BuddhaSasana Home Page 37 PHẨM
TRỢ ĐẠO
Ngài Hoà Thượng
LEDI SAYADAW Chương
X Di
sản của giáo pháp [1] Ba mươi bảy Yếu
Tố Cần Thiết cho sự Giác Ngộ (bodhipakkhiya-dhamma, Phẩm
Trợ Ðạo) nầy, được đề cập đến trong những chương
trước, là di sản của Ðức Phật. Ðó là di sản của
Giáo Pháp. Ðó là Pháp Bảo vô giá và quý báu không thể lường.
Giờ đây để Sư nghiên cứu xem Di Sản của Giáo Huấn (sàsana-dàyajja)
ấy là gì. "Di Sản" là tài sản sự nghiệp mà cha
mẹ truyền giao lại cho những con cái xứng đáng thọ lãnh
phần gia tài (dàyàda). Danh từ nầy cũng áp dụng cho
Di Sản của Giáo Huấn (sàsana-dàyada), vốn là phần
tài sản mà Ðức Phật trao truyền (Buddha-dàyajja). Về
bản chất, Di Sản có hai loại: di sản của thế gian
(àmisa) và di sản của Giáo Pháp. Phần di sản của thế
gian bao gồm bốn vật dụng cần thiết cho một vị tỳ khưu
là vật thực thọ lãnh khi đi trì bình, y phục, chỗ ở và
thuốc men. Di sản của Giáo Pháp là ba Pháp Tu Học (sikkhà:
sìla, samàdhi, pannà - Giới, Ðịnh, Tuệ), bảy Giai Ðoạn
Thanh Lọc (Thanh Tịnh Ðạo), và ba mươi bảy Phẩm Trợ Ðạo.
Di Sản của Giáo Pháp có hai loại: loại Giáo Pháp tại thế
(lokiya) và loại Giáo Pháp siêu thế (lokuttara).
Giáo Pháp tại thế bao gồm ba pháp Tu Học trên ở tầng lớp
tại thế, sáu Thanh Tịnh tại thế và các Phẩm Trợ Ðạo,
khi còn liên hợp với những Thanh Tịnh tại thế. Di Sản
Giáo Pháp siêu thế bao gồm ba pháp Tu Học ở mức độ siêu
thế, giai đoạn Thanh Tịnh thứ bảy, và những Phẩm Trợ
Ðạo siêu thế. Di Sản Giáo Pháp tại thế có thể phân
làm hai loại: 1. Loại di sản tùy thuộc nơi Vòng
Quanh những Kiếp Sống (vatta-nissita), và hoặc có thể phân làm hai loại: 1.Di sản Giáo Pháp ổn định (niyata), Nếu công trình thực hành ba Pháp
Tu Học (Giới v.v...) có khuynh hướng nhắm đến những địa
vị cao sang trong thế gian, như làm Thầy của nhà vua hay làm
quân sư của một nước, hoặc nhắm đến danh vọng, quyền
thế, đến tài sản sự nghiệp, đến kiếp sống làm người
trong một gia tộc quý phái, hoặc tái sanh vào cảnh trời --
đó là "Di Sản Giáo Pháp tùy thuộc nơi vòng quanh những
kiếp sống". Vòng quanh những kiếp sống có ba
hình thức: Vòng Quanh Ô Nhiễm (kilesa-vatta), Vòng Quanh của
Nghiệp (kamma-vatta), và Vòng Quanh của Quả (vipàka-vatta).
Vivatta là chấm dứt ba Vòng Quanh những kiếp sống ấy,
tức Niết Bàn. Pháp hành Giới, Ðịnh, Tuệ có khuynh hướng
chấm dứt các Vòng Quanh những kiếp sống ấy được gọi
là "Di Sản Giáo Pháp có chiều hướng chấm dứt Vòng
Quanh những kiếp Sống" (vivatta-nissita-dhammadàyajja).
Về lối phân loại "ổn định" (niyata) và
"bất ổn định" (aniyata), phạm vi rộng lớn
của "những khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm trong luồng
nghiệp" (anusaya) vốn thiên về Thân Kiến (sakkàya-ditthi-anusaya)
mà người thế gian (puthujjana) dính mắc trong đó cũng
giống như biển lửa bao la và sâu thẩm. Giới, Ðịnh, Tuệ
mà người thế gian thực hành có thể ví như vài giọt mưa
rơi xuống đại dương lửa đỏ ấy. Những lời nói thường
được nghe như "Tôi trong sạch giữ giới (sìla),
Tôi có giới, Tôi thực hành thiền Ðịnh (samàdhi),
Tôi hiểu biết, Tôi sáng suốt, Tôi có trí tuệ, Tôi đã thấy
Danh và Sắc" là những tuyên ngôn về Giới, Ðịnh, Tuệ
còn xoay vần quanh quẩn "Thân Kiến", còn dính liền
với cái "Ta", và như thế tựa hồ như những giọt
mưa rơi xuống đại dương lửa đỏ rộng lớn bao la. Cũng
như nhiệt độ của biển lửa sẽ nhanh chóng làm biến tan
những giọt mưa, cùng thế ấy, lãnh vực rộng lớn của vương
quốc Thân Kiến sẽ thu hút công trình Giới, Ðịnh, Tuệ của
người thế gian (puthujjana) và nhanh chóng làm biến
tan, bởi vì nó là "bất ổn định" (aniyata).
Mặc dầu người thế gian có thể "có" Giới, Ðịnh,
Tuệ nhưng những cái "có" ấy vẫn tạm bợ nhất
thời, bất ổn định (tadanga). Trong trường hợp của những vị
Thánh Nhập Lưu (sotàpanna), Giới tại thế của các
Ngài, tức "Tám Giới chấm dứt với Chánh Mạng" (lokiya-ajìvatthamaka-sìla)
[2]; Ðịnh tại thế của các Ngài vững chắc hướng về các
Hồng Ân của Tam Bảo; và Tuệ tại thế của các Ngài, tức
tuệ giác nhận thức Tứ Diệu Ðế -- tất cả đều ở tầm
mức ổn định (niyata). Nó giống như những giọt mưa
rơi xuống ao hồ mênh mông và không bao giờ tan biến dầu
phải trải qua nhiều kiếp sống. Ðiều nầy cho thấy bản
chất bất ổn định của di sản Giáo Pháp tại thế (lokiya
dhamma heritage). Trạng thái Giới, Ðịnh, Tuệ siêu thế;
giai đoạn Thanh Tịnh (visuddhi-magga) thứ bảy; và 37 Phẩm
Trợ Ðạo (bodhipakkhiya dhamma) liên hợp với tám loại
tâm siêu thế, là vivattasita-nissita (không chấm dứt) và ổn
định. Trong trường hợp các bậc Thánh Nhân, Giới, Ðịnh,
Tuệ tại thế của các Ngài cũng tiến đạt đến mức siêu
thế, trở nên "ổn định" khi các Ngài trở thành
Thánh Nhân. Bên trong các Ngài không còn có thể còn trạng
thái dussìla (phạm giới), asamàhita (tâm không an
trụ, tức loạn động), dupannà (không sáng suốt) hay andhabàla
(si mê)... Những người thiếu Ðức Tin (saddhà) và
không có lòng nhiệt thành (chanda) không bao giờ có ý
nghĩ hay quan niệm rằng mình có thể đạt thành những tầm
mức Thanh Tịnh cao thượng hơn trong chính kiếp sống hiện
tại. Vì thiếu hạnh Tinh Tấn (viriya) họ không cố gắng
tiết chế, không sẵn lòng chịu thiếu thốn trong sự thỏa
mãn dục vọng. Họ gạt bỏ cố gắng, xem như không thể
làm. Vì ý chí suy kém, tâm họ không thể an trụ vào những
loại công trình tu tập tương tợ. Mỗi khi nghe đến những
lý thuyết hay những tư tưởng khác nhau thì họ nhanh chóng
thay đổi ý nghĩ. Vì thiếu hiểu biết và kém trí tuệ, họ
gạt bỏ những công trình tu tập, xem như đã vượt ra ngoài
khả năng của họ. Vì lẽ ấy Ðức Phật khuyến khích tất
cả mọi chúng sanh nên tăng cường những Như ý Túc (Idhipàda,
tức nền tảng của sự thành công) còn yếu kém của mình
như lòng nhiệt thành (Dục Như ý Túc, chanda) v.v... Chỉ còn
những Tư Duy và những Dục Như ý Túc mới mẻ phát sanh. Chỉ
những vị có một yếu tố nào trong Tứ Như ý Túc (Iddhipàda)
làm nền tảng mới có thể hưởng thọ đầy đủ di sản của
Ðức Phật. Những người khác, không có Như ý Túc nào, chỉ
được cơ hội thọ hưởng vài lợi ích nông cạn mà không
hưởng phần nòng cốt tinh hoa của di sản. Vài người cũng
không được cơ hội thọ hưởng phần lợi ích nông cạn
vì đã hoang phí phần di sản của họ và như thế họ tự
tách rời ra khỏi xa di sản của Ðức Phật và của Phật
Giáo. Di sản của Giáo Huấn có thể được phân làm hai loại: 1. những di sản ổn định hay bền
vững thường còn (niyata), và Những người không bao giờ hiểu
biết đặc tướng vô thường và vô ngã bên trong mình được
xem là những thừa kế "bất ổn định". Những người
ấy có thể là đệ tử hay thừa kế của Ðức Phật ngày
hôm nay và ngày mai có thể là đệ tử và thừa kế của một
vị đạo sư khác. Họ có thể khinh miệt và gây tổn hại
đến Giáo Huấn của Ðức Phật. Chí đến ngày nay, trong thế
gian cũng có những người thay đổi niềm tin, từ Phật Giáo
chuyển sang tôn giáo khác. Họ khinh rẻ và hại ngầm Giáo
Huấn. Sau khi họ chết, ta có thể tưởng tượng, họ có thể
dễ dàng thay đổi niềm tin như thế nào. Ta có thể là đệ
tử của Ðức Phật trong tháng nầy và đệ tử của một
đạo sư khác trong tháng tới. Năm nay ta có thể là đệ tử
của Ðức Phật và năm tới có thể là đệ tử của một
đạo sư khác. Ta có thể là đệ tử của Ðức Phật trong
kiếp sống nầy, và trong kiếp sống tới là đệ tử của
một đạo sư khác. Vì lẽ ấy những người được gọi là
Puthujana (người thế gian, tức chưa phải là Thánh
Nhân) được gọi như vậy vì họ ngưỡng mộ và tôn kính
nhiều vị đạo sư khác nhau. Trong quá khứ vô tận của
vòng luân hồi (samsàra) người thế gian không bao giờ
bền bỉ giữ vững niềm tin nơi một vị đạo sư nào mà họ
chú nguyện sẽ nương tựa vào. Cơ hội mà họ được đến
gần một vị Phật và xin quy y, tức nương tựa nơi Ngài,
quả thật hiếm hoi. Ðôi khi họ quy y với một vị Phạm
Thiên, đôi khi với trời Ðế Thích , những khi khác với
các vị trời khác nhau, lắm lúc họ quy y với các ngôi sao,
các vì tinh tú, quỷ thần và thiên lôi, và họ làm như thế
vì tin tưởng rằng vị mà họ nương tựa vào có quyền lực
vô hạn, là những bậc toàn tri toàn năng. Các vị đạo sư
giả danh như thế thật rất nhiều trên thế gian. Trong khi
người thế gian thênh thang trôi giạt tới lui quanh quẩn
trong vòng luân hồi đầy những lúc dính mắc vào Thân Kiến,
họ còn tiếp tục thay đổi đạo sư. Khủng khiếp thay, đáng
ghê sợ và đáng chán nản thay, trạng thái làm người thế
gian! (puthujana, người phàm tại thế). Mỗi khi người
thế gian thay đổi đạo sư và nơi nương tựa ắt có sự
thay đổi niềm tin nơi giáo lý và những nguyên tắc đạo
đức lãnh đạo mà họ phải phục tùng tùy thuộc. Ðôi khi
người thế gian chấp nhận giới luật trong sạch (adhisìla)
của một vị Phật, nhưng lắm lúc họ cũng thực hành những
đạo lý của nhiều vị đạo sư khác. Trong vấn đề quan kiến cũng vậy,
những kiếp sống mà họ chấp nhận Chánh Kiến thật vô
cùng hiếm hoi, nhưng vô số những kiếp khác họ tùy thuộc
phục tùng theo những quan kiến sai lầm. Trong số những lầm
lạc và rối loạn nhiều không thể kể xiết mà người thế
gian phải vướng mắc vào, hoàn cảnh tìm đến nương tựa
nơi những đạo sư giả danh là lầm lạc và rối loạn quan
trọng nhất, vì nó gây nhiều tổn hại cực kỳ lớn lao.
Ðó là vì sự kiện tìm nương tựa nơi một đạo sư giả
danh dẫn đến những nguyên tắc đạo lý và thực hành sai
lầm, và do đó không tạo được cơ hội quý giá tái sanh
vào cảnh người (manussatta-dullabha), giống như cội cây
chỉ trổ sanh những trái ác hại bất thiện, tức tạo
nhân trổ quả tái sanh vào những khổ cảnh, thay vì giống
như cội cây hạnh phúc, trổ sanh hoa lành quả thiện, đưa
đến tái sanh vào những cảnh giới an nhàn. Trên đây là con đường tương
lai của di sản Giáo Huấn bất ổn định. Nhưng những vị
đã nhận thấy bên trong mình các đặc tướng vô thường (anicca)
và vô ngã (anattà), đã thoát ra khỏi lãnh vực của
Thân Kiến. Các Ngài trở thành những vị thừa kế ổn định
của Giáo Huấn. "ổn định" (niyata) nơi đây
có nghĩa là trong suốt những kiếp vị lai trong vòng luân hồi
các Ngài không còn hướng về ý nghĩ tìm nương tựa nơi vị
thầy giả danh nào khác. Các Ngài thật sự là con và thật
sự là thừa kế của Ðức Phật trong suốt những kiếp sống
tương lai tiếp theo. Các Ngài là những thành viên của gia
đình "Bon-sin-san".[3] Quan kiến của các Ngài về
những phẩm hạnh vô song của Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng
Bảo ngày càng sáng tỏ và rõ ràng từ kiếp nầy đến kiếp
kế. Tất cả di sản của Giáo Pháp, tức ba phân hạng của
Con Ðường (Giới, Ðịnh, Tuệ), bảy giai đoạn Thanh Tịnh
và ba mươi bảy Phẩm Trợ Ðạo sẽ phồn thịnh, phát huy
và tăng trưởng thêm trong tâm các Ngài. Các Ngài là những
vị chắc chắn sẽ tiến đến Anupàdisesa-Nibbàna, Vô
Dư Niết Bàn, hoàn toàn chấm dứt mọi ô nhiễm và không
còn Ngũ Uẩn. Phần trên đây chỉ rõ con đường
thẳng tiến không sai lệch của di sản Giáo Huấn (Sàsana)
ổn định. Có người tốt và đạo đức mà
không cố gắng trong những kiếp quá khứ vì họ không muốn
trở thành thừa kế của những di sản Giáo Huấn xấu. Những
vị ấy không thực hành Giới, Ðịnh, và Tuệ vì họ không
muốn trở thành những thừa kế tạm thời, bất ổn định.
Họ không thực hành bởi vì họ muốn trở thành thừa kế
của di sản ổn định. Xem xét lại những sự kiện
trên, và thận trọng suy tư rằng Ðức Phật không chấp nhận
di sản Giáo Huấn xấu, những ai hiện nay đã trở thành đệ
tử của Ðức Phật phải nghiêm nhặt không tự cho phép
mình trở thành những thừa kế xấu hoặc những thừa kế
bất ổn định. Ta phải tận lực cố gắng trở thành thừa
kế của một di sản Giáo Huấn tốt đẹp, vốn là ba mươi
bảy Phẩm Trợ Ðạo. Ta phải cố gắng trở thành những thừa
kế ổn định. Ðối với những vị thiếu kém
trí tuệ, chỉ nên khuyến khích họ làm những điều lợi
ích như thực hành công tác từ thiện, tạo phước báu. Nhưng
đối với những vị có trí tuệ, nếu muốn trở thành những
thừa kế ổn định hoặc trong kiếp sống nầy hoặc trong
kiếp kế, phải vững chắc tự thiết lập kiên cố trong Àjìvatthamaka-sìla
[4], phải vững vàng kiên cố trong pháp Niệm Thân (kàyagata
sati) và tận lực cố gắng (tối thiểu là ba tiếng đồng
hồ trong một ngày) để chứng ngộ ba Ðặc Tướng của kiếp
sinh tồn trong năm uẩn hợp thành "cá nhân". Nếu thấy
được bất luận một đặc tướng nào trong ba đặc tướng,
vị ấy đã trở thành niyata, thừa kế ổn định và đã tiến
đến mức "Bon sin san" -- Nhập Lưu. -Hết- Ghi chú: [1] Chương nầy đã được thâu
ngắn gọn (Chủ Biên BPS) [2] Xem chú thích Phần Nhập Ðề. [3] Xem chú thích Chương III. [4] Xem chú thích Phần Nhập Ðề. -ooOoo- Ðầu
trang | 00
| 01 | 02 | 03
| 04 | 05 | 06
| 07 | 08 | 09
| 10 Chân thành cám ơn Bác
Phạm Kim Khánh đã gửi tặng bản điện tử (Bình Anson, 05-2002) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Một Toát Yếu Về Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Sự Giác Ngộ
Phạm Kim Khánh dịch
2. Loại di sản có khuynh hướng chấm dứt Vòng Quanh những
Kiếp Sống (vivatta-nissita);
2.Di sản Giáo Pháp bất ổn định (aniyata).
2. những di sản bất ổn định hay không bền vững thường
còn (aniyata).
Bản dịch Anh ngữ
updated: 11-05-2002