình... mà xuất hiện; không do trình bày đất, nước, gió, lửa, không, thức, giới mà xuất hiện; không do trình bày Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới mà xuất hiện; không do trình bày bố thí, xan tham, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, giận dữ, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ mà xuất hiện; không do trình bày Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Đạo chi, Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí, vô lượng Thần thông mà xuất hiện; không do trình bày các quả của Đạo đế mà xuất hiện; không do trình bày pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Phật địa mà xuất hiện; không do trình bày thuộc về pháp trí và phi trí mà xuất hiện; không do trình bày trí tận không sinh và trí diệt mà xuất hiện; không do trình bày pháp Niết-bàn mà xuất hiện.
Này Xá-lợi Tử, như không có pháp do trình bày pháp mà xuất hiện thì ta làm sao nói Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa này.
Này Xá-lợi Tử, nếu có thể rõ biết đã nói Bátnhã ba-la-mật-đa này không do trình bày pháp thuộc về mà xuất hiện thì có thể biết rõ Bát-nhã bala-mật-đa, cũng có thể trình bày Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa.
Này Xá-lợi Tử, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không vì các pháp có hợp có tan mà xuất hiện.
Vì sao? Xá-lợi Tử, Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì các uẩn, các xứ, các giới, có hợp có tan; không vì các hành có hợp có tan; không vì duyên khởi có hợp có tan; không vì điên đảo có hợp có tan; không vì Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới có hợp có tan; không vì đất, nước, gió, lửa, không, thức giới có hợp có tan; không vì ngã, hữu tình giới... có hợp có tan; không vì pháp giới có hợp có tan; không vì bố thí, xan tham, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, giận dữ, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, Bát-nhã, ác tuệ có hợp có tan; không vì Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Đạo chi, Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí, vô lượng Thần thông có hợp có tan; không vì các đạo đế và đạo quả có hợp có tan; không vì Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Phật địa và pháp có hợp có tan; không vì ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai bình đẳng có hợp có tan; không vì Niết-bàn có hợp có tan mà hiện hữu. Này Xá-lợi Tử, như vậy pháp không làm cho pháp có hợp có tan mà hiện hữu thì ta phải làm sao nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Này Xá-lợi Tử, tôi vì nghĩa này mà nói: Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa không thể trình bày. Này Xá-lợi Tử, tôi hoàn toàn không thấy có pháp gọi là có thể nói, có sự để nói, do đây, nhân đây, thuộc đây, nương theo đây mà có sự nói, thì làm sao bảo tôi vì các Bồ-tát nói Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Khi ấy, Thế Tôn bảo Thiện Dũng Mãnh Đại Bồ-tát:
–Thiện nam, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp hoàn toàn không có sự hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì tất cả pháp đều do sự điên đảo cùng phát khởi, không thật, không có tà ngụy hư dối.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như người đối với pháp có sự hành, đều bị điên đảo, đều thực hành không thật. Như vậy nếu Bồ-tát có sự hành thì hành điên đảo, hành không thật. Không phải sự rõ của biểu hiện các Bồ-tát là hành điên đảo và hành không thật. Cũng không phải Bồ-tát hành điên đảo hành không thật là có thể hành Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Này Thiện Dũng Mãnh, điên đảo không thật tức không phải sự hành, nên Bồ-tát không ở trong đó mà hành.
Này Thiện Dũng Mãnh, nói điên đảo ấy là hư dối, chỗ chấp trước say đắm của phàm phu ngu si, như cho là các pháp không phải như thế. Sự chấp như vậy là không đúng như tướng của nó, nên nói là điên đảo không thật, nên các Bồ-tát không hành điên đảo, không hành không thật. Do đây Bồ-tát gọi là người nói thật, cũng được gọi là người thực hành không điên đảo.
Nếu thật không điên đảo tức là không có sự thực hành. Nên nói Bồ-tát thực hành không có chỗ hành. Đoạn tất cả hành động gọi là Bồ-tát hạnh. Hạnh Bồ-tát này không thể trình bày: là đây, do đây, tại đây, từ đây vì không phải sự biểu hiện rõ ràng của Bồ-tát hạnh. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát chấm dứt tất cả hành để hành Bồ-tát hạnh. Nghĩa là chấm dứt hành động có chấp trước của phàm phu, Thanh văn, Độc giác mà hành hạnh Bồ-tát.
Này Thiện Dũng Mãnh, như vậy Bồ-tát đối với các pháp Phật không hành cũng không chấp trước, đây là Phật pháp, đây do Phật pháp, ở đây là Phật pháp, thuộc đây là Phật pháp. Như vậy Bồ-tát không hành động với tất cả phân biệt hay khác với phân biệt mà hành động. Nghĩa là các Bồ-tát không hành động phân biệt và khác phân biệt. Tất cả sự phân biệt và khác phân biệt đều chấm dứt gọi là Bồ-tát hạnh.
Thiện Dũng Mãnh, phân biệt nghĩa là đối với các pháp phân biệt tự tánh. Phân biệt khác nghĩa là đối với các pháp phân biệt khác nhau; không phải đối với tất cả các pháp có thể nắm bắt được phân biệt và phân biệt khác nhau. Vì tất cả pháp không thể phân biệt và phân biệt khác nhau, nếu phân biệt pháp thì đối với các pháp làm phân biệt khác nhau. Nhưng tất cả các pháp xa lìa phân biệt và phân biệt khác nhau.
Này Thiện Dũng Mãnh, nói phân biệt ấy nghĩa là một bên. Nói phân biệt khác nhau là bên thứ hai. Không phải các Bồ-tát hành theo hữu biên hay vô biên; nếu các Bồ-tát đối với hữu biên vô biên đều không có sự hành thì các Bồ-tát cũng không thấy giữa; nếu người thấy giữa tức hành ở giữa; nếu người hành giữa tức hành ở bên. Không phải giữa có hành, có hiện, có bày rõ vì xa lìa tướng của hành vậy.
Này Thiện Dũng Mãnh, nói ở giữa phải biết là tám chi Thánh đạo. Thánh đạo như vậy đối với tất cả pháp hoàn toàn không sự sở đắc mà hiện hữu. Thánh đạo như vậy đối với tất cả pháp hoàn toàn không sự thấy mà hiện hữu.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu khi nào đối với pháp không tu tập không trừ bỏ, bấy giờ gọi là đạo của chấm dứt. Đạo của chấm dứt đối với tất cả pháp, không tu tập không từ bỏ, vượt qua sự tu tập từ bỏ, chứng thật tánh bình đẳng tất cả pháp. Do chứng của thật tánh bình đẳng các pháp, tướng đạo còn không có huống chi thấy có đạo.
Này Thiện Dũng Mãnh, đạo chấm dứt ấy nghĩa là Bí-sô A-la-hán lậu tận. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, đạo trừ bỏ ấy không phải tu, không phải từ bỏ nên gọi là từ bỏ. Từ bỏ ấy cũng không gọi là từ bỏ. Vì tu tập từ bỏ nên gọi là từ bỏ.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu có tu tập, từ bỏ có sự sở đắc thì không gọi là từ bỏ. Từ bỏ ở trong đây nghĩa là từ bỏ tánh tu, trong đây không tu nên gọi là từ bỏ. Vì tu tập không còn nên từ bỏ cũng không có. Dù là nói vậy nhưng không phải như đã nói. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, từ bỏ không thể nói lìa tánh từ bỏ vậy. Lại lìa pháp nào? Nghĩa là pháp điên đảo không phát sinh trở lại và pháp không thật không phát sinh trở lại.
Này Thiện Dũng Mãnh, không phải các điên đảo có thể phát sinh điên đảo. Bởi vì điên đảo ấy không thật có sự phát sinh chẳng phải ở trong ấy có thật sự phát sinh. Nếu ở trong ấy có thật phát sinh thì không gọi điên đảo. Vì không thật phát sinh nên gọi điên đảo.
Này Thiện Dũng Mãnh, các chúng Bồ-tát tùy theo sự giác ngộ các pháp mà lìa các điên đảo. Vì sao? Các chúng Bồ-tát hiểu rõ điên đảo đều không thật có. Nghĩa là trong điên đảo không có tánh điên đảo. Do biết điên đảo thật không có thật, không phải trong điên đảo có tánh điên đảo vậy.
Nói các Bồ-tát tùy sự giác ngộ các pháp là lìa các điên đảo do giác ngộ các pháp lìa các điên đảo nên không còn đối với pháp lại sinh điên đảo. Nếu trong đây không còn điên đảo thì đối với pháp này cũng không sự tu hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, tất cả điên đảo đều có sự hành động, do có sự hành động thì có sự đồng pháp khởi. Sự hành động cũng phát khởi đều do điên đảo hư dối phân biệt. Các chúng Bồ-tát đối với sự hành theo pháp đều không phân biệt cũng cùng phát khởi, nên gọi là xa lìa điên đảo. Do không điên đảo thời không sự hành. Do không sự hành thì không có sự sinh, nên nói Bồ-tát hành không sự hành. Không có sự hành ấy nghĩa là đối với các pháp hoàn toàn không sự hành, cũng không xem xét, cũng không trình bày có tướng của sự hành. Cho nên nói Bồ-tát hành không sự hành. Nếu có thể hành được không có sự hành như thế là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên sắc là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, hành không duyên thọ, tưởng, hành, thức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát này biết tánh các đối tượng được duyên là xa lìa. Nếu biết tánh các đối tượng được duyên kia xa lìa thì không có sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên mắt là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Hành không duyên tai, mũi, lưỡi, thân, ý là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, các Bồtát biết tánh các đối tượng duyên không phải là thật. Nếu biết tánh các đối tượng duyên kia không phải là thật thì không sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên sắc là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Hành không duyên thanh, hương, vị, xúc, pháp là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát biết các đối tượng duyên do điên đảo phát sinh ra, nếu do điên đảo phát sinh thì không chân thật. Nếu biết tánh của đối tượng duyên do điên đảo phát sinh không phải chân thật thì không có sở hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên mắt là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, hành không duyên tai, mũi, lưỡi, thân, ý thức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát biết các đối tượng duyên đều là hư dối.
Nếu biết đối tượng duyên đều là hư dối thì không có sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên danh sắc là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát biết tánh các đối tượng duyên và không phải đối tượng duyên. Nếu biết tánh đối tượng duyên và không phải đối tượng duyên thì không có sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên ngã, hữu tình... là hành Bát-nhã ba-la-mậtđa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát như thật biết tánh chất của tưởng về ngã, hữu tình... là không chân thật. Nếu có thể biết tánh của tưởng về ngã, hữu tình... là không chân thật thì đối với các hành hoàn toàn không sự hành. Nếu đối với các hành hoàn toàn không sự hành thì lìa các hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát không hành tưởng ngã tưởng hữu tình cho đến tưởng người biết, tưởng người thấy là hành Bát-nhã ba-la-mậtđa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát từ bỏ tất cả tưởng. Nếu người có thể trừ bỏ tất cả tưởng thì đối với các tưởng đều không có sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu các Đại Bồ-tát không hành điên đảo, kiến chấp, các triền cái là hành Bátnhã ba-la-mật-đa. Hành không duyên điên đảo, kiến chấp, các triền cái là hành Bát-nhã ba-la-mậtđa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát này biết các điên đảo, thấy các triền cái, đối tượng làm duyên không thật có. Nếu biết điên đảo, thấy triền cái, sự hành đều không thật có, thì không có sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành chẳng duyên với duyên khởi là hành Bát-nhã ba-la-mậtđa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát này biết rõ về duyên khởi và đối tượng duyên kia. Nếu các Bồ-tát biết rõ về duyên khởi và đối tượng duyên kia thì không có sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc là hành Bát-nhã bala-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát này có thể trừ bỏ được tất cả đối tượng làm duyên trong ba cõi. Nếu các Bồ-tát có thể trừ bỏ được tất cả đối tượng làm duyên trong ba cõi thì không có sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên bố thí, xan tham, phạm giới giữ giới, nhẫn nhục, giận dữ, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, Bát-nhã, ác tuệ, là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát biết rõ về sự duyên bố thí, xan tham cho đến Bát-nhã, ác tuệ.
Nếu các Bồ-tát biết rõ tất cả đối tượng làm duyên như vậy thì không sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên, không điên đảo, Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, năm Căn, năm Lực, Giác chi, Đạo chi, Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí, vô lượng Thần thông... là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát đối với các đối tượng duyên hiểu rõ tự tại, cũng có thể trừ bỏ được. Nếu các Bồ-tát đối với các đối tượng làm duyên mà tự tại hiểu rõ cũng có thể trừ bỏ được thì không có sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát không duyên bốn chân lý Khổ, Tập, Diệt, Đạo là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát này trừ bỏ sự duyên Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Nếu có thể trừ bỏ được sự duyên thì không có sự trừ bỏ cũng không có sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên giải thoát là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát trừ bỏ được tất cả đối tượng duyên giải thoát. Nếu có thể trừ bỏ các sự duyên giải thoát thì không sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên, tận cùng không sinh, không tạo tác là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát trừ bỏ được tất cả sự duyên không sinh, không tạo tác. Nếu có thể trừ bỏ các sự duyên này thì không có sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát trừ bỏ được tất cả sự duyên địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Nếu có thể trừ bỏ các sự duyên này thì không có sở hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Phật địa là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát trừ bỏ được tất cả sự duyên Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Phật địa. Nếu các Bồtát có thể trừ khiển tất cả sự duyên Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Phật địa thì không sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Phật là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát trừ bỏ được tất cả sự duyên Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Phật. Nếu các Bồ-tát có thể trừ bỏ tất cả sự duyên pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Phật thời không sự hành, nên nói Bồtát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên Niết-bàn là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát này biết tất cả sự duyên Niết-bàn. Nếu các Bồ-tát biết tất cả sự duyên Niết-bàn thời không sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên tướng hảo thanh tịnh là hành Bát-nhã ba-lamật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát trừ bỏ được tất cả sở duyên tướng hảo thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát có thể trừ bỏ tất cả sự duyên tướng hảo thanh tịnh thì không sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên thanh tịnh cõi Phật là hành Bát-nhã ba-lamật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát này trừ bỏ được tất cả sở duyên thanh tịnh cõi Phật. Nếu các Bồ-tát có thể trừ bỏ được tất cả sự duyên thanh tịnh cõi Phật thời không sự hành, nên nói Bồtát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên công đức viên mãn của Thanh văn là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát trừ bỏ được tất cả sự duyên công đức viên mãn của Thanh văn. Nếu các Bồ-tát có thể trừ bỏ được sự duyên công đức viên mãn của Thanh văn thời không sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu Đại Bồ-tát hành không duyên với công đức viên mãn của Bồ-tát là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát này trừ bỏ được tất cả sự duyên công đức viên mãn của Bồ-tát. Nếu các Bồ-tát có thể trừ bỏ được tất cả sự duyên công đức viên mãn của Bồ-tát thì không sự hành, nên nói Bồ-tát hành không sự hành.
Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát có thể hành được như vậy vì để hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu các Bồ-tát có thể hành được Bát-nhã ba-lamật-đa thì biết khắp tất cả đối tượng duyên mà hành, trừ bỏ tất cả sự duyên mà hành.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào có thể hành như vậy thì không bản tánh sự thanh tịnh của sắc để hành, cũng không duyên vào sự thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì Đại Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về đối tượng của sắc cho đến thức bản tánh đều thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát có thể hành được như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, các Đại Bồ-tát nào hành như vậy tức là không duyên vào sự thanh tịnh của nhãn để hành, cũng không duyên vào thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì Đại Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về đối tượng của nhãn cho đến ý bản tánh đều thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát có thể hành được như vậy tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát có thể hành như vậy là không duyên vào thanh tịnh của sắc để hành, cũng không duyên vào thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì Đại Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về đối tượng của sắc cho đến pháp bản tánh đều thanh tịnh. Nếu Đại Bồ-tát có thể hành như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào có thể hành như vậy thì không duyên vào thanh tịnh của nhãn thức để hành, cũng không duyên vào thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì Đại Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về đối tượng của nhãn thức cho đến ý thức bản tánh đều thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát hành như vậy tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, các Đại Bồ-tát nào có thể hành như vậy là không duyên vào thanh tịnh của danh sắc để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về đối tượng của danh sắc bản tánh đều thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát hành như vậy là hành Bát-nhã ba-lamật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, Đại Bồ-tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào thanh tịnh của ngã để hành, cũng không duyên vào thanh tịnh của hữu tình, người sống, người sinh, người nuôi dưỡng, người tạo tác, thân do ý sinh, tuổi trẻ, người làm, người sai làm, người phát khởi, người khiến phát khởi, người nhận, người sai nhận, người biết, người sai biết, người thấy, người sai thấy để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về đối tượng của ngã cho đến người sai thấy đã bản tánh đều thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát hành như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào thanh tịnh của điên đảo để hành, cũng không duyên vào thanh tịnh của kiến chấp và các triền cái để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì Đại Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về đối tượng của điên đảo, kiến chấp và các triền cái bản tánh đều thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát hành như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào thanh tịnh của duyên khởi để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về đối tượng của duyên khởi bản tánh đều thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát hành như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào thanh tịnh của cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về bản tánh đối tượng của cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc đều thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát hành như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào thanh tịnh của bố thí, xan tham để hành, cũng không duyên vào thanh tịnh của giữ giới, phạm giới, an nhẫn, sân giận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về bản tánh đối tượng của bố thí, xan tham cho đến trí tuệ, ác tuệ đều thanh tịnh. Nếu các Bồtát hành được như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào thanh tịnh của Địa giới để hành, cũng không duyên vào thanh tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về bản tánh đối tượng của địa giới cho đến thức giới đều thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát hành như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào thanh tịnh của quá khứ, vị lai, hiện tại để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về bản tánh đối tượng của quá khứ, vị lai, hiện tại đều thanh tịnh. Các Bồ-tát nào hành được như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát có thể hành như vậy tức là không duyên vào thanh tịnh của không chấp trước để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về bản tánh đối tượng của không chấp trước đều thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát hành được như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát có thể hành như vậy tức là không duyên vào thanh tịnh của Niệm trụ để hành, cũng không duyên vào thanh tịnh của Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo, vô lượng, thần thông để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về bản tánh đối tượng của niệm trụ cho đến thần thông đều thanh tịnh. Nếu các Đại Bồ-tát hành được như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào thanh tịnh của Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về bản tánh đối tượng của Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí đều thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát hành được như vậy là hành Bát-nhã bala-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào thanh tịnh của Minh và Giải thoát để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về bản tánh đối tượng của Minh và Giải thoát đều thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát hành được như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào có thể hành như vậy là không duyên vào thanh tịnh của Tận trí, Vô sinh trí, trí Nhất thiết để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về bản tánh đối tượng của Tận trí, Vô sinh trí, trí Nhất thiết đều thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát hành được như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào thanh tịnh của tất cả hữu tình, các pháp để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát ấy đã biết trọn vẹn về bản tánh đối tượng của tất cả hữu tình, các pháp đều thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát hành như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào thanh tịnh của tất cả để hành. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát ấy đã thông đạt của tất cả đối tượng bản tánh đều thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát thông đạt bản tánh của tất cả đối tượng đều thanh tịnh thì đã hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành như vậy thì không thấy đây là sắc cho đến thức, đây là do sắc cho đến thức, đây là thuộc vào sắc cho đến thức, đây là từ sắc cho đến thức. Các Bồ-tát ấy không thấy pháp của sắc... như thế, không đối với sắc... không cao, không thấp, không sinh, không diệt, không hành, không quán, đối với pháp mà sắc... duyên vào cũng không hành, không quán. Nếu các Bồ-tát hành như vậy là hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát có thể hành như vậy thì không thấy đây là nhãn cho đến ý, đây là do nhãn cho đến ý, đây là thuộc nhãn cho đến ý, đây từ nhãn cho đến ý, Bồ-tát ấy thấy pháp của nhãn... Như vậy thì đối với nhãn... thấy không cao, không thấp, không sinh, không diệt, không hành, không quán và đối với cảnh mà nhãn... duyên vào cũng không hành, không quán. Nếu các Bồ-tát hành như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát có thể hành như vậy thì không thấy đây là sắc cho đến pháp, đây là do sắc cho đến pháp, đây thuộc sắc cho đến pháp, đây từ sắc cho đến pháp. Các Bồ-tát ấy thấy pháp của sắc... như thế, thì đối với sắc... thấy không cao, không thấp, không sinh, không diệt, không hành, không quán và cũng không hành, không quán về đối tượng mà sắc... duyên vào. Nếu các Bồ-tát hành được như vậy là hành Bát-nhã bala-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát có thể hành như vậy thì không thấy đây là nhãn thức cho đến ý thức, đây là do nhãn thức cho đến ý thức, đây thuộc vào nhãn thức cho đến ý thức, đây từ nhãn thức cho đến ý thức. Các Bồ-tát này không thấy pháp của nhãn thức..., như vậy thì đối với nhãn thức... thấy không cao, không thấp, không sinh, không diệt, không hành, không quán và cũng không hành, không quán về đối tượng mà nhãn thức... duyên vào. Nếu các Bồ-tát hành như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành như vậy thì không hành sắc là quá khứ, vị lai, hiện tại, cũng không hành thọ, tưởng, hành, thức là quá khứ, vị lai, hiện tại; không hành nhãn là quá khứ, vị lai, hiện tại, cũng không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là quá khứ, vị lai, hiện tại; không hành sắc là quá khứ, vị lai, hiện tại, cũng không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp là quá khứ, vị lai, hiện tại; không hành nhãn thức là quá khứ, vị lai, hiện tại, cũng không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là quá khứ, vị lai hay hiện tại. Nếu các Bồ-tát hành được như vậy tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành như vậy thì không hành sắc là ngã, ngã sở, cũng không hành thọ, tưởng, hành, thức là ngã, ngã sở; không hành nhãn là ngã, ngã sở, cũng không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là ngã, ngã sở; không hành sắc là ngã, ngã sở, cũng không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp là ngã, ngã sở; không hành nhãn thức là ngã, ngã sở, cũng không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là ngã, ngã sở. Nếu các Bồ-tát hành như vậy tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành như vậy tức là không hành sắc là khổ, là lạc, cũng không hành thọ, tưởng, hành, thức là lạc, là khổ..., không hành nhãn là lạc, là khổ..., cũng không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là lạc, là khổ...; không hành sắc là lạc, là khổ..., cũng không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp là lạc, là khổ...; không hành nhãn thức là lạc, là khổ..., cũng không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là lạc, là khổ... Nếu các Bồ-tát hành được như vậy tức là hành Bát-nhã bala-mật-đa.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành như vậy là không hành sắc thuộc ngã chứ chẳng phải gì khác, cũng không hành thọ, tưởng, hành, thức thuộc ngã chứ chẳng phải gì khác; không hành nhãn thuộc ngã chứ chẳng phải gì khác, cũng không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thuộc ngã chứ chẳng phải gì khác; không hành sắc thuộc ngã chẳng phải gì khác, cũng không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp thuộc ngã chứ chẳng phải gì khác; không hành nhãn thức thuộc ngã chẳng phải gì khác, cũng không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức thuộc ngã chứ chẳng phải gì khác. Nếu các Bồ-tát hành được như vậy tức là hành Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mà đối với sắc cho đến thức không hành tập, không hành diệt, không hành sâu, không hành cạn, không hành không, không hành bất không, không hành hữu tướng, không hành vô tướng, không hành hữu nguyện, không hành vô nguyện, không hành có tạo tác, không hành không có tạo tác. Đối với nhãn cho đến ý cũng không hành tập, không hành diệt, không hành sâu, không hành cạn, không hành không, không hành bất không, không hành hữu tướng, không hành vô tướng, không hành hữu nguyện, không hành vô nguyện, không hành có tạo tác, không hành không có tạo tác.
Đối với sắc cho đến pháp cũng không hành tập, không hành diệt, không hành sâu, không hành cạn, không hành không, không hành bất không, không hành hữu tướng, không hành vô tướng, không hành hữu nguyện, không hành vô nguyện, không hành có tạo tác, không hành không có tạo tác. Đối với nhãn thức cho đến ý thức cũng không hành tập, không hành diệt, không hành sâu, không hành cạn, không hành không, không hành bất không, không hành hữu tướng, không hành vô tướng, không hành hữu nguyện, không hành vô nguyện, không hành có tạo tác, không hành không có tạo tác. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì tất cả các pháp ấy đều có ỷ lại, động chuyển, hý luận và luyến ái. Nghĩa là đối với điều này Ta có thể hành bằng động chuyển như vậy, đối với điều này ta hành bằng hý luận như vậy, do điều này mà ta hành bằng luyến ái như vậy. Dựa vào điều này mà ta hành bằng ỷ lại như vậy. Trong đó, Bồ-tát biết rõ tất cả ỷ lại, động chuyển, hý luận, luyến ái nên giảm đi sự không biết, làm cho không còn chỗ nương tựa, vì không còn chỗ nương tựa nên hoàn toàn không có sự hành, cũng không có chứa giữ; vì không có chứa giữ nên không bị trói buộc, cũng không lìa sự trói buộc. Do đó mà không có sự phát khởi và không theo sự phát khởi đó. Bồ-tát nào làm giảm đi sự ỷ lại ấy là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì đối với sắc cho đến thức không hành thường hay vô thường, không hành lạc hay vô lạc, không hành ngã hay vô ngã, không hành tịnh hay bất tịnh, không hành không hay bất không, không hành như huyễn, không hành như mộng, không hành như bóng phản chiếu, không hành như tiếng vọng trong hang.
Đối với nhãn cho đến ý cũng không hành thường hay vô thường, không hành theo lạc hay vô lạc, không hành ngã hay vô ngã, không hành tịnh hay bất tịnh, không hành không hay bất không, không hành như huyễn, không hành như mộng, không hành như bóng phản chiếu, không hành như tiếng vọng trong hang.
Đối với sắc cho đến pháp cũng không hành thường hay vô thường, không hành theo lạc hay vô lạc, không hành ngã hay vô ngã, không hành tịnh hay bất tịnh, không hành không hay bất không, không hành như huyễn, không hành như mộng, không hành như bóng phản chiếu, không hành như tiếng vọng trong hang.
Đối với nhãn thức cho đến ý thức cũng không hành thường hay vô thường, không hành theo lạc hay vô lạc, không hành ngã hay vô ngã, không hành tịnh hay bất tịnh, không hành không hay bất không, không hành như huyễn, không hành như mộng, không hành như bóng phản chiếu, không hành như tiếng vọng trong hang. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì các pháp ấy có tầm, có tứ, có hành, có quán. Trong đây nếu Bồ-tát biết rõ tất cả có tầm, có tứ, có hành, có quán để dẹp tất cả hành và biết trọn vẹn về các hành mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì đó là giảng nói các hạnh của Bồtát.
Bấy giờ, Bồ-tát Thiện Dũng Mãnh bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa thật chẳng thể nghĩ bàn.
Phật dạy Thiện Dũng Mãnh:
–Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông vừa nói.
Này Thiện Dũng Mãnh, vì sắc cho đến thức chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì nhãn cho đến ý chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì sắc cho đến pháp chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì nhãn thức cho đến ý thức chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì danh sắc chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì duyên khởi chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì tạp nhiễm chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì nghiệp quả chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì điên đảo, kiến chấp và các triền cái chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì hữu tình, người sống, người sinh, người nuôi dưỡng, người tạo tác, cái ta, thân do ý sinh, tuổi trẻ, người làm, người sai làm, người phát khởi, người khiến phát khởi, người nhận, người sai nhận, người biết, người sai biết, người thấy, người sai thấy chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì hữu tình giới, pháp giới chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì bố thí, xan tham; giữ giới, phạm giới; an nhẫn, sân giận; tinh tấn, giải đãi; tĩnh lự, tán loạn; trí tuệ, ác tuệ chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì tham, sân, si chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì Vô lượng, Thần thông chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì Khổ, Tập, Diệt, Đạo chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì minh và giải thoát chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì trí Tận, trí Vô sinh, trí Vô tạo tác chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật địa chẳng thể nghĩ bàn nên Bồtát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì pháp của Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì trí quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì trí Vô trước chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì Niếtbàn chẳng thể nghĩ bàn nên Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì Phật, Pháp, Tăng bảo chẳng thể nghĩ bàn nên Bồtát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng phải do tâm sinh ra gọi là chẳng thể nghĩ bàn, cũng không phải tâm không sinh mà gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu nói rằng do tâm sinh thì đó là điên đảo, còn nói rằng tâm không sinh cũng là điên đảo. Nếu có thể thông đạt tâm và tâm sở đều là không sở hữu thì chẳng điên đảo.
Này Thiện Dũng Mãnh, chẳng phải bản tánh của tâm có sinh, có khởi, có tận, có diệt.
Này Thiện Dũng Mãnh, tương ưng với điên đảo nói rằng tâm, tâm sở có sinh, có khởi, có tận, có diệt.
Này Thiện Dũng Mãnh, nên biết trong đây tâm có thể khai thị, do điên đảo khởi cũng có thể khai thị.
Này Thiện Dũng Mãnh, kẻ phàm phu ngu si vì không thể hiểu rõ tâm có thể khai thị và không hiểu rõ do điên đảo phát sinh cũng có thể khai thị, do không hiểu rõ sự khai thị nên xa lìa tâm, không thể biết đúng, cũng không biết đúng đối tượng duyên là xa lìa, do đó mà chấp trước tâm là ngã, tâm là ngã sở, tâm vương là ngã, tâm do ngã mà sinh ra. Sau khi người kia chấp tâm như vậy, rồi lại chấp là thiện; hoặc chấp bất thiện; hoặc chấp là lạc, hoặc chấp là khổ; hoặc chấp là đoạn, hoặc chấp là thường; hoặc chấp là kiến chấp, hoặc chấp là các triền cái; hoặc chấp điên đảo; hoặc chấp bố thí, xan tham; giữ giới, phạm giới; an nhẫn, sân giận; tinh tấn, giải đãi; tĩnh lự, tán loạn; hoặc chấp trí tuệ, ác tuệ; hoặc chấp ba cõi; hoặc chấp duyên khởi; hoặc chấp danh sắc; hoặc chấp tham, sân, si; hoặc chấp tật đố, xan tham...; hoặc chấp ngã mạn...; hoặc chấp Khổ, Tập, Diệt, Đạo; hoặc chấp bốn đại, không và thức; hoặc chấp hữu tình, pháp giới; hoặc chấp Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo; hoặc chấp Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng chí, Đẳng trì; hoặc chấp Vô lượng, Thần thông; hoặc chấp minh và giải thoát; hoặc chấp trí Tận, trí Vô sinh; hoặc chấp trí Vô tạo tác; hoặc chấp Phật, Pháp, Tăng bảo; hoặc chấp địa vị Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật; hoặc chấp pháp của Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật; hoặc chấp Vô trước trí; hoặc chấp Bát-niết-bàn; hoặc chấp Phật trí; hoặc chấp các tướng tốt; hoặc chấp cõi Phật; hoặc chấp sự viên mãn của Thanh văn; hoặc chấp sự viên mãn của Bồ-tát; hoặc chấp các tạp nhiễm thanh tịnh khác.
Này Thiện Dũng Mãnh, đối với các pháp môn như vậy mà các chúng Bồ-tát không sinh tâm chấp trước, thấy biết các tâm, tâm sở pháp điên đảo do hữu tình đã tạo ra nên trong tất cả các hoàn cảnh nào cũng không phát sinh tâm điên đảo, cũng không nương vào tâm sinh ra các điên đảo. Vì sao? Chúng Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa xa lìa tâm, tâm sở pháp điên đảo chứng bản tánh của tâm thanh tịnh trong sáng, trong đó hoàn toàn không phát sinh tâm, tâm sở pháp.
Này Thiện Dũng Mãnh, kẻ phàm phu ngu si đối với cảnh đối tượng mà sinh tâm, tâm sở, rồi chấp có đối tượng, chấp có tất cả tâm và tâm sở. Các chúng Bồ-tát biết đối tượng và tâm, tâm sở pháp ấy đã phát sinh hoàn toàn không thật có cho nên không sinh tâm, tâm sở pháp. Nếu Bồ-tát quán tất cả tâm và tâm sở pháp như vậy thì được bản tánh thanh tịnh và trong sáng. Phàm phu ngu si thì điên đảo vọng sinh tạp nhiễm nên nghĩ như vầy: “Do duyên vào cảnh nên sinh ra tâm, tâm sở.” Khi biết rõ cảnh đã duyên không thật có thì tâm, tâm sở pháp đều không sinh được. Đã không sinh thì cũng không trụ diệt vì bản tánh của tâm, tâm sở pháp thanh tịnh trong sáng, lìa các tạp nhiễm thanh tịnh đáng ưa thích. Vì tánh của tâm không sinh cũng không trụ diệt, cũng không làm cho pháp có sinh, trụ... Chỉ kẻ phàm phu ngu si mới chấp việc này một cách sai lầm, còn Bồ-tát thì biết bản tánh của tâm, tâm sở không sinh cũng không trụ diệt nên tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu các Bồ-tát có thể hành như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Như vậy, khi hành Bồ-tát không nghĩ: “Ta hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nay ta nương vào đây mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, ta do đây mà hành Bátnhã ba-la-mật-đa, ta theo đây mà hành Bát-nhã bala-mật-đa.”
Có các Bồ-tát nghĩ như vầy: “Đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây do Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây là nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây thuộc vào Bát-nhã ba-la-mật-đa.” Nếu họ nghĩ như vậy thì chẳng phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đối với các Bát-nhã ba-la-mật-đa mà các Bồ-tát không thấy, không đắc nhưng hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì đó là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bấy giờ, Thiện Dũng Mãnh bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Bồ-tát nào hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa như vậy là hành vô thượng. Bồtát nào hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy là hành thanh tịnh. Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như vậy là hành trong sáng. Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy là hành không sinh. Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như vậy là hành không diệt. Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy là hành siêu xuất. Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa như vậy là hành khó bị thua nghĩa là đối với ác ma hoặc quyến thuộc của ma; hoặc hành có tướng, có sự sở đắc khác; hoặc ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, sự sinh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, sự tạo tác, sự thọ nhận, cái biết, cái thấy; hoặc có các kiến hoặc đoạn kiến, thường kiến, hoặc các uẩn kiến, hoặc các xứ kiến, hoặc các giới kiến; hoặc các Phật kiến, hoặc các Pháp kiến, hoặc các Tăng kiến, hoặc Niết-bàn kiến; chấp vào tướng chứng đắc mà tăng thượng mạn; hoặc làm theo tham, sân, si, hoặc làm theo điên đảo, triền cái, nếu vượt qua các con đường ấy để hướng đến thì không có ai thắng được. Cho nên Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vượt qua khỏi thế gian không ai sánh kịp rất tôn quý, rất thù thắng.
Bấy giờ, Thế Tôn dạy Thiện Dũng Mãnh:
–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-la-mật-đa vượt lên trên thế gian là người rất tôn quý, rất thù thắng, không ai sánh kịp. Tất cả ác ma hoặc quân chúng, quyến thuộc của ma, chư Thiên đều không thể thắng, cho đến tất cả các kiến chấp vào tánh tướng của Niếtbàn cũng không thể thắng. Những việc làm của tất cả phàm phu ngu si không thể nào thắng những việc làm mà Bồ-tát ấy đã làm.
Này Thiện Dũng Mãnh, kẻ phàm phu ngu si không thể có việc làm của Bồ-tát này, hàng hữu học, vô học, Thanh văn, Độc giác cũng không có. Này Thiện Dũng Mãnh, Thanh văn, Độc giác nào có việc làm này thì không nên gọi là Thanh văn, Độc giác mà nên gọi là Bồ-tát. Vị này sẽ được vô biên công đức... như bốn điều không sợ của Như Lai.
Này Thiện Dũng Mãnh, vì Thanh văn, Độc giác không có hành như vậy nên không gọi là Bồ-tát, không được vô biên công đức bốn điều không sợ của Như Lai.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa Bồ-tát hành là địa vị công đức như bốn điều không sợ… của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Các Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì có thể lấy sự chứng đắc bốn điều không sợ… để làm sự nghiệp. Nếu các Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa thì mau chứng đắc công đức như bốn điều không sợ của Như Lai.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát chưa chứng quả vị Giác ngộ cao tột mà nhờ sức đại nguyện hoặc sức hộ trì của chư Như Lai mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì mau được tiếp nhận vô biên công đức như bốn điều không sợ…
Này Thiện Dũng Mãnh, Thanh văn, Độc giác không thể nguyện cầu công đức bốn điều không sợ... của chư Như Lai. Chư Phật Thế Tôn cũng không hộ niệm để vị ấy chứng đắc bốn vô úy.
Này Thiện Dũng Mãnh, các chúng Bồ-tát nhờ sức đại nguyện và sức hộ trì của chư Như Lai nên có thể chứng đắc bốn điều không sợ... Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì các chúng Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa nhất định đạt được bốn sự hiểu biết thông suốt. Bốn sự hiểu biết thông suốt là gì? Đó là:
1. Nghĩa thông suốt.
2. Pháp thông suốt.
3. Từ thông suốt.
4. Biện thông suốt.
Đó gọi là bốn sự hiểu biết thông suốt. Các chúng Bồ-tát nào thành tựu bốn sự hiểu biết thông suốt này, mặc dù chưa chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột theo sự mong cầu nhưng nhờ sức đại nguyện thì có thể tiếp nhận công đức bốn điều không sợ... của chư Phật. Vì chư Phật Thế Tôn biết các vị ấy đã thành tựu căn lành về bốn sự hiểu biết thông suốt, biết các vị ấy đã đắc được địa vị công đức của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên dùng sức thần thông hộ niệm thêm để các vị ấy giữ gìn công đức về bốn điều không sợ... của chư Phật. Cho nên, Bồ-tát nào muốn cầu chứng đắc bốn sự hiểu biết thông suốt, muốn cầu giữ gìn công đức thiện căn của bốn điều không sợ... thì nên học Bát-nhã ba-lamật-đa, nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đừng có chấp trước.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, thông đạt các pháp dù là nhân, là tập, là khổ, là chìm đi, là tiêu diệt, không có một chút pháp nào mà không hợp với Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các Bồ-tát ấy như thật rõ biết tướng nhân, tập, diệt, đạo của các pháp.
Sau khi biết rõ tướng nhân, tập, diệt, đạo của các pháp rồi thì đối với sắc không tu, không bỏ; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng không tu không bỏ; đối với nhãn không tu không bỏ; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng không tu không bỏ; đối với sắc không tu không bỏ; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng không tu không bỏ; đối với nhãn thức không tu không bỏ; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức cũng không tu không bỏ; đối với danh sắc không tu không bỏ; đối với nhiễm tịnh không tu không bỏ; đối với duyên khởi không tu không bỏ; đối với điên đảo, kiến chấp, các triền cái, ái hành không tu cũng không bỏ. Đối với tham, sân, si không tu không bỏ; đối với cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc không tu không bỏ; đối với địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không tu không bỏ; đối với hữu tình giới, pháp giới không tu không bỏ; đối với hữu tình, người sống, người sinh, người nuôi dưỡng, người tạo tác, cái ta, thân do ý sinh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy không tu không bỏ; đối với đoạn kiến, thường kiến không tu không bỏ; đối với bố thí, xan tham; giữ giới, phạm giới; an nhẫn, sân giận; tinh tấn, giải đãi; tĩnh lự, tán loạn; trí tuệ, ác tuệ không tu không bỏ; đối với Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo không tu không bỏ; đối với Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí không tu không bỏ; đối với đoạn, điên đảo không tu không bỏ; đối với Khổ, Tập, Diệt, Đạo không tu không bỏ; đối với vô lượng, thần thông không tu không bỏ; đối với trí Tận, trí Vô sinh, trí Vô tạo tác không tu không bỏ; đối với địa vị phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật không tu không bỏ; đối với pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác Bồ-tát và Phật không tu không bỏ; đối với Thiền chỉ, Thiền quán không tu không bỏ; đối với Niếtbàn không tu không bỏ; đối với sự thấy biết về quá khứ, vị lai, hiện tại không tu không bỏ; đối với trí không nhiễm trước không tu không bỏ; đối với Phật trí không tu không bỏ; đối với công đức bốn điều không sợ... của chư Phật không tu không bỏ. Vì sao?
Này Thiện Dũng Mãnh, vì sắc không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ. Vì nhãn không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì sắc không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì nhãn thức không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức cũng không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì danh sắc không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì nhiễm tịnh không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì duyên khởi không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì điên đảo, kiến chấp, các triền cái, ái hành không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì tham, sân, si không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì hữu tình giới, pháp giới không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ. Vì hữu tình, người sống, người sinh, người nuôi dưỡng, người tạo tác, cái ta, thân do ý sinh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì đoạn kiến, thường kiến không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì bố thí, xan tham; giữ giới, phạm giới; an nhẫn, sân giận; tinh tấn, giải đãi; tĩnh lự, tán loạn; trí tuệ, ác tuệ không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì Niệm trụ, Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc,
Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì đoạn điên đảo không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì Khổ, Tập, Diệt, Đạo không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì Vô lượng, Thần thông không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì trí Tận, trí Vô sinh, trí Vô tạo tác không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì địa phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì chỉ, quán không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì Niết-bàn không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì trí kiến về quá khứ, vị lai, hiện tại không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì trí Vô trước không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì Phật trí không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ.
Vì công đức bốn điều không sợ... của chư Phật không có tự tánh nên không thể tu hay bỏ. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì không có một chút pháp tánh nào là thành thật trọn vẹn, vì tất cả đều do thế tục giả lập nên trong đó không có một chút tự tánh nào cả. Vì không có tự tánh nên chẳng phải thật có. Các pháp đều lấy không tánh làm tánh, cho nên các pháp không thật, không sinh. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì các pháp điên đảo đều chẳng thật có, các pháp đều do điên đảo mà sinh và các pháp điên đảo ấy đều không thật tánh. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì tất cả pháp đều lìa tự tánh. Nếu tìm cầu tự tánh thì hoàn toàn đều chẳng thể nắm bắt được, cho nên tất cả đều lấy không tánh làm tánh.
Này Thiện Dũng Mãnh, vì không tánh là không thật, không sinh nên gọi là không tánh. Đây là làm sáng tỏ của tánh không thật có nên gọi là không tánh. Nếu tánh chẳng thật có thì không thể tu cũng không thể bỏ, chỉ do điên đảo phát sinh nên chẳng thật có. Vì vậy mà không thể tu cũng không thể bỏ. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì tất cả các pháp lấy không tánh làm tánh, nếu xa lìa tự tánh thì chẳng phải vật thật, vì chẳng phải vật thật nên không tu không bỏ.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các chúng Đại Bồtát trụ ở trong pháp ấy mà thấy như thật thì đã tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa và đối với các pháp ấy không tu không bỏ thì gọi là tu Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát có thể thực hành như vậy, có thể trụ như vậy thì họ tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các chúng Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mà không khởi tướng tâm tương ưng với sắc, cũng không có tâm tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức.
Không có tướng tâm tương ưng với nhãn, cũng không có tướng tâm tương ưng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
Không có tướng tâm tương ưng với nhãn thức, cũng có tướng tâm tương ưng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.
Không có tướng tâm tương ưng với sắc, không có tướng tâm tương ưng với thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Không có tâm tương ưng với với hành động về sự gây hại, không có tâm tương ưng với hành động về sân giận, không có tâm tương ưng với hành động về xan tham, không có tâm tương ưng với hành động về phiền não, không có tâm tương ưng với hành động về phẫn nộ, không có tâm tương ưng với hành động giải đãi, không có tâm tương ưng với hành động về tán loạn, không có tâm tương ưng với hành động về ác tuệ, không có tâm tương ưng với hành động về dục kết sử, không có tâm tương ưng với hành động về sự chấp duyên sắc, không có tâm tương ưng với hành động về tham dục, không có tâm tương ưng với hành động về ly gián, không có tâm tương ưng với hành động về tà kiến, không có tâm tương ưng với hành động về sự chấp trước tài lợi và địa vị, không có tâm tương ưng với hành động về sự chấp trước phú quý, không có tâm tương ưng với hành động về dòng họ giàu hơn người, không có tâm tương ưng với hành động về chấp trước sự sinh thiên, không có tâm tương ưng với hành động về sự chấp trước cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc, không có tâm tương ưng với hành động về địa vị Thanh văn, không có tâm tương ưng với hành động về địa vị Độc giác, không có tâm tương ưng với hành động về sự chấp trước hạnh của các Bồ-tát cho đến không có tâm tương ưng với hành động về sự chấp trước kiến chấp Niếtbàn.
Các Đại Bồ-tát ấy thành tựu tâm thanh tịnh như vậy nên đối với các hữu tình mặc dù lòng tràn đầy Từ, Bi, Hỷ, Xả nhưng trừ bỏ tưởng hữu tình, không chấp và không trụ vào tưởng hữu tình; đối với bốn phạm trụ cũng không chấp trước nên thành tựu được phương tiện thiện xảo diệu tuệ. Nhờ thành tựu pháp như vậy nên vị ấy không chấp trước mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Vì các Bồ-tát ấy đã tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau viên mãn nên đối với các sắc không thủ không chấp. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng không thủ không chấp. Đối với nhãn không thủ không chấp. Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng không thủ không chấp. Đối với sắc không thủ không chấp. Đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng không thủ không chấp. Đối với nhãn thức không thủ không chấp. Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức cũng không thủ không chấp. Đối với danh sắc không thủ không chấp. Đối với nhiễm tịnh cũng không thủ không chấp. Đối với duyên khởi không thủ không chấp. Đối với điên đảo, kiến chấp, các triền cái, ái hành không thủ không chấp. Đối với tham, sân, si không thủ không chấp. Đối với Dục, Sắc và Vô sắc giới không thủ không chấp. Đối với địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thủ không chấp. Đối với hữu tình giới, pháp giới không thủ không chấp. Đối với hữu tình, người sống, người sinh, người nuôi dưỡng, người tạo tác, cái ta, thân do ý sinh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy không thủ không chấp. Đối với đoạn kiến, thường kiến không thủ không chấp. Đối với bố thí, xan tham; giữ giới, phạm giới; an nhẫn, sân giận; tinh tấn, giải đãi; tĩnh lự, tán loạn; trí tuệ, ác tuệ không thủ không chấp. Đối với Niệm trụ, Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo không thủ không chấp. Đối với Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí không thủ không chấp. Đối với Khổ, Tập, Diệt, Đạo không thủ không chấp. Đối với Vô lượng, Thần thông không thủ không chấp. Đối với trí Tận, trí Vô sinh, trí Vô tạo tác không thủ không chấp. Đối với địa phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật không thủ không chấp. Đối với pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật không thủ không chấp. Đối với Thiền chỉ, Thiền quán không thủ không chấp. Đối với cảnh giới Niết-bàn không thủ không chấp. Đối với trí kiến về quá khứ, vị lai, hiện tại không thủ không chấp. Đối với trí Vô trước không thủ không chấp. Đối với trí lực vô úy của Phật và vô biên Phật pháp không thủ không chấp. Đối với đoạn điên đảo, kiến chấp, triền cái... không thủ không chấp. Vì sao?
Này Thiện Dũng Mãnh, vì tất cả pháp không thể nắm lấy, không thể nhận giữ, cũng không có pháp nào có thể nắm lấy và không có pháp nào có thể nhận giữ. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì không có một chút pháp nào để nhận giữ, cũng không có một chút pháp nào có người nhận giữ. Vì sao thế? Vì người giữ lấy và pháp được giữ lấy cả hai đều chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì tất cả pháp đều không chắc thật, như huyễn. Vì tất cả pháp đều không tự tại, nên tánh của sự chắc thật chẳng thể nắm bắt được; vì tất cả pháp đều như bóng phản chiếu nên chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả pháp đều là hư ngụy không có tự tánh, vì tất cả các pháp như bọt tụ lại nên không thể rờ nắm được; vì tất cả pháp như bong bóng nước vừa nổi lên thì mất ngay; vì tất cả pháp như sóng nắng do điên đảo mà sinh; vì tất cả pháp đều như cây chuối, không có lõi cứng. Vì tất cả pháp như mặt trăng trong nước nên chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả pháp như cầu vồng do phân biệt hư vọng. Vì tất cả pháp đều không có tác dụng nên không thể phát sinh. Vì tất cả pháp đều như nắm tay rỗng không nên tánh, tướng nó không thật. Này Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát sau khi quán sát như vậy rồi, đối với tất cả pháp không thủ, không chấp, không trụ và không chấp trước.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát giữ gìn lòng tin sâu sắc với tất cả pháp, không còn chấp trước, không chấp chặt, không tham ái là đã hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành như vậy, trụ như vậy mà tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa thì mau được viên mãn.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, khi các Bồ-tát học như vậy là không học về sắc, không vì vượt qua sắc mà học; không học về thọ, tưởng, hành, thức, không vì vượt qua thọ, tưởng, hành, thức mà học.
Không học về sự sinh của sắc, không học về sự diệt của sắc; không học về sự sinh của thọ, tưởng, hành, thức cũng không học về sự diệt của thọ, tưởng, hành, thức.
Không vì điều phục sắc mà học, không vì không điều phục sắc mà học, không vì điều phục thọ, tưởng, hành, thức mà học, cũng không vì không điều phục thọ, tưởng, hành, thức mà học.
Không vì thu phục hay di chuyển sắc mà học, không vì hướng vào hay an trụ sắc mà học, không vì thu phục hay di chuyển thọ, tưởng, hành, thức mà học, cũng không vì hướng vào hay an trụ thọ, tưởng, hành, thức mà học.
Này Thiện Dũng Mãnh, khi các Bồ-tát học như vậy thì không học về nhãn, không vì vượt qua nhãn mà học; không học về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, không vì vượt qua nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý mà học.
Không học sự phát sinh của nhãn, không học sự tiêu diệt của nhãn; không học sự phát sinh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; không học sự tiêu diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
Không vì điều phục nhãn mà học, không vì không điều phục nhãn mà học, không vì điều phục nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý mà học, không vì không điều phục nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý mà học.
Không vì thu phục hay di chuyển nhãn mà học, không vì hướng vào hay an trụ nhãn mà học, không vì thu phục hay di chuyển nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý mà học, không vì hướng vào hay an trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý mà học.
Này Thiện Dũng Mãnh, khi các Bồ-tát học như vậy thì không học về sắc, không vì vượt qua sắc mà học; không học về thanh, hương, vị, xúc, pháp không vì vượt qua thanh, hương, vị, xúc, pháp mà học.
Không học sự phát sinh của sắc, không học sự tiêu diệt của sắc; không học sự phát sinh của thanh, hương, vị, xúc, pháp; không học sự tiêu diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Không vì sự điều phục sắc mà học, không vì không điều phục sắc mà học, không vì điều phục thanh, hương, vị, xúc, pháp mà học, không vì không điều phục thanh, hương, vị, xúc, pháp mà học.
Không vì thu phục hay di chuyển sắc mà học, không vì hướng vào hay an trụ sắc mà học, không vì thu phục hay di chuyển thanh, hương, vị, xúc, pháp mà học, không vì hướng vào hay an trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà học.
Này Thiện Dũng Mãnh, khi các Đại Bồ-tát học như vậy thì không học về nhãn thức, không vì vượt qua nhãn thức mà học; không học về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức, không vì vượt qua nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức mà học; không học sự phát sinh của nhãn thức, không học sự tiêu diệt của nhãn thức; không học sự phát sinh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức; không học sự tiêu diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.
Không vì điều phục nhãn thức mà học, không vì không điều phục nhãn thức mà học, không vì điều phục nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức mà học, không vì không điều phục nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức mà học.
Không vì thu phục hay di chuyển nhãn thức mà học, không vì hướng vào hay an trụ nhãn thức mà học, không vì thu phục hay di chuyển nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức mà học, không vì hướng vào hay an trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức mà học.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, khi các Bồ-tát học như vậy thì không học về sắc là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là không hay bất không, là ngã hay vô ngã; cũng không học về thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là không hay bất không, là ngã hay vô ngã.
Này Thiện Dũng Mãnh, khi các Bồ-tát học như vậy thì không học về nhãn là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là không hay bất không, là ngã hay vô ngã; cũng không học về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là không hay bất không, là ngã hay vô ngã.
Này Thiện Dũng Mãnh, khi các Bồ-tát học như vậy thì không học về sắc là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là không hay bất không, là ngã hay vô ngã; cũng không học về thanh, hương, vị, xúc, pháp là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là không hay bất không, là ngã hay vô ngã.
Này Thiện Dũng Mãnh, khi các Bồ-tát học như vậy thì không học về nhãn thức là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là không hay bất không, là ngã hay vô ngã; cũng không học về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là không hay bất không, là ngã hay vô ngã.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, khi các Bồ-tát học như vậy thì không duyên vào sắc là hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai hay hành thuộc hiện tại; cũng không duyên vào thọ, tưởng, hành, thức là hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai hay hành thuộc hiện tại.
Này Thiện Dũng Mãnh, khi các Bồ-tát học như vậy thì không duyên vào nhãn là hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai hay hành thuộc hiện tại; cũng không duyên vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai hay hành thuộc hiện tại.
Này Thiện Dũng Mãnh, khi các Bồ-tát học như vậy thì không duyên vào sắc là hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai hay hành thuộc hiện tại; cũng không duyên vào thanh, hương, vị, xúc, pháp là hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai hay hành thuộc hiện tại.
Này Thiện Dũng Mãnh, khi các Bồ-tát học như vậy thì không duyên vào nhãn thức là hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai hay hành thuộc hiện tại. Cũng không duyên vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai hay hành thuộc hiện tại.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát học như vậy mặc dầu lấy hành tướng của không tịch tĩnh, vô ngã để quán sát quá khứ, nhưng không không, tịch tĩnh vô ngã thuộc quá khứ; mặc dầu lấy hành tướng của không tịch tĩnh, vô ngã để quán sát vị lai, nhưng không cho sự hành về không, tịch tĩnh, vô ngã thuộc vị lai; mặc dầu lấy hành tướng của không tịch tĩnh vô ngã để quán sát hiện tại, nhưng không cho sự hành về không, tịch tĩnh vô ngã thuộc hiện tại.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành như vậy mặc dầu quán pháp quá khứ là không, vô ngã, vô ngã sở, vô thường, không thường còn, an trụ không lâu dài, bị thay đổi, nhưng không hành như vậy về quá khứ; mặc dầu quán pháp vị lai là không, vô ngã, vô ngã sở, vô thường, không thường còn, an trụ không lâu dài, bị thay đổi nhưng không hành như vậy về vị lai; mặc dầu quán pháp hiện tại là không, vô ngã, vô ngã sở, vô thường, không thường còn, an trụ không lâu dài, bị thay đổi nhưng không hành như vậy về hiện tại.
Này Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát nào hành được như vậy, trụ như vậy thì tu hành Bát-nhã bala-mật-đa mau được viên mãn.
Này Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát nào hành như vậy thì tất cả ác ma không làm hại được. Nếu Bồ-tát hành như vậy thì biết rõ ràng về việc làm của ác ma, không bị các ma sự làm tổn hại.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành như vậy thì không duyên vào sắc, cũng không duyên vào thọ, tưởng, hành, thức; không duyên vào nhãn, cũng không duyên vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; không duyên vào sắc, cũng không duyên vào thanh, hương, vị, xúc, pháp; không duyên vào nhãn thức cũng không duyên vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức; không duyên vào danh sắc; không duyên vào tạp nhiễm; không duyên vào điên đảo, kiến chấp, ái hành; không duyên vào tham, sân, si; không duyên vào ngã, hữu tình... không duyên vào đoạn, thường; không duyên vào biên, vô biên; không duyên vào cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc; không duyên vào duyên khởi, không duyên vào địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới; không duyên vào hữu tình giới, pháp giới; không duyên vào chắc thật, hư vọng; không duyên vào hữu hệ, ly hệ; không duyên vào tham, sân, si của đoạn diệt; không duyên vào bố thí, xan tham; giữ giới, phạm giới; an nhẫn, sân giận; tinh tấn, giải đãi; tĩnh lự, tán loạn; trí tuệ, ác tuệ; không duyên vào Niệm trụ, Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo; không duyên vào điên đảo và đoạn trừ...; không duyên vào Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí; không duyên vào Từ, Bi, Hỷ, Xả; không duyên vào Khổ, Tập, Diệt, Đạo; không duyên vào trí Tận, trí Vô sinh, trí Vô tạo tác; không duyên vào trí Vô trước; không duyên vào địa của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật, không duyên vào thần thông tri kiến, không duyên vào giải thoát; không duyên vào giải thoát tri kiến; không duyên vào Niết-bàn; không duyên vào tri kiến quá khứ, vị lai và hiện tại; không duyên vào trí, lực, vô úy... của Phật; không duyên vào cõi Phật thanh tịnh; không duyên vào tướng hảo thanh tịnh; không duyên vào sự viên mãn của Thanh văn, không duyên vào sự viên mãn của Độc giác, không duyên vào sự viên mãn của Bồ-tát. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì tất cả pháp chẳng phải đối tượng để duyên và vì tất cả pháp chẳng có thể duyên chẳng phải tất cả pháp có đối tượng để lấy mà đối với nó nói rằng có đối tượng để duyên.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu có đối tượng để duyên tức là có động tác tính toán chấp trước; nếu có chấp trước thì sẽ có sầu, bi, khổ, ưu, não.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu có đối tượng để duyên tức là bị trói buộc, không có đường thoát ly. Do đó, tất cả khổ não tăng trưởng. Này Thiện Dũng Mãnh, nếu có đối tượng để duyên tức là sự ỷ lại, động chuyển và hý luận, nếu có đối tượng để duyên tức là có những đấu tranh, kiện tụng; nếu có đối tượng để duyên tức là có những vô minh si ám; nếu có đối tượng để duyên tức là có sợ hãi; nếu có đối tượng để duyên tức là bị mắc bẫy và bị sự trói buộc của ma; nếu có đối tượng để duyên tức là có khổ bức bách và tìm cầu sự an lạc.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào quán sát thấy có những tai họa như vậy thì không duyên vào các pháp. Vì không có đối tượng để duyên vào tất cả các pháp nên không có sự nắm lấy, vì không nắm lấy nên không chấp giữ và không trụ vào tất cả các pháp. Bồ-tát tuy không có đối tượng để duyên như vậy nhưng đối với cảnh giới nhất định được tự tại. Mặc dầu đối với cảnh giới nhất định được tự tại nhưng không có ỷ lại, cũng không sự trụ.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát có thể hành như vậy thì không bị lệ thuộc vào tất cả pháp; không bị chấp trước và không bị tranh luận. Đối với tất cả pháp thì được an trụ không bị đắm nhiễm. Này Thiện Dũng Mãnh, nếu đối với các pháp của cảnh giới đối tượng các Bồ-tát ấy đều được ly hệ thì đã tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát nào hành như vậy và trụ như vậy thì tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa mau được viên mãn. Vì vậy, tất cả bọn ác không thể nào làm trở ngại được, cả quyến thuộc của quân ma cũng không thể nào khống chế được, có muốn tìm điều xấu của các vị cũng không thể nào có được, cũng không có cách nào quấy nhiễu, nhưng các vị ấy có thể thu phục được ma và quân ma, biết rõ tất cả việc của ma, không làm theo việc của ma, thiêu đốt làm chấn động các cung điện của ma, cũng có thể thu phục tất cả ngoại đạo nhưng không bị ngoại đạo thu phục; cũng có thể bẻ gãy tất cả các luận khác nhưng không bị các luận khác bẻ gãy.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào có thể hành như vậy tức là đối với sắc không có phân biệt, không phân biệt khác; đối với thọ, tưởng, hành, thức không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với nhãn không có phân biệt, không phân biệt khác; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với sắc không có phân biệt, không phân biệt khác; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với nhãn thức không có phân biệt, không phân biệt khác; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức không có phân biệt, không phân biệt khác.
Do đó mà các Bồ-tát đối với danh sắc không có phân biệt, không phân biệt khác; đối với các nhiễm tịnh không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với các duyên khởi không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với các điên đảo, kiến chấp, triền cái, ái hành không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với các đoạn, thường không có phân biệt, không phân biệt khác. Đối với cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với các hữu tình giới, pháp giới không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với tham, sân, si không có phân biệt và không phân biệt khác.
Đối với chắc thật, hư vọng không có phân biệt, không phân biệt khác. Đối với địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với hữu hệ, ly hệ không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với hữu tình, người sống, người sinh, người nuôi dưỡng, người tạo tác, cái ta, thân do ý sinh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với bố thí, xan tham; giữ giới, phạm giới; an nhẫn, sân giận; tinh tấn, giải đãi; tĩnh lự, tán loạn; trí tuệ, ác tuệ không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với Niệm trụ, Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với các điên đảo, đoạn trừ... không có phân biệt, không phân biệt khác. Đối với Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với Khổ, Tập, Diệt, Đạo không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với Từ, Bi, Hỷ, Xả không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với trí Tận, trí Vô sinh, trí Vô tạo tác không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với địa phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với thần thông trí kiến không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với trí kiến và không chấp trước không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với minh và giải thoát không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với giải thoát, giải thoát trí kiến không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với trí, lực, vô úy... của Phật không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với tướng hảo thanh tịnh không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với cõi Phật thanh tịnh không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với sự viên mãn của Thanh văn không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với sự viên mãn của Độc giác không có phân biệt, không phân biệt khác.
Đối với sự viên mãn của Bồ-tát không có phân biệt, không phân biệt khác.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu có phân biệt thì sẽ phân biệt khác; nếu trường hợp nào không có phân biệt thì trường hợp ấy không phân biệt khác. Kẻ phàm phu ngu si đều do phân biệt tạo ra và tư tưởng của họ cũng đều do phân biệt khác phát sinh, cho nên Bồ-tát không có phân biệt, không phân biệt khác.
Này Thiện Dũng Mãnh, nói phân biệt tức là bờ thứ nhất, nói phân biệt khác tức là bờ thứ hai. Đối với trường hợp nào không có phân biệt, không phân biệt khác thì đối với trường hợp ấy đã xa lìa hai bờ, cũng không có chính giữa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu nói có chính giữa cũng là phân biệt, mà phân biệt chính giữa cũng gọi là có bờ; đối với trường hợp nào có phân biệt thì đối với trường hợp ấy cũng sẽ có phân biệt khác. Do yếu tố này nên không thể đoạn trừ ý nghĩa phân biệt và phân biệt khác.
Nếu đối với trường hợp nào không phân biệt thì với trường hợp ấy sẽ không phân biệt khác. Do sự việc này mà có ý nghĩa đoạn trừ phân biệt và phân biệt khác.
Này Thiện Dũng Mãnh, Đoạn trừ phân biệt nghĩa là trong đó hoàn toàn không có gì để đoạn trừ cả. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì do sức phân biệt, phân biệt khác chỉ là hư vọng không thực có nên phát sinh điên đảo; nhưng vì nó tịch tĩnh nên điên đảo cũng không có; vì điên đảo không có nên hoàn toàn không có chỗ đoạn trừ.
Này Thiện Dũng Mãnh, vì không có sự đoạn trừ nên biết đã hiển bày khái niệm về đoạn trừ khổ. Nghĩa là trong đó không có một chút khổ nào để đoạn trừ nên gọi là đoạn trừ khổ.
Nếu tự tánh của khổ mà có một chút nào chân thật thì mới có thể đoạn trừ, nhưng tự tánh của khổ không có một chút gì là chân thật nên không có chỗ để đoạn trừ.
Nếu chỉ thấy khổ thì không thể gọi là đoạn trừ khổ, mà phải biết trọn vẹn về khổ hoàn toàn không có một chút phần tự tánh nào có thể nắm bắt được thì mới gọi là đoạn trừ khổ.
Nếu đối với các khổ hoàn toàn không còn phân biệt và phân biệt khác thì gọi là tịch tĩnh về khổ, tức là làm cho khổ không còn có điều kiện phát sinh nữa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát thấy như vậy thì đối với các pháp không còn phân biệt và phân biệt khác. Này Thiện Dũng Mãnh, đó gọi là Bồ-tát biết trọn vẹn tánh phân biệt và phân biệt khác mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát nào thực hành như vậy và giữ vững như vậy để tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa thì mau được viên mãn. Tất cả ác ma không thể nào làm chướng ngại họ được, chúng quân ma có làm việc gì các vị ấy đều biết rõ, làm việc gì cũng không tùy theo ma, ngược lại được tự tại khiến cho bọn ác ma tự nhiên lui tan, đánh bại bọn chúng làm cho ít dần. Thân tâm các vị ấy an nhiên không hề sợ hãi nên quân ác ma không thể nào quấy nhiễu được. Nhờ vậy, vị ấy chấm dứt tất cả nhân sinh về cõi ác, đoạn trừ và bít lấp những con đường tà trong thế gian, xa lìa các ám chướng, vượt qua dòng thác mạnh. Đối với tất cả pháp, được mắt thanh tịnh, đem lại ánh sáng lớn cho các loài hữu tình, nối dõi hưng thạnh dòng giống Phật để không bị đoạn tuyệt, chứng đắc đạo chân chánh đạo lý tánh bình đẳng, thương xót hữu tình mà có Pháp nhãn thanh tịnh, đầy đủ tinh tấn, xa lìa giải đãi, đạt được tâm an nhẫn và xa lìa sân giận, nhập thắng tĩnh lự không còn bị lệ thuộc; đắc được trí tuệ, thành tựu trí tuệ thông đạt, trừ bỏ các việc ác, xa lìa các triền cái, thoát khỏi bẫy rập của ác ma, chặt đứt lưới ái, an trú trong chánh niệm, không có quên mất, được giới thanh tịnh đến bờ tịnh giới, an trụ vào các công đức, xa lìa các tội lỗi, được sức định tuệ, không thể lay động, tất cả các phái luận khác không thể nào bẽ gãy được, được các pháp thanh tịnh vĩnh viễn không cho mất, giảng nói các pháp mà không có lo sợ, vào giữa đại chúng, tâm không rụt rè, bố thí diệu pháp không giấu tiếc, đem đạo lý bình đẳng làm sạch các đạo lộ, phát nguyện xa lìa tà đạo, tu những điều nên tu, đem các pháp thanh tịnh huân tập sâu vào những điều nên huân tập, đem trí tuệ thanh tịnh làm sạch những điều nên làm sạch, lòng độ lượng rộng sâu như biển lớn, trong lặng bất động khó mà lường được, biển pháp vô biên vượt ngoài số lượng.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành như vậy thì được thành tựu hạnh đó và vô biên các công đức khác. Công đức ấy khó lường được bờ của nó ngoài Phật Thế Tôn ra không ai có thể biết được.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy thì sắc đẹp không giảm, tài của và địa vị không giảm, quyến thuộc không giảm, nòi giống không giảm, gia tộc không giảm, quốc độ không giảm, không sinh nơi biên địa, không gặp chỗ nạn, không ở chung với hữu tình xấu ác, cũng không gần gũi lân cận với sự nghiệp nhơ nhuốc, tự tâm không thoái lui, trí tuệ không giảm sút, nghe và thọ nhận những pháp môn nơi người khác đều thể nhập vào pháp tánh bình đẳng, nối dõi hạt giống về trí Nhất thiết trí của Phật làm cho hưng thạnh mãi mà không bị đoạn mất.
Đối với pháp của chư Phật đã được ánh sáng và được gần gũi với trí Nhất thiết trí. Nếu có ác ma muốn đến chỗ của vị ấy để quấy nhiễu thì khiến cho ma và quyến thuộc của nó đều thành tro tàn, làm cho biện tài của chúng tan nát và võng lưới đều mất hẳn. Giả sử có câu-chi na và câu-chi quyến thuộc của chúng nó có đến quấy nhiễu, nhưng tâm của vị ấy không hề lay động. Khi ấy ác ma và quân chúng của nó đều kinh hãi lui tan và nghĩ rằng: “Bồ-tát này đã vượt qua cảnh giới của ta, vị ấy sẽ không thực hành điều gì trong cảnh giới của chúng ta, cũng không an trụ mà không hề đắm trước, ngược lại còn làm cho các hữu tình khác đều được ra khỏi cảnh giới của ta và mau giải thoát.”
Sau khi ác ma suy nghĩ như vậy buồn rầu ảo não, nói với nhau:
–Bồ-tát đã gây tổn hại đến bè đảng quyến thuộc của chúng ta, làm cho không còn thế lực nữa. Nói xong, bọn ác ma buồn khổ hối hận.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hội hợp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì khi ấy cung điện của ma đều mất oai lực ánh sáng, khắp mọi nơi từ từ phát ra tướng khói lửa. Ác ma kinh hãi buồn khổ và lo sợ giống như bị dao đâm vào tim, như trúng mũi tên độc, tất cả chúng đều than thở: “Bồ-tát này đang làm cho hữu tình không còn tiếp nhận sự khuyến dụ của chúng ta nữa.
Bồ-tát này sẽ làm cho hữu tình đi ra ngoài cảnh giới của chúng ta. Bồ-tát này sẽ làm hữu tình thoát khỏi cảnh giới của chúng ta. Bồ-tát này sẽ làm hữu tình không sống trong cảnh giới của chúng ta. Bồtát này sẽ làm cho hữu tình đoạn diệt cảnh giới của chúng ta. Bồ-tát này sẽ làm cho hữu tình phá hủy võng lưới của chúng ta. Bồ-tát này sẽ cứu hữu tình vĩnh viễn thoát khỏi các dục nhơ đục. Bồ-tát này sẽ làm cho hữu tình thoát khỏi lưới của các kiến chấp. Bồ-tát này sẽ làm cho hữu tình ra khỏi con đường tà của triền cái. Bồ-tát này an lập các hữu tình, làm cho họ được sống trong chánh đạo. Bồtát này dẫn các hữu tình vĩnh viễn ra khỏi rừng rậm của các kiến chấp.
Này Thiện Dũng Mãnh, các ác ma thấy Bồ-tát này có pháp thù thắng và lợi ích như vậy nên buồn khổ ưu sầu giống như bị mũi tên đâm trúng vào tim, như người bị mất kho báu lớn mà âu sầu khổ não cùng cực. Vì ác ma ấy thân tâm hối hận như bị trúng mũi tên độc nên ưu sầu khổ não và ngày đêm kinh hoàng ngồi không yên.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tu Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, hội hợp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì lúc ấy ác ma tập trung lại một chỗ suy nghĩ và tìm cách để phá hoại Bồ-tát. Chúng nói với nhau: “Chúng ta sẽ lập mưu gì, làm sự việc gì để phá hoại chánh hạnh mà Bồ-tát này đã tu hành.”
Khi ấy, bọn ác ma nghi ngờ, mê loạn liền âu sầu khổ não như bị trúng mũi tên độc, chúng khuyến khích lẫn nhau cùng đến chỗ Bồ-tát để rình tìm chỗ sơ hở của vị ấy, làm cho vị ấy lo sợ mà thay đổi công việc. Nhưng nhờ sức oai thần của Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà thần lực của các ác mất hết, thậm chí bọn chúng không thể động đến đầu sợi lông của Bồ-tát, huống gì làm cho thân tâm của Bồ-tát thay đổi. Vì biết Bồ-tát đã không còn bị sự sợ hãi nên ác ma kinh hoàng rợn tóc gáy... Các ác ma lại tìm mọi cách để làm mê hoặc nhưng vì tâm thần bị suy yếu và lo sợ nên các kế hoạch của chúng đều thất bại. Khi ấy, ác ma vương liền nghĩ như vầy: “Ta còn không phá hoại được Bồ-tát này, huống gì quyến thuộc của ta hay những người khác làm sao có thể phá vị ấy được.” Nghĩ vậy xong, ác ma vương rất lo sợ cạn sức lực hết đường tính toán bèn quay trở về cung điện của mình sống trong sầu khổ.
Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đầy đủ oai lực lớn như vậy, quyến thuộc của ác ma còn không thể nào làm cho tâm vị ấy bị mê hoặc dù chừng khảy móng tay, huống gì có thể làm chướng ngại các việc khác.
Bồ-tát nào tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, thành tựu công đức trí tuệ và sức oai thần lớn như vậy, giả sử có các hữu tình trong thế giới ba lần ngàn đều biến thành ma, mỗi ác ma dẫn theo chúng ác ma như vậy vì muốn quấy nhiễu nên đến chỗ Bồ-tát và dùng hết thần lực của mình cũng không thể nào làm chướng ngại sự tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa của vị ấy. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì khi ấy Bồ-tát đã thành tựu sức đao kiếm của trí tuệ rất sâu xa cũng thành tựu năng lực trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn, không thể suy lường, không gì sánh bằng nên không bị bọn ác ma hung bạo chinh phục.
Này Thiện Dũng Mãnh, đao lớn gọi là đao trí tuệ; kiếm lớn gọi là kiếm trí tuệ. Đao lớn là đao trí tuệ nên Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là cảnh giới hoạt động của bọn ác ma.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, các ngoại đạo tu tiên đã đắc bốn Tĩnh lự, bốn Định vô sắc còn vượt khỏi cảnh giới của ác ma ở cõi Dục để sinh vào trong bốn cảnh giới Vô sắc của chư Phạm thiên, vậy mà đối với diệu trí ở thế gian mà Bồ-tát đã thành tựu còn chẳng phải trong cảnh giới hoạt động của họ, huống chi là đối với Bát-nhã ba-lamật-đa chân thật thì làm sao ác ma có thể hoạt động trong cảnh giới này được. Đối với diệu trí của những vị tiên nhân, ngoại đạo đã đắc được định Sắc, định Vô sắc còn chẳng phải cảnh giới của ác ma hoạt động, huống gì đối với Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Này Thiện Dũng Mãnh, khi nào Bồ-tát thành tựu Bát-nhã ba-la-mật-đa thì khi ấy Bồ-tát gọi là người thành tựu oai lực lớn. Nếu ai thành tựu oai lực Bát-nhã thì gọi là người thành tựu đao trí tuệ sắc bén: Nếu có ai thành tựu gươm Bát-nhã thì gọi là người thành tựu gươm trí tuệ sắc bén, cho nên các quân ma không thể nào chiến thắng được, ngược lại vị ấy có thể chiến thắng tất cả quân ma.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát thành tựu gươm kiếm sắc bén của Bát-nhã ba-lamật-đa, có đầy đủ oai lực lớn thì các vị ấy không nương tựa vào đâu cả, làm việc gì cũng không bị lệ thuộc. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, nếu có lệ thuộc thì có chuyển biến; nếu có chuyển biến thì có lay động; nếu có lay động thì có hý luận.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các hữu tình bị lệ thuộc, bị chuyển biến, lay động, hý luận thì hữu tình đó theo sức của ma mà hành nên chưa thoát khỏi cảnh giới của ma.
Này Thiện Dũng Mãnh, các hữu tình dù có sinh lên đến trời Hữu đảnh mà có chỗ lệ thuộc, bị lệ thuộc vào chỗ lệ thuộc, nếu nương tựa vào chỗ nương tựa thì vị ấy chắc chắn rơi trở lại vào cảnh giới của ác ma, chưa ra khỏi bẫy rập của ác ma nên bị ác ma trói buộc và bị theo sự thỏa thích của ác ma. Giống như Mãnh Hý Tử và A-la-trà-ca-đạt-ma Tử cùng tất cả tiên, nhân, ngoại đạo khác nương tựa vào vô sắc, lệ thuộc vào sự nương tựa và nơi nương tựa đó.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tu Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa, thân cận Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì các Bồ-tát ấy không bị lệ thuộc vào đâu cả và làm việc gì cũng không bị lệ thuộc.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát dũng mãnh tinh tấn tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa và tùy thuận an trụ thì lúc ấy Bồ-tát không bị lệ thuộc vào sắc, cũng không lệ thuộc vào thọ, tưởng, hành, thức. Không lệ thuộc vào nhãn; không lệ thuộc vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Không lệ thuộc vào sắc cũng không lệ thuộc vào thanh, hương, vị, xúc, pháp; không lệ thuộc vào nhãn thức, cũng không lệ thuộc vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức. Không lệ thuộc vào danh sắc; không lệ thuộc vào điên đảo, kiến chấp, các triền cái và các ái hành. Không lệ thuộc vào duyên khởi, không lệ thuộc vào cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. Không lệ thuộc vào cái ta, hữu tình, người sống, người sinh, người nuôi dưỡng, người tạo tác, thân do ý sinh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy và các tưởng khác; không lệ thuộc vào địa, thủy, hỏa, phong, không và thức giới; không lệ thuộc vào hữu tình giới, pháp giới; không lệ thuộc vào Sơ tĩnh lự cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ; không lệ thuộc vào hữu ái; không lệ thuộc vào vô hữu ái; không lệ thuộc vào kiến chấp đoạn, thường. Không lệ thuộc vào hữu tánh. Không lệ thuộc vào không tánh. Không lệ thuộc vào bố thí, xan tham; giữ giới, phạm giới; an nhẫn, sân giận; tinh tấn, giải đãi; tĩnh lự, tán loạn; trí tuệ, ác tuệ. Không lệ thuộc vào Niệm trụ, Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo. Không lệ thuộc vào đoạn, điên đảo...; không lệ thuộc vào Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí; không lệ thuộc vào Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Không lệ thuộc vào trí Tận, trí Vô sinh, trí Vô tạo tác; không lệ thuộc vào trí kiến không chấp trước; không lệ thuộc vào minh và giải thoát; không lệ thuộc vào địa phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồtát và Phật. Không lệ thuộc vào pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật. Không lệ thuộc vào Niết-bàn. Không lệ thuộc vào trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại. Không lệ thuộc vào tánh bình đẳng của ba đời. Không lệ thuộc vào trí, lực, vô sở úy của Phật. Không lệ thuộc vào trí Nhất thiết trí. Không lệ thuộc vào sự viên mãn của tướng hảo. Không lệ thuộc vào sự viên mãn của cõi Phật. Không lệ thuộc vào sự viên mãn của chúng Thanh văn. Không lệ thuộc vào sự viên mãn của chúng Bồ-tát. Không lệ thuộc vào vào tất cả pháp. Không lệ thuộc vào chuyển biến. Không lệ thuộc vào lay động. Không lệ thuộc vào hý luận.
Do vì không nương tựa nên trừ bỏ tất cả, cũng không chấp trước và không bị nương tựa vào đạo. Đối với việc không nương tựa cũng không chấp trước, cũng không đắc đây là nương tựa, cũng không đắc tại sự nương tựa này, cũng không đắc thuộc về sự nương tựa này, cũng không đắc vào sự nương tựa này.
Đối với sự nương tựa cũng không chấp trước. Nếu đối với các sự nương tựa như vậy mà Bồ-tát không nương tựa, không đắc, không chấp trước, không nắm giữ, không nói, không mừng, không vướng, không bị tất cả sự nương tựa làm ô nhiễm, cũng không bị trầm trệ chướng ngại thì vị ấy sẽ chứng được pháp thanh tịnh của sự nương tựa.
Này Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát này nương tựa vào tất cả pháp và nương tựa vào trí kiến vi diệu thanh tịnh để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhờ đó mà ác ma không thể làm hại được, cả quân của ác ma cũng không thể chiến thắng được, nhưng ngược lại các vị ấy có thể chiến thắng tất cả quân ma.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát chưa phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột thì trước tiên nên tích tập vô lượng, vô số tư lương căn lành, cúng dường nhiều Đức Phật, phục vụ nhiều bạn lành, thưa hỏi pháp yếu với nhiều Đức Phật, thích thực hành bố thí cho các hữu tình, tôn trọng, giữ gìn giới thanh tịnh, nhẫn nhục và hòa nhã với mọi người, tinh tấn dũng mãnh lìa bỏ các giải đãi, tôn trọng tu hành tĩnh lự trong sáng, cung kính tu học tuệ thanh tịnh thì đó là các Bồ-tát đã phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa, phải siêng năng tinh tấn tu học Bátnhã ba-la-mật-đa lấy sức trí tuệ để đánh bại các chúng ma và luôn nghĩ: “Đừng để ác ma rình tìm chỗ sơ hở của chúng ta mà làm những việc quấy nhiễu.”
Nhờ năng lực này khiến cho ác ma không thể nào làm hại, gây chướng ngại cho sự tu học của các vị cũng khiến cho ác ma không còn phát sinh tâm như vầy: “Chúng ta phải rình tìm chỗ sơ hở của các Bồ-tát ấy và làm nhiễu loạn để gây chướng ngại sự tu học của họ.”
Giả sử ác ma có khởi tâm ấy thì chúng sẽ tự biết ngay rằng làm như vậy chắc chắn sẽ gặp khổ lớn. Do đó, bọn chúng lo sợ: “Lúc này, chúng ta chớ có để tan thân mất mạng, hãy nên từ bỏ tâm quấy nhiễu ấy ngay.” Thế rồi, tâm xấu của ác ma biến mất.
Này Thiện Dũng Mãnh, nhờ sự việc này mà ác ma không làm chướng ngại sự học Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa của Bồ-tát.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa mà sinh tâm mong muốn thuần tịnh, y thích tăng thượng, thâm tâm tôn trọng, ngợi khen công đức và tưởng như Đại sư, nghe nói giáo pháp tương ưng với sáu pháp Ba-lamật-đa cũng không sinh tâm do dự hay nghi ngờ.
Nhờ nghe pháp sâu xa mà tâm không bị mê loạn; cũng không do dự và nghi ngờ, quyết không gây nhân tạo nghiệp thiếu pháp, cũng không phát tâm đưa đến quả báo thiếu pháp, ngược lại khuyến khích hướng dẫn vô lượng, vô biên hữu tình tin thọ tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, khen ngợi, động viên vô lượng, vô biên hữu tình làm cho họ tin thọ tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Các Bồ-tát ấy với thích ý đầu tiên thanh tịnh thì tất cả ý thích đều không bị tạp nhiễm, nên các quân ma không thể nào làm chướng ngại được không thể rình tìm được chỗ sơ hở của vị ấy. Vì tất cả việc làm của quân ma đều bị vị ấy biết rõ nên tất cả quân ma không thể nào xâm phạm được. Do đó các vị ấy không bị lệ thuộc sức lực của ác ma mà tu hành tự tại.
Này Thiện Dũng Mãnh, nhờ nhân duyên này mà các Bồ-tát ấy không bị quyến thuộc của ác ma quấy nhiễu nữa.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không hành sắc là tướng hợp, không hành sắc là tướng lìa. Không hành thọ, tưởng, hành, thức là tướng hợp, không hành thọ, tưởng, hành, thức là tướng lìa.
Không hành nhãn là tướng hợp, không hành nhãn là tướng lìa. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng hợp, không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng lìa.
Không hành sắc là tướng hợp, không hành sắc là tướng lìa. Không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng hợp, không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng lìa.
Không hành nhãn thức là tướng hợp, không hành nhãn thức là tướng lìa. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là tướng hợp, không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là tướng lìa.
Không hành tướng của sắc là tướng hợp hay lìa; không hành tướng của thọ, tưởng, hành, thức là tướng hợp hay lìa.
Không hành tướng của nhãn là tướng hợp hay lìa; không hành tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng hợp hay lìa.
Không hành tướng của sắc là tướng hợp hay lìa; không hành tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng hợp hay lìa.
Không hành tướng của nhãn thức là tướng hợp hay lìa; không hành tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng hợp hay lìa.
Không hành sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành thọ, tưởng, hành, thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành nhãn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành nhãn thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành duyên với sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành duyên với thọ, tưởng, hành, thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành duyên với nhãn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành duyên với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành duyên với sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành duyên với thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành duyên với nhãn thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành duyên với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành sự phát sinh của sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành sự phát sinh của thọ, tưởng, hành, thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành sự phát sinh của nhãn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành sự phát sinh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành sự phát sinh của sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành sự phát sinh của thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành sự phát sinh của nhãn thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành sự phát sinh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành duyên với tự tánh của sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành duyên với tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành duyên với tự tánh của nhãn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành duyên với tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành duyên với tự tánh của sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành duyên với tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành duyên với tự tánh của nhãn thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành duyên với tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành bản tánh của sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành bản tánh của nhãn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành bản tánh của sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành bản tánh của nhãn thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành duyên với bản tánh của sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành duyên với bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành duyên với bản tánh của nhãn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành duyên với bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành duyên với bản tánh của sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành duyên với bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành duyên với bản tánh của nhãn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành duyên với bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành thọ, tưởng, hành, thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành nhãn của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành nhãn thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành duyên với sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành duyên với thọ, tưởng, hành, thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành duyên với nhãn của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành duyên với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành duyên với sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành duyên với thanh, hương, vị, xúc, pháp của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Không hành duyên với nhãn thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành duyên với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành như vậy thì đối với sắc không hợp hay không lìa, cũng không hợp hay không lìa với thọ, tưởng, hành, thức. Không hợp hay lìa với nhãn, cũng không hợp hay lìa với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Không hợp hay lìa với sắc, cũng không hợp hay lìa với thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không hợp hay lìa với nhãn thức, cũng không hợp hay lìa với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức. Không hợp hay lìa với danh sắc, cũng không hợp hay lìa với điên đảo, kiến chấp, ác triền cái và các ái hành. Không hợp hay lìa với Dục giới, Sắc giới. Vô sắc giới, không hợp hay lìa với tham, sân, si. Không hợp hay lìa với hữu tình, người sống, người sinh, người nuôi dưỡng, cái ta, thân do ý sinh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy và có tưởng hay không có tưởng. Không hợp hay lìa với đoạn kiến, thường kiến. Không hợp hay lìa giới, xứ; không hợp hay lìa với hữu tình giới, pháp giới; không hợp hay lìa với địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Không hợp hay lìa với duyên khởi; không hợp hay lìa với năm dục; không hợp hay lìa với tạp nhiễm hay thanh tịnh. Không hợp hay lìa với bố thí, xan tham; giữ giới, phạm giới; an nhẫn, sân giận; tinh tấn, giải đãi; tĩnh lự, tán loạn; trí tuệ, ác tuệ. Không hợp hay lìa với Niệm trụ, Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo. Không hợp hay lìa với đoạn, điên đảo...; không hợp hay lìa với tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí. Không hợp hay lìa với Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Không hợp hay lìa với Thiền chỉ, Thiền quán. Không hợp hay lìa với minh và giải thoát. Không hợp hay lìa với giải thoát trí kiến. Không hợp hay lìa với vô lượng, thần thông. Không hợp hay lìa với địa phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật. Không hợp hay lìa với pháp phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật. Không hợp hay lìa với trí Tận, trí Vô sinh, trí Vô tạo tác, trí Vô trước. Không hợp hay lìa với sinh tử, Niết-bàn. Không hợp hay lìa với trí, lực, vô sở úy của Phật. Không hợp hay lìa với tướng hảo viên mãn. Không hợp hay lìa với cõi Phật trang nghiêm. Không hợp hay lìa với sự viên mãn của Thanh văn. Không hợp hay lìa với sự viên mãn của Độc giác. Không hợp hay lìa với sự viên mãn của Bồ-tát. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì tất cả các pháp không hợp hay lìa.
Này Thiện Dũng Mãnh, tất cả pháp ngay hiện tại chẳng có pháp nào là hợp hay lìa cả. Này Thiện Dũng Mãnh, hợp nghĩa là thường, mà lìa nghĩa là đoạn. Này Thiện Dũng Mãnh, bản tánh của các pháp không do biết rõ mà có hợp, có lìa. Này Thiện Dũng Mãnh, tánh của tất cả các pháp không vì hợp hay lìa mà hiện hữu. Này Thiện Dũng Mãnh, nếu tánh của các pháp do có hợp, có lìa mà hiện hữu thì lẽ ra các pháp ấy có thể nắm bắt được người làm, người sai làm, người phát khởi, người sai phát khởi, người nhận, người sai nhận, người biết, người sai biết, người thấy, người sai thấy, người hợp, người sai hợp, người lìa và người sai lìa. Nếu là như vậy thì Như Lai cũng có thể giả lập ra các pháp: Đây là người làm, người sai làm cho đến người lìa, người sai lìa... Này Thiện Dũng Mãnh, nhưng tánh của tất cả các pháp không vì hợp hay lìa mà hiện hữu. Bởi vì các pháp không có người làm, người sai làm cho đến người lìa, người sai lìa đều không có một chút gì mà có thể nắm bắt được hay chẳng thể nắm bắt được, cho nên Phật không lập ra pháp ấy.
Này Thiện Dũng Mãnh, các pháp đều do điên đảo mà phát sinh, chứ các điên đảo không có hợp, có lìa. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì các sự điên đảo không có một chút nào có thể nắm bắt được và tánh thật sinh khởi của nó cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì điên đảo chẳng phải thật, chỉ là hư vọng dối trá, không thật có nên ở trong đó không có một chút pháp nào thật để gọi là điên đảo.
Này Thiện Dũng Mãnh, vì do điên đảo mê hoặc mà hữu tình giả lập ra hữu tình để hiển hiện sự hư vọng phân biệt của các loài hữu tình, làm cho các hữu tình vọng sinh chấp trước, chuyển biến và hý luận.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như nắm tay không lừa gạt trẻ con, vì nó không biết nên cho là vật thật. Kẻ phàm phu ngu si cũng như vậy, bị hư vọng điên đảo làm mê hoặc; đối với thật tánh của các pháp không có hợp hay lìa mà họ thấy sai lầm về hợp lìa nên cho là thật có. Vì ngu si điên đảo nên đối với sự không thật có mà họ sinh tư tưởng là thật có, nên khó giải thoát. Thế nên, vì thấy sai lầm về hợp, lìa mà tất cả phàm phu ngu si bị điên đảo trói buộc nên cho rằng: hợp nên được, hợp nên trụ, hợp nên thấy, hợp nên nắm giữ, có hợp nên chấp có và bị trói trong luân hồi sinh tử. Lìa nghĩa là trừ bỏ hợp mà được xa lìa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu trường hợp nào có hợp thì trường hợp đó có lìa; nếu ở trong hợp mà không đắc; không lệ thuộc và không sinh chấp trước thì không thấy lìa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu ở trong lìa mà có đắc, có lệ thuộc và có chấp trước thì đó là có hợp nên sự khổ của sinh tử chưa có thể giải thoát.
Này Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát ấy quán sát thật nghĩa này nên đối với các pháp tánh chẳng hợp và chẳng lìa, cũng không vì pháp nào hợp hay lìa mà có làm hoặc có tu học.
Này Thiện Dũng Mãnh, nhờ biết trọn vẹn về hợp hay lìa mà các Bồ-tát ấy đã tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào an trụ Bátnhã ba-la-mật-đa như vậy thì vị ấy mau viên mãn pháp trí Nhất thiết.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát nào tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không hành sắc là chấp trước hay không chấp trước, không hành thọ, tưởng, hành, thức là chấp trước hay không chấp trước.
Không hành nhãn là chấp trước hay không chấp trước; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là chấp trước hay không chấp trước.
Không hành sắc là chấp trước hay không chấp trước; không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp là chấp trước hay không chấp trước.
Không hành nhãn thức là chấp trước hay không chấp trước; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là chấp trước hay không chấp trước.
Không hành sự thanh tịnh của sắc là chấp trước hay không chấp trước; không hành sự thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức là chấp trước hay không chấp trước.
Không hành sự thanh tịnh của nhãn là chấp trước hay không chấp trước; không hành sự thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là chấp trước hay không chấp trước.
Không hành sự thanh tịnh của sắc là chấp trước hay không chấp trước; không hành sự thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp là chấp trước hay không chấp trước.
Không hành sự thanh tịnh của nhãn thức là chấp trước hay không chấp trước; không hành sự thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là chấp trước hay không chấp trước.
Không hành đối tượng của sắc là chấp trước hay không chấp trước; không hành đối tượng của thọ, tưởng, hành, thức là chấp trước hay không chấp trước.
Không hành đối tượng của nhãn là chấp trước hay không chấp trước; không hành đối tượng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là chấp trước hay không chấp trước.
Không hành đối tượng của sắc là chấp trước hay không chấp trước; không hành đối tượng của thanh, hương, vị, xúc, pháp là chấp trước hay không chấp trước.
Không hành đối tượng của nhãn thức là chấp trước hay không chấp trước; không hành đối tượng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là chấp trước hay không chấp trước.
Không hành sắc là chấp trước hay không chấp trước, hợp hay lìa; không hành thọ, tưởng, hành, thức là chấp trước hay không chấp trước, hợp hay lìa.
Không hành nhãn là chấp trước hay không chấp trước, hợp hay lìa; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là chấp trước hay không chấp trước, hợp hay lìa. Không hành sắc là chấp trước hay không chấp trước, hợp hay lìa; không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp là chấp trước hay không chấp trước, hợp hay lìa.
Không hành nhãn thức là chấp trước hay không chấp trước, hợp hay lìa; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là chấp trước hay không chấp trước, hợp hay lìa.
Không hành đối tượng thanh tịnh của sắc là hợp hay lìa; không hành đối tượng thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức là hợp hay lìa.
Không hành đối tượng thanh tịnh của nhãn là hợp hay lìa; không hành đối tượng thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là hợp hay lìa.
Không hành đối tượng thanh tịnh của sắc là hợp hay lìa; không hành đối tượng thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp là hợp hay lìa.
Không hành đối tượng thanh tịnh của nhãn thức là hợp hay lìa; không hành đối tượng thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là hợp hay lìa. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì tất cả các pháp ấy nếu hành hay quán thì đều có di chuyển, chấp trước và lay động. Bồ-tát biết rõ tất cả như vậy nên ở trong đó không hành, không quán.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không hành sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại là chấp trước hay không chấp trước; không hành thọ, tưởng, hành, thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là chấp trước hay không chấp trước.
Không hành nhãn của quá khứ, vị lai, hiện tại là chấp trước hay không chấp trước; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý của quá khứ, vị lai, hiện tại là chấp trước hay không chấp trước.
Không hành sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại là chấp trước hay không chấp trước; không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp của quá khứ, vị lai, hiện tại là chấp trước hay không chấp trước.
Không hành nhãn thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là chấp trước hay không chấp trước; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý của quá khứ, vị lai, hiện tại là chấp trước hay không chấp trước.
Không hành sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành thọ, tưởng, hành, thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành nhãn của quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý của quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp của quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành nhãn thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại là chấp trước hay không chấp trước, có đối tượng thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành thọ, tưởng, hành, thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là là chấp trước hay không chấp trước, có đối tượng thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành nhãn của quá khứ, vị lai, hiện tại là là chấp trước hay không chấp trước, có đối tượng thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý của quá khứ, vị lai, hiện tại là là chấp trước hay không chấp trước, có đối tượng thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại là là chấp trước hay không chấp trước, có đối tượng thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp của quá khứ, vị lai, hiện tại là là chấp trước hay không chấp trước, có đối tượng thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành nhãn thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là là chấp trước hay không chấp trước, có đối tượng thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là là chấp trước hay không chấp trước, có sở duyên thanh tịnh hay không thanh tịnh. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đều không thấy đối tượng để hành và không thấy pháp để hành.
Này Thiện Dũng Mãnh, vì các Bồ-tát ấy đều không có đối tượng để hành nên có năng lực ngộ nhập biết rõ các hạnh mà tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành được như vậy thì mau được viên mãn pháp trí Nhất thiết.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không hành sắc hiển bày hay không hiển bày; không hành thọ, tưởng, hành, thức hiển bày hay không hiển bày.
Không hành nhãn hiển bày hay không hiển bày; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý hiển bày hay không hiển bày.
Không hành sắc hiển bày hay không hiển bày; không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp hiển bày hay không hiển bày.
Không hành nhãn thức hiển bày hay không hiển bày; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức hiển bày hay không hiển bày.
Không hành sắc tịch tĩnh hay không tịch tĩnh; không hành thọ, tưởng, hành, thức tịch tĩnh hay không tịch tĩnh.
Không hành nhãn tịch tĩnh hay không tịch tĩnh; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tịch tĩnh hay không tịch tĩnh.
Không hành sắc tịch tĩnh hay không tịch tĩnh; không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp tịch tĩnh hay không tịch tĩnh.
Không hành nhãn thức tịch tĩnh hay không tịch tĩnh; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức tịch tĩnh hay không tịch tĩnh.
Không hành bản tánh của sắc thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành bản tánh của nhãn thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành bản tánh của sắc thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành bản tánh của nhãn thức thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức thanh tịnh hay không thanh tịnh.
Không hành bản tánh của sắc hiển bày hay không hiển bày; không hành bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức hiển bày hay không hiển bày.
Không hành bản tánh của nhãn hiển bày hay không hiển bày; không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý hiển bày hay không hiển bày.
Không hành bản tánh của sắc hiển bày hay không hiển bày; không hành bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp hiển bày hay không hiển bày. Không hành bản tánh của nhãn thức hiển bày hay không hiển bày; không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức hiển bày hay không hiển bày. Không hành bản tánh của sắc tịch tĩnh hay không tịch tĩnh; không hành bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức tịch tĩnh hay không tịch tĩnh.
Không hành bản tánh của nhãn tịch tĩnh hay không tịch tĩnh; không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tịch tĩnh hay không tịch tĩnh.
Không hành bản tánh của sắc tịch tĩnh hay không tịch tĩnh; không hành bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp tịch tĩnh hay không tịch tĩnh.
Không hành bản tánh của nhãn thức tịch tĩnh hay không tịch tĩnh; không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức tịch tĩnh hay không tịch tĩnh.
Không hành bản tánh của sắc xa lìa hay không xa lìa; không hành thọ, tưởng, hành, thức xa lìa hay không xa lìa.
Không hành bản tánh của nhãn xa lìa hay không xa lìa; không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xa lìa hay không xa lìa.
Không hành bản tánh của sắc xa lìa hay không xa lìa; không hành bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xa lìa hay không xa lìa.
Không hành bản tánh của nhãn thức xa lìa hay không xa lìa; không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức xa lìa hay không xa lìa.
Không hành bản tánh của sắc thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, xa lìa hay không xa lìa; không hành bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, xa lìa hay không xa lìa.
Không hành bản tánh của nhãn thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, xa lìa hay không xa lìa; không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, xa lìa hay không xa lìa.
Không hành bản tánh của sắc thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, xa lìa hay không xa lìa; không hành bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, xa lìa hay không xa lìa.
Không hành bản tánh của nhãn thức thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, xa lìa hay không xa lìa; không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, xa lìa hay không xa lìa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành được như vậy thì mau viên mãn pháp trí Nhất thiết. Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không nương tựa vào sắc, không nương tựa tựa vào thọ, tưởng, hành, thức. Không nương tựa vào nhãn, không nương tựa vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
Không nương tựa vào sắc, không nương tựa vào thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Không nương tựa vào nhãn thức, không nương tựa vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.
Cũng không nương tựa vào thanh tịnh của sắc; không nương tựa vào thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức.
Không nương tựa vào vào thanh tịnh của nhãn, cũng không nương tựa vào thanh tịnh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
Không nương tựa vào thanh tịnh của sắc, cũng không nương tựa vào thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Không nương tựa vào thanh tịnh của nhãn thức, cũng không nương tựa vào thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.
Không nương tựa vào đối tượng thanh tịnh của sắc, cũng không nương tựa vào đối tượng thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức.
Không nương tựa vào đối tượng thanh tịnh của nhãn, không nương tựa vào đối tượng thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
Không nương tựa vào đối tượng thanh tịnh của sắc, không nương tựa vào đối tượng thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Không nương tựa vào đối tượng thanh tịnh của nhãn thức, không nương tựa vào đối tượng thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không chấp trước sắc, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức.
Không chấp trước nhãn, không chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
Không chấp trước sắc, không chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Không chấp trước nhãn thức, không chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.
Cũng không chấp trước thanh tịnh của sắc, không chấp trước thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức.
Không chấp trước thanh tịnh của nhãn; không chấp trước thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
Không chấp trước thanh tịnh của sắc, không chấp trước thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức, không chấp trước thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.
Cũng không chấp trước đối tượng thanh tịnh của sắc, không chấp trước đối tượng thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức.
Không chấp trước đối tượng thanh tịnh của nhãn, không chấp trước đối tượng thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
Không chấp trước đối tượng thanh tịnh sắc, không chấp trước đối tượng thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc.
Không chấp trước vào đối tượng thanh tịnh của nhãn thức, không chấp trước vào đối tượng thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành như vậy thì mau viên mãn pháp trí Nhất thiết.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành được như vậy thì gần được mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành được như vậy thì gần đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ, toàn thân màu vàng ròng với vô biên ánh sáng giống như voi chúa, nhìn không thể thấy đảnh.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành được như vậy thì gần được trí kiến trước, vô ngại về quá khứ, vị lai và hiện tại, cũng gần được Như Lai chỉ dạy truyền trao hướng dẫn, cũng được trí kiến vô trước, vô ngại về quá khứ, vị lai và hiện tại, các vị ấy sẽ chắc chắn được thọ ký.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành được như vậy thì mau chứng tất cả sự thanh tịnh của Phật, pháp, mau chứng đắc sự thanh tịnh của cõi Phật, mau tiếp nhận sự viên mãn của Thanh văn, mau tiếp nhận sự viên mãn của Bồ-tát.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành được như vậy thì không trụ vào sắc, không trụ vào thọ, tưởng, hành, thức; không trụ vào nhãn, không trụ vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; không trụ vào sắc, không trụ vào thanh, hương, vị, xúc, pháp; không trụ vào nhãn thức, không trụ vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức. Không trụ vào danh sắc; không trụ vào điên đảo, kiến chấp, triền cái, ái hành; không trụ cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc; không trụ vào hữu tình giới, pháp giới; không trụ vào địa, thủy, hỏa, phong, không và thức giới; không trụ vào hữu tình, người sống, người sinh, người nuôi dưỡng, người tạo tác, cái ta, thân do ý sinh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy và các tướng khác; không trụ vào đoạn, thường kiến; không trụ tạp nhiễm, thanh tịnh; không trụ vào duyên khởi, không trụ vào bố thí, xan tham; giữ giới, phạm giới; an nhẫn, sân giận; tinh tấn, giải đãi; tĩnh lự, tán loạn; trí tuệ, ác tuệ.
Không trụ vào Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo, không trụ vào đoạn trừ điên đảo..., không trụ vào tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì đẳng chí.
Không trụ vào Minh và Giải thoát.
Không trụ vào trí Tận, trí Vô sinh, trí Vô tạo tác và trí Vô trước.
Không trụ vào Thiền chỉ, Thiền quán.
Không trụ vào Vô lượng, Thần thông.
Không trụ vào Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Không trụ vào địa phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật.
Không trụ vào pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật. Không trụ vào sinh tử, Niết-bàn.
Không trụ vào trí, lực, vô sở úy... của Phật.
Không trụ vào trí kiến của quá khứ, vị lại, hiện tại.
Không trụ vào sự viên mãn của cõi Phật, không trụ vào sự viên mãn của chúng Thanh văn, không trụ vào sự viên mãn của Bồ-tát. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì tất cả pháp không thể trụ.
Này Thiện Dũng Mãnh, vì tất cả pháp chẳng có tính chất gì là trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không nắm giữ; không thể nắm giữ thì không thể trụ.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu tất cả pháp có thể trụ lại thì sẽ có thể tuyên bố: Đây là pháp có thể nắm giữ, đây là pháp thường trụ. Như Lai cũng có thể an trụ vào các pháp mà tuyên bố các pháp; đây là pháp có thể nắm giữ, đây là pháp có thể tích tập. Này Thiện Dũng Mãnh, vì tất cả pháp không thể an trụ, không thể nắm giữ, cũng không thể tích tập, cho nên không có pháp nào là thường trụ. Do đó mà Như Lai không an trụ vào pháp nào, cũng không tuyên bố: Đây là pháp có thể nắm giữ hay đây là pháp tích tụ.
Này Thiện Dũng Mãnh, không có một chút pháp nào có thể thật sinh cả. Vì không có một chút pháp nào thật sinh nên nó hoàn toàn không có chỗ trụ, do đó mà nói các pháp không có tính chất gì là trụ.
Này Thiện Dũng Mãnh, lấy sự không sự trụ và không chẳng trụ làm phương tiện nên nói tất cả các pháp hoàn toàn không có sự trụ.
Này Thiện Dũng Mãnh, không có chút pháp nào có thể nói là trụ cả. Như bốn sông lớn đều bắt nguồn từ ao Vô nhiệt chảy ra, khi chưa vào biển lớn thì nó hoàn toàn chẳng có tính cách trụ. Các pháp như vậy cho đến không bắt đầu và các hành chưa tận thì hoàn toàn không có tính cách trụ.
Này Thiện Dũng Mãnh, các không bắt đầu hành nghĩa là trong đây không có sự trụ, không trụ và không có sự trở ngại. Tất cả đều dựa vào thế tục mà nói chứ thật ra không có trụ và không có sự trở ngại, không có cứu cánh, cũng không có không trụ. Này Thiện Dũng Mãnh, các hành không bắt đầu là chỉ dựa vào thế tục mà nói, cũng như những gì hữu tình thấy ở thế gian đều chẳng thật có trụ, hoặc có sự trở ngại hay có sự cứu cánh, cũng không không sự trụ. Các hành không bắt đầu chẳng phải có thật trụ, thế nên có thể dựa vào lời nói thế tục để trình bày. Do đó, các pháp đều không có tính chất trụ.
Này Thiện Dũng Mãnh, các chúng Bồ-tát như vậy chỉ dựa vào tất cả pháp không trụ làm phương tiện để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát hành được như vậy thì mau viên mãn pháp trí Nhất thiết, gần được quả vị Giác ngộ cao tột, mau an tọa nơi tòa Bồ-đề, mau chứng đắc trí Nhất thiết trí, mau viên mãn trí kiến về ba đời, mau viên mãn trí biết trọn vẹn về giữa tâm hành khác nhau của tất cả hữu tình.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Đại Bồ-tát muốn làm lợi ích cho tất cả hữu tình, muốn lấy tài sản để bố thí cho tất cả hữu tình được đầy đủ, muốn dùng pháp bố thí cho tất cả hữu tình làm cho họ được mãn nguyện, muốn phá vỡ vỏ trứng vô minh cho tất cả hữu tình, muốn trao đại trí, Phật trí cho tất cả hữu tình, muốn thương mến khắp tất cả hữu tình, muốn làm lợi ích an lạc cho khắp tất cả hữu tình, muốn làm cho tất cả hữu tình đầy đủ tài thí và pháp thí, muốn làm cho tất cả hữu tình đầy đủ giới thanh tịnh, muốn làm cho tất cả hữu tình đầy đủ an nhẫn hòa nhã, muốn làm cho hữu tình đầy đủ sự tinh tấn, dũng mãnh, muốn làm cho hữu tình đầy đủ tĩnh lự trong sáng, muốn làm cho tất cả hữu tình đầy đủ trí tuệ vi diệu, muốn làm cho tất cả hữu tình đầy đủ giải thoát cứu cánh, muốn làm cho tất cả hữu tình đầy đủ trí kiến giải thoát, muốn làm cho tất cả hữu tình được đầy đủ sinh vào các cõi lành, muốn làm cho tất cả hữu tình đầy đủ minh và giải thoát, muốn làm cho tất cả hữu tình đầy đủ Niếtbàn cứu cánh, muốn làm cho tất cả hữu tình đầy đủ diệu pháp của chư Phật, muốn làm cho tất cả hữu tình đầy đủ sự viên mãn của các công đức; muốn chuyển pháp luân vi diệu vô thượng cho tất cả Samôn, Phạm chí, Trời, Ma, ngoại đạo ở thế gian mà không có ai có khả năng chuyển được pháp luân như vậy, muốn giảng nói diệu pháp ở thế gian, muốn như thật thọ ký địa vị Phật, muốn như thật thọ ký địa vị Bồ-tát, muốn như thật thọ ký địa vị Độc giác, muốn như thật thọ ký địa vị Thanh văn và muốn biết bản nguyện căn lành của các loài hữu tình thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, hãy dũng mãnh tinh tấn đừng bao giờ để gián đoạn và hãy nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tinh tấn siêng năng tu học để không bị luyến tiếc.
Này Thiện Dũng Mãnh, Ta hoàn toàn không thấy có pháp nào làm cho Bồ-tát mau viên mãn diệu pháp, Vô thượng của chư Phật như là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được nói ở đây. Nếu các Bồtát an trú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy và tinh tấn siêng năng tu học không cho lìa bỏ thì sẽ mau viên mãn pháp trí Nhất thiết.
Này Thiện Dũng Mãnh, các Đại Bồ-tát nào tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể đạt đến cứu cánh thì Đại Bồ-tát ấy gần được quả vị Giác ngộ cao tột và chắc chắn không còn nghi ngờ gì nữa.
Này Thiện Dũng Mãnh, những thiện nam, tín nữ nào nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà hoan hỷ tín thọ thật chí thành thì Ta nói những hạng người này có thể đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột vì căn lành của họ rất thù thắng mau đạt đến cứu cánh. Nhờ giữ gìn căn lành mà các thiện nam, tín nữ ấy nhất định tích tập được tư lương của đại tuệ.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát tay cầm giáo pháp tương ưng với phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy với thì các Bồ-tát này dù hiện tại không được Phật thọ ký, phải biết vị này cũng gần được Phật thọ ký, hoặc không bao lâu nữa sẽ được Phật trong hiện tại thọ ký.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như có người tinh tấn học tập mười nẻo nghiệp thiện đã đạt đến cứu cánh, nên biết căn lành của người đó đã được thành thục và đã gần được sinh về Bắc câu-lô. Cũng vậy, Bồ-tát nào tay cầm Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì nên biết vị ấy đã gần được quả vị Giác ngộ cao tột theo sở cầu và nhất định không còn nghi ngờ gì nữa.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như có người thích làm việc bố thí, đối với của báu họ không hề tham tiếc, đối với hữu tình họ cũng thường lấy bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự để giúp đỡ. Họ giữ giới tu hạnh nhẫn nhục để đánh đổ tâm kiêu mạn. Khi tu các hạnh đạt đến cứu cánh như vậy thì họ mau đạt được nhiều của cải và sinh vào dòng họ cao quý. Cũng vậy, Bồ-tát nào tay cầm được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì nên biết vị ấy gần đến địa vị không thoái chuyển.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như có người thích tu bố thí, trì giới, an nhẫn đều đầy đủ Từ bi thương xót hữu tình và khuyên họ trì giới, lại có thể tạo tác để nhận được nghiệp Tăng thượng cho họ thì nên biết người ấy mau đạt được địa vị Chuyển luân vương. Cũng vậy, Bồ-tát nào tay cầm được Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì nên biết vị ấy sẽ mau ngồi tòa Bồ-đề vi diệu.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như Chuyển luân vương sắp lên địa vị cao, vào ngày mười lăm, nửa tháng có trăng, tắm rửa thọ trai rồi lên đại điện, ngồi tòa Sư tử và mặt hướng về phương Đông. Từ trên không có đại luân báu bay đến thì nên biết vị vua ấy đã nhận ngôi vị Chuyển luân và không bao lâu vị ấy sẽ được đầy đủ bảy báu. Cũng vậy, Bồtát nào tay cầm được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì nên biết vị ấy sẽ mau đạt được trí Nhất thiết trí.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như hữu tình nào thành tựu căn lành thù thắng, thích tu hành phạm hạnh, tin hiểu sâu sắc về thân và nhàm chán sự khổ hoạn về thân người; đầy đủ giới thanh tịnh, thích phục vụ việc của chúng Tăng, tâm vị ấy luôn luôn nghĩ đến sinh thiên để thường che chở cho mọi người trong bốn châu thì nên biết những hạng đó không bao lâu nữa sẽ làm Tứ Thiên vương để bảo hộ bốn châu. Cũng vậy, Bồ-tát nào đem giáo pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa để bố thí cho các loài hữu tình mà tâm không hề tham tiếc thì nên biết các vị ấy không bao lâu nữa sẽ được làm vị Pháp vương và được tự tại với tất cả các pháp.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như hữu tình nào thành tựu căn lành thù thắng thanh tịnh hơn sự thành tựu của người đã nói như trước. Về tài bảo đã đạt được thì trước tiên họ đem bố thí cho người khác và sau đó mới sử dụng cho mình, làm việc gì cũng làm cho hữu tình trước sau đó mới làm cho mình, không bị sự ô nhiễm của tham lam mà làm việc phi pháp, bất bình đẳng. Tâm vị ấy luôn luôn muốn làm Thiên chủ nên đối với sự tu thiện, tâm của vị ấy rất bền chắc. Nên biết, những hạng người đó không bao lâu nữa chắc chắn họ sẽ sinh lên cõi trời Ba mươi ba và làm vị Thiên đế Thích. Cũng vậy, nếu Bồ-tát dùng pháp yếu tương ưng với Bátnhã ba-la-mật-đa để bố thí cho các loài hữu tình mà không tham tiếc thì nên biết vị này không bao lâu nữa chắc chắn sẽ làm vị Pháp vương và được tự tại với tất cả pháp.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như có người đắc bốn phạm trụ nên biết vị này không bao lâu nữa sẽ sinh lên Phạm thiên. Cũng vậy, Bồ-tát nào đem pháp yếu tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa để bố thí cho các loài hữu tình mà không tham tiếc thì phải biết vị ấy không bao lâu sẽ chuyển diệu pháp luân và bố thí cho các hữu tình được lợi ích an lạc. Này Thiện Dũng Mãnh, ví như cơn mưa khi sắp rơi xuống mặt đất thì ta thấy trên hư không mây kéo dầy đặc, bầu trời tối sầm dần và tuôn xuống cơn mưa lớn làm cho nước ao hồ, sông chầm lênh láng, đất cao thấp đều thấm nhuần, mây dầy tuôn xuống mưa ngọt thấm mọi nơi làm cho cây thuốc, cỏ cây, cành lá, hoa quả đều sum xuê, mùi thơm trong nước, đất, núi, sông thơm phức, ở suối cao nơi nào cũng có hoa quả. Bấy giờ, mặt đất rất khả ái, người và phi nhân nhìn thấy đều thích thú, đều hái hoa quả để ngửi hương và nếm vị. Cũng vậy, nếu Bồ-tát tay cầm được Bát-nhã ba-la-mật-đa tinh tấn siêng năng tu học thì nên biết vị ấy không bao lâu sẽ được thấm nhuần trí Nhất thiết trí, có khả năng thể nhập trí Nhất thiết trí và sẽ mở bày được trí Nhất thiết trí. Do đó mà làm thấm nhuần tất cả loài hữu tình, khai thị rõ ràng pháp bảo Vô thượng.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như trong cung của Long vương Vô nhiệt, sinh ra nước chảy vào bốn sông lớn và đều cùng một hướng đi đến đầy cả biển lớn. Cũng vậy, Bồ-tát nào trong tay được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà ở trong đó siêng năng tinh tấn tu học thì vị ấy có thể phát ra những dòng đại pháp và dùng đại pháp ấy để bố thí đầy đủ cho các hữu tình.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như bầy chim ở trên núi Diệu cao, mặc dù hình dáng của mỗi loài khác nhau, nhưng chúng cùng một màu. Cũng vậy, nếu Bồ-tát trong tay được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà tin thọ tu hành thì đồng một hướng đến. Đó là cùng đi về hướng trí Nhất thiết của Như Lai.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như biển lớn thì các dòng sông đều nương vào để tồn tại và thường làm chỗ quay về cho các dòng nước. Cũng vậy, nếu Bồtát trong tay được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà tinh tấn siêng năng tu học thì vô cùng thông đạt và lợi ích. Phải biết không bao lâu vị này sẽ làm biển để chứa tất cả pháp, mau thành tựu Pháp khí, thường làm chỗ nương về cho các pháp, không bị các pháp thế gian quấy nhiễu được.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như mặt trời mọc lên thì làm mất đi các ánh sáng khác. Cũng vậy, sự học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này của Bồ-tát mà xuất hiện ra thế gian thì tất cả ngoại đạo đều biến mất.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu sự học Bát-nhã bala-mật-đa của các Bồ-tát mà xuất hiện ra thế gian thì sẽ làm pháp chiếu sáng cho các loài hữu tình.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát xuất hiện ra thế gian làm căn lành chiếu sáng cho các hữu tình, làm ruộng phước chân tịnh cho các loài hữu tình thì tất cả hữu tình đều phải cúng dường, tất cả hữu tình đều phải quay về và tất cả hữu tình đều phải khen ngợi vị ấy.
Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh, các Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa là sự học tối thắng trong các môn học. Cũng vậy, người học Bát-nhã ba-la-mậtđa là làm con đường Niết-bàn thanh tịnh cho khắp các hữu tình. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì học Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với trong các môn học thì đó là tối thắng đệ nhất; là diệu, là vi diệu, là thượng là vô thượng, là không gì bằng, không gì sánh bằng.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa làm cho tất cả sự học ấy đều đạt đến cứu cánh, thọ trì tất cả những gì đã học thì với tất cả sự học đó đều có thể chỉ dạy được và bẻ gãy được tất cả sự học của các tà luận khác.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu các Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy thì có thể tu hành các hạnh Bồ-tát của chư Phật trong ba đời.
Này Thiện Dũng Mãnh, đối với sự học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, chư Phật Thế Tôn đã, đang và sẽ học rất vững vàng hoàn hảo và cũng đã, đang và sẽ dạy cho các hữu tình pháp thanh tịnh vô thượng như vậy.
Này Thiện Dũng Mãnh, vì sự học của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy nên sẽ vượt qua sự học tối thắng, tối tôn của thế gian.
Này Thiện Dũng Mãnh, học Bát-nhã ba-la-mậtđa như vậy là học tự nhiên, nên tất cả thế gian không ai sánh kịp.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu ai học Bát-nhã bala-mật-đa thì đối với các pháp hoàn toàn không còn gì để học. Nghĩa là dù thế gian hay xuất thế gian, hữu vi hay vô vi, hữu lậu hay vô lậu, hữu tội hay vô tội, với tất cả pháp môn như vậy đều không bị lệ thuộc. Đối với tất cả pháp, cũng bị lệ thuộc vì các hữu tình mê lầm mà phải khai mở chỉ bày pháp Vô thượng Thanh tịnh mà mình đã học. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì tất cả các pháp không có chấp trước cũng không có trói buộc nên không có một chút pháp nào là chấp trước, là trói buộc mà hiện hữu. Do đây mà không có tính chất được giải thoát.
Này Thiện Dũng Mãnh, sắc không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát; thọ, tưởng, hành, thức cũng không chấp trước, không trói buộc, cũng không có giải thoát. Nhãn không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát; Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Sắc không chấp trước, không trói buộc và không giải thoát; Thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng không chấp trước, không trói buộc và không giải thoát. Nhãn thức không chấp trước, không trói buộc và không giải thoát. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức cũng không chấp trước, không trói buộc và không giải thoát. Danh sắc không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát; điên đảo, kiến chấp, triền cái, ái hành không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Tham, sân, si không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Hữu tình giới, pháp giới không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Hữu tình, người sống, người sinh, người nuôi dưỡng, người tạo tác, cái ta, thân do ý sinh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy và các tướng không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Địa, thủy, hỏa, phong, không và thức giới không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Duyên khởi, nhiễm tịnh không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Bố thí, xan tham; giữ giới, phạm giới; an nhẫn, sân giận; tinh tấn, giải đãi; tĩnh lự, tán loạn; trí tuệ, ác tuệ không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Khổ, tập, diệt, đạo không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Đoạn tuyệt điên đảo, không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Vô lượng, Thần thông không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Trí tận, trí Vô sinh, trí Vô tạo tác và trí Vô trước không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Minh và giải thoát, giải thoát tri kiến không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Địa vị phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Sinh tử và Niết-bàn không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Trí, lực, vô sở úy... của Phật không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát.
Trí kiến về quá khứ, vị lai, hiện tại không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh, vì tất cả các pháp mà có chấp trước thì không thể đắc, trói buộc cũng không thể đắc. Nếu chấp trước và trói buộc đã không có thì giải thoát cũng không thể đắc.
Này Thiện Dũng Mãnh, nói chấp trước và trói buộc nghĩa là chấp trước và trói buộc vào pháp tánh. Nhưng pháp tánh đã không có nên không thể nói có chấp trước, không có trói buộc. Nói giải thoát nghĩa là giải thoát khỏi sự chấp trước và trói buộc; chấp trước và trói buộc đã không có nên giải thoát cũng không có.
Này Thiện Dũng Mãnh, không giải thoát nghĩa là đối với các pháp hoàn toàn vô sở đắc được tánh giải thoát. Nếu có thể thấy các pháp như vậy thì gọi là tri kiến không chấp trước.
Này Thiện Dũng Mãnh, không chấp trước nghĩa là ở trong đây chấp trước chẳng thể nắm bắt được, chấp trước không tánh chấp trước, chấp trước không thật tánh nên gọi là không chấp trước.
Vì trong đây người chấp trước, pháp được chấp trước, do cái này, vì cái này, nhân cái này, thuộc cái này đều chẳng thể nắm bắt được, cho nên gọi là không chấp trước.
Này Thiện Dũng Mãnh, nói không trói buộc nghĩa là trong đây trói buộc chẳng thể nắm bắt được, trói buộc không có tánh trói buộc, vì tánh trói buộc không thật nên gọi là không trói buộc. Vì trong đây người trói buộc, pháp được trói buộc do cái này, vì cái này, nhân cái này, thuộc cái này đều chẳng thể nắm bắt được nên gọi là không trói buộc. Này Thiện Dũng Mãnh, nếu không chấp trước, không trói buộc vào các pháp, vậy tại sao nói rằng đối với các pháp có giải thoát?
Này Thiện Dũng Mãnh, không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát, nhưng ly hệ thanh lương gọi là chân giải thoát.
Này Thiện Dũng Mãnh, đối với các pháp, ai không chấp trước thì không bị trói buộc, nếu đối với các pháp, người nào không bị trói buộc, chấp trước thì không giải thoát. Xa lìa ba việc này được ly hệ thanh lương thì gọi là chân giải thoát.
Này Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát nào ngộ nhập được các pháp mà không chấp trước, không trói buộc, không giải thoát thì đắc chân trí kiến mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu Bồ-tát nào hành được như vậy là gần ngôi quả vị Giác ngộ cao tột và mau chứng đắc trí Nhất thiết trí.
Này Thiện Dũng Mãnh, Ta sẽ lấy pháp ấn vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này ấn chứng cho các chúng Đại Bồ-tát, làm cho họ đoạn trừ lưới nghi ngờ rồi tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mau đạt đến cứu cánh.
Này Thiện Dũng Mãnh, Ta sẽ giữ pháp ấn này để tồn tại lâu dài ở đời mà làm lợi ích và an lạc cho các hữu tình. Vì sao? Vì chúng Thanh văn của ta không có sức thần thông thù thắng để giữ gìn pháp ấn vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này cho đến thời gian khi ta đã diệt độ khoảng năm trăm năm sau để làm lợi ích cho các hữu tình.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn dạy năm trăm Bồ-tát thượng thủ như Bồ-tát Hiền Thủ, Bồ-tát Đạo Sư... và Đại Bồ-tát Thiện Dũng Mãnh rằng:
–Này Thiện nam, các ông nên học Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa từ vô lượng, vô số trăm ngàn câuchi na-do-đa kiếp chính Như Lai đã từng tu tập như vậy và làm Thượng thủ. Vì pháp tạng vô thượng của chư Như Lai được xuất hiện từ Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa và pháp tạng vô thượng được thành lập cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cho nên các ông nên giữ gìn pháp tạng ấy. Vậy vào thời gian khi Ta nhập Niết-bàn khoảng năm trăm năm sau, khi chánh pháp vô thượng ấy sắp hoại diệt thì vào thời gian chuyển tiếp, các ông hãy vì các hữu tình mà giảng nói và khai thị rộng rãi để cho họ nghe sẽ đạt được lợi ích lớn.
Khi nghe Phật dạy như vậy, các Bồ-tát đều đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật và chắp tay cung kính bạch Phật rằng:
–Bạch Thế Tôn, chúng con sẽ học Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa Như Lai đã từng tu học từ vô lượng, vô số trăm ngàn na-do-tha kiếp như vậy để làm Thượng thủ. Vì pháp tạng vô thượng được xuất hiện từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và được thành lập cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên chúng con sẽ giữ gìn kho pháp này đến thời gian sau mà ngài đã diệt độ khoảng năm trăm năm sau khi chánh pháp vô thượng sắp hoại diệt cho đến vào thời gian chuyển tiếp thì chúng con sẽ giảng nói và khai thị rộng rãi cho các loài hữu tình để họ nghe rồi sẽ đạt được lợi ích lớn.
Bạch Thế Tôn, vào thời gian đó, có rất nhiều sự sợ hãi, rất nhiều hiểm nạn, rất nhiều sự bạo ác và thời gian ấy các hữu tình phần nhiều tạo nghiệp đưa đến quả báo thiếu pháp, lòng họ nhiều tham dục, bị tham lam bất bình đẳng và bị tham phi pháp làm nhiễm ô, bỏn sẻn, ganh ghét, trói buộc tâm của họ, nhiều sân hận, thích nói lời hung ác, dua nịnh dối trá, thích làm phi pháp nhiều khinh khi, đấu tranh kiện tụng chống đối nhau, sống không có oai nghi giới luật, bị tham đắm che mờ, giải đãi thì tăng thượng, còn tinh tấn thì yếu kém, họ quên mất chánh niệm mà trụ vào bất chánh trí, miệng mồm thì khoe khoang, cống cao ngã mạn, thích làm nghiệp ác rồi che giấu trong lòng, tham, sân, si càng ngày càng tăng còn căn lành thì mỏng ít, bị màn vô minh che lấp nên những việc của họ làm ra đều thuận với bè đảng của ma, thường làm oán tặc hại đến pháp luật thâm sâu, thường làm giặc lớn trong kho pháp báu. Vì bẩm tánh xấu ác của họ nên khó có ai gần gũi được.
Bạch Thế Tôn, từ nay chúng con quyết định giữ gìn kho pháp vô thượng mà Đức Như Lai đã tu tập như vậy từ vô số, vô biên trăm ngàn na-do-tha kiếp để làm lợi ích lớn cho các loài hữu tình.
Bạch Thế Tôn, thời gian đó sẽ có rất ít hữu tình siêng năng thích tìm học pháp tạng này. Bản tánh của các hữu tình này thì chân thật không dua nịnh, dối trá, họ thà bỏ thân mạng chứ không phá pháp, cũng không phỉ báng và nhàm chán chống đối pháp. Chúng con sẽ làm lợi ích cho họ bằng cách siêng năng chỉ dạy pháp thâm sâu ấy và khen ngợi, khuyến khích để họ siêng năng tu học.
Khi ấy, Thế Tôn dùng thần lực hộ trì pháp tạng vô thượng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa khiến cho bọn ác ma không thể nào làm hoại diệt được. Lại dùng oai lực để hộ trì người có thể giữ gìn và tinh tấn tu hành pháp tạng này, cắt đứt lưới ma được giải thoát và sự tu hành của họ sẽ mau đạt đến cứu cánh.
Khi ấy, Phật mỉm cười phóng ánh sáng lớn chiếu khắp thế giới ba lần ngàn các hữu tình ở cõi người trên trời, nhờ ánh sáng của Phật nên đều được thấy mặt nhau.
Bấy giờ, trong hội này Trời, Rồng, Dược-xoa, Càn-thát-bà, A-tố-lạc, Mạc-hô-lạc-già và chúng thần khác đều đem những loại hương hoa đẹp của trời dâng rải lên cúng dường Thế Tôn, rồi lớn tiếng ca ngâm:
–Sức oai thần lớn của Như Lai thật hy hữu đã hộ trì pháp tạng và người tu hành, khiến cho quân của ác ma không thể phá hoại được, cắt lưới của các ma, làm cho được tự tại, đối với sự tu hành mau đạt đến cứu cánh. Nếu có thiện nam, tín nữ nào thọ trì, đọc tụng pháp môn này mà rộng nói cho người khác thì không sợ quân của ác ma. Bồ-tát nào thọ trì, đọc tụng pháp môn này và rộng nói cho người khác thì vị ấy có thể chiến thắng các quân của ác ma và tất cả các ác ma không thể nào làm trở ngại được.
Bấy giờ, Phật bảo Thiện Dũng Mãnh rằng:
–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như chư Thiên nói! Này Thiện Dũng Mãnh, Như Lai đối với pháp môn vô thượng này đã kết cương giới cho các ác ma để tất cả võng lưới của chúng không còn gây chướng ngại cho pháp môn này.
Này Thiện Dũng Mãnh, hôm nay Như Lai nương vào pháp môn này mà đánh bại tất cả thế lực của các ác ma.
Này Thiện Dũng Mãnh, hôm nay Như Lai sẽ bảo hộ pháp môn này để ngăn chặn các ác ma không xâm tổn nữa.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu có thiện nam, tín nữ thọ trì, đọc tụng pháp môn này và giảng nói rộng rãi cho người khác thì tất cả ác ma không thể quấy nhiễu họ được, nhưng ngược lại họ có thể chiến thắng các ma oán. Hoặc các Bồ-tát nào thọ trì, đọc tụng pháp môn này và giảng nói rộng rãi cho người khác thì vị ấy có thể chinh phục tất cả quân ma và bố thí cho các hữu tình được lợi ích an lạc.
Này Thiện Dũng Mãnh, pháp môn như vậy chẳng phải tay các hữu tình tạp nhiễm có thể tiếp nhận được.
Này Thiện Dũng Mãnh, pháp môn như vậy chẳng phải cảnh giới tu hành của những người bị lưới ma trói bắt.
Này Thiện Dũng Mãnh, pháp môn như vậy là cảnh giới tu hành của những hạng người rất thông tuệ, tính thiện hoàn toàn.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như con ngựa rất khôn ngoan và thuần thục, chẳng phải dành cho những vua nhỏ cỡi, cũng chẳng phải xuất hiện vào thời tệ ác mà chỉ được Luân vương nhận dùng, do đó mà nó xuất hiện vào thời thế ấy. Cũng vậy, chỉ có người thông minh trí tuệ hiền hòa mới có thể nhận dùng pháp môn thâm sâu này và pháp này mới có thể đến tay của người đó.
Này Thiện Dũng Mãnh, ví như Long vương Trai Giới, Long vương Thiện Trụ, Long vương Aila-phiệt-moa, chúng không bị người sử dụng và để thấy mà xuất hiện, cũng không vì chúng trời khác sử dụng mà xuất hiện, chỉ được chúng trời thông minh trí tuệ tài giỏi sử dụng mà xuất hiện. Ví như khi Thiên đế Thích nghĩ chuẩn bị nơi chốn để cùng chúng trời đi dạo chơi thì các con rồng ấy hiện làm tướng trạng như vậy trước mặt Đế Thích nên được Thiên đế Thích sử dụng. Cũng vậy, chỉ có Thiện Sĩ mới có thể sử dụng pháp môn thâm sâu này, vị ấy lắng nghe, thọ trì, đọc tụng và giảng nói phân biệt cho các hữu tình; đối với pháp này, vị ấy là bậc Đại trang nghiêm, làm cho lưu thông, làm chiếu sáng đại pháp, thành tựu đại pháp hỷ và thọ nhận đại pháp lạc.
Này Thiện Dũng Mãnh, nếu ai đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà thọ trì dù chỉ một câu cũng đạt được vô lượng, vô biên công đức, huống gì họ được kinh Đại Bát-nhã này mà thọ trì, chuyển đọc, biên chép đầy đủ và cúng dường lưu truyền rộng rãi khắp cho người khác thì phước đức của người này đạt được không thể nghĩ bàn.
Này Thiện Dũng Mãnh, chỉ có người thông minh trí tuệ và từ hòa mới có thể hộ trì pháp môn này, còn người không thông minh trí tuệ và hòa nhã thì pháp môn này chẳng phải là cảnh giới của họ.
Này Thiện Dũng Mãnh, vì muốn cắt đứt mọi nghi ngờ cho các loài hữu tình mà Ta nói kinh Đại Bát-nhã như vậy.
Khi Đức Phật nói pháp này thì có vô lượng, vô số Đại Bồ-tát đắc được Vô sinh pháp nhẫn và có vô biên các loài hữu tình đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột.
Bấy giờ, Như Lai thọ ký cho họ nhất định sẽ chứng quả vị Giác ngộ cao tột.
Khi Đức Thế Tôn nói kinh này xong thì các Đại Bồ-tát như Thiện Dũng Mãnh và bốn chúng khác như Trời, Rồng, Dược-xoa, Càn-thát-bà, A-tố-lạc, Mạc-hô-lạc-già, Nhân phi nhân nghe Phật nói đều rất hoan hỷ, tín thọ và phụng hành.
Bát-Nhã Phật Mẫu Tâm Chú Đát da tha án già đế, già đế bát ra già đế, bát ra tăng già đế, Bồ-đề tát bà ha.
Bát-Nhã Phật Mẫu Thân Tâm Chú Án bát ra nương, bát ra nương, ma ha bát ra nương, ta bà ha.
Tiếp theo |
[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]