BuddhaSasana Home Page 37 PHẨM
TRỢ ĐẠO
Ngài Hoà Thượng
LEDI SAYADAW Chương
II Tứ
niệm xứ Danh từ satipatthàna
được định nghĩa như sau: Bhusam titthatì'ti patthànam; sati eva
patthànam satipatthànam. Có nghĩa là: cái gì được kiên
cố thiết lập, vững chắc áp đặt, vào là "niệm
xứ", nền tảng của niệm; công phu "chú niệm"
tự chính nó là một niệm xứ như vậy. Có bốn Niệm Xứ: 1. Kàyànupassanà-satipatthàna
(Thân Quán Niệm Xứ), 1. Kàyànupassanà-satipatthàna,
Thân Quán Niệm Xứ, vắn tắt gọi Niệm Thân, là sự chú
niệm kiên cố áp đặt vào những hiện tượng của thân,
như hơi-thở-vào và hơi-thở-ra. 2. Vedanànupassanà-satipatthàna,
Thọ Quán Niệm Xứ, vắn tắt gọi Niệm Thọ, là sự chú
niệm kiên cố áp đặt vào những cảm thọ. 3. Cittànupassanà-satipatthàna,
Tâm Quán Niệm Xứ, vắn tắt gọi Niệm Tâm, là sự chú
niệm kiên cố áp đặt vào những tư tưởng hay những
tiến trình tâm, như ý nghĩ liên hợp hoặc không liên hợp
với khát vọng. 4. Dhammànupassanà-satipatthàna,
Pháp Quán Niệm Xứ, vắn tắt gọi Niệm Pháp, là sự chú
niệm kiên cố áp đặt vào những hiện tượng như những
chướng ngại tinh thần (nìvaranas, pháp triền cái) v.v... Trong bốn niệm xứ nếu niệm,
hay chú tâm ghi nhận, được kiên cố áp đặt trên một
phần của thân, như hơi-thở-ra và hơi-thở-vào chẳng
hạn, điều đó hàm xúc ý nghĩa là sự chú tâm đã được
vững chắc thiết lập trên tất cả. Như vậy bởi vì ta đã
có khả năng đặt sự chú tâm vào bất luận nơi đâu trong
thân. "Vững chắc thiết lập"
có nghĩa là nếu muốn đặt sự chú tâm vào hơi-thở-ra và
hơi-thở-vào trong một giờ, ta có thể an trụ tâm vững
chắc vào hơi thở trọn thời gian ấy. Nếu muốn giữ tâm
an trụ vào hơi thở trong hai giờ, ta có thể giữ tâm vững
chắc áp đặt vào hơi thở trong hai giờ. Không có lúc nào
tâm chú niệm rời khỏi đề mục bởi vì chi thiền Tầm (vitakka)
không ổn định vững chắc. Muốn có thêm chi tiết về satipatthàna,
xem "Satipatthàna Sutta", bản dịch trong "The
Wheel" số 18. Cũng đọc Chú Giải bài kinh nầy trong
"The Way of Mindfulness", bản dịch do Soma Thera (Buddhist
Publication Society, Kandy). Tại sao ta phải vững chắc gom tâm
an trụ và kiên cố áp đặt trên đề mục như hơi-thở-ra
và hơi-thở-vào, không thể sơ khuyết? Là bởi vì ta cần
phải tập trung tư tưởng để canh chừng và kiểm soát
lục thức (vinnàna) [2], vốn nhanh chóng bay nhảy và trôi
giạt bềnh bồng một cách bất định từ quá khứ xa xôi
không thể quan niệm, trong vòng luân hồi (samsàra) vô
tận. Sư xin nói rõ thêm. Tâm có thói
quen chạy rong từ đầu nầy sang đầu kia quanh quẩn tới
lui sáu trần cảnh, khởi hiện ở sáu căn môn. [3] Sư lấy một thí dụ, như trường
hợp anh chàng kia mất trí, không thể kiểm soát tâm mình.
Chí đến giờ ăn cơm anh cũng không nhớ mà cứ mãi thênh
thang rong rỗi đầu nầy đầu kia, cha mẹ phải đi tìm,
gọi về ăn. Rồi sau khi ăn năm sáu miếng thì anh lật úp
chén lại, bỏ đi, không dùng hết bửa. Anh chàng lãng trí
đến mức độ như vậy. Ăn uống cũng không biết dùng cho
đủ no. Khi nói chuyện anh cũng không thể nói hết trọn câu.
Nói đầu quên đuôi, đang chuyện nầy bắt sang câu chuyện
khác. Ðoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối của một câu
không phù hợp với nhau. Nói không ai hiểu. Anh chàng không
thể làm gì hữu ích trên thế gian nầy, và không ai biết
anh muốn gì. Anh không thể hoàn tất một công việc gì. Người
như thế không thể được xem là một chúng sanh trong cảnh
người, sống cũng như không. Anh chàng mất trí ấy có thể
trở lại bình thường, với tinh thần ổn kiện, nếu anh
gặp một vị lương y tâm thần tài giỏi, chữa bịnh cho
anh với những phương pháp nghiêm nhặt. Ðược chữa trị
như vậy, dần dần anh chàng có thể trở lại đời sống bình
thường, đến bửa có thể ăn uống no bụng. Trong những công
việc khác hằng ngày anh cũng có thể kiểm soát tâm và hoàn
thành đến nơi đến chốn, nói chuyện mạch lạc có trước
có sau như thường. Ðó là một thí dụ. Trong thế gian nầy có những người
bình thường, tâm thần ổn kiện, nhưng cũng giống như anh
chàng mất trí, không thể kiểm soát tâm khi ngồi lại hành
thiền, thiền vắng lặng (samatha) hay thiền minh sát (vipassanà).
Cũng giống như anh chàng mất trí kia không thể ăn trọn
bửa cơm mà bỏ đi sau khi trợn trạo năm sáu miếng, người
có tâm trí bình thường nầy ngồi xuống hành thiền cũng
để tâm rong rỗi đầu nầy đầu kia bởi vì mình không
thể kiểm soát nó. Mỗi khi lễ Phật và quán niệm về
những phẩm hạnh thánh thiện của Ðức Phật anh không
thể gom tâm vào những phẩm hạnh thánh thiện ấy mà để
tâm phóng dật bay nhảy hết ý nghĩ nầy đến những tư tưởng
khác và không thể đọc hết một câu kinh cúng Tam Bảo như
"Iti' pi so ...", Phẩm Hạnh của Ðức Thế Tôn
quả thật như thế nầy ..." Cũng giống như người lâm bịnh
chó dại (sợ nước), khát nước đến khô môi khô cổ, nhưng
khi thấy xa xa một ao hồ nước mát thì sợ hải bỏ chạy.
Lại cũng như một người bịnh mà phải dùng những thức
ăn nên thuốc để chữa trị thì cảm nghe đắng miệng và
không thể nuốt, phải phun nhổ ra hết. Cùng thế ấy, có
những người tự thấy mình không thể thực hành pháp quán
niệm những hồng danh thánh thiện của Ðức Phật, một cách
linh nghiệm. Họ không thể tiếp tục giữ tâm an trụ vào
đề mục. Khi bắt đầu đọc "Iti' pi so" thì
tâm phóng và bị gián đoạn, và nếu khởi đầu trở lại,
mỗi lần đều bị gián đoạn, vị ấy không bao giờ đọc
đến cuối bài kinh, mặc dầu đọc cả ngày, cả tháng hay
cả năm. Giờ đây vị ấy cố gắng học thuộc lòng từng
đoạn, và nhờ vậy có thể đọc đến cuối bài kinh, mặc
dầu tâm phóng. Cùng thế ấy, trong những ngày
giới (uposatha, bố-tát), có những vị dự tính tìm nơi
vắng vẻ yên tĩnh để quán niệm ba mươi hai phần của thân
như kesà (tóc), lomà (lông), v.v... hoặc hồng
danh Ðức Phật, nhưng rốt cuộc lại gặp bạn bè, vui chơi
trò chuyện, quên mất những ý định tu niệm. Ðến chùa, vào
lúc mọi người cùng đọc kinh chung, mặc dầu cố gắng chú
tâm vắng lặng đọc tụng kinh brahma-vihàra (Tứ Vô Lượng
Tâm) [4], như công thức rải mettà (tâm từ), nhưng vì
không kiểm soát được tâm, tinh thần tán loạn, những ý
nghĩ bay nhảy tứ tung bất định và rốt cùng chỉ có hình
thức đọc tụng bề ngoài, ngồi đọc lời kinh mà tâm ở
đâu nơi nào khác. Bấy nhiêu trường hợp ấy đủ
cho thấy bao nhiêu người tuy bình thường, nhưng có cuộc
sống giống như anh chàng mất trí trong lúc tạo thiện
nghiệp, kusala kamma, gieo trồng nhân thiện tạo phước. "Pàpasmim ramate mano" -- Tâm
thỏa thích trong ác pháp. Giống như bản chất thiên nhiên
của nước là chảy từ trên cao xuống thấp, tâm của chúng
sanh cũng dường thế ấy, tự nhiên xít lại gần ác pháp.
Ðó là khuynh hướng thiên nhiên của tâm. Sư kể thêm một câu chuyện thí
dụ để so sánh người không thể kiểm soát tâm với anh chàng
mất trí. Trên một con sông nước chảy
thật nhanh, có người lái buôn nọ chở đầy ghe những hàng
hóa quý giá nhưng không thông thạo công việc chèo chống,
hay lèo lái. Anh xuôi dòng, xuyên qua những khúc sông chảy dài
theo rừng núi hoang vu không bến đậu, không chỗ thuận
tiện để cặp ghe. Và như thế anh tiếp tục không ngừng
thả trôi theo dòng nước. Ðêm đến, thuyền đi ngang qua
những xóm làng, thành thị, và những nơi có bến để ghe
đậu, nhưng vì đêm tối anh không thấy, nên cứ tiếp tục
để thuyền trôi ngang qua mà không dừng lại cặp bến.
Rồi ngày đến, thuyền trôi ngang qua những nơi có phố phường
thành thị, nhưng vì không nắm vững tay lái, anh không thể
hướng thuyền vào bến và lại phải tiếp tục để
thuyền trôi, dần dần ra khơi, giữa biển cả mênh mông. Vòng quanh luân hồi những kiếp
sống (samsàra) dài dẳng vô cùng tận cũng tựa hồ như
con sông nước chảy nhanh. Những chúng sanh không kiểm soát
được tâm giống như người lái buôn đi thuyền mà không
biết chèo chống hay lèo lái con thuyền. Tâm như chiếc
thuyền. Chúng sanh bị trôi giạt trong dòng nước lũ của
những kiếp sinh tồn, hết kiếp nầy đến kiếp khác, xuyên
qua những chu kỳ thế gian "sunna" không có Giáo
Pháp của một vị Phật giống như chiếc thuyền của người
lái buôn đi xuyên qua những vùng rừng núi hoang vu không
bến đậu hoặc chỗ cặp ghe. Ðôi lúc những chúng sanh ấy
được sanh vào chu kỳ thế gian có Giáo Huấn của một vị
Phật (Buddha Sàsana) truyền bá rộng rãi và thịnh vượng,
nhưng không hay biết vì bất hạnh phải tái sanh vào một
trong tám trường hợp không thuận lợi (atthakkhanas)
[5], cũng giống như thuyền người lái buôn trôi ngang qua
những phố phường hay xóm làng có bến cho thuyền ghe đậu,
nhưng vì đêm tối, anh lại không hay biết. Rồi đến khi,
trong những lúc khác được sanh làm người, làm chư thiên
hay chư Phạm Thiên (devas hay Brahmas) trong thời kỳ có
Giáo Pháp của một vị Phật (Buddha Sàsana) nhưng không
thể thành tựu Ðạo và Quả (magga và phala) bởi vì
không thể kiểm soát tâm và không đủ chuyên cần tinh tấn
để thực hành vipassanà (minh sát), tu tập satipatthàna
(Tứ Niệm Xứ), nên vẫn phải tiếp tục lăn trôi trong vòng
luân hồi (samsàra). Những chúng sanh ấy cũng giống như
người lái buôn đã thấy được phố phường, làng xóm và
bến nước để ghe đậu, nhưng không thể hướng chiếc
thuyền của mình vào bến vì không thể điều khiển bánh lái
và như thế tiếp tục bị dòng nước lũ kéo trôi ra biển
cả mênh mông. Xuyên qua vô số những kiếp sinh tồn nhiều
như số cát trên bờ sông Hằng (Ganges) trong vòng luân hồi
dài dẵng, những ai đã giải thoát ra khỏi những khổ đau
của đời sống là những vị đã kiểm soát được tâm mình
và có đủ khả năng gom tâm an trụ vào đề mục tu tập đã
chọn như mình muốn, qua pháp hành Tứ Niệm Xứ, Satipatthàna.
Ðiều nầy chỉ rõ khuynh hướng
trôi giạt trong vòng quanh những kiếp sinh tồn của những
chúng sanh không thực hành satipatthàna, Tứ Niệm Xứ,
mặc dầu hay biết rằng mình không thể kiểm soát tâm trong
khi thực hành thiền vắng lặng và minh sát (samatha và
vipassanà). Chúng ta cũng có thể lấy thí
dụ người luyện tập bò tơ để cho nó kéo cày hoặc kéo
xe, hay người luyện voi để vua xử dụng hoặc để dùng
trong lúc có chiến tranh. Trường hợp bò tơ. Trước hết
phải cho nó nhập bầy và quen ở chuồng, rồi xỏ vàm,
tức xỏ sợi dây vàm xuyên qua mũi con bò và cột đầu dây
vào một trụ cột. Rồi dùng dây vàm điều khiển cho nó
quen làm theo ý mình. Phải luyện như thế cho đến khi bò đủ
thuần thục để có thể gác ách, cho nó kéo xe hoặc kéo cày.
Ðến chừng ấy bò mới có thể sẵn sàng để xử dụng
hoặc bán. Ðó là thí dụ người luyện bò tơ. Trong thí dụ nầy, quyền lợi và
sự thành công của người luyện bò tùy thuộc nơi tình
trạng bò có thể được xử dụng hữu hiệu trong công tác
kéo xe hay kéo cày không, sau khi được rèn luyện, cùng thế
ấy lợi ích thật sự của người tu Phật, cư sĩ hay tỳ
khưu, sống trong thời kỳ có Giáo Huấn của vị Phật
hiện tại, tùy thuộc nơi công phu tu luyện trong thiền
vắng lặng và thiền minh sát (samatha và vipassanà). Trong Giáo Pháp của vị Phật
hiện tại (present Buddha Sàsana), pháp hành Giới Tịnh
(sìla visuddhi) giống như trong pháp luyện bò, cho bò
nhập bầy và tập nó quen sống trong chuồng. Cũng như bò tơ, nếu không nhập
bầy và sống trong chuồng sẽ phá khuấy, làm hư hoại mùa
màng hay sở hữu của người khác, và đó là trách nhiệm
của người chủ bò, cùng thế ấy người thiếu Giới
Tịnh sẽ không trong sạch giữ gìn tam nghiệp [6], do đó
sẽ gặp những hoàn cảnh bất hạnh trong đời và sẽ gặt
hái những quả xấu trong tương lai, như Giáo Pháp dạy. Cố gắng trau giồi kàyagatà
satipatthàna [7], thân quán niệm xứ, giống như xỏ sợi
dây vàm qua mũi con bò, và sau khi cột dây vàm vào trụ
cột, luyện cho bò tuân theo lịnh điều khiển của mình. Cũng
như bò bị cột vào trụ phải tuân theo lịnh, chủ biểu làm
gì thì làm theo ý muốn của chủ, không thể chạy loạn, cùng
thế ấy, khi bị cột vào thân bằng sợi dây satipatthàna
(tứ niệm xứ), tâm không thể chạy loạn mà phải an trụ
vào bất luận nơi nào mà người chủ muốn. Thói quen
khuấy động và phóng dật chạy loạn của tâm từ xa xưa
trong vòng luân hồi không thể quan niệm, giờ đây lắng đọng,
trở nên vắng lặng. Thực hành samatha (thiền
vắng lặng) và vipassanà (thiền minh sát) mà trước đó
không niệm thân thì cũng như người chủ bò gác vào ách xe
hay ách cày một con bò chưa từng được xỏ vàm. Người
ấy sẽ không điều khiển được bò theo ý muốn. Bởi vì
bò còn hoang dại và vì chưa có vàm để điều khiển, nó
sẽ chạy hoang loạn, lệch ra khỏi đường hoặc vùng vằng
phá ách để thoát thân. Ðàng khác, người đã có tu
luyện để kiểm soát và lắng tâm bằng pháp Niệm Thân trước
khi hướng về pháp hành thiền vắng lặng và minh sát (samatha
và vipassanà) thì tâm dễ dàng an trụ, và người ấy
sẽ thành công. Trong trường hợp luyện voi, trước
hết phải đem con voi hoang dại ra khỏi rừng, đưa đến
một vùng đất rộng, nơi chuyên dùng để luyện voi có hàng
rào bằng cột kiên cố, rồi cột voi chắc chắn vào một nơi
an toàn, giữ đó cho đến khi nó được rèn luyện thuần
thục, trở nên yên tĩnh và không còn hung hăng hoang dại.
Sau đó người ta mới bắt đầu luyện tập voi làm những công
việc mà nó sẽ phải làm cho vua. Ðến chừng ấy voi mới
trở nên hữu ích, mới được xử dụng hữu hiệu trong
những phận sự khác nhau trong nước, và ở chiến trường
khi quốc gia hữu sự. Lãnh vực của những lạc thú
trần gian cũng giống như khu rừng mà con voi hoang dại thỏa
thích hưởng thụ. Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana)
tựa hồ như vùng đất rộng rãi mà người ta đưa voi
rừng đến để rèn luyện. Voi rừng giống như cái tâm. Ðức
tin (saddhà) và lòng ham muốn (chanda) trong Giáo Pháp
(sàsana-dhamma) giống như con voi cần phải được
luyện mà người ta buộc chung với con voi đã được huấn
luyện, rồi đem ra ngoài trời trong một vùng đất rộng.
Giới Tịnh (sìla visuddhi), tức giới đức trong sạch,
là cái hàng rào kiên cố bao quanh chỗ cột voi. Cơ thể
vật chất hay những phần trong thân như hơi-thở-ra và hơi-thở-vào
giống như những cột trụ vững chắc ở bên trong rào mà
voi bị cột vào. Pháp Niệm Thân (kàyagatà-sati) [8]
giống như sợi dây cột voi vào trụ. Những công trình
chuẩn bị luyện voi cũng giống như những pháp hành, chuẩn
bị đưa đến thiền vắng lặng và thiền minh sát (samatha
và vipassanà). Công phu hành thiền, vắng lặng hay minh sát,
là những công việc khác nhau như diễn binh, tập trận hay xông
pha trên chiến trường. Những thí dụ khác giờ đây có
thể được nhận ra dễ dàng. Như vậy, Sư đã chỉ rõ những
thí dụ người mất trí, người đi thuyền mà không biết lèo
lái chiếc thuyền của mình, người luyện bò tơ, và người
luyện voi. Ðó là những điểm chánh yếu trong pháp Niệm Thân
mà tập tục cổ truyền xem là bước đầu của công phu hành
thiền từ giai đoạn Giới Tịnh (sìla visuddhi) trở lên,
trong Giáo Huấn của tất cả chư Phật đã thị hiện trong
vòng luân hồi dài dẳng từ quá khứ xa xôi không thể quan
niệm. Ý nghĩa chánh là dầu niệm hơi-thở-ra
và hơi-thở-vào, hay niệm iriyàpatha (bốn oai nghi -- đi,
đứng, ngồi, nằm) với sampajanna (tâm giác tỉnh,
hiểu biết rõ ràng) hoặc bằng cách dhàtu-manasikàra
(gom tâm niệm vào Tứ Ðại), hoặc bằng cách atthika-sannà
(niệm xương), ta phải chuyên cần tinh tấn để thâu đạt
khả năng tập trung chú niệm vào thân và vào bốn oai nghi
của mình bao lâu cũng được, suốt ngày suốt đêm ngoại
trừ lúc ngủ, và do đó vững vàng kiểm soát tâm mình. Làm
như vậy ta thoát khỏi trạng thái bất hạnh của người
mất trí. Giờ đây ta giống như người đi thuyền đã nắm
vững tay lái, hay người chủ của một con bò đã được rèn
luyện thuần thục, hoặc giống như nhà vua đang xử dụng
một thớt voi đã được áp phục và thuần hóa. Có nhiều loại và nhiều mức độ
làm chủ tâm mình. Trong Giáo Huấn của Ðức Phật (Buddha
Sàsana), công phu thực hành pháp Niệm Thân một cách viên
mãn là giai đoạn đầu tiên trên bước đường đưa đến
khả năng vững vàng làm chủ tâm mình. Những vị hành giả không muốn
theo con đường samatha (vắng lặng) mà chỉ muốn theo
con đường minh sát thuần túy (pure vipassanà), tức là
con đường của vị sukkha vipassaka [9], phải tiến thẳng vào
vipassanà sau khi đã kiên cố thành công pháp Niệm Thân. Nếu những vị nầy không muốn hành
pháp Niệm Thân riêng rẽ mà tận lực chuyên cần hành Minh
Sát đến độ có thể bao gồm luôn pháp niệm thân, kàyagatà-sati,
thì cũng có thể thành công, nếu họ có đủ tinh tấn và
trí tuệ. Pháp Niệm Thân (kàyagatà-sati) liên hợp
với Tuệ Sanh Diệt (udayabbaya-nàna), thấy rõ ràng
trạng thái phát sanh và hoại diệt của những hiện tượng
tâm-vật-lý, quả thật là rất quan trọng. Theo phương pháp hành vắng lặng
(samatha), bằng cách niệm hơi-thở-ra và hơi-thở-vào
của pháp Niệm Thân, ta có thể tiến đạt đến mức rùpàvacara
catuttha jhàna, Tứ Thiền Sắc Giới; bằng cách niệm vanna
manasikàra [10], ba mươi hai phần của thân như kesà
(tóc), lomà (lông), v.v... ta có thể chứng đắc tất
cả tám tầng Thiền, samàpattis [11], và bằng cách hành
patikkùla manasikàra [12] cũng của pháp Niệm Thân, ta có
thể đắc Sơ Thiền. Nếu trong khi thiền, phát triển Minh Sát
(vipassanà) ta cũng có thể thành tựu Ðạo và Quả. Dầu không trọn vẹn thành công
trong pháp hành vắng lặng và minh sát (samatha và vipassanà)
mà chỉ đến mức kiểm soát tâm và có khả năng giữ tâm
an trụ vào đề mục, Ðức Phật dạy, người như thế có
thể được xem là đã thỏa thích hưởng thụ hương vị
của amatta nibbàna [13]. "Amatam tesam paribhuttam, yesam kàyagatà
sati paribhuttà." [14] "Những ai hoan hỷ thỏa thích
trong pháp Niệm Thân (kàyagatà-sati) an vui thỏa thích
trạng thái Bất Diệt (Niết Bàn)." Nơi đây danh từ Amata -- để
chỉ Niết Bàn -- có nghĩa là trạng thái tâm thanh bình an
lạc và vắng lặng. [15] Trong tình trạng sơ khởi, tâm
rất chao động và bất ổn định khi ta muốn chăm chú vào
đề mục. Như thế bản chất nguyên thủy của tâm là khô
cằn và nóng nảy. Giống như con sâu nằm trong trái ớt, không
hay biết gì đến sức nóng của ớt, con người có bản
chất tham ái (tanhà) không nghe sức nóng của ái dục,
người có bẩm tánh sân hận và tự cao tự đại không
cảm nhận sức nóng của sân hận và tánh tự phụ, cùng
thế ấy chúng sanh không hay biết gì đến sức nóng của
một cái tâm khuấy động. Chỉ đến khi, do công phu thực hành
pháp Niệm Thân, kàyagatà-sati, trạng thái tâm tán
loạn chấm dứt, ta mới nhận thức nhiệt độ của tình
trạng bất ổn. Ðã tiến đạt đến trạng thái tan biến
của tâm khuấy động ta mới biết sợ sức nóng của tâm
ấy tái phát. Trường hợp người đã thành đạt tầng Sơ
Thiền hay tầng Tuệ Sanh Diệt (udayabbaya nàna) xuyên
qua pháp hành Niệm Thân (kàyagatà-satipatthàna), ta không
cần phải giải bày dài dòng nữa. Từ đây, càng thành đạt những
mức độ cao siêu nhiều hơn càng thấy mình khó tự tách
rời khỏi pháp kàyagatà-sati (Niệm Thân). Các bậc Thánh
Nhân (ariya puggalas) áp dụng pháp Tứ Niệm Xứ (satipatthàna)
để nuôi dưỡng tâm linh cho đến khi nhập Ðại Niết Bàn
(parinibbàna). Ðể thành đạt khả năng giữ tâm
an trụ vào một phần nào trong thân, như hơi-thở-ra và
thở-vào chẳng hạn, có thể cần phải mất từ 7 ngày hay
15 ngày, hoặc một tháng, 2 tháng, 3 tháng, hay 4 tháng, hay 5
tháng, 6 tháng hay một năm, 2 năm, hay 4 năm, tùy theo mức độ
chuyên cần tinh tấn của mỗi người. Về phương pháp thực hành pháp
niệm hơi-thở-ra và hơi-thở-vào, nên đọc quyển "Ànapàna
Dìpanì" [16]. Có nhiều sách dạy về pháp hành
niệm ba mươi hai phần của thân. Trong pháp hành nầy, kesà
(tóc), lomà (lông), nakhà (móng tay, móng chân),
dantà (răng), taco (da) được xem là taca pancaka
(nhóm năm phần của thân, chấm dứt bằng taco). Nếu có
thể vững chắc an trụ tâm vào năm điểm ấy công phu
Niệm Thân (kàyagatà-sati) đã được viên mãn thành tựu. Về những pháp niệm catu dhàtu
vavatthàna (Phân Tách Tứ Ðại), rùpa vipassanà (quán
niệm các hiện tượng vật lý, tức các sắc pháp), và nàma-vipassanà
(quán niệm các hiện tượng tâm linh, danh pháp), xem những
quyển "Lakkhana Dìpanì", "Vijjà-magga Dìpanì",
"Ahàra Dìpanì", và "Anattà Dìpanì"
của Sư. * * * Ðến đây chấm dứt phần giảng
giải ngắn gọn pháp kàyagatà-sati bhàvanà, Thân Quán
Niệm Xứ, vốn là một trong bốn pháp "Tứ Niệm
Xứ", và là pháp mà những người ở hạng Neyya và
Padaparama cần nên kiên cố nắm vững trong công trình
luyện tâm (bhàvanà), nhằm mục tiêu thành đạt Ðạo
và Quả trong Giáo Huấn của một vị Phật. Ghi chú: [1] Về ý nghĩa của danh từ, xem
Phần Nói Ðầu của Chủ Biên. [2] Lục thức: sáu loại hay biết
là: nhãn thức tức hay biết qua mắt (thấy), nhĩ thức hay
biết qua mũi (hửi) v.v... tỷ thức, thiệt thức, thân
thức, và ý thức. [3] Tức nhãn căn, nhĩ căn v.v... [4] Brahma-vihàra (tứ vô lượng
tâm) là: mettà (tâm từ), karunà (tâm bi), mudità
(tâm hỷ), và upekkhà (tâm xả). Xem The Wheel số 6. [5] Xem chú giải trong phần Nhập
Ðề. [6] Tam nghiệp là thân nghiệp,
khẩu nghiệp, và ý nghiệp. Ba loại nghiệp nầy bao gồm mười
(10) hành động tạo bất thiện nghiệp là: - Kàyakamma, 3 thân nghiệp:
sát sanh, trộm cắp, tà hạnh; [7] Thân quán niệm xứ: chú tâm
niệm trở vào thân. Niệm Thân. [8] Kàyagatà-sati, Thân Quán
Niệm Xứ. Nơi đây để cho gọn, pháp nầy được gọi là
"Niệm Thân". [9] Sukkha vipassaka, người
chỉ thực hành minh sát (vipassanà) mà không qua thiền
vắng lặng trước. [10] Vanna manasikàra, chú tâm
niệm vào màu sắc hay hình thể, vốn là một phần của pháp
niệm 32 phần trong thân. [11] Tám tầng samàpattis là
4 tầng Thiền Sắc Giới và 4 tầng Thiền Vô Sắc. [12] Niệm về trạng thái bất
tịnh (ô trược) của thân. [13] Amatta nibbàna, trạng thái
Bất Diệt của Niết Bàn -- một danh từ khác để gọi
Niết Bàn. [14] Anguttara, Tăng Nhứt A Hàm,
Ekaka-nipàta; Bản dịch tiếng Anh trong "The
Wheel", số 155/158, trang 6. [15] Danh từ nầy hàm xúc kilesa-nibbàna,
trạng thái đã "dập tắt mọi ô nhiễm" trong đời
sống của vị A-La-Hán. [16] Ànàpàna Dìpanì, sách
tiếng Pàli, không có bản tiếng Anh. -ooOoo- Ðầu
trang | 00
| 01 | 02 | 03 | 04
| 05 | 06 | 07
| 08 | 09 | 10 Chân thành cám ơn Bác
Phạm Kim Khánh đã gửi tặng bản điện tử (Bình Anson, 05-2002) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Một Toát Yếu Về Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Sự Giác Ngộ
Phạm Kim Khánh dịch
(Satipatthàna)
2. Vedanànupassanà-satipatthàna (Thọ Quán Niệm Xứ)
3. Cittànupassanà-satipatthàna (Tâm Quán Niệm Xứ),
4. Dhammànupassanà-satipatthàna (Pháp Quán Niệm Xứ).
(Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 116)
- Vacìkamma, 4 khẩu nghiệp: nói dối, nói đâm thọc,
nói thô lỗ cộc cằn và nói nhảm nhí.
- Manokamma, 3 ý nghiệp: lòng tham lam, sân hận và tà
kiến.
Bản dịch Anh ngữ
updated: 11-05-2002