Lời nói
đầu của vị chủ biên "The Wheel Publication -- Kandy"
Với quyển sách nầy chúng tôi
xin giới thiệu đến quý đọc giả một bài viết của vị
học giả nổi tiếng người Miến Ðiện, cố Ðại Ðức
Ledi Sayadaw, mà "Tiểu Sử" đã được "Phác
Họa" trong một tác phẩm của Ngài, (theo loại "The
Wheel", số 31/32) tựa đề "A Manual of Insight" (Vipassanà
Dìpanà).
Chúng tôi tin rằng đây là một
trong những tác phẩm về Giáo Pháp (Dhamma) hữu ích
nhất mà chúng tôi được hân hạnh ấn hành trong loại
"The Wheel". Chẳng những sách nầy cung ứng một di
sản tài liệu Giáo Huấn phong phú trên nhiều phương diện
mà còn là một khích động mạnh mẽ thúc giục ta nhiệt thành
tận lực hướng về Mục Tiêu. Vì lẽ ấy chúng tôi muốn
giới thiệu và ước mong quý vị đọc giả nên cặn kẻ
suy tư và thận trọng nghiền ngẩm.
Bản nầy đã được ấn hành
trong tạp chí "The Light of the Dhamma" (Rangoon), tiếc
thay nhà xuất bản nầy đã ngưng hoạt động. Nơi đây chúng
tôi xin tri ân quý vị trong "The Union of Burma Buddha Sàsana
Council, Rangoon" đã cho phép chúng tôi phát hành trở
lại.
Nhằm giúp đọc dễ dàng, trong
bản nầy nhiều danh từ Pàli được dùng trong bản chánh đã
được bổ túc hoặc thay thế bằng Anh ngữ tương đương.
Chương cuối cùng được thâu ngắn gọn. Ngoài ra có rất
ít sửa đổi.
Trong bản chánh, danh từ bodhipakkhiya-dhamma
được chuyển sang Anh ngữ là "Factors Leading To
Enlightenment" (Những Yếu Tố Dẫn Ðến Sự Giác Ngộ).
Tuy nhiên câu nầy giống nhiều câu thường được dùng khi
đề cập đến chữ bojjhanga, "Factors of Enlightenment"
(Những Yếu Tố Của Sự Giác Ngộ) (Xem chương VII ). Do đó
tựa sách của bản dịch nguyên thủy được đổi là
"The Requisites of Enlightenment" (Những Yếu Tố Cần
Thiết Cho Sự Giác Ngộ). ý nghĩa đôi chút khác biệt nầy
được chọn nhằm chỉ rằng sách không đề cập đến
những yếu tố toàn hảo của sự Giác Ngộ (bodhi) mà
là cố gắng hướng đến gần mục tiêu, bằng cách gia công
chuyên cần thực hành nhóm bảy phẩm hạnh gọp chung là 37 bodhipakkhiya-dhamma.
Nyanaponika Mahathera
Chủ Biên, "The Wheel"
Kandy, Ceylon
31 tháng Ba, 1971
-ooOoo-
Phần
Nhập Ðề
Thể theo lời yêu cầu của
Pyinmana Myo-ok Maung Po Mya và Trader Maung Hla, trong tháng Nayon,
1266 Kỷ Nguyên Miến Ðiện (tháng 6, 1904 D.L.), Sư sẽ trình
bày ngắn gọn ý nghĩa và mục đích của ba mươi bảy Bodhipakkhiya-dhamma,
Yếu Tố Thiết Yếu Của Sự Giác Ngộ (thường được
gọi là 37 Phẩm Trợ Ðạo, hay 37 Bồ Ðề Phần).
Bốn Hạng Người Có
Khả Năng Thành
Tựu Con Ðường
Trong bộ Puggala-Pannatti, Nhân
Thi Thuyết (sách phân hạng những cá tính, 160, của Tạng
Luận, Abhidhamma Pitaka) và trong Anguttara Nikàya, Tăng
Nhứt A Hàm (Những Con Số Bốn, số 133) có lời dạy rằng
trong số những chúng sanh được gặp "Giáo Huấn của
Ðức Phật" (Buddha Sàsana), có thể phân làm bốn
hạng.
1. Ugghàtitannu,
2. Vipancitannu,
3. Neyya, và
4. Padaparama.
Trong bốn hạng chúng sanh nầy Uggahàtitannu
là hạng "hiểu được tức khắc", người đã gặp
một vị Phật [1] và có đủ khả năng thành tựu Ðạo và
Quả sau khi chỉ nghe Ngài giảng một thời pháp ngắn gọn.
Vipancitannu
là hạng chúng sanh không đủ khả năng thành tựu Ðạo
Quả sau khi nghe một thời Pháp ngắn do Ðức Phật giảng,
nhưng có đủ khả năng chứng ngộ Ðạo Quả khi thời Pháp
ngắn kia được giảng rộng thêm.
Neyya
là hạng chúng sanh không
thể chứng đắc Ðạo Quả khi được nghe một thời Pháp
ngắn do Ðức Phật giảng hoặc khi nghe thời Pháp ấy được
giảng rộng thêm nhưng cần phải học hỏi, thận trọng ghi
chép, và nghiền ngẫm suy tư về những lời dạy được trình
bày rồi đem ra tu tập thực hành nhiều ngày, nhiều tháng và
nhiều năm, mới có thể thành tựu Ðạo Quả.
Hạng Neyya nầy có thể lại được
phân làm nhiều hạng tùy theo thời gian tu tập cần thiết
của mỗi người để có thể chứng đắc Ðạo Quả, và hơn
nữa, tùy thuộc số lượng ba-la-mật (pàrami), và số
ô nhiễm (kilesa) mà mỗi người đã tích trữ trong
luồng nghiệp. Những hạng cá tính nầy bao gồm một đàng,
những người phải cần một thời gian bảy ngày và đàng
khác, những vị phải cần đến ba mươi hoặc sáu mươi năm
chí công tu tập thực hành.
Cũng có những hạng chúng sanh khác,
thí dụ như trường hợp những vị chỉ cần phải thực hành
trong bảy ngày; những vị nầy có thể thành tựu được Ðạo
Quả A La Hán nếu cố gắng chuyên cần trong thời kỳ thứ
nhất và thời kỳ thứ nhì [2] của đời sống, nhưng không
thể vượt quá hơn hai tầng Thánh đầu nếu chỉ đến
thời kỳ thứ ba mới chuyên cần tinh tấn.
Lại nữa, khi nói "chuyên
cần tinh tấn trong bảy ngày", điều nầy có nghĩa là
phải tận lực cố gắng, vận dụng hết mọi khả năng để
thành tựu mục tiêu. Nếu không tinh tấn đến mức độ cao
nhất, thời gian tinh tấn cần thiết sẽ kéo dài tùy thuộc
tình trạng dể duôi, buông lơi tinh tấn, và bảy ngày có
thể trở nên bảy năm hay hơn nữa.
Nếu tình trạng tinh tấn chuyên
cần trong kiếp sống nầy không đủ mạnh để có thể thành
tựu Ðạo và Quả, ắt không thể giải thoát ra khỏi
những khổ đau của đời trong thời kỳ Giáo Huấn của
vị Phật hiện tiền [3] còn được lưu truyền trong thế
gian. Trong khi ấy cầu mong được giải thoát nhờ Giáo
Huấn của vị Phật tương lai (future Buddha Sàsana),
chỉ có thể thành tựu nếu ta hội đủ duyên lành gặp
được Giáo Huấn ấy. Không gặp Giáo Huấn của một vị
Phật không thể giải thoát. Chỉ có trường hợp những
vị nào đã được một vị Phật thọ ký (niyata vyàkarana,
lời tiên tri chắc chắn của một vị Phật) mới chắc
chắn sẽ gặp Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana)
và giải thoát. Người không được một vị Phật thọ ký (niyata
vyàkarana) không thể chắc chắn sẽ gặp được Giáo
Huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana) hay thành tựu
giải thoát ra khỏi mọi khổ đau của thế gian, dầu đã có
tích trữ đầy đủ ba-la-mật (pàrami) để có thể
gặp cả hai -- Giáo Huấn của một vị Phật và giải thoát.
Trên đây là những vấn đề liên quan đến người có khả
năng chứng ngộ Ðạo và Quả bằng cách chuyên cần tinh
tấn trong bảy ngày, nhưng không được có một vị Phật
thọ ký.
Những vấn đề tương tợ áp
dụng cho trường hợp những người có khả năng thành tựu
Ðạo và Quả bằng cách cố gắng trong mười lăm ngày
hoặc một thời gian dài hơn.
Padaparama
là người, mặc dầu được gặp Giáo Huấn của một vị
Phật (Buddha Sàsana) và mặc dầu đã tận lực học
hỏi và thực hành Giáo Pháp, vẫn không thể chứng đắc Ðạo
và Quả trong kiếp sống hiện tiền. Tất cả những gì người
nầy có thể làm được chỉ là tạo cho mình một thói quen
tốt và những khả năng tiềm ẩn (vàsanà).
Một người như thế đó không
thể thành tựu giải thoát ra khỏi khổ đau của thế gian
trong kiếp sống nầy. Nếu lìa đời trong khi đang hành
samatha, thiền vắng lặng, hay vipassanà, thiền minh sát, và tái
sanh và cảnh người hay cảnh trời, vị ấy có thể thành
đạt giải thoát trong kiếp kế, trong Giáo Huấn của vị
Phật hiện tại. Ðức Phật tuyên ngôn như trên về vấn đề
bốn hạng cá tính.
Ba Loại Bệnh Nhân
Cũng theo những nguồn kinh điển
được đề cập trên đây Ðức Phật nêu lên một phân
hạng chúng sanh khác, chia làm ba hạng giống như ba loại
bệnh nhân [4], đó là:
(1) Một loại bệnh nhân chắc chắn sẽ được lành
bệnh đúng lúc, dầu không uống thuốc hay được chữa
trị.
(2) Một bệnh nhân chắc chắn
sẽ không được phục hồi và sẽ chết vì chứng bệnh,
dầu chữa trị và uống thuốc cách nào.
(3) Một bệnh nhân sẽ được
phục hồi nếu thuốc men thích nghi, được chữa trị đầy
đủ và đúng mức, nhưng sẽ không được phục hồi và
sẽ chết nếu không dùng đúng thuốc và chữa trị thích
nghi.
Ðó là ba loại bệnh nhân.
Những người đã được một
vị Phật quá khứ thọ ký (niyata vyàkarana), và như
vậy chắc chắn sẽ giải thoát trong kiếp sống nầy,
giống như loại bệnh nhân đầu tiên.
Người ở hạng padaparama
giống như loại bệnh nhân thứ nhì. Giống như loại bệnh
nhân thứ nhì không hy vọng được chữa trị, người hạng
padaparama không thể có hy vọng được giải thoát ra
khỏi những khổ đau của đời sống. Tuy nhiên, trong những
kiếp sống tương lai vị ấy có thể giải thoát, hoặc
trong Giáo Huấn của Ðức Phật hiện tiền, hoặc trong Giáo
Huấn của một vị Phật tương lai. Câu chuyện của chàng
thanh niên Chattamànava [5], của con ếch trở thành một
vị trời và của đạo sĩ Saccaka [6] là trường hợp
của những chúng sanh đã giải thoát trong kiếp kế liền
sau kiếp hiện tại, trong Giáo Huấn của vị Phật hiện
tại.
Chúng sanh hạng Neyya giống
như loại bệnh nhân thứ ba. Cũng giống như một bệnh nhân
trong loại thứ ba có thể, hoặc được phục hồi tình
trạng sức khoẻ, hoặc phải chết vì bệnh, cùng thế ấy
chúng sanh hạng Neyya có thể, hoặc được giải thoát
ra khỏi những khổ đau của thế gian trong kiếp hiện tại,
hoặc sẽ không giải thoát.
Nếu một người ở hạng Neyya,
hiểu biết điều gì là tốt cho mình, hợp theo tuổi tác, lánh
xa những gì cần phải xa lánh, tìm đúng thầy, thực hành
đúng theo sự hướng dẫn chân chánh của thầy và tinh tấn
chuyên cần đúng mức, vị ấy sẽ có thể giải thoát ngay
trong kiếp hiện tiền. Tuy nhiên, nếu vị ấy khư khư chấp
thủ tà kiến và tà mạng; nếu tự mình không thể lánh xa
dục lạc; nếu mặc dầu có thể xa lánh dục vọng nhưng không
được sự hướng dẫn của một vị thầy tốt; nếu mặc
dầu có được sự hướng dẫn của một vị thầy tốt nhưng
không thể chuyên cần tinh tấn đúng mức; nếu mặc dầu
muốn cố gắng tu tập nhưng không thể thực hành vì tuổi
tác quá cao; nếu mặc dầu tuổi còn trẻ nhưng phải ươn
yếu bệnh hoạn, ắt không thể giải thoát trong kiếp hiện
tại. Vua Ajàtasattu (A Xà Thế) [7], con của trưởng
giả triệu phú Mahàdhana [8], Tỳ Khưu Sudinna [9],
là trường hợp những vị không thể giải thoát trong kiếp
hiện tiền.
Vua Ajàtasattu không giải thoát
được vì phạm tội giết cha. Ðược biết rằng ông phải
lăn trôi lặn hụp trong vòng luân hồi (samsàra, vòng
quanh những kiếp sinh tồn) trong thời gian hai a-tăng-kỳ (asankheyyas),
và sau đó trở thành một vị Paccekabuddha, Ðộc Giác
Phật.
Con của trưởng giả triệu phú Mahàdhana
có thói quen quá đổi lợi dưỡng trong nhục dục ngũ trần
lúc thiếu thời nên không thể thành tựu tâm vắng lặng
khi niên cao tuổi lớn. Con đường giải thoát xa xôi diệu
vợi, chí đến cơ hội sống quen thuộc với Tam Bảo, Ti-Ratana
[10] anh cũng không được có. Khi thấy tình trạng khốn
khổ của anh Ðức Phật nói với Ðức Ananda:
"Nầy Ananda, nếu con của nhà triệu phú kia xuất
gia, trở thành một tỳ khưu trong Giáo Huấn (Sàsana)
của Như Lai trong thời son trẻ, thời kỳ thứ nhất của
cuộc đời, anh ta đã chứng ngộ Ðạo Quả A-La-Hán và sẽ
nhập Ðại Niết Bàn (Parinibbàna) [11] trong kiếp sống
nầy. Nếu xuất gia, trở thành tỳ khưu vào thời kỳ thứ
nhì của đời sống, anh ta đã là một vị A-Na-Hàm (Anàgàmi,
Bất Lai) [12] và khi chết sẽ tái sanh vào cảnh Vô Phiên Thiên
(Suddhàvàsa brahma loka) [13] của các vị Phạm Thiên,
rồi từ đó chứng đắc Ðạo Quả A-La-Hán và nhập Ðại
Niết Bàn (Parinibbàna).
"Còn một trường hợp khác
nữa, nếu xuất gia sống đời tỳ khưu trong Giáo Huấn
của Như Lai vào đầu thời kỳ thứ ba của đời sống, anh
ta sẽ chứng đắc hoặc Tư-Ðà-Hàm (Sakadàgàmi, Nhứt
Lai) -hoặc Tu-Ðà-Huờn (Sotàpanna, Nhập Lưu) và đã vĩnh
viễn không còn bao giờ tái sanh vào khổ cảnh (apàya
lokas)" [14]. Ðức Thế Tôn nói với Ngài Ananda
như vậy. Mặc dầu con của nhà trưởng giả triệu phú đã
có tích trữ ba-la-mật (pàrami) đủ chín mùi để làm
cho kiếp sống hiện tại là cuối cùng, nhưng vì không có
được một vị Phật "thọ ký" (niyata vyàkarana),
nên không có gì bảo đảm chắc chắn rằng những ô nhiễm
còn tiềm tàng trong dòng nghiệp của anh không nổi dậy
mạnh mẽ, vì thế dầu có được duyên may gặp Giáo Huấn
của một vị Phật (Buddha Sàsana) anh không thể thành
tựu giải thoát ra khỏi khổ đau của vòng luân hồi. Nếu
kiếp sống của anh trong khổ cảnh (apàya loka) còn kéo
dài vì những hành động bất thiện trong kiếp hiện tại
anh ta sẽ không thể thoát khỏi những cảnh khổ (apàya
loka) vào thời kỳ Giáo Huấn của Ðức Phật Di Lạc, Metteya,
vị Phật tương lai. Và sau đó, còn vô số những châu kỳ
không được có một vị Phật [15]. Bất hạnh thay! Quả
thật còn xa, rất xa vời, thời kỳ mà con nhà triệu phú trưởng
giả có thể giải thoát, mặc dầu trong hiện tại anh đã có
tích trữ đủ ba-la-mật để giải thoát trong kiếp nầy.
Thông thường, ngày nay người ta
nghĩ rằng nếu đã có tạo đủ ba-la-mật ta sẽ không mất
cơ hội, mà chắc chắn sẽ gặp Giáo Huấn của một vị
Phật (Buddha Sàsana), dầu muốn dầu không, và ta sẽ vượt
thoát ra khỏi mọi khổ đau của những kiếp sinh tồn,
chắc như vậy, dầu có muốn giải thoát hay không. Những người
nầy quên để ý rằng có niyata (tức được một vị
Phật thọ ký) và aniyata (không được có một vị
Phật thọ ký). Xét theo hai bài trong Tam Tạng Kinh Ðiển
(Tipitaka) được nêu trên và câu chuyện con nhà triệu phú,
ta nên nhớ rằng người không được một vị Phật thọ ký,
aniyata neyya, chỉ có thể giải thoát ra khỏi khổ đau
của đời sống khi tận lực chuyên cần đầy đủ tinh
tấn, dầu đã có ba-la-mật (pàrami) tích trữ đầy đủ
để thành tựu giải thoát. Nếu thiếu chuyên cần và tinh
tấn, không thể thành tựu Ðạo và Quả trong thời kỳ Buddha
Sàsana nầy.
Ngoài những hạng người nầy còn
có vô số chúng sanh khác, như đạo sĩ Alàra và Uddaka
(Majjhima Nikàya, Trung A Hàm 28) đã có tích trữ đủ
ba-la-mật để giải thoát nhưng không may phải sanh trưởng
nhằm một trong tám nơi không thuận tiện (atthakkhanas)
[16], những nơi mà ta không thể thành tựu Ðạo và Quả.
Những Ðiều Kiện Thực Hành
Cần Thiết Cho Hạng Neyya và Padaparama
Trong bốn hạng chúng sanh được
kể ở phần trên, hạng Ugghàtitannù và hạng Vipancitannù
có thể chứng đắc Sotàpatti-magga (Tu-Ðà-Huờn Ðạo)
và những tầng trí tuệ cao siêu hơn -- như Bà Visàkhà
và trưởng giả Cấp Cô Ðộc, Anàthapindika [17] khi
chỉ nghe thuyết giảng Giáo Pháp một lần. Những vị ấy
không cần phải thực hành Giáo Pháp qua những giai đoạn
Thanh Tịnh, như Giới Tịnh (sìla-visuddhi), tâm tịnh (citta-visuddhi)
v.v... Cũng nên nhắc lại rằng đây cũng là trường hợp
giải thoát của chư Thiên và chư Phạm Thiên.
Do vậy nên ghi nhận rằng pháp hành
như giới tịnh (sìla visuddhi) và tâm tịnh (citta
visuddhi) được dạy trong Kinh Ðiển Pàli chỉ áp dụng
cho hai hạng chúng sanh Neyya và Padaparama trước
khi những vị nầy chứng đắc Sotàpatti-magga (Tu-Ðà-Huờn
Ðạo). Pháp hành nầy cũng dành cho ba hạng người trước
khi thành đạt các tầng Ðạo và Quả cao siêu. Vào thời
kỳ mới thành tựu A La Hán Quả cũng vậy, các Ngài cũng áp
dụng pháp hành nầy nhằm mục đích dittha-dhamma-sukha-vihàra
(an trụ thoải mái trong cuộc sống hiện tại) [18], bởi
vì vị A La Hán đã trải qua những giai đoạn của pháp hành
nầy.
Sau khi ngàn năm đầu tiên (của
nền Phật Giáo -- Buddha Sàsana -- hiện tại) đã trôi
qua, vốn là thời kỳ của chư vị Patisambhidhà-patta
(A-La-Hán với Trí Tuệ Phân Tách), chỉ còn hai hạng chúng
sanh Neyya và Padaparama. Ngày nay chỉ còn có hai
hạng chúng sanh nầy.
Neyya-puggala
Trong hai hạng chúng sanh nầy,
những vị ở hạng Neyya có thể chứng đắc tầng
Nhập Lưu (sotàpanna, Tu-Ðà-Huờn) trong kiếp sống
nầy nếu cẩn trọng và nhiệt thành thực hành bodhipakkhiya
dhamma (ba mươi bảy Pháp Trợ Ðạo, hay 37 Bồ Ðề
Phần) như satipatthàna (Tứ Niệm Xứ), sammappadhàna
(Tứ Chánh Cần) v.v... Nếu hờ hững dể duôi trong pháp hành,
vị nầy chỉ có thể chứng đắc Ðạo và Quả Sotàpanna
(Tu Ðà Huờn) trong kiếp kế, sau khi tái sanh vào cảnh trời
(deva). Nếu ở trong cảnh giới sau nầy mà còn lánh
xa, không thực hành các pháp Trợ Ðạo (bodhipakkhiya)
như Tứ Niệm Xứ v.v... vị nầy sẽ hoàn toàn mất cơ hội
trong Giáo Huấn của vị Phật hiện tại (Buddha Sàsana),
nhưng vẫn có thể thành tựu giải thoát nếu được duyên
may gặp Giáo Huấn của vị Phật tương lai.
Padaparama-puggala
Một vị trong hạng Padaparama
có thể thành tựu giải thoát trong kiếp tới, trong Giáo
Huấn của vị Phật hiện tại, sau khi tái sanh vào một
cảnh trời (deva loka) và thành tâm thực hành những
Phẩm Trợ Ðạo (Bodhipakkhiya).
Thời Ðại Chư Thánh Nhân Vẫn Còn
Thời gian năm ngàn năm của vị
Phật hiện tại bao gồm Thời Ðại Chư Thánh Nhân. Thời Ðại
Chư Thánh Nhân nầy sẽ tồn tại ngày nào mà Tam Tạng Kinh
Ðiển (Ti-pitakas) còn lưu truyền trên thế gian. Hạng
chúng sanh padaparama nên nhân cơ hội được gặp Phật
Giáo (Buddha Sàsana) để tích trữ mầm mống hay hột
giống ba-la-mật càng nhiều càng tốt trong kiếp sống nầy.
Phải tích trữ hột giống sìla (giới). Phải tích
trữ hột giống samàdhi (định). Phải tích trữ hột
giống pannà (tuệ).
Giới (Sìla)
Trong ba loại tích trữ, sìla
(Giới), samàdhi (Ðịnh), pannà (Tuệ), hột
giống sìla có nghĩa: Panca Sìla [19], Ajìvatthamaka
Sìla [20], Atthànga Uposatha Sìla [21], Dasanga Sìla
[22] đối với nam nữ tại gia cư sĩ, và Bhikkhu Sìla [23]
đối với hàng xuất gia.
Ðịnh (Samàdhi)
Hột giống Ðịnh (samàdhi)
có nghĩa là những cố gắng để thành tựu parikamma-samàdhi
(tạm định, định sơ khởi, hay trạng thái chuẩn bị
nhập định) bằng cách áp dụng một trong bốn mươi đề
mục hành thiền như mười kasinas (những dụng cụ để
chú tâm vào), hoặc nếu có thể chuyên cần tinh tấn hơn,
thành tựu upacàra-samàdhi (cận định) hoặc tinh tấn
chú tâm hơn nữa, thành tựu appanà-samàdhi (toàn định).
Tuệ (Pannà)
Hột giống trí tuệ (pannà)
có nghĩa là trau giồi khả năng phân tách những đặc tính
và những phẩm chất của rùpa (sắc, những hiện tượng
vật chất), nàma (danh, những hiện tượng tâm linh), khandhà
(uẩn, các nhóm cấu thành cuộc sống), àyatana (căn,
sáu cửa giác quan), dhàtu (nguyên tố, hay thành phần căn
bản cấu thành vật chất, tứ đại), sacca (chân lý,
hay diệu đế), và paticcasamuppàda (duyên khởi, hay phát
sanh do điều kiện) cùng với công phu trau giồi minh sát về
ba đặc tướng của đời sống (lakkhana) tức là anicca
(vô thường), dukkha (khổ), anattà (vô ngã).
Trong ba loại hột giống của Ðạo
Tuệ (magga-nàna) và Quả Tuệ (phala-nàna) [24], sìla
(giới) và samàdhi (định) cũng tương tợ như những món
đồ trang sức thường xuyên tô điểm thế gian cho đến
thời kỳ không có Phật Giáo (sunna, hư không, tức chu
kỳ thế gian không có Phật, thời kỳ không có giáo huấn
của một vị Phật). Hột giống giới và định có thể
được thành đạt bất luận lúc nào. Nhưng hột giống pannà
(trí tuệ), liên quan đến rùpa, nàma, khandha, àyatana, dhàtu,
sacca, và paticcasamuppada (sắc, danh, ngũ uẩn, lục căn,
tứ đại, diệu đế và pháp thập nhị duyên khởi) chỉ
được có trong thời kỳ có giáo huấn của một vị Phật
(Buddha Sàsana). Ngoài thời kỳ có Phật Giáo (Buddha
Sàsana) -- xuyên qua vô số "sunna" tức chu
kỳ thế gian không có Phật Giáo -- không thể có cơ hội để
nghe những lời nói liên quan đến pannà (trí tuệ), dù
chỉ nghe thoáng qua. Do đó, người có được duyên may tái
sanh ngày nay trong thế gian nầy, trong khi Giáo Huấn của
một vị Phật còn đang lưu truyền thịnh vượng, nếu
muốn tích trữ hột giống của Ðạo Tuệ và Quả Tuệ
nhằm bảo đảm sự giải thoát ra khỏi những đau khổ
trong một kiếp sống tương lai, phải đặc biệt thận
trọng chú tâm đến paramatha [25] (chân đế, chân lý cùng
tột), vốn rất khó gặp, vô cùng khó hơn là tích trữ
hột giống sìla (giới) và samàdhi (định). Tối
thiểu ta phải cố gắng thấu hiểu rõ ràng phương cách mà
Tứ Ðại (mahà-bhùta) -- pathavì, àpo, tejo, và vàyo
[26] -- cấu thành cơ thể vật chất nầy. Nếu minh sát
hiểu biết tận tường bốn nguyên tố nầy ắt ta thâu
hoạch một số khá nhiều những hột giống trí tuệ (pannà),
vốn rất khó thành đạt, mặc dầu chưa thấu đạt tuệ giác
nào trong những phần khác của Abhidhamma, Vi Diệu Pháp.
Có thể nói rằng sự kiện khó được tái sanh vào thời
kỳ có Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana) đáng
cho ta gia công.
Vijjà
(Minh) và Carana (Hạnh)
Sìla
(giới) và samàdhi (định) hợp thành carana
(Hạnh) trong khi pannà là vijjà (Minh). Như vậy,
giới, định, tuệ là Minh Hạnh. Minh (vijjà) giống như
đôi mắt của chúng sanh, Hạnh (carana) như cặp chân. Vijjà
giống như mắt của chim, carana như cánh. Người có đủ
Giới và Ðịnh nhưng thiếu Tuệ giống như có đầy đủ
hai chân nhưng mù mắt. Người có Minh (vijjà) nhưng
thiếu Hạnh (carana) giống như có mắt tốt nhưng hai
chân bệnh tật. Một người có đầy đủ cả hai, Minh (vijjà)
và Hạnh (carana), giống như người đầy đủ hai mắt
sáng và cặp chân khoẻ mạnh. Thiếu cả hai, Minh và Hạnh,
thì giống như người mù mà chân cẳng què quặt, không đáng
được gọi là người.
Hậu Quả Của Tình Trạng Chỉ Có
Carana (Hạnh)
Trong những chúng sanh cùng chung
sống vào thời kỳ có Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha
Sàsana), có những người đầy đủ Giới và Ðịnh, nhưng
không có hột giống Minh (vijjà), như tuệ minh sát
hiểu thấu bản chất của sắc pháp, danh pháp và ngũ uẩn.
Vì có Hạnh dõng mãnh, những vị nầy có nhiều triển
vọng sẽ gặp Giáo Huấn của một vị Phật tương lai, nhưng
vì thiếu hột giống Minh, họ không thể thành đạt Giác
Ngộ, mặc dầu có được nghe lời thuyết giảng của chính
vị Phật tương lai.
Họ cũng giống như Ðại Ðức Làludàyì
[27], Ðại Ðức Upananda [28], những vị tỳ khưu Chabbaggìya
[29], và Vua xứ Kosala [30], tất cả những người đã
sống dưới thời Ðức Phật Toàn Giác. Nhờ trong những
kiếp sống quá khứ đã tích trữ nhiều Hạnh (carana)
tốt như bố thí và trì giới nên các vị nầy có được cơ
hội sống liên hợp với Ðức Phật Tối Thượng, nhưng vì
thiếu tích trữ hột giống Minh (vijjà) nên những
lời dạy của Ðức Phật mà các vị ấy thường nghe trong
kiếp nầy thất bại, như đã rơi vào tai điếc.
Hậu Quả Của Trường Hợp Chỉ
Có Vijjà (Minh)
Có những người khác đã tích
trữ đầy đủ hột giống Minh (vijjà) như thấu hiểu
sắc pháp và danh pháp và các uẩn, nhưng thiếu Hạnh (carana)
như bố thí (dàna), thường xuyên trì giới (nicca sìla)
và giữ bát quan trong những ngày giới (uposatha sìla).
Nếu những vị nầy có duyên may gặp được Ðức Phật
vị lai và nghe những thời Pháp do Ngài thuyết giảng ắt có
thể Giác Ngộ vì có đủ Minh (vijjà), nhưng vì thiếu
Hạnh (carana) nên rất khó, cực kỳ hiếm hoi cho các
vị nầy có cơ hội gặp vị Phật tương lai. Như thế bởi
vì có một antara-kappa (chu kỳ thế gian) giữa Buddha
Sàsana, Giáo Huấn của Ðức Phật hiện tại và vị
Phật kế đó.
Vào khoảng thời gian ấy, các
vị thiếu Hạnh (carana) kể trên lang thang bất định
trong Dục Giới, có nghĩa là các vị ấy phải lặn hụp lăn
trôi trong một chuỗi dài những kiếp sống và tái sanh,
sanh-tử, tử-sanh. Cơ hội gặp được vị Phật tương lai
chỉ có thể thành tựu nếu những kiếp sống ấy ở trong
lạc cảnh [31]. Nếu trong thời gian ấy chẳng may phải sa đọa
vào bốn cảnh khổ [32] thì cơ hội gặp được vị Phật tương
lai đã mất, rất khó tìm lại được, bởi vì một kiếp
sống trong Khổ Cảnh thường đưa đến một cảnh giới khác
trong bốn cảnh khổ, triền miên liên tục kéo dài.
Những người trong kiếp sống
nầy thiếu công đức bố thí (dàna), không giữ gìn
trong sạch hành động bằng thân, không thận trọng thu thúc
lời nói, và có những tư tưởng nhơ bẩn nhiễm ô, và như
vậy thiếu Hạnh (carana), có chiều hướng mạnh mẽ
sẽ tái sanh vào một trong Bốn Khổ Cảnh sau khi chết. Nếu
may nhờ một vài nghiệp tốt nào đã tạo, người ấy được
tái sanh vào một trong những cảnh giới nhàn lạc (suggati-loka),
bất luận ở cảnh giới nào mà người ấy tái sanh vào, vì
thiếu Hạnh (carana) trong quá khứ như bố thí (dàna),
người ấy cũng thiếu thốn và rất có thể gặp nhiều khó
khăn, thử thách và nhiều nỗi khổ tâm trong cuộc sinh
sống, do đó có chiều hướng tạo nghiệp bất thiện và tái
sanh vào khổ cảnh (apàya lokas). Bởi vì thiếu Hạnh (carana)
như thường xuyên hành trì các giới căn bản và bát quan
trai giới (uposatha sìla), những người ấy có thể
gặp rất nhiều cơ hội để cãi vã, tranh chấp, sân hận,
thù oán, trong cuộc sống khi giao dịch với người khác,
lại có thể còn thường bị ốm đau ươn yếu, và như
vậy gặp nhiều cơ hội có chiều hướng làm cho mình gây
nhiều bất thiện nghiệp và sa đọa vào khổ cảnh (apàya
loka). Như vậy người ấy sẽ kinh nghiệm những hoàn
cảnh đau thương trong mỗi kiếp sống, sẽ tích tụ những
khuynh hướng tâm tánh bất thiện, và do đó gây nhiều trở
ngại trong kiếp sống ở lạc cảnh (suggati loka) và
tạo những nhân bất thiện có chiều hướng đưa tái sanh vào
khổ cảnh (duggati loka). Như vậy hy vọng được gặp
vị Phật tương lai của người thiếu Hạnh (carana)
quả thật hiếm hoi.
Ðiểm Chánh Yếu
Tóm lược, điều chánh yếu là,
chỉ khi nào ta hội đủ những hột giống Minh (vijjà)
và Hạnh (carana) mới có thể giải thoát ra khỏi
những khổ đau của đời sống trong một kiếp tới. Nếu
chỉ có hột giống Minh (vijjà), thiếu hột giống
Hạnh (carana) như bố thí và trì giới, ta sẽ không
được bảo đảm có cơ hội gặp Giáo Huấn của vị Phật
tương lai, Buddha Sàsana. Nếu đàng khác, hội đủ
những hột giống Hạnh (carana) nhưng thiếu hột
giống Minh (vijjà), mặc dầu ta có thể gặp được Giáo
Huấn của vị Phật tương lai, nhưng không thể giải thoát.
Do đó những người ở hạng padaparama ngày nay, dầu
nam hay nữ, có chú nguyện được gặp Giáo Huấn của vị
Phật tương lai, phải cố gắng tích trữ trong thời Phật
Giáo, Buddha Sàsana, hiện tại những hột giống Hạnh
(carana) bằng cách thực hành bố thí (dàna), trì
giới (sìla), và thiền vắng lặng (samatha bhàvanà),
và cũng phải, tối thiểu, cố gắng minh sát Bốn Nguyên
Tố Chánh Yếu Căn Bản, Tứ Ðại, nhờ đó được bảo đảm
sẽ gặp Giáo Huấn của vị Phật tương lai, và khi đã
gặp, có hy vọng sẽ thành tựu giải thoát.
Khi nói rằng dàna, bố thí,
là Hạnh (carana), bố thí nằm trong phân hạng saddhà
(đức tin), vốn là một trong những saddhammas, bảy
phẩm hạnh thực tiễn của người tốt, lại một lần
nữa nằm trong mười lăm carana-dhammas, hạnh pháp. Mười
lăm carana-dhammas là:
1. Sìla (Giới);
2. Indriya-samvara (thu thúc lục căn);
3. Bhojane mattannutà (ẩm thực độ lượng):
4. Jàgariyànuyoga (tỉnh thức):
5-11. Saddhamma (bảy đặc tính của người tốt và có
đức hạnh);
12-15. Bốn Jhànas (Tứ Thiền, bốn tầng Thiền Sắc
Giới).
Mười lăm pháp kể trên là đặc
tính của người chứng đắc tầng Thiền cao nhất (jhànalàbhi).
Vị hành giả chỉ hành thiền minh sát (sukkhavipassaka)
[33] phải có mười một hạnh pháp (catarana-dhammas)
[34], tức mười lăm trừ bốn tầng Thiền (Jhànas). Người
có chú nguyện muốn gặp Giáo Pháp của vị Phật tương lai
(Buddha Sàsana) cần thiết phải thực hành đầy đủ
bố thí, trì giới và bảy pháp saddhammas (phẩm hạnh
của người tốt).
Những ai muốn thành đạt các Ðạo
và Quả trong chính kiếp sống hiện tại phải hội đủ mười
một hạnh pháp (carana-dhammas) đầu tiên: sìla,
indriyasamvara, bhojane mattannutà, jàgariyànuyoga, và bảy saddhammas.
Nơi đây sìla, giới, có nghĩa là Ajìvatthamaka nicca
sìla (Thường xuyên thực hành chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng), Indriyasamvara có nghĩa thu thúc lục căn --
nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Bhojane mattannutà là
ẩm thực có độ lượng, chỉ lấy thức ăn vừa đủ để
làm cho cơ thể được quân bình. Jàgariyànuyoga có nghĩa
là không ngủ ngày, và chỉ ngủ một canh trong đêm [35] ,
trong hai canh còn lại thì thực hành bhàvanà (hành
thiền, trau giồi tâm).
Saddhamma
có nghĩa bảy phẩm hạnh của người tốt:
1. Saddhà (đức tin),
2. Sati (niệm),
3. Hiri (hổ thẹn tội lỗi),
4. Ottappa (ghê sợ hậu quả của tội lỗi),
5. Bàhusacca (học nhiều hiểu rộng),
6. Viriya (tinh tấn),
7. Pannà (trí tuệ).
Người muốn chứng ngộ Ðạo và
Quả Sotàpannas (Tu-Ðà-Huờn) trong kiếp sống hiện
tại không đặc biệt cần thiết phải thực hành hạnh bố
thí (dàna). Nhưng những ai tự biết mình không đủ
khả năng chuyên cần tinh tấn để có thể giải thoát trong
thời kỳ Giáo Huấn của vị Phật hiện tại phải đặc
biệt cố gắng thực hành dàna, hạnh bố thí, và uposatha-sìla,
bát quan trai giới trong những ngày giới.
Thứ Tự Thực Hành Và Những Người
Mong Chờ Vị Phật Tương Lai
Vì công phu thực hành của những
vị còn tùy thuộc và mong chờ vị Phật tương lai không bao
gồm gì hơn là tích trữ ba-la-mật (pàrami), không
hẳn cần thiết phải theo đúng thứ tự của những giai đoạn
thực hành được chỉ dẫn trong Kinh Ðiển Pàli, tức sìla,
samàdhi và pannà (giới, định, tuệ). Không nên
triển hoãn, gát chờ hành xong sìla (giới) rồi mới
bắt đầu thực hành samàdhi (định), hay triển hoãn công
phu thực hành pannà (tuệ) để chờ hoàn tất pháp hành
samàdhi (định). Theo thứ tự của bảy giai đoạn
thanh tịnh (visuddhis) như:
1. Sìla-visuddhi (giới
tịnh),
2. Citta-visuddhi (tâm tịnh),
3. Ditthi-visuddhi (kiến tịnh),
4. Kankhàvitarana-visuddhi (đoạn nghi tịnh),
5. Magg-àmagga-nànadassana-visuddhi (đạo phi đạo tri
kiến tịnh),
6. Patipadànànadassana-visuddhi (đạo tri kiến tịnh), và
7. Nàna-dassana-visuddhi (tri kiến tịnh).
Hành giả không nên bỏ sót hay trì
hoãn công phu thực hành pháp nào mà phải viên mãn hoàn
tất trước khi thực hành giai đoạn kế, theo đúng thứ
tự. Vì đây là những người có chú nguyện tích trữ
ba-la-mật càng nhiều càng tốt nên phải tận lực chuyên
cần nhằm tích trữ sìla, samàdhi và pannà (giới, định
tuệ) càng nhiều càng tốt.
Khi Kinh điển Pàli dạy rằng citta-visuddhi
(tâm tịnh) chỉ phải được thực hành sau khi hoàn tất tròn
đủ sìla-visuddhi (giới tịnh), rằng chỉ nên thực hành
ditthi-visuddhi (kiến tịnh) sau khi đã hoàn mãn hành
xong citta-visuddhi (tâm tịnh), rằng chỉ nên thực hành
kankhàvitarana-visuddhi (đoạn nghi tịnh) sau khi đã hoàn
tất thực hành viên mãn ditthi-visuddhi (kiến tịnh),
rằng công phu trau giồi pháp hành thiền về anicca, dukkha,
và anattà bhàvanà (vô thường, khổ, vô ngã) chỉ nên
được bắt đầu sau khi đã thực hành đầy đủ kankhàvitarana-visuddhi
(đoạn nghi tịnh), thứ tự thực hành nầy được chỉ
dạy để áp dụng cho những vị cố gắng thành tựu Ðạo
và Quả chính trong kiếp sống nầy. Trong trường hợp
những người tự thấy mình không thể chuyên cần đến
mức cao độ như vậy mà chỉ cố gắng góp nhặt ba-la-mật
(pàrami) tạo nên do pháp hành được bao nhiêu càng
tốt, không nên bảo họ rằng pháp hành thiền vắng lặng
nhằm thanh lọc tâm (samatha manasikàra citta-visuddhi)
chỉ nên được bắt đầu sau khi thực hành đầy đủ sìla-visuddhi
(giới tịnh).
Với người thợ săn và người
thợ câu, không nên bảo họ nếu không bỏ nghề để hành
một nghề khác thì đừng nên thực hành quán niệm, hướng
tâm về vắng lặng và minh sát (samatha-vipassanà-manasikàra).
Nói như vậy sẽ gây trở ngại cho Giáo Pháp (dhammantaràya,
chướng ngại, cản trở người ta trên con đường dẫn đến
Giáo Pháp). Trái lại nên khuyến khích người thợ săn
hoặc thợ đánh cá nên quán niệm những phẩm hạnh thánh
thiện của Phật, Pháp, Tăng. Nhắc nhở họ nên tận lực
quán niệm tính chất ô trược của cơ thể vật chất
nầy. Khuyên nhủ họ nên quán niệm tánh cách vô thường,
bất ổn định, hết sức bấp bênh, của kiếp sinh tồn, trước
cái chết chắc chắn sẽ phải đến với ta, và với tất
cả mọi chúng sanh. Sư (Ngài Ledi Sayadaw) có biết trường
hợp một người thợ chài lưới chuyên nghiệp, sau khi được
khuyến khích như trên, có thể đọc thuộc lòng Kinh Ðiển
Pàli và "nisaya" (bản dịch từng chữ) quyển Abhidhammattha
Sangaha (Vi Diệu Pháp Toát Yếu) và những duyên hệ, Paccaya
Niddesa, của bộ Patthàna (Tương Quan Duyên Hệ)
của Tạng Luận trong khi vẫn hành nghề đánh cá. Những công
trình tu học như vậy là nền tảng vững chắc rất tốt để
gieo trồng mầm giống vijjà (Minh).
Ngày nay, mỗi khi gặp thiện tín
(dàyaka upàsakas), đúng theo truyền thống của một nhà
Sư, Sư khuyên họ rằng mặc dầu là thợ săn hay thợ câu
chuyên nghiệp, lúc nào cũng nên ghi nhớ, quán niệm những
phẩm hạnh thánh thiện của Tam Bảo và ba đặc tướng
của đời sống. Quán niệm những phẩm hạnh thánh thiện
của Tam Bảo (Ti-Ratana) là gieo trồng hột giống Hạnh
(carana). Quán niệm ba đặc tướng của đời sống là
gieo trồng hột giống Minh (vijjà).
Dầu là đối với người thợ săn
hay thợ câu ta cũng nên khuyến khích họ thực hành niệm tâm
như vậy. Không nên nghĩ rằng sẽ không thích nghi nếu ta
khuyên người thợ săn hay thợ câu nên hành thiền vắng
lặng (samatha) và thiền minh sát (vipassanà). Ðàng
khác, nếu họ gặp khó khăn, nên giúp đỡ cho họ hiểu
biết. Nên sách tấn và khuyến khích họ nên kiên trì cố
gắng. Họ ở trong hoàn cảnh mà dù chỉ có hành động nào
tích trữ ba-la-mật (pàrami) và có chiều hướng tốt
cũng nên được tán dương.
Mất Cơ Hội Gieo Trồng Hột
Giống Vijjà (Minh) Vì Không Biết Giá Trị Của Thời
Hiện Tại
Vài vị đạo sư chỉ chú trọng
đến những lời dạy trực tiếp và rõ ràng, không thể
hiểu lầm, trong Kinh Ðiển Pàli về thứ tự phải thực hành
bảy giai đoạn thanh tịnh (visuddhi), nhưng không quan tâm
đến giá trị của thời gian hiện tại. Các vị ấy dạy
rằng pháp hành thiền vắng lặng (samatha) hay thiền
minh sát (vipassanà), dầu tận lực tinh tấn thế nào,
không thể đưa đến thành quả nếu trước đó không hoàn
tất giai đoạn giới tịnh (sìla-visuddhi). Vài hành
giả kém hiểu biết bị dẫn dắt lầm đường vì tin theo
những lời dạy tương tợ. Như vậy, đó là dhammantaràya
(chướng ngại cho Giáo Pháp).
Những người ấy, vì không hiểu
biết bản chất của giờ phút hiện tại, sẽ mất cơ hội
để gieo trồng mầm giống vijjà (Minh), vốn chỉ có
thể thành tựu khi gặp được Giáo Huấn của một vị
Phật (Buddha Sàsana). Trong thực tế, họ không thể
giải thoát ra khỏi những khổ đau của đời sống và vẫn
phải còn lặn hụp lăn trôi trong vòng luân hồi (samsàra)
bởi vì trong quá khứ xa xôi dài không thể quan niệm, trải
qua vô số chu kỳ nhiều hơn cát trên bờ sông Hằng
(Ganges), mặc dầu đôi khi họ có cơ hội gặp Giáo Huấn
của một vị Phật (Buddha Sàsana) nhưng không thâu
thập nền tảng mầm giống vijjà (Minh).
Khi nói đến mầm giống, nên
hiểu rằng có những hột giống đủ chín mùi để có thể
nở mộng và trở thành cây non mạnh khoẻ sởn sơ, và có
nhiều mức độ chín. Cũng có những hột giống chưa chín,
chưa đủ mùi. Người không hiểu biết ý nghĩa của đoạn
kinh mình đang đọc, hoặc không hiểu biết phương pháp
thực hành chân chánh, dầu thông hiểu ý nghĩa nhưng chỉ đọc,
tụng, và lần chuỗi theo thói quen thông thường trong khi
ấy quán niệm phẩm hạnh của Ðức Phật và những đặc tướng
vô thường, khổ, và vô ngã, đọc tụng kinh mà không theo dõi
lời kinh, ắt sẽ có hột giống không đủ chín, không mùi.
Những hột giống nầy có thể chín và đủ mùi nếu hành
giả tiếp tục hành như thế trong những kiếp sau kế đó,
nếu có được cơ hội.
Pháp hành vắng lặng (samatha)
cho đến mức parikamma nimitta [36] và pháp hành minh sát
(vipassanà) đến tuệ phân biệt sắc và danh (rùpa và
nàma), dầu chỉ một lần, là hột giống chín mùi có đủ
tiềm năng và thể chất. Pháp hành thiền vắng lặng đến
mức uggaha nimitta và pháp hành thiền minh sát đến
mức sammasana-nàna [37], dầu chỉ một lần, là hột
giống càng chín mùi hơn. Thiền vắng lặng đến mức Patibhàga-nimitta
[38] và thiền minh sát đến Udayabbayanàna [39], dầu
chỉ một lần, là hột giống càng chín mùi hơn. Nếu càng
chuyên cần tinh tấn hơn trong công phu thực hành thiền
vắng lặng và thiền minh sát hột giống vijjà (Minh) càng
già giặn chín mùi hơn có thể đưa dến thành công quan
trọng.
Adhikàra
(Pháp Hành Nhiệt thành Tinh Tấn Và Thành Công)
Kinh Ðiển Pàli nói rằng chỉ trường
hợp có adhikàra trong thời kỳ Giáo Huấn của những
vị Phật (Buddha Sàsana) quá khứ mới có thể thành
tựu các tầng Thiền (Jhànas), các Ðạo (Maggas)
và các Quả (Phalas) trong thời Phật Giáo sau nầy. Danh
từ "adhikàra" có nghĩa là "hột giống thành
công", tức là những mầm giống có thể trổ sanh thành
quả tốt đẹp. Ngày nay có những người trải qua cuộc đời
của mình thực hành theo những phương pháp cổ truyền,
vốn chỉ là những pháp mô phỏng theo thiền vắng lặng (samatha)
và thiền minh sát (vipassanà) mà không chính thực là
những hột giống samatha và vijjà có thể gọi là adhikàra.
Trong hai loại hột giống, những
người đã gặp được Phật Giáo (Buddha Sàsana) mà không
có đủ hột giống vijjà (Minh) thì quả thật là một
mất mát lớn lao. Ðáng tiếc như vậy bởi vì những hột
giống vijjà (Minh) liên quan đến rùpa và nàma dhamma
(tiến trình sắc pháp và danh pháp) chỉ có thể có trong
thời kỳ còn Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana)
và chỉ khi nào đủ nhạy cảm để hay biết mới có thể
thấu đạt.
Do đó hiện nay, dầu nam hay nữ,
những ai tự cảm thấy mình không thể suy niệm và quán xét
tận tường bản chất của sắc và danh pháp (rùpa nàma
dhamma) nên cố gắng tìm hiểu cặn kẻ nằm lòng bốn
nguyên tố chánh yếu (Tứ Ðại) của vật chất, suy niệm
về ý nghĩa và bản chất của Tứ Ðại, và hiểu biết nó
hợp thành cơ thể vật chất nầy như thế nào.
Ðến đây chấm dứt phần chỉ
dẫn, với những thảo luận về bốn hạng và ba loại người
đã được đề cập đến trong Tạng Kinh và Tạng Luận đó
là:
1. Những người sống trong
thời kỳ có Giáo Huấn của một vị Phật mà không thực
hành vắng lặng (samatha) và minh sát (vipassanà)
để cho thời gian trôi qua với những pháp hành mô phỏng,
giả mạo, bị mất mát rất quan trọng vì lỡ mất cơ
hội được sanh làm người trong thời kỳ có Phật Giáo,
2. Ðây là thời gian mà những
người trong hạng Padarama và Neyya [40] nếu đủ chuyên
cần tinh tấn, có thể thâu gặt những hột giống samatha
(vắng lặng) và vipassanà (minh sát) chín mùi, và dễ
dàng thành tựu những lợi ích siêu thế trong kiếp sống
nầy hay trong một cảnh trời (deva loka) vào kiếp
tới -- trong Giáo Huấn của vị Phật nầy hoặc của vị
Phật tương lai,
3. Những vị nầy có thể thâu
hoạch những lợi ích rộng lớn bao la trong kiếp sống làm
người, trong Giáo Huấn của một vị Phật.
Ðến đây chấm dứt phần trình
bày ba loại và bốn hạng cá nhân.
Một Lời Khuyên Và Cảnh Giác
Nếu những thời kinh được Ðức
Phật thuyết giảng trong suốt bốn mươi lăm Hạ (vassas)
được súc tích cô đọng và những phần chánh yếu trong
Tam Tạng Kinh (Tipitaka) được rút tỉa ngắn gọn lại
thì ta còn ba mươi bảy Phẩm Trợ Ðạo (bodhipakkhiya-dhamma,
những pháp cần thiết phải có để thành tựu trạng thái
giác ngộ, cũng gọi là 37 Bồ Ðề Phần). Ba mươi bảy pháp
cần thiết giúp đưa đến giác ngộ (bodhipakkhiya-dhamma)
nầy là phần cốt tủy chánh yếu của Tam Tạng kinh. Bảy
giai đoạn thanh lọc (visuddhi), là phần thâu gọn của
những phẩm trợ đạo nầy, trở thành sìla (Giới), samàdhi
(Ðịnh), và pannà (Tuệ). Những pháp nầy được
gọi là adhisìla sàsana (Giáo Huấn của Giới Luật Cao
Siêu), adhicitta sàsana (Giáo Huấn Của Tâm Cao Siêu), và
adhipannà sàsana (Giáo Huấn Của Trí Tuệ Cao Siêu).
Những pháp nầy cũng được gọi là sikkhàs, những pháp
tu học. Khi nói đến sìla (Giới). điều chánh yếu đối
với người cư sĩ tại gia là nicca sìla (những giới
cần phải thường xuyên hành trì). Những ai tròn đủ nicca
sìla là đã có đủ carana (Hạnh). Chính Hạnh (carana)
cùng với Minh (vijjà) giúp ta thành tựu Ðạo và Quả.
Nếu những vị ấy có thể hành thêm Bát Quan Trai Giới (uposatha
sìla) trong những ngày giới thì càng tốt hơn nicca sìla
nhiều. Ðối với hàng cư sĩ, nicca sìla (giới thường
xuyên) có nghĩa là àjivatthamaka sìla [41]. Những giới
nầy phải được nghiêm chỉnh và thật lòng nhiệt thành hành
trì. Nếu, vì còn là phàm nhân (putthujjana) ta vi phạm
một giới nào, thì có thể sám hối và xin giới lại, lặp
lại lời chú nguyện, xin trong sạch giữ giới từ đây về
sau, đến trọn đời. Nếu, trong tương lai lại còn phạm
giới nữa thì có thể lặp lại lời chú nguyện, và mỗi
lần xin giới như vậy thì giới hạnh được thanh lọc
trong sạch trở lại. Sự cố gắng không phải khó. Mỗi khi
nicca sìla, giới thường xuyên, bị vi phạm thì nên sám
hối và như vậy giới hạnh trở nên trong sạch trở lại.
Ngày nay có rất nhiều người giới đức trong sạch Tuy nhiên
người có tâm định vững chắc trong pháp hành niệm kasina
(dùng một hình thể tròn làm bằng đất nhồi rồi gom tâm
an trụ vào đó) hay thực hành niệm những ô trược của thân
(asubha-bhàvanà) v.v... quả thật hiếm hoi, cũng như người
có thể thấu đạt minh sát những hiện tượng vật lý và
tâm linh, hay ba đặc tướng của vạn pháp v.v... Thật hiếm
hoi có những người thành công như vậy vì ngày nay nhiều
Giáo Pháp Sai Lầm (micchàdhamma) đã chín mùi, tạo nhân
gây hiểm họa và chướng ngại cho Giáo Pháp.
Những Giáo Huấn Sai Lầm
Giáo Huấn Sai Lầm (micchà-dhamma)
tức "những lời dạy rất có thể gây chướng ngại
cho Giáo Pháp" (dhammantaràya), có nghĩa là những
quan kiến tương tợ như những pháp hành và những giới
hạn như không thể thấy hiểm họa của vòng luân hồi samsàra,
niềm tin cho rằng thời bây giờ không ai có thể thành tựu
Ðạo và Quả, chiều hướng triển hoãn mức độ chuyên
cần, chờ cho đến khi ba-la-mật (pàramis) đủ chín mùi,
niềm tin cho rằng người thời nay chỉ là dvi-hetuka
[42], những người sanh ra với hai nhân thiện, niềm tin cho
rằng những vị đại sư thời xưa không còn nữa.
Mặc dầu không đưa đến mục tiêu
cùng tột, không có thiện nghiệp (kusala kamma) nào là
vô ích. Nếu ta chuyên cần cố gắng, thiện nghiệp (kusala
kamma) lúc nào cũng là phương tiện tạo ba-la-mật (pàrami)
cho những ai còn thiếu ba-la-mật. Nếu không cố gắng tạo
ba-la-mật ắt cơ hội thâu gặt ba-la-mật đã mất. Nếu
những người mà ba-la-mật chưa chín mùi ra sức cố gắng
thì ba-la-mật của họ sẽ chín mùi. Những người nầy có
thể thành đạt Ðạo và Quả trong kiếp tới trong Giáo
Huấn của vị Phật hiện tại. Nếu không chuyên cần tinh
tấn, cơ hội để làm cho ba-la-mật chín mùi sẽ mất. Nếu
những người mà ba-la-mật đã chín mùi chuyên cần tinh
tấn, những vị ấy có thể chứng đắc Ðạo và Quả trong
kiếp sống nầy. Nếu không cố gắng, cơ hội thành đạt
Ðạo và Quả sẽ mất.
Nếu những người sanh ra với hai
nhân thiện (dvi-hetuka) chuyên cần tinh tấn, họ có
thể trở thành ti-hetuka [43] trong kiếp sống tới.
Nếu không chuyên cần cố gắng, họ không thể tiến lên
từ trạng thái dvi-hetuka (sanh ra với hai nhân thiện) mà
sẽ còn tuột xuống mức ahetuka [44]. Thí dụ như anh
kia trù định xuất gia, trở thành tỳ khưu (bhikkhu).
Nếu có người nói với anh rằng "chỉ nên dự định
xuất gia nếu anh có thể sống suốt đời cuộc sống của
một vị tỳ khưu. Nếu liệu làm không được vậy, chớ nên
dự định xuất gia như thế", -- đó là dhammantaràya,
chướng ngại cho Giáo Pháp.
Ðức Phật dạy: "Như Lai tuyên
ngôn rằng chỉ một tác ý thiện khởi sanh đã tạo lợi ích
lớn lao" -- (Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, số 8)
Làm giảm giá trị một hành động
bố thí (dàna) hoặc làm ngã lòng một người phát tâm
bố thí, có thể là một punnantaràya, chướng ngại
cho hành động tạo thiện nghiệp của người có ý định
bố thí. Nếu làm thối chí những người có hành động trì
giới, tham thiền, và phát triển trí tuệ thì đó là tạo
dhammantaràya, chướng ngại cho Giáo Pháp. Người gây chướng
ngại cho những hành động tạo thiện nghiệp sẽ mất
quyền lực và ảnh hưởng, tài sản và sự nghiệp và sẽ
nghèo đói trong những kiếp tới. Nếu gây chướng ngại cho
Giáo Pháp người ấy sẽ có khuyết điểm trong giới đức
và phẩm hạnh và kém nhạy cảm hiểu biết, và như vậy, rõ
ràng là thấp kém và hèn hạ trong những kiếp vị lai. Do đó
hãy coi chừng!
Ðến đây chấm dứt phần trình
bày nên xử dụng xứng đáng cơ hội hiếm hoi được sanh làm
người, bằng cách loại trừ những Giáo Huấn sai lạc được
kể trên và chuyên cần tinh tấn trong đời sống hiện tại
nhằm khóa chặt cánh cổng vào bốn cảnh khổ (apàya),
-- cho những kiếp vị lai trong vòng luân hồi (samsàra)
-- hoặc nữa, nhằm tích trữ những hột giống tốt giúp ta
thoát ra khỏi những khổ đau trong kiếp sống tới hoặc
trong Giáo Huấn của vị Phật kế sau đây, do nhờ thực hành
vắng lặng (samatha) và minh sát (vipassanà) một cách
quyết định, nhiệt thành và chuyên cần.
Ghi chú:
[1] Gặp một vị Phật: Ðiểm
nầy không thấy ghi chép trong kinh sách và chú thích được
đề cập đến ở phần trên. (Chủ biên Buddhist Publication
Society -- Kandy)
[2] Ðời sống thường được phân
làm ba giai đoạn: thiếu niên, trung niên, và lão niên. Xem
"Path of Purification" (Visuddhi Magga - Thanh Tịnh
Ðạo) do Ðại Ðức Nànamoli chuyển dịch từ Pàli sang Anh,
trang 721.
[3] Giáo Huấn của vị Phật
hiện tiền -- nơi đây được dịch sang tiếng Việt từ
chữ: the present Buddha Sàsana.
[4] Puggala-Pannatti, chương
100f; Anguttara, Tika-nipàta (những số Ba) số 22. (Xem
"The Wheel" số 155/158, trang 18)
[5] Vimàna
Vatthu.
[6] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm,
số 36.
[7] Dìgha Nikàya, Trường A Hàm,
số 2: kinh Sàmannaphala Sutta.
[8] Dhammapada Commentary, Chú Giải
kinh Pháp Cú -- Peta Vatthu.
[9] Vinaya Pitaka, Tạng Luật,
Pàràjikà.
[10] Ti-ratana = "Tam
Bảo": Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo. (Buddha, Dhamma,
Sangha)
[11] Ðại Niết Bàn: Sự viên
tịch của một vị A-La-Hán được gọi là nhập Ðại
Niết Bàn, parinibbàna.
[12] A-Na-Hàm, hay "Bất
Lai" là tầng Thánh thứ ba trong Tứ Thánh. Vị Thánh
nầy được gọi là Bất Lai vì không bao giờ còn trở lại
cảnh Dục Giới (kàma-loka).
[13] Vô Phiên Thiên -- cảnh giới
hoàn toàn tinh khiết, bao gồm năm cảnh trời thuộc Sắc
Giới, cảnh giới mà chỉ có những vị Thánh "Bất
Lai" tái sanh vào và nơi đây các Ngài sẽ chứng đắc
Ðạo và Quả A-La-Hán và nhập Ðại Niết Bàn.
[14] Apàya-loka là bốn cảnh
khổ bao gồm: cảnh a-tu-la, cảnh ngạ quỷ, cảnh thú và
cảnh địa ngục
[15] Sunna-kappas -- những châu
kỳ "hư không", tức những a-tăng-kỳ không có
Phật Giáo, không có Giáo Huấn của một vị Phật.
[16] Atthakkhana: Dìgha Nikàya,
Trường A Hàm, Pàthika-vagga, phẩm Pàthika, bài
kinh Dasuttara Sutta; Anguttara Nikàya III, Atthaka-nipàta, Akkhana
Sutta, trang 60:-- (i) paccantaro, sống một nơi mà Giáo
Huấn của một vị Phật, Buddha Sàsana, không được lưu
truyền; (ii) Arino, tái sanh vào bốn cảnh giới Phạm
Thiên Vô Sắc; (iii) Vitalingo, những người sanh ra đần
độn ngu si hay bệnh tật về tâm thần, v.v... ; (iv) Asannasatta,
sống trong cảnh giới những vị Phạm Thiên Vô Tưởng, không
có thức; (v) Micchà-ditthi, sanh trưởng giữa những người
mang nặng tà kiến; (vi) Peta, trong cảnh ngạ quỉ;
(vii) Tirachàna, trong cảnh thú; và (viii) Niraya,
trong cảnh địa ngục.
[17] Dhamma Commentary, tích chuyện
liên quan đến câu 1 và câu 18.
[18] Dittha-dhamma-sukha-vihàra
-- Phát sanh đến vị A-La-Hán sự hiểu biết rằng mình đã
giải thoát, và Ngài chứng ngộ: "Không còn tái sanh
nữa; ta đã sống cuộc sống trong sạch; ta đã hoàn thành
viên mãn những gì cần phải làm; ta không còn gì nữa
phải làm để chứng ngộ Ðạo và Quả A La Hán." Như
vậy Ngài an trụ thoải mái trong cuộc sống hiện tại.
[19] Panca Sìla, Ngũ Giới.
Ðây là những giới căn bản bao gồm mức tối thiểu mà
mỗi người, nam hay nữ, cần phải hành trì. Ðó là: cử kiêng
không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói
dối và không dùng những chất say.
[20] Ba phần của nhóm
"Giới" trong Bát Chánh Ðạo (chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng), khi được kể với chi tiết, trở thành
Ajìvatthamaka sìla như sau: 1. Con nguyện sẽ không sát
hại hay làm tổn thương sanh mạng; 2. Con nguyện sẽ không
trộm cắp; 3. Con nguyện sẽ không phạm tà hạnh và dùng các
chất say; 4. Con nguyện sẽ không nói dối; 5. Con nguyện sẽ
không nói lời đâm thọc, làm cho người nầy hờn giận người
kia; 6. Con nguyện không nói lời thô lỗ cộc cằn; 7. Con
nguyện không nói lời nhảm nhí; 8. Con nguyện không sinh
sống bằng tà mạng.
[21] Atthànga Uposatha Sìla = Tám
giới, hay bát quan trai giới, là kiêng cữ: 1. sát sanh, 2.
trộm cắp, 3. tà hạnh, 4. nói dối, 5. dùng chất say, 6. ăn
sau giờ ngọ, 7. khiêu vũ, hát xướng, đờn kèn, và ca
nhạc, đeo tràng hoa, dùng nước hoa, son phấn và trang sức
v.v... 8. nằm giường đẹp và cao.
[22] Dasanga Sìla, mười
giới, là một hình thức tế nhị của tám giới. Giới số
(7) trong Bát Quan Trai Giới chia làm hai, và cộng thêm giới
thứ 10 là cữ kiêng, không nhận vàng và bạc.
[23] Bhikkhu Sìla, Tứ Thanh
Tịnh Giới, bốn loại giới giúp chư Tăng giới đức trong
sạch (catupàrisuddhi-sìla) là:-- 1. Kiêng cữ, khép mình trong
227 giới luật của nhà sư (Giới Bổn); 2. Thu thúc lục căn;
3. Giới luật liên quan đến chánh mạng; 4. Giới luật liên
quan đến bốn đồ dùng cần thiết (tứ vật dụng: y
phục, chỗ ở, vật thực và thuốc men).
[24] Magga-nàna: Trí tuệ
của bốn Thánh Ðạo, tức Tu Ðà Huờn Ðạo, Tư Ðà Hàm Ðạo,
v.v... Phala-nàna là trí tuệ của bốn Thánh Quả.
[25] Paramatha: chân lý trong
ý nghĩa cùng tột; chân lý tuyệt đối, chân đế. Sách Abhidhammattha
Sangaha, Vi Diệu Pháp Toát Yếu, kể ra bốn paramatha
dhammas là: Citta, tâm vương; Cetasika, tâm sở; Rùpa,
sắc; và Nibbàna, Niết Bàn.
[26] Pathavì (nguyên tố Ðất),
Àpo (nguyên tố Nước, hay nguyên tố có đặc tính làm
dính liền), Tejo (nguyên tố Lửa) và Vàyo nguyên
tố Gió, có đặc tính di động hay nâng đỡ); ta thường
gọi là đất, nước, lửa, gió.
[27] Dhammapada Commentary, Bản Chú
Giải Kinh Pháp Cú, câu chuyện liên quan đến câu 64.
[28] Bản Chú Giải Kinh Pháp Cú,
liên quan đến câu 158, câu chuyện vị tỳ khưu tham ái
[29] Vinaya Pitaka, Tạng
Luật, phẩm Mahàvagga.
[30] Dhammapada Commentary, Bản Chú
Giải Kinh Pháp Cú, câu chuyện liên quan đến câu 60.
[31] Lạc cảnh, suggati loka,
là cảnh người (manusa) và sáu cảnh trời Dục Devaloka.
[32] Khổ cảnh, duggati loka,
là cảnh a-tu-la, ngạ quỉ, thú, và địa ngục.
[33] Sukkhavipassaka: (Lời người
dịch) Vị hành giả không dựa trên thiền vắng lặng để
phát triển tuệ minh sát mà hành thẳng thiền minh sát.
[34] Mười một: từ số 1 đến
11, tức 15 trừ bốn tầng Thiền (Jhàna)
[35] Ðêm được xem là có ba canh.
[36] Nimitta là hình ảnh phát
hiện trong tâm khi hành giả thành công tu tập một phương
pháp hành thiền. Hình ảnh ấy là bước đầu đưa vào tâm
định nên gọi là Chuẩn Bị hoặc Parikamma Nimitta, đề
mục sơ khởi. Ðây là hình ảnh trong tâm.
Hình ảnh vẫn chưa vững chắc và
rõ ràng lắm, phát hiện trong tâm sau đó được gọi là Uggaha-Nimitta.
Ðây là hình ảnh trong tâm.
[37] Sammasana-nàna, tuệ
thấu đạt, quán sát, nghiên cứu, nắm vững và nhận định
rằng tất cả những hiện tượng trong kiếp sống là vô thường,
khổ và vô ngã. Vào thời kỳ cuối cùng của tuệ nầy hành
giả nhoáng thấy minh sát rõ ràng.
[38] Patibhàga-nimitta, hình
ảnh khái niệm. Thiền vắng lặng đến mức gom tâm an trụ
thật vững chắc, thấy hình ảnh rõ ràng và không chao động.
Ðây cũng là một hình ảnh trong tâm.
[39] Udayabbayanàna, tuệ sanh
diệt, là tuệ giác phát sanh do công phu quán sát trạng thái
phát sanh và hoại diệt của các pháp hữu vi. Ðây là tuệ
giác đầu tiên trong chín tuệ hợp thành giai đoạn thanh
lọc Patipadànànadassana-Visuddhi, Tri Kiến Tịnh.
[40] Xem từ trang 147 sách nầy.
[41] Ajivatthamaka sìla. Xem chú
thích số 2, trang 158 , sách nầy.
[42] Dvi-hetuka-patisandhi, sanh
ra với hai nhân. Câu nầy hàm ý là được sanh ra với hai nhân
thiện, tức hai nhân vô-tham (alobha) và vô-sân (adosa).
Người sanh ra với hai nhân thiện như vậy không thể thành
tựu Ðạo và Quả trong kiếp hiện tiền, vì còn thiếu nhân
thiện thứ ba là vô si (amoha).
[43] Ti-hetuka-patisandhi, sanh
ra với ba nhân thiện: alobha (vô tham), adosa (vô sân)
và amoha (vô si).
[44] ahetuka: một chúng sanh
sanh ra không có nhân thiện nào.
-ooOoo-
Ðầu
trang | 00 | 01
| 02 | 03 | 04
| 05 | 06 | 07
| 08 | 09 | 10
Bản dịch Anh ngữ |