NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)

QUYỂN VII

PHÁP-HẠNH BA-LA-MẬT 2
(PĀRAMĪ)


4.3-Pháp-Hạnh Trí-Tuệ Ba-La-Mật Bậc Thượng (Paññāparamatthapāramī)

Tích Sattubhastajātaka (Xắt-tu-phắt-sa-tá-cha-tá-ká)

Trong tích Sattubhastajātaka[1] Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama sinh làm Pháp-sư Senaka tạo pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc thượng (Paññā-paramatthapāramī), tích này được bắt nguồn như sau:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi. Khi ấy, chư tỳ-khưu tụ hội tại giảng đường đang đàm đạo tán dương ca tụng Đức-Thế-Tôn là bậc có trí-tuệ rộng lớn, sâu sắc, bén nhạy, thấu suốt, … thì Đức-Thế-Tôn ngự đến truyền hỏi chư tỳ-khưu rằng:

- Này Chư tỳ-khưu! Các con đang đàm đạo về vấn đề gì vậy?

Chư tỳ-khưu bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con đang đàm đạo tán dương ca tụng trí-tuệ siêu-việt của Đức-Thế-Tôn.

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

- Này chư tỳ-khưu! Không chỉ trong kiếp hiện-tại này Như-Lai có trí-tuệ siêu-việt như vậy, mà còn trong những kiếp quá-khứ, khi Như-Lai còn là Đức-Bồ-tát đang tạo, bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp Như-Lai cũng có trí-tuệ siêu-việt.

Đức-Thế-Tôn truyền bảo như vậy rồi làm thinh.

Chư tỳ-khưu kính thỉnh Đức-Thế-Tôn thuyết về tiền-kiếp của Ngài đã tạo pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật.

Tích Sattubhastajātaka

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết về tích Sattubhasta-jātaka (ruột tượng da đựng bánh cốm…) liên quan đến Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama tạo pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc thượng được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, Đức-vua Janaka ngự tại kinh-thành Bārāṇasī. Khi ấy, Đức-Bồ-tát sinh ra trong gia đình thuộc dòng dõi Bà-la-môn cao quý, được đặt tên là Senaka. Khi Đức-Bồ-tát Senaka đến tuổi trưởng thành, được cha mẹ gửi đi học tại kinh-thành Takkasilā. Sau khi đã học thành tài xong, Đức-Bồ-tát trở về nước, đến chầu Đức-vua Janaka, được Đức-vua tấn phong làm vị quân-sư trong triều đình.

Đức-Bồ-tát Senaka là vị quân-sư có tài thuyết pháp hay, giảng giải các pháp rõ ràng làm cho Đức-vua phát sinh đức-tin trong sạch nơi vị quân-sư, thực hành theo lời dạy của vị quân-sư. Cho nên, vị quân-sư Senaka trở thành vị Pháp-sư Senaka trong triều đình.

Thực-hành theo lời dạy của Ngài Pháp-sư Senaka, Đức-vua Janaka giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn, hoan hỷ tạo mọi phước-thiện như bố-thí, thọ trì bát-giới uposathasīla trong các ngày giới hằng tháng, thực-hành mười thiện-nghiệp, v.v…

Trong thời-kỳ ấy, mỗi khi Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka ngồi trên pháp tòa thuyết pháp, với phong cách giống như một Đức-Phật thuyết pháp, phía dưới hội chúng gồm có Đức-vua Janaka, các quan trong triều, những người trong hoàng tộc, các quan, các quân lính, toàn thể dân chúng trong kinh-thành Bārāṇasī và dân chúng ở ngoại thành… ngồi lắng nghe Ngài Pháp-sư Senaka thuyết pháp. Sau khi nghe thuyết pháp xong, mọi người đến cung kính lễ bái cúng dường đến Ngài Pháp-sư Senaka.

Cũng trong thời-kỳ ấy, một ông Bà-la-môn già hành khất đi xin tiền, dành dụm được 1.000 đồng kahāpana (tiền Ấn xưa), ông đem gửi số tiền ấy cho một gia đình Bà-la-môn, rồi ông tiếp tục đi hành khất đến nơi khác.

Trong thời gian ông Bà-la-môn già hành khất ra đi lâu ngày, thì gia đình Bà-la-môn kia đem số tiền 1.000 đồng Kahāpana ấy tiêu dùng, dần dần hết số tiền ấy.

Đến khi ông Bà-la-môn già hành khất trở về xin lấy lại số tiền 1.000 đồng kahāpana đã gửi trước đây, thì gia đình ông Bà-la-môn kia không có tiền để đưa lại cho ông Bà-la-môn, nên họ gả con gái của mình cho ông Bà-la-môn già hành khất làm vợ, để trừ số tiền 1.000 đồng kahāpana ấy.

Ông Bà-la-môn già hành khất dẫn người vợ trẻ đi đến ở một làng không xa kinh-thành Bārāṇasī. Ông bà-la-môn sống chung với người vợ trẻ, cô ta không thỏa mãn được tình dục, nên lén lút quan hệ bất chính với một cậu Bà-la-môn trẻ khác.

Muốn được sống gần gũi với tình nhân thường xuyên, nhưng người vợ trẻ không được tự do như ý. Cho nên, cô ta cảm thấy buồn bực khó chịu, hiện rõ ra trên nét mặt. Cô ta nghĩ cách để cho người chồng già đi ra khỏi nhà lâu, để được tự do sống với tình nhân của mình.

Khi ấy, thấy người vợ trẻ buồn khổ, ông Bà-la-môn già hỏi rằng:

- Này em yêu quý! Tại sao em buồn khổ như vậy?

Nghe người chồng già hỏi, người vợ trẻ bịa đặt lý do mà thưa rằng:

- Thưa anh yêu quý! Bởi vì em không thể làm nổi mọi công việc trong nhà. Vậy, xin anh mướn một người tôi tớ để giúp đỡ em, anh à!

Nghe người vợ trẻ nói như vậy, ông Bà-la-môn già than vãn rằng:

- Này em yêu quý! Chúng ta không có nhiều tiền nhiều của, nếu mướn người tôi tớ thì không có đủ tiền để trả tiền công cho họ.

Nghe người chồng già nói vậy, người vợ trẻ tỏ vẻ bực dọc nói rằng:

- Anh hãy đi xin tiền đem về để trả công cho họ.

Nhìn thấy người vợ trẻ bực dọc khổ tâm, ông Bà-la-môn già muốn chiều chuộng để làm vừa lòng người vợ trẻ, nên ông bảo rằng:

- Này em yêu quý! Xin em đừng bực dọc khổ tâm nữa!

Em hãy lo chuẩn bị lương thực cho anh đi đường.

Cảm thấy đắc ý, người vợ trẻ chuẩn bị bánh cốm, lương khô, đồ ăn bỏ vào ruột tượng da (Sattubhasta) đem đến trao cho người chồng Bà-la-môn già.

Nhận ruột tượng da đựng bánh cốm, lương khô từ vợ, ông Bà-la-môn già cảm thấy lưu luyến khổ tâm vì phải xa cách người vợ trẻ yêu quý, nhưng ông đành phải ra đi hành khất xin tiền đem về để mướn người tôi tớ giúp việc cho vợ trẻ.

Ông Bà-la-môn già hành khất đi xin tiền từ xóm làng này đến xóm làng khác, cho đến kinh-thành Bārāṇasī, trải qua một thời gian lâu ngày, nhưng chỉ xin được số tiền 700 đồng Kahāpana mà thôi. Ông nghĩ rằng:

“Với số tiền này, cũng đủ mướn một người tôi tớ lo giúp cho người vợ trẻ.”

Nên, ông bà-la-môn già quyết định trở về thăm người vợ trẻ, vì đã trải qua một thời gian lâu ngày nhớ thương.

Trên đường về đến một nơi thuận lợi gần bến sông, ông bà-la-môn già dừng lại nghỉ, rồi mở ruột tượng da lấy bánh cốm ra dùng sáng xong, không cột miệng ruột tượng, đi xuống bến sông để uống nước, rửa mặt.

Trong khi ấy, con rắn hổ mang đánh hơi mùi bánh cốm bò vào trong ruột tượng da ấy nằm ăn bánh cốm.

Sau khi uống nước, rửa mặt xong, ông trở lại, không xem bên trong ruột tượng da, liền cột miệng ruột tượng da lại, rồi mang lên vai tiếp tục lên đường trở về nhà.

Trên đường đi, ông Bà-la-môn già đến một cội cây lớn, vị chư thiên ở tại cội cây ấy hiện ra, đứng trên cây nói với ông rằng:

-Này Bà-la-môn, hôm nay, nếu nhà ngươi nghỉ lại ở giữa đường thì nhà ngươi sẽ chết tại nơi ấy. Còn nếu nhà ngươi về đến nhà thì vợ của nhà ngươi sẽ chết tại nhà.

Nói xong, vị chư thiên biến mất. Không nhìn thấy vị chư thiên-nữa, ông Bà-la-môn già vô cùng hoảng sợ, ông bị sự chết đe dọa. Ông khóc than, thất tha thất thểu lê từng bước đến cửa kinh-thành Bārāṇasī.

Hôm ấy, nhằm vào ngày rằm (15) là ngày giới uposathasīla, Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka thuyết pháp tại cung điện trong kinh-thành. Cho nên, dân chúng ở bên ngoài kinh-thành từng đoàn người tay cầm hoa lũ lượt dẫn nhau vào kinh-thành để nghe Ngài Pháp-sư Senaka thuyết pháp.

Gặp từng đoàn người đi ngang qua, ông Bà-la-môn già bèn hỏi rằng:

- Thưa quý vị! Quý vị đi đâu mà đông vậy?

Đoàn người trả lời rằng:

- Này ông Bà-la-môn! Hôm nay ngày giới uposatha-sīla, Ngài Pháp-sư Senaka là bậc đại-thiện-trí thuyết pháp rất hay, có giọng nói thánh thót như chư Phật. Vậy, ông bà-la-môn không biết hay sao?

Nghe đoàn người trả lời như vậy, ông Bà-la-môn già suy nghĩ rằng: “Ta đang bị đe dọa bởi tử thần, nên ta cảm thấy vô vùng khổ tâm.

Duyên lành thay! Hôm nay, Ngài Pháp-sư Senaka thuyết pháp tế độ mọi người thoát khỏi cảnh khổ, được an-lạc. Vậy, ta cũng nên đi theo họ đến nghe Ngài Pháp-sư Senaka thuyết pháp vậy.”

Nghĩ như vậy xong, Ông Bà-la-môn già vào giảng đường với tâm trạng bất an vì sợ chết, nên đứng khóc phía sau hội chúng.

Trong hội chúng đông đảo ấy gồm có Đức-vua Janaka, cùng các quan trong triều đình, những người trong hoàng tộc, các quân lính, toàn thể dân chúng trong kinh-thành và dân chúng ngoài kinh-thành.

Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka ngồi trên pháp tòa cao quý ở phía trước, thuyết pháp rất hay, ý nghĩa sâu sắc cao siêu, với giọng nói thánh thót làm cho người nghe vô cùng hoan hỷ.

Khi Ngài Pháp-sư Senaka thuyết pháp xong, mọi người phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ, đồng thốt lên lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!

Nhìn hội chúng trong giảng đường, Đức-Bồ-tát Pháp-Sư thấy ông Bà-la-môn già đứng phía sau một mình, trên vai mang ruột tượng da, có vẻ mặt thiểu não, đang khóc thật đáng thương. Đức-Bồ-tát Pháp-sư nghĩ rằng:

“Ông Bà-la-môn già này chắc chắn có nỗi khổ tâm đáng thương, ta nên có tâm bi cứu giúp ông bớt khổ.”

Nghĩ xong, Ngài Pháp-sư Senaka gọi ông Bà-la-môn già ấy đến hỏi rằng:

- Này ông Bà-la-môn! Ta là Senakapaṇḍita (thiện-trí Senaka) sẽ giúp cho ông bớt khổ.

-Này ông Bà-la-môn! Ông đang có nỗi khổ tâm như thế nào? Xin ông hãy mau trình bày cho ta biết rõ, ta sẽ căn cứ vào nỗi khổ ấy mà giúp cho ông bớt khổ.

Nghe Đức-Bồ-tát Pháp-sư hỏi như vậy, ông Bà-la-môn già liền thưa rằng:

- Kính thưa Ngài Pháp-sư Senaka, trên đường tôi trở về nhà, gặp vị thiên-nam ở tại cội cây hiện ra, đứng trên cây nói với tôi rằng:

“-Này ông Bà-la-môn! Hôm nay, nếu nhà ngươi nghỉ lại ở giữa đường thì nhà ngươi sẽ chết tại nơi ấy. Còn nếu nhà ngươi về đến nhà thì vợ của nhà ngươi sẽ chết tại nhà.”

Báo cho tôi biết như vậy xong, vị thiên-nam biến mất.

- Kính bạch Ngài Pháp-sư Senaka, đó là điều làm cho tôi vô cùng hoảng sợ, nỗi khổ tâm cùng cực đang phát sinh lên với tôi, bởi vì, sự chết đe dọa tôi hôm nay. Cho nên, tôi có nỗi khổ tâm cùng cực như vậy.

- Kính bạch Ngài Pháp-sư Senaka, kính xin Ngài cho tôi biết do nguyên nhân nào, hôm nay, nếu tôi nghỉ lại ở giữa đường thì tôi sẽ chết tại nơi ấy?

Và do nguyên nhân nào, hôm nay, nếu tôi về đến nhà thì vợ của tôi sẽ chết tại nhà?

Vị thiên-nam ở cội cây bằng thiên-nhãn của mình nhìn thấy con rắn hổ mang đang nằm ăn bánh cốm trong ruột tượng da mà ông Bà-la-môn già đang mang trên vai, nên vị thiên-nam ấy biết rằng:

Hôm nay, nếu ông nghỉ lại ở giữa đường, buổi chiều ông mở ruột tượng da, thò tay vào lấy bánh cốm để ăn, thì con rắn hổ mang sẽ cắn tay ông chết tại nơi ấy.

Còn hôm nay, nếu ông về đến nhà, đưa ruột tượng da cho người vợ, vợ ông sẽ mở ruột tượng ra, thò tay vào lấy tiền thì sẽ bị con rắn hổ mang cắn chết tại nhà.

Sở dĩ vị thiên-nam không nói cho ông Bà-la-môn già biết rõ như vậy, là vì vị thiên-nam muốn cho mọi người chứng kiến, biết rõ trí-tuệ siêu-việt của Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka, có khả năng suy đoán thấy rõ, biết rõ như thiên-nhãn của chư thiên.

Nghe ông Bà-la-môn già bạch hỏi Ngài Pháp-sư, do nguyên nhân nào ông sẽ chết giữa đường?

Và do nguyên nhân nào vợ ông sẽ chết tại nhà?

Đức-Bồ-Tát Pháp-Sư Senaka Suy Đoán Nguyên Nhân

Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka suy xét rằng:

“Con người ta bị chết có rất nhiều nguyên nhân nói chung. Riêng trường hợp ông Bà-la-môn già này, ‘hôm nay, nếu ông Bà-la-môn già này nghỉ lại ở giữa đường thì ông sẽ chết tại nơi ấy’. Do nguyên nhân nào?

Và ‘Còn hôm nay, nếu ông về đến nhà thì vợ của ông sẽ chết tại nhà’. Do nguyên nhân nào?”

Đang suy xét để tìm ra nguyên nhân, Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka nhìn thấy trên vai ông Bà-la-môn già có mang một ruột tượng da đựng lương thực đi đường, thường là bánh cốm, lương khô, v.v… Ngài Pháp-sư Senaka có trí-tuệ siêu-việt suy đoán như thật rằng:

“Bên trong ruột tượng da mà ông Bà-la-môn đang mang trên vai, có con rắn hổ mang đang nằm ăn bánh cốm.

Sáng nay, ông Bà-la-môn già mở ruột tượng da lấy bánh cốm ra ăn xong, không cột miệng ruột tượng da, đi xuống bến sông uống nước. Trong khi ấy, con rắn hổ mang đánh hơi mùi bánh cốm bò vào trong ruột tượng da ấy nằm ăn bánh cốm.

Sau khi uống nước, rửa mặt xong, ông trở lại, không biết có con rắn hổ mang đang nằm ăn bánh cốm bên trong ruột tượng da, ông cột miệng ruột tượng da này lại, rồi mang lên vai tiếp tục lên đường trở về nhà.

Trên đường đi, ông Bà-la-môn già này đến một cội cây lớn, vị thiên-nam ở tại cội cây ấy bằng thiên-nhãn nhìn thấy con rắn hổ mang đang nằm ăn bánh cốm bên trong ruột tượng da mà ông đang mang trên vai. Vì vậy, vị thiên-nam ấy nói với ông rằng:

“Hôm nay, nếu nhà ngươi nghỉ lại giữa đường thì nhà ngươi sẽ chết tại nơi ấy.”

Nghĩa là, nếu ông Bà-la-môn già nghỉ lại ở giữa đường, buổi chiều ông sẽ mở miệng ruột tượng da ra, thò tay vào lấy bánh cốm để ăn, thì ông bà-la-môn sẽ bị con rắn hổ mang cắn chết.

Đó là nguyên nhân làm cho ông chết tại nơi ấy.

Và hôm nay, nếu ông bà-la-môn về đến nhà, ông sẽ trao cái ruột tượng da cho người vợ của ông, người vợ sẽ mở ruột tượng da ra, thò tay vào lấy tiền bên trong, thì vợ ông sẽ bị con rắn hổ mang cắn chết.

Đó là nguyên nhân làm cho vợ của ông sẽ chết tại nhà”

Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka suy xét tiếp rằng:

“Con rắn hổ mang này là con rắn can đảm, không biết sợ, dù nằm trong ruột tượng da bị lay động mà nó vẫn nằm yên không vùng vẫy, cho nên, nó là con rắn hổ mang không hung dữ, chỉ cần dè dặt thận trọng mà thôi”

Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka có trí-tuệ siêu-việt thấu suốt suy đoán tìm ra được hai nguyên nhân giống như thiên-nhãn của chư thiên.

Thật vậy, Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka đứng nhìn ruột tượng da dường như thấy rõ con rắn hổ mang đang nằm yên trong ruột tượng da mà ông Bà-la-môn già đang mang trên vai.

Khi ấy, để khẳng định những điều suy đoán là đúng sự thật, Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka hỏi ông Bà-la-môn già xác nhận theo tuần tự như sau:

ĐBT-Này ông Bà-la-môn! Trong ruột tượng da của ông có bánh cốm phải không?

BLM-Kính bạch Ngài Pháp-sư Senaka, dạ phải.

ĐBT-Này ông Bà-la-môn! Sáng nay ông dùng bánh cốm phải không?

BLM-Kính bạch Ngài Senakapaṇḍita, dạ phải.

ĐBT-Này ông Bà-la-môn! Ông ngồi đâu ăn bánh cốm.

BLM-Kính bạch Ngài Pháp-sư Senaka, tôi ngồi ăn bánh cốm bên bờ sông trong rừng.

ĐBT-Này ông Bà-la-môn! Ăn bánh cốm xong, ông đi xuống bến sông uống nước mà không cột miệng ruột tượng da, phải không?

BLM-Kính bạch Ngài Pháp-sư Senaka, dạ phải. Tôi không cột miệng ruột tượng da. Bạch Ngài.

ĐBT-Này ông Bà-la-môn! Sau khi uống nước xong, ông lên bờ, không xem kỹ, liền cột miệng ruột tượng da lại, phải không

BLM-Kính bạch Ngài Pháp-sư Senaka, dạ phải.

ĐBT-Này ông Bà-la-môn! Tôi suy đoán biết rõ chắc chắn rằng: Trong khi ông đi xuống bến sông để uống nước, thì một con rắn hổ mang đánh hơi bánh cốm liền bò vào trong ruột tượng da, nằm ăn bánh cốm mà ông không hề hay biết, nên ông cột miệng ruột tượng da lại, rồi mang đi.

-Này ông Bà-la-môn! Ông nên đặt ruột tượng da xuống giữa hội chúng này, nên thận trọng mở miệng ruột tượng da ra. Ông nên đứng xa một khoảng cách, dùng cây dài đập nhẹ vào phần đáy ruột tượng da.

Ông Bà-la-môn già làm đúng theo lời dạy của Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka. Quả thật, một con rắn hổ mang từ trong ruột tượng da bò ra, nhìn thấy nhiều người nên nó phùng mang ra tự vệ.

Tất cả hội chúng tại giảng đường, đều chứng kiến thấy rõ con rắn hổ mang, nên hết sức sửng sốt trước sự việc xảy ra như vậy. Mọi người đều tán dương ca tụng Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka rằng:

-Ngài Pháp-sư Senaka có trí-tuệ siêu-việt đã suy đoán khẳng định chính xác rằng: “Con rắn hổ mang nằm trong ruột tượng da”. Đúng sự thật như Ngài Pháp-Sư có thiên-nhãn vậy!

Khi ấy, tất cả hội chúng đều tán dương ca tụng trí-tuệ siêu-việt của Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka, rồi đồng thanh thốt lên lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!

Chư-thiên các cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên các tầng trời sắc-giới cũng đều tán dương ca tụng trí-tuệ siêu-việt của Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka như có thiên-nhãn.

Các hàng chư-thiên trong cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên cũng đồng thanh thốt lên lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! vang dội cả không gian.

Từ trên hư không, chư-thiên hóa ra đám mưa thất bảo rơi xuống mặt đất, để cúng dường Đức-Bồ-tát Pháp-sư.

Thông thường, giải đáp câu hỏi như thế này thuộc về trí-tuệ siêu-việt của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, còn Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka chưa phải là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, mà Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka có trí-tuệ siêu-việt thấu suốt, thấy rõ, biết rõ được điều bí ẩn như Ngài Pháp-sư có thiên-nhãn.

Sau khi Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka đã tìm ra được nguyên nhân là “con rắn hổ mang” để giải đáp câu hỏi và cứu sống ông Bà-la-môn già hoặc vợ của ông.

Vị thầy rắn bắt con rắn hổ mang ấy đem đi thả trong rừng. Khi ấy, ông Bà-la-môn già đến chầu Đức-vua Janaka tán dương ca tụng rằng:

-Muôn tâu Đại-vương, Đại-vương là Đấng minh-quân có duyên lành gần gũi, thân cận, lắng nghe pháp của Ngài Pháp-sư Senaka, bậc có trí-tuệ siêu-việt. Thật là hạnh phúc an lành cao thượng.

Dân chúng trong kinh-thành, ngoài kinh-thành cũng được gần gũi thân cận, lắng nghe pháp của Ngài Pháp-sư Senaka, bậc có trí-tuệ siêu-việt. Thật là hạnh phúc an lành cao thượng.

Trong nước của Đại-vương có Ngài Pháp-sư Senaka, bậc có trí-tuệ siêu-việt. Thật là diễm phúc vô cùng.

Sau khi tâu lời tán dương ca tụng Đức-vua Janaka xong, ông Bà-la-môn già lấy trong ruột tượng da ra một số tiền 700 Kahāpana, bạch với Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka rằng:

- Kính bạch Ngài Pháp-sư Senaka, Ngài là bậc đại-trí-tuệ siêu-việt, thấy rõ, biết rõ tất cả những gì mà người khác không thấy, không biết. Trí-tuệ siêu-việt của Ngài thật vô cùng sâu sắc, thấu suốt tất cả, không có gì che giấu được, ví như trí-tuệ của Đức-Phật Toàn-Tri.

Hôm nay, nhờ trí-tuệ siêu-việt thấu suốt của Ngài Pháp-sư mà tôi còn sống, hoặc vợ của tôi cũng an toàn sinh-mạng.

- Kính bạch Ngài Pháp-sư Senaka, nếu tôi có số tiền 100 ngàn kahāpana, thì tôi sẽ kính dâng cúng dường đến Ngài Pháp-sư 100 ngàn kahāpana.

Nay, tôi chỉ có số tiền 700 kahāpana này, tôi thành kính dâng cúng dường đến Ngài Pháp-sư với số tiền ít ỏi nhỏ mọn này, để tỏ lòng thành kính tri ân của tôi đối với Ngài Pháp-sư.

Kính xin Ngài Pháp-sư có tâm-từ, tâm-bi thọ nhận số tiền nhỏ mọn của tôi.

Sau khi thưa xong, ông Bà-la-môn già đặt số tiền ấy dưới hai bàn chân của Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka.

Nghe lời tán dương ca tụng và sự cúng dường của ông Bà-la-môn già xong, Ngài Pháp-sư Senaka dạy rằng:

- Này ông Bà-la-môn! Bậc thiện-trí thuyết pháp tế độ mọi người, không bao giờ nghĩ đến sự kính lễ, cúng dường của một ai cả.

- Này ông Bà-la-môn! Ông nên nhận lại số tiền 700 kahāpana của ông và tôi cũng xin biếu cho ông thêm số tiền 300 kahāpana nữa cho đủ 1.000 kahāpana.

Đức-Bồ-tát Pháp-sư hỏi ông Bà-la-môn già rằng:

- Này ông Bà-la-môn! Ông đã già, đã có tuổi cao rồi. Ai bảo ông phải đi ăn xin cho cực khổ như thế này?

- Kính bạch Ngài Pháp-sư Senaka, vợ của tôi bảo tôi đi ăn xin. Bạch Ngài.

- Này ông Bà-la-môn! Vợ của ông già hay trẻ.

- Kính bạch Ngài Pháp-sư Senaka, vợ của tôi còn trẻ lắm. Bạch Ngài.

- Này ông Bà-la-môn! Nếu như vậy, người vợ trẻ của ông đã ngoại tình với người đàn ông trẻ khác, nên bảo ông rời khỏi nhà, để cho cô ta được có cơ hội quan hệ bất chính với tình nhân của cô.

Nếu ông đem số tiền này về nhà thì người vợ trẻ của ông sẽ đem nó cho tình nhân của cô ta. Vì vậy, ông hãy nghe lời khuyên dạy của tôi, ông không nên trực tiếp đem số tiền này về nhà, mà ông nên đem số tiền ấy cất giấu tại một gốc cây, hoặc một chỗ nào bên ngoài nhà, rồi mới vào nhà.

Vâng lời khuyên dạy của Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka, khi đi về đến gần nhà vào lúc chiều tối, ông Bà-la-môn già đem số tiền ấy cất giấu tại gốc cây, rồi mới về nhà lúc trời tối, thấy nhà cửa đóng, ông đứng ngoài cửa gọi người vợ trẻ rằng:

- Này em yêu quý! Anh đã trở về rồi, em hãy mở cửa cho anh vào nhà.

Trong khi ấy, người vợ trẻ đang sống chung với tình nhân của cô trong nhà. Nghe tiếng gọi, cô ta nhận biết người chồng Bà-la-môn già đã về, cô liền tắt đèn, dẫn tình nhân ẩn núp, rồi mở cửa để ông Bà-la-môn già bước vào nhà. Sau đó cô ta dẫn tình nhân ra khỏi nhà, đóng cửa trở vào trong rồi mới chịu đốt đèn lên.

Ông Bà-la-môn già trao cái ruột tượng da cho người vợ trẻ, cô tìm trong ruột tượng da không thấy tiền, nên cô bèn hỏi rằng:

- Này anh yêu quý! Anh đi xin tiền có được bao nhiêu mà em không thấy trong ruột tượng da này?

- Này em yêu quý! Anh xin được 1.000 kahāpana, anh cất giấu số tiền ấy tại gốc cây ấy bên ngoài nhà. Ngày mai anh sẽ ra lấy đem về cho em.

Xin em đừng buồn, em nhé!

Nghe người chồng già nói vậy, người vợ trẻ rất vui mừng, cô ta lén ra ngoài nói cho tình nhân biết rõ chỗ cất giấu số tiền 1.000 kahāpana tại gốc cây ấy.

Người Bà-la-môn trẻ, tình nhân của cô đi đến gốc cây lấy trộm số tiền 1.000 kahāpana của ông Bà-la-môn già.

Ngày hôm sau, ông đến gốc cây ấy, để lấy số tiền, thì số tiền 1.000 kahāpana ấy đã bị người ta lấy trộm rồi.

Ông tìm đến Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka, xin trình bày những sự việc đã xảy ra. Ngài Pháp-sư Senaka hỏi ông bà-la-môn rằng:

- Này ông Bà-la-môn! Ông có nói cho người vợ trẻ của ông biết chỗ cất giấu số tiền ấy không?

- Kính bạch Ngài Pháp-sư Senaka, tôi có nói cho người vợ trẻ của tôi biết chỗ cất giấu số tiền ấy.

Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka suy đoán biết rõ rằng người vợ trẻ của ông Bà-la-môn già đã báo cho tình nhân của cô đi đến chỗ gốc cây lấy trộm số tiền 1.000 kahāpana của ông. Đức-Bồ-tát Pháp-sư dạy ông bà-la-môn rằng:

- Này ông Bà-la-môn! Bên người vợ trẻ của ông có bà con thân quyến là Bà-la-môn hay không?

- Kính thưa Ngài Pháp-sư, bên người vợ trẻ của tôi có bà con là Bà-la-môn. Bạch Ngài.

- Này ông Bà-la-môn! Bên ông có bà con thân quyến là Bà-la-môn hay không?

- Kính thưa Ngài Pháp-sư, bên tôi cũng có bà con là Bà-la-môn. Bạch Ngài.

- Này ông Bà-la-môn! Ông về mời bà con Bà-la-môn bên người vợ trẻ của ông và bên ông đến nhà đãi ăn suốt bảy ngày như sau:

- Ngày thứ nhất, mời mỗi bên bảy vị: Bên người vợ trẻ bảy vị, bên ông bảy vị, gồm có 14 vị Bà-la-môn.

- Ngày thứ nhì, giảm bớt mỗi bên một vị Bà-la-môn, còn lại mỗi bên sáu vị, gồm có 12 vị Bà-la-môn.

- Ngày thứ ba, giảm tiếp mỗi bên một vị Bà-la-môn, còn lại mỗi bên năm vị, gồm có mười vị Bà-la-môn.

- Ngày thứ tư, giảm tiếp mỗi bên một vị Bà-la-môn, còn lại mỗi bên bốn vị, gồm có tám vị Bà-la-môn.

- Ngày thứ năm, giảm tiếp mỗi bên một vị Bà-la-môn, còn lại mỗi bên ba vị, gồm có sáu vị Bà-la-môn.

- Ngày thứ sáu, giảm tiếp mỗi bên một vị Bà-la-môn, còn lại mỗi bên hai vị, gồm có bốn vị Bà-la-môn.

- Ngày thứ bảy, giảm tiếp mỗi bên một vị Bà-la-môn, còn lại mỗi bên một vị, gồm có hai vị Bà-la-môn.

- Này ông Bà-la-môn! Ông nên để ý bên người vợ trẻ, nếu vị Bà-la-môn nào đến nhà dự đãi ăn đủ bảy ngày, không thiếu ngày nào, thì ông hãy đến đây nói cho tôi biết vị bà-la-môn ấy.

Vâng lời dạy của Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka, ông Bà-la-môn già trở về tổ chức làm lễ đãi ăn hai bên bà con Bà-la-môn đúng theo tuần tự thời gian suốt bảy ngày như vậy. Ông để ý một Bà-la-môn trẻ của phía người vợ trẻ đã có mặt suốt bảy ngày đãi ăn tại nhà.

Ông Bà-la-môn già đến bạch với Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka về người Bà-la-môn trẻ ấy. Ngài Pháp-sư Senaka cho người đến bắt vị Bà-la-môn trẻ kia cùng người vợ trẻ của ông Bà-la-môn già đến để điều tra. Ngài Pháp-sư Senaka hỏi rằng:

- Này Bà-la-môn trẻ! Người vợ của ông Bà-la-môn già chỉ chỗ cất giấu 1.000 kahāpana cho ngươi. Đêm hôm ấy, ngươi đã đến chỗ gốc cây, lấy trộm số tiền ấy của ông Bà-la-môn già.

Vậy, ngươi hãy đem trả lại số tiền ấy cho ông bà-la-môn ngay!

Ban đầu, cậu Bà-la-môn trẻ từ chối, không chịu nhận tội lấy trộm tiền của ông Bà-la-môn già. Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka nói cho y biết rằng:

- Này Bà-la-môn trẻ! Ta là Pháp-sư Senaka, ngươi chưa từng nghe danh tiếng của ta hay sao mà ngươi dám từ chối. Ta biết rõ ngươi đã lấy trộm số tiền 1.000 Kahāpana của ông Bà-la-môn già.

Vậy, ngươi hãy đem trả lại số tiền ấy cho ông bà-la-môn ngay!

Nghe nói đến uy danh Pháp-sư Senaka, người Bà-la-môn trẻ biết không thể nào có thể giấu giếm tội lỗi của mình được, nên đành phải thú thật rằng:

- Thưa Ngài Pháp-sư Senaka, chính tôi đã lấy trộm số tiền 1.000 kahāpana của ông Bà-la-môn già cất giấu tại gốc cây.

- Này Bà-la-môn trẻ! Ngươi hãy đem số tiền 1.000 Kahāpana ấy trả lại cho ông bà-la-môn ngay!

Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka quay lại hỏi ông Bà-la-môn già rằng:

- Này ông Bà-la-môn! Cô Bà-la-môn trẻ kia là vợ của ông có phải không?

- Kính bạch Ngài Pháp-sư Senaka, chính cô Bà-la-môn trẻ ấy là vợ của tôi. Bạch Ngài

Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka hỏi cô Bà-la-môn trẻ rằng:

- Này cô gái trẻ! Ông Bà-la-môn già này là gì của cô?

- Kính thưa Ngài Pháp-sư Senaka, ông Bà-la-môn già ấy là chồng của tôi. Thưa Ngài.

- Này cô gái trẻ! Còn người Bà-la-môn trẻ kia là gì của cô?

Cô Bà-la-môn trẻ biết không thể nào giấu giếm tội lỗi của mình được, nên đành phải thú thật rằng:

- Kính thưa Ngài Pháp-sư Senaka, người Bà-la-môn trẻ ấy là tình nhân của tôi. Thưa Ngài.

- Này cô gái trẻ! Cô đã có chồng rồi, mà còn ngoại tình với người Bà-la-môn trẻ này, đó là việc làm bất chính, tội lỗi, cô phải bị hành phạt.

Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka cho lính dẫn người Bà-la-môn trẻ đi lấy số tiền 1.000 kahāpana, bảo y trao số tiền ấy cho cô Bà-la-môn trẻ (tình nhân của y), rồi bảo cô ta (người vợ trẻ của ông Bà-la-môn già) đem số tiền ấy đến trả cho ông Bà-la-môn già (chồng của cô).

Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka phán xét rằng:

- Người Bà-la-môn trẻ phạm tội tà dâm và tội trộm cắp, nên bị trục xuất ra khỏi nước.

- Người vợ trẻ của ông Bà-la-môn già phạm tội tà dâm và tội đồng lõa trộm cắp, bị hành phạt theo luật của triều đình.

Ông Bà-la-môn già được Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka ban cho ông địa vị, chỗ ở, những người tôi tớ lo hầu hạ, phụng dưỡng ông bà-la-môn. Ông bà-la-môn già được gần gũi thân cận với Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka, nên thường được nghe Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka thuyết-pháp nữa.

Từ đó về sau, ông Bà-la-môn già không còn phải vất vả cực khổ đi xin ăn nữa. Hằng ngày, ông Bà-la-môn già có đời sống an lạc, tiến hóa trong mọi thiện-pháp cho đến suốt đời.

Sau khi thuyết về tích Sattubhastajātaka xong, Đức-Phật thuyết bài kệ rằng:

Paññāya vicinanto’haṃ, brahmaṇaṃ mocayiṃ dukhā. Paññāya me samo natthi, esā me paññāpāramī”[2]

Ý nghĩa:

Tiền-kiếp Như-Lai đã suy đoán bằng trí-tuệ siêu-việt, Đã cứu sống ông Bà-la-môn già thoát khỏi khổ chết, Trí-tuệ của tiền-kiếp Như-Lai không có ai bằng,

Đó là pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc thượng của tiền-kiếp Như-Lai.”

Đức-Phật giảng tích Sattubhastajātaka xong, số đông chư tỳ-khưu chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

* Có số chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

* Có số chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.

* Có số chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai.

* Có số chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao-thượng.

Các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật trở thành Thánh-nhân bậc nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào năng lực của các pháp-hạnh ba-la-mật và năm pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi hàng thanh-văn đệ-tử ấy.

Tích Sattubhastajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện-Tại

Tích Sattubhastajātaka này, Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, tạo pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc thượng trong thời quá khứ. Đến khi

Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, thì hậu kiếp của những nhân vật trong tích ấy liên quan đến kiếp hiện-tại như sau:

- Ông Bà-la-môn già hành khất, nay kiếp hiện-tại là Ngài Trưởng-lão Ānanda.

- Vị thiên-nam ở cội cây, nay kiếp hiện-tại là Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

- Những người trong tích, nay kiếp hiện-tại là tứ chúng: tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ.

- Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senakapaṇḍita, nay kiếp hiện-tại này là Đức-Phật Gotama.

Mười Pháp-Hạnh Ba-La-Mật

Tóm lược tích Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senaka, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã tạo pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc thượng, ngoài ra, còn các pháp-hạnh ba-la-mật khác là phụ cũng đồng thành tựu như sau:

- Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senakapaṇḍita thuyết pháp tế độ mọi người là bố-thí pháp, đó là pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật.

- Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senakapaṇḍita gìn giữ giới trong sạch trọn vẹn, đó là pháp-hạnh giữ-giới ba-la-mật.

- Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senakapaṇḍita có sự tinh-tấn thực-hành mọi thiện-pháp, đó là pháp-hạnh tinh-tấn ba-la-mật.

- Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senakapaṇḍita có đức nhẫn-nại trong mọi thiện-pháp, đó là pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật.

- Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senakapaṇḍita nói lời chân-thật, đó là pháp-hạnh chân-thật ba-la-mật.

- Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senakapaṇḍita phát-nguyện không thoái chí nản lòng tìm cho ra sự thật, đó là pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật.

-Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senakapaṇḍita có tâm-từ mong sự lợi ích cho tất cả chúng-sinh, đó là pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật.

- Đức-Bồ-tát Pháp-sư Senakapaṇḍita có tâm trung dung không thiên vị đối với tất cả chúng-sinh, đó là pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật.

Đó là tám pháp-hạnh ba-la-mật phụ đồng thời thành tựu cùng với pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc thượng ấy.

Nhận Xét Về Tích Đức-Bồ-Tát Pháp-Sư Senakapaṇḍita

Pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc thượng là 1 trong 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng cũng là 1 trong 30 pháp-hạnh ba-la-mật, mà Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải thực-hành cho được đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức-Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha).

Pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc có ba bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng, mà mỗi bậc có vai trò trọng yếu để trở thành mỗi bậc Thánh A-ra-hán có ngôi vị khác nhau như sau:

* Pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ

Đối với chư vị Bồ-tát thanh-văn-giác nào đã tạo đầy đủ trọn vẹn mười pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, sinh ra trong thời-kỳ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian, chư vị Bồ-tát thanh-văn-giác ấy đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật ấy, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ hỗ-trợ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, có khả năng trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, hoặc bậc Thánh Nhất-lai, hoặc bậc Thánh Bất-lai, hoặc bậc Thánh A-ra-hán.

Mỗi vị Bồ-tát thanh-văn-giác nào trở thành Thánh-nhân bậc nào là hoàn toàn do năng lực của pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ ấy và năm pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi vị Bồ-tát thanh-văn-giác ấy.

Dù là bậc Thánh Nhập-lưu, hoặc bậc Thánh Nhất-lai, hoặc bậc Thánh Bất-lai, rồi chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

* Pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc trung

Đối với chư vị Đức-Bồ-tát Độc-giác nào đã tạo đầy đủ trọn vẹn 20 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ và 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, rồi sinh ra làm hạng người nam tam-nhân trong thời-kỳ không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian, chư vị Đức-Bồ-tát Độc-giác xuất gia trở thành tu-sĩ, không thầy chỉ dạy, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc trung hỗ trợ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc bốn Thánh-đạo, bốn Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán gọi là Đức-Phật Độc-Giác có nhiều Đức-Phật trong cùng thời gian, nhưng chắc chắn mỗi Đức-Phật Độc-Giác tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy.

Chư Đức-Phật Độc-Giác không có khả năng chế định ra ngôn ngữ để thuyết-pháp tế độ chúng-sinh cùng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật được. Vì vậy, gọi là Đức-Phật Độc-Giác sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

* Pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc thượng:

Đối với Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác nào đã tạo đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ,10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung và 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng, rồi sinh ra làm hạng người nam tam-nhân trong thời-kỳ không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác xuất gia trở thành tu-sĩ, không thầy chỉ dạy, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc thượng hỗ-trợ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc bốn Thánh-đạo, bốn Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não, đặc biệt diệt tận được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị trong toàn khắp cõi-giới chúng-sinh.

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có khả năng chế định ra ngôn ngữ để thuyết-pháp tế độ chúng-sinh hiểu biết chánh-pháp của Đức-Phật, nhất là hiểu biết phương pháp thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, hoặc bậc Thánh Nhất-lai, hoặc bậc Thánh Bất-lai, hoặc bậc Thánh A-ra-hán, đó là bốn bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy.

Cho nên, pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật có tầm quan trọng bậc nhất trong sự chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc bốn Thánh-đạo, bốn Thánh-quả và Niết-bàn trong giáo-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác như vậy.

 

(Xong phần pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc thượng)



[1] Tích Sattubhastajātaka có nghĩa tích ruột tượng da đựng bánh cốm, lương khô, … tích này sách Thái gọi tên tích Senakajātaka: tích Đức-Bồ-tát Senaka, trong bộ Chú-giải Jātaka, phần Sattakanipāta.

[2] Khu.Jātakaṭṭhakathā, Nidāna, Khu. Apadāna, Khu. Cariyāpiṭaka.


Mục lục quyển 7 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07


Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10


[Đầu trang][Mục lục tổng quát]