NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)

QUYỂN IV
NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA NGHIỆP
(KAMMA-KAMMAPHALA)


PHẦN II (tt)

II- Pākadānapariyāyacatukka: Phần nghiệp phân chia theo nghiệp cho quả theo tuần tự, có 4 loại nghiệp:

II.1-Garukakamma: Trọng-yếu-nghiệp là nghiệp trọng có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp sau.

II.2-Āsannakamma: Cận-tử-nghiệp là nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung.

Nếu không có trọng-yếu-nghiệp thì cận-tử-nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.

II.3-Āciṇṇakamma: Thường-hành-nghiệp là nghiệp thường hành hằng ngày đêm.

Nếu không có cận-tử-nghiệp thì thường-hành-nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.

II.4-Kaṭattākamma: Bình-thường-nghiệp là nghiệp bình thường kém thua ba loại nghiệp trên, hoặc nghiệp trong kiếp quá-khứ.

Nếu không có ba loại nghiệp trên thì bình-thường-nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.

Giải thích 4 loại nghiệp cho quả theo tuần tự

II.1-Garukakamma: Trọng-yếu-nghiệp

Thế nào gọi là trọng-yếu-nghiệp?

Trọng-yếu-nghiệp là loại nghiệp nặng nhất, có nhiều

năng lực nhất, nên có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp mà không có nghiệp nào có thể ngăn cản được.

Trọng-yếu-nghiệp có 2 loại:

- Trọng-yếu ác-nghiệp (Akusala garukakamma).

- Trọng-yếu thiện-nghiệp (Kusala garukakamma).

II.1.1-Trọng-yếu ác-nghiệp (Akusala garukakamma) có 2 loại ác-nghiệp:

1- Niyatamicchādiṭṭhikamma: Tà-kiến cố-định ác-nghiệp ác-nghiệp nặng nhất, có tà-kiến cố-định hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp, đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với tham-tâm hợp với tà-kiến tạo ác-nghiệp tà-kiến cố-định (niyatamicchādiṭṭhikamma).

2- Pañcānantariyakamma: 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội là 5 ác-nghiệp nặng nhất chắc chắn cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp mà không có nghiệp nào làm gián đoạn được, đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với sân-tâm hợp với hận tạo 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội.

Giảng giải trọng-yếu ác-nghiệp có 2 loại ác-nghiệp

1- Niyatamicchādiṭṭhi: Tà-kiến chấp-thủ cố-định

Nếu người nào có tà-kiến chấp-thủ cố-định là tà-kiến hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp, thì người ấy có ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định, là ác-nghiệp trọng tội cực kỳ nặng.

Tà-kiến chấp-thủ cố-định có 3 loại:

- Natthikadiṭṭhi: Vô-quả tà-kiến.

- Ahetukadiṭṭhi: Vô-nhân tà-kiến.

- Akiriyadiṭṭhi: Vô-hành tà-kiến.

a- Natthikadiṭṭhi: Vô-quả tà-kiến là tà-kiến chấp-thủ cố-định rằng: “Không có quả của nghiệp.”

Vô-quả tà-kiến là tà-kiến thấy sai chấp lầm rằng: “Không có quả khổ của ác-nghiệp, không có quả an-lạc của thiện-nghiệp.”

Người có vô-quả tà-kiến thuộc về ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Người nào dù đã tạo ác-nghiệp rồi, người ấy cũng không có quả khổ của ác-nghiệp; dù đã tạo thiện-nghiệp rồi, người ấy cũng không có hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp.

Tất cả mọi chúng-sinh chết rồi là hết, trở thành ‘số không’, không có nghiệp nào cho quả tái-sinh kiếp sau.”

Người có vô-quả tà-kiến này còn gọi là đoạn-kiến (ucchedadiṭṭhi) chết là hết, không có kiếp sau.

Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta[1],vị Đạo-sư ngoại đạo Ajitakesakambala có tà thuyết natthikadiṭṭhi: vô-quả tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có quả của nghiệp” 10 điều như sau:

1- Natthi dinnaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước-thiện bố-thí không có quả tốt, quả an-lạc.

2- Natthi yiṭṭhaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước-thiện cúng dường không có quả tốt, quả an-lạc.

3- Natthi hutaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước-thiện đón rước, thỉnh mời không có quả tốt, quả an-lạc.

4- Natthi sukatadukkatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipākaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Tạo thiện-nghiệp rồi, không có quả an-lạc của thiện-nghiệp; tạo ác-nghiệp rồi, không có quả khổ của ác-nghiệp.

5- Natthi ayaṃ loko: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi-giới này nghĩa là không có chúng-sinh tái-sinh đến cõi-giới này.

6- Natthi paro loko: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi-giới khác nghĩa là chúng-sinh chết là hết, không có tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác.

7- Natthi mātā: Tà-kiến thấy sai rằng: Làm phước, làm tội đối với mẹ, không có quả tốt, quả xấu.

8- Natthi pitā: Tà-kiến thấy sai rằng: Làm phước, làm tội đối với cha, không có quả tốt, quả xấu.

9- Natthi sattā opapātikā: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có các loài chúng-sinh hóa-sinh lớn ngay tức thì, như chúng-sinh trong cõi địa-ngục, loài ngạ-quỷ, loài a-su-ra, chư-thiên cõi dục-giới, phạm-thiên cõi sắc-giới.

10- Natthi loke samaṇabrahmaṇā samaggatā sammā-paṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti: Tà-kiến thấy sai rằng: Trong đời này không có Sa-môn, Bà-la-môn thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép-thần-thông; thấy rõ, biết rõ cõi-giới này, cõi-giới khác; thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn.

Theo tà thuyết của phái ngoại-đạo này, con người gồm có tứ đại và hơi thở, … Cho nên, sau khi con người chết, chất đất tan rã theo đất, chất nước tan rã theo nước, chất lửa tan rã theo lửa, chất gió tan rã theo gió, hơi thở tan rã theo hư không, …

Tà thuyết cố-định của vị đạo-sư Ajitakesakambala ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: không có quả của nghiệp.

Tuy người có vô-quả tà-kiến phủ nhận quả của ác-nghiệp, phủ nhận quả của thiện-nghiệp, nhưng sự-thật vẫn có ác-nghiệp và quả của ác-nghiệp, vẫn có đại-thiện-nghiệp và quả của đại-thiện-nghiệp.

Cho nên, người nào có vô-quả tà-kiến là ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định cực kỳ nặng nhất trong các loại ác-nghiệp. Sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-quả tà-kiến chấp-thủ cố-định này có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm chúng-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định này suốt nhiều đại-kiếp trái đất, không có hạn định.

b- Ahetukadiṭṭhi: Vô-nhân tà-kiến là tà-kiến cố-định chấp-thủ rằng: “Không có nhân nghĩa là không có nghiệp cho quả.”

Vô-nhân tà-kiến là tà-kiến thấy sai chấp lầm rằng: “Không có ác-nghiệp cho quả khổ, cũng không có thiện-nghiệp cho quả an-lạc. Không có ác-nghiệp hỗ trợ ác-nghiệp cho quả, cũng không có đại-thiện-nghiệp hỗ trợ đại-thiện-nghiệp cho quả.”

Người có vô-nhân tà-kiến thuộc về ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Tất cả mọi chúng-sinh tự nhiên hiện hữu trong đời này, không phải là quả của đại-thiện-nghiệp, ác-nghiệp nào cả. Tất cả mọi chúng-sinh tự nhiên bị ô nhiễm, đến thời-kỳ tự nhiên được trong sạch thanh-tịnh.

Cho nên, tất cả mọi người ác, người thiện, người ngu, người trí trải qua vòng tử sinh luân-hồi nhiều kiếp đến thời-kỳ nào đó, tự nhiên sẽ giải thoát khổ cả thảy.”

Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta, vị Đạo-sư ngoại đạo Makkhaligosāla có tà thuyết cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có nhân nghĩa là không có nghiệp cho quả” như sau:

- Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng-sinh bị ô nhiễm, tất cả chúng-sinh bị ô nhiễm tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.

- Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng-sinh được trong sạch thanh-tịnh. Tất cả chúng-sinh được trong sạch thanh-tịnh tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.

- Không có nghiệp riêng của mình, không có nghiệp riêng của người khác, … Tất cả chúng-sinh sống hằng ngày tùy thuộc vào sự may, sự rủi, sự ngẫu nhiên, tự nhiên rồi thọ khổ, thọ lạc, …

-Tất cả chúng-sinh là người ác, người thiện, người ngu, người trí trải qua vòng tử sinh luân-hồi nhiều đời, nhiều kiếp đến thời gian nào đó, rồi cũng sẽ giải thoát khổ cả thảy, ...

Tà thuyết cố-định của vị đạo-sư ngoại đạo Makkhali-gosāla ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: Không có nhân nghĩa là không có nghiệp.”

Tuy người có vô-nhân tà-kiến phủ nhận ác-nghiệp, phủ nhận thiện-nghiệp, nhưng sự-thật vẫn có ác-nghiệp và quả của ác-nghiệp, vẫn có thiện-nghiệp và quả của thiện-nghiệp.

Cho nên, người nào có vô-nhân tà-kiến là ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định cực kỳ nặng nhất trong các loại ác-nghiệp. Sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-nhân tà-kiến chấp-thủ cố-định này có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm chúng-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định này suốt nhiều đại-kiếp trái đất, không có hạn định.

c- Akiriyadiṭṭhi: Vô-hành tà-kiến là tà-kiến thấy sai chấp lầm rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện.”

Người có vô-hành tà-kiến thuộc về ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Người tạo ác-nghiệp không gọi là hành ác, và người tạo thiện-nghiệp không gọi là hành thiện. Hành chỉ là hành mà thôi, không có hành ác, không có hành thiện.”

Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta, vị Đạo-sư ngoại đạo Pūraṇakassapa có tà thuyết cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện” như sau:

- Tự mình hành ác, sai khiến người khác hành ác đều không có hành ác, như:

- Tự mình sát-sinh, sai khiến người khác sát-sinh đều không có hành ác sát-sinh.

- Tự mình trộm-cắp, sai khiến người khác trộm-cắp đều không có hành ác trộm-cắp.

- Tự mình tà-dâm, sai khiến người khác tà-dâm đều không có hành ác tà-dâm.

- Tự mình nói-dối, sai khiến người khác nói-dối đều không có hành ác nói-dối, v.v…

- Tự mình bố-thí, khuyên người khác bố-thí đều không có hành phước-thiện bố-thí.

- Tự mình giữ giới, khuyên người khác giữ giới đều không có hành phước-thiện giữ giới.

- Tự mình lễ bái cúng dường, khuyên người khác lễ bái cúng dường đều không có hành phước-thiện lễ bái cúng dường, v.v…

Đó là tà thuyết cố-định của vị đạo-sư ngoại đạo Pūraṇa-kassapa ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: Không có hành ác, không có hành thiện.”

Tuy người có vô-hành tà-kiến phủ nhận hành ác-nghiệp, phủ nhận hành thiện-nghiệp, nhưng sự-thật vẫn có hành ác-nghiệp, có hành thiện-nghiệp.

Cho nên, người nào có vô-hành tà-kiến là ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định cực kỳ nặng nhất trong các loại ác-nghiệp. Sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-hành tà-kiến chấp-thủ cố-định này có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm chúng-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định này suốt nhiều đại-kiếp trái đất, không có hạn định.

Nhận xét về ba loại ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định

Trước thời-kỳ Đức-Phật chưa xuất hiện trên thế gian, đã có 6 nhóm ngoại đạo lớn, đứng đầu là 6 vị đạo-sư: Đạo-sư Pūraṇakassapa, Đạo-sư Makkhaligosāla, Đạo-sư Ajitakesakambala, Đạo-sư Pakudhakaccāyana, Đạo sư Nigaṇṭhanāṭaputta và Đạo-sư Sañjayabelaṭṭhaputta. Mỗi vị đạo-sư có tà thuyết riêng biệt của mình, rồi chấp-thủ cố-định vững chắc trong tà thuyết ấy.

Ba loại ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định liên quan đến ba tà thuyết của ba vị đạo-sư như sau:

* Vị đạo-sư Ajitakesakambala có tà thuyết natthika-diṭṭhi” tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có quả của nghiệp.”

* Vị đạo-sư Makkhaligosāla có tà thuyết ahetuka-diṭṭhi” tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có nhân, không có nghiệp.”

* Vị đạo-sư Pūraṇakassapa có tà thuyết akiriya-diṭṭhi” tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện.”

Tuy ba tà thuyết của ba vị đạo-sư có khác nhau về quan điểm, nhưng chung quy đều giống nhau là phủ nhận quả của nghiệp, phủ nhận nghiệp, phủ nhận nghiệp và quả của nghiệp.

Người có tà-kiến chấp-thủ cố-định này là người hoàn toàn không tin nơi nghiệp và quả của nghiệp.

Tuy người ấy không tin nghiệp và quả của nghiệp, nhưng sự thật, người ấy đã tạo ác-nghiệp tà-kiến cố-định là ác-nghiệp cực kỳ nặng, nên sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp tà-kiến cố-định này cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, phải chịu quả khổ thiêu đốt suốt thời gian lâu dài, không có hạn định.

2- Pañcānantariyakamma: 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội là 5 loại ác-nghiệp cực kỳ nặng:

- Ác-nghiệp giết cha.

- Ác-nghiệp giết mẹ.

- Ác-nghiệp giết bậc Thánh A-ra-hán.

- Ác-nghiệp làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật.

- Ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng.

Người nào đã phạm 1 trong 5 ác-nghiệp cực kỳ nặng này, sau khi người ấy chết, chắc chắn chỉ có ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội cực kỳ nặng này có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm chúng-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội mà không có nghiệp nào làm gián đoạn được, chúng-sinh ấy phải chịu quả khổ bị thiêu đốt suốt thời gian lâu dài nhiều đại-kiếp trái đất cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy.

Cho nên, 5 ác-nghiệp cực kỳ nặng này gọi là 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội.

Tính-chất của 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội

Người phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội đó là ác-nghiệp giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật, chia rẽ tỳ-khưu-Tăng không hẳn là người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định, mà chỉ là người hành động do năng lực của sân-tâm, trong khi hành ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy.

Nếu người phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy không phải là người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định thì sau khi đã phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, rồi người ấy biết ăn năn hối lỗi, biết sám hối tội lỗi của mình.

Người nào đã phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội rồi sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, phải chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, nên chúng-sinh trong cõi đại-địa-ngục ấy bị thiêu đốt suốt thời gian lâu dài nhiều đại-kiếp trái đất, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy.

* Như trường hợp tỳ-khưu Devadatta trước kia đã chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, đã chứng đắc phép-thần-thông.

Về sau, tỳ-khưu Devadatta đã phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, đó là ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu Tăngác-nghiệp làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật, nên các bậc thiền sắc-giới đều bị mất.

Khi bị lâm bệnh trầm trọng, tỳ-khưu Devadatta biết ăn năn sám hối tội ác của mình trước lúc chết. Tỳ-khưu Devadatta nằm trên giường, bảo nhóm đệ tử khiêng đến ngôi chùa Jetavana để hầu đảnh lễ sám hối Đức-Phật, và kính xin nương nhờ nơi Đức-Phật.

Đến ngôi chùa Jetavana, nhóm đệ tử đặt cái giường xuống nghỉ cạnh cái hồ để tắm rửa tỳ-khưu Devadatta cho sạch sẽ trước khi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật.

Tỳ-khưu Devadatta vừa bước xuống giường, đôi bàn chân vừa chạm mặt đất, ngay khi ấy mặt đất nứt ra làm đôi, rồi hút tỳ-khưu Devadatta vào trong lòng đất. Tỳ-khưu Devadatta liền chắp hai tay đưa lên quá đầu xin sám hối Đức-Thế-Tôn, và kính xin nương nhờ nơi Đức-Thế-Tôn.

Sau khi tỳ-khưu Devadatta chết, ác-nghiệp vô-gián chia rẽ tỳ-khưu-Tăng ấy có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm chúng-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

Đức-Phật thọ ký xác định thời gian rằng:

“Từ kiếp trái đất này rồi trải qua 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, hậu-kiếp của tỳ-khưu Devadatta sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu Đức-Phật Độc-Giác Aṭṭhissara.[2]

Người nào đã phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội rồi, sau đó, người ấy biết ăn năn sám hối tội ác của mình, biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, từ bỏ mọi ác-nghiệp, mà chỉ có thể cố gắng tinh-tấn tạo mọi dục-giới thiện-nghiệp mà thôi, chắc chắn không thể tạo sắc-giới thiện-nghiệp, bởi vì ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ngăn cản cho đến lúc lâm chung.

Sau khi người ấy chết, đáng lẽ ra ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci chịu quả khổ của ác-nghiệp suốt nhiều đại-kiếp trái đất, nhưng nhờ mọi dục-giới thiện-nghiệp ấy làm giảm tiềm năng cho quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy, nên chỉ cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu-địa-ngục, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian ngắn hơn trong cõi đại-địa-ngục Avīci.

* Như trường hợp Đức-vua Ajātasattu đã nghe lời khuyên dụ của tỳ-khưu Devadatta, Đức-vua đã giết Phụ-hoàng Bimbisāra bậc Thánh Nhập-lưu.

Về sau, Đức-vua Ajātasattu phát sinh tâm hoảng sợ, biết ăn năn hối lỗi.

Nhờ vị quan ngự y Jīvaka thỉnh Đức-vua Ajātasattu ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết bài kinh Samaññaphalasutta tế độ Đức-vua Ajātasattu. Sau khi lắng nghe bài kinh ấy xong, Đức-vua Ajātasattu phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ chưa từng có, nên có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo. Đức-vua kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo, rồi kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận Đức-vua Ajātasattu là cận-sự-nam đã quy-y Tam-bảo kể từ đó cho đến trọn đời. Đức-vua Ajātasattu thành tâm xin sám hối với Đức-Thế-Tôn về tội giết Đức Phụ-vương của mình. Đức-Thế-Tôn chứng minh lời sám hối của Đức-vua Ajātasattu.

Khi ấy, nếu Đức-vua Ajātasattu không phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết Đức Phụ-vương thì sau khi nghe Đức-Phật thuyết-pháp, Đức-vua có khả năng trở thành bậc Thánh Nhập-lưu ngay tại nơi ấy. Nhưng vì Đức-vua đã phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết cha, cho nên không thể trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Từ đó về sau, Đức-vua Ajātasattu là người cận-sự-nam có đức-tin trong sạch đặc biệt nơi Tam-bảo, hết lòng lo phụng sự Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo cho đến trọn đời.

Thật vậy, sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn khoảng 3 tháng 4 ngày, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa chủ trì trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, gồm có 500 bậc Thánh A-ra-hán tại động Sattapaṇṇi gần kinh-thành Rājagaha, suốt 7 tháng mới hoàn thành trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

Đức-vua Ajātasattu đã hộ độ 500 bậc Thánh A-ra-hán trong suốt kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất này.

Sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, đáng lẽ ra ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết Đức Phụ-vương cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt nhiều đại-kiếp trái đất, nhưng nhờ có các đại-thiện-nghiệp nhất là đại-thiện-nghiệp quy-y Tam-bảo và hộ độ 500 bậc Thánh A-ra-hán trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất ấy làm giảm tiềm năng cho quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy, nên chỉ cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu-địa-ngục Lohakumbhī (nồi nước đồng sôi), chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong cõi tiểu-địa-ngục nồi đồng sôi suốt 60.000 năm.

Đức-Phật đã truyền dạy và thọ ký rằng:

“Đức-vua Ajātasattu sau khi băng hà, ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết Đức Phụ-vương chỉ có cho quả tái-sinh trong cõi tiểu-địa-ngục Lohakumbhī từ miệng nồi chìm xuống đến đáy nồi suốt 30.000 năm, rồi từ đáy nồi nổi lên đến miệng nồi suốt 30.000 năm, mới mãn quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy.

Do nhờ đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh trở lại làm người, hậu-kiếp của Đức-vua Ajātasattu xuất gia sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Độc-Giác Vijitāvī.[3]

Thật ra, ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội là ác-nghiệp cực kỳ nặng, nếu người nào phạm phải ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội cực kỳ nặng ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt nhiều đại-kiếp trái đất, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy.

Sau khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, nếu có đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người thì người ấy có khả năng tạo mọi thiện-nghiệp tùy theo khả năng của mình, từ dục-giới thiện-nghiệp, sắc-giới thiện-nghiệp, vô-sắc-giới thiện-nghiệp cho đến siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm.

Thật vậy, tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā-moggallāna là người con trai chí hiếu đối với mẹ cha bị mù đôi mắt. Hằng ngày, sáng sớm người con lo cơm nước cho cha mẹ ăn, giặt giũ quần áo, v.v... xong mọi công việc trong nhà, rồi mới đi ra ngoài lo công việc đồng áng.

Chiều về, người con lo tắm rửa cho mẹ cha, … Mẹ cha thấy con vất vả như vậy nên muốn tìm cho con một người vợ để lo giúp đỡ công việc trong nhà, nhưng người con trai một mực từ chối. Mẹ cha cứ khuyên bảo như vậy nhiều lần, nếu không vâng lời mẹ cha thì sợ mẹ cha sẽ buồn, cho nên bất đắc dĩ, người con phải chịu lấy vợ cho mẹ cha hài lòng.

Người vợ lo phục vụ cho mẹ cha chồng được một thời gian ngắn, sau đó, nàng bịa đặt chuyện nói xấu mẹ cha chồng. Người vợ than vãn với người chồng rằng:

- Này anh yêu quý! Em chịu đựng không nổi với mẹ cha của anh. Em không thể sống chung cùng với mẹ cha của anh được nữa, …

Mặc dù người chồng khuyên lơn, năn nỉ vợ, nhưng người vợ vẫn khăng khăng cự tuyệt không chịu sống chung với mẹ cha của mình.

Để chiều theo ý vợ, người con lừa dối mẹ cha rằng:

- Kính thưa mẹ cha, từ lâu rồi, mẹ cha chưa đi thăm người bà con ở xóm nhà bên kia, xin mẹ cha lên ngồi trên chiếc xe bò, con sẽ đưa mẹ cha đến thăm người bà con bên xóm nhà ấy.

Hai ông bà đui mù tin lời của người con lên xe, người con đưa mẹ cha đến khu rừng, rồi thưa với cha mẹ rằng:

- Kính thưa mẹ cha, khoảng khu rừng này thường có nhiều bọn cướp đón đường cướp của giết người, xin mẹ cha ngồi trên xe để con xuống đi thăm dò đường.

Người con xuống xe, một lát sau quay trở lại giả làm tên cướp đến đánh đập mẹ cha già đui mù đến chết, rồi bỏ xác ở trong rừng.

Người con trước kia vốn là người con chí hiếu đối với mẹ cha, nhưng về sau, vì chiều theo ý vợ,nên người con đã phạm phải ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết mẹ, giết cha.[4]

Sau đó người con biết ăn năn về tội ác của mình, vô cùng hối hận khổ tâm rồi lâm bệnh chết. Sau khi người con chết, ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết mẹ có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, còn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết cha trở thành hỗ-trợ-nghiệp cho quả càng nặng thêm, nên chịu quả khổ bị thiêu đốt suốt nhiều đại-kiếp trái đất trong cõi đại-địa-ngục, rồi từ cõi đại-địa-ngục này sang các cõi tiểu-địa-ngục kia cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.

Sau khi mãn quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy, nhờ đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong những kiếp quá-khứ cho quả tái-sinh trở lại làm người, kiếp nào cũng bị đánh đập tan xương nát thịt mà chết.

Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu-kiếp của con trai giả làm tên cướp đến đánh đập mẹ cha già đui mù đến chết, rồi bỏ xác ở trong rừng, trong tiền-kiếp quá-khứ xa xưa ấy. Nay kiếp hiện-tại này chính là Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna, bậc Thánh A-ra-hán Tối-thượng thanh-văn có phép-thần-thông xuất sắc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Nhận xét về tích Tỳ-khưu Devadatta và tích Đức-vua Ajātasattu

Tỳ-khưu Devadatta và Đức-vua Ajātasattu đều đã tạo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, nhưng mỗi người sau khi chết, do nhân nào mà ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi địa-ngục khác nhau như vậy?

* Tỳ-khưu Devadatta

Tỳ-khưu Devadatta đã tạo 2 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội là chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng và làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật. Đó là 2 loại ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội nặng bậc nhất và bậc nhì.

Đến khi bị lâm bệnh nặng gần chết, tỳ-khưu Devadatta mới biết ăn năn hối lỗi, muốn đến ngôi chùa Jetavana để đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin sám hối tội lỗi của mình trước khi chết.

Tỳ-khưu Devadatta đến ngôi chùa Jetavana, nhưng chưa đến hầu Đức-Thế-Tôn thì mặt đất nứt ra làm 2 hút tỳ-khưu Devadatta vào trong lòng đất. Khi ấy, tỳ-khưu Devadatta còn kịp thốt lên một bài kệ:

“Imehi aṭṭhīhi tamaggapuggalaṃ,

Devātidevaṃ naradammasārathiṃ.

Samantacakkhuṃ satapuññalakkhanaṃ,

 Pāṇehi Buddhaṃ saraṇaṃ upemi.”[5]

Phút cuối cùng con hết lòng thành kính,

Xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật,

Là Bậc Vô-Thượng nhất trong nhân-loại,

Bậc Phạm-thiên cao nhất trong Phạm-thiên,

Bậc Vô-Thượng giáo hóa mọi chúng-sinh,

Bậc có tuệ nhãn toàn tri tuyệt vời,

Bậc có đầy đủ hằng trăm phước tướng.

Con thành kính cúng dường bằng sinh-mạng,

Bằng bộ xương gầy còn lại của con.

Thốt xong bài kệ tán dương ân-Đức-Phật với tấm lòng tôn kính sâu sắc và xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật xong, cùng trong lúc ấy, tỳ-khưu Devadatta bị hút sâu vào lòng đất.

Đức-Phật thọ ký được tóm lược như sau:

Do nhờ đại-thiện-tâm trong sạch xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật trong lúc lâm chung ấy, ác-nghiệp vô-gián trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt thời gian lâu 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

Sau khi mãn hạn quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy, trong thời vị-lai, nhờ đại-thiện-nghiệp 20 pháp-hạnh ba-la-mật trong vô số kiếp quá-khứ sẽ cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người, trong thời-kỳ không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian và cũng không có giáo-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Hậu-kiếp của tỳ-khưu Devadatta sẽ xuất gia, rồi sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Độc-Giác Aṭṭhissararồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

* Đức-vua Ajātasattu

Trong 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, Đức-vua Ajāta-sattu đã tạo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết Đức Phụ-vương Bimbisāra là bậc Thánh Nhập-lưu[6], đó là một trong 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội.

Sau đó, Đức-vua Ajātasattu phát sinh khổ tâm, biết ăn năn hối lỗi. Khi ấy, vị quan ngự y Jīvaka thỉnh Đức-vua Ajātasattu ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật. Đức-Phật thuyết giảng bài kinh Sāmaññaphalasutta tế độ Đức-vua Ajātasattu. Sau khi lắng nghe bài kinh ấy, nếu Đức-vua Ajātasattu không phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội thì trở thành bậc Thánh Nhập-lưu ngay tại nơi ấy, nhưng vì Đức-vua Ajātasattu đã phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội nên không thể trở thành bậc Thánh Nhập-lưu được.

Sau khi nghe Đức-Phật thuyết-pháp, Đức-vua Ajāta-sattu phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ chưa từng có, nên có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo, kính xin Đức-Phật công nhận Đức-vua Ajātasattu là người cận-sự-nam đã quy-y Tam-bảo kể từ đó cho đến trọn đời, rồi Đức-vua Ajātasattu thành tâm xin sám hối tội lỗi giết Đức Phụ-vương của mình. Kính xin Đức-Phật chứng minh lời sám hối tội lỗi của Đức-vua.

Từ dó về sau, Đức-vua Ajātasattu là cận-sự-nam có đức-tin trong sạch đặc biệt nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, hết lòng phụng sự Tam-bảo cho đến trọn đời.

Cho nên, sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, đáng lẽ ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, nhưng nhờ các đại-thiện-nghiệp đặc biệt ấy nhất là đại-thiện-nghiệp thọ phép quy-y Tam-bảo và hộ độ 500 vị Thánh A-ra-hán suốt 7 tháng trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, làm giảm bớt tiềm năng cho quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy, nên chỉ cho quả tái-sinh trong cõi tiểu-địa-ngục nồi đồng sôi, phải chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong khoảng thời gian 60.000 năm.

Sau khi mãn quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy, do nhờ đại-thiện-nghiệp 20 pháp-hạnh ba-la-mật đã tích lũy từ vô số kiếp quá-khứ, cho quả tái-sinh làm người trong thời-kỳ không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian.

Hậu-kiếp của Đức-vua Ajātasattu sẽ xuất gia, rồi trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Độc-Giác Vijitāvī [7] rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Như vậy, tỳ-khưu Devadatta Đức-vua Ajātasattu cùng tạo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, nhưng tính chất ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội của mỗi người khác nhau, thời gian biết ăn năn sám hối tội lỗi khác nhau, thời gian tạo đại-thiện-nghiệp khác nhau, cho nên ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi địa-ngục khác nhau, chịu quả khổ của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy với thời gian khác nhau như vậy.

Vấn: Nếu một người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định và đã tạo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội thì ác-nghiệp nào sẽ có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci?

Đáp: Nếu một người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định và đã tạo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, thì chỉ có ác-nghiệp tà-kiến cố-định mới có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci mà thôi. Bởi vì, ác-nghiệp tà-kiến cố-định nặng hơn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội. Còn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội trở thành hỗ-trợ-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của ác-nghiệp tà-kiến cố-định nặng thêm gấp bội phần.

* Nếu người con đã phạm 2 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội là giết mẹ, giết cha thì xét như sau:

- Nếu người mẹ có giới đức, còn người cha không có giới đức, thì chắc chắn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết mẹ sẽ có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci. Còn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết cha trở thành hỗ-trợ-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của ác-nghiệp giết mẹ càng nặng thêm.

- Nếu người cha có giới đức, còn người mẹ không có giới đức, thì chắc chắn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết cha sẽ có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci. Còn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết mẹ trở thành hỗ-trợ-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của ác-nghiệp giết cha càng nặng thêm.

- Nếu cả người mẹ và người cha đều có giới đức, hoặc đều không có giới đức, thì ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết mẹ sẽ có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci. Còn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết cha trở thành hỗ-trợ-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng tội giết mẹ càng nặng thêm.

Vấn: Tại sao ác-nghiệp tà-kiến cố-định tạo ác-nghiệp nặng hơn 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội?

Đáp: Bởi vì người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp, nên không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, nên họ vẫn tiếp tục tạo mọi ác-nghiệp.

Còn người đã tạo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội do năng lực phiền-não. Về sau, họ biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết ăn năn sám hối tội lỗi của mình, bởi vì họ tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, nên họ quyết tâm tránh xa mọi ác-nghiệp và cố gắng tinh-tấn tạo mọi dục-giới thiện-nghiệp cho đến hết tuổi thọ.

Sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci. Đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

Nếu đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm người. Người ấy có thể tạo mọi thiện-nghiệp từ dục-giới thiện-nghiệp, sắc-giới thiện-nghiệp, vô-sắc-giới thiện-nghiệp, cho đến siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm, tùy theo khả năng của người ấy.

II.1.2-Trọng-yếu thiện-nghiệp (Kusala garukakamma) Trọng-yếu thiện-nghiệp có 2 loại:

- Sắc-giới thiện-nghiệp (Rūpāvacarakusalakamma).

- Vô-sắc-giới thiện-nghiệp (Arūpāvacarakusalakamma).

1-Sắc-giới thiện-nghiệp (Rūpāvacarakusalakamma)

Sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm đó là 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm như sau:

Thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 bậc

1- Đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền là hướng-tâm (vitakka), quan-sát (vicāra), hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế-ngự được 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) là tham-dục (kāmacchanda), sân-hận (byāpada), buồn-chán -buồn-ngủ (thīna-middha), phóng-tâm -hối-hận (uddhacca-kukkucca), hoài-nghi (vicikicchā).

2- Đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 chi-thiền là quan-sát (vicāra), hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế-ngự được chi-thiền hướng-tâm (vitakka).

3- Đệ-tam-thiền sắc-giới thiện-tâm 3 chi-thiền hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế-ngự được chi-thiền quan-sát (vicāra).

4- Đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm 2 chi-thiền lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế-ngự được chi-thiền hỷ. 5-Đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm 2 chi-thiền

xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā) do thay thế chi-thiền lạc

(sukha) bằng chi-thiền xả (upekkhā).

Đó là 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm đối với hành-giả thuộc về hạng người mandapuggala có trí-tuệ trung-bình thực-hành pháp-hành thiền-định.

* Đối với hành-giả thuộc về hạng người tikkha-puggala có trí-tuệ sắc bén, nhanh nhẹn thực-hành pháp-hành thiền-định, thì bậc thiền sắc-giới thiện-tâm chỉ có 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm như sau:

* Bậc thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 bậc [8]

1- Đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền là hướng-tâm (vitakka), quan-sát (vicāra), hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế-ngự được 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) là tham-dục (kāmacchanda), sân-hận (byāpada), buồn-chán -buồn-ngủ (thīna-middha), phóng-tâm -hối-hận (uddhacca-kukkucca), hoài-nghi (vicikicchā).

2- Đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm 3 chi-thiền hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế-ngự được 2 chi-thiền là hướng-tâm (vitakka) quan-sát (vicāra) cùng một lúc.

3- Đệ-tam-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là lạc và nhất-tâm do chế-ngự được chi-thiền hỷ.

4- Đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm 2 chi-thiền xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā) do thay thế chi-thiền lạc (sukha) bằng chi-thiền xả (upekkhā).

Đó là 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm đối với hành-giả thuộc về hạng người tikkhapuggala có trí-tuệ sắc bén, nhanh nhẹn. Bởi vì, sau khi chứng đắc đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả là hạng người tikkha-puggala có khả năng biết rõ trạng-thái thô của 2 chi-thiền là hướng-tâm (vitakka) quan-sát (vicāra), nên khi chứng đắc đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm chỉ có 3 chi-thiền hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế-ngự được 2 chi-thiền hướng-tâm (vitakka) quan-sát (vicāra) cùng một lúc, nên đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm chỉ có 3 chi-thiền mà thôi.

Vì vậy, bậc thiền sắc-giới thiện-tâm chỉ có 4 bậc thiền mà thôi.

Quả của 5 sắc-giới thiện-nghiệp

Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm đối với hạng người mandapuggala có trí-tuệ trung bình, cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) 5 bậc thiền sắc-giới quả-tâm tương xứng gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên).

* Nếu hành-giả nào thuộc về hạng người manda-puggala có khả năng đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm từ đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm, có khả năng giữ gìn và duy trì đủ 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ấy cho đến lúc lâm chung.

Sau khi hành-giả ấy chết, thì chỉ có đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 7 tầng trời sắc-giới phạm-thiên tùy theo hạng người và tùy theo năng lực của đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm như sau:

- Nếu hành-giả ấy là hạng phàm-nhân, bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai thì đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm ấy làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới Quảng-quả-thiên (Vehapphala), vị phạm-thiên trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên này có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.

- Nếu hành-giả nào là hạng phàm-nhân, khi đã chứng đắc đến đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm có tâm nhàm chán trong 4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn thức-uẩn), chỉ muốn có sắc-uẩn mà thôi, thì sau khi hành-giả ấy chết, đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) nhóm sắc-pháp gọi là jīvitanavakakalāpa (nhóm sắc-pháp có sắc-mạng-chủ là thứ 9) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên chỉ có nhất-uẩn là sắc-uẩn mà thôi, với một trong ba tư thế: tư thế ngồi hoặc tư thế đứng hoặc tư thế nằm, trên tầng trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên (asaññasattā). Vị phạm-thiên trong tầng trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên này chỉ có thân mà không có tâm, có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.

Còn sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc thấp còn lại là đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ-tam-thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không có cơ hội cho quả của nghiệp được nữa.

- Nếu hành-giả là bậc Thánh Bất-lai nào đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, sau khi bậc Thánh Bất-lai ấy chết, thì chỉ có đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Tịnh-cư-thiên (Suddhāvāsa), có 5 tầng trời tùy theo năng lực của 5 pháp-chủ (indriya) là tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của bậc Thánh Bất-lai ấy từ thấp đến cao như sau:

- Nếu bậc Thánh Bất-lai ấy có tín-pháp-chủ nhiều năng lực thì sau khi chết, đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Vô-phiền-thiên (Avihā), có tuổi thọ 1.000 đại-kiếp trái đất.

- Nếu bậc Thánh Bất-lai có tấn-pháp-chủ nhiều năng lực thì sau khi chết, đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Vô-nhiệt-thiên (Atappā), có tuổi thọ 2.000 đại-kiếp trái đất.

- Nếu bậc Thánh Bất-lai có niệm-pháp-chủ nhiều năng lực thì sau khi chết, đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Thiện-hiện-thiên (Sudassā), có tuổi thọ 4.000 đại-kiếp trái đất.

- Nếu bậc Thánh Bất-lai có định-pháp-chủ nhiều năng lực thì sau khi chết, đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Thiện-kiến-thiên (Sudassī), có tuổi thọ 8.000 đại-kiếp trái đất.

- Nếu bậc Thánh Bất-lai có tuệ-pháp-chủ nhiều năng lực thì sau khi chết, đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Sắc-cứu-cánh-thiên (Akaniṭṭhā), có tuổi thọ 16.000 đại-kiếp trái đất.

Còn sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc thấp còn lại đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp không còn có cơ hội cho quả được nữa.

* Từ đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm, mỗi bậc thiền sắc-giới thiện-tâm có ba bậc là paritta: bậc thấp, majjhima: bậc trung, paṇīta: bậc cao do năng lực của 5 pháp thuần-thục.

Vasībhāva: Pháp thuần-thục có 5 loại:

1- Āvajjana vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần-thục quán-triệt chi-thiền với ý-môn hướng-tâm.

2- Samāpajjana vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần-thục nhập bậc thiền ấy.

3- Adhiṭṭhāna vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần-thục phát nguyện thời gian nhập bậc thiền ấy.

4- Vuṭṭhāna vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần-thục ấn định thời gian xả bậc thiền ấy.

5- Paccavekkhana vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần-thục quán-triệt chi-thiền với tác-hành-tâm.

- Nếu hành-giả không thường thực tập 5 pháp thuần-thục trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào thì bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ấy thuộc bậc thấp.

- Nếu hành-giả thỉnh thoảng thực tập 5 pháp thuần-thục trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào thì bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ấy thuộc bậc trung.

-Nếu hành-giả thường thực tập 5 pháp thuần-thục trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào thì bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ấy thuộc bậc thượng.

* Nếu hành-giả nào có khả năng đã chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm từ đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, thì chỉ có đệ-tứ-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 1 trong 3 tầng trời sắc-giới phạm-thiên, tùy theo năng lực của đệ-tứ-thiền sắc-giới quả-tâm, có 3 bậc như sau:

- Nếu đệ-tứ-thiền sắc-giới quả-tâm bậc thấp làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Thiểu-tịnh-thiên (Parittasubhā), có tuổi thọ 16 đại-kiếp trái đất.

- Nếu đệ-tứ-thiền sắc-giới quả-tâm bậc trung làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Vô-lượng-tịnh-thiên (Appamāṇa-subhā), có tuổi thọ 32 đại-kiếp trái đất.

- Nếu đệ-tứ-thiền sắc-giới quả-tâm bậc thượng làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Biến-tịnh-thiên (Subhakiṇhā), có tuổi thọ 64 đại-kiếp trái đất.

Sắc-giới thiện-nghiệp trong 3 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc thấp còn lại đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không còn có cơ hội cho quả được nữa.

* Nếu hành-giả nào có khả năng đã chứng đắc 3 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm từ đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ-tam-thiền sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, thì chỉ có đệ-nhị-thiền sắc-giới quả-tâm và đệ-tam-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 1 trong 3 tầng trời sắc-giới phạm-thiên, tùy theo năng lực của đệ nhị, đệ-tam-thiền sắc-giới quả-tâm, có 3 bậc:

- Nếu đệ nhị, đệ-tam-thiền sắc-giới quả-tâm bậc thấp làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Thiểu-quang-thiên (Parittabhā), có tuổi thọ 2 đại-kiếp trái đất.

- Nếu đệ nhị, đệ-tam-thiền sắc-giới quả-tâm bậc trung làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Vô-lượng-quang-thiên (Appamāṇābhā), có tuổi thọ 4 đại-kiếp trái đất.

- Nếu đệ nhị, đệ-tam-thiền sắc-giới quả-tâm bậc cao làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Quang-âm-thiên (Ābhassarā), có tuổi thọ 8 đại-kiếp trái đất.

Sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm bậc thấp còn lại trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không còn có cơ hội cho quả được nữa.

* Nếu hành-giả nào có khả năng đã chứng đắc đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, thì đệ-nhất-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 1 trong 3 tầng trời sắc-giới phạm-thiên, tùy theo năng lực của đệ-nhất-thiền sắc-giới quả-tâm, có 3 bậc như sau:

- Nếu đệ-nhất-thiền sắc-giới quả-tâm bậc thấp làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Phạm-chúng-thiên (Brahma-pārisajjā), có tuổi thọ 1/3 a-tăng-kỳ trụ của kiếp trái đất.

- Nếu đệ-nhất-thiền sắc-giới quả-tâm bậc trung làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Phạm-sư-thiên (Brahmapurohitā), có tuổi thọ ½ a-tăng-kỳ trụ của kiếp trái đất.

- Nếu đệ-nhất-thiền sắc-giới quả-tâm bậc cao làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Đại-phạm-thiên (Mahābrahmā), có tuổi thọ 1 a-tăng-kỳ trụ của kiếp trái đất.

2-Vô-sắc-giới thiện-nghiệp

(Arūpāvacarakusalakamma)

Hành-giả sau khi đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định để chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm.

Vô-sắc-giới thiện-nghiệp có 4 loại nghiệp, đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 vô-sắc-giới thiện-tâm đó là 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm. Mỗi bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có mỗi đối-tượng thiền-định riêng biệt khác nhau. 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm như sau:

Thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có 4 bậc:

1- Đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā).

2- Đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là thức-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā).

3- Đệ-tam-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là vô-sở-hữu-xứ-thiền thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā).

4- Đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā).

Đó là 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm đều có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā) giống nhau, mà mỗi bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có mỗi đối-tượng thiền-định riêng biệt khác nhau.

Quả của 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp

Vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả tương xứng có 4 bậc thiền vô-sắc-giới quả-tâm.

* Nếu hành-giả nào có khả năng đã chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm từ đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, thì chỉ có đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới quả-tâm gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả-tâm vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh gọi là Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên. Vị phạm-thiên ấy có tuổi thọ 84.000 đại-kiếp trái đất.

Còn vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 3 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm bậc thấp còn lại là đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm, đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là thức-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm, đệ-tam-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là vô-sở hữu-xứ-thiền thiện-tâm đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả được nữa.

* Nếu hành-giả nào có khả năng đã chứng đắc 3 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm từ đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ-tam-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, thì chỉ có đệ-tam-thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-tam-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là vô-sở-hữu-xứ thiền thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đệ-tam-thiền vô-sắc-giới quả-tâm gọi vô-sở-hữu-xứ-thiền quả-tâm vô-sắc-giới tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên gọi là Vô-sở-hữu-xứ-thiên, vị phạm-thiên ấy có tuổi thọ 60.000 đại-kiếp trái đất.

Còn vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm và đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là thức-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm bậc thấp còn lại đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp, không còn có cơ hội cho quả được nữa.

* Nếu hành-giả nào có khả năng đã chứng đắc 2 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm từ đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm và đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là thức-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, thì chỉ có đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là thức-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi-sandhikāla) đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới quả-tâm gọi là thức-vô-biên-xứ-thiền quả-tâm vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên gọi là Thức-vô-biên-xứ-thiên, vị phạm-thiên ấy có tuổi thọ 40.000 đại-kiếp trái đất.

Còn vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm còn lại trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả được nữa.

* Nếu hành-giả nào có khả năng đã chứng đắc đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, thì đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi-sandhikāla) đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới quả-tâm gọi là không-vô-biên-xứ-thiền quả-tâm vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên gọi là Không-vô-biên-xứ-thiên, vị phạm thiên ấy có tuổi thọ 20.000 đại-kiếp trái đất.

Chư vị phạm-thiên trong 4 cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên chỉ có tâm gồm có 4 danh-uẩn thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn mà thôi, không có thân (không có sắc-uẩn).

Sự khác biệt giữa trọng-yếu ác-nghiệp và trọng-yếu thiện-nghiệp

* Trọng-yếu ác-nghiệp có hai loại là ác-nghiệp tà-kiến cố-định 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội.

Trong hai loại trọng-yếu ác-nghiệp này, nếu người nào đã tạo 1 hay nhiều loại trọng-yếu ác-nghiệp này, sau khi người ấy chết, thì chỉ có trọng-yếu ác-nghiệp cực kỳ nặng nhất có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci mà thôi. Các trọng-yếu ác-nghiệp còn lại đều trở thành hỗ-trợ-nghiệp (upatthambhakakamma), có phận sự hỗ trợ cho trọng-yếu ác-nghiệp đã có cơ hội cho quả rồi càng nặng thêm gấp bội phần.

* Trọng-yếu thiện-nghiệp có hai loại là 5 sắc-giới thiện-nghiệp 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp.

Trong hai loại trọng-yếu thiện-nghiệp này, nếu hành-giả nào có khả năng đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, thì chỉ có trọng-yếu thiện-nghiệp nào cao trong bậc thiền thiện-tâm bậc cao ấy có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) bậc thiền quả-tâm bậc cao ấy gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời phạm-thiên tương xứng với bậc thiền quả-tâm bậc cao của hành-giả ấy.

Còn bậc thiền thiện-nghiệp trong các bậc thiền bậc thấp còn lại đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả được nữa.

Đó là sự khác biệt giữa trọng-yếu ác-nghiệp với trọng-yếu thiện-nghiệp.

Trong 4 loại nghiệp theo tuần tự cho quả nhất định, nếu không có loại trọng-yếu-nghiệp (garukakamma) thì loại cận-tử-nghiệp (āsannakamma) phát sinh trong lúc lâm chung có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả của nghiệp trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

II.2-Āsannakamma: Cận-tử-nghiệp

Thế nào gọi là cận-tử-nghiệp?

Nghiệp nào phát sinh lúc gần lâm chung, nghiệp ấy gọi là cận-tử-nghiệp (āsannakamma), đó là 12 bất-thiện-nghiệp (12 ác-nghiệp) trong 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) và 8 dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) trong 8 dục-giới thiện-tâm (8 đại-thiện-tâm).

Cận-tử-nghiệp có 2 loại:

II.2.1-Bất-thiện cận-tử-nghiệp (akusala āsannakamma) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm).

II.2.2-Đại-thiện cận-tử-nghiệp (kusala āsannakamma) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới thiện-tâm (8 đại-thiện-tâm).

Cận-tử-nghiệp phát sinh lúc gần lâm chung có hai trường-hợp:

1- Trường-hợp thứ nhất: Đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm hoặc ác-nghiệp trong 12 ác-tâm được nhớ lại trong lúc gần lâm chung.

Āsanne anussaritaṃ āsannaṃ: Đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm nào hoặc ác-nghiệp trong ác-tâm nào mà người bệnh nhớ lại trong lúc gần lâm chung.

Sau đó không lâu người ấy chết, đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm ấy hoặc ác-nghiệp trong ác-tâm ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi-sandhikāla), tùy theo quả của nghiệp ấy.

* Nhớ đến đại-thiện-nghiệp lúc gần lâm chung

Một người đã từng tạo đại-thiện-nghiệp nào trong kiếp hiện-tại đã từ lâu không còn nhớ, đến lúc lâm chung, tự mình hồi tưởng nhớ đến phước-thiện ấy, hoặc có người thân bên cạnh nhắc nhở để nhớ đến phước-thiện ấy. Phước-thiện ấy gọi là đại-thiện-nghiệp được nhớ lại lúc lâm chung.

Sau đó người bệnh ấy chết, chính đại-thiện-nghiệp ấy trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm ấy gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới (cõi người hoặc cõi trời dục-giới) hưởng mọi quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy trong cõi thiện-dục-giới ấy cho đến hết tuổi thọ.

Ví dụ: Ông A đã từng cùng chung với các thí-chủ khác tạo phước-thiện lễ dâng y kathina đến chư tỳ-khưu-Tăng tại một ngôi chùa. Thời gian đã trải qua nhiều năm, ông A không còn nhớ phước-thiện lễ dâng y kathina ấy.

Nghe tin ông A đang lâm bệnh nặng trầm trọng, ông B vốn là người bạn thân thiết đến thăm ông A, cũng là người đã cùng chung với ông A tạo phước-thiện lễ dâng y kathina năm xưa. Nhân dịp này, ông B nhắc lại cho ông A nhớ lại phước-thiện lễ dâng y kathina đến chư tỳ-khưu-Tăng năm xưa tại ngôi chùa ấy.

Lắng nghe ông B nhắc đến phước-thiện ấy, ông A liền phát sinh đại-thiện-tâm hồi tưởng nhớ lại phước-thiện của buổi lễ dâng y kathina ấy, nên phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ trong phước-thiện ấy.

Sau đó không lâu ông A từ trần. Sau khi ông A chết, chính đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm mà ông A nhớ lại lúc lâm chung ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trong cõi trời dục-giới, hưởng mọi quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.

Đó là trường-hợp người bệnh nhớ lại đại-thiện-nghiệp lúc lâm chung.

* Nhớ đến ác-nghiệp lúc gần lâm chung

Tích Erakapattanāgarājāvatthu [9]

Tích Erakapattanāgarājāvatthu được tóm lược như sau:

Vị tỳ-khưu trẻ trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, một hôm đi thuyền trên dòng sông Gangā, nước chảy xiết, vị tỳ-khưu trẻ nắm lấy lá cỏ bên bờ sông làm đứt lá cỏ (nếu phạm điều-giới thì phạm điều-giới nhẹ).

Sau đó, vị tỳ-khưu ấy không có cơ hội gặp một vị tỳ-khưu khác để sám hối āpatti.

Về sau, vị tỳ-khưu ấy không còn nhớ đến việc làm đứt lá cỏ ấy nữa.

Suốt cuộc đời xuất gia hành phạm-hạnh của vị tỳ-khưu ấy, thời gian trải qua rất nhiều năm, trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa.

Đến lúc lâm chung, hiện tượng hình ảnh lá cỏ bị đứt năm xưa hiện ra trong tâm, vị tỳ-khưu nhớ lại trong thời-kỳ quá khứ xa xưa ấy đã từng làm đứt lá cỏ bên bờ sông mà chưa có cơ hội sám hối āpatti.

Ngay lúc ấy, vị tỳ-khưu ấy muốn sám hối āpatti ấy, nhưng không có vị tỳ-khưu nào tại đó. Cho nên vị tỳ-khưu ăn năn hối hận về lỗi của mình, tự nghĩ mình là người có giới không trong sạch.

Vì vậy, sau khi vị tỳ-khưu tịch, ác-nghiệp ấy trong ác-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp, gọi là tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị Long-vương có tên là Erakapattanāga-rājā: (Long-vương Erakapatta (lá cỏ), từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, vẫn chưa thoát khỏi kiếp Long vương.

Đó là trường-hợp vị tỳ-khưu bệnh nhớ lại ác-nghiệp của mình lúc lâm chung.

2- Trường hợp thứ nhì: Đại-thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp được tạo trong lúc lâm chung.

Āsanne kataṃ āsannaṃ: Đại-thiện-nghiệp nào hoặc ác-nghiệp nào mà người bệnh tạo trong lúc lâm chung, đại-thiện-nghiệp ấy hoặc ác-nghiệp ấy có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), tùy theo quả của nghiệp ấy.

* Đại-thiện-nghiệp được tạo trong lúc lâm chung

Ví dụ: Tích sư phụ của Ngài Trưởng-lão Soṇa [10]

Ngài Trưởng-lão Soṇa ở tại ngôi chùa Acelavihāra dưới chân núi Soṇagiri. Thân phụ của Ngài Trưởng-lão hành nghề săn bắn thú rừng để nuôi mạng. Ngài Trưởng-lão đã khuyên thân phụ từ bỏ nghề săn bắn thú rừng rồi hành nghề lương thiện khác nuôi mạng, nhưng thân phụ của Ngài Trưởng-lão đã quen với nghề này vả lại không biết nghề khác, cho nên ông vẫn tiếp tục hành nghề ấy nuôi mạng.

Đến lúc tuổi già sức yếu, thân phụ của Ngài Trưởng-lão Soṇa không thể hành nghề săn bắn thú rừng được nữa. Ngài Trưởng-lão Soṇa khuyên thân phụ xuất gia trở thành tỳ-khưu.

Sau khi trở thành tỳ-khưu, sư phụ của Ngài Trưởng-lão vì tuổi già sức yếu, khi thực-hành pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ tâm vẫn chưa được ổn định.

Khi bị lâm bệnh nặng trầm trọng, trước lúc lâm chung, sư phụ của Ngài Trưởng-lão thấy những hiện tượng ác-nghiệp sát-sinh trong thời quá khứ hiện ra trong tâm, làm cho sư phụ của Ngài Trưởng-lão kinh hoàng kêu la, nhờ Ngài Trưởng-lão Soṇa xua đuổi.

Ngài Trưởng-lão Soṇa nghĩ rằng: “Nếu sư phụ tịch (chết) trong lúc này, chắc chắn ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì khó tránh khỏi tái-sinh trong cõi địa-ngục, ta phải tìm cách hóa giải đối-tượng xấu của ác-nghiệp ấy.”

Ngài Trưởng-lão Soṇa bảo vị sa-di đem lại cho Ngài một ít cành hoa và nhờ người khiêng sư phụ nằm trên chiếc gường đem lên đặt trên nền ngôi Bảo-tháp, rồi Ngài Trưởng-lão trao những cành hoa để cho sư phụ cúng dường đến ngôi Bảo Tháp và hướng dẫn sư phụ đem hết lòng thành kính bạch rằng:

-“Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đây là những cành hoa, lễ vật mọn của con, con đem hết lòng thành kính dâng cúng dường lên ngôi Bảo Tháp thờ Đức-Thế-Tôn.”

Sư phụ đã làm theo sự hướng dẫn của Ngài Trưởng-lão. Thật phi thường! Ngay khi ấy, đối-tượng xấu của ác-nghiệp kia biến mất, thay bằng đối-tượng những cảnh đẹp ở trên cõi trời, lâu đài nguy nga, những thiên-nữ hiện ra hầu hạ.

Sư phụ của Ngài Trưởng-lão phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ thốt lên rằng:

“Các cô thiên-nữ đã đến rồi!”

Nghe vậy, Ngài Trưởng-lão Soṇa nghĩ rằng: “Cõi trời dục-giới đã hiện ra với sư phụ rồi.”

Sau khi sư phụ của Ngài Trưởng-lão tịch, nhờ đại-thiện-nghiệp cúng dường ấy trong đại-thiện-tâm phát sinh trong lúc lâm chung có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới, hưởng mọi quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.

Đó là trường hợp bệnh nhân tạo đại-thiện-nghiệp

trong lúc lâm chung.

* Ác-nghiệp được tạo lúc lâm chung

Ví dụ: Ông A để tâm hận thù ông B từ lâu. Một hôm, ông A gặp ông B, hai người cãi lộn, gây gỗ lẫn nhau. Ông A tức giận đánh ông B, ông B lấy dao đâm ông A bị thương nặng rồi chết.

Sau khi ông A chết, ác-nghiệp hận thù trong sân-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả ác-nghiệp trong sân-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭi-sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ cho đến lúc mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.

Đó là trường hợp ác-nghiệp hận thù được tạo trong lúc lâm chung.

Hoặc những người đang uống rượu, bia và các chất say, hoặc đang say mê với tham-tâm trong sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc thỏa thích, …

Ngay khi ấy bị xảy ra tai nạn rồi chết đột ngột. Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy trong ác-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong tham-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ cho đến lúc mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.

Đó là trường hợp ác-nghiệp tham muốn được tạo trong lúc lâm chung.

Trong 4 loại nghiệp theo tuần tự cho quả nhất định, nếu không có loại trọng-yếu-nghiệp (garukakamma) và cũng không có loại cận-tử-nghiệp (āsannakamma) thì loại thường-hành-nghiệp (āciṇṇakamma) có quyền ưu tiên, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

II.3-Āciṇṇakamma: Thường-hành-nghiệp

Thế nào gọi là thường-hành-nghiệp?

Ācīyati punappunaṃ karīyatīti āciṇṇaṃ: Nghiệp nào mà người thường hành hằng ngày, đêm, trở thành thói quen, thường được tích lũy hằng ngày, đêm; nghiệp ấy gọi là thường-hành-nghiệp, đó là 12 bất-thiện-nghiệp (12 ác-nghiệp) 8 dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp).

* Thường-hành-nghiệp có 2 loại:

II.3.1-Thường-hành ác-nghiệp (Akusala āciṇṇa-kamma) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 ác-tâm.

II.3.2-Thường-hành đại-thiện-nghiệp (Kusala āciṇṇakamma) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới thiện-tâm (8 đại-thiện-tâm).

II.3.1-Thường-hành ác-nghiệp

Người thường tạo ác-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý hằng ngày để nuôi mạng hoặc không phải để nuôi mạng, ác-nghiệp ấy gọi là thường-hành ác-nghiệp.

Ví dụ: Người dân chài làm nghề đánh cá, người làm nghề giết gà, giết vịt, giết heo, giết bò, … để bán thịt, người buôn bán rượu, bia và các chất say, người buôn bán các loại thuốc sát hại sinh vật, v.v… đều là những người hằng ngày thường tạo ác-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý. Đó là thường-hành ác-nghiệp.

* Hay một trường hợp đặc biệt khác: Người nào đã tạo ác-nghiệp nào đó, tuy chỉ có một lần, nhưng ác-nghiệp cứ ám ảnh trong tâm của người ấy, làm cho tâm của người ấy luôn luôn hối hận, nóng nảy, khổ tâm.

Đó cũng là thường-hành ác-nghiệp.

Nếu người nào không có trọng-yếu ác-nghiệp trọng-tội, cũng không có cận-tử ác-nghiệp lúc lâm chung, sau khi người ấy chết, thì chắc chắn thường-hành ác-nghiệp có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy.

II.3.2-Thường-hành đại-thiện-nghiệp

* Người cận-sự-nam, người cận-sự-nữ là những người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, nên thường hay tạo phước-thiện bố-thí cúng dường các thứ vật dụng cần thiết đến chư tỳ-khưu-Tăng, chư sa-di, những người nghèo khổ khác, giữ gìn ngũ-giới, bát-giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, v.v…

Hằng ngày, họ tụng kinh paritta Pāḷi, thường thực-hành pháp-hành thiền-định mà chưa chứng đắc được bậc thiền nào, thường thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, mà chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, nên tâm vẫn còn thuộc về đại-thiện-nghiệp, và hoan hỷ tạo mọi thiện-nghiệp khác. Đó là thường-hành đại-thiện-nghiệp.

* Vị sa-di giữ gìn giới của sa-di trong sạch và trọn vẹn, thực-hành đầy đủ 14 pháp-hành của sa-di, thường thực-hành pháp-hành thiền-định mà chưa chứng đắc bậc thiền nào, thường thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, mà chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, nên tâm vẫn còn thuộc về đại-thiện-nghiệp. Đó là thường-hành đại-thiện-nghiệp.

* Vị tỳ-khưu giữ gìn giới của tỳ-khưu trong sạch và trọn vẹn, thực-hành 14 pháp-hành của tỳ-khưu, thường thực-hành pháp-hành thiền-định mà chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, nên tâm vẫn còn thuộc về đại-thiện-nghiệp. Đó là thường-hành đại-thiện-nghiệp.

* Hay một trường hợp đặc biệt khác: Người nào đã tạo phước-thiện nào đó thuộc về đại-thiện-nghiệp, dù chỉ có một lần, đặc biệt vẫn thường niệm tưởng đến phước-thiện ấy. Mỗi khi niệm tưởng đến phước-thiện ấy thì đại-thiện-tâm phát sinh vô cùng hoan hỷ trong phước-thiện ấy. Đó cũng là thường-hành đại-thiện-nghiệp.

Nếu một người không có trọng-yếu thiện-nghiệp và không có cận-tử đại-thiện-nghiệp lúc lâm chung, sau khi người ấy chết, thì chắc chắn thường-hành đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới (cõi người hoặc cõi trời dục-giới), hưởng được quả an-lạc cho đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy mới rời khỏi cõi thiện-dục-giới ấy.

Nhận xét về cận-tử-nghiệp và thường-hành-nghiệp

Nếu xét về năng lực của nghiệp thì cận-tử-nghiệp không thể có nhiều năng lực hơn thường-hành-nghiệp, bởi vì cận-tử-nghiệp được phát sinh trong khoảng thời gian ngắn ngủi lúc lâm chung, còn thường-hành-nghiệp đã được tích lũy, được lưu trữ trong tâm suốt khoảng thời gian lâu dài trong kiếp hiện-tại.

Vì vậy, thường-hành-nghiệp có nhiều năng lực hơn cận-tử-nghiệp.

Tuy cận-tử-nghiệp có ít năng lực hơn thường-hành-nghiệp, nhưng cận-tử-nghiệp này phát sinh lúc lâm chung có khả năng làm phát sinh 1 trong 3 đối-tượng hiện-tượng nghiệp (kamma) hoặc hiện-tượng của nghiệp (kammanimitta) hoặc hiện-tượng cõi-giới tái-sinh (gatinimitta) làm đối tượng trong cận-tử lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthicitta), nên cận-tử-nghiệp này có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

Ví dụ: Trong chuồng bò, nếu có con bò yếu đứng gần cổng chuồng, khi người chăn bò mở cổng chuồng thì con bò yếu đi ra cổng trước các con bò lực lưỡng khác.

Cũng như vậy, cận-tử-nghiệp tuy có ít năng lực hơn thường-hành-nghiệp nhưng cận-tử-nghiệp được phát sinh trong lúc gần lâm chung. Cho nên, sau khi chết, cận-tử-nghiệp có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

Vì vậy, trong bộ Abhidhammasaṅgaha: Vi-Diệu-Pháp Yếu-Nghĩa, giải về nghiệp theo tuần tự cho quả, Ngài Đại-Trưởng-lão Anuruddha sắp đặt cận-tử-nghiệp trước, thường-hành-nghiệp sau.

Trong bốn loại nghiệp theo tuần tự cho quả nhất định, nếu chúng-sinh nào không có loại trọng-yếu-nghiệp (garukakamma), cũng không có loại cận-tử-nghiệp (āsannakamma) và cũng không có loại thường-hành-nghiệp (āciṇṇakamma), thì sau khi chúng-sinh ấy chết bình-thường-nghiệp (kaṭattākamma) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

II.4-Kaṭattākamma: Bình-thường-nghiệp

Thế nào gọi là bình-thường-nghiệp ?

Kaṭattā eva kammanti kaṭattākammaṃ: Nghiệp nào mà người chỉ tạo một cách bình thường mà thôi, không quan tâm, không chú ý nhiều trong việc ấy, nghiệp ấy không thuộc về 3 loại nghiệp trên gọi là bình-thường-nghiệp (kaṭattākamma), đó là 12 bất-thiện-nghiệp (12 ác-nghiệp) 8 đại-thiện-nghiệp.

Bình-thường-nghiệp gồm tất cả mọi ác-nghiệp, mọi đại-thiện-nghiệp nào mà người đã tạo nghiệp ấy có ít năng lực nên không thuộc về loại trọng-yếu-nghiệp, cũng không phải là nghiệp phát sinh lúc lâm chung nên không thuộc về cận-tử-nghiệp, cũng không phải là nghiệp thường hành hằng ngày nên không thuộc về loại thường-hành-nghiệp.

Trong kiếp hiện-tại, bình-thường-nghiệp này không thuộc về ba loại nghiệp trên, nên sau khi chúng-sinh chết, nếu trường hợp không có ba loại nghiệp trên thì bình-thường-nghiệp này mới có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

Trong những kiếp quá-khứ, bình-thường-nghiệp này là tất cả mọi ác-nghiệp, mọi đại-thiện-nghiệp đã từng được lưu trữ ở trong tâm của mỗi chúng-sinh trải qua vô số kiếp quá-khứ. Cho nên, tất cả mọi chúng-sinh trong mọi cõi-giới đều có bình-thường-nghiệp này.

Bình-thường-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong những trường hợp như sau:

* Những thai-nhi bị chết trong bụng mẹ, những đứa trẻ sơ sinh vừa mới sinh ra đời rồi bị chết, những đứa bé còn nhỏ dại chưa biết gì rồi bị chết, v.v… những trường hợp như vậy, những thai-nhi, những trẻ sơ sinh, những đứa bé còn nhỏ dại, v.v… trong kiếp hiện-tại, chúng nó chưa tạo ác-nghiệp nào, cũng chưa tạo đại-thiện-nghiệp nào cả. Cho nên, sau khi những thai-nhi, những trẻ sơ sinh, những đứa bé còn nhỏ dại ấy chết, bình-thường-nghiệp đó là ác-nghiệp nào hoặc đại-thiện-nghiệp nào của mỗi đứa trẻ được tích lũy ở trong tâm từ vô số kiếp quá-khứ mới có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) quả-tâm ấy gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau thuộc về loài chúng-sinh nào, trong cõi-giới nào, hoàn toàn tùy thuộc vào quả của bình-thường-nghiệp ấy.

Hoặc vị Phạm-thiên ở tầng trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên, khi hết tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất, rồi phải tái-sinh kiếp sau với kusala kaṭattākamma: bình-thường-đại-thiện-nghiệp mà vị phạm-thiên ấy đã được lưu trữ ở trong tâm trong tiền-kiếp quá-khứ, kể từ tiền-kiếp thứ ba trở về trước của vị phạm-thiên ấy, bởi vì vị phạm-thiên ở cõi trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên thuộc về loại chúng-sinh chỉ có nhất-uẩn sắc-uẩn mà thôi (không có 4 danh-uẩn), nghĩa là vị phạm-thiên ấy chỉ có thân mà không có tâm.

Như vậy, kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ở tầng trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên này không có tâm, nên hoàn toàn không tạo thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp nào cả, chỉ hưởng quả của đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp suốt thời gian 500 đại-kiếp trái đất mà thôi.

tiền-kiếp thứ nhì của vị phạm-thiên ấy là hành-giả có đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả là đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau trên tầng trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên xong rồi, còn các bậc thiền sắc-giới thiện-nghiệp bậc thấp đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp không còn có khả năng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau được nữa.

Vì vậy, khi vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất tại cõi trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên rồi, chỉ có bình-thường đại-thiện-nghiệp mà vị phạm-thiên ấy đã được lưu trữ từ tiền-kiếp thứ 3 trở về trước có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới (cõi người, cõi trời dục-giới).

Tính chất 4 loại nghiệp cho quả theo tuần tự

Nghiệp cho quả theo tuần tự có 4 loại:

1- Trọng-yếu-nghiệp (Garukakamma).

2- Cận-tử-nghiệp (Āsannakamma).

3- Thường-hành-nghiệp (Āciṇṇakamma).

4- Bình-thường-nghiệp (Kaṭattākamma).

Mỗi loại nghiệp có 2 loại: ác-nghiệp và đại-thiện-nghiệp

* 4 loại ác-nghiệp cho quả theo tuần tự

1- Trọng-yếu ác-nghiệp có 2 loại:

-Ác-nghiệp tà-kiến cố-định.

-Ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội.

2- Cận-tử ác-nghiệp.

3- Thường-hành ác-nghiệp.

4- Bình-thường ác-nghiệp.

Trong 4 loại ác-nghiệp này, chỉ có ác-nghiệp tà-kiến cố-định là ác-nghiệp cực kỳ nặng nhất mà thôi, các ác-nghiệp còn lại từ nặng xuống nhẹ giảm dần theo tuần tự.

- Nếu người nào có đủ 4 ác-nghiệp này, sau khi người ấy chết thì chỉ có ác-nghiệp tà-kiến cố-định có quyền ưu tiên hàng đầu, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong cõi đại-địa-ngục Avīci mà thôi. Các ác-nghiệp còn lại trở thành hỗ-trợ ác-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của ác-nghiệp tà-kiến cố-định càng thêm nặng gấp bội phần, khó thoát ra khỏi cõi địa-ngục, bởi vì chúng-sinh ấy không tin nghiệp và quả của nghiệp.

- Nếu người nào không có ác-nghiệp tà-kiến cố-định mà có ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, sau khi người ấy chết thì chỉ có ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong cõi đại-địa-ngục Avīci mà thôi. Các ác-nghiệp còn lại trở thành hỗ-trợ ác-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội càng nặng thêm lên, chịu quả khổ từ cõi đại-địa-ngục này sang các cõi tiểu-địa-ngục kia, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới mong thoát ra khỏi cõi địa-ngục được.

- Nếu người nào không có 2 loại trọng yếu ác-nghiệp mà có cận-tử ác-nghiệp đặc biệt phát sinh trong lúc lâm chung, thì sau khi người ấy chết, cận-tử ác-nghiệp có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), tùy theo năng lực quả của ác-nghiệp ấy. Các ác-nghiệp còn lại trở thành hỗ-trợ ác-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của cận-tử ác-nghiệp càng nặng thêm lên, rồi chịu khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát khỏi cõi ác-giới ấy.

- Nếu người nào không có 2 loại trọng yếu ác-nghiệp và không có cận-tử ác-nghiệp mà có thường-hành ác-nghiệp, sau khi người ấy chết thì thường-hành ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), tùy theo năng lực quả của ác-nghiệp ấy, các ác-nghiệp còn lại trở thành hỗ-trợ ác-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của thường-hành ác-nghiệp ấy càng nặng thêm, rồi chịu khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.

- Nếu người nào không có 2 loại trọng-yếu ác-nghiệp cũng không có cận-tử ác-nghiệp thường-hành ác-nghiệp, sau khi người ấy chết thì chắc chắn có bình-thường ác-nghiệp có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), tùy theo năng lực quả của ác-nghiệp ấy, rồi chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát khỏi cõi ác-giới ấy.

* 4 loại thiện-nghiệp cho quả theo tuần tự

1- Trọng-yếu thiện-nghiệp có 2 loại:

-Vô-sắc-giới thiện-nghiệp.

-Sắc-giới thiện-nghiệp.

2- 2-Cận-tử thiện-nghiệp.

3- Thường-hành thiện-nghiệp.

4- Bình-thường thiện-nghiệp.

- Nếu hành-giả nào thuộc hạng phàm-nhân có khả năng đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết thì chỉ có đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp cao nhất gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-nghiệp cao nhất trong phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm cao nhất có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả-tâm cao nhất gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh gọi là Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên, vị phạm-thiên ấy có tuổi thọ lâu nhất là 84.000 đại-kiếp trái đất.

Còn 5 bậc thiền sắc-giới thiện-nghiệp và 3 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp bậc thấp đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp, không còn có cơ hội cho quả được nữa.

- Nếu hành-giả nào thuộc hạng phàm-nhân có khả năng đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết thì chỉ có đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp cao nhất trong đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm cao nhất có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp (paṭisandhikāla) đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm cao nhất gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Quảng-quả-thiên (Vehapphala), có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.

Còn bốn bậc thiền sắc-giới thiện-nghiệp bậc thấp còn lại đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả được nữa.

- Nếu người nào không có bậc thiền nào, mà chỉ có cận-tử đại-thiện-nghiệp phát sinh lúc lâm chung, sau khi người ấy chết thì chính cận-tử đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm phát sinh trong lúc lâm chung có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi-sandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭi-sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới, tùy theo năng lực của đại-quả-tâm ấy, hưởng quả an-lạc cho đến mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy.

- Nếu người nào không có cận-tử đại-thiện-nghiệp, mà chỉ có thường-hành đại-thiện-nghiệp, sau khi người ấy chết thì chính thường-hành đại-thiện-nghiệp ấy trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới, hưởng quả an-lạc cho đến mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy.

- Nếu người nào không có thường-hành thiện-nghiệp, nhưng chắc chắn có bình-thường đại-thiện-nghiệp, sau khi người ấy chết thì chính bình-thường đại-thiện-nghiệp ấy trong đại-thiện-tâm mới có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới, hưởng quả an-lạc cho đến mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy.

Nghiệp theo tuần tự cho quả theo bộ Visuddhimagga và bộ Chú-giải Aṅguttaranikāya

Trong bộ Visuddhimagga (Thanh-Tịnh-Đạo) và bộ Chú-giải Aṅguttaranikāya Aṭṭhakathā (Chú-giải Chi-bộ-kinh) trình bày sắp đặt về bốn nghiệp theo tuần tự cho quả như sau:

1- Trọng-yếu-nghiệp (garukakamma).

2- Nghiệp được tạo nhiều lần (bahulakamma).

3- Cận-tử-nghiệp (āsannakamma).

4-Bình-thường-nghiệp (kaṭattākamma).

Trong bộ Thanh-Tịnh-Đạo và bộ Chú-giải Chi-bộ-kinh giải thích rằng:

Tuy cận-tử-nghiệp là nghiệp phát sinh lúc lâm chung, nhưng không phải lúc nào cũng có khả năng, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau được.

Ví dụ: Trường hợp cận-tử-nghiệp có năng lực quá yếu, không có khả năng làm cho phát sinh 1 trong 3 đối-tượng kamma: nghiệp, hoặc kammanimitta: hiện-tượng của nghiệp, hoặc gatinimitta: hiện-tượng cõi-giới tái-sinh làm đối-tượng trong cận-tử lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthicitta), thì cận-tử-nghiệp ấy không có khả năng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau được. Khi ấy nghiệp được tạo nhiều lần (thường-hành-nghiệp) có nhiều năng lực, có khả năng làm cho phát sinh 1 trong 3 đối-tượng là kamma: nghiệp, hoặc kamma-nimitta: hiện-tượng của nghiệp, hoặc gatinimitta: hiện-tượng cõi-giới tái-sinh làm đối-tượng trong cận-tử lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthicitta), nên sau khi chết, nghiệp được tạo nhiều lần (thường-hành-nghiệp) ấy cócơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới nào tùy theo năng lực quả của nghiệp ấy.

Vì vậy, bộ Chú-giải Thanh-Tịnh-Đạo và Chi-bộ-kinh sắp đặt nghiệp được tạo nhiều lần (bahulakamma) tương đương với thường-hành-nghiệp (āciṇṇakamma) trước cận-tử-nghiệp theo tuần tự cho quả của nghiệp.

(Xong phần 4 loại nghiệp cho ủa theo tuần tự)

III- Pākakālacatukka: Phần nghiệp phân chia theo nghiệp cho quả theo thời gian, có 4 loại nghiệp.

3.1-Diṭṭhadhammavedanīyakamma: Hiện-kiếp quả-nghiệp là nghiệp cho quả trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất).

3.2-Upapajjavedanīyakamma: Hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì).

3.3-Aparāpariyavedanīyakamma: Kiếp-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp có cơ hội cho quả từ kiếp này đến kiếp kia kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

3.4-Ahosikamma: Vô-hiệu-quả-nghiệp là nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nghiệp được nữa.

Mỗi loại nghiệp có 2 loại là bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) và đại-thiện-nghiệp.

Đức-Phật dạy:

“Cetanā’haṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi, cetayitvā kammaṃ karoti kāyena vācāya manasā.” [11]

-Này chư tỳ-khưu! Sau khi đã có tác-ý rồi mới tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý. Vì vậy, Như-Lai dạy “tác-ý gọi là nghiệp.”

Muốn tạo nghiệp nào, người ta có tác-ý phát sinh trước rồi mới tạo nghiệp ấy bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.

- Tác-ý phát sinh rồi tạo nghiệp bằng thân gọi là thân-nghiệp (kāyakamma).

- Tác-ý phát sinh rồi tạo nghiệp bằng khẩu gọi là

khẩu-nghiệp (vacīkamma).

- Tác-ý phát sinh rồi tạo nghiệp bằng ý gọi là ý-nghiệp (manokamma).

Do đó, nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi 3 môn: thân-môn, khẩu-môn, ý-môn.

Tác-ý (cetanā) đó là tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) là 1 trong 52 tâm-sở đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.

* Tác-ý tâm-sở nào gọi là nghiệp?

Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm [12] (12 ác-tâm) và 21 hoặc 37 thiện-tâm, tác-ý tâm-sở ấy gọi là nghiệp như sau:

-Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) gọi là bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) do nương nhờ 3 môn: thân-môn, khẩu-môn, ý-môn.

- Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm gọi là đại-thiện-nghiệp do nương nhờ nơi 3 môn: thân-môn, khẩu-môn, ý-môn.

- Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm gọi là sắc-giới thiện-nghiệp do nương nhờ nơi ý-môn.

- Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 4 vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là vô-sắc-giới thiện-nghiệp do nương nhờ nơi ý-môn.

- Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm gọi là 4 hoặc 20 siêu-tam-giới thiện-nghiệp do nương nhờ nơi ý-môn.

* Tác-ý tâm-sở nào không gọi là nghiệp?

- Nếu tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 36 hoặc 52 quả-tâm [13] 20 duy-tác-tâm [14] thì tác-ý tâm-sở ấy không gọi là nghiệp.

Thật ra, tác-ý tâm-sở gọi là ác-nghiệp hoặc thiện-nghiệp khi tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 ác-tâm, 21 hoặc 37 thiện-tâm làm phận sự tác-hành-tâm (javana-kicca) trong 6 lộ-trình-tâm (vīthicitta).

Lộ-trình-tâm (vīthicitta) có 6 loại:

1-Nhãn-môn lộ-trình-tâm (Cakkhudvāravīthi).

2-Nhĩ-môn lộ-trình-tâm (Sotadvāravīthi).

3-Tỷ-môn lộ-trình-tâm (Ghānadvāravīthi).

4-Thiệt-môn lộ-trình-tâm (Jivhādvāravīthi).

5-Thân-môn lộ-trình-tâm (Kāyadvāravīthi).

6-Ý-môn lộ-trình-tâm (Manodvāravīthi).

Nếu mỗi loại lộ-trình-tâm gồm có các loại tâm sinh rồi diệt liên tục và đầy đủ thì chắc chắn có đủ 7 sát-na-tâm của tác-hành-tâm (javanacitta).

7 sát-na-tâm của tác-hành-tâm (javanacitta) liên quan trực tiếp đến 4 loại nghiệp có cơ hội cho quả theo thời gian trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất), trong kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì) từ kiếp này đến kiếp kia kể từ kiếp thứ 3 cho đến chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

Dục-giới tác-hành-tâm (kāmajavanacitta) chỉ có 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) 8 đại-thiện-tâm mà thôi. (Không có 1 tâm mỉm cười của bậc Thánh A-ra-hán và 8 đại-duy-tác-tâm của bậc Thánh A-ra-hán).

Mỗi dục-giới lộ-trình-tâm dục-giới tác-hành-tâm đầy đủ 7 sát-na tâm cùng một loại tâm sinh rồi diệt liên tục trong mỗi dục-giới lộ-trình-tâm ấy, gồm có 3 loại nghiệp cho quả theo thời gian trong kiếp hiện-tại, trong kiếp kế-tiếp và trong những kiếp sau sau nữa, ...

Ví dụ: Đồ biểu dục-giới lộ-trình-tâm có 7 sát-na-tâm của dục-giới tác-hành-tâm.

Dục-giới lộ-trình-tâm có 7 sát-na-tâm của dục-giới tác-hành-tâm (Kāmajavanacitta)

7 sát-na dục-giới tác-hành-tâm (Kāmajavanacitta)

Mỗi dục-giới lộ-trình-tâm nếu có 7 sát-na-tâm của dục-giới tác-hành-tâm (kāmajavanacitta) thì gồm có 3 loại nghiệp cho quả theo thời gian được phân định như sau:

1- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với tác-hành-tâm thứ nhất gọi là diṭṭhadhammavedanīyakamma: hiện-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất).

2- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với tác-hành-tâm thứ 7 gọi là upapajjavedanīyakamma: hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả ngay kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì).

3-Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 5 tác-hành-tâm thứ 2 đến thứ 6 gọi là aparāpariyavedanīyakamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp có cơ hội cho quả từ kiếp này đến kiếp kia kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc

Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn (nếu nghiệp nào có cơ hội thì nghiệp ấy cho quả của nghiệp).

Trong 3 loại nghiệp kể trên, nếu loại nghiệp nào không có cơ hội cho quả của nghiệp đúng theo thời gian quy định thì nghiệp ấy trở thành ahosikamma: vô-hiệu-quả-nghiệp là nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nghiệp được nữa.

Giải thích 4 loại nghiệp cho quả theo thời gian

III.1-Diṭṭhadhammavedanīyakamma: Hiện-kiếp-quả-nghiệp

Diṭṭhadhammavedanīyakamma: hiện-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất).

Thế nào gọi là hiện-kiếp-quả-nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất)?

Diṭṭhadhamme vedanīyaṃ phalaṃ etassāti: diṭṭha-dhammavedanīyaṃ.

Nghiệp nào chỉ có cơ hội cho quả ngay trong kiếp hiện-tại mà thôi (không có khả năng cho quả trong kiếp sau), nghiệp ấy gọi là diṭṭhadhammavedanīyakamma: hiện-kiếp-quả-nghiệp, là nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất), đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) và 8 đại-thiện-tâm khi làm phận sự dục-giới tác-hành-tâm (kāmajavanakicca) sát-na-tâm thứ nhất của tác-hành-tâm trong mỗi dục-giới lộ-trình-tâm.

* Nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện-tại có 2 loại

- Ác-nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện-tại.

- Đại-thiện-nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện-tại.

III.1.1-Ác-nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện-tại

Nếu ác-nghiệp trong 12 ác-tâm có cơ hội cho quả ngay trong kiếp hiện-tại, thì có 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) như sau:

Bất-thiện-quả vô-nhân-tâm có 7 tâm:

1- Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp nhìn thấy đối-tượng sắc xấu.

2- Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp nghe đối-tượng âm-thanh dở.

3- Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp ngửi đối-tượng hương mùi hôi.

4- Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp nếm đối-tượng vị dở.

5- Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ khổ là quả của ác-nghiệp xúc giác đối-tượng xúc thô.

6- Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp tiếp nhận 5 đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc xấu.

7- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp suy xét 5 đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc xấu.

III.1.2-Đại-thiện-nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện-tại

Nếu đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả ngay trong kiếp hiện-tại thì có 8 thiện-quả vô-nhân-tâm là quả của 8 đại-thiện-nghiệp như sau:

Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 tâm:

1- Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp nhìn thấy đối-tượng sắc tốt.

2- Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp nghe đối-tượng âm-thanh hay.

3- Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp ngửi đối-tượng hương thơm.

4- Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp nếm đối-tượng vị ngon.

5- Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ lạc là quả của đại-thiện-nghiệp xúc giác đối-tượng xúc êm.

6- Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp tiếp nhận 5 đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc tốt.

7- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp suy xét 5 đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc tốt.

8- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ hỷ là quả của đại-thiện-nghiệp suy xét 5 đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc rất tốt.

Diṭṭhadhammavedanīyakamma: Hiện-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp chỉ có khả năng cho quả ngay trong kiếp hiện-tại mà thôi. Nếu hiện-kiếp-quả-nghiệp nào không có cơ hội cho quả trong kiếp hiện-tại thì nghiệp ấy trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) là nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nghiệp được nữa.

Hiện-kiếp-quả-nghiệp này không có khả năng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và cũng không có khả năng cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) nữa. Vì sao?

Bởi vì diṭṭhadhammavedanīyakamma là nghiệp mà tác-ý tâm-sở vừa mới đồng sinh với tác-hành-tâm thứ nhất trong 7 tác-hành-tâm, chưa nhận được sự hỗ trợ của thường-tác-duyên (āsevanapaccaya), nên chưa có nhiều năng lực. Vì vậy, nghiệp này chỉ có khả năng cho quả trong kiếp hiện-tại mà thôi.

Nếu nghiệp nào không có cơ hội cho quả trong kiếp hiện-tại thì nghiệp ấy trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp, nghiệp ấy không còn hiệu lực cho quả của nghiệp được nữa.

Năng lực của hiện-kiếp-quả-nghiệp có 2 loại

1- Paripakka diṭṭhadhammavedanīyakamma là hiện-kiếp-quả-nghiệp già dặn nhiều năng lực có khả năng cho quả ngay kiếp hiện-tại ấy trong khoảng thời gian 7 ngày.

2- Aparipakka diṭṭhadhammavedanīyakamma là hiện-kiếp-quả-nghiệp chưa già dặn ít năng lực có khả năng cho quả quá thời gian 7 ngày sau, cho đến trọn kiếp hiện-tại ấy.

Phần giải thích

1- Hiện-kiếp-quả-nghiệp già dặn nhiều năng lực có khả năng cho quả ngay kiếp hiện-tại ấy trong khoảng thời gian 7 ngày như thế nào?

Hiện-kiếp-quả-nghiệp già dặn nhiều năng lực có khả năng cho quả ngay trong kiếp hiện-tại trong khoảng thời gian 7 ngày, nghĩa là sau khi đã tạo nghiệp nào xong thì nghiệp ấy có năng lực rất mạnh cho quả ngay trong ngày hôm ấy.

* Đại-thiện-nghiệp bố-thí cho quả ngay trong ngày

Ví dụ:

*Trường hợp người nghèo khó Mahāduggata tạo phước-thiện bố-thí cúng dường vật thực lên Đức-Phật Kassapa. Sau khi cúng dường vật thực đến Đức-Phật xong, ông ôm bát tiễn đưa Đức-Phật ngự trở về đến cốc.

Sau khi đảnh lễ Đức-Phật, ông xin phép trở về nhà, ông nhìn thấy 7 thứ báu vật từ hư không rơi xuống đầy tràn từ trong nhà ra ngoài sân nhà của ông.

Đức-vua tấn phong ông là đại-phú hộ ngay trong ngày hôm ấy.

          * Trường hợp ông bà Puṇṇa nghèo khổ tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta vừa mới xả diệt-thọ-tưởng buổi sáng hôm ấy. Ông Puṇṇa đã cày thửa ruộng từ buổi sáng, đến buổi trưa, những luống đất cày ấy hóa thành những thỏi vàng ròng sáng chói. Ông đem một thỏi vàng đến trình lên Đức-vua Bimbisāra, tâu xin Đức-vua truyền lệnh đem 1.000 (một ngàn) chiếc xe đến thửa ruộng kia để khuân tất cả số vàng ấy về cung điện.

Quân lính trong triều khuân toàn bộ số vàng ấy đem về chất giữa sân rồng thành đống vàng cao 80 hắc tay.

Đức-vua Bimbisāra tấn phong ông Puṇṇa là vị đại-phú hộ có số vàng nhiều nhất, v.v…

* Ác-nghiệp cho quả ngay trong ngày

Ví dụ:

* Trường hợp tên Nanda hãm hiếp Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇāttherī bậc Thánh A-ra-hán. Sau khi đã tạo ác-nghiệp trọng-tội xong, tên Nanda vừa đặt hai chân xuống mặt đất thì mặt đất nứt nẻ làm hai phun lên ngọn lửa hút tên Nanda vào trong lòng đất.

Sau khi tên Nanda chết, ác-nghiệp trọng-tội ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt thời gian lâu dài nhiều đại-kiếp trái đất.

* Trường hợp tên đồ tể Nanda làm nghề giết bò để bán thịt. Một hôm, người nhà bán hết thịt bò, không còn lại miếng thịt nào cho y. Tức giận, y lấy con dao đến chuồng bò cắt cái lưỡi con bò còn sống, đem vào bảo vợ làm món ăn cho y.

Khi y ăn món lưỡi bò ấy, thì ngay khi ấy, cái lưỡi của y bị đứt lìa rơi xuống, vô cùng đau đớn khiến y quằn quại rống lên như con bò bị cắt tiết, rồi y chết tại nơi ấy.

2- Hiện-kiếp-quả-nghiệp chưa già dặn ít năng lực cho quả quá thời gian sau 7 ngày cho đến trọn kiếp hiện-tại ấy như thế nào?

Hiện-kiếp-quả-nghiệp chưa già dặn ít năng lực, cho quả thời gian sau 7 ngày cho đến trọn kiếp hiện-tại, nghĩa là sau khi đã tạo nghiệp nào xong, nếu nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì nghiệp ấy chỉ cho quả trong thời gian sau 7 ngày cho đến suốt kiếp hiện-tại ấy mà thôi (không cho quả trong kiếp sau).

- Người nào đã tạo đại-thiện-nghiệp nào hoặc tạo ác-nghiệp nào trong thời thiếu-niên, nếu nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì người ấy thọ nhận quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy hoặc thọ nhận quả khổ của ác-nghiệp ấy trong thời thiếu-niên, hoặc trong thời trung-niên, hoặc trong thời lão-niên trong kiếp hiện-tại ấy.

- Người nào đã tạo đại-thiện-nghiệp nào hoặc tạo ác-nghiệp nào trong thời trung-niên, nếu nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì người ấy thọ nhận quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy hoặc thọ nhận quả khổ của ác-nghiệp ấy trong thời trung-niên, hoặc trong thời lão-niên trong kiếp hiện-tại ấy.

- Người nào đã tạo đại-thiện-nghiệp nào hoặc tạo ác-nghiệp nào trong kỳ lão-niên, nếu nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì người ấy thọ nhận quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy hoặc thọ nhận quả khổ của ác-nghiệp ấy trong thời lão-niên trong kiếp hiện-tại.

Nghiệp ấy không có khả năng cho quả trong kiếp sau.

Như vậy, gọi là nghiệp chưa già dặn, ít năng lực cho quả trong thời gian sau 7 ngày cho đến trọn kiếp hiện-tại ấy.

Như trong bộ Chú-giải Uparipaṇṇāsaṭṭhakathā giải thích rằng:

“Yaṃ pathamavaye kataṃ pathamavaye vā majjhima-vaye vā pacchimavaye vā. Majjhimavaye kataṃ majjhima-vaye vā pacchimavaye vā. Pacchimavaye vā kataṃ tat-theva vipākaṃ deti taṃ diṭṭhadhammavedanīyaṃ nāma.”

Nghiệp nào đã được tạo trong thời thiếu-niên, thì nghiệp ấy có cơ hội cho quả trong thời thiếu-niên hoặc trong thời trung-niên hoặc trong thời lão-niên.

Nghiệp nào đã được tạo trong thời trung-niên, thì nghiệp ấy có cơ hội cho quả trong thời trung-niên hoặc trong thời lão-niên.

Nghiệp nào đã được tạo trong thời lão-niên, thì nghiệp ấy có cơ hội cho quả trong thời lão-niên.

Đó là nghiệp diṭṭhadhammavedanīyakamma: Hiện-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất).

* Nhân-duyên đặc biệt của nghiệp cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày

Nghiệp nào có năng lực cho quả ngay kiếp hiện-tại trong khoảng thời gian 7 ngày, thì nghiệp ấy cần phải hội đủ nhân-duyên đặc biệt.

Đại-thiện-nghiệp bố-thí có năng lực cho quả ngay kiếp hiện-tại trong khoảng thời gian 7 ngày, cần phải hội đủ 4 nhân-duyên như sau:

1- Vatthusampadā: Bậc thọ thí là Đức-Phật, hoặc bậc Thánh A-ra-hán hoặc bậc Thánh Bất-lai.

2- Paccayasampadā: Vật bố-thí được phát sinh một cách hợp pháp và hoàn toàn trong sạch.

3- Cetanāsampadā: Thí-chủ là người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có đầy đủ 3 thời-kỳ tác-ý trong đại-thiện-tâm trong sạch là:

- Tác-ý trong đại-thiện-tâm trong sạch và hoan hỷ trước khi tạo phước-thiện bố-thí.

- Tác-ý trong đại-thiện-tâm trong sạch và hoan hỷ đang khi tạo phước-thiện bố-thí.

- Tác-ý trong đại-thiện-tâm trong sạch và hoan hỷ sau khi đã tạo phước-thiện bố-thí xong.

4- Guṇātirekasampadā: Bậc-thọ-thí có ân-đức đặc biệt như Đức-Phật hoặc bậc Thánh A-ra-hán, bậc Thánh Bất-lai vừa mới xả diệt-thọ-tưởng suốt 7 ngày đêm xong, rồi đi khất thực.

Nếu thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí hội đủ 4 nhân duyên đặc biệt này thì đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy sẽ cho quả ngay trong ngày hôm ấy, như những trường hợp sau:

1. Tích người nghèo khó Mahāduggata

Tích người nghèo khó Mahāduggata [15] được tóm lược như sau:

Vào thời-kỳ Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, Đức-Phật ngự cùng với 20 ngàn bậc Thánh A-ra-hán đến kinh-thành Bārāṇasī.

Một hôm, sau khi độ vật thực xong, Đức-Phật Kassapa thuyết pháp dạy rằng:

- “Này cận-sự-nam, cận-sự-nữ! Trong đời này:

- Số người tự mình tạo phước-thiện bố-thí mà không tác động, khuyến khích người khác cùng làm phước-thiện bố-thí với mình thì phước-thiện bố-thí ấy cho quả đối với số người ấy là người có nhiều của cải, nhưng không có bạn bè, thuộc hạ thân thiết.

- Số người tác động, khuyến khích những người khác tạo phước-thiện bố-thí, nhưng chính mình thì không chịu đem của cải ra tạo phước-thiện bố-thí thì phước-thiện của sự tác động, khuyến khích ấy cho quả đối với số người ấy là người có nhiều bạn bè, thuộc hạ thân thiết, nhưng không có nhiều của cải.

- Số người tự mình không tạo phước-thiện bố-thí, cũng không tác động, khuyến khích những người khác tạo phước-thiện bố-thí thì số người ấy sống ở nơi nào cũng là người ít của cải, nghèo khổ, thiếu thốn và cũng không có bạn bè, không có thuộc hạ thân thiết.

- Số người tự mình tạo phước-thiện bố-thí, còn tác động, khuyến khích những người khác cùng tạo phước-thiện bố-thí với mình thì những phước-thiện ấy cho quả đối với số người ấy là người giàu sang phú quý, có nhiều của cải, tài sản lớn và có nhiều bạn bè, có nhiều thuộc hạ thân thiết,…”

Nghe Đức-Phật Kassapa thuyết dạy như vậy, người cận-sự-nam suy xét nghĩ rằng: “Ta muốn có được nhiều của cải và cũng có nhiều bạn bè, thuộc hạ thân thiết.”

Người ấy đảnh lễ Đức-Phật, rồi bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự cùng với tất cả 20.000 (hai mươi ngàn) chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để chúng con tạo phước-thiện bố-thí, cúng dường vật thực vào ngày mai.

Đức-Phật Kassapa nhận lời bằng cách im lặng.

Ông trở về đi thông báo cho toàn thể dân chúng trong kinh-thành Bārāṇasī biết rằng:

“Ngày mai sẽ tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật cùng với tất cả 20.000 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Ai có khả năng tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến bao nhiêu vị thì xin ghi danh.”

Có gia đình xin thỉnh 10 vị, có gia đình xin thỉnh 20 vị, … có gia đình xin thỉnh 100 vị, v.v…

Khi gặp cậu Mahāduggata là người nghèo khó nhất trong thành, người cận-sự-nam tác động, khuyến khích cậu Mahāduggata rằng:

- Này cậu Mahāduggata! Ngày mai, tôi có thỉnh Đức-Phật cùng với 20.000 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng để tạo phước-thiện bố-thí cúng dường. Cậu có khả năng tạo phước-thiện bố-thí được bao nhiêu vị?

- Thưa ông, gia đình con nghèo khó, vợ chồng con đi làm thuê, làm được ngày nào ăn ngày ấy còn không đủ nữa thì lấy gì mà tạo phước-thiện bố-thí, cúng dường. Thưa ông.

- Này cậu Mahāduggata! Trong thành này, những người giàu sang phú quý, có nhiều của cải, có quyền cao chức trọng, … là do nhờ quả của phước-thiện bố-thí. Còn gia đình cậu, ngày qua ngày làm thuê mà không đủ ăn, đó là do không tạo phước-thiện bố-thí. Cậu có hiểu biết rõ như vậy không?

- Thưa ông! Con hiểu rồi, ngày mai, xin ông cho gia đình con thỉnh một vị đại-đức tỳ-khưu, để gia đình con tạo phước-thiện bố-thí, cúng dường đến vị đại-đức tỳ-khưu ấy.

Ông cận-sự-nam hoan hỷ chấp thuận cho gia đình cậu Mahāduggata thỉnh một vị đại-đức tỳ-khưu để tạo phước-thiện bố-thí, cúng dường vào ngày hôm sau. Nhưng ông quên ghi vào danh sách mà tiếp tục đi tác động, khuyến khích người khác nhận đủ 20.000 vị đại-đức tỳ-khưu-Tăng.

Sau khi được ông cận-sự-nam chấp thuận cho thỉnh một vị đại-đức tỳ-khưu để tạo phước-thiện bố-thí, cúng dường vào ngày hôm sau, cậu Mahāduggata vô cùng hoan hỷ, trở về báo tin cho người vợ hay biết, người vợ cũng vô cùng hoan hỷ, bàn tính nhau làm thuê kiếm gạo, đồ ăn về để ngày hôm sau tạo phước-thiện bố-thí, cúng dường đến một vị đại-đức tỳ-khưu ấy.

Cậu Mahāduggata đi tìm việc làm, ông phú hộ nhìn thấy cậu nên gọi lại thuê chẻ đống củi, để ngày hôm sau nấu đồ ăn dâng cúng đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Cậu vô cùng hoan hỷ, lấy búa chẻ trong chốc lát là xong ngay đống củi lớn, ông phú hộ ngạc nhiên hỏi:

- Này Mahāduggata! Sao hôm nay cậu làm việc siêng năng và nhanh nhẹn thế?

- Thưa ông, ngày mai, gia đình con sẽ tạo phước-thiện bố-thí, cúng dường đến một vị đại-đức tỳ-khưu, nên con cảm thấy hoan hỷ, sung sướng mà làm việc không biết mệt.

Ông phú hộ ca tụng cậu đã làm một việc khó làm.

Ông trả công cho 4 ô gạo sāli (loại gạo ngon thời xưa).

Về phần vợ của cậu đi giúp việc nhà bếp cho bà phú hộ, cô cũng vô cùng hoan hỷ làm mọi công việc một cách sạch sẽ, gọn gàng, nhanh nhẹn, nên bà phú hộ rất hài lòng, rất ngạc nhiên hỏi rằng:

- Này con! Sao hôm nay con có vẻ vui sướng và làm việc giỏi giang như vậy?

- Thưa bà, ngày mai gia đình con sẽ tạo phước-thiện bố-thí đến một vị đại-đức tỳ-khưu nên con vô cùng hoan hỷ làm mọi công việc, mong có được những đồ gia vị làm món đồ ăn để tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến một vị đại-đức tỳ-khưu trong ngày mai.

Nghe nói vậy, bà phú hộ ca tụng cô đã làm được một việc khó làm. Bà trả công bằng bơ, dầu, đồ gia vị, …

Vợ chồng Mahāduggata vô cùng hoan hỷ được gạo sāli ngon, dầu bơ, đồ gia vị, … để tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến một vị đại-đức tỳ-khưu vào ngày hôm sau.

Sáng sớm hôm sau, người vợ thưa với chồng đi kiếm một ít rau về nấu một bát canh. Cậu Mahāduggata đi ra khỏi nhà, vừa đi vừa ca hát, đi ngang bến ghe chài; đêm hôm trước, người dân chài bắt được nhiều cá vừa cập bến, nghe tiếng ca hát của Mahāduggata bèn gọi:

- Này Mahāduggata! Cậu đi đâu đó? Sao hôm nay vui sướng quá vậy? Hãy xuống đây giúp tôi đem cá bán rồi tôi sẽ cho một ít cá.

- Này bạn! Hôm nay gia đình tôi sẽ tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến một vị đại-đức tỳ-khưu, tôi đang đi tìm rau về nấu canh.

May quá! Có được cá lại càng tốt!

Cậu Mahāduggata hăng hái đem cá bán, hôm ấy dân chúng trong thành mua cá làm đồ ăn để tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, nên phần cá bán không còn con nào cả.

Cậu Mahāduggata muốn về nhà cho kịp tạo phước-thiện bố-thí cúng dường, nên hỏi người chủ thuyền:

- Này bạn! Phần cá mà anh hứa cho tôi đâu?

- Này bạn! Tôi còn một phần cá đặc biệt ở dưới ghe, để tôi lấy cho bạn.

Người chủ đem cho cậu Mahāduggata 4 con cá hồi (rohitamaccha). Cậu vội vàng đem về nhà.

* Canh chót đêm ấy, Đức-Phật Kassapa nhập đại-bi-định, khi xả định quán xét chúng-sinh nào có duyên lành nên tế độ. Đức-Phật nhìn thấy: “Mahāduggata là người có đức-tin trong sạch, thỉnh một vị đại-đức tỳ-khưu để tạo phước-thiện bố-thí vào ngày mai, nhưng người cận-sự-nam quên ghi vào danh sách.

Khi Mahāduggata gặp người cận-sự-nam xin một vị đại-đức tỳ-khưu ấy thỉnh về nhà thì không còn một vị đại-đức tỳ-khưu nào cả.

Vậy, chính Như-Lai sẽ tế độ Mahāduggata mà thôi.”

Đức-vua trời Sakka cảm thấy chỗ ngồi phát nóng, suy xét thấy rõ hôm nay Mahāduggata sẽ tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật Kassapa, nên hiện xuống hỗ trợ Mahāduggata cùng làm phước-thiện.

Đức-vua trời Sakka biến hóa thành một người đầu bếp tài giỏi đến xin giúp việc cho Mahāduggata không lấy tiền công, chỉ bỏ công tạo phước-thiện mà thôi. Mahāduggata đồng ý chấp thuận, xin mời vào nhà lo giúp việc nấu ăn, Đức-vua trời Sakka nấu cơm, các món ăn đều bỏ đồ gia vị cõi trời, hương trời, Đức-vua trời Sakka bảo rằng:

-Này bạn! Công việc nấu nướng để tôi lo, bạn hãy đi thỉnh vị đại-đức tỳ-khưu ấy về nhà cho kịp giờ.

Cậu Mahāduggata đi đến tìm người cận-sự-nam xin thỉnh một vị đại-đức tỳ-khưu mà ông đã tác động, khuyến khích ngày hôm trước.

Khi đến gặp ông cận-sự-nam, thì hỡi ơi! Ông đã quên ghi vào danh sách nên không còn một vị đại-đức tỳ-khưu nào cả.

Cậu Mahāduggata thất vọng buồn tủi ôm mặt khóc, mọi người nhìn thấy cậu đáng thương và trách người cận-sự-nam ấy. Người cận-sự-nam ấy nói lời xin lỗi và an ủi cậu Mahāduggata, rồi khuyên bảo rằng:

- Này Mahāduggata! Còn Đức-Phật ở trong cốc chưa mở cửa. Đức-vua, các quan, các phú hộ đang trông chờ Đức-Phật mở cửa, để thỉnh bát của Đức-Phật.

Đức-Phật thường tế độ những người nghèo khó. Vậy, cậu hãy vào xin kính thỉnh Đức-Phật tế độ.

Nghe nói vậy, đôi mắt của cậu Mahāduggata bừng sáng lên, niềm hy vọng phát sinh, cậu dũng cảm đến trước cửa cốc, đảnh lễ, đầu va chạm vào cửa, bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, trong thành này người nghèo khó hơn con không có. Kính xin Đức-Thế-Tôn có tâm đại-bi tế độ con. Bạch Ngài.

Đức-Phật Kassapa mở cửa ra, liền trao bình bát cho Mahāduggata. Cậu được bình bát của Đức-Phật mừng hơn được ngai vàng của Đức-chuyển-luân-Thánh-vương. Đức-vua, các quan, các phú hộ xin lại bình bát trên tay của cậu, hứa sẽ ban cho cậu nhiều tiền của nhưng cậu không màng đến.

Cậu Mahāduggata kính thỉnh Đức-Phật Kassapa về đến nhà, Đức-vua trời Sakka hóa thành người đầu bếp đã làm xong vật thực ngon lành, trải chỗ ngồi cao quý, thỉnh Đức-Phật Kassapa vào nhà.

Khi Đức-Phật Kassapa vừa bước vào, thì căn nhà cao hẳn lên, nên Đức-Phật không phải cúi khom người xuống, Đức-Phật ngự trên chỗ ngồi đã trải sẵn.

Còn Đức-vua trời Sakka là người đầu bếp đã làm xong những món vật thực, liền bảo Mahāduggata đem những món vật thực dâng cúng dường lên Đức-Phật Kassapa. Mùi thơm của các món vật thực tỏa khắp cả kinh-thành Bārāṇasī.

Trong khi ấy, Đức-vua cùng các quan, các phú hộ đi theo sau Đức-Phật Kassapa đến tận nhà của Mahā-duggata, để biết Mahāduggata tạo phước-thiện bố-thí cúng dường lên Đức-Phật bằng những món vật thực gì.

Khi đến nơi tất cả đều ngửi được mùi thơm của những món vật thực mà trong đời chưa từng được ngửi bao giờ. Đức-vua trời Sakka đảnh lễ Đức-Phật Kassapa, rồi ngồi hầu Đức-Phật.

Độ vật thực xong, Đức-Phật Kassapa thuyết pháp tế độ gia-đình Mahāduggata, rồi Đức-Phật ngự trở về chùa, Mahāduggata ôm bát theo sau tiễn đưa Đức-Phật.

Đức-vua-trời Sakka hoan hỷ phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật Kassapa xong, cũng hồi cung trở về cõi trời Tam-thập-tam-thiên.

Khi Mahāduggata trở về đến nhà đứng trước cửa, nhìn thấy từ hư không rơi xuống 7 thứ báu vật đầy nhà, người vợ phải dắt đứa con ra khỏi nhà, vì 7 thứ báu vật đầy tràn từ trong ra ngoài sân nhà của ông, không còn chỗ nào trống cả.

Cậu Mahāduggata nghĩ rằng: “Đó là quả báu của phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật Kassapa của chúng ta ngày hôm nay.”

Cậu Mahāduggata liền đến chầu Đức-vua tâu rằng:

-Muôn tâu Đại-vương, nhà của tiện dân đầy tràn cả thất báu, xin Đại-vương đem 1.000 chiếc xe đến nhà tiện dân chở tất cả thất báu ấy về cung điện.

Đức-vua truyền quân lính trong triều đình đem 1.000 chiếc xe chở tất cả 7 thứ báu vật đem về chất thành đống trước sân rồng.

Đức-vua truyền hỏi:

- Trong thành này, người nào có của báu nhiều như thế này không?

Tất cả mọi người đều tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng-thượng, không một người nào có nhiều của báu như thế này cả.

Do đó, Đức-vua tấn phong Mahāduggata địa vị đại phú hộ, rồi truyền rằng:

- Này Mahāduggata! Tất cả của báu này là quả báu phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật Kassapa của nhà ngươi. Vậy, nhà ngươi hãy nhận lấy.

Đức-vua cấp đất đai, xây cất ngôi nhà lớn, cấp nhiều gia nhân. Khi xây cất ngôi nhà xong, ông đại phú hộ Mahāduggata kính thỉnh Đức-Phật Kassapa ngự cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến ngôi nhà lớn tạo phước-thiện đại-thí suốt 7 ngày.

Từ đó về sau, ông đại-phú hộ Mahāduggata thường bố-thí, giữ-giới, tạo mọi thiện-pháp cho đến hết tuổi thọ. Sau khi ông đại-phú hộ Mahāduggata chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trên cõi trời dục-giới hưởng mọi sự an-lạc.

* Đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu-kiếp của Mahāduggata trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, là vị thiên-nam sau khi hết tuổi thọ tại cõi trời, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh đầu thai vào lòng người con gái của ông phú hộ.

Người mẹ sinh ra một bé trai đặt tên là “Paṇḍita”. Người mẹ của công tử Paṇḍita vốn là người hộ độ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Khi lên 7 tuổi, công tử Paṇḍita xin phép mẹ cha chấp thuận cho xuất gia sa-di với Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta là thầy tế độ.

Mẹ cha của vị sa-di Paṇḍita đến chùa tạo phước-thiện bố-thí các món vật thực, đặc biệt có món cá hồi (rohitamaccha) đến Đức-Phật Gotama cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng suốt 7 ngày.

Qua đến ngày thứ 8, vị sa-di Paṇḍita ở tại cốc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, cùng với tứ-tuệ-phân-tích, hoàn thành xong phận sự của bậc xuất gia trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đi khất thực độ xong, còn đem về cho sa-di Paṇḍita một phần vật thực, trong đó có món cá hồi, theo nguyện vọng của vị sa-di Paṇḍita, người đệ-tử có sắc thân bé nhỏ, còn tâm bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

Tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật với đức-tin trong sạch, hoan hỷ trong phước-thiện, quả báu của phước-thiện bố-thí ấy không chỉ được giàu sang phú quý ngay trong kiếp hiện-tại, những kiếp vị-lai đầy đủ của cải thế gian, mà còn kiếp chót cũng có đầy đủ 9 pháp siêu-tam-giới đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn nữa.

2-Tích gia đình ông Puṇṇa [16]

Tích ông Puṇṇa, người làm thuê của ông phú hộ Sumana, được tóm lược như sau:

Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama còn hiện hữu trên thế gian, gia đình ông Puṇṇa nghèo khó làm ruộng thuê của ông phú hộ Sumana, mọi người trong gia đình đều có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo.

Một buổi sáng, ông đi cày ruộng, cũng vào buổi sáng hôm ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta vừa mới xả diệt-thọ-tưởng (sau 7 ngày đêm), đi khất thực để tế độ gia đình ông Puṇṇa, nên Ngài Đại-Trưởng-lão đi thẳng về hướng ông Puṇṇa đang cày ruộng.

Nhìn thấy Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta từ xa đến, ông Puṇṇa liền bỏ cày, đến hầu đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão, kính dâng cúng dường cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước uống. Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta thọ nhận xong, đi theo đường hướng về nhà ông Puṇṇa, gặp vợ ông Puṇṇa đang đem cơm cho chồng. Bà đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta xong, bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, kính xin Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm từ thọ nhận phần vật thực nghèo nàn này của gia đình chúng con.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta có tâm từ tế độ thọ nhận tất cả phần vật thực ấy, bà phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ phát nguyện:

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, do nhờ phước-thiện bố-thí thanh cao này của chúng con, cầu mong cho gia đình chúng con được một phần pháp mà Ngài Đại-Trưởng-lão đã chứng đắc.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta chúc phúc rằng:

“Mong cho gia đình các con được như ý.”

Bà cảm thấy vô cùng hoan hỷ quay trở về nhà, nấu lại phần cơm khác đem cho chồng, rồi vội vàng mang cơm ra đồng ruộng, với tâm hoan hỷ phước-thiện bố-thí đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, làm cho thân tâm của bà nhẹ nhàng, nhu nhuyến không sao giấu được.

Còn phần ông Puṇṇa, trễ giờ đói bụng, thả bò đi ăn cỏ, ông lên bờ ngồi dưới bóng cây, chờ đợi vợ. Dù có đói bụng tâm vẫn cảm thấy hoan hỷ, niệm tưởng lại việc tạo phước-thiện bố-thí cúng dường tăm xỉa răng và nước đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Nhìn từ xa, ông thấy vợ mình đang đi đến trễ hơn mọi ngày, nhưng bà có vẻ hoan-hỷ khác thường, chắc chắn có điều thiện-pháp tốt lành nào đó. Thật vậy, bà vừa đến nơi liền thưa với chồng rằng:

-Này anh thân thương! Hôm nay, em xin báo cho anh tin vui để cho anh hoan hỷ thật nhiều.

Sáng nay, khi em đem phần cơm cho anh, giữa đường gặp Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đang đi khất thực, em phát sinh đức-tin trong sạch, đem phần cơm của anh để bát cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Ngài Đại-Trưởng-lão không chê vật thực nghèo hèn của chúng ta. Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm từ tế độ thọ nhận tất cả vật thực phần của anh, xin anh nên phát sinh đại-thiện-tâm hoan hỷ phần phước-thiện bố-thí này.

Ông Puṇṇa vừa lắng nghe từng tiếng, từng câu làm cho ông phát sinh thiện-tâm hỷ lạc đến cực độ, nên không thể theo dõi liên tục trọn vẹn lời nói của vợ ông.

Sực tỉnh lại, ông muốn biết chắc chắn chính mình nghe đúng sự thật là như vậy không, nên ông bảo với vợ rằng:

-Này em thân thương! Xin em hãy nói lại cho anh nghe thêm một lần nữa.

Bà vợ thưa lại rõ ràng một lần nữa, lần này ông nghe rõ biết chắc chắn đúng sự thật như vậy rồi, ông phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ phước-thiện bố-thí của vợ, đã đem phần cơm của mình tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Sau đó, ông nói cho vợ biết ông cũng vừa tạo phước-thiện bố-thí cúng dường cây tăm xỉa răng và nước đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Nghe chồng nói xong, bà cũng phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ việc phước-thiện bố-thí của chồng.

Hai vợ chồng cùng nhau phát sinh đại-thiện-tâm hoan hỷ việc phước-thiện bố-thí cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta. Dùng cơm xong, ông nằm niệm tưởng đến phước-thiện bố-thí vừa mới làm, nằm thiu thiu giấc ngủ, ông vừa tỉnh lại, ngồi nhìn thấy phần đất ruộng vừa cày buổi sáng đã hóa thành những thỏi vàng y (vàng ròng) làm cho ông hoa cả mắt, và vợ của ông cũng cảm thấy như ông vậy.

Ông lấy lại bình tĩnh rồi đi xuống ruộng, lấy lên một thỏi, đúng thật là thỏi vàng ròng, ông đem đến khoe và nói với vợ rằng:

- Này em thân thương! Vợ chồng chúng ta đã tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, phước-thiện bố-thí ấy liền cho quả báu đến vợ chồng chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta không thể nào giấu một số vàng lớn như thế này được.

Ông Puṇṇa lấy một số thỏi vàng bỏ vào khay, đem trình lên Đức-vua Bimbisāra và tâu rằng:

- Muôn tâu Đại-vương, sáng nay tiện dân đi cày ruộng, tất cả đất cày đều hóa thành những thỏi vàng ròng. Kính xin Đại-vương truyền lệnh cho binh lính đem 1.000 chiếc xe đến chở số vàng ấy về cất trong kho báu của Đại-vương.

Đức-vua Bimbisāra truyền hỏi:

- Này ngươi! Nhà ngươi là ai vậy?

Ông Puṇṇa tâu rằng:

- Muôn tâu Đại-vương, tiện dân là Puṇṇa, một nông dân nghèo khó làm thuê.

- Này Puṇṇa! Sáng nay, nhà ngươi đã tạo phước-thiện đặc biệt gì vậy?

- Muôn tâu Đại-vương, sáng nay tiện dân tạo phước-thiện bố-thí cúng dường cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước uống đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, còn phần vợ tiện dân tạo phước-thiện bố-thí cúng dường phần cơm của tiện dân đến Ngài Đại-Trưởng-lão.

Đức-vua truyền rằng:

- Này Puṇṇa! Vợ chồng ngươi đã tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, cho nên, quả báu phát sinh ngay trong ngày hôm nay.

Vậy, ngươi muốn Trẫm làm gì?

Ông tâu với Đức-vua rằng:

- Muôn tâu Đại-vương, tiện dân xin Đại-vương truyền lệnh đem ngàn chiếc xe đến thửa ruộng kia, để khuân tất cả số vàng ấy về cung điện.

Đức-vua Bimbisāra truyền lệnh đem ngàn chiếc xe đến chở vàng ròng, quân lính trong triều nghĩ và nói rằng: vàng của Đức-vuatức thì những thỏi vàng trở lại thành đất như cũ. Quân lính trong triều trở về tâu lên Đức-vua sự việc xảy ra như vậy. Đức-vua sáng suốt truyền hỏi rằng:

- Này các ngươi! Các ngươi nghĩ như thế nào, khi nhặt lấy những thỏi vàng ấy?

- Tâu Bệ hạ, chúng hạ thần nghĩ và nói rằng: “vàng của Đức vua.”

Đức-vua truyền bảo rằng:

- Này các ngươi! Số vàng ròng kia không phải của Trẫm. Các người nên trở lại nghĩ và nói rằng: “vàng của ông bà Puṇṇa” rồi khuân số vàng ấy về đây.

Quân lính vâng lệnh Đức-vua trở lại nơi ấy.

Thật vậy, lần này quân lính khuân toàn bộ số vàng ấy đem về, chất giữa sân rồng thành một đống vàng cao 80 hắc tay.

Ông Puṇṇa trở thành đại phú hộ

Đức-vua Bimbisāra cho truyền lệnh gọi dân chúng trong kinh-thành Rājagaha hội họp tại sân rồng, rồi truyền hỏi dân chúng rằng:

- Này toàn thể dân chúng! Trong kinh-thành này có người nào khác có số vàng lớn như thế này không?

Toàn thể dân chúng trong thành tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng-thượng, trong kinh-thành này không có người nào khác có số vàng lớn như vậy.

Đức-vua truyền hỏi tiếp rằng:

- Vậy Trẫm nên tấn phong ông Puṇṇa như thế nào mới xứng đáng?

- Muôn tâu Hoàng-thượng, kính xin Hoàng-thượng tấn phong ông Puṇṇa địa vị đại phú hộ.

Đức-vua Bimbisāra truyền phán rằng:

- Này Puṇṇa! Từ nay ngươi là đại phú hộ, có tên “Bahudhanaseṭṭhi: Đại phú hộ nhiều của cải.”

Sau khi trở thành đại phú hộ Puṇṇa, gia đình ông càng có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì suốt 7 ngày.

Đến ngày thứ 7 Đức-Phật thuyết pháp tế độ gia đình ông Puṇṇa, toàn gia đình ông đại-phú hộ Puṇṇa (hai vợ chồng và đứa con gái tên Uttarā) đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Vợ chồng ông Puṇṇa tạo phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, sau khi xả diệt-thọ-tưởng, do năng lực phước-thiện bố-thí trong sạch và hội đủ nhân duyên ấy, liền cho quả báu trong ngày hôm ấy, trở thành đại phú hộ nhiều của cải thế gian và đặc biệt hơn nữa, toàn gia đình trở thành bậc Thánh Nhập-lưu thuộc về pháp siêu-tam-giới.

Những trường hợp tương tự trên, có không ít trong Phật-giáo.

Ác-nghiệp nặng có khả năng cho quả trong 7 ngày

1- Tích nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā [17]

Tích nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthī. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại giảng đường thuyết pháp tế độ tứ chúng thanh-văn đệ-tử. Khi ấy, nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā xinh đẹp giả làm người mang thai hằn học bước vào đứng chỉ tay về Đức-Thế-Tôn, buông lời vu khống rằng: “Nàng đã mang thai với Đức-Phật” rồi mắng nhiếc Đức-Phật giữa tứ chúng thanh-văn đệ-tử, để làm mất uy tín Đức-Phật Gotama, theo mưu kế thâm độc của các nhóm ngoại đạo [18] Do nguyên-nhân nào?

* Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, vào thời-kỳ đầu, chánh-pháp của Đức-Phật được phát triển mạnh, có nhiều người chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn trở thành bậc Thánh-nhân, cho nên, danh thơm tiếng tốt của Đức-Phật Gotama được lan truyền khắp mọi nơi.

Vua chúa, Hoàng tộc, giai cấp Bà-la-môn, các phú hộ, phần đông dân chúng phát sinh đức-tin nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo.

- Có số xin xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

- Có số khác xin thọ phép quy-y Tam-bảo trở thành cận-sự-nam, cận-sự-nữ trọn đời trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, càng ngày càng thêm đông.

Trước đây, tất cả những người ấy đã từng là đệ-tử của các nhóm ngoại đạo, họ thường cúng dường những phẩm vật đến các tu-sĩ ngoại đạo nên đời sống của các hàng tu-sĩ ngoại đạo được sung túc.

Nay, những người ấy có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, họ trở thành các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama. Họ thường tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, họ không còn cúng dường đến các hàng tu-sĩ ngoại đạo nữa, nên đời sống của các hàng tu-sĩ ngoại đạo thiếu thốn.

Đó là điều mà các tu-sĩ ngoại đạo cảm thấy bị tổn thương, những tín đồ cũ không giữ được, còn tín đồ mới thì không có.

Các nhóm ngoại đạo tìm mọi cách ngăn cản các nhóm đệ-tử không cho tìm đến Đức-Phật Gotama, nhưng chúng hoàn toàn bất lực, không thể ngăn cản được, làm cho lợi lộc càng ngày càng giảm dần nên đời sống không được sung túc như trước nữa.

Các nhóm tu-sĩ ngoại đạo hội họp với nhau, bày mưu tính kế thâm độc để hạ uy tín của Đức-Phật Gotama.

Thời ấy, trong kinh-thành Sāvatthī có cô kỹ-nữ xinh đẹp tên là Ciñcāmāṇavikā, nàng vốn là đệ-tử thuần thành của các nhóm tu-sĩ ngoại đạo. Thấy sắc đẹp của nàng, các tu-sĩ nghĩ ra một diệu kế: “Chúng ta dùng nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā giả mang thai rồi vu khống cho Sa-môn Gotama, gây ra sự hiểu lầm, để làm mất uy tín của Sa-môn Gotama.”

Mưu kế ấy được các nhóm ngoại đạo đều chấp nhận.

Một hôm, như lệ thường nàng Ciñcāmāṇavikā đến tu viện ngoại đạo, đảnh lễ các tu-sĩ xong, nàng ngồi một bên. Nàng Ciñcāmāṇavikā rất ngạc nhiên không hiểu sao các tu-sĩ ngồi im lặng không nói với nàng một câu nào. Nàng thầm nghĩ: “Mình có lỗi gì đây!”

Nàng bạch vị Đạo-Trưởng rằng:

- Kính bạch Ngài, con đã lễ bái quý Ngài ba lần rồi rồi, nhưng con không biết con có lỗi gì mà quý Ngài không nói với con một lời nào?

Vị Đạo-Trưởng tỏ vẻ nghiêm nghị nói với nàng:

- Này con! Con là một đệ-tử rất thuần thành, con không có lỗi gì. Hiện nay đời sống của quý thầy khổ sở, thiếu thốn lắm con à! Vì vậy, quý thầy buồn bực, khổ tâm, không ai buồn nói với ai điều gì cả.

Nàng Ciñcāmāṇavikā ngạc nhiên, nóng lòng hỏi:

- Kính bạch quý Ngài, trước đây đời sống của quý Ngài được đầy đủ lắm, sao hiện nay lại lâm vào hoàn cảnh khổ cực như vậy?

- Này Ciñcāmāṇavikā! Con không biết gì hay sao? Chính Sa-môn Gotama đã làm khổ quý thầy, chính Sa-môn Gotama đã làm cho quý thầy mất hết cả uy tín, danh vọng và những lợi lộc cúng dường, … cho nên, quý thầy phải sống trong cảnh thiếu thốn khổ cực như vậy!

Nàng Ciñcāmāṇavikā cảm thấy rất đau lòng, chân tình thưa rằng:

- Kính bạch quý Ngài, vậy mà con có hay biết gì đâu? Không biết con có thể làm gì để giúp đỡ cho quý Ngài?

Các vị tu-sĩ ngoại đạo giả vờ im lặng một lúc, rồi có một vị nói rằng:

- Này Ciñcāmāṇavikā! Chỉ sợ con ngại khó mà không giúp quý thầy đó thôi.

Nàng Ciñcāmāṇavikā mau mắn đáp:

- Kính bạch quý Ngài, khó khăn gì con cũng có thể làm được, miễn là làm sao cho quý Ngài được sống an-lạc, thế là con mãn nguyện lắm rồi!

Vị tu-sĩ ngoại đạo nghiêm chỉnh nói:

- Này Ciñcāmāṇavikā! Đây là việc rất hệ trọng, đòi hỏi con phải khôn khéo. Nếu con thật tình muốn giúp đỡ quý thầy thì chỉ có một phương pháp duy nhất là con hãy dùng cái sắc đẹp duyên dáng, đầy quyến rũ của con, làm thế nào đó giả mang thai với Sa-môn Gotama. Con làm được như vậy, sẽ làm giảm uy tín của Sa-môn Gotama, như thế thì phần đông tín đồ của Sa-môn Gotama sẽ trở về lại với chúng ta.

Nàng Ciñcāmāṇavikā hớn hở nói:

- Kính bạch quý Ngài, đúng vậy, kế này rất hay! Xin quý Ngài hãy tin tưởng nơi con, con sẽ cố gắng làm tròn bổn phận để đền đáp công ơn của quý Ngài đối với con.

Từ hôm ấy, cứ vào mỗi buổi chiều dân chúng trong kinh-thành Sāvatthī sau khi nghe Đức-Phật thuyết pháp tại chùa Jetavana xong, đảnh lễ Đức-Phật trở về nhà, họ thường gặp nàng Ciñcāmāṇavikā ăn mặc đẹp đẽ rất quyến rũ, trên tay cầm một bó hoa đang đi trên đường hướng đến ngôi chùa Jetavana, có người tò mò dừng lại hỏi rằng:

- Chiều tối rồi, cô đi đâu mà ăn mặc đẹp vậy?

Nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā trả lời cố ý tạo ra một sự nghi ngờ rằng:

- Tôi đi đâu là việc riêng của tôi, quý vị biết phỏng có ích lợi gì!

Nói xong, nàng kỹ-nữ bước đi theo hướng đến ngôi chùa Jetavana, nhưng lại nghỉ qua đêm tại một tu viện ngoại đạo ở gần đó.

Rồi sáng hôm sau, khi có một số cận-sự-nam, cận-sự-nữ đem vật dụng đến ngôi chùa Jetavana để cúng dường Đức-Phật và chư tỳ-khưu-Tăng, thì lại thấy nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā từ hướng ngôi chùa Jetavana trở lại kinh-thành Sāvatthī, người ta hỏi nàng kỹ-nữ rằng:

- Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào kinh-thành sớm vậy?

Nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā ỡm ờ đáp:

- Tôi nghỉ ở đâu có nơi có chỗ của tôi, quý vị biết phỏng có lợi ích gì!

Và từ đó, cứ vào mỗi buổi chiều và mỗi buổi sáng, từ tháng này sang tháng khác, nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā đều làm như vậy. Cho đến một hôm, có số người cận-sự-nam, cận-sự-nữ khác hỏi rằng:

- Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?

Nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā thấy đã đến lúc cần phải nói, để bắt đầu gây ra sự ngờ vực.

- Chuyện riêng tư của tôi mà quý vị muốn biết hay sao? Sớm muộn gì quý vị cũng sẽ biết thôi mà! Nếu quý vị muốn biết bây giờ tôi xin khai thật: “Đêm qua tôi nghỉ ở tại cốc Gandhakuṭi chung với Sa-môn Gotama để phục vụ Ngài, đó là một niềm vinh dự lớn lao của đời tôi.”

Nói xong, nàng kỹ-nữ tỏ vẻ đắc ý bỏ vào kinh-thành.

Khi nghe nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā nói vậy, một số cận-sự-nam, cận-sự-nữ thiểu trí, sinh tâm bán tín bán nghi. Ba -bốn tháng sau, nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā lấy vải độn bụng, mặc áo lụng thụng che bên ngoài làm như người đang mang thai. Có một số người không có trí-tuệ, không hiểu biết về giáo-pháp của Đức-Phật nghĩ là nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā có thai với Sa-môn Gotama.

Thời gian đã đến 9 tháng, màn kịch hạ uy tín Sa-môn Gotama đến hồi chung cuộc. Nhóm tu-sĩ ngoại đạo gọi nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā đến, họ dùng một miếng gỗ đẽo hình dạng giống như cái thai sắp đến ngày sinh nở, có 4 đầu dây giăng. Nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā mang vào buộc chặt sau lưng, mặc áo phủ kín lại, nhìn giống như người mang thai thật. Nhóm tu-sĩ ngoại đạo làm cho nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā đóng vai giống như người đàn bà sắp đến ngày sinh nở.

Đức-Phật thắng nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā

Vào một buổi chiều, khi Đức-Phật đang ngự trên pháp tòa, tại giảng đường ngôi chùa Jetavana, tứ chúng thanh-văn đệ-tử đang ngồi im lặng lắng nghe pháp như thường lệ, thì nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā từ ngoài xồng xộc đi vào, đến trước Đức-Phật, chỉ tay buông lời mắng nhiếc:

-Này ông Đại-Sa-môn Gotama! Ông thuyết pháp thật là hay, thật là giỏi, ông tế độ biết bao nhiêu người, còn tôi sao ông không tế độ?

Tôi bụng mang dạ chửa là vì ông, ông nói ngon nói ngọt với tôi, bảo là sẽ giúp tôi thế này, thế nọ, …

Hôm nay, sắp đến ngày sinh nở, ông lo thuyết pháp tế độ người khác, chẳng đoái hoài gì đến tôi. Dù ông bận không lo cho tôi được, thì ông bảo những người hộ độ ông như Đức-vua Pasenadi, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà đại-thí-chủ Visākhā, … lo cho tôi cũng được. Nhưng đằng này, ông chỉ biết thỏa mãn dục vọng cá nhân, ông không hề biết đến nỗi khổ của tôi phải chịu bụng mang dạ chửa như thế này đây!

Nghe nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā mắng nhiếc, Đức-Phật ngưng thuyết pháp, vẫn ngồi an nhiên tự tại, an tịnh trên pháp tòa rồi từ tốn nói rằng:

“Bhagini, tayā kathitassa tathabhāvaṃ vā vitatha-bhāvaṃ vā ahameva ca tvañca jānāma.” [19]

- Này cô! Cô nói lời chân-thật hay lời giả-dối chỉ có cô và Như-Lai biết rõ mà thôi!

Nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā liền đáp:

- Đúng vậy! Này ông Đại-Sa-môn! Chỉ có ông và tôi biết rõ mà thôi!

Ngay giây phút ấy, tại cung trời Tam-thập-tam-thiên, bảo tòa của Đức-vua-trời Sakka nóng lên, với thiên-nhãn quan sát nguyên nhân, Đức-vua-trời thấy rõ nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā đang mắng nhiếc Đức-Phật trước tứ chúng thanh-văn đệ-tử, bởi những chuyện không có thật.

Đây là mưu kế thâm độc của nhóm tu-sĩ ngoại đạo, dùng cô kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā vô liêm sỉ, cố ý làm hạ uy tín của Đức-Phật trước tứ chúng thanh-văn đệ-tử. Đức-vua-trời Sakka quyết định phải làm sáng tỏ chuyện này.

Đức-vua-trời Sakka cùng với 4 vị thiên-nam xuất hiện xuống giảng đường ngôi chùa Jetavana ngay tức khắc.

Theo lệnh của Đức-Vua-Trời Sakka, 4 vị thiên-nam hóa thành 4 con chuột, cùng một lúc bò lên cắn đứt 4 sợi dây dùng để cột tấm gỗ, giống hình dạng bào thai sau lưng nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā, đồng thời Đức-Vua-Trời Sakka hóa một luồng gió thổi làm cho tấm gỗ kia rơi xuống đất, đụng nhằm hai bàn chân của nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā, làm cho đôi chân của nàng bầm máu.

Sự việc xảy ra trong thời gian ngắn ngủi, mọi sự thật hiển nhiên phơi bày trước mắt tứ chúng thanh-văn đệ-tử.

Nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā bị mắng nhiếc không tiếc lời, có người nhổ nước bọt rồi xua đuổi nàng kỹ-nữ ra khỏi khuôn viên ngôi chùa Jetavana.

Nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā thất vọng, thất tha, thất thểu bước đi ra vừa khuất tầm mắt của mọi người, mặt đất liền nứt ra làm hai, phát lên một tia lửa thiêu cháy nàng rồi hút nàng xuống sâu dưới lòng đất.

Sau khi nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā chết, ác-nghiệp [20] nói-dối vu khống ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy.

Chuyện nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā nói-dối vu khống Đức-Phật Gotama đã lan truyền khắp mọi nơi, từ xứ này sang xứ khác. Và ai ai cũng đều biết đó là mưu kế thâm độc đê tiện của nhóm tu-sĩ ngoại đạo.

Một số người trước kia còn hộ độ nhóm tu-sĩ ngoại đạo, nay họ nghe thấy như vậy, mất hết đức-tin, nên không còn cúng dường các thứ vật dụng cho nhóm tu-sĩ ngoại đạo nữa, đời sống của nhóm tu-sĩ ngoại đạo thiếu thốn khổ cực, nay lại càng bị tệ hại hơn nữa.

Dân chúng khắp mọi nơi phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, nên cúng dường đến Đức-Phật và chư tỳ-khưu-Tăng các thứ vật dụng càng ngày càng sung túc.

Số người đã có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo rồi, lại càng tăng trưởng đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo. Còn số người nào chưa có đức-tin nơi Tam-bảo, nay số người ấy lại có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo.

2- Tích tên Nanda hãm hiếp Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇāttherī

Chuyện tên Nanda hãm hiếp Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇāttherī [21]bậc Thánh A-ra-hán được tóm lược như sau:

* Tích tiền-kiếp của Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇāttherī

Trong thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, tiền-kiếp của Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇāttherī là một tiểu-thư của gia-đình phú hộ trong thành xứ Haṃsavatī.

Một hôm, cô tiểu-thư cùng với dân chúng trong thành đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Padumuttara, lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp. Nhân dịp ấy, Đức-Phật có tuyên dương một vị Đại-đức tỳ-khưu-ni là vị Thánh-nữ Tối-thượng thanh-văn đệ-tử xuất sắc nhất về phép-thần-thông trong các hàng Thánh-Nữ thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Padumuttara.

Nhìn thấy Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni ấy, cô tiểu-thư vô cùng hoan hỷ phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch muốn được địa vị cao quý như Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni ấy, nên cô tiểu-thư kính thỉnh Đức-Phật Pamuduttara ngự cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến tư gia, để tạo phước-thiện đại-thí suốt 7 ngày.

Đến ngày thứ 7, cô tiểu-thư kính bạch với Đức-Phật Padumuttara rằng:

-Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do phước-thiện đại-thí mà con đã tạo suốt 7 ngày qua, con chỉ muốn trở thành vị Đại-đức tỳ-khưu-ni là bậc Thánh-nữ Tối-thượng thanh-văn đệ-tử xuất sắc nhất về phép-thần-thông trong hàng Thánh-Nữ thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật trong thời vị-lai, như vị Đại-đức tỳ-khưu-ni là vị Thánh-nữ Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn bây giờ.

Đức-Phật Padumuttara thấy rõ, biết rõ cô tiểu-thư sẽ được thành-tựu, nên Đức-Phật thọ ký xác định rằng:

“-Này cận-sự-nữ! Từ đại-kiếp trái đất này, còn lại 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa. Đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, hậu-kiếp của con sẽ trở thành tỳ-khưu-ni là vị Thánh-nữ Tối-thượng thanh-văn đệ-tử xuất sắc nhất về phép-thần-thông trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.”

Sau khi nghe Đức-Phật Padumuttara thọ ký xác định thời gian còn lại như vậy, cô tiểu-thư vô cùng hoan hỷ tiếp tục bồi bổ 10 pháp-hạnh ba-la-mật suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa.

Trong sự tử sinh luân-hồi trong tam-giới trải qua vô số kiếp, những hậu-kiếp của cô tiểu-thư thực-hành, bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật khi thì tái-sinh làm vị thiên-nữ cao quý trong cõi trời, khi thì tái-sinh làm người nữ cao quý trong cõi người.

Có một kiếp người, cận-sự-nữ làm phước-thiện, cúng dường một đóa hoa sen hồng rất xinh đẹp đến Đức-Phật Độc-Giác vừa xả diệt-thọ-tưởng, do nhờ quả báu cúng dường đóa hoa sen ấy, mà kiếp nào cô cũng là người rất xinh đẹp, có màu da hồng hào như màu cánh sen hồng.

* Đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, kiếp áp chót của cô là vị thiên-nữ, sau khi chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh đầu thai làm con của gia đình phú hộ tại kinh-thành Sāvatthī.

Khi sinh ra, là một bé gái rất xinh đẹp, có màu da hồng hào như màu cánh sen hồng, nên đặt tên là Uppalavaṇṇā.

Khi đến tuổi trưởng thành, cô tiểu-thư nổi tiếng là người xinh đẹp trong cõi Nam-thiện-bộ-châu, các công-tử, phú hộ đều gởi người đến xin cầu hôn với cô tiểu-thư của ông phú hộ, khiến ông phú hộ gặp phải điều khó xử, bởi vì không thể nào làm vừa lòng tất cả những người ấy được. Cho nên, ông phú hộ chỉ còn có một cách gọi đứa con gái đến hỏi rằng:

- Amma pabbajituṃ sakkhissasi?

- Này con yêu quý! Con có muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni hay không?

Vốn kiếp này là kiếp chót của cô tiểu-thư, nên khi nghe phụ-thân hỏi đến pabbajituṃ (xuất gia), cô tiểu-thư vô cùng hoan hỷ thưa với phụ-thân rằng:

Pabbajissāmi tātā.

- Kính thưa phụ-thân, con muốn xuất-gia trở thành tỳ-khưu-ni. Thưa phụ-thân.

Ông phú hộ đưa cô tiểu-thư đến ngôi chùa tỳ-khưu-ni, xin cho cô tiểu-thư xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni.

Sau khi trở thành tỳ-khưu-ni không lâu, một hôm, ban đêm đốt đèn trong chánh-điện, nhìn thấy ánh sáng đèn, tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā dùng làm đề-mục thiền-định tejokasiṇa: đề-mục-lửa, để thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi sử dụng bậc thiền sắc-giới thiện-tâm làm nền tảng, làm đối-tượng thiền-tuệ, để thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, cùng với tứ-tuệ-phân-tích, đặc biệt chứng đắc lục-thông.

Về sau, Đức-Phật tuyên dương Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā là bậc Thánh-nữ Tối-thượng thanh-văn đệ-tử xuất sắc nhất về phép-thần-thông trong các hàng nữ Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, đúng theo nguyện vọng tiền-kiếp của Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā và đã được Đức-Phật Padumuttara thọ ký trong quá khứ.

Ngài Đại-đức Tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇāttherī bị hãm hiếp

Một thuở nọ, Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā sống ở trong cốc nhỏ trong rừng, Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni đi vào kinh-thành Sāvatthī để khất thực.

Khi tiểu-thư Uppalavaṇṇā còn sống tại-gia, tên Nanda là con của một người cô, say mê sắc đẹp của tiểu-thư Uppalavaṇṇā. Đến khi tiểu-thư Uppalavaṇṇa đã xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni và đã trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Tên Nanda theo dõi biết Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā ở trong rừng, biết giờ Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni đã đi khất thực, nên y lén vào cốc của Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā, nằm chờ ở dưới giường.

Khi khất thực độ xong, Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā trở về cốc, vừa ngồi lên giường, tên Nanda bò ra từ dưới giường, dùng sức mạnh cưỡng hiếp Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni.

Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni đã ngăn cấm rằng:

- Này tên si mê ngu muội (bāla)! Ngươi chớ nên làm điều tội lỗi!

- Này tên si mê! Ngươi chớ nên làm điều tội lỗi!

Mặc dù Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni đã ngăn cấm, nhưng tên Nanda vì quá si mê, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, nên đã dùng sức mạnh hãm hiếp Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni do năng lực dục vọng của y.

Y đã tạo ác-nghiệp trọng-tội nên mặt đất nứt nẻ ra, ngọn lửa phun lên hút y vào trong lòng đất.

Sau khi tên Nanda chết, ác-nghiệp trọng-tội cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci ngay trong ngày hôm ấy, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, bị thiêu đốt trong cõi đại-địa-ngục ấy suốt thời gian lâu dài nhiều đại-kiếp trái đất.[22]

Hiện-kiếp-quả-nghiệp (diṭṭhadhammavedanīyakam-ma) nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện-tại.

Ví dụ nôm na dễ hiểu như sau:

* Một kẻ cướp của sát nhân bị bắt quả tang, bị mọi người chê trách, bị nhà chức trách bắt giam giữ trong tù, chờ xét xử tội phạm, v.v… tòa tuyên án tội tử hình tên cướp của sát nhân ấy.

Đó là ác-nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện-tại.

* Một người cứu người khác thoát chết, nên được mọi người tán dương ca tụng, khen thưởng xứng đáng, v.v…

Đó là đại-thiện-nghiệp cho quả ngay kiếp hiện-tại.

III.2-Upapajjavedanīyakamma: Hậu-Kiếp-Quả-Nghiệp

Upapajjavedanīyakamma: Hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì).

Thế nào gọi là hậu-kiếp-quả-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì)?

Upapajjavedanīyaṃ phalaṃ etassāti: upapajja-vedanīyaṃ.

Nghiệp nào cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp liền sau khi kết thúc kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất), nghiệp ấy gọi là hậu-kiếp-quả-nghiệp, là nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ 2), đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) và 8 đại-thiện-tâm làm phận sự dục-giới tác-hành-tâm (kāmajavanakicca), sát-na tâm thứ 7 của dục-giới tác-hành-tâm (cuối cùng) trong mỗi dục-giới lộ-trình-tâm.

Upapajjavedanīyakamma:       Hậu-kiếp-quả-nghiệp      là nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp, có 2 loại nghiệp:

- Ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp.

- Đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp.

Dục-giới lộ-trình-tâm có 7 sát-na-tâm của dục-giới tác-hành-tâm (Kāmajavanacitta)

Mọi ác-nghiệp, mọi đại-thiện-nghiệp đều được thành tựu trong phần 7 sát-na dục-giới tác-hành-tâm (kāma-javanacitta) cùng một loại tâm sinh rồi diệt liên tục trong mỗi dục-giới lộ-trình-tâm mà thôi.

Trong 7 sát-na dục-giới tác-hành-tâm cùng một loại tâm sinh rồi diệt liên tục, mà tác-ý tâm-sở (cetanā-cetasika) đồng sinh trong mỗi sát-na dục-giới tác-hành-tâm làm phận sự tạo nghiệp cho quả khác nhau như sau:

- Tác-ý tâm-sở đồng sinh trong sát-na dục-giới tác-hành-tâm thứ nhất làm phận sự tạo nghiệp cho quả ngay kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất) gọi là hiện-kiếp-quả-nghiệp (diṭṭhadhammavedanīyakamma).

- Tác-ý tâm-sở đồng sinh trong sát-na dục-giới tác-hành-tâm thứ 7 làm phận sự tạo nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì) gọi là hậu-kiếp-quả-nghiệp (upapajjavedanīyakamma).

-Tác-ý tâm-sở đồng sinh trong 5 sát-na dục-giới tác-hành-tâm, từ sát-na dục-giới tác-hành-tâm thứ 2 đến sát-na dục-giới tác-hành-tâm thứ 6 làm phận sự tạo nghiệp có cơ hội cho quả kiếp sau sau, từ kiếp này đến kiếp kia, kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán trước khi tịch diệt Niết-bàn (nếu có cơ hội thì cho quả) gọi là kiếp-kiếp-quả-nghiệp (aparā-pariyavedanīyakamma).

Thật ra, trong 7 sát-na dục-giới tác-hành-tâm trong mỗi dục-giới lộ-trình-tâm, thì sát-na dục-giới tác-hành-tâm thứ 7 đóng vai trò chính yếu trong mọi thân hành động, khẩu nói năng, ý suy nghĩ để tạo thân ác-nghiệp hoặc thân thiện-nghiệp, khẩu ác-nghiệp hoặc khẩu thiện-nghiệp, ý ác-nghiệp hoặc ý thiện-nghiệp. Cho nên, sát-na dục-giới tác-hành-tâm thứ 7 cuối cùng này có nhiều năng lực hơn 6 sát-na dục-giới tác-hành-tâm trước, bởi vì, sát-na dục-giới tác-hành-tâm thứ 7 tiếp nhận được đầy đủ sự hỗ trợ của thường-tác-duyên (āsevanapaccaya) từ 6 sát-na dục-giới tác-hành-tâm sinh rồi diệt theo tuần tự.

Vì vậy, tác-ý tâm-sở đồng sinh với sát-na dục-giới tác-hành-tâm thứ 7 này tạo nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì) liền sau khi kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất) kết thúc (chết), không có khoảng cách thời gian chờ đợi; nghĩa là trong cận-tử lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthicitta) các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự đến tử-tâm (cuticitta) diệt (chết) kết thúc kiếp hiện-tại cũ, liền tiếp theo tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) sinh (1 sát-na-tâm) bắt đầu kiếp mới (kiếp hiện-tại mới), rồi diệt, tiếp theo là hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) giữ gìn suốt kiếp hiện-tại của mỗi chúng-sinh nói chung, mỗi con người nói riêng.

Cho nên, tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) kiếp hiện-tại mới này hoàn toàn khác với tử-tâm (cuticitta) kiếp trước.

III.2.1-Ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp

Trong tất cả mọi ác-nghiệp thì chỉ có ác-nghiệp trọng-yếu (akusala garukakamma) là ác-nghiệp chắc chắn cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì) mà thôi.

Ác-nghiệp trọng-yếu có 2 loại đó là ác-nghiệp tà-kiến cố-định ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội.

Trong 2 loại ác-nghiệp trọng-yếu này, nếu người nào có ác-nghiệp tà-kiến cố-định là ác-nghiệp hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp, có tà-kiến chấp-thủ, không chịu từ bỏ cho đến lúc lâm chung, thì sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp tà-kiến cố-định có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp (paṭisandhikāla) suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp ấy gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm chúng-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong đại-địa-ngục này suốt thời gian lâu dài nhiều đại-kiếp trái đất không hạn định.

Nếu người nào không có ác-nghiệp tà-kiến cố-định, mà có ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết mẹ, giết cha, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật, chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng, dù phạm 1 trong 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội này, sau khi người ấy chết, thì chắc chắn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội này có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp (paṭisandhikāla) suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp ấy gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm chúng-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong đại-địa-ngục ấy suốt thời gian lâu dài nhiều đại-kiếp trái đất, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục được.

Hai loại ác-nghiệp trọng-yếu này chính là upapajja-vedanīyakamma: hậu-kiếp-quả-nghiệp đó là ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì) liền sau khi kiếp hiện-tại thứ nhất kết thúc (chết).

Ngoài 2 loại ác-nghiệp trọng-yếu này ra, còn lại các ác-nghiệp khác, sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp nào gặp nghịch-duyên (vipatti) có cơ hội thì ác-nghiệp ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp (paṭisandhi-kāla) suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp ấy gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp vào 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.

III.2.2-Đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp

Trong tất cả mọi đại-thiện-nghiệp không có đại-thiện-nghiệp nào gọi là đại-thiện-nghiệp chắc chắn cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp. Cho nên, sau khi người nào chết, nếu đại-thiện-nghiệp nào gặp thuận-duyên (sampatti) có cơ hội thì đại-thiện-nghiệp ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau vào 1 trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới. Đại-thiện-nghiệp ấy gọi là upapajjavedanīyakamma: hậu-kiếp-quả-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì) liền sau khi kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất) kết thúc (chết).

Tóm lại, nghiệp upapajjavedanīyaamma: hậu-kiếp-quả-nghiệp có 2 loại nghiệp là ác-nghiệp và đại-thiện-nghiệp cho quả kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì) có 2 thời-kỳ:

1- Hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp (paṭisandhikāla)(kiếp thứ nhì).

2- Hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh kiếp kế-tiếp (pavattikāla), kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhì).

Tất cả mọi ác-nghiệp, mọi đại-thiện-nghiệp thuộc về upapajjavedanīyakamma: hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp (paṭisandhi-kāla) (kiếp thứ nhì) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhì).

Nếu upapajjavedanīyakamma: Hậu-kiếp-quả-nghiệp nào không có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp (paṭisandhikāla) (kiếp thứ nhì) và cũng không có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh kiếp kế-tiếp (pavattikāla) kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhì), thì upapajja-vedanīyakamma ấy đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không còn có cơ hội nào cho quả được nữa.

Nghiệp theo thời gian cho quả được phân định căn cứ

7 sát-na dục-giới tác-hành-tâm trong mỗi lộ-trình-tâm.

* Tâm-sở tác-ý trong dục-giới tác-hành-tâm thứ nhất gọi là diṭṭhadhammavedanīyakamma: hiện-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp chỉ cho quả trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất) mà thôi.

* Tâm-sở tác-ý trong dục-giới tác-hành-tâm thứ 7 gọi là upapajjavedanīkamma: hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp chỉ cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì) sau kiếp hiện-tại kết thúc mà thôi.

Vì vậy, diṭṭhadhammavedanīyakamma upapajja-vedanīkamma này gọi là nghiệp cho quả theo thời gian nhất định.

III.3-Aparāpariyavedanīyakamma: Kiếp-kiếp-quả-nghiệp

Aparāpariyavedanīyakamma: Kiếp-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả từ kiếp này đến kiếp kia, kể từ kiếp thứ 3, cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

Thế nào gọi là kiếp-kiếp-quả-nghiệp?

Aparāpariyāyavedanīyaṃ phalaṃ etassāti: Aparā-pariyāyavedanīyaṃ.

Nghiệp nào nếu có cơ hội thì nghiệp ấy cho quả từ kiếp này sang kiếp kia, kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn, nghiệp ấy gọi là aparāpariyavedanīyakamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp. Đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) và 8 đại-thiện-tâm làm phận sự dục-giới tác-hành-tâm (kāmajavanakicca) từ sát-na tác-hành-tâm thứ 2 cho đến sát-na tác-hành-tâm thứ 6 gồm có 5 sát-na-tâm trong mỗi lộ-trình-tâm.

Dục-giới tác-hành-tâm (kāmajavanacitta) có 7 sát-na-tâm trong mỗi dục-giới lộ-trình-tâm, 3 loại nghiệp cho quả theo thời gian nhất định như sau:

1- Tác-hành-tâm thứ nhất có diṭṭhadhammavedanīya-kamma: hiện-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp chỉ cho quả trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất) mà thôi.

2- Tác-hành-tâm thứ 7 có upapajjavedanīyakamma: hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp chỉ cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì) sau kiếp hiện-tại kết thúc mà thôi.

3- Tác-hành-tâm thứ 2 cho đến tác-hành-tâm thứ 6 gồm 5 sát-na-tâm có aparāpariyavedanīyakamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp có cơ hội cho quả từ kiếp này sang kiếp kia, kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

Dục-giới lộ-trình-tâm có 7 sát-na-tâm của dục-giới tác-hành-tâm (Kāmajavanacitta)

Aparāpariyavedanīyakamma: Kiếp-kiếp-quả-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 ác-tâm và 8 đại-thiện-tâm.

Mỗi chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài như sau:

* Nếu ác-nghiệp thuộc về loại aparāpariyavedanīya-kamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp có cơ hội cho quả thì cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh, từ kiếp này đến kiếp kia, kể từ kiếp thứ 3 kế tiếp cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

* Nếu đại-thiện-nghiệp thuộc về loại aparāpariya-vedanīyakamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp có cơ hội cho quả thì cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi-sandhikāla) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), từ kiếp này đến kiếp kia, kể từ kiếp thứ 3 kế tiếp cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

Như vậy, trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, mỗi chúng-sinh từ vô thủy trải qua vô số kiếp cho đến kiếp hiện-tại đã lưu-trữ ở trong tâm tất cả mọi ác-nghiệp, mọi đại-thiện-nghiệp thuộc về loại aparāpariya-vedanīyakamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp, nếu nghiệp nào có cơ hội cho quả thì nghiệp ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), nghiệp cho quả từ kiếp này đến kiếp kia, kể từ kiếp thứ 3, cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

Cho nên, mỗi chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng còn tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài thì aparāpariyavedanīyakamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp không trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) được.

Tuy nhiên, nếu khi nào bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, thì khi ấy không chỉ có tất cả mọi ác-nghiệp và mọi đại-thiện-nghiệp thuộc về loại aparāpariyavedanīyakamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp mới thật sự trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), mà còn tất cả mọi ác-nghiệp, mọi thiện-nghiệp đã được lưu trữ ở trong tâm từ vô thủy trải qua vô số kiếp cho đến kiếp hiện-tại cũng đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không còn có cơ hội cho quả của tất cả mọi nghiệp được nữa.

Thật ra, đối với bậc Thánh A-ra-hán khi hành động bằng thân, nói năng bằng khẩu, suy nghĩ bằng ý không còn gọi là nghiệp nữa, bởi vì tác-ý tâm-sở đồng sinh với duy-tác-tâm (kiriyacitta) làm phận sự tác-hành-tâm trong mọi lộ-trình-tâm, không tạo nghiệp nào cả.

Như vậy, bậc Thánh A-ra-hán không còn tạo nghiệp mới nào cả. Song tất cả mọi nghiệp cũ gồm có tất cả mọi ác-nghiệp, mọi đại-thiện-nghiệp đã tích lũy từ vô thủy trải qua vô số kiếp trong quá khứ cho đến kiếp hiện-tại trước khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, tất cả mọi nghiệp ấy, nếu nghiệp nào có cơ hội thì nghiệp ấy cho quả của nghiệp, trong khoảng thời gian trước khi bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn.

* Sau khi bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, đồng thời tất cả mọi ác-nghiệp, mọi thiện-nghiệp mới thật sự đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả của nghiệp được nữa.

4 loại nghiệp cho quả theo thời gian

Trong cõi dục-giới, nếu mỗi dục-giới lộ-trình-tâm có đầy đủ 7 sát-na dục-giới tác-hành-tâm (kāmajavanacitta) sinh rồi diệt liên tục qua mỗi dục-giới lộ-trình-tâm, thì 3 loại nghiệp được thành tựu cùng trong mỗi dục-giới lộ-trình-tâm ấy là:

1- Diṭṭhadhammavedanīyakamma: Hiện-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp được thành-tựu trong sát-na dục-giới tác-hành-tâm thứ nhất, cho quả ngay trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất).

Nếu nghiệp nào không có cơ hội cho quả trong kiếp hiện-tại, thì nghiệp ấy trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nghiệp được nữa.

2- Upapajjavedanīyakamma: Hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp được thành-tựu trong sát-na dục-giới tác-hành-tâm thứ 7 cuối cùng, cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì).

Nếu nghiệp nào không có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì) thì nghiệp ấy trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không còn hiệu lực cho quả của nghiệp được nữa.

3- Aparāpariyavedanīyakamma: Kiếp-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp được thành-tựu trong sát-na dục-giới tác-hành-tâm thứ 2 đến sát-na dục-giới tác-hành-tâm thứ 6, nếu có cơ hội cho quả thì cho quả từ kiếp này đến kiếp kia, kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

Sau khi Bậc Thánh A-ra-hán đã tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, thì tất cả mọi ác-nghiệp, mọi thiện-nghiệp thuộc về aparāpariya-vedanīyakamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp và tất cả mọi nghiệp đã được lưu trữ ở trong tâm từ vô thủy trải qua vô số kiếp, cho đến kiếp hiện-tại trước khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, cũng đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không còn hiệu lực cho quả của nghiệp được nữa.

Dục-giới lộ-trình-tâm

* Ngũ-môn lộ-trình-tâm

Ví dụ: Nhãn-môn lộ-trình-tâm tiếp nhận đối-tượng sắc rõ ràng, thì nhãn-môn lộ-trình-tâm có các loại tâm theo tuần tự sinh rồi diệt liên tục qua 17 sát-na tâm theo thời gian tuổi thọ của đối-tượng sắc ấy.

Đồ biểu nhãn-môn lộ-trình-tâm

Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm có đối tượng cũ (viết tắt bha).

1-Atītabhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm có đối-tượng sắc mới hiện-tại (viết tắt atī).

2- Bhavaṅgacalanacitta: Hộ-kiếp-tâm rung động do đối-tượng sắc mới (viết tắt na).

3- Bhavaṅgapacchedacitta: Hộ-kiếp-tâm bị cắt do đối-tượng sắc mới (viết tắt da).

4- Pañcadvāravajjanacitta: Ngũ-môn hướng-tâm có khả năng tiếp nhận 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc (viết tắt pañ).

5- Cakkhuviññāṇacitta: Nhãn-thức-tâm làm phận sự nhìn thấy đối-tượng sắc (viết tắt cak).

6- Sampaṭichanacitta: Tiếp-nhận-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng sắc (viết tắt sam).

7- Santīraṇacitta: Suy-xét-tâm làm phận sự suy xét đối-tượng sắc tốt hoặc xấu (viết tắt san).

8- Voṭṭhabbanacitta: Xác-định-tâm đó là ý-môn hướng-tâm làm phận sự xác định đối-tượng sắc (vt. voṭ).

9-15-Javanacitta: Tác-hành-tâm làm phận sự tạo ác-nghiệp hoặc đại-thiện-nghiệp hoặc đại-duy-tác-tâm (tâm của bậc Thánh A-ra-hán) (viết tắt ja).

16-17-Tadālambanacitta: Tiếp-đối-tượng-tâm làm phận sự tiếp đối-tượng sắc, còn lại 2 sát-na tâm nữa là hết tuổi thọ của đối-tượng sắc, đồng thời chấm dứt nhãn-môn lộ-trình-tâm (viết tắt ta).

- Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm trở lại tiếp nhận đối-tượng cũ.

Đó là nhãn-môn lộ-trình-tâm, tương tự như vậy nhĩ-môn lộ-trình-tâm, tỷ-môn lộ-trình-tâm, thiệt-môn lộ-trình-tâm, thân-môn lộ-trình-tâm, mỗi lộ-trình-tâm chỉ khác mỗi thức-tâm làm phận sự tiếp xúc biết đối-tượng như:

- Nhĩ-thức-tâm làm phận sự nghe đối-tượng âm-thanh.

- Tỷ-thức-tâm làm phận sự ngửi đối-tượng hương.

- Thiệt-thức-tâm làm phận sự nếm đối-tượng vị.

- Thân-thức-tâm làm phận sự xúc giác đối-tượng xúc.

* Ý-môn lộ-trình-tâm

Ý-môn lộ-trình-tâm có nhiều loại, ví dụ ý-môn lộ-trình-tâm dục-giới tác-hành-tâm.

Ý-môn lộ-trình-tâm dục-giới tác-hành-tâm sinh rồi diệt liên tục theo tuần tự như sau:

Đồ biểu ý-môn dục-giới lộ-trình-tâm

Những chữ viết tắt giống như ngũ-môn lộ-trình-tâm, chỉ còn manodvāravajjanacitta: ý-môn hướng-tâm tiếp nhận 1 trong 6 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. (viết tắt ma).

Ý-môn dục-giới lộ-trình-tâm có dục-giới tác-hành-tâm sinh rồi diệt liên tục theo tuần tự qua mỗi ý-môn dục-giới lộ-trình-tâm có nhiều nhất 12 sát-na tâm.

Trong đời sống hằng ngày đêm của mỗi chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng trải qua mỗi dục-giới lộ-trình-tâm có đầy đủ 7 sát-na tác-hành-tâm trong mỗi dục-giới lộ-trình-tâm ấy, đã tạo 3 loại nghiệp cho quả theo thời gian nhất định như sau:

1- Tác-hành-tâm thứ nhất có diṭṭhadhammavedanīya-kamma: hiện-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp chỉ cho quả trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất) mà thôi.

2- Tác-hành-tâm thứ 7 có upapajjavedanīyakamma: hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp chỉ cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì) sau kiếp hiện-tại kết thúc mà thôi.

3- Tác-hành-tâm thứ 2 cho đến tác-hành-tâm thứ 6 gồm có 5 sát-na-tâm có aparāpariyavedanīyakamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp có cơ hội cho quả từ kiếp này sang kiếp kia, kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

* Có trường hợp nào không tạo nghiệp hay không?

Trong cuộc sống của mỗi chúng-sinh còn là các hạng phàm-nhân và bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai, hằng ngày đêm, đều có tạo nghiệp ác-nghiệp hoặc đại-thiện-nghiệp, bằng thân hoặc bằng khẩu hoặc bằng ý.

Ngoại trừ, trong trường hợp khi nào, người nào đang nằm ngủ say, không mộng mị, chiêm bao, ... thì khi ấy, người ấy không tạo nghiệp nào cả, bởi vì khi ngủ say chỉ có hộ-kiếp-tâm có đối-tượng cũ kamma hoặc kammanimitta hoặc gatinimitta trong kiếp trước (không phải là đối-tượng trong kiếp hiện-tại), sinh rồi diệt liên tục suốt thời gian ngủ say, không có lộ-trình-tâm nào phát sinh. Vì vậy, người ấy không tạo nghiệp nào cả (không tạo ác-nghiệp, cũng không tạo đại-thiện-nghiệp).

Nhưng khi người ấy nằm mộng, chiêm bao, ... khi ấy có mộng lộ-trình-tâm (supinavīthicitta) phát sinh, nên có đại-thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp:

* Đại-thiện-nghiệp trong mộng như:

- Trường hợp bà Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmayā-devī nằm mộng thấy con bạch tượng cao thượng chui vào người bà vào canh chót đêm rằm tháng 6 âm lịch. Đó là lúc Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót tái-sinh đầu thai vào lòng Mẫu-hậu.

- Trường hợp Đức-Bồ-tát Siddhattha nằm thấy 5 đại-mộng vào canh chót đêm 14 tháng 4 âm lịch. Đức-Bồ-tát Siddhattha tiên đoán, chắc chắn Đức-Bồ-tát sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

- Trường hợp người nằm mộng thấy mình bay trên hư không từ ngọn núi này sang ngọn núi khác, v.v... khi tỉnh dậy cảm thấy an-lạc.

* Ác-nghiệp trong mộng như:

- Người nằm thấy ác mộng như cảnh rùng rợn, cảnh thú dữ đuổi, cảnh bị rơi xuống hố sâu, v.v… khi tỉnh dậy cảm thấy hồi hộp, bàng hoàng, sợ sệt, v.v…

Thật ra, đại-thiện-nghiệp, ác-nghiệp trong mộng, chiêm bao không có năng lực cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

Tính chất của Upapajjavedanīyakamma và Aparāpariyavedanīyakamma

* Ác-nghiệp và quả của ác-nghiệp

Người nào đã tạo ác-nghiệp nặng nào, chắc chắn phải trải qua vô số dục-giới lộ-trình-tâm phát sinh, các tâm sinh rồi diệt liên tục trải qua 7 sát-na dục-giới tác-hành-tâm (kāmajavanacitta) tạo ác-nghiệp nặng ấy, nên ác-nghiệp nặng ấy cũng có vô số.

Sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp nặng ấy có cơ hội cho quả, thì cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp (paṭisandhikāla) (kiếp thứ 2) trong cõi đại-địa-ngục, do ác-nghiệp nặng upapajjavedanīyakamma.

Đến khi mãn quả của ác-nghiệp nặng ấy, được thoát ra khỏi cõi đại-địa-ngục ấy, rồi ác-nghiệp nặng ấy lại cho quả tái-sinh trong cõi tiểu-địa-ngục khác hoặc tái-sinh làm loài ngạ-quỷ, hoặc tái-sinh làm loài súc-sinh, v.v... do ác-nghiệp nặng aparāpariyavedanīyakamma ấy.

Ác-nghiệp nặng aparāpariyavedanīyakamma ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi-sandhikāla) và cho quả cả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, từ kiếp này đến kiếp kia, kể từ kiếp thứ 3, tiếp tục nhiều kiếp sau không có hạn định, nếu ác-nghiệp nặng aparāpariyavedanīyakamma ấy vẫn còn có cơ hội cho quả cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

* Trong Chú-giải ví dụ trường hợp:

Người nào đã tạo ác-nghiệp sát-sinh giết một con heo để ăn thịt. Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp sát-sinh giết heo ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục, do ác-nghiệp upapajjavedanīyakamma.

Đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, được thoát ra khỏi cõi địa-ngục. Khi thì ác-nghiệp ấy lại có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau sinh làm loài súc-sinh, khi thì đại-thiện-nghiệp cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau sinh làm người, v.v... dù sinh kiếp nào cũng bị giết chết như vậy, số kiếp bị giết bằng số lông của con heo mà người ấy đã giết heo trong kiếp quá-khứ.

Đó là do năng lực của ác-nghiệp aparāpariya-vedanīyakamma sát-sinh giết heo của người ấy trong kiếp quá-khứ còn có cơ hội cho quả của nghiệp.

* Pháp-hạnh ba-la-mật thuộc về đại-thiện-nghiệp

Chư Đức-Bồ-tát đã từng tạo các pháp-hạnh ba-la-mật như bố-thí ba-la-mật, giữ-giới ba-la-mật, xuất-gia ba-la-mật, v.v... thuộc về đại-thiện-nghiệp ba-la-mật được thành-tựu trong vô số dục-giới lộ-trình-tâm, 7 sát-na dục-giới tác-hành-tâm (kāmajavanacitta), gồm có 3 loại nghiệp cho quả theo thời gian.

-Đức-Bồ-tát nào đang bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn đúng theo ý nguyện, Đức-Bồ-tát ấy hưởng mọi sự an-lạc là quả của đại-thiện-nghiệp diṭṭhadhammavedanīyakamma: hiện-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả trong kiếp hiện-tại.

- Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao upapajjavedanīyakamma: hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả tái-sinh kiếp chót đầu thai làm người tam-nhân.

- Kiếp hiện-tại của Đức-Bồ-tát kiếp tam-nhân ấy được hưởng mọi sự an-lạc trong cuộc sống, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán. Đó là quả của các pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn thuộc về đại-thiện-nghiệp diṭṭhadhammavedanīyakamma: hiện-kiếp-quả-nghiệp, và đại-thiện-nghiệp bậc cao upapajjavedanīya-kamma: hậu-kiếp-quả-nghiệp cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, và aparā-pariyavedanīyakamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp có cơ hội tùy thời cho quả kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán.

III.4-Ahosikamma: Vô-Hiệu-Quả-Nghiệp

Thế nào gọi là vô-hiệu-quả-nghiệp?

“Ahosi ca taṃ kammañcāti: Ahosikammaṃ.”

Nghiệp nào đã được tạo xong mà không có cơ hội cho quả của nghiệp, nghiệp ấy gọi là vô-hiệu-quả-nghiệp.

Trong bộ Paṭisambhidāmaggapāḷi trình bày rằng:

“Ahosi kammaṃ nāhosi kammavipāko,

 ahosi kammaṃ natthi kammavipāko,

ahosi kammaṃ na bhavissati kammavipāko.”

- Nghiệp đã tạo, mà không có quả của nghiệp trong thời quá-khứ.

- Nghiệp đã tạo, mà không có quả của nghiệp trong thời hiện-tại.

- Nghiệp đã tạo, mà không có quả của nghiệp trong thời vị-lai.

Trong dục-giới lộ-trình-tâm phát sinh đầy đủ trải qua 7 sát-na dục-giới tác-hành-tâm (kāmajavanacitta), tác-ý tâm-sở đồng sinh với 7 tác-hành-tâm tạo nghiệp.

Dục-giới tác-hành-tâm đó là 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm) và 8 đại-thiện-tâm.

* Sát-na dục-giới tác-hành-tâm thứ nhất gọi là diṭṭhadhammavedanīyakamma: hiện-kiếp-quả-nghiệp nghiệp chỉ cho quả ngay trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất) mà thôi.

Nếu nghiệp nào không có cơ hội cho quả trong kiếp hiện-tại thì nghiệp ấy trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả được nữa.

* Sát-na dục-giới tác-hành-tâm thứ 7 cuối cùng gọi là upapajjavedanīyakamma: hậu-kiếp-quả-nghiệp nghiệp chỉ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh kiếp kế-tiếp (pavattikāla), kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhì) mà thôi.

Nếu nghiệp nào không có cơ hội cho quả trong 2 thời-kỳ trong kiếp thứ nhì ấy thì nghiệp ấy trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp, không còn có cơ hội cho quả được nữa.

* Sát-na dục-giới tác-hành-tâm thứ 2 cho đến thứ 6 gồm có 5 sát-na dục-giới tác-hành-tâm gọi là aparāpariyavedanīyakamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp nghiệp có cơ hội cho quả từ kiếp này đến kiếp kia, kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

Sau khi bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, thì không chỉ aparāpariyavedanīyakamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp mà còn tất cả mọi ác-nghiệp, mọi đại-thiện-nghiệp đã lưu-trữ ở trong tâm từ vô thủy trải qua vô số kiếp quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại trước khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, tất cả mọi nghiệp ấy thật sự đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp không còn có cơ hội cho quả được nữa.

Như vậy, tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) gọi là vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không có trong 7 sát-na dục-giới tác-hành-tâm nào nhất định, mà sự-thật tác-ý tâm-sở này đều ẩn trong 7 sát-na dục-giới tác-hành-tâm, khi nào 3 loại nghiệp diṭṭhadhammavedanīyakamma, upapajjavedanīyakamma, aparāpariyavedanīyakamma không còn có cơ hội cho quả của nghiệp được nữa, khi ấy trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp .

Thật vậy, trong Chú-giải Sammohavinodānī aṭṭha-kathā, phần Ñāṇavibhaṅga giải thích rằng:

“Diṭṭhidhammavedanīyādīsu pana bahūsu pi āyūhitesu ekaṃ diṭṭhadhammavedanīyaṃ vipākaṃ deti, sesāni avipākāni, ekaṃ uppajjavedanīyaṃ paṭisandhiṃ ākaḍḍhati, sesāni avipākāni, ekena anantariyena niraye uppaccati, sesāni avipākāni, … Aṭṭhasu samāpattīsu ekāya brahmaloke nibbattati, sesā avipākā. Idaṃ sandhāya nāhosi kammavipāko’ti vuttaṃ.”

* Trong tất cả mọi nghiệp diṭṭhadhammavedanīya-kamma đã tạo, đã tích lũy trong kiếp hiện-tại, một nghiệp diṭṭhadhammavedanīyakamma nào có cơ hội cho quả ngay trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất), các nghiệp diṭṭhadhammavedanīyakamma khác còn lại không có cơ hội cho quả của nghiệp trong kiếp hiện-tại đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma).

* Trong tất cả mọi nghiệp upapajjavedanīyakamma, một nghiệp upapajjavedanīyakamma nào có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ 2), các nghiệp upapajjavedanīyakamma khác còn lại không có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ 2) đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma).

* Trong 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, chỉ có một ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội nặng nhất có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh (paṭisandhi-kāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ 2) trong cõi đại-địa-ngục Avīci mà thôi. Còn 4 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội còn lại đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosi-kamma) không có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau, nhưng các ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội còn lại trở thành hỗ-trợ-nghiệp làm phận sự hỗ trợ cho ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội có cơ hội cho quả càng thêm nặng hơn nữa.

* Trong 9 bậc thiền thiện-nghiệp là 5 sắc-giới thiện-nghiệp và 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp, chỉ có đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp gọi là phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-nghiệp trong phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh (paṭisandhikāla) có phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ 2) trên tầng trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên, có tuổi thọ lâu nhất là 84.000 đại-kiếp trái đất mà thôi. Còn 5 bậc thiền sắc-giới thiện-nghiệp và 3 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp bậc thấp còn lại đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả của nghiệp được nữa.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đề cập đến loại nghiệp cho quả theo thời gian, có dạy rằng: “Nāhosi kammavipāko.”

Giảng giải

Trong cuộc sống hằng ngày đêm, người nào đã tạo và tích lũy những loại nghiệp như diṭṭhadhammavedanīya-kamma: hiện-kiếp-quả-nghiệp, v.v…

* Trong tất cả mọi nghiệp diṭṭhadhammavedanīya-kamma: hiện-kiếp-quả-nghiệp ấy, chỉ có một nghiệp diṭṭhadhammavedanīyakamma có cơ hội cho quả trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất) mà thôi. Còn các nghiệp diṭṭhadhammavedanīyakamma khác còn lại không có cơ hội cho quả trong kiếp hiện-tại, nên đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma).

* Trong tất cả mọi nghiệp upapajjavedanīyakamma: hậu-kiếp-quả-nghiệp ấy, chỉ có một nghiệp upapajja-vedanīyakamma có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh (paṭisandhikāla) kiếp sau (kiếp thứ 2) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại (kiếp thứ 2) mà thôi. Còn các nghiệp upapajjavedanīya-kamma khác còn lại không có cơ hội cho quả trong 2 thời-kỳ (kiếp thứ 2), nên đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma).

* Trong tất cả mọi nghiệp aparāpariyavedanīyakam-ma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp nghiệp có cơ hội cho quả từ kiếp này đến kiếp kia, kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

Khi nào bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, khi ấy không chỉ aparāpariyavedanīyakamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp mà còn tất cả mọi ác-nghiệp, mọi đại-thiện-nghiệp đã lưu trữ ở trong tâm từ vô thủy trải qua vô số kiếp quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại trước khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, tất cả mọi nghiệp ấy đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp không còn có cơ hội cho quả được nữa.

Tuy nhiên, tác-ý tâm-sở đồng sinh với bất-thiện-tâm yếu, tạo ác-nghiệp không đủ chi-pháp, quá nhẹ hoặc tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm yếu, tạo đại-thiện-nghiệp không đủ chi-pháp, quá nhẹ, nên ác-nghiệp quá nhẹ ấy, hoặc đại-thiện-nghiệp quá nhẹ ấy đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) trong trường-hợp như sau:

* Ác-nghiệp quá nhẹ trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp

Ví dụ: Trường hợp người cận-sự-nam gặp bạn thân mời vào quán uống rượu, bia, trò chuyện hàn huyên với nhau, vì cả nể bạn nên miễn cưỡng uống chút rượu, bia cho có, đã phạm điều-giới uống rượu, bia, tạo ác-nghiệp uống rượu, bia nhẹ. Sau đó, người cận-sự-nam biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, nên tự nguyện thọ-trì ngũ-giới trở lại, trở thành người cận-sự-nam có ngũ-giới.

Vì vậy, ác-nghiệp uống rượu, bia nhẹ ấy không có năng lực cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi-sandhikāla), nếu có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, thì quả của ác-nghiệp ấy không đáng kể, nên ác-nghiệp quá nhẹ ấy trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma).

* Đại-thiện-nghiệp nhẹ trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp

Ví dụ: Trường hợp người cận-sự-nam gặp bạn thân tác-động tạo phước-thiện nhỏ giúp người ác không có giới, vì cả nể bạn nên miễn cưỡng làm cho có. Vì vậy, đại-thiện-nghiệp ấy quá nhẹ ấy không có năng lực cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), nếu có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh kiếp sau (pavattikāla), kiếp hiện-tại, thì quả của đại-thiện-nghiệp quá nhẹ ấy không đáng kể, cho nên đại-thiện-nghiệp rất nhẹ ấy trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp.

Tóm lại Pākakālacatukka: 4 loại nghiệp cho quả theo thời gian:

Phần 4 loại nghiệp trong cùng dục-giới lộ-trình-tâm có 7 sát-na tác-hành-tâm cho quả theo thời gian:

4 loại nghiệp ấy là:

1- Tác-ý tâm-sở trong sát-na tác-hành-tâm thứ nhất gọi là diṭṭhadhammavedanīyakamma: hiện-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất).

2- Tác-ý tâm-sở trong sát-na tác-hành-tâm thứ 7 cuối cùng gọi là upapajjavedanīyakamma: hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp và cho quả sau khi đã tái-sinh (kiếp thứ nhì).

3- Tác-ý tâm-sở trong sát-na tác-hành-tâm thứ 2 đến sát-na tác-hành-tâm thứ 6 gọi là aparāpariyavedanīya-kamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp có cơ hội cho quả từ kiếp này đến kiếp kia, kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

4- Tác-ý tâm-sở trong 7 sát-na tác-hành-tâm quá hạn định thời gian cho quả của mỗi nghiệp gọi là ahosi-kamma: vô-hiệu-quả-nghiệp là nghiệp không còn hiệu lực cho quả của mỗi nghiệp được nữa.

Nguyên-nhân 3 nghiệp cho quả theo thời gian khác nhau

Trong bộ Paramatthadīpanīmahāṭīkā, Ngài Đại-Trưởng lão Le-di (Myanmar) giải thích rằng:

Trong 7 dục-giới tác-hành-tâm phân loại như sau:

- Tác-hành-tâm thứ 1 đến tác-hành-tâm thứ 3 gọi là tác-hành-tâm tăng.

- Tác-hành-tâm thứ 5 đến tác-hành-tâm thứ 7 gọi là tác-hành-tâm giảm.

- Tác-hành-tâm thứ 4 gọi là tác-hành-tâm đỉnh.

Xét về năng lực của mỗi tác-hành-tâm ấy:

- Tác-hành-tâm thứ nhất có năng lực yếu, bởi vì phát sinh đầu tiên chưa tiếp nhận sự hỗ trợ của āsevana-paccaya: thường-tác-duyên.

- Tác-hành-tâm thứ 7 tuy đã tiếp nhận được sự hỗ trợ của āsevanapaccaya: thường-tác-duyên của 6 tác-hành-tâm trước, nhưng năng lực đã giảm xuống, bởi vì tác-hành-tâm cuối cùng tiếp nhận thường-tác-duyên của tác-hành-tâm thứ 6 yếu dần rồi.

- Tác-hành-tâm thứ 2 đến tác-hành-tâm thứ 6 có nhiều năng lực nhất, bởi vì tiếp nhận sự hỗ trợ của các āsevanapaccaya: thường-tác-duyên, do không phải phát sinh đầu tiên, cũng không phải phát sinh cuối cùng.

Do nguyên-nhân ấy nên 3 loại nghiệp này cho quả theo thời gian khác nhau.

Ví dụ có 3 loại cây ăn quả:

-Loại cây ăn quả thứ nhất được gieo trồng trên đất màu mỡ xong, biết săn sóc chăm bón phân tốt, thời tiết mưa thuận gió hòa nên cho quả ngắn ngày, khi cho quả rồi cây sẽ chết khô, ví như cây bắp, cây mè, cây đậu,v.v… bởi vì các loại cây này không có lõi, nên không thể sống lâu ngày được.

- Loại cây ăn quả thứ nhì được trồng trên đất màu mỡ, rồi biết săn sóc chăm bón, thời tiết mưa thuận gió hòa đến năm thứ nhì mới cho quả, sau khi cho quả rồi, cây sẽ chết dần, ví như cây chuối, cây dưa, cây thơm (dứa), v.v… bởi vì các loại cây này cũng không có lõi, nên không thể sống lâu nhiều năm được.

- Loại cây ăn quả thứ ba được trồng trên đất màu mỡ, cây trưởng thành sau nhiều năm mới cho quả, khi đã cho quả rồi, cây vẫn sống nhiều năm sau. Hằng năm cứ đến mùa lại cho quả, ví như cây mít, cây me, cây xoài, v.v… bởi vì các loại cây này có lõi, nên có khả năng sống lâu nhiều năm được.

Cũng như vậy

1- Tác-ý tâm-sở trong sát-na tác-hành-tâm thứ nhất gọi là diṭṭhadhammavedanīyakamma: hiện-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả trong kiếp hiện-tại, (kiếp thứ nhất). Ví như loại cây ăn quả thứ nhất.

2- Tác-ý tâm-sở trong sát-na tác-hành-tâm thứ 7 cuối cùng gọi là upapajjavedanīyakamma: hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp và cho quả sau khi đã tái-sinh, (kiếp thứ nhì). Ví như loại cây ăn quả thứ nhì.

3- Tác-ý tâm-sở trong sát-na tác-hành-tâm thứ 2 đến sát-na tác-hành-tâm thứ 6 gọi là aparāpariyavedanīya-kamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp có cơ hội cho quả từ kiếp này đến kiếp kia, kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn. Ví như loại cây ăn quả thứ ba.

Trong bộ Visuddhimaggamahāṭīkā, Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapālamahāthera giải thích rằng:

“Dubbalāpi antimajavanacetanā sanniṭṭhānakicca-visesayuttatāya phalapaccane sattivisesayuttā hotīti upapajjavedanīyā anantarikā ca hoti.”

Tác-ý tâm-sở đồng sinh với tác-hành-tâm thứ 7 dù có năng lực yếu, nhưng hợp với lực đặc biệt trong sự cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh kiếp sau (pavattikāla), kiếp hiện-tại, bởi vì tác-ý tâm-sở đồng sinh với tác-hành-tâm thứ 7 có phận sự đặc biệt làm cho thành-tựu nghiệp ấy, cho nên tác-ý tâm-sở trong sát-na tác-hành-tâm thứ 7 cuối cùng gọi là upapajjavedanīyakamma: hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả tái-sinh (paṭisandhikāla) kiếp kế-tiếp, và cho quả sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla) kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhì). Ví như loại cây ăn quả thứ nhì.

Còn tác-ý tâm-sở trong sát-na tác-hành-tâm thứ 2 đến sát-na tác-hành-tâm thứ 6 gọi là aparāpariyavedanīya-kamma: kiếp-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp có cơ hội cho quả từ kiếp này đến kiếp kia, kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót trở thành bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Dù nghiệp aparāpariyavedanīyakamma không còn có khả năng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi-sandhikāla), nhưng vẫn còn có khả năng cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.

Đến khi nào bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, khi ấy, nghiệp aparāpariyavedanīyakamma mới thật sự trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả được nữa.



[1] Dī. Sīlakkhandhavagga. Kinh Sāmaññaphalasutta.

[2] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Yamakavagga, tích Devadattavatthu.

[3] Bộ Chú-giải Dī. Sīlakkhandhavaggaṭṭhakathā, Sāmaññaphalasuttavaṇṇanā.

[4] Dham, Aṭṭhakathā, Daṇḍavagga, tich Mahāmoggallānattheravatthu.

[5] Dhammapadaṭṭhakathā, Yamakavagga, tích Devadattavatthu.

[6] Dī. Aṭṭhakathā, Sīlakkhandhavagga, trong kinh Sāmaññaphalasuttavaṇṇanā.

[7] Dī, Aṭṭhakathā, Sīlakkhandhavagga, trong kinh Sāmaññaphalasuttavaṇṇanā.

[8] Tìm hiểu phương pháp thực-hành pháp-hành thiền-định, trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển IX: Pháp-Hành Thiền-Định, cùng soạn giả.

[9] Dhammapadaṭṭhakathā, Buddhavagga, tích Erakapattanāgarājāvatthu.

[10] Maj. Uparipaṇṇāsa. Bahudhātukasuttavaṇṇanā.

[11] Aṅguttaranikāya, phần Chakkanipāta, kinh Nibbedhikasutta.

[12] 12 bất-thiện-tâm đó là 8 tham-tâm + 2 sân-tâm + 2 si-tâm.

[13] 36 hoặc 52 quả-tâm đó là 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm + 8 thiện-quả vô-nhân-tâm + 8 dục-giới quả-tâm + 5 sắc-giới quả-tâm + 4 vô-sắc-giới quả-tâm + 4 hoặc 20 Thánh quả-tâm.

[14] 20 duy-tác-tâm đó là 3 duy-tác vô-nhân-tâm + 8 dục-giới duy-tác-tâm + 5 săc-giới duy-tác-tâm + 4 vô-sắc-giới duy-tác-tâm.

[15] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Paṇḍitavagga, tích Paṇḍitasāmaṇeravatthu.

[16] Chú-giải Dhammapada, trong tích Uttarā upāsikāvatthu.

[17] Bộ Chú-giải Dhammapadaṭṭhakathā, tích Ciñcāmāṇavikāvatthu.

[18] Chuyện này xảy ra khoảng thời gian sau hạ thứ 7 chưa đến hạ thứ 8 của Đức-Phật.

[19] Bộ Chú-giải Dhammapadaṭṭhakathā, chuyện Ciñcāmāṇavikāvatthu.

[20] Trường-hợp ấy là hiện-kiếp-quả ác-nghiệp, còn nàng kỹ-nữ, sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci không phải là hiện-kiếp-quả ác-nghiệp mà là hậu-kiếp-quả ác-nghiệp.

[21] Bộ Chú-giải Dhammapadaṭṭhakathā, tích Uppalavaṇṇāttherīvatthu.

[22] Tên Nanda tạo ác-nghiệp trọng tội, bị đất hút chết là hiện-kiếp-quả ác-nghiệp. Còn Nanda sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci, là hậu-kiếp-quả ác-nghiệp.


Mục lục quyển 4 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08


Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10


[Đầu trang][Mục lục tổng quát]