NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)

QUYỂN IV
NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA NGHIỆP
(KAMMA-KAMMAPHALA)


PHẦN II

NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA NGHIỆP (KAMMA -KAMMAPHALA)

Bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo gồm có 9 chương, chia làm 10 quyển, quyển I: Tam-bảo gồm có chương I và chương II, quyển II: Quy-Y Tam-Bảo gồm có chương III và Chương IV, quyển III: Pháp-Hành Giới có chương V đã trình bày xong, tiếp theo Quyển IV: Nghiệp Và Quả Của Nghiệp, có 1 chương là Chương thứ VI sẽ được trình bày.

Nghiệp và quả của nghiệp gồm có 2 phần:

- Nghiệp dịch từ chữ Pāḷi kamma.

- Quả của nghiệp dịch từ chữ Pāḷi kammaphala.

Nghiệp là gì?

Trong bài kinh Nibbedhikasutta, Đức-Phật dạy rằng:

“Cetanā’haṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi, cetayitvā kammaṃ karoti kāyena vācāya manasā.” [1]

-Này chư tỳ-khưu! Sau khi đã có tác-ý rồi mới tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.

Vì vậy, Như-Lai dạy “tác-ý gọi là nghiệp”.

Cetanā: Tác-ý với kamma: nghiệp là 2 pháp khác nhau.

- Cetanā: Tác-ý đó là cetanācetasika: tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm hoặc 8 đại-thiện-tâm phát sinh trước kamma: nghiệp.

- Kamma: Nghiệp đó là akusalakamma: bất-thiện-nghiệp và kusalakamma: thiện-nghiệp phát sinh sau cetanā: tác-ý.

* Tác-ý (cetanā) đó là tác-ý tâm-sở (cetanācetasika)

là 1 trong 52 tâm-sở đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.

Vậy, tác-ý tâm-sở đồng sinh với các tâm nào gọi là nghiệp và tác-ý tâm-sở đồng sinh với các tâm nào không gọi là nghiệp?

Tác-ý gọi là nghiệp

Nếu khi tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) tác-ý tâm-sở đồng sinh với 21 hoặc 37 thiện-tâm thì tác-ý tâm-sở ấy gọi là nghiệp như sau:

- Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) khi đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) gọi là bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.

- Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) khi đồng sinh với 8 dục-giới thiện-tâm (đại-thiện-tâm) gọi là dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.

- Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) khi đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm gọi là 5 sắc-giới thiện-nghiệp bằng ý.

- Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) khi đồng sinh với 4 vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp bằng ý.

- Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) khi đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm gọi là 4 hoặc 20 siêu-tam-giới thiện-nghiệp bằng ý.

Tác-ý không gọi là nghiệp

Nếu khi tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 36 hoặc 52 quả-tâm và đồng sinh với 20 duy-tác-tâm thì tác-ý tâm-sở ấy không gọi là nghiệp. (36 hoặc 52 quả-tâm đó là 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm + 8 thiện-quả vô-nhân-tâm + 8 dục-giới quả-tâm + 5 sắc-giới quả-tâm + 4 vô-sắc-giới quả-tâm + 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm.) (20 duy-tác-tâm đó là 3 duy-tác vô-nhân-tâm + 8 dục-giới đại-duy-tác-tâm + 5 sắc-giới duy-tác-tâm + 4 vô-sắc-giới duy-tác-tâm.)

Muốn tạo nghiệp nào, người ta có tác-ý, cố ý phát sinh trước rồi mới tạo nghiệp ấy sau.

* Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) (Akusalakamma)

Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm tạo 10 bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) bằng thân, bằng khẩu, bằng ý như sau:

- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với bất-thiện-tâm nương nhờ nơi thân tạo bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) gọi là thân bất-thiện-nghiệp (thân ác-nghiệp), có 3 loại:

• Ác-nghiệp sát-sinh.

• Ác-nghiệp trộm-cắp.

• Ác-nghiệp tà-dâm.

Ba ác-nghiệp này phần nhiều nương nhờ nơi thân.

- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với bất-thiện-tâm nương nhờ nơi khẩu tạo bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) gọi là khẩu bất-thiện-nghiệp (khẩu ác-nghiệp), có 4 loại:

• Ác-nghiệp nói-dối.

• Ác-nghiệp nói lời chia rẽ.

• Ác-nghiệp nói lời thô tục.

• Ác-nghiệp nói lời vô ích.

Bốn ác-nghiệp này phần nhiều nương nhờ nơi khẩu.

- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với bất-thiện-tâm nương nhờ nơi ý tạo bất-thiện-nghiệp gọi là ý bất-thiện-nghiệp (ý ác-nghiệp), có 3 loại:

• Ác-nghiệp tham lam của người khác.

• Ác-nghiệp thù hận người khác.

• Ác-nghiệp tà-kiến thấy sai chấp lầm.

Ba ác-nghiệp này phần nhiều nương nhờ nơi ý.

* Thiện-nghiệp (Kusalakamma)

Thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 21 hoặc 37 thiện-tâm chia ra làm 4 loại thiện-nghiệp:

1- Dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới thiện-tâm (8 đại-thiện-tâm) tạo 10 dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) bằng thân, khẩu, ý và tạo 10 phước-thiện puññakriyāvatthu.

Đại-thiện-nghiệp có 10 loại bằng thân, khẩu, ý:

- Thân đại-thiện-nghiệp có 3 loại:

• Đại-thiện-nghiệp không sát-sinh.

• Đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp.

• Đại-thiện-nghiệp không tà-dâm.

- Khẩu đại-thiện-nghiệp có 4 loại:

• Đại-thiện-nghiệp không nói-dối.

• Đại-thiện-nghiệp không nói lời chia rẽ.

• Đại-thiện-nghiệp không nói lời thô tục.

• Đại-thiện-nghiệp không nói lời vô ích.

- Ý đại-thiện-nghiệp có 3 loại:

• Đại-thiện-nghiệp không tham lam của người khác.

• Đại-thiện-nghiệp không thù hận người khác.

• Đại-thiện-nghiệp chánh-kiến thấy đúng, biết đúng thật-tánh của các pháp.

-10 phước-thiện puññakriyāvatthu có 10 loại:

- Phước-thiện bố-thí.

- Phước-thiện giữ-giới.

- Phước-thiện hành-thiền.

- Phước-thiện cung-kính.

- Phước-thiện hỗ-trợ.

- Phước-thiện hồi-hướng phần phước-thiện của mình.

- Phước-thiện hoan-hỷ phần phước-thiện của người.

- Phước-thiện nghe chánh-pháp.

- Phước-thiện thuyết chánh-pháp.

- Phước-thiện chánh-kiến.

2- Sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm:

* Sắc-giới thiện-tâm có 5 loại:

- Đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền là vitakka: hướng-tâm, vicāra: quan-sát, pīti: hỷ, sukha: lạc, ekaggatā: nhất-tâm, do chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) là kāmacchanda: tham-dục, byāpāda: sân-hận, thīna-middha: buồn-chán -buồn ngủ, uddhacca-kukkucca: phóng-tâm -hối-hận, vicikicchā: hoài-nghi.

- Đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 chi-thiền là vicāra: quan-sát, pīti: hỷ, sukha: lạc, ekaggatā: nhất-tâm, do chế ngự được chi-thiền vitakka: hướng-tâm.

- Đệ-tam-thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi-thiền là pīti: hỷ, sukha: lạc, ekaggatā: nhất-tâm, do chế ngự được chi-thiền vicāra: quan-sát.

- Đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là sukha: lạc, ekaggatā: nhất-tâm, do chế ngự được chi-thiền pīti: hỷ.

- Đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là upekkhā: xả, ekaggatā: nhất-tâm, do thay thế được chi-thiền sukha: lạc bằng chi-thiền upekkhā: xả.

Sắc-giới thiện-tâm có 5 bậc thiền đối với hành-giả là hạng người mandapuggala: hành-giả có trí-tuệ chậm. Còn đối với hành-giả là hạng người tikkhapuggala: hành-giả có trí-tuệ sắc bén nhanh nhạy, có khả năng suy xét thấy rõ trạng-thái thô của 2 chi-thiền vitakka: hướng-tâm và vicāra: quan-sát cùng một lúc, nên đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi-thiền là pīti: hỷ, sukha: lạc, ekaggatā: nhất-tâm. Cho nên, hành-giả là hạng người tikkhapuggala chỉ có 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm theo tuần tự như sau:

* Sắc-giới thiện-tâm có 4 loại:

- Đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền là vitakka: hướng-tâm, vicāra: quan-sát, pīti: hỷ, sukha: lạc, ekaggatā: nhất-tâm, do chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) là kāmacchanda: tham-dục, byāpāda: sân-hận, thīna-middha: buồn-chán -buồn ngủ, uddhacca-kukkucca: phóng-tâm -hối-hận, vicikicchā: hoài-nghi.

- Đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi-thiền là pīti: hỷ, sukha: lạc, ekaggatā: nhất-tâm, do chế ngự được 2 chi-thiền vitakka: hướng-tâm vicāra: quan-sát.

- Đệ-tam-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là sukha: lạc, ekaggatā: nhất-tâm, do chế ngự được chi-thiền pīti: hỷ.

- Đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là upekkhā: xả, ekaggatā: nhất-tâm, do thay thế được chi-thiền sukha: lạc bằng chi-thiền upekkhā: xả.

3- Vô-sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 vô-sắc-giới thiện-tâm 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm.

Sau khi đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định để chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm. Mỗi bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có mỗi đề-mục thiền-định riêng biệt, nên có 4 đề-mục thiền vô-sắc.

* Vô-sắc-giới thiện-tâm có 4 loại:

- Đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên-xứ thiện-tâm có 2 chi-thiền là upekkhā: xả ekaggatā: nhất-tâm.

- Đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là thức-vô-biên-xứ thiện-tâm có 2 chi-thiền là upekkhā: xả ekaggatā: nhất-tâm.

- Đệ-tam-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm có 2 chi-thiền là upekkhā: xả ekaggatā: nhất-tâm.

- Đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm có 2 chi-thiền là upekkhā: xả ekaggatā: nhất-tâm.

4- Siêu-tam-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm.

Thánh-đạo-tâm có 4 loại:

- Nhập-lưu Thánh-đạo-tâm.

- Nhất-lai Thánh-đạo-tâm.

- Bất-lai Thánh-đạo-tâm.

- A-ra-hán Thánh-đạo-tâm.

Thánh-đạo-tâm có 20 loại:

Mỗi bậc Thánh-đạo-tâm 5 bậc thiền siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn, 4 bậc Thánh-đạo-tâm nhân với 5 bậc thiền siêu-tam-giới nên gồm có 20 Thánh-đạo-tâm.

* Nghiệp và quả của nghiệp

Đức-Phật dạy các hàng thanh-văn đệ-tử hằng ngày thường suy xét rằng:

“Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kamma-bandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃvā, tassa dāyādo bhavissāmi.” [2]

Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp,’ ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.

Kamma: nghiệp có 2 loại:

- Akusalakamma: Bất-thiện-nghiệp.

- Kusalakamma: Thiện-nghiệp.

*Akusalakamma: Bất-thiện-nghiệp trong 12 bất-thiện-tâm cho quả có 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm.

* Kusalakamma: Thiện-nghiệp có 4 loại:

- Dục-giới thiện-nghiệp trong 8 dục-giới thiện-tâm.

- Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm.

- Vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm.

-Siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm.

1- Dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) trong 8 dục-giới thiện-tâm (đại-thiện-tâm) cho quả có 8 dục-giới quả-tâm (8 đại-quả-tâm) và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm gồm có 16 quả-tâm.

2- Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm cho quả có 5 sắc-giới quả-tâm tương xứng.

3- Vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả có 4 vô-sắc-giới quả-tâm tương xứng.

4- Siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm liền cho quả có 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm không có thời gian chờ đợi (akālikadhamma) nghĩa là Thánh-đạo-tâm nào sinh 1 sát-na-tâm rồi diệt liền Thánh-quả-tâm ấy sinh trong cùng Thánh-đạo lộ-trình-tâm (maggavīthicitta) ấy.

Tính chất của nghiệp (Kamma)

Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) hay thiện-nghiệp là những nghiệp mà mỗi người hoàn toàn chủ-động có quyền tự lựa chọn tạo nghiệp nào tùy theo khả năng của mình.

Thật vậy, trong mỗi ác-nghiệp nào, ta có quyền hoàn toàn chủ động tự lựa chọn tạo ác-nghiệp ấy hoặc không tạo ác-nghiệp ấy.

* Nếu người thiện biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp, biết tự trọng, có quyền hoàn toàn chủ-động tự lựa chọn tránh xa ác-nghiệp ấy thì đồng thời tạo đại-thiện-nghiệp ấy rồi.

Ví dụ: -Nếu người nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm trộm cắp tiền của người khác thì người ấy bị gọi là người ác, đã tạo ác-nghiệp trộm-cắp.

-Nếu người nào biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội- lỗi, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm tránh xa sự trộm-cắp tiền của người khác thì người ấy được gọi là người thiện, đã tạo đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp.

- Nếu người nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm uống rượu, bia và các chất say, thì người ấy bị gọi là người ác, đã tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say,

- Nếu người nào biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say thì người ấy được gọi là người thiện đã tạo đại-thiện-nghiệp không uống rượu, bia và các chất say.

Trong các loại thiện-nghiệp, người thiện-trí biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp, nên cố gắng tự lựa chọn tạo thiện-nghiệp bậc cao theo khả năng của mình, bởi vì chỉ có thiện-nghiệp bậc cao mới có thể nâng đỡ con người trở nên cao thượng được mà thôi.

Thật ra, bậc thiện-trí tin nghiệp và quả của nghiệp, chánh-kiến sở nghiệp (kammassakatāsammādiṭṭhi) tin chỉ có nghiệp là của riêng mình thật sự mà thôi.

Ngoài nghiệp ra, không có thứ của cải tài sản nào trong đời thuộc về của riêng mình thật sự, thậm chí ngay sắc thân cũng không phải của riêng mình, bởi vì không theo ý muốn của mình mà chỉ tùy thuộc vào nhân-duyên mà thôi.

Tất cả mọi thứ của cải tài sản bên ngoài trong đời đều là của chung giữa mình và tất cả mọi người.

Nếu những tiền-kiếp của người nào đã từng tạo đại-thiện-nghiệp bố-thí được tích lũy ở trong tâm, đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc, nên kiếp hiện-tại của người ấy được giàu sang phú quý, hưởng mọi quả an-lạc cho đến khi mãn quả của nghiệp ấy.

Tính chất quả của nghiệp (Kamma phala)

- Nếu bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) nào gặp nghịch-duyên (vipatti) có cơ hội thì cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy chủ-nhân của ác-nghiệp ấy hoàn toàn bị động, không có quyền lựa chọn, không thể phủ nhận mà phải chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy như người thừa kế (kammadāyādo) mà thôi.

- Nếu đại-thiện-nghiệp nào gặp thuận-duyên (sampatti) có cơ hội thì cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy chủ-nhân của đại-thiện-nghiệp ấy là hoàn toàn bị động, không thể muốn theo ý của mình được, chỉ hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy như người thừa kế (kammadāyādo) mà thôi.

Tuy nhiên, quả khổ, quả xấu của ác-nghiệp nào hoặc quả an-lạc, quả tốt của đại-thiện-nghiệp nào không chỉ trực-tiếp riêng cho chủ-nhân của nghiệp ấy, mà còn gián-tiếp ảnh hưởng đến những người thân gần gũi, thân cận với chủ-nhân của nghiệp ấy nữa.

* Như trường-hợp quả khổ của ác-nghiệp của cậu Losakatissa, từ khi đầu thai vào lòng mẹ, quả khổ của ác-nghiệp ấy của cậu gián-tiếp ảnh hưởng đến cho người mẹ và cả 1.000 gia đình dân chài phải chịu quả đói khổ.

* Như trường-hợp quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp của hoàng-tử Sīvali, từ khi hoàng-tử đầu thai vào lòng Mẫu-hậu, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp của hoàng-tử gián-tiếp ảnh hưởng tốt đến Mẫu-hậu. Hằng ngày Mẫu-hậu nhận được nhiều tặng phẩm quý giá, trong triều đình các kho đầy đủ và trong hoàng gia cũng hưởng mọi sự an-lạc.

Phân Loại Về Nghiệp

Trong chương VI này trình bày về nghiệp và quả của nghiệp theo bộ Abhidhammatthasaṅgaha (Vi-diệu-pháp yếu-nghĩa) của Ngài Đại-Trưởng-lão Anuruddha trình bày trong phần Kammacatukka, có 4 phần nghiệp.

Kammacatukka: 4 phần nghiệp

I- Kiccacatukka: Phần nghiệp phân chia theo phận sự của nghiệp, có 4 loại.

II- Pākadānapariyāyacatukka: Phần nghiệp phân chia theo nghiệp cho quả theo tuần tự, có 4 loại.

III- Pākakālacatukka: Phần nghiệp phân chia theo nghiệp cho quả theo thời gian, có 4 loại.

IV- Pākaṭṭhānacatukka: Phần nghiệp phân chia theo nghiệp cho quả theo cõi-giới, có 4 loại.

Như vậy, 4 phần nghiệp, mỗi phần có 4 loại nghiệp gồm có 16 loại nghiệp.

I- Kiccacatukka: Phần nghiệp phân chia theo phận sự của nghiệp, có 4 loại nghiệp:

I.1-Janakakamma: Sinh-quả-nghiệp là nghiệp có phận sự cho quả trong thời-kỳ tái-sinh (paṭisandhikāla) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

I.2-Upatthambhakakamma: Hỗ-trợ-nghiệp là nghiệp có phận sự hỗ trợ nghiệp khác cho quả.

I.3-Upapīḷakakamma: Hãm-hại-nghiệp là nghiệp có phận sự hãm hại nghiệp đối nghịch.

I.4-Upaghātakakamma: Sát-hại-nghiệp là nghiệp có phận sự sát hại nghiệp khác.

II- Pākadānapariyāyacatukka: Phần nghiệp phân chia theo nghiệp cho quả theo tuần tự, có 4 loại nghiệp:

II.1-Garukakamma: Trọng-yếu-nghiệp là nghiệp trọng có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp sau.

II.2-Āsannakamma: Cận-tử-nghiệp là nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung.

Nếu không có trọng-yếu-nghiệp thì cận-tử-nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.

II.3-Āciṇṇakamma: Thường-hành-nghiệp là nghiệp thường hành hằng ngày đêm.

Nếu không có cận-tử-nghiệp thì thường-hành-nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.

II.4-Kaṭattākamma: Bình-thường-nghiệp là nghiệp bình thường kém 3 loại nghiệp trên, hoặc nghiệp trong kiếp quá-khứ.

Nếu không có 3 loại nghiệp trên thì bình-thường-nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.

III- Pākakālacatukka: Phần nghiệp phân chia theo nghiệp cho quả theo thời gian, có 4 loại nghiệp.

III.1-Diṭṭhadhammavedanīyakamma: Hiện-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất).

III.2-Upapajjavedanīyakamma: Hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì).

III.3-Aparāpariyavedanīyakamma: Kiếp-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp có cơ hội cho quả từ kiếp này đến kiếp kia kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

III.4-Ahosikamma: Vô-hiệu-quả-nghiệp là nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nghiệp được nữa.

IV- Pākaṭṭhānacatukka: Phần nghiệp phân chia theo nghiệp cho quả theo cõi-giới, có 4 loại nghiệp:

IV.1-Akusalakamma: Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) trong 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm) cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới là cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, loài ngạ-quỷ, loài súc-sinh.

IV.2-Kāmāvacarakusalakamma: Dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) trong 8 dục-giới thiện-tâm (đại-thiện-tâm) cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người và 6 cõi trời dục-giới.

IV.3-Rūpāvacarakusalakamma: Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh trong 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên.

IV.4-Arūpavacarakusalakamma: Vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh trong 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.

Đó là 4 phần nghiệp mà mỗi phần có 4 loại thành 16 loại nghiệp được giảng giải về mỗi nghiệp như sau:

Giảng giải về phận sự mỗi nghiệp, có 4 loại nghiệp

I- Kiccacatukka: 4 loại nghiệp có phận sự mỗi nghiệp

I.1-Janakakamma: Sinh-quả-nghiệp là nghiệp có phận sự cho quả trong thời-kỳ tái-sinh (paṭisandhikāla) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại cho đến trước khi chết.

I.2-Upatthambhakakamma: Hỗ-trợ-nghiệp là nghiệp có phận sự hỗ trợ nghiệp khác cho quả tái-sinh kiếp sau và có phận sự hỗ trợ cho nghiệp khác được tồn tại.

I.3-Upapīḷakakamma: Hãm-hại-nghiệp là nghiệp có phận sự hãm hại nghiệp đối nghịch khác không cho quả, nếu nghiệp đối nghịch khác đã cho quả rồi thì có phận sự hãm hại tiềm năng cho quả của nghiệp ấy.

I.4-Upaghātakakamma: Sát-hại-nghiệp là nghiệp có phận sự sát hại nghiệp khác không có cơ hội cho quả, hoặc có phận sự hại một phần hoặc hại toàn phần quả của nghiệp khác.

I.1-Janakakamma: Sinh-Quả-Nghiệp

Thế nào gọi là sinh-quả-nghiệp?

Nghiệp nào có phận sự cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có phận sự cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, cho đến trước khi chết.

Nghiệp ấy gọi là sinh-quả-nghiệp, đó là 12 bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp), 17 tam-giới thiện-nghiệp là thiện-nghiệp trong tam-giới.

* 4 loại nghiệp cho quả trong 2 thời-kỳ gồm có:

- 12 bất-thiện-nghiệp cho quả trong 2 thời-kỳ.

- 8 dục-giới thiện-nghiệp (8 đại-thiện-nghiệp) cho quả trong 2 thời-kỳ.

- 5 sắc-giới thiện-nghiệp cho quả trong 2 thời-kỳ.

- 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp cho quả trong 2 thời-kỳ.

I.1.1-12 Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) cho quả trong 2 thời-kỳ:

12 bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) đó là 8 tham-tâm + 2 sân-tâm + 2 si-tâm.

* Tham-tâm có 8 tâm:

1-Tham-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, không cần tác-động.

2-Tham-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, cần tác-động.

3- Tham-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với tà-kiến, không cần tác-động.

4- Tham-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với tà-kiến, cần tác-động.

5- Tham-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với tà-kiến, không cần tác-động.

6- Tham-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với tà-kiến, cần tác-động.

7- Tham-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, không cần tác-động.

8- Tham-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, cần tác-động.

* Sân-tâm có 2 tâm:

1- Sân-tâm thứ nhất đồng sinh với ưu, hợp với hận, không cần tác-động.

2- Sân-tâm thứ nhì đồng sinh với ưu, hợp với hận, cần tác-động

* Si-tâm có 2 tâm: [3]

1-Si-tâm thứ nhất đồng sinh với xả, hợp với hoài-nghi. 2-Si-tâm thứ nhì đồng sinh với xả, hợp với phóng-tâm.

Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) cho quả trong 2 thời-kỳ:

- Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

- Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh.

a) Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau

Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) chỉ có bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) trong 11 bất-thiện-tâm (ác-tâm) (trừ si-tâm hợp với phóng-tâm[4]) cho quả, chỉ có 1 quả-tâm suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của bất-thiện-nghiệp (upekkāsahagataṃ akusala-vipākaṃ santīraṇacittaṃ) thuộc về bất-thiện-quả vô-nhân-tâm[5]. Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả này gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới là địa-ngục, a-su-ra, ngạ-

quỷ, súc-sinh.

Năng lực của suy-xét-tâm

-Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả này là quả của ác-nghiệp trong tham-tâm có nhiều năng lực làm phận sự tái-sinh kiếp sau thì hóa-sinh làm loài ngạ-quỷ hoặc loài a-su-ra, 2 loài chúng-sinh này thường có tham-tâm thèm khát.

- Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả này là quả của ác-nghiệp trong sân-tâm có nhiều năng lực làm phận sự tái-sinh kiếp sau thì hóa-sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục, loài chúng-sinh trong cõi địa-ngục này thường có sân-tâm không hài lòng.

- Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả này là quả của ác-nghiệp trong si-tâm có nhiều năng lực làm phận sự tái-sinh kiếp sau thì tái-sinh làm loài súc-sinh, loài chúng-sinh này có tính si-mê.

b) Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh

Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) trong 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm) có cơ hội cho quả, có 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm biết đối-tượng xấu.

Bất-thiện-quả vô-nhân-tâm có 7 tâm:

1- Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của bất-thiện-nghiệp, nhìn thấy đối-tượng sắc xấu.

2- Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của bất-thiện-nghiệp, nghe đối-tượng âm thanh dở.

3- Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của bất-thiện-nghiệp, ngửi đối-tượng hương mùi hôi.

4- Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của bất-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị dở.

5- Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ khổ là quả của bất-thiện-nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc xấu thô cứng.

6- Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của bất-thiện-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) xấu.

7- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của bất-thiện-nghiệp, suy xét trong 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) xấu.

Bảy bất-thiện-quả vô-nhân-tâm này là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) trong 12 bất-thiện-tâm.

Mỗi bất-thiện-quả vô-nhân-tâm này phát sinh cần phải hội đủ nhân duyên của mỗi quả-tâm ấy, và còn tùy theo mỗi hạng chúng-sinh trong mỗi cõi-giới ấy.

Suy-xét-tâm nào đồng sinh với thọ xả thuộc về bất-thiện-quả vô-nhân-tâm, gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) làm phận sự tái-sinh (paṭisandhikicca) kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chỉ có 1 sát-na-tâm xong rồi diệt. Tiếp theo thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, cũng chính suy-xét-tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅga-citta) làm phận sự hộ-kiếp (bhavaṅgakicca) giữ gìn kiếp chúng-sinh ấy cho đến mãn kiếp. Rồi cuối cùng cũng chính suy-xét-tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự tử (chết) (cutikicca) kết thúc kiếp hiện-tại của chúng-sinh ấy.

Tất cả mọi quả khổ của chúng-sinh trong cõi địa-ngục hoặc loài a-su-ra hoặc loài ngạ-quỷ hoặc loài súc-sinh đều là quả khổ của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) mà chính chúng-sinh ấy đã tạo trong kiếp hiện-tại hoặc trong những kiếp quá-khứ.

I.1.2-8 Dục-giới thiện-nghiệp gọi là 8 đại-thiện-nghiệp

Dục-giới thiện-nghiệp gọi là đại-thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới thiện-tâm gọi là 8 đại-thiện-tâm.

-Đại-thiện-tâm có 8 tâm:

1- Đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

2- Đại-thiện-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

3- Đại-thiện-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

4- Đại-thiện-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

5- Đại-thiện-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

6- Đại-thiện-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

7- Đại-thiện-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

8- Đại-thiện-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.[6]

Dục-giới thiện-nghiệp gọi là đại-thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới thiện-tâm gọi là 8 đại-thiện-tâm cho quả trong 2 thời-kỳ:

- Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

- Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh.

Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), dục-giới thiện-nghiệp gọi là đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới thiện-tâm gọi là 8 đại-thiện-tâm cho quả, có 9 quả-tâm 8 đại-quả-tâm 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả thuộc về thiện-quả vô-nhân-tâm. 9 quả-tâm này gọi là 9 dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người và 6 cõi trời dục-giới.

* Đại-quả-tâm có 8 tâm:

1- Đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

2- Đại-quả-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

3- Đại-quả-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

4- Đại-quả-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

5- Đại-quả-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

6- Đại-quả-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

7- Đại-quả-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

8- Đại-quả-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.[7]

Như vậy, 8 đại-quả-tâm có 2 loại tâm:

- 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ.

- 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ.

Dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) có 9 quả-tâm

* 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ

a) Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau

- Nếu có 1 trong 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ nào gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāya-rūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) có đầy đủ 3 thiện-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si) từ khi đầu thai vào lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng-thành, người tam-nhân

vốn có trí-tuệ sáng suốt.

- Nếu người tam-nhân ấy là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định thì có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, chứng đắc 5 phép-thần-thông thế gian (lokiya abhiññā).

- Nếu người tam-nhân ấy là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

Hoặc nếu có 1 trong 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân có trí-tuệ sáng suốt, có nhiều oai lực, hào quang sáng rực, hưởng mọi an-lạc cao quý trong cõi trời dục-giới ấy.

Nếu vị chư-thiên tam-nhân có cơ hội lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật thì có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn.

b) Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh

Đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ nào gọi là dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) phát sinh chỉ có 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm người trong cõi người hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới ấy xong rồi diệt; liền tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự hộ-kiếp giữ gìn kiếp người tam-nhân ấy hoặc kiếp vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân ấy cho đến khi hết tuổi thọ tại cõi thiện-giới ấy; rồi cuối cùng cũng chính đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự tử (chết) (cutikicca) kết thúc kiếp hiện-tại của người tam-nhân ấy tại cõi người hoặc kết thúc kiếp vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân ấy tại cõi trời dục-giới ấy.

Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, đại-thiện-nghiệp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả, 8 đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm gồm có 16 loại quả-tâm.

Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 tâm:

1- Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, nhìn thấy đối-tượng sắc tốt, đáng hài lòng.

2- Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, nghe đối-tượng âm thanh hay, đáng hài lòng. 3-Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, ngửi đối-tượng hương thơm, đáng hài lòng.

4- Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị ngon, đáng hài lòng.

5- Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ lạc là quả của đại-thiện-nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc tốt mềm mại, đáng hài lòng.

6- Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.

7- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ hỷ là quả của đại-thiện-nghiệp, suy xét 5 đối tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.

8- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.

8 thiện-quả vô-nhân-tâm này là quả của đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, nếu có cơ hội thì phát sinh trong kiếp hiện-tại, trong 11 cõi dục-giới và 1 số tầng trời sắc-giới phạm-thiên tùy theo nhân-duyên (nhãn-thức-tâm và nhĩ-thức-tâm).

Mỗi thiện-quả vô-nhân-tâm này phát sinh cần phải hội đủ nhân-duyên của mỗi thiện-quả vô-nhân-tâm ấy, và còn tùy thuộc vào hạng chúng-sinh trong cõi-giới ấy.[8]

* 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ

a) Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau

Nếu 1 trong 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ nào gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người nhị-nhân (dvihetukapuggala) chỉ có 2 thiện-nhân (vô-tham và vô-sân, không có vô-si) từ khi đầu thai vào lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng-thành, người nhị-nhân

vốn không có trí-tuệ.

- Nếu người nhị-nhân ấy là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định thì không có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào cả.

- Nếu người nhị-nhân ấy là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì không có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

Hoặc nếu có 1 trong 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân (không có trí-tuệ), có oai lực, hào quang trung bình, hưởng mọi an-lạc trung bình trong cõi trời dục-giới ấy.

Nếu vị chư-thiên nhị-nhân có cơ hội lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật thì không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

b) Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh

Đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ nào gọi là dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) phát sinh chỉ có 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm người trong cõi người hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới ấy xong rồi diệt; liền tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự hộ-kiếp giữ gìn kiếp người nhị-nhân ấy hoặc kiếp vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị nhân ấy cho đến khi hết tuổi thọ tại cõi thiện-giới ấy; rồi cuối cùng cũng chính đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự tử (chết) (cutikicca) kết thúc kiếp hiện-tại của người nhị-nhân ấy tại cõi người hoặc kết thúc kiếp vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân ấy tại cõi trời dục-giới ấy.

Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, đại-thiện-nghiệp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả, 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm gồm có 12 loại quả-tâm.

* Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả

a) Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau

Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp bậc thấp thuộc về thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi nương nhờ của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm  hạng  người  vô-nhân  cõi  thiện-giới  (sugati-

ahetukapuggala)[9], là hạng người đui mù, câm điếc, tật nguyền, ... từ khi đầu thai trong bụng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người vô-nhân cõi thiện-giới đui mù, câm điếc, tật nguyền, ngu dốt, đần độn, biết tầm thường trong cuộc sống hằng ngày.

Tuy nhiên, nếu thai nhi bị đui mù, câm điếc, tật nguyền, … do ác-nghiệp nào cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, trong bụng mẹ thì không thể gọi là hạng người vô-nhân cõi thiện-giới được, bởi vì có những đứa bé sinh ra đời có năng khiếu đặc biệt.

Hoặc nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp bậc thấp thuộc về thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam vô-nhân hoặc vị thiên-nữ vô-nhân thuộc về hạng chư-thiên bậc thấp trên mặt đất (bhummaṭṭhadevatā) không có oai lực thuộc trong cõi Tứ-Đại-thiên-vương.

b) Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh

Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả nào là quả của đại-thiện-nghiệp bậc thấp thuộc về thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) phát sinh chỉ có 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm người vô-nhân trong cõi người hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam vô-nhân hoặc vị thiên-nữ vô-nhân trong cõi bhummaṭṭhadevatā chư-thiên nương nhờ trên mặt đất thuộc về cõi trời Tứ-Đại-thiên-vương, xong rồi diệt; liền tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự hộ-kiếp giữ gìn kiếp người vô-nhân ấy hoặc kiếp vị thiên-nam vô-nhân hoặc vị thiên-nữ vô-nhân ấy cho đến khi hết tuổi thọ tại cõi thiện-giới ấy; rồi cuối cùng cũng chính suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự tử (chết) (cutikicca) kết thúc kiếp hiện-tại của người vô-nhân ấy tại cõi người hoặc kết thúc kiếp vị thiên-nam vô-nhân hoặc vị thiên-nữ vô-nhân ấy tại cõi trời Tứ-Đại-thiên-vương ấy.

Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả chỉ có 8 thiện-quả vô-nhân-tâm mà thôi, tiếp xúc các đối-tượng tầm thường.

I.1.3-5 sắc-giới thiện-nghiệp

5 sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm.

* Thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 bậc

1- Đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền: vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā do chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại: kāmacchanda, byāpāda, thīna-middha, uddhacca-kukkucca, vicikicchā.

2- Đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 chi-thiền: vicāra, pīti, sukha, ekaggatā do chế ngự được chi-thiền vitakka.

3- Đệ-tam-thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi-thiền: pīti, sukha, ekaggatā do chế ngự được chi-thiền vicāra.

4- Đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền: sukha, ekaggatā do chế ngự được chi-thiền pīti.

5- Đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền: upekkhā, ekaggatā do thay thế chi-thiền sukha bằng chi-thiền upekkhā.

Sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm cho quả trong 2 thời-kỳ:

- Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

- Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh.

a) Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau

Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) 5 sắc-giới quả-tâm tương xứng gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên).

* Thiền sắc-giới quả-tâm có 5 bậc tương xứng

1- Đệ-nhất-thiền sắc-giới quả-tâm có 5 chi-thiền: vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā.

2- Đệ-nhị-thiền sắc-giới quả-tâm có 4 chi-thiền: vicāra, pīti, sukha, ekaggatā.

3- Đệ-tam-thiền sắc-giới quả-tâm có 3 chi-thiền: pīti, sukha, ekaggatā.

4- Đệ-tứ-thiền sắc-giới quả-tâm có 2 chi-thiền: sukha, ekaggatā.

5- Đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm có 2 chi-thiền: upekkhā, ekaggatā.

Hành-giả nào là hạng người tam-nhân nếu có khả năng chứng đắc được 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm.

Sau khi hành-giả ấy chết, thì chắc chắn chỉ có đệ-ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm có quyền ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Vehapphalā (Quảng-quả-thiên) là tầng trời sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh. Vị phạm-thiên trong tầng trời sắc-giới tột đỉnh này có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.

* Trường-hợp đặc biệt hành-giả nào có tâm nhàm chán 4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn) chỉ muốn có sắc-uẩn mà thôi, chứng đắc đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm.

Sau khi hành-giả ấy chết, đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) nhóm sắc-pháp gọi là jīvitanavakakalāpa (nhóm sắc-pháp có sắc-mạng-chủ là thứ 9) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên chỉ có nhất-uẩn là sắc-uẩn với 1 trong 3 tư thế (tư thế ngồi hoặc tư thế đứng hoặc tư thế nằm), trên tầng trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên (asaññasattā). Vị phạm-thiên trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên này có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.

Sắc-giới thiện-nghiệp bậc thấp còn lại trong 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm (đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ-tam-thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm) đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không có cơ hội cho quả của nghiệp được nữa.

b) Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh

Đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm nào gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) phát sinh chỉ có 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh là vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy xong rồi diệt; liền tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự hộ-kiếp (bhavaṅgakicca) giữ gìn kiếp vị phạm-thiên ấy cho đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy; rồi cuối cùng cũng chính sắc-giới quả-tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự tử (chết) (cutikicca) kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy.

I.1.4-4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp cho quả trong 2 thời-kỳ

4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm.

* Thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có 4 bậc:

1- Đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên-xứ thiện-tâm có 2 chi-thiền: upekkhā, ekaggatā.

2- Đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là thức-vô-biên-xứ thiện-tâm có 2 chi-thiền: upekkhā, ekaggatā.

3- Đệ-tam-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm có 2 chi-thiền: upekkhā, ekaggatā.

4- Đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm có 2 chi-thiền: upekkhā, ekaggatā.

Vô-sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả trong 2 thời-kỳ:

- Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

- Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh.

a) Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau

Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) 4 vô-sắc-giới quả-tâm tương xứng gọi là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm chư phạm-thiên trên 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.

* Thiền vô-sắc-giới quả-tâm có 4 bậc:

1- Đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới quả-tâm gọi là không-vô-biên-xứ quả-tâm có 2 chi-thiền: upekkhā, ekaggatā.

2- Đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới quả-tâm gọi là thức-vô-biên-xứ quả-tâm có 2 chi-thiền: upekkhā, ekaggatā.

3- Đệ-tam-thiền vô-sắc-giới quả-tâm gọi là vô-sở-hữu-xứ quả-tâm có 2 chi-thiền: upekkhā, ekaggatā.

4- Đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới quả-tâm gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ quả-tâm có 2 chi-thiền: upekkhā, ekaggatā.

Hành-giả nào là hạng người tam-nhân nếu có khả năng chứng đắc được 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi tiếp tục chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm.

Sau khi hành-giả ấy chết, thì chắc chắn chỉ có đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-nghiệp trong đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm có quyền ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới quả-tâm gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ quả-tâm gọi là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên là tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh. Vị phạm-thiên trong tầng trời vô-sắc-giới tột đỉnh này có tuổi thọ 84.000 đại-kiếp trái đất lâu dài nhất.

Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm vô-sắc-giới thiện-nghiệp bậc thấp còn lại trong 3 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm bậc thấp đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không có cơ hội cho quả của nghiệp được nữa.

b) Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh

Đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới quả-tâm nào gọi là -sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) phát sinh chỉ có 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh là vị phạm-thiên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy xong rồi diệt; liền tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới quả-tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅga-citta) làm phận sự hộ-kiếp (bhavaṅgakicca) giữ gìn kiếp vị phạm-thiên ấy cho đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy; rồi cuối cùng cũng chính -sắc-giới quả-tâm ấy trở thành tử-tâm (cuti-citta) làm phận sự tử (chết) (cutikicca) kết thúc kiếp

hiện-tại của vị phạm-thiên tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy.[10]

Paṭisandhicitta, bhavaṅgacitta, cuticitta

Quả-tâm gồm có 36 hoặc 52 tâm đó là 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm + 8 thiện-quả vô-nhân-tâm + 8 dục-giới quả-tâm+ 5 sắc-giới quả-tâm + 4 vô-sắc-giới quả-tâm

+ 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm.

Trong 52 quả-tâm ấy chỉ có 19 quả-tâm đó là 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của bất-thiện-nghiệp

+ 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp + 8 dục-giới quả-tâm + 5 sắc-giới quả-tâm

+ 4 sắc-giới quả-tâm gọi là 19 paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm, 19 bhavaṅgacitta: hộ-kiếp-tâm, 19 cuticitta: tử-tâm trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới chúng-sinh.

Mỗi chúng-sinh trong 31 cõi-giới chúng-sinh, trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) chỉ có 1 trong 19 quả-tâm nào gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) chỉ có 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) làm hạng chúng-sinh nào trong cõi-giới nào tương xứng với quả-tâm ấy xong rồi diệt; liền tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính quả-tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự hộ-kiếp (bhavaṅgakicca) giữ gìn kiếp chúng-sinh ấy cho đến khi mãn kiếp; rồi cuối cùng cũng chính quả-tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự tử (chết) (cutikicca) kết thúc kiếp hiện-tại của chúng-sinh ấy.

Ví dụ:

Đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai (paṭisandhikicca) làm người tam-nhân chỉ có 1 sát-na-tâm xong rồi diệt; liền tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính quả-tâm thứ nhất ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự hộ-kiếp (bhavaṅgakicca) giữ gìn kiếp người tam-nhân ấy cho đến khi mãn kiếp; rồi cuối cùng cũng chính quả-tâm thứ nhất ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự tử (chết) (cutikicca) kết thúc kiếp hiện-tại của người tam-nhân ấy.

Như vậy, mỗi kiếp người hoặc mỗi kiếp chúng-sinh dù lớn dù nhỏ trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới cũng chỉ có 1 tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta), 1 hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) và 1 tử-tâm (cuticitta) cùng một loại quả-tâm giống nhau, chỉ có khác nhau về ba giai đoạn thời gian:

- Thời gian trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi-sandhikāla) gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) chỉ có 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh (paṭisandhikicca) rồi diệt.

- Thời gian liền tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅga-citta) làm phận sự hộ-kiếp (bhavaṅgakicca) giữ gìn hộ trì kiếp chúng-sinh ấy cho đến khi mãn kiếp.

- Thời gian cuối cùng trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự tử (chết) (cutikicca) kết thúc kiếp hiện-tại của chúng-sinh ấy.

Thời-kỳ tử (cuti) và thời-kỳ tái-sinh (paṭisandhi)

Tuy nhiên, tử-tâm (cuticitta) đó là quả-tâm cuối cùng kết thúc kiếp hiện-tại của chúng-sinh diệt (chết), liền tiếp theo sau tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) đó là quả-tâm bắt đầu kiếp chúng-sinh chỉ có 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt trong cùng một cận tử lộ-trình-tâm, tử-tâm (cuticitta) cuối cùng của kiếp của chúng-sinh (kiếp trước) và tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) bắt đầu của kiếp hiện-tại của chúng-sinh (kiếp sau), chắc chắn 2 quả-tâm này là hoàn toàn khác biệt nhau, bởi vì 2 kiếp chúng-sinh khác nhau.

Ví dụ: Chúng-sinh ấy là loài người, người ấy trong lúc lâm chung (maraṇāsannakāla) với cận-tử lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthicitta) lúc lâm chung, có 1 trong 3 đối-tượng hiện tượng hiện ra là kamma: nghiệp, hoặc kammanimitta: hiện tượng của nghiệp, hoặc gatinimitta: hiện tượng cõi-giới sắp tái-sinh, trong cận-tử lộ-trình-tâm lúc lâm chung (maraṇāsannavīthicitta) như sau:

Đồ biểu ngũ-môn cận-tử lộ-trình-tâm

Cận-tử lộ-trình-tâm lúc lâm chung theo 5 giác quan là

mắt, tai, mũi, lưỡi, thân như sau:

Ngũ-môn cận-tử lộ-trình-tâm khi cuticitta: tử-tâm (chết) paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm kiếp sau, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau:

1-Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm                       viết tắt (bha)

2-Atītabhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm quá khứ            vt (ati)

3-Bhavaṅgacalana: Hộ-kiếp-tâm rung động            vt (na)

4-Bhavaṅgupaccheda: Hộ-kiếp-tâm bị cắt đứt vt (da)

5-Pañcadvāravajjanacitta: Ngũ-môn-hướng-tâm vt (pañ)

6-Pañcaviññāṇacitta: Ngũ-thức-tâm: (nhãn-thức-tâm, nhĩ-thức-tâm, tỷ-thức-tâm, thiệt-thức-tâm, thân-thức-tâm)                        vt (viñ)

7-Sampaticchanacitta: Tiếp-nhận-tâm           vt (sam)

8-Santīraṇacitta: Suy-xét-tâm                        vt (san)

9-Voṭṭhabbanacitta: Quyết-định-tâm             vt (vot)

10-Javanacitta: Tác-hành-tâm                                  vt (ja)

11-Tadārammaṇacitta: Tiếp-đối-tượng-tâm          vt (ta)

12-Cuticitta: Tử-tâm (kiếp hiện-tại)                     vt (cu)

13-Paṭisandhicitta: Tái-sinh-tâm (kiếp sau) vt (paṭi)

14-Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm                             vt (bha)

Đồ biểu ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm

Cận-tử lộ-trình-tâm lúc lâm chung theo ý-môn các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau:

(Những chữ viết tắt giống đồ biểu ngũ môn cận-tử lộ-trình-tâm, chỉ còn manodvārāvajjanacitta: ý-môn-hướng-tâm, viết tắt (ma)).

Kiếp hiện-tại tử -kiếp sau sinh không có khoảng cách thời gian chờ đợi

Qua cận-tử lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthicitta) đối với tất cả mọi chúng-sinh trong tam-giới có cuticitta: tử-tâm quả-tâm cuối cùng của kiếp hiện-tại diệt (chết), liền tiếp theo sau paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm sinh bắt đầu kiếp sau chỉ có 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt mà thôi, không có khoảng cách thời gian chờ đợi.

- Cuticitta: Tử-tâm (chết) quả-tâm cuối cùng của mỗi kiếp chúng-sinh diệt (chết) nghĩa là chuyển kiếp sang kiếp chúng-sinh khác tùy theo nghiệp và quả của nghiệp của chúng-sinh ấy.

- Paṭisandhicitta: Tái-sinh-tâm quả-tâm đầu tiên bắt đầu kiếp sau của mỗi kiếp chúng-sinh, nghĩa là bắt đầu một kiếp hiện-tại mới của mỗi chúng-sinh trong cõi-giới ấy.

* Tái-sinh-tâm (Paṭisandhicitta) có 19 quả-tâm

Tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) gồm có 19 quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) đối với tất cả chúng-sinh trong tam-giới gồm có 30 cõi-giới (trừ tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên) như sau:

- Ác-giới tái-sinh-tâm có 1 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm.

- Dục-giới tái-sinh-tâm có 9 đại-quả-tâm.

- Sắc-giới tái-sinh-tâm có 5 sắc-giới quả-tâm.

- Vô-sắc-giới tái-sinh-tâm có 4 vô-sắc-giới quả-tâm.

- Ác-giới tái-sinh-tâm 1 quả-tâm đó là 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) trong 11 bất-thiện-tâm (ác-tâm) (trừ si-tâm hợp với phóng-tâm) thuộc về bất-thiện-quả vô-nhân-tâm, gọi là ác-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới là cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, loài ngạ-quỷ, loài súc-sinh, thuộc về hạng duggati-ahetukapuggala: chúng-sinh vô-nhân cõi ác-giới.

- 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người tam-nhân (tihetukapuggala), hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân trên cõi trời dục-giới.

- 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người nhị-nhân (dvihetuka-puggala), hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời dục-giới.

- 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là thiện-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người vô-nhân cõi thiện-giới (sugati-ahetukapuggala), hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam vô-nhân, vị thiên-nữ vô-nhân bậc thấp thuộc loại bhumatthadevatā cõi trời Tứ-đại-thiên-vương.

- 5 sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên[11]).

- 4 vô-sắc-giới quả-tâm gọi là -sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên

* Hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) có 19 quả-tâm và tử-tâm (cuticitta) cũng có 19 quả-tâm

Quả-tâm nào gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) chỉ có 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt, liền quả-tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự hộ-kiếp (bhavaṅgakicca) hộ trì giữ gìn kiếp chúng-sinh ấy cho đến khi mãn kiếp ấy, cuối cùng quả-tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chết (cutikicca) kết thúc kiếp hiện-tại của chúng-sinh ấy.

Tuy nhiên, mỗi kiếp chúng-sinh đã trải qua vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, từ kiếp này sang kiếp kia, thì chắc chắn tử-tâm (cuticitta) của kiếp này hoàn toàn khác với tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) của kiếp kia bởi vì mỗi kiếp khác nhau.

Ví dụ: Những cận-tử lộ-trình-tâm mỗi kiếp chúng-sinh như sau:

Căn cứ theo cận-tử lộ-trình-tâm của mỗi kiếp chúng-sinh, thì thấy rõ rằng: “Kiếp này chết rồi liền tái-sinh kiếp kia không có khoảng cách thời gian chờ đợi.”

Ví dụ 1: Ông A là người phạm điều-giới, tạo ác-nghiệp. Đến lúc lâm chung, hiện tượng của ác-nghiệp phát sinh làm cho tâm của ông A bị ô nhiễm.

Sau khi ông A chết, nếu ác-nghiệp ấy trong ác-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi-sandhikāla) suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm loài ngạ-quỷ, không có khoảng cách thời gian chờ đợi.

Như vậy, sau khi ông A chết, chính ác-nghiệp của ông A cho quả tái-sinh kiếp sau làm loài ngạ-quỷ, không phải là ông A chết rồi tái-sinh làm loài ngạ-quỷ.

Ví dụ 2: Ông B là người cận-sự-nam đã thọ phép quy y Tam-bảo, thọ trì ngũ-giới, … có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, giữ gìn ngũ-giới của mình trong sạch và trọn vẹn.

Đến lúc lâm chung, hiện tượng của đại-thiện-nghiệp giữ-giới phát sinh hiện ra làm cho tâm của ông B hoan hỷ trong đại-thiện-nghiệp ấy. Sau khi ông B chết, đại-thiện-nghiệp ấy trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trong cõi trời dục-giới trong lâu đài nguy nga, có hào quang sáng ngời v.v… không có khoảng cách thời gian chờ đợi.

Như vậy, sau khi ông B chết, chính đại-thiện-nghiệp giữ-giới ấy của ông B cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam, không phải ông B chết rồi tái-sinh làm vị thiên-nam.

Thật vậy, nếu Đức-Bồ-tát nào có ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác hoặc Đức-Phật Độc-Giác, hoặc vị Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác, hoặc vị Thánh Đại-thanh-văn-giác, hoặc vị Thánh thanh-văn-giác hạng thường thì Đức-Bồ-tát ấy cần phải tạo các đại-thiện-nghiệp gọi là các pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn tương xứng với ngôi vị mà Đức-Bồ-tát ấy có ý nguyện muốn trở thành trong thời vị-lai.

Ví dụ: * Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật trải qua 3 thời-kỳ:

- Thời-kỳ đầu: Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã phát nguyện ở trong tâm có ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai, để tế độ cứu vớt chúng-sinh giải thoát khỏi biển khổ trầm luân, rồi thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật suốt 7 a-tăng-kỳ.

- Thời-kỳ giữa: Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã phát nguyện ra bằng lời nói để cho các chúng-sinh nghe hiểu biết ý nguyện của Đức-Bồ-tát muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai, rồi thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật suốt 9 a-tăng-kỳ.

Dù đã thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật trải qua 2 thời-kỳ gồm có 16 a-tăng-kỳ, nhưng Đức-Bồ-tát vẫn còn là Đức-Bồ-tát bất-định (aniyatabodhisatta) nghĩa là Đức-Bồ-tát có thể thay đổi ý nguyện không muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, mà muốn trở thành Đức-Phật Độc-Giác hoặc bậc Thánh thanh-văn-giác.

Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy vẫn không thay đổi ý nguyện, kiên trì thực-hành pháp-hạnh ba-la-mật dẫn đến thời-kỳ cuối.

* Thời-kỳ cuối: Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama được Đức-Phật Dīpaṅkara là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác đầu tiên thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

“Trong thời vị-lai còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, vị đạo-sĩ Sumedha sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, …”

Sau khi Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại xong, kể từ kiếp ấy trở về sau, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama trở thành Đức-Bồ-tát cố-định (niyatabodhisatta) chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama tiếp tục thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật suốt khoảng thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, để bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật.

Trong khoảng thời gian suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, mỗi khi có Đức-Phật nào xuất hiện trên thế gian, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama cũng đều đến hầu đảnh lễ Đức-Phật ấy và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại.

Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama được 24 Đức-Phật thọ ký, kể từ Đức-Phật Dīpaṅkara đầu tiên thọ ký cho đến Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, vị bà-la-môn Jotipāla là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Kassapa, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, xin xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Kassapa.

Về sau, Đức-Phật Kassapa thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

“Trong thời vị-lai, ngay cùng trong trái đất Bhadda-kappa này, tỳ-khưu Jotipāla này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Kassapa là Đức-Phật thứ 24 cuối cùng thọ ký Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama (tỳ-khưu Jotipāla).

Như vậy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu việt, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, đã thực-hành bồi bổ cho được đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng được lưu trữ đầy đủ ở trong tâm sinh rồi diệt từ kiếp này sang kiếp kia trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, suốt 3 thời-kỳ gồm có 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt, 24 Đức-Phật theo tuần tự xuất hiện trên thế gian thọ ký Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama.

* Kiếp áp chót của Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị thiên-nam Setaketu, sau khi chết (cuti) từ cõi trời Tusita (Đâu-suất-đà-thiên), tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ hợp với trí-tuệ, không cần tác-động, cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ hợp với trí-tuệ, không cần tác-động gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) đầu thai kiếp chót vào lòng Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī của Đức-vua Suddhodana tại kinh-thành Kapilavatthu, vào canh chót đêm rằm tháng 6 (âm-lịch).

Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī mang thai tròn đúng 10 tháng, Thái-tử Siddhattha đản sinh ra đời vào ngày rằm tháng tư (âm-lịch) tại khu vườn Lumbinī.

Thái-tử Siddhattha đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, đó là quả báu của đại-thiện-nghiệp 30 pháp-hạnh ba-la-mật đã được tích lũy, lưu trữ ở trong tâm suốt 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót, chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

-Năm 16 tuổi, Thái-tử Siddhattha lên ngôi vua và kết hôn với Công-chúa Yasodharā, ngự tại kinh-thành Kapilavatthu. Đức-vua Siddhattha làm vua được 13 năm.

- Năm 29 tuổi, Đức-vua Siddhattha trốn khỏi kinh-thành Kapilavatthu vào đêm rằm tháng 6 (âm-lịch), đi xuất gia để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

- Đức-Bồ-tát Siddhattha ngự đến ngồi dưới cội Đại-Bồ-đề[12] tại khu rừng Uruvelā, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi

phiền-não không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā) trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong mười ngàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị có danh hiệu là Đức-Phật Gotama vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm-lịch), tròn đúng 35 tuổi, đúng như 24 Đức-Phật quá-khứ đã thọ ký. Đó là quả báu của 30 pháp-hạnh ba-la-mật của Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã được tích lũy, lưu trữ ở trong tâm sinh rồi diệt từ kiếp này sang kiếp kia trải qua vô số kiếp trong suốt 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

* Quả của các đại-thiện-nghiệp 30 pháp-hạnh ba-la-mật phát sinh không chỉ trực-tiếp đối với Đức-Phật Gotama mà còn gián-tiếp ảnh hưởng tốt đến các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, được thừa hưởng chánh-pháp của Đức-Phật, bậc xuất gia được thừa hưởng 4 thứ vật dụng cần thiết như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh mà các thí-chủ có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, đem đến tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, nên chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng được thừa hưởng 4 thứ vật dụng cần thiết ấy của Đức-

Phật, gọi là dāyajjaparibhoga[13]: chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng thọ dụng 4 thứ vật dụng như người thừa-hưởng.

Tóm lại, tất cả mọi chúng-sinh trong ba giới bốn loài là hoàn toàn tùy thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của mình đã tạo trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp quá-khứ.

Đức-Phật dạy nghiệp và quả của nghiệp rằng:

“Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kamma-bandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā, tassa dāyādo bhavissāmi.” [14]

Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta, ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp,’ ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.

I.2-Upatthambhakakamma: Hỗ-Trợ-Nghiệp

Thế nào gọi là hỗ-trợ-nghiệp?

Nghiệp nào mà hỗ trợ cho nghiệp khác chưa có cơ hội cho quả thì có cơ hội cho quả; hoặc hỗ trợ cho nghiệp khác khi đã có cơ hội cho quả rồi lại hỗ trợ cho quả của nghiệp ấy được phát triển đầy đủ; và hỗ trợ cho ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của nghiệp khác được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp ấy.

Nghiệp ấy gọi là hỗ-trợ-nghiệp, đó là 12 bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) 8 dục-giới thiện-nghiệp gọi là 8 đại-thiện-nghiệp. .

Hỗ-trợ-nghiệp có 3 phận sự:

1.2.1-Hỗ-trợ-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho nghiệp nào chưa có cơ hội cho quả thì hỗ trợ cho nghiệp ấy có cơ hội cho quả.

1.2.2-Hỗ-trợ-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho nghiệp nào đã có cơ hội cho quả rồi thì hỗ trợ cho quả của nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

1.2.3-Hỗ-trợ-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của nghiệp khác đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp ấy.

Giải thích ba trường hợp

I.2.1-Hỗ-trợ-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho nghiệp nào đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ hoặc trong kiếp hiện-tại nhưng chưa có cơ hội cho quả, thì hỗ trợ giúp cho nghiệp ấy có cơ hội cho quả trong 2 thời-kỳ:

- Thời-kỳ lúc lâm chung.

- Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh, kiếp hiện-tại, cho đến trước lúc chết.

Hỗ-trợ-nghiệp đó là đại-thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận sự hỗ trợ cho nghiệp nào đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ hoặc trong kiếp hiện-tại nhưng chưa có cơ hội cho quả, thì hỗ trợ cho nghiệp ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), có 8 trường hợp là:

1- Đại-thiện-nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới.[15]

2- Đại-thiện-nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới.

3- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong lúc lâm chung hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.[16]

4- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong lúc lâm chung hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới.

5- Đại-thiện-nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới.

6- Đại-thiện-nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới.

7- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh bình thường trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.

8- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh bình thường trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.

Để hiểu rõ mỗi trường hợp đại-thiện-nghiệp hoặc bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong lúc lâm chung hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp hoặc bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã từng tạo trong những kiếp quá-khứ hoặc trong kiếp hiện-tại có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau.

Đức-Phật dạy như sau:

“Citte saṅkiliṭṭhe duggatiṃ paṭikaṅkhā … Citte asaṅkiliṭṭhe sugatiṃ paṭikaṅkhā …”[17]

Lúc lâm chung tâm bị ô nhiễm, thì bị tái-sinh trong cõi ác-giới.

Lúc lâm chung tâm không bị ô nhiễm,

thì được tái-sinh trong cõi thiện-dục-giới. Như vậy, trong lúc lâm chung:

- Nếu tâm bị ô nhiễm do phiền-não thì ác-nghiệp có

cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh).

- Nếu tâm không bị ô nhiễm nghĩa là đại-thiện-tâm trong sáng thì đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới.

Cho nên, đối với các hạng phàm-nhân không chứng đắc bậc thiền nào, trong lúc lâm chung, hỗ-trợ-nghiệp có tầm quan trọng hỗ trợ cho nghiệp khác cho quả tái-sinh kiếp sau.

Giải thích 8 trường hợp

1- Đại-thiện-nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới như thế nào?

Ví dụ: Ông A là một cận-sự-nam, nhưng ông tạo đại-thiện-nghiệp thì ít mà tạo bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) thì nhiều, ông cũng là người giữ gìn ngũ-giới không được trong sạch và trọn vẹn. Cho nên, đến lúc lâm chung phiền-não phát sinh làm cho tâm của ông bị ô nhiễm, phát sinh sân-tâm sợ hãi. Nếu ông A chết trong lúc ấy thì ác-nghiệp sẽ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.

Khi ấy, bên cạnh ông A, một người thân có trí-tuệ cứu giúp ông A được thoát ra khỏi đối-tượng xấu, thay thế bằng đối-tượng tốt, bằng cách kính thỉnh Ngài Trưởng-lão cùng với chư tỳ-khưu đến hướng dẫn ông A thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, thỉnh chư tỳ-khưu tụng kinh Paritta (những bài kinh an-lành), thuyết pháp nhắc nhở, khuyên dạy ông A niệm ân-Đức-Phật, niệm tưởng đến phước-thiện đã từng tạo trong thời quá-khứ, ...

Ông A phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có ngũ-giới trong sạch. Vì vậy, đối-tượng xấu biến mất, tâm không còn bị ô nhiễm đồng thời đối-tượng tốt hiện ra, đại-thiện-tâm phát sinh. Cho nên, sau khi ông A chết, đại-thiện-nghiệp phát sinh lúc lâm chung này hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới, làm người trong cõi người hoặc làm chư-thiên trong cõi trời dục-giới tùy theo năng lực của dục-giới thiện-nghiệp ấy cho quả.

Đó là trường-hợp đại-thiện-nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới.

2- Đại-thiện-nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới như thế nào?

Ví dụ: Ông B là một cận-sự-nam có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có ngũ-giới trong sạch, thường làm mọi phước-thiện như bố-thí cúng dường đến chư tỳ-khưu Tăng, … nhưng ông B không thường thực-hành pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, không theo học môn vi-diệu-pháp, nên không hiểu biết về sắc-pháp, danh-pháp, ngũ-uẩn là pháp-vô-ngã (anattā), không hiểu rõ về pháp tử sinh luân-hồi của mỗi chúng-sinh, v.v…

Khi bị lâm bệnh nặng trầm trọng, không thể sống được nữa, ông B phát sinh tâm sợ chết, phải từ bỏ vợ con, nhà cửa, của cải, tài sản, v.v… nên làm cho tâm của ông B bị ô nhiễm bởi phiền-não, đối-tượng xấu hiện ra. Ông B phát sinh tâm sợ hãi. Nếu ông B chết trong lúc ấy, thì khó tránh khỏi ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.

Khi ấy, bên cạnh ông B, một người thân có trí-tuệ hiểu biết giáo-pháp của Đức-Phật, nhắc nhở hướng dẫn ông B thọ phép quy-y Tam-bảo, thọ trì ngũ-giới, khuyên ông B nhớ lại những phước-thiện mà ông đã từng tạo trong kiếp hiện-tại này. Ông B phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có giới trong sạch, niệm tưởng lại những phước-thiện của mình.

Vì vậy, sau khi ông B chết, nhờ đại-thiện-nghiệp phát sinh lúc lâm chung hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại này có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới, sinh làm người trong cõi người hoặc hóa-sinh làm chư-thiên trong cõi trời dục-giới.

Đó là trường-hợp đại-thiện-nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới.

3- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới như thế nào?

Ví dụ: Ông C là người cận-sự-nam có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, giữ gìn ngũ-giới trong sạch, thường làm mọi phước-thiện như bố-thí cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng, v.v… nhưng không thường thực-hành pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, không theo học môn vi-diệu-pháp, nên không hiểu biết về sắc-pháp, danh-pháp, ngũ-uẩn là pháp-vô-ngã (anattā), không hiểu rõ về pháp tử sinh luân-hồi của mỗi chúng-sinh, v.v…

Khi bị lâm bệnh nặng trầm trọng, không thể sống được nữa, ông C phát sinh tâm sợ chết, phải từ bỏ vợ con, của cải, tài sản,… nên làm cho tâm của ông C bị ô nhiễm bởi phiền-não, đối-tượng xấu hiện ra. Ông B phát sinh tâm sợ hãi.

Khi ấy bên cạnh ông C, có người thân không có trí-tuệ, không hiểu biết giáo pháp của Đức-Phật, không biết cách cứu giúp ông C, không nhắc nhở, không khuyên bảo ông niệm tưởng lại mọi phước-thiện mà ông C đã tạo trong kiếp hiện-tại này.

Vì vậy, sau khi ông C chết, ác-nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung hỗ trợ cho ác-nghiệp mà ông C đã từng tạo trong những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong lúc lâm chung hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.

4- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới như thế nào?

Ví dụ: Khi còn trẻ, ông D là người không có giới, thường tạo bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) như sát-sinh, trộm-cắp, tà-dâm, nói-dối, uống rượu và các chất say, …

Ông D sống bằng nghề giết các loài gia-súc, gia-cầm để bán thịt. Đến khi tuổi già sức yếu, thường hay bệnh hoạn ốm đau, ông D mới biết ăn năn hối lỗi, biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê sợ tội-lỗi, nên ông D quyết định xuất gia trở thành tỳ-khưu trong Phật-giáo.

Về sau, tỳ-khưu D bị lâm bệnh nặng trầm trọng nằm trên giường, những cảnh tượng giết các loài gia-súc, gia-cầm khi còn trẻ hiện ra trong tâm của tỳ-khưu D, làm cho tâm của tỳ-khưu D bị ô nhiễm do phiền-não. Tỳ-khưu D phát sinh tâm sợ hãi, ác-nghiệp phát sinh, tâm bị ô nhiễm, đau khổ cho đến chết.

Sau khi tỳ-khưu D chết, ác-nghiệp phát sinh lúc lâm chung hỗ trợ ác-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong lúc lâm chung hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.

5- Đại-thiện-nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện-tại, hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới như thế nào?

Ví dụ: Ông Đ là người có tà-kiến, thấy sai hiểu lầm, không tin tội, không tin phước, không tin nghiệp và quả của nghiệp, không tin có địa-ngục, không tin có các cõi trời, ... Ông cho rằng: “làm tội không bị tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục, làm phước cũng không được tái-sinh kiếp sau lên cõi trời,

Cho nên, hàng ngày ông sinh sống bằng tà-nghiệp, giết gia-cầm để bán thịt. Công việc làm ăn không được thuận lợi.

Về sau, ông Đ đến giúp việc trong một gia đình giàu sang, theo truyền thống Phật-giáo. Hằng ngày, ông Đ thức dậy sớm lo sửa soạn các món vật thực sẵn sàng, mang theo cùng với người chủ đến chùa để cúng dường tới chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.

Vào những ngày giới uposathasīla hằng tháng, ông Đ cũng đi theo người chủ đến chùa. Tại nơi chánh-điện người chủ ngồi xin thọ phép quy-y Tam-bảo và bát-giới uposathasīla xong, ngồi lắng nghe Ngài Trưởng-lão Pháp-sư thuyết pháp. Ông Đ ngồi chờ đợi người chủ nghe pháp xong trở về nhà. Cho nên, dù muốn dù không, ông Đ cũng ngồi lặng lẽ nghe hết thời pháp.

Hằng ngày, làm những công việc như vậy, dần dần về sau ông Đ đã có chánh-kiến, rồi từ bỏ tà-kiến, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, rồi giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn.

Khi ông Đ bị lâm bệnh trầm trọng, vốn đời sống độc thân nên không lưu luyến đến ai, do không có của cải nên không luyến tiếc đến của cải, do nhờ sống gần gũi thân cận với những người có chánh-kiến trong Phật-giáo nên từ bỏ được tà-kiến, trở thành người có chánh-kiến, thấy đúng hiểu đúng nghiệp là của riêng mình, tin nghiệp và quả của nghiệp, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có ngũ-giới trong sạch trọn vẹn.

Vì vậy, sau khi ông Đ chết, đại-thiện-nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trên cõi trời dục-giới tầng cao.

Đó là trường-hợp đại-thiện-nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới.

6- Đại-thiện-nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới như thế nào?

Ví dụ: Ông E đã từng xuất gia trở thành tỳ-khưu trong Phật-giáo. Trong suốt thời gian xuất gia, tỳ-khưu E là người có giới hạnh trong sạch, theo học pháp-học Phật-giáo và theo thực-hành pháp-hành thiền-định mà chưa chứng đắc đến bậc thiền nào và thực-hành pháp-hành thiền-tuệ cũng chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, vẫn còn là hạng phàm-nhân.

Về sau, vị tỳ-khưu E xả giới tỳ-khưu, hoàn tục trở lại gia đình trở thành một cận-sự-nam. Hằng ngày, ông E theo cha đi làm nghề đánh cá để nuôi sống gia đình.

Tuy ông E biết rằng: “Đó là cách sống tà-mạng, nhưng không còn biết làm nghề nào khác.”

Vì vậy, ông E cố gắng tinh-tấn mỗi ngày làm mọi phước-thiện như bố-thí, cúng dường vật thực đến chư tỳ-khưu đi khất thực. Vào những ngày bát-giới uposatha-sīla hằng tháng, ông E cố gắng đi đến chùa xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì bát-giới uposathasīla.

Đến lúc lâm chung, tâm của ông E không bị ô nhiễm bởi phiền-não, tâm vẫn bình tĩnh sáng suốt.

Cho nên, sau khi ông E chết, đại-thiện-nghiệp phát sinh bình thường trong cuộc đời người tại-gia hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp mà ông đã từng tạo khi ông còn là vị tỳ-khưu trước kia cũng trong kiếp hiện-tại này có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới tầng cao.

Đó là trường-hợp đại-thiện-nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã từng được tạo cũng trong kiếp hiện-tại có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới.

7- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh bình thường trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới như thế nào?

Ví dụ: Cậu G được sinh trong một gia đình có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, giữ gìn mọi truyền thống trong Phật-giáo. Cho nên, khi còn nhỏ, cậu G thường theo cha mẹ đến chùa tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Vào những ngày bát-giới uposathasīla hằng tháng, cậu G cũng đi theo cha mẹ đến chùa xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì bát-giới uposathasīla, nghe pháp, v.v …

Đến lúc trưởng thành, cậu G lập gia đình và có đông con. Cha mẹ của ông G lần lượt qua đời nên ông không còn nương nhờ vào cha mẹ được nữa.

Hằng ngày, ông G tự mình cố gắng làm việc vất vả để nuôi sống gia đình (vợ và các con). Cho nên, cơ hội tạo mọi phước-thiện càng ngày càng giảm dần bởi gánh nặng gia đình càng ngày càng thêm.

Ông G không có cơ hội làm mọi phước-thiện như trước nữa, giữ gìn ngũ-giới không được trong sạch và trọn vẹn, nhưng chưa đến nỗi tạo bất-thiện-nghiệp nặng.

Đến lúc lâm chung, tâm bị mê muội. Vì vậy, sau khi ông G chết, bất-thiện-nghiệp bình thường trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.

8- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh bình thường trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới như thế nào?

Ví dụ: Cậu H vốn là một đứa trẻ khó dạy, hư đốn, thích gần gũi thân cận với bạn ác, thích làm việc ác như uống rượu, hút thuốc lá, chơi cờ bạc, … y ăn cắp tiền của cha mẹ để ăn chơi lêu lổng. Cha mẹ dạy y không được nên gởi y vào chùa, nhờ quý Ngài Trưởng-lão, chư tỳ-khưu dạy dỗ y nên người.

Quý Ngài Trưởng-lão dạy dỗ cậu H với tâm từ, tâm bi, cậu H dần dần trở nên thuần tính, biết vâng lời quý Ngài Trưởng-lão, chư tỳ-khưu.

Qua một thời gian, Ngài Trưởng-lão cho phép cậu H được xuất gia trở thành sa-di. Vị sa-di H cố gắng tinh-tấn theo học pháp-học Phật-giáo và thực-hành pháp-hành Phật-giáo có phần tiến bộ. Vì vậy, Ngài Trưởng-lão và chư tỳ-khưu-Tăng làm lễ nâng đỡ vị sa-di H lên trở thành tỳ-khưu.

Tỳ-khưu H sống gần gũi thân cận với quý Ngài Trưởng-lão, biết vâng lời dạy dỗ của quý Ngài, cho nên tỳ-khưu H có được một ít kiến thức trong Phật-giáo.

Về sau, tỳ-khưu H lại thích giao du với một số người tại-gia, bạn bè cũ, rồi từ đó đức-tin càng ngày càng suy giảm, tâm không còn hoan hỷ thực-hành phạm-hạnh của bậc xuất-gia như trước nữa mà muốn hoàn tục trở lại làm người tại-gia. Do đó, tỳ-khưu H giữ gìn giới của mình không còn được trong sạch, cho nên tâm cảm thấy nóng nảy, chờ đợi cơ hội hoàn tục.

Trong khi chờ đợi bạn bè tìm giúp một công việc làm, để sau khi hoàn tục có thể làm ăn sinh sống, nhưng chưa thực hiện được ý định hoàn tục thì tỳ-khưu H bị lâm bệnh nặng, rồi chết đột ngột.

Sau khi tỳ-khưu H chết, bất-thiện-nghiệp bình thường của tỳ-khưu H hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp mà tỳ-khưu H đã từng tạo trước khi xuất gia trở thành tỳ-khưu có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh bình thường trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.

I.2.2-Hỗ-trợ-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho nghiệp nào đã có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của nghiệp ấy được phát triển đầy đủ, có 10 trường hợp như sau:

1- Đại-thiện-nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

2- Đại-thiện-nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

3- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

4- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

5- Đại-thiện-nghiệp phát sinh trong kiếp hiện-tại, hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong kiếp quá-khứ đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

6- Đại-thiện-nghiệp phát sinh trong kiếp hiện-tại, hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

7- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong kiếp hiện-tại, hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã từng được tạo trong kiếp quá-khứ đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

8- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong kiếp hiện-tại, hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

9- Đại-thiện-nghiệp đã từng được tích lũy trong những kiếp quá-khứ, hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

10- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã từng được tích lũy trong những kiếp quá-khứ, hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

Giải thích 10 trường hợp

1- Đại-thiện-nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong kiếp quá-khứ đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Ông A vốn là người hiền lương, biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê sợ tội-lỗi, thường tránh xa mọi ác-nghiệp, làm ăn sinh sống lương thiện. Gia đình của ông nghèo, hằng ngày ông phải vất vả làm mọi công việc để nuôi sống gia đình. Cho nên, ông không có khả năng làm phước bố-thí lớn lao. Bởi vì, còn bận lo công việc làm ăn nên ông ít có cơ hội nghe pháp, xem kinh, đọc sách,

… nhưng do nhờ sống lương thiện cho nên lúc lâm chung tâm của ông được trong sạch, bình tĩnh, sáng suốt.

Sau khi ông A chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau làm người trong một gia đình giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng, hoặc tái-sinh làm vị thiên-nam ở địa vị cao quý trong cõi trời ấy.

Đó là trường-hợp đại-thiện-nghiệp phát sinh lúc lâm chung, hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp mà ông A đã từng tạo trong những kiếp quá-khứ đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

2- Đại-thiện-nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Ông B là người cận-sự-nam có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn, thọ trì bát-giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng. Ông B thường tạo phước-thiện bố-thí, cung-kính lắng nghe chánh-pháp; đôi khi ông cũng thực-hành pháp-hành thiền-định, nhưng chưa chứng đắc bậc thiền nào, cũng thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, nhưng cũng chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào.

Cho nên, lúc lâm chung tâm của ông được trong sạch, bình tĩnh, sáng suốt.

Sau khi ông B chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau làm người trong gia đình giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng, hoặc tái-sinh làm vị thiên-nam ở địa vị cao quý trong cõi trời ấy.

Đó là trường-hợp đại-thiện-nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp mà ông B đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, thì hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

3- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã từng được tạo trong kiếp quá-khứ đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Ông C vốn là người keo kiệt bủn xỉn trong của cải tài sản của mình. Ông rất cần cù làm việc để kiếm cho được nhiều vàng bạc của cải, nên không quan tâm đến việc làm phước bố-thí tiếp độ người khác, nhưng ông không làm những việc ác do thân, khẩu và ý. Đến lúc lâm chung, ông sợ chết phải bỏ hết của cải tài sản mà ông đã dành dụm, cho nên, tâm của ông bị ô nhiễm.

Sau khi ông C chết, bất-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới, chịu quả khổ của ác-nghiệp trong cõi ác-giới lâu dài.

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) mà ông đã từng tạo trong những kiếp quá-khứ đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

4- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Ông D vốn là người có tà-kiến, không tin nghiệp và quả của nghiệp. Ông thấy sai hiểu lầm rằng: “Làm phước không có phước, làm tội cũng không có tội, không có cõi địa-ngục, cũng không có cõi trời nào, …”

Do đó, ông không chịu lắng nghe lời dạy của các bậc thiện-trí. Đến lúc lâm chung, tâm của ông bị ô nhiễm, mê muội.

Sau khi ông D chết, bất-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục chịu khổ lâu dài.

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) mà ông đã tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

5- Đại-thiện-nghiệp phát sinh trong kiếp hiện-tại, hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã từng tạo trong kiếp quá-khứ đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Cậu bé Đ được sinh trong gia đình theo truyền thống Phật-giáo. Khi cậu bé mới được 2 -3 tuổi, cha mẹ dạy cậu biết đảnh lễ Đức-Phật. Khi cha mẹ dắt cậu lên chùa, cậu biết vào chánh điện đảnh lễ Đức-Phật; gặp chư tỳ-khưu, sa-di cậu đều đảnh lễ quý Ngài; biết dâng cúng dường vật thực đến Ngài Trưởng-lão, chư tỳ-khưu, sa-di, rồi đảnh lễ quý Ngài.

Sau khi cậu bé Đ chết lúc 4 tuổi, đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh lên cõi trời dục-giới tầng cao, ở địa vị cao quý, được hưởng mọi sự an-lạc cao quý đặc biệt trong cõi trời ấy.

Đó là trường-hợp đại-thiện-nghiệp phát sinh trong kiếp hiện-tại (pavattikāla), hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp mà cậu bé Đ đã từng tạo trong những kiếp quá-khứ đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ (còn cậu bé Đ chết lúc 4 tuổi là do nghiệp khác).

6- Đại-thiện-nghiệp phát sinh trong kiếp hiện-tại (pavattikāla), hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Cậu E là con của gia đình theo Phật-giáo, cha mẹ của cậu đều là người trí-thức, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có sự hiểu biết sâu sắc trong giáo-pháp của Đức-Phật. Cho nên, khi cậu E còn nhỏ, cha mẹ đã dạy cậu biết thọ phép quy-y Tam-bảo, biết giữ gìn ngũ-giới hằng ngày, biết thọ trì bát-giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng. Cậu biết phân biệt thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp).

Khi lớn lên, cậu E có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, giữ gìn ngũ-giới trong sạch, thọ trì bát-giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, thích làm phước bố-thí đến những người nghèo khổ. Cậu thường đến chùa nghe pháp, thích học pháp-học Phật-giáo, thích thực-hành pháp-hành thiền-định, nhưng chưa chứng đắc được bậc thiền nào và thích thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, nhưng chưa chứng đạt đến bậc Thánh.

Sau khi cậu E chết, đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm người trong gia đình phú hộ, khi sinh ra đời, hậu kiếp của cậu E được mọi người trong gia đình đều thương yêu quý mến nhất, cậu hưởng mọi sự thuận lợi, sự an-lạc trong cuộc sống của cậu.

Đó là trường-hợp đại-thiện-nghiệp phát sinh trong kiếp hiện-tại (pavattikāla), hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp mà cậu E đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

7- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong kiếp hiện-tại (pavattikāla), hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã từng được tạo trong kiếp quá-khứ đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Cậu G là con của một gia đình giàu có, nhưng không có đức-tin nơi Tam-bảo, cho nên, từ nhỏ đến lớn cậu không được nghe chánh-pháp, không có đức-tin nơi Tam-bảo, không giữ giới, không hiểu biết về thiện-nghiệp, ác-nghiệp… Cậu là đứa con được cha mẹ nuông chiều, nên cậu G chỉ biết ăn chơi lêu lổng nhưng chưa đến mức tạo bất-thiện-nghiệp nặng.

Sau khi cậu G chết, bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục, chịu bao nhiêu nỗi khổ.

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong kiếp hiện-tại (pavattikāla), hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) mà cậu G đã từng tạo trong những kiếp quá-khứ đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) ấy được phát triển đầy đủ.

8- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong kiếp hiện-tại (pavattikāla), hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Ông H là người có tà-kiến, không tin nghiệp và quả của nghiệp, tin rằng: “Làm phước không có phước, làm tội không có tội.Ông tự nghĩ rằng: “Chết là hết”.

Sau khi ông H chết, bất-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục, phải chịu bao nhiêu nỗi khổ trong cõi địa-ngục lâu dài.

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong kiếp hiện-tại (pavattikāla), hỗ trợ cho bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

9- Đại-thiện-nghiệp đã được tích lũy trong những kiếp quá-khứ, hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Ông K là người đã từng tích lũy các pháp-hạnh ba-la-mật từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ và đã từng có lời phát nguyện kiếp sau được xuất gia.

Kiếp hiện-tại, ông K sinh ra đời gặp Phật-giáo, lắng nghe pháp-sư thuyết pháp, ông liền phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, rồi tư duy rằng: “Đời sống người tại-gia bị nhiều ràng buộc, khó thực-hành phạm-hạnh cho được trong sạch thanh-tịnh. Điều tốt nhất ta nên từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành tỳ-khưu trong Phật-giáo.”

Sau khi đã nhận thức đúng đắn, ông liền thực hiện theo ý nghĩ của mình. Sau khi ông K xuất gia trở thành tỳ-khưu cố gắng tinh-tấn theo học pháp-học Phật-giáo và theo thực-hành pháp-hành Phật-giáo. Tỳ-khưu K thực-hành pháp-hành thiền-định, chưa chứng đắc các bậc thiền nào và thực-hành pháp-hành thiền-tuệ cũng chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào.

Vị tỳ-khưu K trở thành một vị pháp-sư có tài thuyết pháp tế độ nhiều người.

Sau khi vị tỳ-khưu K chết, đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm vị thiên-nam cao quý trên tầng trời cao cõi dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc đặc biệt trong tầng trời ấy.

Đó là trường-hợp đại-thiện-nghiệp đã được tích lũy trong những kiếp quá-khứ, hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

10- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tích lũy trong những kiếp quá-khứ, hỗ trợ cho những bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Ông H là người ác, không có giới, tạo mọi ác-nghiệp như sát-sinh, trộm-cắp, tà-dâm, nói-dối, uống rượu, bia và các chất say, …

Sau khi ông H chết, bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có cơ hội cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục, phải chịu bị hành hạ cực hình nặng nề, khổ thân, khổ tâm lâu dài trong cõi đại-địa-ngục này đến cõi tiểu-địa-ngục kia.

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tích lũy trong những kiếp quá-khứ, hỗ trợ cho những bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại đang có cơ hội cho quả rồi, lại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

I.2.3-Hỗ-trợ-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của nghiệp khác đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp ấy, có 7 trường hợp:

1- Đại-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ, hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại.

2- Đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại, hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển đầy đủ và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại.

3- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ, hỗ trợ cho quả của bất-thiện nghiệp (ác-nghiệp) đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại.

4- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại, hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại.

5- Đại-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ, hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại.

6- Đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại, hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại.

7- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại, hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại.

Giải thích 7 trường hợp

Trường hợp thứ nhất đến trường hợp thứ tư, giải thích theo Chú-giải và bộ Phụ-Chú-giải.

Trường hợp thứ 5 đến trường hợp thứ 7, giải thích theo bộ Paramatthadīpanīṭīka và bộ Bhāsāṭīkā.

1- Đại-thiện-nghiệp đã được tích lũy trong những kiếp quá-khứ, hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp đó là ngũ-uẩn, danh-pháp, sắc-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại như thế nào?

Ví dụ: Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót là Thái-tử của bà Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī và Đức-vua Suddhodana, có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc Đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, thường tiếp xúc với các đối-tượng tốt đáng hài lòng.

Đó là trường-hợp đại-thiện-nghiệp đã được tích lũy trong những kiếp quá-khứ hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp đó là ngũ-uẩn, danh-pháp, sắc-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại.

2- Đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại, hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại như thế nào?

Ví dụ: Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama, gia đình ông Puṇṇa [18] nghèo khổ, làm ruộng thuê của ông phú hộ Sumana, toàn thể mọi người trong gia đình đều có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo:

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta nhập diệt-thọ-tưởng suốt 7 ngày đêm. Sáng hôm ấy, sau khi xả diệt-thọ-tưởng, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đi khất thực, khi đi ngang qua nơi ông Puṇṇa đang cày ruộng, ông Puṇṇa đón rước đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão và dâng cây tăm xỉa răng và nước uống.

Ngài Đại-Trưởng-lão nhận xong, đi theo đường hướng về nhà ông Puṇṇa, gặp vợ ông Puṇṇa đang đem cơm cho chồng. Bà đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão xong bạch rằng:

-Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, kính xin Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm từ, tâm bi tế độ thọ nhận phần vật thực nghèo nàn của gia đình con.

Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm từ tế độ thọ nhận tất cả phần vật thực. Bà vô cùng hoan hỷ trở về nhà, nấu phần cơm khác đem cho chồng.

Ông Puṇṇa thả bò đi ăn cỏ, ông ngồi dưới bóng cây chờ đợi vợ, tuy đói bụng nhưng tâm vô cùng hoan hỷ niệm tưởng đến phước-thiện bố-thí tăm xỉa răng và nước uống đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Ông thấy vợ từ xa đến trễ hơn mọi ngày nhưng bà có vẻ khác thường. Chắc chắn bà đang hoan hỷ một điều gì đó.

Vừa mới đến nơi, bà liền thưa với chồng rằng:

- Này anh thân thương! Hôm nay, xin anh hãy hoan hỷ thật nhiều. Sáng nay, khi em đem cơm cho anh, giữa đường gặp Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đang đi khất thực, em phát sinh đức-tin trong sạch đem phần cơm của anh để bát cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão. Ngài Đại-Trưởng-lão thọ nhận phần vật thực ấy, không chê vật thực nghèo nàn của chúng ta.

Xin anh nên hoan hỷ phần phước-thiện bố-thí này!

Ông Puṇṇa phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ và ông cũng nói cho bà biết rằng:

- Này em thân thương! Chính sáng nay, anh cũng tạo phước-thiện bố-thí tăm xỉa răng và nước uống cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Hai vợ chồng ông Puṇṇa cùng phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ phước-thiện bố-thí ấy. Dùng cơm xong, nằm thiu thiu giấc ngủ, ông vừa tỉnh lại, nhìn thấy thửa ruộng vừa cày buổi sáng đã hóa thành thỏi vàng ròng sáng chói. Không tin vào mắt mình, ông xuống thửa ruộng lấy lên một thỏi vàng ròng và đưa cho vợ xem.

Đúng là vàng thật! Ông Puṇṇa đem thỏi vàng ấy đến xin yết kiến Đức-vua Bimbisāra, xin Đức-vua truyền lệnh đem 1.000 chiếc xe khuân tất cả số vàng về cất trong kho báu của Đức-vua.

Thật ra, số vàng to lớn ấy không phải là của Đức-vua mà là của ông bà Puṇṇa. Số vàng to lớn ấy là quả báu của phước-thiện bố-thí, mà ông bà Puṇṇa đã dâng cúng-dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta ngày hôm ấy.

Thật vậy, lính trong triều đình đem 1.000 chiếc xe đến thửa ruộng để thu nhặt những thỏi vàng của Đức-vua, thì những thỏi vàng ấy trở lại thành cục đất như cũ.

Lính về tâu lên Đức-vua rõ sự việc như vậy. Đức-vua Bimbisāra sáng suốt truyền lệnh rằng:

-Này các khanh! Các khanh hãy nghĩ rằng: “Vàng của ông bà Puṇṇa.”

Họ vâng lệnh Đức-vua. Thật đúng như vậy, lần này họ khuân toàn bộ số vàng ấy đem về chất giữa sân rồng thành một đống vàng cao 80 hắc tay.

Cho nên, Đức-vua Bimbisāra tấn phong ông Puṇṇa là “Đại phú hộ”.

Sau khi trở thành đại phú hộ Puṇṇa, gia đình ông càng có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì suốt 7 ngày.

Đến ngày thứ 7 Đức-Phật thuyết pháp tế độ gia đình ông Puṇṇa. Toàn gia đình ông đại phú hộ Puṇṇa: Ông, bà cô con gái Uttarā đều trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Đó là trường-hợp đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại.

3- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại như thế nào?

Ví dụ: * Chúng-sinh trong địa-ngục luôn luôn bị hành hạ chịu bao nỗi thống khổ cùng cực, tử rồi lại tái-sinh cứ tiếp diễn như vậy trong cõi địa-ngục trải qua nhiều đại-kiếp trái đất.

* Chúng-sinh loài ngạ-quỷ chịu cảnh đói khát khổ đau trải qua thời gian lâu dài nhiều kiếp trái đất vẫn chưa thoát khỏi.

* Loài súc-sinh như những con chó bị bệnh ghẻ ngứa khó chịu, nó cứ chạy từ chỗ này đến chỗ khác, chạy đến nơi nào cũng bị người ta xua đuổi, nó bị đói khát, thân mình ốm gầy, … Thế mà chúng vẫn kéo dài sinh mạng tháng này sang tháng khác, v.v…

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại.

4- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại như thế nào?

Ví dụ: * Số loài súc-sinh như con cọp, con thằn lằn, con mèo, … là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp), chúng nó sống bằng cách bắt sống các con vật khác làm vật thực để duy trì tồn tại trong kiếp sống hiện-tại.

* Số người mang chứng bệnh nan y là quả phát sinh từ bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp), nhưng số người ấy không biết giữ gìn sức khỏe, mà hằng ngày họ hút thuốc lá, uống rượu, bia, … làm cho chứng bệnh ngày càng phát triển, sự khổ thân càng ngày càng tăng thêm.

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại.

5- Đại-thiện-nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá-khứ hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại như thế nào?

* Loài gia súc như con chó quả của bất-thiện-nghiệp, nhưng một số con chó được người chủ chăm nom săn sóc nuôi dưỡng rất tử tế. Thậm chí, hằng ngày chúng nó có người lo phục vụ cho ăn, uống, tắm rửa, lau mình, làm vệ sinh chỗ ở, ... về mùa lạnh, chúng nó được mặc đồ ấm; khi chúng nó bị bệnh có bác-sĩ thú-y chăm lo chữa trị. Chúng nó được người chủ hết mực thương yêu, cho nên cuộc sống của chúng nó được đầy đủ sung túc.

Đó là trường-hợp đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong những kiếp quá-khứ hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại.

6- Đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại, hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại như thế nào?

Ví dụ: * Loài súc sinh như một số con chó rất tinh khôn, biết nghe lời người chủ dạy như: Bảo chúng ngồi đưa 2 chân trước lên chắp lại cúi xuống lạy; sai chúng ngậm tiền chạy mua tờ báo; loại chó cảnh sát biết ngửi mùi tìm kẻ gian, nhận ra kẻ gian, v.v… những con chó ấy được người chủ thương yêu, chăm nom nuôi nấng chúng rất chu đáo, cho nên, cuộc sống của chúng nó được đầy đủ sung túc.

* Hoặc những con chim sáo, con chim vẹt mà người chủ có thể dạy chúng nói được tiếng người như: chào hỏi khách đến, biết tụng bài kinh ngắn,… làm cho người nghe vui tai, nên chúng được người trong gia đình thương yêu, được nuôi dưỡng chu đáo.

Đó là trường-hợp đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại.

7- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại như thế nào?

Ví dụ: * Số người làm nghề bán vũ khí giết người, buôn bán rượu và các chất say; buôn bán ma tuý, heroin; làm nghề đánh cá; làm nghề giết gia súc, giết gia cầm, giết trâu, bò, gà, vịt,… để bán thịt, trộm-cắp, hối lộ phi pháp v.v… số người ấy sống bằng tà-nghiệp, tà-mạng, tạo bất-thiện-nghiệp hỗ trợ cho họ có nhiều tiền của, giàu có, đời sống đầy đủ sung túc trong kiếp hiện-tại.

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại hỗ trợ cho quả của đại-thiện-nghiệp đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện-tại.

Hỗ-trợ-nghiệp là nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của nghiệp khác.

I.3-Upapīḷakakamma: Hãm-Hại-Nghiệp

Thế nào gọi là hãm-hại-nghiệp?

Nghiệp nào hãm hại nghiệp đối nghịch và hãm hại ngũ-uẩn, quả của nghiệp đối nghịch.

Nghiệp ấy gọi là hãm-hại-nghiệp, đó là 12 bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) 8 dục-giới thiện-nghiệp gọi là 8 đại-thiện-nghiệp.

Hãm-hại-nghiệp có 3 phận sự:

I.3.1-Hãm-hại-nghiệp có phận sự ngăn cản nghiệp

đối nghịch khác không cho có cơ hội cho quả của nó.

I.3.2-Hãm-hại-nghiệp có phận sự kìm hãm nghiệp đối nghịch đã có cơ hội cho quả rồi, thì làm cho suy yếu tiềm năng cho quả.

I.3.3-Hãm-hại-nghiệp có phận sự làm biến đổi ngũ-uẩn, quả của nghiệp đối nghịch ấy.

Mỗi phận sự như thế nào?

I.3.1-Hãm-hại-nghiệp có phận sự ngăn cản nghiệp đối nghịch khác không cho có cơ hội cho quả của nó, có 2 trường hợp:

1- Đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại hãm hại, ngăn cản bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) không cho có cơ hội cho quả của nó.

2- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại hãm hại, ngăn cản đại-thiện-nghiệp không cho có cơ hội cho quả của nó.

Giải thích 2 trường hợp

1- Đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại, hãm hại, ngăn cản bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) không cho có cơ hội cho quả của nó như thế nào?

Ví dụ: Khi chưa gặp được bậc thiện-trí, ông A thường thân cận, gần gũi với các người ác, bắt chước theo các người ác nên ông đã tạo mọi ác-nghiệp như sát-sinh, trộm-cắp, tà-dâm, nói-dối, uống rượu và các chất say, …

Về sau, ông A gặp được bậc thiện-trí, lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí nên phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo. Ông A xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới.

Sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới, ông A trở thành người biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp. Cho nên, ông A giữ gìn ngũ-giới của mình được trong sạch và trọn vẹn, cố gắng tạo mọi thiện-nghiệp như bố-thí, giữ giới, thực-hành pháp-hành thiền-định, nhưng chưa chứng đắc bậc thiền nào, và cũng thực-hành pháp-hành thiền-tuệ mà chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, vẫn còn là hạng phàm-nhân.

Đến lúc lâm chung, ông A nằm bình tĩnh, tâm trí sáng suốt, hoan hỷ với những đại-thiện-nghiệp của mình đã tạo.

Sau khi ông A chết, đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm vị thiên-nam trong cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy.

Đó là trường hợp đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại hãm hại, ngăn cản những bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong thời gian trước, không cho có cơ hội cho quả của nó.

2- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại hãm hại, ngăn cản đại-thiện-nghiệp không cho có cơ hội cho quả của nó như thế nào?

Ví dụ: Cậu B là người được sinh trưởng trong gia đình theo truyền thống Phật-giáo. Khi còn nhỏ ở nhà, cậu được cha mẹ dạy dỗ biết tụng kinh lễ bái Tam-bảo, lúc đến chùa, cha mẹ dạy cậu biết đảnh lễ Đức-Phật, biết đảnh lễ chư tỳ-khưu-Tăng, biết dâng những thứ vật dụng, ... đến chư tỳ-khưu, sa-di.

Khi lớn lên được 10 tuổi, cha mẹ chấp thuận cho phép cậu xuất gia trở thành sa-di, ở trong chùa theo học pháp-học Phật-giáo. Đến khi vị sa-di B tròn 20 tuổi, chư tỳ-khưu-Tăng làm lễ nâng vị sa-di B trở thành tỳ-khưu. Tỳ-khưu B cố gắng tinh-tấn thích học pháp-học Phật-giáo, thích thực-hành pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, nên mọi thiện-pháp được phát triển.

Về sau, tỳ-khưu B có đức-tin càng ngày càng giảm dần, nên không còn muốn học pháp-học Phật-giáo và không còn muốn thực-hành pháp-hành như trước nữa.

Do đó, tỳ-khưu B xin xả giới tỳ-khưu, hoàn tục, xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới trở thành người cận-sự-nam, trở về nhà sống tại-gia.

Cận-sự-nam B có vợ và có nhiều con, khi cha mẹ đã qua đời, gia đình cận-sự-nam B không còn nhờ cậy cha mẹ được nữa. Gia đình lâm vào cảnh nghèo khổ, túng thiếu, cận-sự-nam B phải làm lụng vất vả suốt ngày đêm để nuôi vợ và các con. Do làm nghề giết hại gia súc, gia cầm bán thịt, … cho nên, cận-sự-nam B giữ gìn ngũ-giới của mình không còn trong sạch như trước.

Cận-sự-nam B làm bằng tà-nghiệp, sống bằng tà-mạng mà gia đình cận-sự-nam B vẫn nghèo khổ.

Đến lúc sắp lâm chung, cận-sự-nam B cảm thấy khổ thân, khổ tâm vô cùng nên tâm bị ô nhiễm.

Sau khi cận-sự-nam B chết, bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy.

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại trong thời gian sau, hãm hại, ngăn cản đại-thiện-nghiệp đã được tạo kiếp hiện-tại trong thời gian trước không cho có cơ hội cho quả của nó.

I.3.2-Hãm-hại-nghiệp có phận sự kìm hãm nghiệp đối nghịch đã có cơ hội cho quả rồi, thì làm cho suy yếu tiềm năng cho quả, có 2 trường hợp:

1- Đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại có phận sự kìm hãm bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã có cơ hội cho quả rồi, thì làm cho suy yếu tiềm năng cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy.

2- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã được tạo trong kiếp hiện-tại, có phận sự kìm hãm đại-thiện-nghiệp đã có cơ hội cho quả rồi, thì làm cho suy yếu tiềm năng cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy.

Giải thích 2 trường hợp

1- Đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại có phận sự kìm hãm bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã có cơ hội cho quả rồi, thì làm cho suy yếu tiềm năng cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy như thế nào?

Ví dụ: Đức-vua Ajātasattu vốn là một người có đầy đủ đại-thiện-nghiệp ba-la-mật có thể trở thành bậc Thánh-nhân trong kiếp hiện-tại. Nhưng Đức-vua gần gũi thân cận với tỳ-khưu Devadatta, nghe lời khuyên bảo của tỳ-khưu Devadatta, Đức-vua Ajātasattu đã giết cha là Đức-phụ-vương Bimbisāra, nên đã phạm ác-nghiệp trọng-tội giết cha thuộc vào 1 trong 5 ác-nghiệp vô-gián-trong-tội, đáng lẽ sẽ cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci chịu quả khổ thiêu đốt suốt thời gian lâu dài nhiều đại-kiếp trái đất.

Về sau, nhờ biết ăn năn hối lỗi về ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết Đức-Phụ-vương của mình, nên Đức-vua Ajātasattu nhờ vị quan ngự y Jīvaka đưa đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết dạy bài kinh Samaññaphalasutta tế độ Đức-vua Ajātasattu.

Sau khi lắng nghe bài kinh ấy xong, nếu Đức-vua Ajātasattu không phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết cha thì ngay khi ấy, Đức-vua sẽ trở thành bậc Thánh Nhập-lưu. Nhưng vì đã phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết cha nên Đức-vua Ajātasattu không thể trở thành bậc Thánh-nhân.

Đức-vua Ajātasattu phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo, kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận mình là cận-sự-nam đã quy y Tam-bảo đến trọn đời, rồi Đức-vua Ajātasattu xin sám hối tội lỗi giết Đức Phụ-vương của mình.

Đức-Thế-Tôn chứng minh lời sám hối của Đức-vua Ajātasattu. Từ đó về sau, Đức-vua Ajātasattu có đức-tin trong sạch đặc biệt nơi Tam-bảo, hết lòng tận tâm lo phục vụ Tam-bảo cho đến trọn đời.

Thật vậy, sau khi Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn được 3 tháng 4 ngày, Ngài Đại-trưởng-lão Mahākassapa chủ trì kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất gồm có 500 chư bậc Thánh A-ra-hán, tại động Sattapaṇṇi gần kinh-thành Rājagaha xứ Magadha, thời gian suốt 7 tháng mới hoàn thành trọn bộ Tam-Tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

Đức-vua Ajātasattu là người hộ độ 500 vị Thánh A-ra-hán trong suốt 7 tháng trong kỳ kết tập Tam-Tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất ấy.

Đức-vua Ajātasattu là người cận-sự-nam có đức-tin trong sạch đặc biệt nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tận tâm phục vụ Tam-bảo đến trọn đời.

Cho nên, sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, đáng lẽ ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, nhưng nhờ các đại-thiện-nghiệp quy-y Tam-bảo, hộ độ 500 vị Thánh A-ra-hán trong kỳ kết tập Tam-Tạng lần thứ nhất làm phận sự hãm-hại nghiệp, kìm hãm, làm suy yếu tiềm năng cho quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, nên chỉ cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu-địa-ngục Lohakumbhī (địa-ngục nồi đồng sôi), chịu quả khổ suốt 60.000 năm.

Đức-Phật dạy:

Sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết Đức Phụ-vương cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu-địa-ngục Lohakumbhī (địa-ngục nồi đồng sôi) từ miệng nồi chìm xuống đáy nồi khoảng thời gian 30.000 năm, rồi từ đáy nồi nổi lên miệng nồi khoảng thời gian 30.000 năm, mới mãn quả khổ của ác-nghiệp ấy. Do nhờ đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người, hậu-kiếp của Đức-vua Ajātasattu sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Vijitāvī[19].

Đó là trường-hợp đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện-tại có phận sự kìm hãm bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đã có cơ hội cho quả rồi, thì làm cho suy yếu tiềm năng cho quả của bất-thiện-nghiệp ấy.

2- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong kiếp hiện-tại, có phận sự kìm hãm đại-thiện-nghiệp đã có cơ hội cho quả rồi, thì làm cho suy yếu tiềm năng cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy như thế nào?

Ví dụ: Một thí-chủ là người cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, đứng ra tổ chức buổi lễ tạo phước-thiện đại-thí cúng dường đến chư Đại-đức-Tăng rất đông.

Thật ra, thí-chủ đã có tác-ý trong đại-thiện-tâm hoan hỷ

từ trước nên đã chuẩn bị sẵn sàng những thứ vật dụng.

Đến ngày lễ chính thức tại ngôi chùa mọi người tụ hội đông đủ, chư Đại-đức-Tăng khách cũng được thỉnh mời đến. Toàn thể chư Đại-đức-Tăng và khách đều tập trung tại chánh-điện. Buổi lễ tạo phước-thiện đại-thí cúng dường được cử hành rất long trọng. Riêng người thí-chủ chính có điều không hài lòng trong buổi lễ ấy.

Tuy nhiên, người thí-chủ chính vẫn tự tay dâng cúng dường đến chư Đại-đức-Tăng một cách cung-kính bình thường, nhưng tâm không được hoan hỷ do có điều không hài lòng trong buổi lễ ấy. Còn phần đông mọi người đều phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ trong buổi lễ tạo phước-thiện đại-thí cúng dường lớn lao ấy.

Như vậy, khi thí-chủ tạo đại-thiện-nghiệp đại-thí cúng dường đến chư Đại-đức-Tăng, bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh xen lẫn không hài lòng trong buổi lễ tạo phước-thiện đại-thí cúng dường lớn lao ấy, thì đại-thiện-nghiệp đại-thí cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng ấy không được hoàn toàn trong sạch. Cho nên, bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) ấy kìm hãm đại-thiện-nghiệp đại-thí cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng làm cho suy yếu tiềm năng cho quả của đại-thiện-nghiệp đại-thí ấy.

Sau khi người thí-chủ ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp đại-thí ấy có cơ hội cho quả tái-sinh làm người, đáng lẽ là người có tam-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si) thì chỉ là người có nhị-nhân (vô-tham và vô-sân) mà thôi. Bởi vì bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh xen lẫn có phận sự kìm hãm đại-thiện-nghiệp đã có cơ hội cho quả rồi, thì làm cho suy yếu tiềm năng cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy.

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh trong kiếp hiện-tại có phận sự kìm hãm đại-thiện-nghiệp đã có cơ hội cho quả rồi, thì làm cho suy yếu tiềm năng cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy.

I.3.3-Hãm-hại-nghiệp có phận sự làm biến đổi ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của nghiệp đối nghịch ấy, có 2 trường hợp:

1- Đại-thiện-nghiệp có phận sự hãm hại làm biến đổi ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp).

2- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận sự hãm hại làm biến đổi ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của đại-thiện-nghiệp.

Giải thích 2 trường hợp

1- Đại-thiện-nghiệp có phận sự hãm hại làm biến đổi ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) ấy như thế nào?

Ví dụ: Một người nghèo khổ thường hay bệnh hoạn ốm đau, chịu bao nhiêu nỗi khổ thiếu thốn những nhu cầu cần thiết trong cuộc sống, v.v... đó là quả của bất-thiện-nghiệp mà người ấy đã từng tạo trong những kiếp quá-khứ, hoặc trong kiếp hiện-tại này.

Hằng ngày, người ấy sống bằng nghề lượm đồ phế thải, không có nơi nương tựa.

Một hôm, một người thiện-trí có tâm bi cứu khổ, gặp người ấy đang lâm bệnh, nằm một nơi không có người săn sóc. Người thiện-trí gọi xe đưa bệnh nhân ấy đi bệnh viện để chữa trị, ít hôm sau người ấy được khỏi bệnh.

Người thiện-trí nghĩ rằng: “Nếu ta đem người ấy về ở trong nhà thì người ấy chỉ giảm bớt được phần khổ thân mà thôi, nếu ta gửi người ấy vào ở trong chùa thì người ấy không chỉ giảm được phần khổ thân mà còn giảm được phần khổ tâm nữa.”

Nghĩ xong, người thiện-trí dẫn người ấy đem gửi Ngài Trưởng-lão trụ trì một ngôi chùa, nhờ Ngài Trưởng-lão tế độ người nghèo khổ ấy.

Từ đó, người ấy có nơi ăn chốn ở đàng hoàng, rồi phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, xin thọ phép quy-y Tam-bảo trở thành người cận-sự-nam trong Phật-giáo, thọ trì bát-giới uposathasīla để thích ứng với đời sống ở trong chùa.

Hằng ngày, người cận-sự-nam ấy biết lo công việc lau chùi, quét dọn sạch sẽ trong và xung quanh chánh-điện, nơi cội Đại-Bồ-đề, chăm sóc cây cảnh trong chùa, v.v... tạo cho cảnh quang ngôi chùa sạch đẹp.

Người cận-sự-nam ấy là người dễ dạy, hằng ngày, biết tụng kinh, thực-hành pháp-hành niệm ân-Đức-Phật, biết cung-kính hộ độ từ Ngài Trưởng-lão cho đến vị tỳ-khưu, sa-di nhỏ. Cho nên, người cận-sự-nam được quý Ngài thương yêu quý mến.

Người ấy còn tận tâm giúp đỡ, tạo mọi điều kiện, tiện nghi, phụ giúp những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đến chùa dâng hoa cúng dường Đức-Phật, tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu, sa-di. Cho nên, người ấy cũng được những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ khác thương yêu quý mến.

Từ khi người ấy ở trong chùa đời sống vật chất và tinh thần được thoải mái, cho nên người ấy không còn bệnh hoạn ốm đau như trước nữa. Bây giờ, người ấy là người cận-sự-nam có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có giới-hạnh, có sức khỏe tốt, mỗi ngày tạo mọi phước-thiện tăng trưởng; nhất là người cận-sự-nam ấy được phần đông chư tỳ-khưu, sa-di, và cận-sự-nam, cận-sự-nữ khác thương yêu quý mến giúp đỡ.

Đó là trường-hợp đại-thiện-nghiệp có phận sự hãm hại làm biến đổi ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp).

2- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận sự hãm hại làm biến đổi ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của đại-thiện-nghiệp như thế nào?

Ví dụ: Trong đời này, một người có thân thể khỏe mạnh, tâm trí sáng suốt, có một cuộc sống giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng, có đầy đủ về mọi phương diện, cuộc sống được an lành hạnh phúc, ... đó là quả của đại-thiện-nghiệp mà người ấy đã từng tạo trong những kiếp quá-khứ hoặc trong kiếp hiện-tại.

Về sau, người ấy bị lâm bệnh nan y như bệnh ung thư, hoặc bị bệnh bại liệt toàn thân, hoặc bị tai nạn gây thương tật suốt đời, v.v... hoặc gặp cơn tai biến tan gia bại sản, mất chức mất quyền, v.v… Những điều bất hạnh xảy ra trong cuộc sống của người ấy đều là do quả của bất-thiện-nghiệp mà người ấy đã từng tạo trong những kiếp quá-khứ hoặc kiếp hiện-tại này.

Hoặc một đứa trẻ được tái-sinh làm người đó là quả của đại-thiện-nghiệp. Nhưng khi sinh ra đời, đứa trẻ bị mù, bị tật nguyền, v.v… cũng là do quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp).

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận sự hãm hại làm biến đổi ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của đại-thiện-nghiệp.

I.4-Upaghātakakamma: Sát-Hại-Nghiệp

Thế nào gọi là sát-hại-nghiệp?

Nghiệp nào có phận sự sát hại, cắt đứt nghiệp khác, và sát hại cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của nghiệp khác.

Nghiệp ấy gọi là sát-hại-nghiệp, đó là 12 bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp)[20], 21 thiện-nghiệp[21].

* Sự khác biệt giữa hãm-hại-nghiệp và sát-hại-nghiệp

- Hãm-hại-nghiệp là nghiệp có phận sự hãm hại, ngăn cản nghiệp đối nghịch khác không cho có cơ hội cho quả, hoặc khi đã có cơ hội cho quả rồi thì làm cho suy yếu tiềm năng cho quả hoặc làm biến đổi ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của nghiệp đối nghịch ấy.

- Sát-hại-nghiệp là nghiệp có phận sự cắt đứt nghiệp nào rồi, thì nghiệp ấy vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa, hoặc cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của nghiệp khác, cắt đứt một phần hoặc cắt đứt toàn phần, sát hại sinh-mạng của chúng-sinh ấy.

Sát-hại-nghiệp có 2 phận sự:

- Sát-hại-nghiệp có phận sự cắt đứt nghiệp khác vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa.

- Sát-hại-nghiệp có phận sự cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của nghiệp khác, cắt đứt một phần hoặc cắt đứt toàn phần, sát hại sinh-mạng của chúng-sinh ấy.

I.4.1-Sát-hại-nghiệp có phận sự sát hại, cắt đứt nghiệp khác vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa, có 3 trường hợp:

1- Thiện-nghiệp có phận sự sát hại, cắt đứt bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) khác.

2- Thiện-nghiệp bậc cao có phận sự sát hại, cắt đứt thiện-nghiệp bậc thấp khác.

3- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận sự sát hại, cắt đứt thiện-nghiệp khác.

Giải thích ba trường hợp

1- Thiện-nghiệp có phận sự sát hại, cắt đứt bất-thiện-nghiệp khác vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa như thế nào?

Ví dụ: Trước khi chưa chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán, Ngài Trưởng-lão Aṅgulimāla là kẻ cướp sát nhân đã từng giết chết hơn ngàn người. Như vậy, bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) sát-sinh của Ngài Trưởng-lão khó tránh khỏi cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục.

Khi Đức-Thế-Tôn ngự đến tế độ và cho phép kẻ cướp sát nhân Aṅgulimāla xuất gia trở thành tỳ-khưu. Tỳ-khưu Aṅgulimāla thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

Đến khi hết tuổi thọ, Ngài Trưởng-lão Aṅgulimāla tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới. Cho nên, tất cả mọi bất-thiện-nghiệp và mọi thiện-nghiệp mà Ngài Trưởng-lão đã từng tạo và được lưu trữ ở trong tâm từ vô thủy trải qua vô số kiếp trong quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại trước khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa.

Đó là trường-hợp siêu-tam-giới thiện-nghiệp có phận sự sát hại, cắt đứt bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) khác vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa.

2- Thiện-nghiệp bậc cao có phận sự sát hại, cắt đứt thiện-nghiệp bậc thấp khác vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa như thế nào?

Ví dụ: Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định có khả năng chứng đắc từ đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm [22] tột đỉnh của bậc thiền sắc-giới.

Hành-giả có khả năng giữ gìn 4 bậc thiền sắc-giới ấy cho đến lúc chết. Sau khi hành-giả chết, chắc chắn chỉ có sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm ưu tiên cho quả tương xứng là đệ-tứ-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau trên tầng trời sắc-giới tột đỉnh.

- Nếu hành-giả là hạng phàm-nhân thì đệ-tứ-thiền sắc giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên gọi là Quảng-quả-thiên (hoặc Vô-tưởng-thiên), có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.

- Nếu hành-giả là bậc Thánh Bất-lai thì đệ-tứ-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh 1 trong 5 cõi Tịnh-cư-thiên do năng lực của 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ theo 5 tầng trời Tịnh-cư-thiên có tuổi thọ từ 1.000 đại-kiếp trái đất đến 16.000 đại-kiếp trái đất, tùy theo mỗi tầng trời thấp cao. Bậc Thánh Bất-lai chắc chắn sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới tại tầng trời sắc-giới ấy.

Còn 3 bậc thiền sắc-giới thiện-nghiệp bậc thấp đó là đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-nghiệp cho đến đệ-tam-thiền sắc-giới thiện-nghiệp đều bị sát hại, bị cắt đứt vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa.

Cho nên, đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp bậc cao có phận sự sát hại, cắt đứt 3 bậc thiền sắc-giới thiện-nghiệp bậc thấp không còn có cơ hội cho quả được nữa.

Hoặc hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định sau khi đã chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi tiếp tục thực-hành có khả năng chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm.

Sau khi hành-giả chết, chỉ có bậc thiền phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-nghiệp bậc cao nhất ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp sau lên tầng trời vô-sắc-giới Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên  mà  thôi,  có  tuổi  thọ 84.000 đại-kiếp trái đất.

Còn 3 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp bậc thấp đều bị sát hại, bị cắt đứt vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa.

Cho nên, đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp bậc cao có phận sự sát hại, cắt đứt 3 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp bậc thấp không còn có cơ hội cho quả nữa.

Đó là trường-hợp thiện-nghiệp bậc cao có phận sự sát hại, cắt đứt thiện-nghiệp bậc thấp khác vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa.

3- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận sự sát hại cắt đứt thiện-nghiệp khác không còn có cơ hội cho quả được nữa như thế nào?

Người nào đã tạo 8 dục-giới thiện-nghiệp, 5 sắc-giới thiện-nghiệp 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp.

Về sau, người ấy bị phạm ác-nghiệp trọng-tội thuộc 1 trong 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội (pañcānantariya-kamma) giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật và chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng.

Sau khi người ấy chết, chắc chắn chỉ có ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội này có quyền ưu tiên, có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci mà thôi, không có nghiệp nào có thể làm gián đoạn được, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt thời gian lâu dài trải qua nhiều đại-kiếp trái đất. Còn các thiện-nghiệp khác đều bị sát hại, bị cắt đứt không có cơ hội cho quả trong kiếp kế-tiếp đó.

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận sự sát hại, cắt đứt mọi thiện-nghiệp khác không có cơ hội cho quả trong kiếp kế-tiếp đó được nữa.

I.4.2-Sát-hại-nghiệp có phận sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của nghiệp khác, cắt đứt một phần hoặc cắt đứt toàn phần, sát hại sinh-mạng của chúng-sinh ấy, có 4 trường hợp:

1- Thiện-nghiệp có phận sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của ác-nghiệp.

2- Thiện-nghiệp có phận sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của đại-thiện-nghiệp khác.

3- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của đại-thiện-nghiệp.

4- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) khác.

Giải thích bốn trường hợp

1- Thiện-nghiệp có phận sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) như thế nào?

Ví dụ: Trường hợp nhóm ngạ-quỷ đã từng là thân quyến của Đức-vua Bimbisāra từ thời Đức-Phật Phussa có thời gian cách Đức-Phật Gotama 92 đại-kiếp trái đất, trải qua 8 Đức-Phật đã tuần tự xuất hiện trên thế gian.

Tiền-kiếp của nhóm ngạ-quỷ là nhóm thân quyến của Đức-vua Bimbisāra trong thời-kỳ Đức-Phật Phussa, đã tạo ác-nghiệp trộm-cắp vật thực của chư Đại-đức-Tăng, tự mình ăn và cho con cái ăn.

Sau khi nhóm người ấy chết, ác-nghiệp trộm-cắp ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục, từ cõi đại-địa-ngục đến cõi tiểu-địa-ngục, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trải qua thời gian lâu dài nhiều đại-kiếp trái đất.

Đến lúc mãn quả của ác-nghiệp trong cõi tiểu-địa-ngục, song ác-nghiệp ấy vẫn còn có năng lực cho quả tái-sinh làm kiếp ngạ-quỷ chịu cảnh đói khát khổ cực.

Trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, nhóm ngạ quỷ đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đến khi nào chúng con mới có thân quyến làm phước bố-thí, rồi hồi hướng phần phước-thiện ấy đến cho loài ngạ-quỷ chúng con, để cho chúng con được thoát khỏi cảnh khổ đói khát, được an-lạc? Bạch Ngài.

Đức-Phật Kassapa truyền dạy rằng:

- Này các ngạ-quỷ! Bây giờ, các con chưa có được gì đâu! Các con ráng chờ đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, Đức-vua Bimbisāra đã từng là thân quyến của các con cách đây 92 đại-kiếp trái đất. Đức-vua Bimbisāra sẽ tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật Gotama cùng chư Đại-đức-Tăng, rồi sẽ hồi hướng phần phước-thiện ấy cho các con.

Nghe lời thọ ký của Đức-Phật Kassapa, nhóm ngạ-quỷ vô cùng hoan hỷ chờ đợi, mong ngóng, từ thời Đức-Phật Kassapa cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, trải qua một thời-kỳ lâu dài chờ đợi.

Đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, Đức-vua Bimbisāra ngự tại kinh-thành Rājagaha trị vì xứ Magadha. Đức-Phật Gotama ngự cùng với chư tỳ-khưu-Tăng đến kinh-thành Rājagaha, thuyết pháp tế độ Đức-vua Bimbisāra cùng với các quan trong triều và dân chúng trong kinh-thành Rājagaha.

Sau khi lắng nghe chánh-pháp, Đức-vua đã chứng đắc thành bậc Thánh Nhập-lưu, phần đông các quan và dân chúng cũng chứng đắc thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Đức-vua Bimbisāra phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tạo phước-thiện bố-thí cúng dường lên Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng xong. Khi ấy, Đức-vua Bimbisāra không hồi hướng phần phước-thiện đến cho nhóm ngạ-quỷ.

Nhóm ngạ-quỷ vô cùng thất vọng, đêm đến chúng hiện đến cung điện của Đức-vua kêu la, khóc than thảm thiết phát ra những âm thanh đáng kinh sợ.

Sáng ngày hôm sau, Đức-vua Bimbisāra ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, bèn bạch hỏi do nhân nào có âm thanh đáng kinh sợ như vậy.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

- Này Đại-vương! Đại-vương không nên kinh sợ! Đó là tiếng kêu la than khóc của nhóm ngạ-quỷ. Nhóm ngạ-quỷ này đã từng là thân quyến của Đại-vương trong kiếp quá-khứ, chúng trông ngóng từ lâu với hy vọng Đại-vương tạo phước-thiện bố-thí rồi hồi hướng phần phước-thiện ấy đến cho chúng để chúng thoát khỏi cảnh khổ kiếp ngạ-quỷ, nhưng Đại-vương tạo phước-thiện bố-thí xong không hồi hướng phần phước-thiện ấy đến cho chúng. Vì vậy, nhóm ngạ-quỷ thất vọng hiện đến kêu la than khóc như vậy.

Lắng nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, nên Đức-vua Bimbisāra bèn bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, ngày mai, con xin kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự cùng với chư Đại-đức-Tăng đến cung điện của con, để con tạo phước-thiện bố-thí cúng dường một lần nữa. Lần này, con sẽ hồi hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho nhóm ngạ-quỷ thân quyến của con.

Đức-Thế-Tôn nhận lời bằng cách im lặng.

Đức-vua Bimbisāra đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép trở về cung điện.

Sáng hôm sau, Đức-Thế-Tôn ngự cùng với chư Đại-đức-Tăng đến cung điện của Đức-vua Bimbisāra. Chính Đức-vua tự tay dâng cúng dường vật thực đến Đức-Thế-Tôn và chư Đại-đức-Tăng, rồi Đức-vua Bimbisāra hồi hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho nhóm ngạ-quỷ thân quyến.

Đức-Thế-Tôn thuyết bài kinh Tirokuḍḍapetavatthu tế độ nhóm ngạ-quỷ. Nhóm ngạ-quỷ phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ phần phước-thiện bố-thí ấy đồng nói lên lời “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!”

Ngay khi ấy, nhờ dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) hoan-hỷ phần phước-thiện ấy, nên tất cả nhóm ngạ-quỷ đều thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát, liền cho quả tái-sinh làm chư-thiên trên cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy.

Đó là trường-hợp dục-giới thiện-nghiệp có phận sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp).

2- Thiện-nghiệp có phận sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn sắc-pháp, danh-pháp là quả của thiện-nghiệp khác như thế nào?

Ví dụ: Người tại-gia là cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Sau đó, nếu bậc Thánh A-ra-hán không xuất gia trở thành tỳ-khưu thì bậc Thánh A-ra-hán ấy chắc chắn sẽ tịch diệt Niết-bàn ngay trong ngày hôm ấy, không thể duy trì sinh mạng sang ngày hôm sau được, bởi vì phạm-hạnh cao thượng của bậc Thánh A-ra-hán không thích hợp với đời sống của người tại-gia. Cho nên, bậc Thánh A-ra-hán phải tịch diệt Niết-bàn trong ngày hôm ấy.

Có 3 trường hợp trong thời-kỳ Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian đó là Đức-vua Suddhodana (Phụ hoàng của Đức-Phật) quan đại cận thần Santati trong triều đình của Đức-vua Pasenadi Kosala, sau khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, đã đảnh lễ xin phép Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn ngay trong ngày hôm ấy; và trường hợp tu-sĩ Bahiya, sau khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, đã xin Đức-Phật xuất gia nhưng chưa có y, trong khi đang đi tìm y để xuất gia thì bị con bò húc chết đồng thời tịch Niết-bàn ngay trong ngày hôm ấy

* Đối với người tại-gia, khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, siêu-tam-giới thiện-nghiệp có phận sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn là quả của đại-thiện-nghiệp khác, gọi là Ngũ-uẩn Niết-bàn ngay trong ngày hôm ấy, không thể duy trì sinh mạng sang ngày hôm sau.

Cho nên, người tại-gia sau khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, nếu bậc Thánh A-ra-hán ấy cần duy trì sinh mạng cho đến hết tuổi thọ thì bậc Thánh A-ra-hán ấy phải xuất gia trở thành tỳ-khưu.

* Như trường hợp đặc biệt trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama còn hiện hữu trên thế gian, bà Khemā là chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua Bimbisāra, sau khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, Đức-vua Bimbisāra chấp thuận cho bà xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni.

Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Khemā bậc Thánh-nữ Tối-thượng thanh-văn xuất sắc nhất về trí-tuệ trong hàng Thánh-nữ thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Đó là trường-hợp siêu-tam-giới thiện-nghiệp có phận sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của đại-thiện-nghiệp.

3- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của đại-thiện-nghiệp như thế nào?

Ví dụ: Con người sinh ra đời, có ngũ-uẩn tốt đẹp, thân thể khoẻ mạnh, có đầy đủ ngũ quan tốt … Đó là quả của đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ.

Người ấy tòng quân đi chiến đấu, giữa trận địa, hai bên giao chiến với nhau, người ấy chẳng may bị thương nặng nên bị tử trận (chết do bất-thiện-nghiệp trong kiếp hiện-tại).

Hoặc trường hợp người bị tai nạn làm cho gẫy chân hoặc gẫy tay, hoặc bị mù mắt, bị điếc, gây thương tích trọn đời hoặc bị thương nặng rồi tử vong, hoặc bị lâm bệnh nặng gây ra bệnh mất trí cuồng điên cho đến chết (chết do bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) trong kiếp quá-khứ).

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của đại-thiện-nghiệp.

4- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) khác như thế nào?

Ví dụ: Tất cả mọi loài súc-sinh sinh ra trên trái đất này đều là quả của bất-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ.

Số loài súc-sinh gặp nhau cắn xé lẫn nhau, gây thương tích cho nhau, thậm chí còn cắn chết rồi ăn thịt nữa (chết do ác-nghiệp trong kiếp hiện-tại).

Hoặc trường hợp, số loài súc-sinh bị tai nạn gây ra thương tích trọn đời, hoặc bị thương nặng rồi tử vong (chết do bất-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ).

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) khác.

Sát-hại-nghiệp cắt đứt ngũ-uẩn

Sát-hại-nghiệp có phận sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của nghiệp khác, có 3 trường hợp đặc biệt:

1- Sát-hại-nghiệp có phận sự cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp danh-pháp là quả của nghiệp khác xong, rồi chính nghiệp ấy không cho quả tái-sinh kiếp sau và cũng không cho nghiệp khác có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau.

2- Sát-hại-nghiệp có phận sự cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của nghiệp khác xong, rồi chính nghiệp ấy giành cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau.

3- Sát-hại-nghiệp có phận sự cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của nghiệp khác xong, rồi cho nghiệp khác có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau.

Giải thích ba trường hợp

1- Sát-hại-nghiệp có phận sự cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của nghiệp khác xong, rồi chính nghiệp ấy không cho quả tái-sinh kiếp sau, và cũng không cho nghiệp khác có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau như thế nào?

Ví dụ: Trường hợp hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, đồng thời tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Siêu-tam-giới thiện-nghiệp của A-ra-hán Thánh-đạo-tâm có phận sự cắt đứt ngũ-uẩn và đồng thời ngũ-uẩn Niết-bàn gọi là jīvitasamasīsī: chứng đắc A-ra-hán Thánh-quả xong, đồng thời hết tuổi thọ gọi là ngũ-uẩn Niết-bàn không trước không sau.

-Hoặc trường hợp Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā-moggallāna, Ngài Đại-Trưởng-lão bị bọn cướp đánh đập tan xương nát thịt đến gần chết. Chúng tưởng Ngài Đại-Trưởng-lão đã chết rồi nên đem thi thể của Ngài Đại-Trưởng-lão bỏ vào bụi cây rồi bỏ đi khỏi nơi ấy.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna sử dụng thần-thông kết nối xương thịt lại, rồi bay đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xin phép tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmogallāna đã từng tạo bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đánh đập cha mẹ đến chết trong kiếp quá-khứ. Nay bất-thiện-nghiệp ấy có phận sự cắt đứt ngũ-uẩn và đồng thời ngũ-uẩn Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.

Đó là trường-hợp sát-hại-nghiệp có phận sự cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của thiện-nghiệp khác xong, rồi chính nghiệp ấy không cho quả tái-sinh kiếp sau và cũng không cho nghiệp khác có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau (trường hợp bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn gọi là ngũ-uẩn Niết-bàn).

2- Sát-hại-nghiệp có phận sự cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của nghiệp khác xong, rồi chính nghiệp ấy lại giành cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau như thế nào?

Ví dụ: * Trường hợp chúng-sinh trong cõi địa-ngục, bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) nào có phận sự cắt đứt ngũ-uẩn của chúng-sinh trong cõi địa-ngục xong, rồi chính bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) ấy lại giành cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau cũng trong cõi địa-ngục ấy.

Chúng-sinh trong cõi địa-ngục thuộc về loài hóa-sinh cho nên khi chúng-sinh ấy bị hành hạ đến chết rồi hóa-sinh trở lại, cứ tiếp tục tử rồi sinh, sinh rồi tử trong cõi địa-ngục cho đến khi mãn quả của bất-thiện-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi địa-ngục, rồi tái-sinh trong cõi khác tùy theo nghiệp của chúng-sinh ấy.

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận sự cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) khác, rồi chính bất-thiện-nghiệp ấy lại giành cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau.

Hoặc * trường hợp chư-thiên trong cõi trời dục-giới cũng thuộc về loài hóa-sinh, đến khi hết tuổi thọ của cõi trời dục-giới ấy, nếu đại-thiện-nghiệp ấy còn có nhiều năng lực thì chính đại-thiện-nghiệp ấy lại có cơ hội cho quả tái-sinh trở lại cõi trời dục-giới cũ, hoặc cõi trời dục-giới cao hơn, hoặc cõi trời dục-giới thấp hơn cõi trời cũ, tùy theo năng lực của thiện-nghiệp ấy.

Như trường hợp ông phú hộ Anāthapiṇḍika bậc Thánh Nhập-lưu. Sau khi Ông phú hộ chết, đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh lên cõi trời dục-giới Tusita (Đâu-suất-đà-thiên) có tuổi thọ 4.000 (bốn ngàn) năm cõi trời (bằng 576 triệu năm cõi người).

Khi hết tuổi thọ ở cõi trời dục-giới Tusita, sau khi vị thiên-nam Anāthapiṇḍika chết, đại-thiện-nghiệp ấy giành cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau lên cõi trời dục-giới cao Nimmānaratī có tuổi thọ 8.000 (tám ngàn) năm cõi trời (bằng 2.304 triệu năm cõi người).

Khi hết tuổi thọ ở cõi trời dục-giới Nimmānaratī, sau khi vị thiên-nam Anāthapiṇḍika chết, đại-thiện-nghiệp ấy giành cơ hội tái-sinh kiếp sau hóa-sinh lên cõi trời dục-giới cao Paranimmitavasavatti có tuổi thọ 16.000 (mười sáu ngàn) năm cõi trời (bằng 9.216 triệu năm cõi người). Khi hết tuổi thọ ở cõi trời dục-giới Paranimmita-vasavatti, sau khi vị thiên-nam Anāthapiṇḍika chết, sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau lên tầng trời sắc-giới phạm-thiên. Và cứ như vậy, từ tầng trời sắc-giới tầng thấp cho đến tầng trời sắc-giới cao tột đỉnh gọi là Akaniṭṭhā có tuổi thọ 16.000 đại-kiếp trái đất. Vị Phạm-thiên Anāthapiṇḍika sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi

trong tam-giới, tại tầng trời sắc-giới Akaniṭṭhā ấy.

Tương tự bà đại-thí-chủ Visākhā mahā-upāsikā bậc Thánh Nhập-lưu cũng phát nguyện như vậy.

Trường hợp ông phú hộ Anāthapiṇḍika và bà đại-thí-chủ Visākhā mahā-upasikā là 2 bậc Thánh Nhập-lưu đặc biệt đã từng phát nguyện trong thời quá-khứ như vậy.

Đó là trường hợp đại-thiện-nghiệp có phận sự cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của nghiệp khác, rồi chính đại-thiện-nghiệp ấy lại giành cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau.

3- Sát-hại-nghiệp có phận sự cắt dứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của đại-thiện-nghiệp khác xong, rồi cho đại-thiện-nghiệp khác có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau như thế nào?

Ví dụ: Trong thời quá khứ, tiền-kiếp của Đức-vua Bimbisāra đã từng mang dép đi vào trong khuôn viên xung quanh ngôi Bảo-tháp, khuôn viên xung quanh cội Đại-Bồ-đề, với tội không biết tôn kính.

Nay, kiếp hiện-tại được sinh làm Đức-vua Bimbisāra là quả của đại-thiện-nghiệp, nhưng do năng lực của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) mang dép đi vào khuôn viên xung quanh ngôi Bảo-tháp, cội Đại-Bồ-đề, có cơ hội cho quả, khiến cho Đức-vua Ajātasattu (là con) truyền lệnh cho người thợ cạo lấy dao rạch hai bàn chân, thoa dầu, hơ lửa hai bàn chân làm cho Đức-vua Bimbisāra băng hà.

Đức-vua Bimbisāra là bậc Thánh Nhập-lưu, sau khi băng hà, do đại-thiện-nghiệp khác có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trên cõi trời Tứ-Đại-thiên-vương.

Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp có phận sự cắt đứt ngũ-uẩn là quả của đại-thiện-nghiệp xong, rồi cho đại-thiện-nghiệp khác có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau.

Tóm lược 4 loại nghiệp theo phận sự của nghiệp

I.1-Janakakamma: Sinh-quả-nghiệp đó là 12 bất-thiện-nghiệp, 17 tam-giới thiện-nghiệp có phận sự cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, cho đến cuối cùng của kiếp ấy.

I.2-Upatthambhakakamma: Hỗ-trợ-nghiệp đó là 12 bất-thiện-nghiệp, 8 đại-thiện-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho nghiệp nào chưa có cơ hội cho quả thì hỗ trợ cho nghiệp ấy có cơ hội cho quả; hoặc hỗ trợ cho nghiệp khác đã có cơ hội cho quả rồi thì hỗ trợ quả của nghiệp ấy được phát triển đầy đủ; hoặc hỗ trợ quả của nghiệp khác đó là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp được phát triển và duy trì, tồn tại trong kiếp ấy.

I.3-Upapīḷakakamma: Hãm-hại-nghiệp đó là 12 bất-thiện-nghiệp, 8 đại-thiện-nghiệp có phận sự ngăn cản nghiệp đối nghịch khác không cho có cơ hội cho quả; hoặc kìm hãm nghiệp đối nghịch đã có cơ hội cho quả rồi thì làm cho suy yếu tiềm năng cho quả; hoặc làm biến đổi ngũ-uẩn là quả của nghiệp đối nghịch ấy.

I.4-Upaghāṭakakamma: Sát-hại-nghiệp đó là 12 bất-thiện-nghiệp, 21 thiện-nghiệp có phận sự cắt đứt nghiệp khác, rồi nghiệp khác vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa; hoặc cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của nghiệp khác, cắt đứt một phần hoặc cắt đứt toàn phần, sát hại sinh-mạng của chúng-sinh ấy.

Tất cả mọi chúng-sinh nói chung, đặc biệt con người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu chúng ta nói riêng, đều phải chịu ảnh hưởng chi phối bởi nghiệp và quả của nghiệp của mình đã tạo trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp trong quá-khứ, trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla), bắt đầu kiếp hiện-tại, rồi còn phải chịu ảnh hưởng chi phối bởi nghiệp và quả của nghiệp trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), trong suốt kiếp hiện-tại.

* Nếu đại-thiện-nghiệp của ng nào có cơ hội cho quả thì người ấy hưởng được quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy, đó là sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong cuộc sống.

* Người nào nếu ác-nghiệp nào của họ có cơ hội cho quả thì người ấy chịu quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy, đó là sự bất lợi, sự thoái hóa, sự đau khổ trong cuộc sống.

Cho nên, trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, khi thì hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp của mình, khi thì chịu quả khổ của ác-nghiệp của mình như người thừa kế quả của nghiệp của mình (kammadāyādo).

Những bậc thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, tin theo lời giáo huấn của Đức-Phật rằng:

“Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kamma-bandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃvā, tassa dāyādo bhavissāmi.” [23]

Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’, ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.

Những bậc thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật nên có kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh-kiến sở-nghiệp, chỉ nên tin nghiệp và quả của nghiệp của mình mà thôi, không nên tin có định mệnh hoặc số mệnh nào cả.

Giả sử, nếu có định mệnh hoặc có số mệnh của mỗi chúng-sinh thì ai có khả năng an bài mỗi định mệnh hoặc mỗi số mệnh của mỗi chúng-sinh lớn và nhỏ trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới này???

(Xong phần 4 loại nghiệp theo phận sự của nghiệp)



[1] Aṅguttaranikāya, phần Chakkanipāta, kinh Nibbedhikasutta.

[2] Aṅg. Pañcakanipātapāḷi, kinh Abhiṇhapaccavekkhitatabbaṭṭhānasutta.

[3] Xem phần giải thích 12 bất-thiện-tâm trong quyển “Vi-Diệu-Pháp Hiện Thực Trong Cuộc Sống” cùng soạn giả.

[4] Bất-thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với si-tâm hợp với phóng-tâm không có năng lực cho quả trong thời-kỳ tái-sinh, nhưng bất-thiện-nghiệp này có khả năng cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh, kiếp hiện-tại.

[5] Bất-thiện-quả vô-nhân-tâm là tâm không có nhân nào trong 6 nhân: (tham, sân, si, vô-tham, vô-sân, vô-si) thuộc về quả của bất-thiện-nghiệp.

[6] Xem phần giải thích 8 dục-giới thiện-tâm (đại-thiện-tâm) trong quyển “Vi-Diệu-Pháp Hiện Thực Trong Cuộc Sống” cùng soạn giả.

[7] Tìm hiểu rõ trong quyển “Vi-Diệu-Pháp Hiện Thực Trong Cuộc Sống” cùng soạn giả.

[8] Tìm hiểu rõ trong quyền “Vi-Diệu-Pháp Hiện Thực Trong Cuộc Sống” cùng soạn giả.

[9] Hạng người vô-nhân có tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) không có nhân nào trong 3 nhân: vô tham, vô sân, vô si từ khi tái-sinh đầu thai.

[10] Sẽ trình bày chi tiết trong phần nghiệp phân chia các loại cho quả của nghiệp theo mỗi cõi giới.

[11] Vị phạm-thiên hóa-sinh trên tầng trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên bằng nhóm sắc-pháp gọi là jīvitanavakakalāparūpa, nên vị phạm-thiên này chỉ có thân mà không có tâm.

[12] Cây Đại-Bồ-đề tại khu rừng Uruvelā đồng sinh với Đức-Bồ-tát Siddhattha.

[13] Tìm hiểu rõ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển VI, VII, VIII Pháp-Hạnh Ba-La-Mật, cùng soạn giả.

[14] Aṅg. Pañcakanipātapāḷi, kinh Abhiṇhapaccavekkhitatabbaṭṭhānasutta.

[15] Cõi thiện-giới có 7 cõi là cõi người và 6 cõi trời dục-giới.

[16] Cõi ác-giới có 4 cõi là cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, súc-sinh.

[17] Maj. Mūlapaṇṇāsa. Kinh Vatthasutta.

[18] Bộ Dhammapadāṭṭhakathā, trong tích Uttarā upāsikāvatthu.

[19] Dī. Sīlakkhandhavaggaṭṭhakathā, Sanaññaphalasuttavaṇṇanā.

[20] 12 bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 tham-tâm, 2 sân-tâm, 2 si-tâm.

[21] 21 thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 siêu-tam-giới thiện-tâm (4 Thánh-đạo-tâm).

[22] Thiền sắc-giới chỉ có 4 bậc mà thôi.

[23] Aṅg. Pañcakanipātapāḷi, kinh Abhiṇhapaccavekkhitatabbaṭṭhānasutta.


Mục lục quyển 4 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08


Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10


[Đầu trang][Mục lục tổng quát]