NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN X
PHÁP-HẠNH THIỀN-TUỆ
(VIPASSANĀBHĀVANĀ)
4-Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa
Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có trí-tuệ thiền-tuệ thứ ba sammasanañāṇa làm nền tảng, làm nhân-duyên để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại do nhân-duyên-sinh, do nhân-duyên-diệt, nên hiện rõ 3 trạng-thái chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa này phát sinh do nương nhờ trí-tuệ thứ nhất cho đến trí-tuệ thứ ba làm nền tảng, làm nhân-duyên như sau:
-Trí-tuệ thứ nhất thấy rõ, biết rõ, phân biệt rõ thật-tánh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).
-Trí-tuệ thứ nhì thấy rõ, biết rõ sự sinh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp do nhân-duyên-sinh.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ ba thấy rõ, biết rõ sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp do nhân-duyên-diệt.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 là tổng hợp 3 loại trí-tuệ trên làm nền tảng, làm nhân-duyên, để làm cho phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 gọi là udayabbayānupassanāñāṇa hoặc udayabbayañāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại, do nhân-duyên-sinh, do nhân-duyên-diệt, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
Udayabbayānupassanāñāṇa gồm có 3 từ udaya, vaya, anupassanāñāṇa.
- Udaya nghĩa là nibbattilakkhaṇa: Trạng-thái-sinh, do nhân-duyên-sinh.
- vaya[1] nghĩa là vipariṇāmalakkhaṇa: Trạng-thái-biến-chất, trạng-thái-diệt do nhân-duyên-diệt.
- anupassanāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thường dõi theo thấy rõ, biết rõ.
Udayabbayānupassanāñāṇa là trí-tuệ thiền-tuệ thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại, do nhân-duyên-sinh, do nhân-duyên-diệt, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa này mới chính thức gọi là trí-tuệ thiền-tuệ, bởi vì thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại, do nhân-duyên-sinh, do nhân-duyên-diệt, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa phát sinh, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại, do nhân-duyên-sinh, do nhân-duyên-diệt, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
Giảng giải:
- Sự sinh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại phát sinh do nhân-duyên-sinh.
- Sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại phát sinh do nhân-duyên-diệt.
- Sự sinh của sắc-pháp là do nhân-duyên-sinh.
- Sự diệt của sắc-pháp là do nhân-duyên-diệt.
- Sự sinh của danh-pháp là do nhân-duyên-sinh.
- Sự diệt của danh-pháp là do nhân-duyên-diệt.
1- Sự sinh của sắc-pháp là do nhân-duyên-sinh
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa này có khả năng thấy rõ, biết rõ sự sinh của sắc-pháp hiện-tại do 5 nhân-duyên-sinh (samudaya):
- Sự sinh của sắc-pháp là do vô-minh sinh.
- Sự sinh của sắc-pháp là do tham-ái sinh.
- Sự sinh của sắc-pháp là do nghiệp sinh.
- Sự sinh của sắc-pháp là do vật-thực sinh.
- Trạng-thái-sinh của sắc-pháp (nibbattilakkhaṇa).
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa này có khả năng thấy rõ, biết rõ sự sinh của sắc-pháp hiện-tại do nhân-duyên-sinh, nghĩa là trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 có khả năng thấy rõ, biết rõ quả sinh do thấy rõ, biết rõ nhân-duyên-sinh.
2- Sự diệt của sắc-pháp là do nhân-duyên-diệt
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa này có khả năng thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp hiện-tại do 5 nhân-duyên-diệt (nirodha):
- Sự diệt của sắc-pháp là do vô-minh diệt.
- Sự diệt của sắc-pháp là do tham-ái diệt.
- Sự diệt của sắc-pháp là do nghiệp diệt.
- Sự diệt của sắc-pháp là do vật-thực diệt.
- Trạng-thái-diệt của sắc-pháp (vipariṇāmalakkhaṇa).
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa này có khả năng thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp hiện-tại do nhân-duyên-diệt, nghĩa là trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 có khả năng thấy rõ, biết rõ quả diệt do thấy rõ, biết rõ nhân-duyên-diệt.
3- Sự sinh của danh-pháp là do nhân-duyên-sinh
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa này có khả năng thấy rõ, biết rõ sự sinh của danh-pháp hiện-tại do 5 nhân-duyên-sinh (samudaya):
- Sự sinh của danh-pháp là do vô-minh sinh.
- Sự sinh của danh-pháp là do tham-ái sinh.
- Sự sinh của danh-pháp là do nghiệp sinh.
- Sự sinh của danh-pháp là do sắc-pháp, danh-pháp sinh.
- Trạng-thái-sinh của danh-pháp (nibbattilakkhaṇa).
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa này có khả năng thấy rõ, biết rõ sự sinh của danh-pháp hiện-tại do nhân-duyên-sinh, nghĩa là trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 có khả năng thấy rõ, biết rõ quả sinh do thấy rõ, biết rõ nhân-duyên-sinh.
4- Sự diệt của danh-pháp là do nhân-duyên-diệt
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa này có khả năng thấy rõ, biết rõ sự diệt của danh-pháp hiện-tại do 5 nhân-duyên-diệt:
- Sự diệt của danh-pháp là do vô-minh diệt.
- Sự diệt của danh-pháp là do tham-ái diệt.
- Sự diệt của danh-pháp là do nghiệp diệt.
- Sự diệt của danh-pháp là do sắc-pháp, danh-pháp diệt.
- Trạng-thái-diệt của danh-pháp (vipariṇāmalakkhaṇa).
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa này có khả năng thấy rõ, biết rõ sự diệt của danh-pháp hiện-tại do nhân-duyên-diệt, nghĩa là trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 có khả năng thấy rõ, biết rõ quả diệt do thấy rõ, biết rõ nhân-duyên-diệt.
Sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp theo sát-na
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa có khả năng thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp:
- Sắc-pháp sinh theo sát-na-sinh.
- Sắc-pháp diệt theo sát-na-diệt.
- Danh-pháp sinh theo sát-na-sinh.
- Danh-pháp sinh theo sát-na-diệt.
* Sự sinh, sự diệt của danh-pháp
Danh-pháp đó là tâm với tâm-sở có sự sinh, sự diệt vô cùng mau lẹ. Như Đức-Phật dạy trong Chi-bộ-kinh, phần Ekakanipāta rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai không thấy pháp nào có sự sinh, sự diệt vô cùng mau lẹ như tâm.
Trong Chú-giải Pāḷi giảng giải rằng:
“Chỉ một lần búng đầu móng tay, tâm với tâm-sở (danh-pháp) sinh rồi diệt 1,000 tỷ lần.[2]
Mỗi tâm với tâm-sở có 3 sát-na là:
1-Uppāda khaṇa: Sát-na-sinh.
2-Ṭhiti khaṇa: Sát-na-trụ.
3-Bhaṅga khaṇa: Sát-na-diệt.
* Sự sinh, sự diệt của sắc-pháp
Sắc-pháp đó là nipphannarūpa có 18 sắc-pháp thật thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma)[3] nên có sự sinh, sự diệt chậm hơn sự sinh, sự diệt của danh-pháp so sánh với thời gian 3 sát-na sinh-trụ-diệt của danh-pháp.
Sắc-pháp có 4 lakkhaṇarūpa là:
1-Upacayarūpa: Sắc-pháp sinh.
2-Santatirūpa: Sắc-pháp liên tục.
3-Jaratārūpa: Sắc-pháp già-dặn.
4-Aniccatārūpa: Sắc-pháp diệt.
Sắc-pháp có 4 trạng-thái: Sắc-pháp sinh, sắc-pháp liên tục, sắc-pháp già-dặn, sắc-pháp diệt, so sánh với 3 sát-na: Sát-na-sinh, sát-na-trụ, sát-na-diệt của danh-pháp:
-Sắc-pháp-sinh của sắc-pháp là tương đương với sát-na-sinh của danh-pháp.
- Sắc-pháp liên tục và sắc-pháp già-dặn là tương đương với sát-na-trụ của danh-pháp.
- Sắc-pháp diệt của sắc-pháp là tương đương với sát-na-diệt của danh-pháp.
Sắc-pháp sinh và sắc-pháp diệt có thời gian 1 sát-na giống như sát-na-sinh và sát-na-diệt của danh-pháp.
Nhưng sắc-pháp trụ (sắc-pháp liên tục và sắc-pháp già-dặn) có thời-gian trụ lâu hơn sát-na-trụ của danh-pháp, bằng 49 sát-na-nhỏ của danh-pháp.
Ví dụ: Nhãn-môn lộ-trình-tâm (cakkhudvāravīthicitta) có đối-tượng sắc hình dạng rõ ràng gồm có đủ 17 sát-na-tâm, mỗi sát-na-tâm có 3 sát-na-nhỏ: Sát-na-sinh, sát-na-trụ, sát-na-diệt, nên 17 sát-na-tâm gồm có 51 sát-na nhỏ.
- Thời gian sinh-trụ-diệt của mỗi danh-pháp chỉ có 1 sát-na sinh, 1 sát-na trụ, 1 sát-na diệt mà thôi.
- Thời gian sinh-trụ-diệt của sắc-pháp có 1 sát-na-sinh, 1 sát-na-diệt giống như danh-pháp. Nhưng thời-gian trụ (sắc-pháp liên tục và sắc-pháp già-dặn) của sắc-pháp chậm hơn của danh-pháp, tương đương với 49 sát-na-nhỏ so sánh với sát-na-nhỏ của danh-pháp.
Xem đồ biểu nhãn-môn lộ-trình-tâm có đối-tượng sắc, hình dạng rõ ràng, để có sự so sánh giữa sát-na-sinh, sát-na-trụ, sát-na-diệt của danh-pháp với sắc-pháp.
Nhãn-môn lộ-trình-tâm (cakkhudvāravīthicitta)
Giải thích: Nhãn-môn lộ-trình-tâm
Nhãn-môn lộ-trình-tâm gồm có số tâm sinh rồi diệt theo tuần tự liên tục, có đối-tượng sắc rõ ràng.
Bắt đầu từ hộ-kiếp-tâm quá-khứ thứ nhất cho đến tiếp-đối tượng-tâm thứ 17 là chấm dứt nhãn-môn lộ-trình-tâm.
Nhãn-thức-tâm phát sinh do đối-tượng sắc rõ ràng tiếp xúc với nhãn-tịnh-sắc, theo nhãn-môn lộ-trình-tâm sinh rồi diệt tuần tự như sau:
Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm viết tắt (bha)
1-Atītabhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm quá-khứ vt (atī)
2-Bhavaṅgacalana: Hộ-kiếp-tâm rung động vt (na)
3-Bhavaṅgupaccheda: Hộ-kiếp-tâm bị cắt đứt vt (da)
4-Pañcadvāravajjanacitta: Ngũ-môn hướng-tâm vt (pañ)
5-Cakkhuviññāṇacitta: Nhãn-thức-tâm vt (cak)
6-Sampaṭicchanacitta: Tiếp-nhận-tâm vt (sam)
7-Santīraṇacitta: Suy-xét-tâm vt (san)
8-Voṭṭhabbanacitta: Xát-định-tâm vt (vot)
9-15-Javanacitta: Tác-hành-tâm vt (ja)
16-17-Tadālambana: Tiếp-đối-tượng-tâm vt (ta)
Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm vt (bha)
(Xem phần giải thích trong phần trước[4])
Sự sinh, sự diệt của ngũ-uẩn
Ngũ-uẩn là sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn, mà sự sinh, sự diệt của mỗi uẩn có 5 trạng-thái như sau:
1- Sự sinh, sự diệt của sắc-uẩn
* Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 thấy rõ, biết rõ sự sinh của sắc-uẩn hiện-tại do 5 nhân-duyên-sinh như sau:
- Sự sinh của sắc-uẩn là do vô-minh sinh.
- Sự sinh của sắc-uẩn là do tham-ái sinh.
- Sự sinh của sắc-uẩn là do nghiệp sinh.
- Sự sinh của sắc-uẩn là do vật-thực sinh.
- Trạng-thái-sinh của sắc-uẩn.
* Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-uẩn hiện-tại do 5 nhân-duyên-diệt như sau:
- Sự diệt của sắc-uẩn do vô-minh diệt.
- Sự diệt của sắc-uẩn do tham-ái diệt.
- Sự diệt của sắc-uẩn do nghiệp diệt.
- Sự diệt của sắc-uẩn do vật-thực diệt.
- Trạng-thái-diệt của sắc-uẩn.
2- Sự sinh, sự diệt của thọ-uẩn
* Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 thấy rõ, biết rõ sự sinh của thọ-uẩn hiện-tại do 5 nhân-duyên-sinh như sau:
- Sự sinh của thọ-uẩn do vô-minh sinh.
- Sự sinh của thọ-uẩn do tham-ái sinh.
- Sự sinh của thọ-uẩn do nghiệp sinh.
- Sự sinh của thọ-uẩn do xúc sinh.
- Trạng-thái-sinh của thọ-uẩn.
* Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 thấy rõ, biết rõ sự diệt của thọ-uẩn hiện-tại do 5 nhân-duyên-diệt như sau:
- Sự diệt của thọ-uẩn do vô-minh diệt.
- Sự diệt của thọ-uẩn do tham-ái diệt.
- Sự diệt của thọ-uẩn do nghiệp diệt.
- Sự diệt của thọ-uẩn do xúc diệt.
- Trạng-thái-diệt của thọ-uẩn.
3-4-Sự sinh, sự diệt của tưởng-uẩn, hành-uẩn
* Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 thấy rõ, biết rõ sự sinh của tưởng-uẩn, hành-uẩn hiện-tại do 5 nhân-duyên-sinh giống thọ-uẩn như sau:
- Sự sinh của tưởng-uẩn, hành-uẩn do vô-minh sinh.
- Sự sinh của tưởng-uẩn, hành-uẩn do tham-ái sinh.
- Sự sinh của tưởng-uẩn, hành-uẩn do nghiệp sinh.
- Sự sinh của tưởng-uẩn, hành-uẩn do xúc sinh.
- Trạng-thái-sinh của tưởng-uẩn, hành-uẩn.
* Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 thấy rõ, biết rõ sự diệt của tưởng-uẩn, hành-uẩn hiện-tại do 5 nhân-duyên-diệt giống thọ-uẩn như sau:
- Sự diệt của tưởng-uẩn, hành-uẩn do vô-minh diệt.
- Sự diệt của tưởng-uẩn, hành-uẩn do tham-ái diệt.
- Sự diệt của tưởng-uẩn, hành-uẩn do nghiệp diệt.
- Sự diệt của tưởng-uẩn, hành-uẩn do xúc diệt.
- Trạng-thái-diệt của tưởng-uẩn, hành-uẩn.
5-Sự sinh, sự diệt của thức-uẩn
* Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 thấy rõ, biết rõ sự sinh của thức-uẩn hiện-tại do 5 nhân-duyên-sinh như sau:
- Sự sinh của thức-uẩn do vô-minh sinh.
- Sự sinh của thức-uẩn do tham-ái sinh.
- Sự sinh của thức-uẩn do nghiệp sinh.
- Sự sinh của thức-uẩn do sắc-pháp, danh-pháp sinh.
- Trạng-thái-sinh của thức-uẩn.
* Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 thấy rõ, biết rõ sự diệt của thức-uẩn hiện-tại do 5 nhân-duyên-diệt như sau:
- Sự diệt của thức-uẩn do vô-minh diệt.
- Sự diệt của thức-uẩn do tham-ái diệt.
- Sự diệt của thức-uẩn do nghiệp diệt.
- Sự diệt của thức-uẩn do sắc-pháp, danh-pháp diệt.
- Trạng-thái-diệt của thức-uẩn.
* Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa có khả năng thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi uẩn hiện-tại do nhân-duyên-sinh, do nhân-duyên-diệt như vậy, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của mỗi uẩn hiện-tại ấy.
- Sắc-uẩn thuộc về sắc-pháp.
- Thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn thuộc về danh-pháp.
* Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự sinh của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại do nhân-duyên-sinh, nên diệt được tà-kiến loại ucchedadiṭṭhi: Đọan-kiến, và thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại do nhân-duyên-diệt, nên diệt được tà-kiến loại sassatadiṭṭhi: Thường-kiến.
* Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự sinh và sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại do nhân-duyên-sinh và do nhân-duyên-diệt, nên diệt được tà-kiến loại attadiṭṭhi: Ngã-kiến thấy sai, chấp lầm nơi danh-pháp, nơi sắc-pháp cho là ngã, là ta, là người, là người nam, là người nữ, là chúng-sinh, v.v…
Sự sinh, sự diệt của tứ-oai-nghi
Tứ-oai-nghi là oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi-ngồi, oai-nghi nằm là sắc-pháp phát sinh do tâm gọi là sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm như sau:
- Sắc-đi là sắc-pháp phát sinh do tâm đó là tư thế đi, dáng đi một cách tự nhiên.
- Sắc-đứng là sắc-pháp phát sinh do tâm đó là tư thế đứng, dáng đứng một cách tự nhiên.
- Sắc-ngồi là sắc-pháp phát sinh do tâm đó là tư thế ngồi, dáng ngồi một cách tự nhiên.
- Sắc-nằm là sắc-pháp phát sinh do tâm đó là tư thế nằm, dáng nằm một cách tự nhiên.
* Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự sinh của sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm hiện-tại do 5 nhân-duyên-sinh.
- Sự sinh của sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm hiện-tại là do vô-minh sinh.
- Sự sinh của sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm hiện-tại là do tham-ái sinh.
- Sự sinh của sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm hiện-tại là do nghiệp sinh.
- Sự sinh của sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm hiện-tại là do vật-thực sinh.
- Trạng-thái-sinh của sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm hiện-tại.
* Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm hiện-tại do 5 nhân-duyên-diệt như sau:
- Sự diệt của sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm hiện-tại là do vô-minh diệt.
- Sự diệt của sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm hiện-tại là do tham-ái diệt.
- Sự diệt của sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm hiện-tại là do nghiệp diệt.
- Sự diệt của sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm hiện-tại là do vật-thực diệt.
- Trạng-thái-diệt của sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm hiện-tại.
* Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa có khả năng thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm hiện-tại do nhân-duyên-sinh, do nhân-duyên-diệt như vậy, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của mỗi sắc-đi, mỗi sắc-đứng, mỗi sắc-ngồi, mỗi sắc-nằm hiện-tại ấy.
Trạng-thái-chung sāmaññalakkhaṇa
Tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp là pháp-hữu-vi (saṅkhatadhamma) thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramat-thadhamma) trong tam-giới đều có sự sinh, sự diệt, đều có 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới.
1- Trạng-thái vô-thường (aniccalakkhaṇa) với ý nghĩa là tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp sinh rồi diệt (aniccaṃ khayaṭṭhena), vì có rồi không (hutvā abhavaṭ-ṭhena aniccā).
2- Trạng-thái khổ (dukkhalakkhaṇa) với ý nghĩa là tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp thật là đáng kinh sợ, (dukkhaṃ bhayaṭṭhena), vì sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ (uppādavayapaṭipīḷanaṭṭhena dukkhā).
3- Trạng-thái vô-ngã (anattalakkhaṇa) với ý nghĩa là tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là vô dụng (anattā asārakaṭṭhena), vì không chiều theo ý muốn của ai cả (avasavattanaṭṭhena anattā).
Mỗi sắc-pháp nào, mỗi danh-pháp nào phát sinh do nhân-duyên nào sinh, rồi danh-pháp ấy, sắc-pháp ấy cũng diệt do nhân-duyên ấy diệt.
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa có 2 loại:
1- Taruṇa udayabbayānupassanāñāṇa là trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 4 còn non yếu.
2- Balava udayabbayānupassanāñāṇa là trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 4 có nhiều năng lực.
1- Taruṇa udayabbayānupassanāñāṇa
Taruṇa udayabbayānupassanāñāṇa là trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa còn non yếu, nên vipassanupakkilesa có 10 pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ là phi-đạo (amagga) phát sinh xen vào làm trở ngại trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa còn non yếu ấy không thể phát triển lên các trí-tuệ thiền-tuệ bậc cao được.
2- Balava udayabbayānupassanāñāṇa
Balava udayabbayānupassanāñāṇa là trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa có nhiều năng lực thoát khỏi vipassanupakkilesa: 10 loại pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ (vipassanupakkilesavimutta).
Hành-giả tiếp tục thực-hành đúng theo pháp-hành trung-đạo (majjhimāpaṭipadā), thực-hành đúng theo chánh-đạo (maggapaṭipadā), thực-hành đúng theo pháp-hành thiền-tuệ làm cho các trí-tuệ thiền-tuệ bậc cao phát triển, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân (tihetuka-puggala) có giới hạnh trong sạch làm nền tảng, có định-tâm vững vàng, có sự tinh-tấn không ngừng, đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa phát sinh, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp, do nhân-duyên-sinh, do nhân-duyên-diệt, nên hiện rõ 3 trạng thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới.
Đối với hành-giả ấy ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, tuy trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupas-sanāñāṇa này đã phát sinh, nhưng vẫn còn non yếu, gọi là taruṇa udayabbayānupassanāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa còn non yếu, nên vipassanupakkilesa: Pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ phát sinh xen vào làm trở ngại trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa còn non yếu ấy, không thể phát triển lên các trí-tuệ thiền-tuệ bậc cao hơn được.
Vipassanupakkilesa là thế nào? Vipassanupakkilesa là do 2 danh từ ghép:
Vipassanā + upakkilesa
- Vipassanā đó là trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayab-bayānupassanāñāṇa còn non yếu.
- upakkilesa: Pháp bẩn đó là tà-kiến, ngã-mạn, tham-ái phát sinh xen vào làm trở ngại trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa còn non yếu không thể phát triển lên trí-tuệ thiền-tuệ bậc cao được.
Vipassanupakkilesa có 10 loại pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa còn non yếu đó là obhāsa, ñāṇa, pīti, passaddhi, sukha, adhimokkha, paggaha, upaṭṭhāna, upekkhā, nikanti.
Trong 10 pháp này có 9 loại pháp bẩn kể từ obhāsa cho đến upekkhā thuộc về thiện-pháp, không phải ác-pháp, chỉ là đối-tượng của tà-kiến, ngã-mạn, tham-ái mà thôi.
Còn nikanti không chỉ là đối-tượng của tà-kiến, ngã-mạn, tham-ái, mà còn là phiền-não vô cùng vi-tế khó biết được nữa.
10 loại pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayab-bayānupassanāñāṇa còn non yếu ấy thật là lạ thường, chưa từng có từ trước đây đối với hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, làm cho hành-giả hài lòng hoan hỷ dính mắc nơi pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ ấy, rồi thấy sai, chấp lầm nơi pháp bẩn ấy không phải Thánh-đạo cho là Thánh-đạo, không phải Thánh-quả cho là Thánh-quả. Cho nên, các trí-tuệ thiền-tuệ bậc cao không phát triển được.
Vấn: Vipassanupakkilesa: Pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ phát sinh đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ khi nào?
- Và không phát sinh đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thuộc hạng hành-giả nào?
Đáp: Vipassanupakkilesa: Pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ này phát sinh đối với hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có sự tinh-tấn thực-hành đúng theo pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa phát sinh còn non yếu.
- Và vipassanupakkilesa: Pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ không phát sinh đối với 4 hạng hành-giả sau:
1- Bậc Thánh-nhân đã từng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn rồi.
2- Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ không đúng theo pháp-hành trung-đạo, nghĩa là không đúng theo pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ.
3- Hành-giả không tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ nữa. (ngưng không thực-hành pháp-hành thiền-tuệ).
4- Hành-giả tuy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ đúng ở giai đọan ban đầu, nhưng là hạng hành-giả không có sự tinh-tấn nhiều.
Đối với 4 hạng hành-giả này, vipassanupakkilesa: Pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ, không phát sinh.
Vipassanupakkilesa: Pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ Vipassanupakkilesa có 10 pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ:
1-Obhāsa: Ánh sáng phát sinh từ trí-tuệ thiền-tuệ.
2-Ñāṇa: Trí-tuệ của trí-tuệ thiền-tuệ.
3- Pīti: Hỷ đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ.
4- Passadhi: An-tịnh đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ.
5- Sukha: An-lạc đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ.
6-Adhimokkha: Đức-tin phát sinh từ trí-tuệ thiền-tuệ.
7-Paggaha: Tinh-tấn phát sinh từ trí-tuệ thiền-tuệ.
8-Upaṭṭhāna: Niệm phát sinh từ trí-tuệ thiền-tuệ.
9-Upekkhā: Xả đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ.
10-Nikanti: Tâm ham muốn phát sinh trong 9 pháp bẩn từ obhāsa cho đến upekkhā ở trên.
Đó là 10 loại pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ[5] phát sinh đối với hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có sự tinh-tấn nhiều, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa phát sinh còn non yếu.
-Hành-giả hiểu lầm, bị dính mắc trong pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ ấy, nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 ấy không thể phát triển lên trí-tuệ thiền-tuệ bậc cao được, bởi vì hiểu sai chấp lầm nơi pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ ấy, rồi cho là “Ta đã chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả!”
Cho nên, hành-giả vô cùng hoan hỷ hài lòng dính mắc trong pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ ấy.
1- Obhāsa: Vipassanobhāsa: Ánh sáng phát sinh từ trí-tuệ thiền-tuệ.
Đối với hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanā-ñāṇa phát sinh, đang còn non yếu, đồng thời ánh sáng này cũng phát sinh với trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 còn non yếu ấy.
Vipassanobhāsa: Ánh sáng phát sinh từ trí-tuệ thiền-tuệ thật là lạ thường chưa từng thấy trước đây bao giờ, nên hành-giả hiểu sai chấp lầm là “ánh sáng như thế này chưa từng có từ trước đây bao giờ! Vậy, chắc chắn ta đã chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả rồi!”
Do hiểu sai như vậy, nên hành-giả chấp lầm pháp ánh sáng ấy không phải là Thánh-đạo cho là Thánh-đạo, pháp ánh sáng ấy không phải là Thánh-quả cho là Thánh-quả.
Vì vậy, hành-giả bỏ đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp gốc mà trước đây trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa đã thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái-vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại ấy.
Bây giờ, hành-giả hài lòng hoan hỷ nơi vipassano-bhāsa: Ánh sáng phát sinh từ trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 ấy.
Vipassanobhāsa: Ánh sáng phát sinh từ trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 ấy tỏa ra hẹp hoặc rộng như thế nào tuỳ theo năng lực định-tâm của mỗi hành-giả.
- Ánh sáng này tỏa ra trong căn phòng, trong chùa.
- Ánh sáng này tỏa rộng ra nửa do-tuần.
- Ánh sáng này tỏa rộng ra 1 do-tuần.
- Ánh sáng này tỏa rộng ra 2, 3, 4, 5, … do-tuần.
- Ánh sáng này tỏa rộng ra từ mặt đất lên đến các tầng trời dục-giới, đến các tầng trời sắc-giới phạm-thiên, cho đến tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.
Vipassanobhāsa: Ánh sáng phát sinh từ trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 ấy thường phát sinh đối với hành-giả trước kia đã từng thực-hành pháp-hành thiền-định, đã chứng đắc các bậc thiền, rồi tiếp theo thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānu-passanāñāṇa phát sinh còn non yếu, nên ánh sáng cũng phát sinh từ trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 còn non yếu ấy.
Vipassanobhāsa: Ánh sáng phát sinh từ trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 ấy gọi là vipassanupakkilesa, bởi vì không chỉ làm trở ngại trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayañāṇa còn non yếu không thể phát triển lên các trí-tuệ thiền-tuệ bậc cao, mà còn làm đối-tượng của tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến chấp thủ nữa.
Tuy nhiên, trường hợp ánh sáng phát sinh từ trí-tuệ toàn-giác (sabbaññutañāṇa) của Đức-Phật Gotama có khả năng chiếu sáng thấu suốt 10.000 thế giới chúng-sinh, thì không phải là vipassanupakkilesa.
2- Ñāṇa: Vipassanāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ
Đối với hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanā-ñāṇa phát sinh còn non yếu. Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 này đang thấy rõ, biết rõ sâu sắc sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp, thì trí-tuệ đặc biệt vô cùng sắc bén, thấu suốt các pháp phát sinh chưa từng có từ trước đây như thế này bao giờ.
Vì vậy, hành-giả hiểu sai, chấp lầm là “Ta đã chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả rồi!”
Do hiểu sai như vậy, nên hành-giả chấp lầm trí-tuệ ấy không phải là Thánh-đạo cho là Thánh-đạo, trí-tuệ ấy không phải là Thánh-quả cho là Thánh-quả.
Cho nên hành-giả bỏ đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp gốc, …
Bây giờ, hành-giả hài lòng hoan hỷ nơi trí-tuệ đặc biệt này
3- Pīti: Vipassanāpīti: Hỷ đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ
Đối với hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanā-ñāṇa phát sinh đang còn non yếu, đồng thời hỷ tâm-s (pīti) đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 còn non yếu ấy.
Pīti có 5 loại:
1- Khuddakāpīti: Hỷ chút ít, cảm giác nổi da gà.
2- Khaṇikāpīti: Hỷ mỗi sát-na, cảm nhận như tia chớp.
3- Okkantikāpīti: Hỷ có trạng-thái rung người qua lại, như ngồi trên thuyền có sóng nhấp nhô.
4- Ubbegāpīti: Hỷ có trạng-thái làm cho thân tâm nhẹ như bay bổng lên.
5- Pharaṇāpīti: Hỷ có trạng-thái tỏa khắp toàn thân, tâm an-lạc trong thời gian lâu.
Pharaṇāpīti: Hỷ có trạng-thái tỏa khắp toàn thân, tâm an-lạc trong thời gian lâu đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa còn non yếu, nên hành-giả cảm giác pháp hỷ có trạng-thái tỏa khắp toàn thân, tâm an-lạc trong thời gian lâu chưa từng có từ trước đây như thế này bao giờ.
Vì vậy, hành-giả hiểu sai, chấp lầm là“Ta đã chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả rồi!”…
Do hiểu sai như vậy, nên hành-giả chấp lầm pháp hỷ ấy không phải là Thánh-đạo cho là Thánh-đạo, pháp hỷ ấy không phải là Thánh-quả cho là Thánh-quả.
Cho nên hành-giả bỏ đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp gốc…
Bây giờ, hành-giả hài lòng hoan hỷ nơi pháp hỷ ấy.
4- Passaddhi: Vipassanāpassaddhi: An-tịnh đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ.
Đối với hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành-thiền tuệ, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanā-ñāṇa phát sinh đang còn non yếu, đồng thời có an-tịnh tâm-sở đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 còn non yếu ấy.
- Không có sự nóng nảy bực dọc.
- Không có sự nặng nề khó chịu.
- Tay chân không cứng nhắc.
- Không có sự cử động khó khăn.
- Không có sự khổ thân, khổ tâm.
- Không có sự giả dối.
Mà chỉ có cảm giác thân và tâm an-tịnh như:
- Thân tâm thanh-tịnh an lành.
- Thân tâm nhẹ nhàng.
- Thân tâm nhu nhuyến.
- Thân tâm uyển chuyển.
- Thân tâm trong sáng.
- Sự chân thật ngay thẳng.
Hành-giả cảm giác thân tâm an-tịnh chưa từng có từ trước đây như thế này bao giờ.
Vì vậy, hành-giả hiểu sai, chấp lầm là “Ta đã chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả rồi!”…
Do hiểu sai như vậy, nên hành-giả chấp lầm pháp an-tịnh ấy, không phải là Thánh-đạo cho là Thánh-đạo, pháp an-tịnh ấy không phải là Thánh-quả cho là Thánh-quả.
Cho nên hành-giả bỏ đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp gốc…
5- Sukha: Vipassanāsukha: An-lạc đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ.
Đối với hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanā-ñāṇa phát sinh đang còn non yếu, đồng thời thọ lạc tâm-sở đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 còn non yếu ấy.
Pháp an-lạc vô cùng vi-tế phát sinh làm cho toàn thân và tâm cảm giác an-lạc không sao diễn tả được. Pháp an-lạc lạ thường chưa từng có từ trước đây như thế này bao giờ.
Vì vậy, hành-giả hiểu sai, chấp lầm là “Ta đã chứng
đắc Thánh-đạo, Thánh-quả rồi!”…
Do hiểu sai như vậy, nên hành-giả chấp lầm thọ lạc ấy, không phải là Thánh-đạo cho là Thánh-đạo; thọ lạc ấy không phải là Thánh-quả cho là Thánh-quả.
Cho nên hành-giả bỏ đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp gốc…
Bây giờ, hành-giả hài lòng hoan hỷ nơi thọ lạc ấy.
6- Adhimokkha: Saddhā, vipassanāsaddhā: Đức-tin đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ.
Đối với hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānu-passanāñāṇa phát sinh đang còn non yếu, đồng thời đức-tin tâm-sở đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 còn non yếu ấy.
Adhimokkha trở nên vipassanupakkilesa là sự trong sáng của đại-thiện-tâm có đức-tin vô cùng trong sạch và nhiều năng lực. Tâm với tâm-sở trong sáng có đức-tin trong sạch hoàn toàn như vậy, nên hành-giả nghĩ rằng:
“Ta muốn những người thân của ta cũng thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, để họ có đức-tin trong sạch như ta.”
“Ta có được đức-tin hoàn toàn trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo như thế này là nhờ vị Thầy chỉ dạy pháp-hành thiền-tuệ cho ta. Ân đức Thầy thật vô cùng lớn lao quá đối với ta.”
Thấy đức-tin hoàn toàn trong sạch như vậy, nên hành-giả nghĩ rằng: “Đức-tin hoàn toàn trong sạch như thế này chưa từng có từ trước đây bao giờ.”
Vì vậy, hành-giả hiểu sai, chấp lầm là “Ta đã chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả rồi!”…
Do hiểu sai như vậy, nên hành-giả chấp lầm nơi đức-tin ấy, không phải là Thánh-đạo cho là Thánh-đạo, đức-tin ấy không phải là Thánh-quả cho là Thánh-quả.
Cho nên hành-giả bỏ đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp gốc…
Bây giờ, hành-giả hài lòng hoan hỷ nơi đức-tin ấy.
Thật ra, đức-tin hoàn toàn trong sạch là điều tốt, dù đức-tin đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 còn non yếu vẫn là đức-tin trong sạch thanh-tịnh mà người thường không dễ có được, nhưng đức-tin ấy trở thành vipassanu-pakkilesa, bởi vì tâm hài lòng hoan hỷ trong đức-tin ấy, mà sao lãng phận sự thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, làm cho trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa còn non yếu không phát triển lên các trí-tuệ thiền-tuệ bậc cao.
7- Paggāha: Vipassanāvīriya: Tinh-tấn đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ.
Đối với hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanā-ñāṇa phát sinh, đang còn non yếu đồng thời tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 còn non yếu ấy.
“Từ trước đây, dù có vị Thiền-sư thường động viên khuyến khích ta cố gắng tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, mà vẫn cảm thấy khó khăn, mệt nhọc, không thể cố gắng tinh-tấn nổi. Nhưng bây giờ, ta có tâm tinh-tấn đặc biệt tự nhiên, thuận lợi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, thì thật là lạ thường chưa từng có từ trước đây bao giờ.”
Vì vậy, hành-giả hiểu sai, chấp lầm là “Ta đã chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả rồi!”…
Do hiểu sai như vậy, nên hành-giả chấp lầm pháp tinh-tấn ấy, không phải là Thánh-đạo cho là Thánh-đạo, pháp tinh-tấn ấy không phải là Thánh-quả cho là Thánh-quả.
Cho nên, hành-giả bỏ đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp gốc…
Bây giờ, hành-giả hài lòng hoan hỷ nơi pháp tinh-tấn ấy.
8- Upaṭṭhāna: Sati: Niệm đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ.
Đối với hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanā-ñāṇa phát sinh đang còn non yếu, đồng thời niệm tâm-sở đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 còn non yếu ấy.
Nếu sati là sammāsati: Chánh-niệm thì đó là niệm-thân, niệm-thọ, niệm-tâm, niệm-pháp mà thôi, gọi là pháp-hành tứ-niệm-xứ.
Upaṭṭhāna: Sati là vipassanupakkilesa là niệm tâm-sở đồng sinh với trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānu-passanāñāṇa có khả năng đặc biệt niệm ghi nhớ vững chắc các đối-tượng, không bị lay động.
Đó là niệm chưa từng có từ trước đây như thế này bao giờ.
Vì vậy, hành-giả hiểu sai, chấp lầm là “Ta đã chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả rồi!”…
Do hiểu sai như vậy, nên hành-giả chấp lầm pháp upaṭṭhāna: Sati ấy không phải là Thánh-đạo cho là Thánh-đạo, pháp upaṭṭhāna: Sati ấy không phải là Thánh-quả cho là Thánh-quả.
Cho nên hành-giả bỏ đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp gốc…
Bây giờ, hành-giả hài lòng hoan hỷ nơi pháp upaṭṭhāna: Sati ấy.
9- Upekkhā: Vipassanupekkhā và āvajjanupekkhā:
- Vipassanupekkhā: Xả là tâm trung-dung trong tất cả mọi pháp-hữu-vi.
- Āvajjanupekkhā: Xả là tâm trung-dung khi phát sinh trong ý môn.
Upekkhā này phát sinh đối với hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa phát sinh đang còn non yếu, đồng thời upekkhā phát sinh với trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 còn non yếu ấy.
Đó là tâm upekkhā nhiều năng lực vững chắc, dù có đối-tượng như thế nào tiếp xúc, tâm vẫn không lay động, tâm có upekkhā đặt trung-dung trong mọi đối-tượng. Cho nên hành-giả cảm thấy quá lạ thường chưa từng có bao giờ. Vì vậy, hành-giả hiểu sai chấp lầm là “Ta là bậc Thánh A-ra-hán rồi! Bởi vì tâm upekkhā của ta đặt trung-dung trong mọi đối-tượng, không còn tham muốn hoặc nhàm chán nữa.
Sự diệt phiền-não, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn là như vậy!”
Đó là do tà-kiến nương nhờ upekkhā ấy.
- Tiếp theo nghĩ sai rằng:“Ta là người có đầy đủ các pháp-hạnh ba-la-mật, nên thực-hành không lâu thì chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt mọi phiền-não dễ dàng như vậy, không có ai như ta.”
Đó là do ngã mạn nương nhờ upekkhā ấy.
- Tiếp theo nghĩ sai rằng: “Ta được an nhiên tự tại rồi. Đối với tất cả mọi đối-tượng, ta không còn tham muốn, cũng không nhàm chán nữa. Đối với mọi người, ta không còn thương, không còn ghét, không còn vui, không còn buồn, không còn lo lắng khổ tâm như mọi người nữa. Xin cho tôi luôn luôn được như vậy.”
Đó là do tham-ái nương nhờ upekkhā ấy.
Thật ra, tâm upekkhā này là vipassanupakkilesa thuộc về thiện-pháp, không phải ác-pháp, nhưng hành-giả hiểu sai, chấp lầm upekkhā này nên làm nơi nương nhờ của tà-kiến, ngã-mạn, tham-ái phát sinh.
10- Nikanti: Vipassanānikanti: Tâm ham muốn phát sinh từ trí-tuệ thiền-tuệ.
Đối với hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanā-ñāṇa phát sinh đang còn non yếu, đồng thời tâm ham muốn phát sinh từ trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 còn non yếu ấy.
Nikanti: Tâm ham muốn này vô cùng vi-tế, có trạng-thái ham thích phát sinh đến với hành-giả, làm cho hành-giả ham mê trong các pháp vipassanupakkilesa từ obhāsa, ñāṇa, pīti, passaddhi, sukha, adhimokkha, paggaha, upaṭṭhāna, upekkhā.
Nikanti: Tâm ham muốn vô cùng vi-tế, có trạng-thái ham thích trong các pháp vipassanupakkilesa, mà không dễ có ai biết được rằng: Tâm ham muốn này là kilesa: Phiền-não (tham-ái).
Cũng như các pháp vipassanupakkilesa như obhāsa, ñāṇa, v.v… khác, nikanti: Tâm ham muốn tha thiết trong các pháp từ obhāsa cho đến upekkhā thật là lạ thường chưa từng có từ trước đây như thế này bao giờ, nên hành-giả hiểu sai chấp lầm là “ta đã chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả rồi!”
Do hiểu sai như vậy, nên hành-giả chấp lầm pháp nikanti ấy, không phải là Thánh-đạo cho là Thánh-đạo, pháp nikanti ấy không phải là Thánh-quả cho là Thánh-quả.
Vì vậy, hành-giả bỏ đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp gốc mà trước đây trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa đã thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
Bây giờ, hành-giả hài lòng hoan hỷ nơi nikanti: Tâm ham muốn phát sinh từ 9 pháp phiền-não từ obhāsa cho đến upekkhā.
* Tích Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera
Tích Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera[6] được tóm lược như sau:
Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera trú tại Uccavālika, là vị Thầy của Ngài Trưởng-lão Dhammadinnatthera.
Ngài Trưởng-lão Dhammadinnatthera ở tại Talaṅgara, chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với tứ tuệ phân tích, các phép thần-thông.
Một hôm, ngồi nghỉ trưa, Ngài Trưởng-lão Dhamma-dinnatthera suy xét rằng:
“Kinnu kho amhākaṇ ācariyassa Uccavālikavāsīmahā-nāgattherassa samaṇabhāvakiccaṃ matthakaṃ pattaṃ, no.”
“Phận sự của bậc xuất gia nên thực-hành của Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera trú tại Uccavālika, vị Thầy của chúng ta đã hoàn thành hay chưa?”
“Với tâm thần-thông, Ngài Trưởng-lão thấy rõ, biết rõ Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera vẫn còn là hạng phàm-nhân, chưa phải bậc Thánh-nhân. Nếu ta không đến thức tỉnh Ngài Trưởng-lãoMahānāgatthera thì Ngài sẽ vẫn còn là hạng phàm-nhân đến khi chết.”
Sau khi suy xét như vậy, dùng phép thần thông bay lên hư không, Ngài Trưởng-lão Dhammadinnatthera đến hầu đảnh lễ Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera, rồi ngồi một nơi hợp lẽ.
Thấy Ngài Trưởng-lão Dhammadinnatthera đến không phải lúc, Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera bèn hỏi rằng:
- Này Dhammadinna! Có việc gì mà con đến gặp thầy trong lúc này vậy con?
Ngài Trưởng-lão Dhammadinnatthera bạch rằng:
- Kính bạch Thầy, con đến để hỏi những câu hỏi, kính xin Thầy giải đáp.
- Này Dhammadinna! Con hãy hỏi những câu hỏi ấy, nếu biết thì Thầy giải đáp cho con rõ.
Được có cơ hội, Ngài Trưởng-lão Dhammadinnat-thera bạch hỏi hằng ngàn câu hỏi, câu hỏi nào Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera đều giải đáp rành rẽ đúng đắn hợp với giáo pháp của Đức-Phật. Ngài Trưởng-lão Dhammadinnatthera tán dương ca tụng trí-tuệ của Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera, tiếp theo Ngài Trưởng-lão Dhammadinnatthera bạch hỏi rằng:
- Kính bạch Thầy, Thầy đã trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với tứ tuệ phân tích từ khi nào vậy? Bạch Thầy.
“Ito saṭṭhivassakāle, āvuso.”
- Này Dhammadinna! Thầy đã trở thành bậc Thánh A-ra-hán cách đây 60 năm qua rồi.
- Kính bạch Thầy, xin Thầy hóa phép thần thông?
- Này Dhammadinna! Điều ấy không khó đối với Thầy.
- Kính bạch Thầy, xin Thầy hóa ra một con voi.
Nghe Ngài Trưởng-lão Dhammadinnatthera yêu cầu như vậy, Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera liền hóa ra một con bạch tượng to lớn.
Ngài Trưởng-lão Dhammadinnatthera yêu cầu Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera sai khiến cho con bạch tượng dựng 2 lỗ tai, dựng thẳng đuôi, dở vòi chạy đến.
Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera sai khiến con bạch tượng làm như vậy.
Khi nhìn con bạch tượng chạy nhào đến như gây tai hoạ thì Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera đứng dậy để chạy thoát thân.
Ngay khi ấy, Ngài Trưởng-lão Dhammadinnatthera nắm chéo y của Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera, rồi bạch rằng:
“Bhante, khīṇāsavassa sārajjaṃ nāma hoti.”
-Kính bạch Thầy, gọi là bậc Thánh A-ra-hán có còn sợ hãi nữa không?”
Ngay khi ấy, Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera mới biết mình còn là phàm-nhân, nên xin Ngài Trưởng-lão Dhammadinnatthera rằng:
“Avassayo me āvuso Dhammadinna hohi.”
-Này Dhammadinna! Xin con làm nơi nương nhờ của Thầy! Rồi Ngài Trưởng-lão ngồi chồm hổm dưới chân. (padamūle ukkuṭikaṃ nisīdi).
-Kính bạch Thầy, con đã đến đây, chỉ làm nơi nương nhờ của Thầy mà thôi. Kính xin Thầy không nên bận tâm.
Sau khi học đối-tượng thiền-tuệ ấy xong, Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera bắt đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, sử dụng oai-nghi đi gọi là sắc-đi đến bước thứ ba, (tatiye padavāre), liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán ngay khi ấy.
Thật ra, 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm chỉ có khả năng diệt bằng cách chế-ngự, đè nén phiền-não (vikkhambhanappahāna) mà thôi, nếu khi có cơ hội thì phiền-não phát sinh trở lại; chỉ có 4 Thánh-đạo-tuệ mới có khả năng diệt tận được (samucchedappahāna) mọi phiền-não mà thôi. Phiền-não nào đã bị diệt tận được rồi, bất cứ cơ hội nào, phiền-não ấy cũng không bao giờ phát sinh lên được nữa.
Trường hợp Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera từ trước đây vốn đã chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, nên chỉ có khả năng diệt bằng cách chế-ngự, đè nén phiền-não (vikkham-bhanappahāna) mà thôi, cho nên suốt 60 năm, phiền-não nào cũng không phát sinh. Vì vậy, Ngài Trưởng-lão Mahānāgatthera tưởng lầm là “ta đã trở thành bậc Thánh A-ra-hán”.
Pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ có 10 loại
Tóm lại, mười loại pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa còn non yếu như sau:
- Chín loại pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa còn non yếu kể từ obhāsa cho đến upekkhā thuộc về thiện-pháp, không phải là ác-pháp, chỉ là đối-tượng của tà-kiến, ngã-mạn, tham-ái mà thôi.
- Nikanti không chỉ là đối-tượng của phiền-não tà-kiến, ngã-mạn, tham-ái mà còn là phiền-não nữa.
Tà-kiến, ngã-mạn, tham-ái chấp thủ trong 10 loại pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupas-sanāñāṇa còn non yếu như thế nào?
Đối với hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanā-ñāṇa phát sinh đang còn non yếu, nên thường phát sinh vipassanupakkilesa gồm có 10 loại pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 ấy.
Mười loại pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ ấy không những làm trở ngại cho trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayab-bayānupassanāñāṇa còn non yếu không thể phát triển lên trí-tuệ thiền-tuệ bậc cao được, mà còn làm đối-tượng của tà-kiến, ngã-mạn, tham-ái dính mắc trong 10 loại pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ ấy nữa.
Ví dụ: Obhāso: Ánh sáng phát sinh từ trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa còn non yếu ấy rằng:
“Mama obhāso uppanno.”
Ánh sáng đã phát sinh đến với ta rồi!
Nếu hành-giả chấp thủ như vậy, thì gọi là diṭṭhigāha: Chấp thủ do năng lực của tà-kiến.
“Manāpo vata obhāso uppanno.”
Ánh sáng đã phát sinh đối với ta, xinh đẹp lạ thường thật đáng hài lòng hoan hỷ quá!
Nếu hành-giả chấp thủ như vậy, thì gọi là mānagāha: Chấp thủ do năng lực của ngã-mạn.
“Obhāsaṃ assādayato.”
Hành-giả vô cùng hài lòng hoan hỷ nơi ánh sáng ấy.
Nếu hành-giả chấp thủ như vậy, thì gọi là taṇhāgāha: Chấp thủ do năng lực của tham-ái.
Chín pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayab-bayānupassanāñāṇa còn non yếu còn lại cũng tương tự như obhāsa, mỗi vipassanupakkilesa có tà-kiến, ngã-mạn, tham-ái chấp thủ như vậy, nên 10 loại pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ ấy gồm có 30 loại pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa còn non yếu ấy.
* Không nhận thức được pháp bẩn của thiền-tuệ
Hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, chưa có đủ kinh nghiệm, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa phát sinh còn non yếu, nên thường phát sinh vipassanupakkilesa: Pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ có 10 pháp là obhāsa, ñāṇa, pīti, passaddhi, sukha, adhimokkha, paggaha, upaṭṭhāna, upekkhā, nikanti thật lạ thường mà hành-giả chưa từng có từ trước đây như thế này bao giờ.
Hơn nữa, hành-giả là người ban đầu phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 còn non yếu, tâm không biết nhận thức như thế nào là magga: Chánh-đạo, như thế nào là amagga: Phi-đạo, nên chấp thủ trong vipassanupak-kilesa: 10 pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ ấy, do năng lực của tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến chấp thủ rằng:
“Etaṃ mama, eso’ham’asmi, eso me attā.”
- Pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ ấy là của ta (etaṃ mama) chấp thủ do năng lực của tâm tham-ái.
- Pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ ấy là ta (eso’ ham’asmi) chấp thủ do năng lực của tâm ngã-mạn.
- Pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ ấy là tự ngã của ta (eso me attā) chấp thủ do năng lực của tâm tà-kiến.
Mười pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 còn non yếu ấy bị chấp thủ do năng lực của tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến, nên gồm có 30 pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 còn non yếu ấy.
Thật ra, trong 10 loại pháp bẩn của trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa còn non yếu ấy, có 9 pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 ấy kể từ obhāsa, ñāṇa, pīti, passaddhi, sukha, adhimokkha, paggaha, upaṭṭhāna, upekkhā thuộc về thiện-pháp, không phải là ác-pháp, bởi vì 9 pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 còn non yếu ấy phát sinh do hành-giả đã thực-hành pháp-hành thiền-tuệ đúng theo pháp-hành trung-đạo phần đầu, đạt đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanā-ñāṇa tuy còn non yếu, nhưng không phải là điều dễ được.
Sở dĩ 9 pháp ấy gọi là vipassanupakkilesa: Pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ là vì tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến nương nhờ nơi 9 pháp ấy làm cho 9 pháp ấy trở thành pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānu-passanāñāṇa còn non yếu ấy.
* Nhận thức được pháp bẩn của thiền-tuệ
- 10 pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbyānu-passanāñāṇa ấy, đó là amagga: Phi-đạo không dẫn đến chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
- Còn đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp mà trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa đã thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại, đã thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại, đó chính là chánh-đạo (magga) dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tà-kiến, mọi tham-ái, mọi ngã-mạn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Khi ấy, 9 pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayab-bayānupassanāñāṇa không còn bẩn nữa, bởi vì tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến không còn nương nhờ nơi 9 pháp vipassanupakkilesa ấy nữa. Cho nên, 9 loại pháp ấy trở lại thuần tuý thiện-pháp mà thôi.
“Netaṃ mama, neso’ham’asmi, na meso attā.”
- Pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ ấy không phải là của ta (netaṃ mama), không còn chấp thủ do năng lực của tâm tham-ái.
- Pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ ấy không phải là ta (neso’ham’asmi), không còn chấp thủ do năng lực của tâm ngã-mạn.
- Pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ ấy không phải là tự ngã của ta (na meso attā), không còn chấp thủ do năng lực của tâm tà-kiến.
Ví dụ: Ñāṇa: Vipassanāñāṇa là vipassanupakkilesa như sau:
- Ñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ ấy không phải là của ta (netaṃ mama), không còn chấp thủ do năng lực của tâm tham-ái.
- Ñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ ấy không phải là ta (neso’ham’asmi), không còn chấp thủ do năng lực của tâm ngã-mạn.
- Ñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ ấy không phải là tự ngã của ta (na meso attā), không còn chấp thủ do năng lực của tâm tà-kiến.
Khi ấy, hành-giả là bậc thiện-trí có trí-tuệ sáng suốt, sâu sắc thấu suốt, biết nhận thức thấy rõ, biết rõ rằng:
- Mười pháp vipassanupakkilesa là amagga: Phi-đạo không phải là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không phải là pháp-hành dẫn đến chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
- Và đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại mà trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanā-ñāṇa đã thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại; đã thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại. Đó chính là magga: Chánh-đạo đúng là pháp-hành trung-đạo, pháp-hành thiền-tuệ là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, là pháp-hành dẫn đến chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền-não, mọi tham-ái, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Sau khi biết nhận thức đúng đắn thấy rõ, biết rõ như vậy, hành-giả từ bỏ amagga: Phi-đạo thực-hành theo magga: Chánh-đạo đó là thực-hành theo pháp-hành trung-đạo, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ như trước, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanā-ñāṇa phát sinh trở lại có nhiều năng lực, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại, do nhân-duyên-sinh, do nhân-duyên-diệt, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa có năng lực phát sinh, chính thức đạt đến pháp-thanh-tịnh thứ 5 gọi là maggāmaggañāṇadassanavisuddhi: Chánh-đạo phi-đạo tri-kiến thanh-tịnh là pháp-thanh-tịnh thứ 3 trong pháp-hành thiền-tuệ.
Khi đạt đến pháp-thanh-tịnh thứ 5, maggāmagga-ñāṇadassanavisuddhi: Chánh-đạo phi-đạo tri-kiến thanh-tịnh, thì xem như hành-giả biết rõ được 3 sự thật chân-lý với trí-tuệ trong tam-giới (lokiyañāṇa) như sau:
- Hành-giả thấy rõ, biết rõ sự-thật chân-lý khổ-đế (dukkhasacca) với trí-tuệ thứ nhất nāmarūpapariccheda-ñāṇa, đạt đến pháp-thanh-tịnh thứ 3 diṭṭhivisuddhi: Chánh-kiến thanh-tịnh.
- Hành-giả thấy rõ, biết rõ sự-thật chân-lý nhân sinh khổ-đế (samudayasacca) với trí-tuệ thứ nhì nāmarūpa-paccayapariggahañāṇa, đạt đến pháp-thanh-tịnh thứ 4 kaṅkhāvitaraṇavisuddhi: Trí-tuệ thoát-ly hoài-nghi thanh-tịnh.
- Hành-giả thấy rõ, biết rõ sự-thật chân-lý pháp-hành dẫn đến diệt khổ-đế (maggasacca) với trí-tuệ thiền-tuệ thứ 3 sammasanañāṇa và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayab-bayānupassanāñāṇa, đạt đến pháp-thanh-tịnh thứ 5 maggāmaggañāṇadassanavisuddhi: Chánh-đạo phi-đạo tri-kiến-thanh-tịnh.
2-Balava udayabbayānupassanāñāṇa
Sau khi hành-giả là bậc thiện-trí có trí-tuệ sáng suốt nhận thức thấy rõ, biết rõ các pháp phi-đạo (amagga), và chánh-đạo (magga), nên từ bỏ các pháp phi-đạo, rồi thực-hành theo pháp-hành chánh-đạo là thực-hành theo pháp-hành trung-đạo (majjhimāpaṭipadā), tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa có nhiều năng lực (balava udayabbayānupassanāñāṇa) phát sinh, nên có khả năng thoát khỏi 10 pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ (upakkilesa-vimutta udayabbayānupassanāñāṇa) thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
Tính chất đặc biệt của udayabbayānupassanāñāṇa
- Khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanā-ñāṇa có năng lực đạt đến pháp-thanh-tịnh thứ 5 gọi là maggāmaggañāṇadassanavisuddhi: Chánh-đạo phi-đạo tri-kiến thanh-tịnh là pháp-thanh-tịnh thứ 3 trong pháp-hành thiền-tuệ.
- Khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanā-ñāṇa có nhiều năng lực (balava udayabbayānupassanā-ñāṇa) có khả năng thoát khỏi 10 pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ (upakkilesavimutta udayabbayānupassanāñāṇa) đạt đến pháp-thanh-tịnh thứ 6 gọi là paṭipadāñāṇa-dassanavisuddhi: Pháp-hành tri-kiến thanh-tịnh thuộc về pháp-thanh-tịnh thứ 4 của pháp-hành thiền-tuệ.
-Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa này thuộc về tiraṇapariññā: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
Ba gút mắt thực-hành pháp-hành thiền-tuệ
1- Gút mắt thứ nhất về pháp-học của pháp-hành thiền-tuệ
Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, trước tiên hành-giả cần phải học hỏi, nghiên cứu kỹ tất cả mọi đối-tượng tứ-niệm-xứ là thân, thọ, tâm, pháp, mọi đối-tượng thiền-tuệ là mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp một cách rành rẽ từng chi tiết trạng-thái-riêng của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp.
Thân, thọ tâm, pháp, sắc-pháp, danh-pháp mà hành-giả học hỏi, nghiên cứu ấy thuộc về vijjamānapaññatti: Chế-định-pháp danh từ ngôn-ngữ có thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp làm nền tảng không phải là chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).
Thật ra, thân, thọ, tâm, pháp là đối-tượng tứ-niệm-xứ hoặc sắc-pháp, danh-pháp là đối-tượng thiền-tuệ chỉ thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) mà thôi, không phải là chế-định-pháp (paññattidhamma).
Thật vậy, sắc-pháp, danh-pháp là đối-tượng thiền-tuệ chỉ thuộc về chân-nghĩa-pháp mới có thật-tánh, có sự sinh, sự diệt, có 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp mà thôi.
- Đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chế-định-pháp.
- Đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp.
Bởi vì mỗi đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp có tính chất hoàn toàn khác nhau:
- Nếu đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chế-định-pháp thì không có thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp, không có sự sinh, sự diệt, không có 3 trạng-thái-chung của sắc-pháp, của danh-pháp, nên không phải là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ.
- Nếu đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp thì có thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp, có sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp, có 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ.
Pháp-hành thiền-tuệ chỉ có sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp mới là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ mà thôi.
Khi hành-giả học hỏi, nghiên cứu, phân biệt hiểu biết rõ được mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), để làm đối-tượng của trí-tuệ thiền-tuệ.
Như vậy, hành-giả đã tháo gỡ được gút mắt quan trọng đầu tiên, trước khi bắt đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, biết sử dụng sắc-pháp hoặc danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp làm đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ.
2- Gút mắt thứ nhì về thực-hành pháp-hành thiền-tuệ
Hành-giả bắt đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, để thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp của danh-pháp đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).
Thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp là sự-thật chân-lý hiển nhiên trong đời, sở dĩ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp không hiện rõ là vì vô-minh (avijjā) che phủ.
Vậy, để thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại được hiện hữu, hành-giả cần phải luôn luôn có yonisomanasikāra: Trí-tuệ hiểu biết trong tâm đúng theo 4 trạng-thái của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong tam-giới đều là vô-thường, khổ, vô-ngã, bất-tịnh làm nhân-duyên phát sinh chánh-niệm và trí-tuệ tỉnh-giác mới ngăn được tâm vô-minh (avijjā) không phát sinh, đồng thời ngăn được 3 pháp-đảo-điên (vipallāsa) là tưởng-đảo-điên, tâm-đảo-điên, tà-kiến-đảo-điên thấy sai, hiểu lầm cho sắc-pháp, danh-pháp là thường, lạc, ngã, tịnh không phát sinh, để hỗ trợ cho chánh-niệm và trí-tuệ tỉnh-giác phát sinh, để thực-hành pháp-hành thiền-tuệ cho trí-tuệ thứ nhất gọi là nāmarūpaparicchedañāṇa phát sinh, thấy rõ, biết rõ, phân biệt rõ thật-tánh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).
Trí-tuệ thứ nhất nāmarūpaparicchedañāṇa là trí-tuệ đầu tiên trong 16 trí-tuệ thiền-tuệ, đóng vai trò quan trọng, làm nền tảng, làm nhân-duyên để giúp cho 15 trí-tuệ thiền-tuệ tuần tự phát sinh.
Như vậy, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ đã tháo gỡ được gút mắt thứ nhì rồi, chỉ còn gút mắt cuối cùng nữa mà thôi.
3-Gút mắt thứ ba ở giai đọan trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4
Hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa phát sinh còn non yếu, thường có vipassanupakkilesa: Pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānu-passanāñāṇa còn non yếu ấy phát sinh rất lạ thường mà hành-giả chưa từng thấy từ trước đây bao giờ, nên hành-giả thấy sai chấp lầm là “ta đã chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả rồi!”
Như vậy, không phải là Thánh-đạo cho là Thánh-đạo, không phải là Thánh-quả cho là Thánh-quả. Chính upakkilesa là pháp bẩn làm trở ngại trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa còn non yếu không phát triển lên các trí-tuệ thiền-tuệ bậc cao được.
Đó là điều gút mắt thứ ba của pháp-hành thiền-tuệ.
Vipassanupakkilesa có 10 pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa còn non yếu ấy là phi-đạo không dẫn đến chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả.
Sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại mà trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa đã thấy rõ, đã biết rõ sự sinh, sự diệt, đã thấy rõ, đã biết rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp. Đó chính là magga: Chánh-đạo dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Hành-giả từ bỏ amagga: Phi-đạo, trở lại thực-hành theo magga: Chánh-đạo, đó là pháp-hành trung-đạo, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa phát sinh có nhiều năng lực, thoát khỏi 10 pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 ấy, gọi là upakkilesavimutta udayabbayānupassanā-ñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa đã thoát khỏi 10 pháp bẩn của trí-tuệ thiền-tuệ ấy.
Như vậy, hành-giả đã thực-hành pháp-hành thiền-tuệ đến giai đọan đã tháo gỡ được gút mắt thứ ba cuối cùng, hành-giả không còn gút mắt nào trong pháp-hành thiền-tuệ nữa.
Nếu hành-giả là người có đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật, và có đủ 5 pháp-chủ (indriya): Tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ thì có khả năng tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, làm cho trí-tuệ thiền-tuệ phát triển theo tuần tự từ trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 cho đến trí-tuệ thứ 16 của pháp-hành thiền-tuệ, nghĩa là trí-tuệ thiền-tuệ phát triển từ trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới cho đến trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền-não, mọi tham-ái, trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Cho nên, trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanā-ñāṇa này làm nền tảng, làm nhân-duyên để cho trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 gọi là bhaṅgānupassanāñāṇa phát sinh tiếp theo.
5-Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa
Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 uddayabbayānupassanāñāṇa có nhiều năng lực đã thoát khỏi vipassanupakkilesa làm nền tảng, làm nhân-duyên, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 gọi là bhaṅgānupassanāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ chỉ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại, do nhân-duyên-diệt mà thôi, nên hiện rõ ràng 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 uddayabbayānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại, do nhân-duyên-sinh, do nhân-duyên-diệt, làm nền tảng, làm nhân-duyên như sau:
-Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 là tổng hợp 4 loại trí-tuệ trên từ trí-tuệ thứ nhất cho đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 làm nền tảng, làm nhân-duyên, để làm cho phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 gọi là bhaṅgānupassanāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ chỉ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại, do nhân-duyên-diệt mà thôi, nên hiện rõ ràng 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
Bhaṅgānupassanāñāṇa: Gồm có 2 từ bhaṅga + anupassanāñāṇa.
- Bhaṅga: Sự diệt do nhân-duyên-diệt.
- anupassanāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ bỏ qua sự sinh, chỉ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt.
Bhaṅgānupassanāñāṇa là trí-tuệ thiền-tuệ chỉ dõi theo thấy rõ, biết rõ ràng sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại, do nhân-duyên-diệt mà thôi, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
Khi hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 thường thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp do nhân-duyên-sinh, do nhân-duyên-diệt, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại, làm cho trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 tăng thêm nhiều năng lực.
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 có nhiều năng lực thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại một cách mau lẹ.
Đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa ấy bỏ qua sự sinh của sắc-pháp, của danh-pháp, mà chỉ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của đối-tượng danh-pháp, hoặc sắc-pháp hiện-tại, còn thấy rõ, biết rõ sự diệt của chủ thể tâm biết đối-tượng nữa, làm cho hành-giả phát sinh động tâm vô cùng kinh ngạc chưa từng thấy trước kia bao giờ, cho nên, chỉ hướng tâm đến sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại mà thôi, mà không quan tâm đến sự sinh và sự trụ của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại nữa.
Như vậy, trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanā-ñāṇa đặc biệt này chỉ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt mất (khaya), sự tận diệt (vaya) sự tan vỡ (bheda) sự diệt (nirodha) của các sắc-pháp, các danh-pháp hiện-tại mà thôi.
Tuy nhiên sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại mà trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa đặc biệt này thấy rõ, biết rõ là sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại này, còn làm nhân-duyên cho sự sinh của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại kia, hoàn toàn không giống sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp như bậc Thánh A-ra-hán nhập diệt-thọ-tưởng (nirodha-samāpatti) (sự diệt của danh-pháp trong khi “nhập diệt-thọ-tưởng” là sự diệt của danh-pháp suốt 7 ngày đêm, đến ngày thứ 8 mới có sự sinh của danh-pháp trở lại).
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa đặc biệt này là trí-tuệ thiền-tuệ chỉ dõi theo thấy rõ, biết rõ ràng sự diệt do nhân-duyên-diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại mà thôi, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
Hoặc trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa đặc biệt này chỉ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt mất, sự tận diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại mà thôi, do nhân-duyên-diệt, nên gọi là bhaṅgānupassanāñāṇa.
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅbgānupassanāñāṇa chỉ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt mất, sự tận diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại như sau:
- Thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-thường, không phải thấy thường.
- Thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái khổ, không phải thấy lạc.
- Thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-ngã, không phải thấy ngã.
- Nên phát sinh tâm nhàm chán, không phải tâm ham muốn.
- Nên phát sinh tâm ly dục, không phải tâm tham dục.
- Nên phát sinh tâm diệt, không phải tâm sinh.
- Nên phát sinh tâm từ bỏ, không phải tâm chấp thủ.
- Khi thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-thường, nên diệt được nicca-saññā: Tưởng lầm cho là thường.
- Khi thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái khổ, nên diệt được sukhasaññā: Tưởng lầm cho là lạc.
-Khi thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-ngã, nên diệt được atta-saññā: Tưởng lầm cho là ngã.
- Khi phát sinh tâm nhàm chán, nên diệt được tâm ham muốn.
- Khi phát sinh tâm ly-dục, nên diệt được tâm tham-dục.
- Khi phát sinh tâm diệt, nên diệt được tâm sinh.
- Khi phát sinh tâm từ bỏ, nên diệt được tâm chấp thủ.
Theo bộ Paṭisambhidāmagga, phần ñāṇakathā trình bày 18 mahāvipassanā:[7] Đại-trí-tuệ thiền-tuệ diệt các pháp đối nghịch.
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa chỉ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt mất (khaya), sự tận diệt (vaya) của pháp đối nghịch theo 18 mahāvipassanā: Đại-trí-tuệ thiền-tuệ như sau:
1- Aniccānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-thường của sắc-pháp, của danh-pháp, nên diệt được niccasaññā: Tưởng lầm cho là thường.
2- Dukkhānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái khổ của sắc-pháp, của danh-pháp, nên diệt được sukhasaññā: Tưởng lầm cho là lạc.
3- Anattānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp, nên diệt được attasaññā: Tưởng lầm cho là ngã.
4- Nibbidānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự nhàm chán của sắc-pháp, của danh-pháp, nên diệt được nandī: Tâm tham hài lòng hoan hỷ.
5- Virāgānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự ly-dục của sắc-pháp, của danh-pháp, nên diệt được rāga: Tâm tham-dục.
6- Nirodhānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp, nên diệt được samudaya: Sự sinh của tham-ái.
7- Paṭinissaggānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự từ-bỏ của sắc-pháp, của danh-pháp, nên diệt được ādāna: Sự chấp-thủ.
8- Khayānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt mất của sắc-pháp, của danh-pháp, nên diệt được ghanasaññā: Tưởng lầm cho là đồng-nhất.
9- Vayānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự tận diệt của sắc-pháp, của danh-pháp, nên diệt được āyūhana: Tham-tâm tích-lũy.
10- Vipariṇāmānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự biến-chất của sắc-pháp, của danh-pháp, nên diệt được dhuvasaññā: Tưởng lầm cho là bất-biến trường-tồn.
11- Animittānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ phi-hiện-tượng của sắc-pháp, của danh-pháp, nên diệt được nimitta: Hiện-tượng của sắc-pháp, của danh-pháp.
12- Appaṇihitānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự vô-vọng của sắc-pháp, của danh-pháp, nên diệt được paṇidhi: Sự ước-vọng.
13- Suññatānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ tính chất hoàn toàn vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp, nên diệt được abhinivesa: Tà-kiến theo chấp-ngã.
14- Adhipaññādhammavipassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ các pháp nên hành bằng trí-tuệ thiền-tuệ, nên diệt được sārādānābhinivesa: Tà-kiến, tham-ái chấp-thủ cho là thường, lạc, ngã trong sắc-pháp, danh-pháp.
15- Yathābhūtañāṇadassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đúng sự-thật chân-lý, nên diệt được sammohā-bhinivesa: Tà-kiến chấp-thủ do si-mê tăm tối.
16- Ādīnavānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ tội-lỗi của sắc-pháp, của danh-pháp, nên diệt được ālayābhinivesa: Sự chấp-thủ do tham-ái quyến-luyến không rời.
17- Paṭisaṅkhānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ con đường giải-thoát khỏi sắc-pháp, danh-pháp, nên diệt được appaṭisaṅkhā: Tâm si-mê đối nghịch với trí-tuệ thiền-tuệ theo con đường giải-thoát khổ.
18- Vivaṭṭānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ saṅkhārupekkhāñāṇa và anulomañāṇa, để dẫn dắt giải-thoát khổ, nên diệt được samyogābhinivesa: Sự chấp-thủ do phiền-não ràng-buộc trong ngũ-dục.
Đó là 18 đại-trí-tuệ thiền-tuệ phát sinh tuỳ theo 5 pháp-chủ: Tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ hoặc tuỳ theo năng lực pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ của hành-giả.
Tuy nhiên, 18 đại-trí-tuệ thiền-tuệ này được tóm lại chỉ còn có 3 loại đại trí-tuệ thiền-tuệ căn bản chính là:
1- Aniccānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-thường của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
2- Dukkhānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái khổ của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
3- Anattānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
Còn lại 15 đại trí-tuệ thiền-tuệ khác được sáp nhập vào trong 3 đại trí-tuệ thiền-tuệ căn bản chính tuỳ theo trạng-thái tương tự như sau:
-Aniccānupassanā có 5 đại-trí-tuệ thiền-tuệ được sáp nhập vào chung là animittānupassanā, nirodhānu-passanā, khayānupassanā, vayānupassanā, vipariṇāmā-upassanā, bởi vì 5 đại-trí-tuệ thiền-tuệ này có trạng-thái tương tự với aniccānupassanā.
-Dukkhānupassanā có 4 đại-trí-tuệ thiền-tuệ được sáp nhập vào chung là appaṇihitānupassanā nibbidānu-passanā, virāgānupassanā, ādīnavānupassanā, bởi vì 4 đại trí-tuệ thiền-tuệ này có trạng-thái tương tự với dukkhānupassanā.
-Anattānupassanā có 4 đại trí-tuệ thiền-tuệ được sáp nhập vào chung là suññatānupassanā, paṭinissaggā-nupassanā, paṭsaṅkhānupassanā, vivaṭṭānupassanā, bởi vì 4 đại-trí-tuệ thiền-tuệ này có trạng-thái tương tự với anattānupassanā.
- Adhipaññādhammavipassanā có thể sáp nhập vào tất cả mọi đại-trí-tuệ thiền-tuệ.
- Yathābhūtañāṇadassanā thuộc về kaṅkhāvitaraṇa-visuddhi.
Khi hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có 3 đại trí-tuệ thiền-tuệ căn bản chính đã thuần thục rồi, còn các loại đại-trí-tuệ thiền-tuệ khác tuỳ theo năng lực của 5 pháp-chủ hoặc pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ mà phát sinh.
Ba đại-trí-tuệ thiền-tuệ này gọi là căn bản chính là vì có khả năng dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn riêng biệt:
- Aniccānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-thường của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại, có khả năng dẫn đến chứng ngộ animitta-nibbāna: Vô-hiện-tượng Niết-bàn.
- Dukkhānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái khổ của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại, có khả năng dẫn đến chứng ngộ appaṇihitanibbāna: Vô-ái Niết-bàn.
- Anattānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại, có khả năng dẫn đến chứng ngộ suññatanibbāna: Chơn-không Niết-bàn.
Tính chất của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp theo aniccānupassanā, v.v… như đã trình bày ở trên, nên diệt phiền-não bằng cách tadaṅgappahāna: Diệt-từng-thời phiền-não, và hướng tâm đến mong chứng ngộ Niết-bàn.
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp bằng nhiều cách như:
- Thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của đối-tượng sắc-pháp.
- Thấy rõ, biết rõ sự diệt của chủ thể: Tâm biết đối-tượng danh-pháp.
- Thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của đối-tượng danh-pháp.
- Thấy rõ, biết rõ sự diệt của chủ thể: Tâm biết đối-tượng danh-pháp.
- Khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp hoặc danh-pháp hiện-tại như thế này, cũng thấu triệt sự diệt của sắc-pháp hoặc danh-pháp quá-khứ, vị-lai cũng như thế ấy.
- Khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự diệt của đối-tượng sắc-pháp, tiếp theo trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 thấy rõ, biết rõ sự diệt của chủ thể: Tâm biết sự diệt của đối-tượng sắc-pháp ấy (nghĩa là trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 thấy rõ, biết rõ sự diệt của đối-tượng sắc-pháp, tiếp theo trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 khác thấy rõ, biết rõ sự diệt của chủ thể danh-pháp: Tâm biết đối-tượng).
- Khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp, do nhân-duyên-diệt liên tục như vậy, nên hành-giả nhận thức rằng:
“Ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp này có sự diệt mất, sự tan rã là thường. Chính sự diệt mất, sự tan rã của ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp mà người ta chế định danh từ ngôn-ngữ gọi rằng: “Người chết”, “chúng-sinh chết”. Sự thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramattha-dhamma) thì không có người nào chết, không có chúng-sinh nào chết, mà chỉ có ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp diệt mất, tan rã mà thôi.”
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại liên tục lẫn sự diệt của chủ thể tâm biết đối-tượng như vậy, nên hiện rõ “suññatā: Không”, nghĩa là không phải ta, không phải của ta.
“Ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp này là pháp vô-ngã.”
- Ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp này sinh rồi diệt là vô-thường như thế này!
- Ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp này sinh rồi diệt vô-thường luôn luôn hành hạ là khổ như thế này!
-Ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp này sinh rồi diệt vô-thường luôn luôn hành hạ là khổ, không chiều theo ý muốn của ta là vô-ngã như thế này!
Hành-giả khi có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgā-nupassanāñāṇa đã phát sinh thấy rõ, biết rõ sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp, và thường dõi theo thấy rõ, biết rõ rằng:
Aniruddhameva nirujjhati, abhinnameva bhijjati.
Sắc-pháp, danh-pháp nào chưa diệt thì sắc-pháp, danh-pháp ấy đang diệt mất; sắc-pháp, danh-pháp nào chưa tan rã thì sắc-pháp, danh-pháp ấy đang tan rã.
Cho nên, diệt-từng-thời được thường-kiến thấy sai, chấp lầm cho rằng:
Sắc-pháp, danh-pháp là thường, mọi phiền-não cũng bị diệt-từng-thời.
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa thường thấy rõ, biết rõ sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp liên tục như vậy, nên hành-giả nhận thức thấy rõ, biết rõ ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp chỉ có trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, chung quy cũng chỉ có khổ-đế mà thôi. Cho nên hành-giả hướng tâm đến Niết-bàn giải thoát khổ-đế.
Khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa phát sinh, thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp, do nhân-duyên-diệt, nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 này đạt đến pháp-thanh-tịnh thứ 6 gọi là paṭipadāñāṇadassanavisuddhi: Pháp-hành tri-kiến thanh-tịnh thuộc về pháp-thanh-tịnh thứ 4 của pháp-hành thiền-tuệ.
Và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa là trí-tuệ thiền-tuệ đầu tiên trong 10 loại trí-tuệ thiền-tuệ thuộc về pahānapariññā: Trí-tuệ thiền-tuệ có khả năng diệt-từng-thời (tadaṅgappahāna) phiền-não.
Quả báu của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có khả năng đạt đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp, do nhân-duyên-diệt, nghĩa là thường thấy rõ, biết rõ rằng:
“Sabbe saṅkhārā bhijjanti bhijjanti.”
“Tất cả các pháp-hữu-vi, sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới đều diệt, diệt.”
Hành-giả có được aṭṭhānisaṃsa[8]: 8 quả báu:
- Bhavadiṭṭhippahāna: Hành-giả diệt từng thời được thường-kiến trong kiếp hiện-tại.
- Jīvitanikantipariccāga: Hành-giả từ bỏ sự say mê trong sinh-mạng.
- Sadāyuttapayuttatā: Hành-giả tinh-tấn ngày đêm thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
- Visuddhājīvitā: Hành-giả nuôi mạng trong sạch thanh-tịnh.
- Ussukkappahāna: Hành-giả bỏ sự cố gắng trong mọi công việc lớn nhỏ khác, bởi vì phát sinh động tâm cực độ.
- Vigatabhayatā: Hành-giả không có điều tai họa.
- Khantisoraccapaṭilābha: Hành-giả có đức nhẫn-nại hoan hỷ trong pháp-hành thiền-tuệ.
- Aratiratisahanatā: Hành-giả có sự chế-ngự được sự hài lòng và không hài lòng.
Hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupas-sanāñāṇa thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp, và biết 8 quả báu cao quý của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 này, nên kiên trì thực-hành pháp-hành thiền-tuệ không thóai chuyển, với ý nguyện chỉ mong chứng đạt đến Niết-bàn, giải thoát khổ mà thôi.
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa này làm nền tảng, làm nhân-duyên để cho trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 gọi là bhayatupaṭṭhānañāṇa phát sinh tiếp theo.
6-Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa
Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa làm nền tảng, làm nhân-duyên, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 gọi là bhayatupaṭṭhānañāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ ràng sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại thật đáng kinh sợ, nên hiện rõ ràng 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
-Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa chỉ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại, do nhân-duyên-diệt mà thôi, làm nền tảng, làm nhân-duyên như sau:
-Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 là tổng hợp 5 loại trí-tuệ trên từ trí-tuệ thứ nhất cho đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 làm nền tảng, làm nhân-duyên, để làm cho phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 gọi là bhayatupaṭṭhānañāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại do nhân-duyên-diệt, thật đáng kinh sợ, nên hiện rõ ràng 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
Bhayatupaṭṭhānañāṇa gồm có 3 từ Bhaya,upaṭṭhāna, ñāṇa.
- Bhaya: Sự kinh sợ.
- upaṭṭhāna: Sự hiểu biết.
- ñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ.
Bhayatupaṭṭhānañāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thường dõi theo thấy rõ, biết rõ ràng sự diệt của mỗi danh-pháp, mỗi sắc-pháp hiện-tại liên tục do nhân-duyên-diệt, thật đáng kinh sợ, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
-Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa có nhiều năng lực thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt mất (khaya), sự tận diệt (vaya), sự tan vỡ (bheda), sự diệt (nirodha) của ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại.
Cũng như con thú dữ như sư tử, hổ, beo, trâu rừng, bò rừng, voi rừng, con rắn hổ mang, hầm lửa đang cháy, v.v… đó là những vật đáng kinh sợ đối với người nhát gan có tính hay sợ sệt, muốn sống an-lạc.
-Khi hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ đặc biệt thấy rõ, biết rõ thấu suốt trong 3 thời rằng:
Atītā saṅkhārā niruddhā, paccuppannā nirujjhanti, anāgate nibbattanakasaṅkhārāpi evameva nirujjhissanti” Các pháp-hữu-vi, sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ đã diệt rồi trong thời quá-khứ; sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại đang diệt trong thời hiện-tại; và sắc-pháp, danh-pháp sẽ phát sinh trong thời vị-lai cũng sẽ diệt trong
thời vị-lai mà thôi.
Khi hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ đặc biệt thấy rõ, biết rõ thấu suốt trong 3 thời như vậy, đó là trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 gọi là bhayatupaṭṭhānañāṇa.
Ví dụ dựa theo trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhaya-tupaṭṭhānañāṇa như sau:
Hôm ấy, bà đang đứng nhìn thấy đoàn lính dẫn 3 người con trai yêu quý của bà ra pháp trường xử trảm.
Bà đứng nhìn chăm chú thấy người đao phủ đã chém cái đầu của người con trai lớn yêu quý của bà rơi xuống đất, rồi y tiếp tục đang chém cái đầu của người con trai giữa yêu quý của bà.
Bà nhìn thấy cái đầu của người con trai lớn yêu quý đã rơi xuống đất rồi, và nhìn thấy cái đầu của người con trai giữa yêu quý của bà đang bị chém.
Bà khóc than thảm thiết đến người con trai út yêu quý rằng: Đến người con trai út yêu quý của ta chắc chắn cũng sẽ bị chém đầu như người con trai lớn và giữa vậy!”
- Bà mẹ chăm chú nhìn thấy người đao phủ đã chém cái đầu của người con trai lớn yêu quý của bà rơi xuống đất. Cũng như hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ đặc biệt thấy rõ, biết rõ sự diệt của pháp-hữu-vi, sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ đã diệt rồi trong thời quá-khứ.
- Bà mẹ chăm chú nhìn thấy người đao phủ đang chém cái đầu của người con trai giữa yêu quý của bà. Cũng như hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ đặc biệt thấy rõ, biết rõ sự diệt của pháp-hữu-vi, sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại đang diệt trong thời hiện-tại.
- Bà mẹ khóc than thảm thiết đến người con trai út yêu quý rằng: Đến người con trai út yêu quý của ta chắc chắn cũng sẽ bị chém đầu như người con trai lớn và giữa vậy!
Cũng như hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ đặc biệt thấy rõ, biết rõ sự diệt của pháp-hữu-vi, sắc-pháp, danh-pháp vị-lai cũng sẽ diệt trong thời vị-lai.
-Khi hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ đặc biệt này thấy rõ, biết rõ sự diệt của pháp-hữu-vi, sắc-pháp, danh-pháp trong 3 thời như vậy, đó là trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa.
Tính chất của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa không phải là trí-tuệ thiền-tuệ có sự đáng kinh sợ nào cả, mà trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 là trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thấu suốt sắc-pháp, danh-pháp trong 3 thời đáng kinh sợ rằng:
Tất cả các pháp-hữu-vi, sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ đã diệt trong thời quá-khứ rồi; sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại đang diệt trong thời hiện-tại; sắc-pháp, danh-pháp vị-lai chắc chắn cũng sẽ diệt trong thời vị-lai.
Thật vậy, ví như một người nhìn thấy 3 hầm lửa than hồng đang cháy hừng hực, chính người ấy không có sự kinh sợ gì cả, nhưng suy xét thấy 3 hầm lửa than hồng ấy, cảm thấy đáng kinh sợ rằng:
Nếu có người nào bị rơi xuống 3 hầm lửa than hồng ấy thì chắc chắn phải chịu khổ vì lửa thiêu nóng kinh khủng.
Cũng như vậy, trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭ-ṭhānañāṇa này không có sự kinh sợ nào cả, mà chỉ nhận thức thấy rõ, biết rõ rằng:
Tất cả các pháp-hữu-vi, sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới: Dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới ví như 3 hầm lửa than hồng đang cháy hừng hực ấy.
- Sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ đã diệt rồi.
- Sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại đang diệt.
- Sắc-pháp, danh-pháp vị-lai chắc chắn cũng sẽ diệt.
Pháp đáng kinh sợ của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6
1- Uppāda là sự sinh của ngũ-uẩn trong kiếp hiện-tại là quả của nghiệp đã tạo trong kiếp quá-khứ. Ngũ-uẩn thật là khổ đáng kinh sợ.
2- Pavatta là sự hiện-hữu của sắc-pháp, của danh-pháp trong 11 cõi dục-giới, 16 cõi sắc-giới, 4 cõi vô-sắc-giới. Sắc-pháp, danh-pháp sinh rồi diệt liên tục không ngừng là vô-thường, là khổ luôn luôn hành hạ thật là khổ đáng kinh sợ.
3- Nimitta (saṅkhāranimitta) là pháp-hữu-vi cấu tạo, sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai đều là vô-thường, là khổ thật khó chịu đựng nổi, là vô-ngã không phải của ta, không chiều theo ý muốn của một ai cả, là vô chủ, vô dụng vì không có cốt lõi, v.v… sắc-pháp, danh-pháp chỉ có tan rã mà thôi. Cho nên sắc-pháp, danh-pháp thật là khổ đáng kinh sợ.
4- Āyūhana là sự tích lũy nghiệp chướng cho quả tái-sinh kiếp sau.
- Ác-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 ác-tâm, nên có 12 ác-nghiệp.
- Dục-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới thiện-tâm, nên có 8 dục-giới thiện-nghiệp.
- Sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm, nên có 5 sắc-giới thiện-nghiệp.
- Vô-sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, nên có 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp.
5- Paṭisandhi là sự tái-sinh kiếp sau, do nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới.
- Nếu dục-giới thiện-nghiệp trong 8 dục-giới thiện-tâm có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì sinh 1 trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới, hưởng quả an-lạc trong cõi-giới ấy cho đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy, rồi tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác tuỳ theo nghiệp của chúng sinh ấy.
- Nếu sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm-thiên 1 trong 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên, được sinh trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào quả của sắc-giới thiện-nghiệp, hưởng an-lạc cho đến hết tuổi thọ, rồi phải tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác tuỳ theo nghiệp của vị phạm-thiên ấy.
- Nếu vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm-thiên 1 trong 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên, được sinh trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào vô-sắc-giới quả-tâm, hưởng an-lạc cho đến hết tuổi thọ, rồi phải tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác tuỳ theo nghiệp của vị phạm-thiên ấy.
Hễ còn tái-sinh kiếp sau là còn khổ, chúng-sinh có ngũ-uẩn: Sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong 11 cõi dục-giới và 15 cõi sắc-giới, chúng-sinh có nhất-uẩn là sắc-uẩn trong cõi sắc-giới vô-tưởng-thiên, chúng-sinh có tứ-uẩn: Thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong 4 cõi vô-sắc-giới cũng đều có khổ cả, chỉ có khác nhau khổ nhiều khổ ít mà thôi.
Cho nên, sắc-pháp, danh-pháp tam-giới chỉ là khổ thật đáng kinh sợ là đối-tượng của trí-tuệ thiền-tuệ đặc biệt gọi là trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa.
- Khi hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭ-ṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ thấu suốt sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai đều có trạng-thái vô-thường thật đáng kinh sợ.
- Khi hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭ-ṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ thấu suốt sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai đều có trạng-thái khổ thật đáng kinh sợ.
- Khi hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭ-ṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ thấu suốt sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai đều có trạng-thái vô-ngã thật đáng kinh sợ.
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa này làm nền tảng, làm nhân-duyên để cho trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 gọi là ādīnavānupassanāñāṇa phát sinh tiếp theo.
7-Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa
Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa có nhiều năng lực làm nền tảng, làm nhân-duyên để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 gọi là ādīnavānupassanāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp đầy tội chướng.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thường dõi theo thấy rõ, biết rõ ràng sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại liên tục, do nhân-duyên-diệt, thật đáng kinh sợ có nhiều năng lực, để trở thành trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 như sau:
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa là tổng hợp 6 loại trí-tuệ trên từ trí-tuệ thứ nhất cho đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 làm nền tảng, làm nhân-duyên, để cho phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanā-ñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ, hiện-tại vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng.
Ādīnavānupassanāñāṇa gồm có 3 từ ādīnava, anupassanā, ñāṇa.
- Ādīnava: Tội chướng.
- anupassanā: Dõi theo thấy rõ, biết rõ.
- ñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ.
Ādīnavānupassanāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng.
Tính chất của ādīnavānupassanāñāṇa
-Khi hành-giả phát triển trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thường dõi theo thấy rõ, biết rõ ràng sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp thật đáng kinh sợ có nhiều năng lực, trở thành trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ ràng sắc-pháp, danh-pháp đầy tội chướng, nên không dính mắc trong mọi sắc-pháp, danh-pháp trong 3 giới (bhava), 4 loài (yoni), 5 cõi tái-sinh (gati), 7 thức trụ (viññāṇaṭhiti), 9 cõi chúng-sinh (sattāvāsa) đang hiện-hữu thật đáng kinh sợ tột độ, bởi vì tất cả mọi nơi, mọi cõi đang hiện-hữu ấy không phải là nơi ẩn náu (neva tāṇaṃ), không phải là nơi an toàn (na leṇaṃ), không phải là nơi đi lánh nạn (na gati), không phải là nơi nương nhờ (nappaṭisaraṇaṃ), và cũng không phải nơi mong muốn đối với hành-giả. Tại sao vậy?
Bởi vì, tam-giới (11cõi dục-giới, 16 cõi sắc-giới, 4 cõi vô-sắc-giới) đang hiện-hữu như 3 hầm lửa đầy than hồng đang hừng hực cháy rực không có khói.
- Tứ đại (địa-đại, thuỷ-đại, hoả-đại, phong-đại) trong sắc-thân đang hiện-hữu như 4 con rắn độc kinh khủng.
- Ngũ-uẩn (sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn) đang hiện-hữu như tên đao phủ đang giở thanh đao chém xuống đầu.
- 6 xứ bên trong (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đang hiện-hữu như xóm làng hoang, không có người.
- 6 xứ bên ngoài (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp)
đang hiện-hữu như kẻ trộm cướp lấy của cải tài sản.
- 7 thức trụ, 9 cõi chúng-sinh đang hiện-hữu như bị 11 thứ lửa (lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa sinh, lửa già, lửa chết, lửa sầu não, lửa than khóc, lửa khổ thân, lửa khổ tâm, lửa thống khổ cùng cực) đang cháy ngầm thiêu đốt ngày đêm.
- Tất cả các pháp-hữu-vi, ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp đang hiện-hữu như là ung nhọt đau nhức (gaṇḍabhūtā), như là căn bệnh trầm kha (rogabhūtā), như là mũi tên độc (sallabhūtā), như là sự đau khổ bất hạnh triền miên (aghabhūtā), như là bệnh tật đau khổ (ābādhabhūtā), không có chút an-lạc nào cả, chỉ là đại tội chướng (mahā ādīnavarāsibhūtā) mà thôi.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa như thế nào?
Ví như một người có tính nhát gan hay sợ sệt, chỉ mong muốn cuộc sống an-lạc mà thôi. Khi người ấy đi gặp phải hang có hùm beo, hoặc xuống sông gặp dạ-xoa dưới nước, hoặc đi đường gặp kẻ cướp sát nhân, gặp kẻ thù giở thanh đao đang chém xuống đầu, hoặc nằm trong căn nhà đang bị cháy, hoặc dùng vật-thực có thuốc độc, v.v… Người ấy phát sinh sự sợ hãi, sự kinh hồn bạt vía, bởi vì thấy những điều xảy ra ấy thật đáng kinh sợ, đối với hành-giả cũng như thế ấy.
Khi hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatu-paṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ ràng sắc-pháp, danh-pháp cả 3 thời trong tam-giới thật đáng kinh sợ, nên cũng thấy rõ, biết rõ ràng tất cả các pháp-hữu-vi, ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong các cõi tam-giới đầy tội chướng, không có chút nào an-lạc.
Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng, nên gọi là trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa.
Vấn: Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp 3 thời trong tam-giới thật đáng kinh sợ có nhiều năng lực, để trở thành trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng bằng cách nào?
Đáp: Để trở thành trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavā-nupassanāñāṇa, thì trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatu-paṭṭhānañāṇa cần phải thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp 3 thời trong tam-giới thật đáng kinh sợ bằng cách thấy rõ, biết rõ trong 5 đối-tượng như sau:
1- Uppāda: Sự sinh của sắc-pháp, của danh-pháp 3 thời trong tam-giới thật đáng kinh sợ, nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự sinh của sắc-pháp, của danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng.
2- Pavatta: Sự hiện-hữu của sắc-pháp, của danh-pháp 3 thời trong tam-giới thật đáng kinh sợ, nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự hiện-hữu của sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng.
3- Nimitta: Các pháp-hữu-vi sắc-pháp, danh-pháp 3 thời trong tam-giới thật đáng kinh sợ, nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ pháp-hữu-vi, sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng.
4- Āyūhana: Sự tích lũy nghiệp chướng cho quả tái-sinh kiếp sau trong tam-giới thật đáng kinh sợ, nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự tích lũy nghiệp chướng cho quả tái-sinh kiếp sau trong tam-giới đầy tội chướng.
5- Paṭisandhi: Sự tái-sinh kiếp sau trong tam-giới thật đáng kinh sợ, nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavā-nupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự tái-sinh kiếp sau trong tam-giới đầy tội chướng.
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ ràng sắc-pháp, danh-pháp đầy tội chướng, nên không dính mắc trong mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong 3 giới (bhava), 4 loài (yoni), 5 cõi tái-sinh (gati), 7 thức trụ (viññāṇaṭhiti), 9 cõi chúng-sinh (sattāvāsa) đang hiện-hữu thật đáng kinh sợ tột độ, bởi vì tất cả mọi nơi, mọi cõi đang hiện-hữu ấy không phải là nơi ẩn náu (neva tāṇaṃ), không phải là nơi an toàn (na leṇaṃ), không phải là nơi đi lánh nạn (na gati), không phải là nơi nương nhờ (nappaṭisaraṇaṃ). Cho nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa này chỉ hướng đến Niết-bàn giải thoát khổ mà thôi.
-Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới với 5 đối-tượng uppāda, pavatta, nimitta, āyūhana, paṭisandhi thật đáng kinh sợ (bhaya); còn trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa hướng đến Niết-bàn với 5 đối-tượng đối nghịch là anuppāda, appavatta, animitta, anāyūhana, appaṭisandhi bằng nhiều cách như sau:
1- Đối-tượng kinh sợ (bhaya) và an-tịnh (khema)
-Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ rằng: Sự sinh (uppāda) của sắc-pháp, của danh-pháp 3 thời trong tam-giới thật là đáng kinh sợ (bhaya), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanā-ñāṇa thấy rõ, biết rõ sự sinh của sắc-pháp, của danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng.
- Và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa biết rằng: Niết-bàn không sinh (anuppāda) (của sắc-pháp, của danh-pháp trong tam-giới) là pháp an-tịnh (khema), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanā-ñāṇa hướng đến Niết-bàn diệt tất cả mọi pháp-hữu-vi.
-Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ rằng: Sự hiện-hữu (pavatta) của sắc-pháp, của danh-pháp 3 thời trong tam-giới thật là đáng kinh sợ (bhaya), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanā-ñāṇa thấy rõ, biết rõ sự hiện-hữu của sắc-pháp, của danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng.
- Và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa biết rằng: Niết-bàn không có sự hiện-hữu (appavatta) của sắc-pháp, của danh-pháp trong tam-giới là pháp an-tịnh (khema), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanā-ñāṇa hướng đến Niết-bàn diệt tất cả mọi pháp-hữu-vi.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 thấy rõ, biết rõ rằng: Pháp-hữu-vi (saṅkhāranimitta) của sắc-pháp, của danh-pháp 3 thời trong tam-giới thật là đáng kinh sợ (bhaya), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ pháp-hữu-vi của sắc-pháp, của danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng.
- Và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa biết rằng: Niết-bàn pháp-vô-vi (animitta) là pháp an-tịnh (khema), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanā-ñāṇa hướng đến Niết-bàn diệt tất cả mọi pháp-hữu-vi.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ rằng: Sự tích lũy nghiệp chướng (āyūhana), cho quả tái-sinh kiếp sau trong tam-giới thật là đáng kinh sợ (bhaya), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānu-passanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự tích lũy nghiệp chướng cho quả tái-sinh trong tam-giới đầy tội chướng.
- Và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa biết rằng: Niết-bàn không tích lũy nghiệp chướng (anāyūhana) là pháp an-tịnh (khema), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa hướng đến Niết-bàn diệt tất cả mọi pháp-hữu-vi.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ rằng: Sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi) trong tam-giới thật là đáng kinh sợ (bhaya), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự tái-sinh kiếp sau trong tam-giới đầy tội chướng.
- Và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa biết rằng: Niết-bàn không tái-sinh kiếp sau (appaṭisandhi) là pháp an-tịnh (khema), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa hướng đến Niết-bàn diệt tất cả mọi pháp-hữu-vi.
2- Đối-tượng khổ (dukkha) và an-lạc (sukha)
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ rằng: Sự sinh (uppāda) của sắc-pháp, của danh-pháp 3 thời trong tam-giới thật là khổ (dukkha), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự sinh của sắc-pháp, của danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng.
- Và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa biết rằng: Niết-bàn không sinh (anuppāda) (của danh-pháp, sắc pháp trong tam-giới) là pháp an-lạc (sukha), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanā-ñāṇa hướng đến Niết-bàn diệt tất cả mọi pháp-hữu-vi.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ rằng: Sự hiện-hữu (pavatta) của sắc-pháp, của danh-pháp 3 thời trong tam-giới thật là khổ (dukkha), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanā-ñāṇa thấy rõ, biết rõ sự hiện-hữu của sắc-pháp, của danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng.
- Và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa biết rằng: Niết-bàn không có sự hiện-hữu (appavatta) của sắc-pháp, của danh-pháp trong tam-giới là pháp an-lạc (sukha), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanā-ñāṇa hướng đến Niết-bàn diệt tất cả mọi pháp-hữu-vi.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ rằng: Pháp-hữu-vi (saṅkhāranimitta) của sắc-pháp, của danh-pháp 3 thời trong tam-giới thật là khổ (dukkha), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanā-ñāṇa thấy rõ, biết rõ pháp-hữu-vi của sắc-pháp, của danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng.
- Và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa biết rằng: Niết-bàn pháp-vô-vi (animitta) là pháp an-lạc (sukha), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanā-ñāṇa hướng đến Niết-bàn diệt tất cả mọi pháp-hữu-vi.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ rằng: Sự tích lũy nghiệp chướng (āyūhana), cho quả tái-sinh kiếp sau trong tam-giới thật là khổ (dukkha), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự tích lũy nghiệp chướng cho quả tái-sinh kiếp sau trong tam-giới đầy tội chướng.
- Và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa biết rằng: Niết-bàn không tích lũy nghiệp chướng (anāyūhana) là pháp an-lạc (sukha), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa hướng đến Niết-bàn diệt tất cả mọi pháp-hữu-vi.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ rằng: Sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi) trong tam-giới thật là khổ (dukkha), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự tái-sinh kiếp sau trong tam-giới đầy tội chướng.
- Và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa biết rằng: Niết-bàn không tái-sinh kiếp sau (appaṭisandhi) là pháp an-lạc (sukha), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavā-nupassanāñāṇa hướng đến Niết-bàn diệt tất cả mọi pháp-hữu-vi.
3-Đối-tượng pháp-hữu-vi (saṅkhāra) và Niết-bàn
-Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ rằng: Sự sinh (uppāda) của sắc-pháp, của danh-pháp 3 thời trong tam-giới là pháp-hữu-vi (saṅkhāra), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanā-ñāṇa thấy rõ, biết rõ sự sinh của sắc-pháp, của danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng.
- Và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa biết rằng: Niết-bàn không sinh (anuppāda) (của danh-pháp, sắc pháp trong tam-giới) là Niết-bàn (Nibbāna), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa hướng đến Niết-bàn diệt tất cả mọi pháp-hữu-vi.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ rằng: Sự hiện-hữu (pavatta) của sắc-pháp, của danh-pháp 3 thời trong tam-giới là pháp-hữu-vi (saṅkhāra), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānu-passanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự hiện-hữu của sắc-pháp, của danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng.
- Và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa biết rằng: Niết-bàn không có sự hiện-hữu (appavatta) (của sắc-pháp, của danh-pháp trong tam-giới) nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa hướng đến Niết-bàn diệt tất cả mọi pháp-hữu-vi.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ rằng: Pháp-hữu-vi (saṅkhāranimitta) của sắc-pháp, của danh-pháp 3 thời trong tam-giới là pháp-hữu-vi (saṅkhāra), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavā-nupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ pháp-hữu-vi của sắc-pháp, của danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng.
- Và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa biết rằng: Niết-bàn là pháp-vô-vi (animitta) nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa hướng đến Niết-bàn diệt tất cả mọi pháp-hữu-vi.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ rằng: Sự tích lũy nghiệp chướng (āyūhana), cho quả tái-sinh kiếp sau trong tam-giới là pháp-hữu-vi (saṅkhāra), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānu-passanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự tích lũy nghiệp chướng cho quả tái-sinh kiếp sau trong tam-giới đầy tội chướng.
- Và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa biết rằng: Niết-bàn không tích lũy nghiệp chướng (anāyūhana) nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavā-nupassanāñāṇa hướng đến Niết-bàn diệt tất cả mọi pháp-hữu-vi.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ rằng: Sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi) trong tam-giới là pháp-hữu-vi (saṅkhāra), nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự tái-sinh kiếp sau trong tam-giới đầy tội chướng.
- Và trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa biết rằng: Niết-bàn không tái-sinh kiếp sau (appaṭisandhi) nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa hướng đến Niết-bàn diệt tất cả mọi pháp-hữu-vi.
Thực-hành 10 loại trí-tuệ thiền-tuệ
Hành-giả kiên trì thực-hành 10 loại trí-tuệ thiền-tuệ rất thuần thục là:
-Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ ràng 5 đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp có sự sinh (uppāda), sự hiện-hữu (pavatta), pháp-hành hữu-vi (saṅkhāranimitta), sự tích lũy nghiệp chướng (āyūhana), sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi) trong tam-giới đầy tội chướng, và -5 santipadañāṇa là trí-tuệ thiền-tuệ hướng tâm đến Niết-bàn có 5 đối-tượng hoàn toàn đối nghịch với 5 đối-tượng của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanā-ñāṇa, đó là Niết-bàn không sinh (anuppāda), không hiện-hữu (appavatta), pháp-vô-vi (animitta), không tích lũy nghiệp chướng (anāyūhana), không tái-sinh kiếp sau (appaṭisandhi).
Như vậy, trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanā-ñāṇa với trí-tuệ thiền-tuệ santipadañāṇa, mỗi loại có 5 đối-tượng hoàn toàn đối nghịch với nhau, và dẫn đến như sau:
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ ràng sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng, thật đáng kinh sợ tột độ, bởi vì tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp không phải là nơi ẩn náu (neva tāṇaṃ), không phải là nơi an toàn (na leṇaṃ), không phải là nơi đi lánh nạn (na gati), không phải là nơi nương nhờ (nappaṭisaraṇaṃ), chỉ có khổ thật sự mà thôi.
- Trí-tuệ thiền-tuệ santipadañāṇa hướng đến Niết-bàn tịch tịnh đầy ân-đức. Niết-bàn là pháp ẩn-náu an toàn, là pháp nương-nhờ an toàn, là pháp giải-thoát khổ hoàn toàn, chỉ có sự an-lạc tuyệt đối mà thôi.
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa này làm nền tảng, làm nhân-duyên để cho trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanāñāṇa phát sinh tiếp theo.
Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa có nhiều năng lực làm nền tảng, làm nhân-duyên để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 gọi là nibbidānupassanāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp thật đáng nhàm chán.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thường dõi theo thấy rõ, biết rõ ràng sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ, hiện-tại vị-lai trong tam-giới đầy tội chướng có nhiều năng lực làm nền tảng, làm nhân-duyên để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanāñāṇa như sau:
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanāñāṇa là tổng hợp 7 loại trí-tuệ trên từ trí-tuệ thứ nhất cho đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 làm nền tảng, làm nhân-duyên để cho phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanā-ñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới thật đáng nhàm chán.
Nibbidānupassanāñāṇa gồm có 3 từ nibbidā, anupassanā, ñāṇa.
- Nibbidā: Thật đáng nhàm chán.
- anupassanā: Dõi theo thấy rõ, biết rõ.
- ñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp.
Nibbidānupassanāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thường dõi theo thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới thật đáng nhàm chán…
Nibbidā: Thật đáng nhàm chán có nghĩa là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ đã trải qua 7 loại trí-tuệ thiền-tuệ từ trí-tuệ thứ nhất cho đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa như sau:
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 uddayabbayānupassanāñāṇa đã thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp, hiện rõ 3 trạng-thái chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 5 bhaṅgānupassanāñāṇa đã thấy rõ, biết rõ đặc biệt sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại, hiện rõ 3 trạng-thái chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp chỉ có khổ thật sự mà thôi.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa đã thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới thật đáng kinh sợ tột độ (bhaya).
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa đã thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới đầy những tội chướng (ādīnava).
Vì vậy, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidā-nupassanāñāṇa này phát sinh thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới thật đáng nhàm chán tột độ, nên chỉ hướng tâm đến Niết-bàn giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài mà thôi.
Cũng như vậy, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanā-ñāṇa phát sinh, thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới chỉ có khổ thật sự mà thôi, nên cảm thấy nhàm chán tất cả mọi sắc-pháp, danh-pháp trong 3 giới, trong 4 loài chúng-sinh, v.v… Hành-giả chỉ muốn hướng tâm đến Niết-bàn, giải thoát khổ như thế ấy mà thôi.
Cũng như vậy, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ đạt đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanā-ñāṇa thấy rõ, biết rõ tất cả các pháp-hữu-vi, sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới chỉ có khổ thật sự mà thôi, nên cảm thấy nhàm chán tột độ tất cả mọi sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới, mà chỉ hài lòng hướng tâm đến đối-tượng santipada Niết-bàn diệt tất cả các pháp-hữu-vi, bởi vì hành-giả hiểu biết rõ rằng:
Nếu được chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài thì mới an-lạc thật sự mà thôi, cũng như thế ấy.
Cho nên, hành-giả cố gắng tinh-tấn không ngừng thực-hành dõi theo 7 pháp anupassanā, để mong chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, diệt khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
7 pháp anupassanā
- Aniccānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-thường.
- Dukkhānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái khổ.
- Anattānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-ngã.
- Nibbidānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ mọi sắc-pháp, danh-pháp thật đáng nhàm chán.
-Virāgānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ mọi sắc-pháp, danh-pháp không đáng say mê.
- Nirodhānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ mọi sắc-pháp, danh-pháp đáng diệt bỏ.
- Paṭinissaggānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ mọi sắc-pháp, danh-pháp đáng xả bỏ.
Giảng giải:
1- Aniccānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại, nên hiện rõ trạng-thái vô-thường; và trí-tuệ thiền-tuệ này cũng có khả năng biết rõ danh-pháp sắc-pháp quá-khứ, vị-lai cũng có trạng-thái vô-thường như sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại này, nên diệt được niccasaññā: Thấy sai, tưởng lầm cho là sắc-pháp, danh-pháp là thường.
2- Dukkhānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại, nên hiện rõ trạng-thái khổ; và trí-tuệ thiền-tuệ này cũng có khả năng biết rõ danh-pháp sắc-pháp quá-khứ, vị-lai cũng có trạng-thái khổ như sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại này, nên diệt được sukhasaññā: Thấy sai, tưởng lầm cho là sắc-pháp, danh-pháp là lạc.
3- Anattānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại, nên hiện rõ trạng-thái vô-ngã; và trí-tuệ thiền-tuệ này cũng có khả năng biết rõ danh-pháp sắc-pháp quá-khứ, vị-lai cũng có trạng-thái vô-ngã như sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại này, nên diệt được attasaññā: Thấy sai, tưởng lầm cho là sắc-pháp, danh-pháp là ngã.
4- Nibbidānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại chỉ có khổ thật sự mà thôi, nên thật đáng nhàm chán; và trí-tuệ thiền-tuệ này cũng có khả năng biết rõ danh-pháp sắc-pháp quá-khứ, vị-lai cũng thật đáng nhàm chán như sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại này, nên diệt được nandi: Tâm tham-ái hài lòng trong sắc-pháp, danh-pháp.
5- Virāgānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại chỉ có khổ thật sự mà thôi, nên thật không đáng say mê; và trí-tuệ thiền-tuệ này cũng có khả năng biết rõ danh-pháp sắc-pháp quá-khứ, vị-lai cũng thật không đáng say mê như sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại này, nên diệt được rāga: Tâm tham-ái say mê trong sắc-pháp, danh-pháp.
6- Nirodhānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại chỉ có khổ thật sự mà thôi, nên thật đáng diệt bỏ; và trí-tuệ thiền-tuệ này cũng có khả năng biết rõ danh-pháp sắc-pháp quá-khứ, vị-lai cũng thật đáng diệt bỏ như sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại này, nên diệt được samudaya: Nhân-sinh-khổ của sắc-pháp, của danh-pháp.
7- Paṭinissaggānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo thấy rõ, biết rõ sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại chỉ có khổ thật sự mà thôi, nên thật đáng xả bỏ; và trí-tuệ thiền-tuệ này cũng có khả năng biết rõ danh-pháp sắc-pháp quá-khứ, vị-lai cũng thật đáng xả bỏ như sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại này, nên diệt được ādāna: Sự chấp-thủ trong sắc-pháp, danh-pháp.
Trong 7 pháp ānupassanā này có 3 ānupassanā căn bản là aniccānupassanā, dukkhānupassanā, anattā-nupassanā, bởi vì trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp.
Ba loại trí-tuệ thiền-tuệ
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 6 bhayatupaṭṭhānañāṇa thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp đáng kinh sợ.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 7 ādīnavānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp đầy tội chướng.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp đáng nhàm chán.
- Nếu trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp đáng kinh sợ thì gọi là bhayatupaṭṭhānañāṇa.
- Nếu trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp đầy tội chướng thì gọi là ādīnavānupassanāñāṇa.
- Nếu trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp đáng nhàm chán thì gọi là nibbidānupassanāñāṇa.
Khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ tất cả các pháp-hữu-vi, sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới thật đáng nhàm chán tột độ, nên hướng tâm đến đối-tượng santipada, Niết-bàn là pháp ẩn-náu an toàn, là pháp nương-nhờ an toàn, là pháp giải-thoát khổ hoàn toàn, chỉ có sự an-lạc tuyệt đối mà thôi.
Đối-tượng santipada, Niết-bàn như thế nào?
Hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupas-sanāñāṇa thấu suốt biết rõ rằng:
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ rằng:
Uppāda: Sự sinh của sắc-pháp, của danh-pháp thật là đáng kinh sợ, đầy tội chướng, đáng nhàm chán, chỉ có khổ mà thôi.
Và anuppāda: Sự không sinh của sắc-pháp, của danh-pháp, đó là santipada, Niết-bàn an-lạc tuyệt đối.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ rằng:
Pavatta: Sự hiện-hữu của sắc-pháp, của danh-pháp thật là đáng kinh sợ, đầy tội chướng, đáng nhàm chán, chỉ có khổ mà thôi.
Và anuppāda: Sự không sinh của sắc-pháp, của danh-pháp, đó là santipada, Niết-bàn an-lạc tuyệt đối.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ rằng:
Nimitta (saṅkhāranimitta): Pháp-hữu-vi của sắc-pháp, danh-pháp thật là đáng kinh sợ, đầy tội chướng, đáng nhàm chán, chỉ có khổ mà thôi.
Và animitta: Pháp-vô-vi, không bị cấu tạo, đó là santipada, Niết-bàn an-lạc tuyệt đối.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ rằng:
Āyūhana: Sự tích lũy nghiệp chướng cho quả tái-sinh kiếp sau trong tam-giới thật là đáng kinh sợ, đầy tội chướng, đáng nhàm chán, chỉ có khổ mà thôi.
Và anāyūhana: Sự không tích lũy nghiệp chướng, đó là santipada, Niết-bàn an-lạc tuyệt đối.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ rằng:
Paṭisandhi: Sự tái-sinh kiếp sau trong tam-giới thật là đáng kinh sợ, đầy tội chướng, đáng nhàm chán, chỉ có khổ mà thôi.
Và appaṭisandhi: Sự không tái-sinh kiếp sau, đó là santipada, Niết-bàn an-lạc tuyệt đối, v.v…
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanāñāṇa có khả năng thấy rõ, biết rõ mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đáng kinh sợ, đầy tội chướng, đáng nhàm chán tột độ, chỉ có khổ mà thôi, nên chỉ hướng đến đối-tượng santipada, Niết-bàn diệt tất cả các pháp-hữu-vi, là pháp ẩn-náu an toàn, là pháp nương-nhờ an toàn, là pháp giải-thoát khổ hoàn toàn, có sự an-lạc tuyệt đối mà thôi.
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanāñāṇa này làm nền tảng, làm nhân-duyên để cho trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 muñcitukamyatāñāṇa phát sinh tiếp theo.
Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanāñāṇa có nhiều năng lực làm nền tảng, làm nhân-duyên để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 gọi là muñcitukamyatāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới thật đáng nhàm chán tột độ, nên chỉ mong giải thoát khỏi các pháp-hữu-vi, sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới ấy mà thôi.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thường dõi theo thấy rõ, biết rõ ràng sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ, hiện-tại vị-lai trong tam-giới thật đáng nhàm chán tột độ làm nền tảng, làm nhân-duyên để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 muñcitukamyatāñāṇa như sau:
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 muñcitukamyatāñāṇa là tổng hợp 8 loại trí-tuệ trên từ trí-tuệ thứ nhất cho đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 làm nền tảng, làm nhân-duyên để cho phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 muñcitukamyatā-ñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới thật đáng nhàm chán tột độ, nên chỉ mong giải thoát khỏi các pháp-hữu-vi, sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới mà thôi.
Muñcitukamyatāñāṇa gồm có 3 từ muñcitu, kamyatā, ñāṇa.
- Muñcitu: Giải thoát khỏi các pháp-hữu-vi.
- kamyatā: Sự mong muốn tha thiết.
- ñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự thật.
Muñcitukamyatāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ mong muốn tha thiết giải thoát khỏi các pháp-hữu-vi, danh-pháp, sắc-pháp trong tam-giới.
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 muñcitukamyatāñāṇa phát sinh như thế nào?
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 8 nibbidānupassanāñāṇa có khả năng thấy rõ, biết rõ mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp quá-khứ, hiện-tại, vị-lai trong tam-giới đáng kinh sợ, đầy tội chướng, đáng nhàm chán tột độ, chỉ có khổ mà thôi, nên hướng tâm đến đối-tượng santipada, Niết-bàn diệt tất cả các pháp-hữu-vi làm nền tảng, làm nhân-duyên để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 muñcitukamyatāñāṇa chỉ mong chứng ngộ Niết-bàn giải thoát khỏi khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài mà thôi.
* Ba giới gồm có 31 cõi là:
- Dục-giới có 11 cõi-giới.
- Sắc-giới có 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên.
- Vô sắc-giới có 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.
1- Dục-giới có 11 cõi-giới chia làm 2 cõi
- Cõi ác-giới có 4 cõi.
- Cõi thiện-giới có 7 cõi.
* Cõi ác-giới có 4 cõi là cõi địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh. Chúng-sinh bị sa đọa trong 4 cõi ác-giới này do quả của ác-nghiệp, rồi phải chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy.
Ác-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở (cetanā) trong 12 bất-thiện-tâm: 8 tham-tâm, 2 sân-tâm, 2 si-tâm.
Chúng-sinh nào đã tạo ác-nghiệp nào rồi, sau khi chúng-sinh ấy chết, nếu ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì sinh 1 trong 4 cõi ác-giới: Địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh. Chúng-sinh sinh trong cõi ác-giới nào do năng lực của quả của ác-nghiệp ấy.
Đặc biệt có ít loài thú như voi báu, ngựa báu, chó, mèo,… do nhờ quả của đại-thiện-nghiệp từ những kiếp trước, nên chúng được người ta nuôi nấng chăm sóc đầy đủ, ít khổ hơn các con thú khác.
* Cõi thiện-giới có 7 cõi là cõi người và 6 cõi trời dục-giới. Chúng-sinh được sinh trong 7 cõi thiện-giới này do quả của đại-thiện-nghiệp, hưởng quả an-lạc trong cõi-giới ấy cho đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy, rồi phải tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác, tuỳ theo nghiệp và quả của nghiệp của chúng-sinh ấy.
Đại-thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở trong 8 dục-giới thiện-tâm.
2- Sắc-giới có 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên.
Chư phạm-thiên được hóa-sinh lên 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên này do quả của sắc-giới thiện-nghiệp.
Sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở trong 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm.
3- Vô sắc-giới có 4 tầng trời vô sắc-giới phạm-thiên.
Chư phạm-thiên được hóa-sinh lên 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên này do quả của vô-sắc-giới thiện-nghiệp.
Vô-sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở trong 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm.[9]
* Bốn loài đó là 4 loài chúng-sinh:
1- Thai-sinh: Chúng-sinh thuộc về loài thai-sinh, đầu tiên cần phải nương nhờ nơi bụng mẹ, từ từ lớn dần cho đến khi đủ tháng đủ ngày, mới sinh ra đời. Đó là loài người, loài súc-sinh như trâu, bò, v.v…
3- Thấp-sinh: Chúng-sinh thuộc về loài thấp-sinh nương nhờ nơi ẩm thấp dơ dáy, dưới đất, lá cây, trái cây chín, máu, mủ, v.v... Đó là con giun đất, trùn, dòi, các loài sán, v.v…
4- Hóa-sinh: Chúng-sinh thuộc về loài hóa-sinh không cần nương nhờ vào nơi nào cả, chỉ nương nhờ nơi nghiệp quá-khứ của mình mà thôi. Khi hóa-sinh ngay tức khắc to lớn tự nhiên. Đó là chúng-sinh địa-ngục, các loài ngạ-quỷ, các loài a-su-ra, chư-thiên trong 6 cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên trên 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên, chư phạm-thiên trên 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên, …
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đạt đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 muñcitukamyatāñāṇa hiểu biết rằng:
Hễ còn tái-sinh kiếp sau là còn có ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp, dù ở trong cõi nào cũng chắc chắn còn phải chịu khổ của sắc-pháp, của danh-pháp ấy.
Đối với hạng phàm-nhân, hễ còn tiếp tục tử sinh luân-hồi thì khó mà tránh khỏi 4 cõi ác-giới: Địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh.
Cho nên, hành-giả phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới thật đáng kinh sợ, đầy tội chướng, thật đáng nhàm chán thật sự. Vì vậy, hành-giả cảm thấy kinh sợ, nhàm chán trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, nên chỉ quyết tâm tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ để mong chứng ngộ Niết-bàn, giải thoát khổ khỏi vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài mà thôi.
Tính chất của muñcitukamyatāñāṇa như thế nào?
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ đã đạt đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 muñcitukamyatāñāṇa chỉ mong chứng ngộ Niết-bàn giải thoát khỏi sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới mà thôi, qua những ví dụ như sau:
- Ví như con cá bị mắc lưới, cố gắng hết sức mình vùng vẫy để thoát ra khỏi lưới như thế nào. Cũng như vậy, hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 mong chứng ngộ Niết-bàn giải thoát ra khỏi sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới cũng như thế ấy.
- Ví như con ếch bị con rắn ngậm trong miệng, cố gắng hết sức mình vùng vẫy để thoát ra khỏi miệng con rắn như thế nào. Cũng như vậy, hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 mong chứng ngộ Niết-bàn… cũng như thế ấy.
- Ví như con gà rừng là con vật sống trong rừng, khi nó bị sa vào bẫy, người thợ săn đem nó về nhốt trong chuồng, nó cố gắng hết sức mình vùng vẫy để thoát ra khỏi chuồng như thế nào. Cũng như vậy, hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 mong chứng ngộ Niết-bàn, … cũng như thế ấy.
- Ví như con nai bị sa vào bẫy, người thợ săn đem nó về nhốt trong chuồng, nó cố gắng hết sức mình vùng vẫy để thoát ra khỏi chuồng như thế nào. Cũng như vậy, hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 mong chứng ngộ Niết-bàn, … cũng như thế ấy.
- Ví như con rắn bị nằm trong tay thầy rắn, nó cố gắng hết sức mình vùng vẫy để thoát ra khỏi tay thầy rắn như thế nào. Cũng như vậy, hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 mong chứng ngộ Niết-bàn,… cũng như thế ấy.
- Ví như con voi bị sa xuống hầm sâu, nó cố gắng hết sức mình leo lên để thoát ra khỏi hầm như thế nào. Cũng như vậy, hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 mong chứng ngộ Niết-bàn, … cũng như thế ấy.
- Ví như long vương bị nằm trong mỏ của điểu vương, nó cố gắng hết sức mình vùng vẫy để thoát ra khỏi mỏ của điểu vương như thế nào. Cũng như vậy, hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 mong chứng ngộ Niết-bàn, … cũng như thế ấy.
- Ví như một người bị kẻ thù vây hãm, người ấy cố gắng hết sức mình tìm đường chạy thoát ra khỏi vòng vây của kẻ thù như thế nào. Cũng như vậy, hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 mong chứng ngộ Niết-bàn giải thoát ra khỏi sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới cũng như thế ấy, v.v…
Cho nên, hành-giả không muốn dính mắc trong sắc-pháp, danh-pháp nào nữa, chỉ cố gắng tinh-tấn không ngừng tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, để mong chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, mong chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, giải thoát khổ ra khỏi vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 9 muñcitukamyatāñāṇa này làm nền tảng, làm nhân-duyên để cho trí-tuệ thiền-tuệ thứ 10 paṭisaṅkhānupassanāñāṇa phát sinh tiếp theo.
[1] Vaya biến theo văn phạm Pāḷi trở thành baya, khi ghép với udaya thì trở thành udayabbaya + ñāṇa = udayabbayañāṇa.
[2] Chú-giải Sam. Khandhavagga, kinh Pheṇapiṇḍūpamāsuttavaṇṇanā.
[3] 18 sắc-pháp là 4 sắc tứ đại + 5 tịnh sắc + 7 hoặc 4 sắc đối-tượng + 2 sắc tính + 1 sắc-ý-căn + 1 sắc mạng chủ + 1 sắc vật-thực.
[5] Bộ Visuddhimagga, phần Vipassanupakkilesakathā.
[6] Bộ Visuddhimagga, trong phần Vipassanupakkilesakathā.
[7] Bộ Paṭisambhidāmagga, phần ñāṇakathā, và bộ Visuddhimagga, phần Maggāmaggañāṇadassanavisuddhi.
[8] Bộ Visuddhimagga, phần Bhaṅgānupassanāñāṇakathā.
[9] Tìm hiểu rõ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển IV: Nghiệp Và Quả Của Nghiệp, cùng soạn giả.
Mục lục quyển 10 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10