BuddhaSasana Home Page 37 PHẨM
TRỢ ĐẠO
Ngài Hoà Thượng
LEDI SAYADAW Chương
IV Tứ
như ý túc Giờ đây Sư
(Ngài Ledi Sayadaw) sẽ giản lược mô tả các iddhipàdas [1]
(Như ý Túc), hay Căn Bản của sự Thành Công. Iddhi Danh từ iddhipàda được giải
thích là: ijjhanam iddhi. Iddhi là sự kiện đã thành
công, đã hoàn thành tròn đủ, hay đã hoàn tất viên mãn.
[2] Trong Giáo Huấn của Ðức Phật
có năm iddhis. Ðó là: 1. Abhinneyyesu dhammesu
abhinnà-siddhi, [3]
1. Viên mãn hoàn tất, hay thành
công, trong sự đặc biệt thông hiểu những sự vật mà sự
hiểu biết đặc biệt thâm sâu phải được thâu thập,
những sự vật như rùpa (sắc pháp) nàma (danh
pháp); 2. Viên mãn hoàn tất, hay thành
công, trong sự thông hiểu đầy đủ những điều mà sự
hiểu biết đầy đủ phải thành tựu, những điều như dukkha
sacca (Ðau Khổ, Chân Lý Thâm Diệu về Ðau Khổ); 3. Viên mãn hoàn tất, hay thành
công, trong nhiệm vụ diệt trừ những điều phải được
diệt trừ, những điều như samudaya sacca (Nguyên
Nhân Sanh Ðau Khổ, Chân Lý Thâm Diệu về Nguyên Nhân của
Ðau Khổ); 4. Viên mãn hoàn tất, hay thành
công, trong nhiệm vụ chứng ngộ những điều phải được
chứng ngộ, như nirodha sacca (Chấm Dứt Ðau Khổ,
Chân Lý Thâm Diệu về sự Chấm Dứt Ðau Khổ); 5. Viên mãn hoàn tất, hay thành
công, trong nhiệm vụ trau giồi và phát triển, những việc
như magga sacca (Con Ðường Chấm Dứt Ðau Khổ, Chân
Lý về Con Ðường dẫn đến Chấm Dứt Ðau Khổ). Ðó là năm thành công (iddhis)
chánh yếu trong Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha
Sàsana). Abhinnà-siddhi
có nghĩa: viên mãn hoàn tất nhiệm vụ thông hiểu các paramattha
dhammas (chân lý cùng tột, hay chân đế) mà trước kia,
khi còn đứng ngoài Giáo Huấn của một vị Phật, mình
không hiểu biết. Một cách rốt ráo, Abhinnà-siddhi là
thông suốt Abhidhammattha Sangaha [4] (Vi Diệu Pháp Toát Yếu,
sơ lược tất cả giáo lý chánh yếu của Tạng Luận).
Parinnà-siddhi
có nghĩa: viên mãn hoàn thành nhiệm vụ hiểu biết đầy đủ
dukkha sacca (Chân Lý Thâm Diệu về sự Khổ), hoặc qua
sự thông suốt lakkhana (những đặc tướng), rasa (những
cơ năng), paccupatthàna (những biểu hiện), và padatthàna
(những nguyên nhân kế cận), hoặc qua sự thấu hiểu ba
đặc tướng anicca (vô thường), dukkha (khổ) và
anattà (vô ngã) của vạn pháp. Pahàna-siddhi
có nghĩa: viên mãn hoàn tất nhiệm vụ khắc phục, loại trừ
(pahàna), tức tận diệt, các kilesas (ô nhiễm),
vốn là sammudaya sacca (Chân Lý Thâm Diệu về Nguyên
Nhân của Ðau Khổ). Trong sách nầy, vì điểm chánh yếu là
thành đạt mức độ thấp nhất của bậc Tu-Ðà-Huờn (sotàpanna),
tức "Bon-sin-san" sotàpanna, chớ không nhắm đến
các tầng Thánh cao hơn, nên công trình viên mãn hoàn thành
nhiệm vụ diệt trừ sakàya-ditthi (Thân Kiến) là pahàna-siddhi.
Nhiệm vụ loại trừ vicikicchà (hoài nghi) nằm trong
nhiệm vụ diệt trừ sakàya-ditthi (Thân Kiến).
Sacchikiriya-siddhi
có nghĩa: viên mãn hoàn tất nhiệm vụ chứng ngộ nirodha-sacca
(Chân Lý Thâm Diệu về sự Chấm Dứt Ðau Khổ) cả hai, về
mặt tâm linh cũng như về phương diện thể chất. Bhàvanà-siddhi
có nghĩa: trau giồi ba sikkhàs (pháp Tu Học) về sìla
(Giới), samàdhi (Ðịnh) và pannà (Tuệ) cho đến
khi thành đạt lokuttara magga sacca (Thánh Ðạo dẫn đến
Chấm Dứt Ðau Khổ).
Ðây cũng là viên mãn thành công
bảy giai đoạn thanh lọc (Thanh Tịnh Ðạo) khởi đầu với
Giới Tịnh và những phân hạng phụ, hợp thành nhiều loại
iddhi, trong ý nghĩa nhiều loại khả năng trong phạm vi của
nó. Iddhipàda Danh từ được giải thích là: iddhiyà
pàdo iddhipàdo, tức là căn cội hay nền tảng để viên
mãn hoàn tất hay để tiến đến mức toàn hảo (thành công
hay khả năng) [5] Có bốn loại iddhipàdas (Như
ý Túc). Ðó là: 1. Chandiddhipàdo (chanda, dục như
ý túc) Chanda
có nghĩa (nhiệt tâm), nóng lòng mong muốn được có, hết
lòng muốn thành đạt, muốn tiến đến, muốn hoàn tất
viên mãn, muốn thành tựu. ý muốn ở đây là cực kỳ
mong muốn, ý muốn ở mức cao độ. Không có bất luận
chi, bên trong hay bên ngoài cá nhân ta có thể cản ngăn lòng
ham muốn ấy. Ðây là loại ham muốn đưa đến ý nghĩ,
"Nếu không thành đạt điều nầy trong kiếp sống hiện
tại ắt ta không thể an tâm. Thà chết còn hơn sống mà
không làm được như ý nguyện." Ðây là loại mong muốn mà vào thời
Ðức Phật Kassapa [6], Vua Dhammasonda [7] xứ Benares hằng ôm
ấp dưỡng nuôi trong lòng khi Ðức vua tự nghĩ, "Làm
vua như ta đây có ích gì nếu không nghe được một thời
Pháp của Ðức Phật Kassapa?" Rồi Ngài từ bỏ ngai
vàng, ra đi, quyết lòng tìm một người có thể lặp lại
cho mình nghe một thời Pháp của Ðức Phật Kassapa, bất luận
dài hay ngắn thế nào, dầu chỉ vỏn vẹn một câu kệ cũng
được. Một nguyện vọng thiết tha như vậy
có thể dịu bớt nếu được thỏa mãn như trường hợp
vua Bimbisàra [8], Bà Visàkhà, và Trưởng Giả Anàthapindika
[9]. Chỉ đến khi nhoáng thấy dấu hiệu mơ hồ rằng điều
mong muốn có thể thành đạt nhưng không hoàn toàn viên
mãn, rằng tâm trở nên bấn loạn và có ý nghĩ phát sanh rằng
thà chết còn hơn sống mà không thỏa mãn được nguyện vọng. Cũng có những thí dụ tương tợ
như trường hợp Vua Temiya [10], Vua Hatthipàla [11], những vì
vua, những vương hầu quý phái và những trưởng giả giàu
sang thời Ðức Phật đã từ bỏ đền đài cung điện, xa lìa
đoàn tùy tùng hầu cận và cuộc sống xa hoa trên nhung lụa
để sống đời tỳ khưu (bhikkhu) trong Giáo Huấn của Ðức
Phật. Viriya,
tinh tấn, hay tấn như ý túc, có nghĩa sammappadhàna viriya,
chánh cần, cùng chung với bốn đặc tánh của nó [12]. Người
có đức hạnh chuyên cần như vậy tự thấm nhuần ý nghĩ
rằng mục tiêu có thể thành tựu nếu mình tận lực cố gắng.
Người ấy không rủn chí dầu có ai bảo rằng mình sẽ trải
qua trăm ngàn khó khăn khổ nhọc. Ngưòi ấy không sờn lòng
dầu thật sự gặp những hoàn cảnh cực kỳ gian lao kham khổ.
Người ấy không thối chí dầu nghe nói rằng mình phải gia
công tinh tấn trong nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm. Người
ấy không nản lòng dầu thật sự gia công tinh tấn chuyên cần
suốt thời gian lâu dài như thế ấy.
Những người mà hạnh tinh tấn
còn yếu kém suy nhược thụt lùi trước nhiệm vụ khi chạm
trán với những khó khăn cần phải tinh tấn chuyên cần. Họ
thối lui khi nghe nói phải xa lìa bạn bè thân thuộc. Họ rụt
rè e ngại trước viễn ảnh cần phải ăn uống đạm bạc,
ngủ nghỉ phải tiết độ. Họ lùi bước trước viễn ảnh
phải thực hành thiền tập lâu dài. Tâm (citta),
tâm như ý túc, có nghĩa bám chặt vào những iddhis,
thành công, khi gặp Giáo Huấn (Sàsana) và nghe Giáo
Pháp. Ðây là sự bám níu cực kỳ nhiệt thành và dõng
mãnh. Mặc dầu sống giữa những gì tốt
đẹp và xa hoa của thế gian, giữa những quyền thế, tiền
của và phước báu dồi dào, giữa những kinh sách quý báu
và hết lòng nghiên cứu học hỏi, ta không mãi mê chìm đắm
trong đó mà lúc nào cũng hướng tâm về những iddhis,
như ý túc. Ta chỉ toại nguyện và an lòng khi gom tâm chăm
chú vào những vấn đề liên quan đến iddhis, như ý túc. Cũng
như nhà luyện kim tỉ mỉ chú tâm vào, và chỉ để ý đến,
trạng thái biến chất của vàng hay bạc, mà không nghĩ đến
gì khác, quên cả ăn uống ngủ nghỉ, không hay biết đến
bất luận gì khi đi ra ngoài. Tâm, citta, lúc nào cũng miệt
mài chăm chú vào bản chất iddhis.
Vimamsà
(trạch pháp) có nghĩa: sáng suốt hiểu biết rõ ràng, nhận
chân tầm quan trọng của những khổ đau trong cảnh địa ngục,
và những hoàn cảnh bất hạnh triền miên trải dài theo
vòng quanh những kiếp sinh tồn của vòng luân hồi. Ðó là
sự hiểu biết có thể nhận thấy lợi ích đặc thù của iddhis,
như ý túc. Ðó là sự hiểu biết có thể tiềm ẩn và sâu
kín nằm trong những pháp khó hiểu, và trong bản chất của
những pháp (dhammas) khó thấu ấy. Một người đã có
nhiều hiểu biết như thế không còn tìm vui thích trong cuộc
rượt bắt những lạc thú trần tục, ngoại trừ chạy theo
những iddhis, như ý túc. Người ấy chỉ mãn nguyện
khi nắm vững những iddhis, như ý túc, uyên thâm và sâu thẳm.
Giáo Pháp càng thâm sâu, nguyện vọng thành đạt Giáo Pháp
càng nhiệt thành và mạnh mẽ. Người có một trong bốn như ý
túc, tức bốn Căn Bản của Sự Thành Công (iddhipàda)
không thể còn chấp nhận hay ngụy biện rằng trong kiếp sống
hiện tại nầy mình không thể gia công chuyên cần tinh tấn
nhằm vững chắc kiên cố trong pháp Niệm Thân (kàyagatà-sati)
và trong những mức độ cao hơn của Giáo Huấn (sàsana)
như bảy giai đoạn thanh lọc tâm (Thanh Tịnh Ðạo, visuddhi).
Chỉ có những người không bao giờ có "căn bản" nào
trong Bốn Căn Bản của sự Thành Công (Tứ Như ý Túc) và
không thể nhìn thấy sự khác biệt giữa trạng thái nông cạn
và trạng thái uyên thâm của đời sống, không thể phân biệt
lớp bề mặt bên ngoài và những gì thâm sâu huyền diệu nằm
bên trong giáo pháp (dhamma), chỉ có những người ấy
mới chấp nhận và ngụy biện rằng mình không thể chuyên
cần cố gắng và đành sống dể duôi hờ hửng. Người đã có một trong bốn Như
ý Túc (iddhipàdas), có thể thành đạt thêm những Như
ý Túc còn lại -- tùy theo số lượng ba-la-mật đã được
tích trữ -- cho đến khi tiến đạt đến những lokuttara
iddhi, Như ý Túc Siêu Thế, hoặc trong kiếp nầy hoặc
trong kiếp kế sau ở một cảnh trời. Trường hợp của những
vị có hai, hay ba, hoặc bốn Như ý Túc thì không cần phải
bàn thảo dong dài thêm nữa. Trường hợp những người không
có "căn bản nào của sự thành công" nên cố gắng
thành đạt một trong Tứ Như ý Túc (iddhipàdas). Những
vị nầy nên chỉ chấp nhận và ngụy biện rằng mình
không thể làm được bởi vì mình không có ý muốn thành
đạt những lợi ích cao siêu của Giáo Huấn (sàsana),
như Tứ Niệm Xứ (satipatthàna). Những vị ấy nên xem
sự chấp nhận không thể làm được ấy là con đường xa
lộ đưa ngay vào bốn cảnh khổ (Apàya-loka). Như vậy,
các vị nầy nên học hỏi, nghiên cứu, và nghiền ngẫm suy
gẫm những lời dạy trong Kinh sách [13] làm phát sanh ý muốn
chân thành, lòng thúc dục (chanda). Những vị nầy nên
đến gần một vị thầy có thể khơi động, làm phát sanh
nhiệt tâm của mình và nương tựa nơi vị thầy ấy. Do đó Ðức Phật dạy: Chandiddhipàdam bhàveti,
Viriyiddhipàdam bhàveti, Vị ấy trau giồi lòng nhiệt
thành, tinh tấn, tâm và trạch pháp như Căn Bản của sự
Thành Công (Như ý Túc). Vài người, chưa có "như
ý" (iddhi) nào mà không cố gắng thành đạt
"Như ý Túc" (iddhipàda). Nếu không nóng lòng
mong muốn (chanda), ắt họ không biết rằng cần phải
có tâm nhiệt thành mong muốn như vậy. Họ là những người
chấp nhận và ngụy biện là mình chịu thua, không làm được.
Trường hợp tinh tấn, tâm, và trạch pháp (viriya, citta,
và vimamsà) cũng dường thế ấy. Vững chắc gom tâm vào pháp kàyagatàsati,
niệm thân, có nghĩa là kiên cố pàda, đặt nền tảng.
Nghiên cứu học hỏi những tích chuyện đề cập đến tình
trạng khẩn cấp samvega [14] phải nghiêm túc khép mình
vào kỷ cương những giới luật của người đạo sĩ ẩn dật
(dhutanga, hạnh đầu đà) và những pháp hành tương tợ,
là kiên cố tinh tấn (viriya). Vững chắc đi sâu vào
những vấn đề thâm sâu của Giáo Pháp, như Tứ Ðại (mahà-bhùta:
đất, nước, lửa, gió) là kiên cố trong vimamsà, trạch
pháp. Nếu thành đạt một trong bốn
Căn Bản của sự Thành Công, Như ý Túc, ắt có thể chắc
rằng những iddhis [15], Như ý tương đương sẽ được
thành tựu, tùy theo pàrami, ba-la-mật của mình tích trữ.
Vì lẽ ấy Chú Giải nói rằng người không có "căn bản
của sự thành công" (Như ý Túc) giống như con của hạng
Candàla [16], trong khi người có những Như ý Túc như con của
vị Hoàng Ðế. Con của hạng Candàla ắt không bao giờ có
triển vọng trở nên hoàng đế bởi vì không có "căn bản"
(pàda) để thành đạt trạng thái "Con của Hoàng
Ðế". Nhưng Con của một vị Hoàng Ðế thì lúc nào cũng
dưỡng nuôi hy vọng trở nên Hoàng Ðế bởi vì đã có sẵn
"căn bản" để trở thành. Do đó, người khôn ngoan sáng suốt
ngày nay phải tận lực thành đạt Tứ Như ý Túc, Iddhipàda,
bốn căn bản của sự thành công, nhằm loại trừ lãnh vực
rộng lớn của Thân Kiến (sakkàya ditthi) và thành tựu
-- trong Giáo Huấn (Sàsana) của vị Phật hiện tại --
những lợi ích cao thượng nhất có thể được thành tựu,
tùy ba-la-mật của mình. Ghi chú: [1] Theo Buddhist Dictionary của Ngài
Nyanatiloka (được người dịch tóm lược), iddhi là
"Năng Lực Thần Thông", "Thần Lực". Ariyà-iddhi
là khả năng kiểm soát ý nghĩ của mình như thế nào để
có thể giữ tâm luôn luôn bình thản, không chao động. Iddhi-pàda,
"Ðường Ðến Thần Lực" hay "Con Ðường Hướng
Ðến Thành Công", là bốn phẩm hạnh hợp thành Con Ðường
dẫn đến Ðạo và Quả, gọi là Tứ Như ý Túc, cũng được
gọi Tứ Thần Túc. [2] Xem thêm "The Path of
Purification" (Visuddhi Magga, Thanh Tịnh Ðạo), do Ðại
Ðức Nànamoli chuyển dịch (ấn bản thứ nhì, Colombo 1964),
chương XII, & 20-22, 44. Nơi đây được thấy danh từ iddhi
và iddhipàda không chỉ đề cập đến các năng lực
thần thông như đôi khi được giả thuyết. Trong đoạn văn
nầy iddhi có nghĩa là thực hành Giáo Pháp một cách
"thành công", và có bốn trường hợp thành công như
thế (Tứ Như ý Túc). Trong phần đầu của chương nầy người
dịch (Sein Nyo Tun) chuyển ngữ iddhi là "sự hoàn
thành". Nhằm thích hợp với thuật ngữ hơn, danh từ
"thành công" đã được chọn. Tự điển PTS gợi ý
dùng danh từ "có khả năng vững vàng". (Chủ Biên) [3] siddhi đồng nghĩa với iddhi, [4] Xem chú thích trong Chương III. [5] Xem "The Path of
Purification", chương XII, 50-53; XXII, 36. [6] Vị Phật trước Phật Gotama
(Thích Ca) [7] Rasavàhini
(Jambudipuppatti-kathà)
[8] Xem chú giải Kinh Tirokudda
Sutta, trong "Minor Readings" (Kuddakapatha) do
Ð.Ð. Nànamoli dịch (PTS), trang 223ff. [9] Xem Chú Giải Kinh Pháp Cú,
tích chuyện liên quan đến câu 1, [10] Túc Sanh Truyện Mùgapakkha. [11] Túc Sanh Truyện Hatthipàla.
[12] Xem Chương II. [13] Những lời dạy trong Kinh sách
= suttanta discourse.
[14] Samvega là khuấy động
tâm, do công trình quán niệm các hiểm họa và khổ nhọc của
Samsàra, vòng luân hồi. [15] Tức là một trong năm iddhis
hay siddhis được đề cập đến ở phần đầu
chương nầy. [16] Candàla -- vào thời xưa
ở Ấn Ðộ, chăn-đà-la (thủ-đà-la) là hạng người thấp
kém nhất trong xã hội. -ooOoo- Ðầu
trang | 00
| 01 | 02 | 03
| 04 | 05 | 06 | 07
| 08 | 09 | 10 Chân thành cám ơn Bác
Phạm Kim Khánh đã gửi tặng bản điện tử (Bình Anson, 05-2002) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Một Toát Yếu Về Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Sự Giác Ngộ
Phạm Kim Khánh dịch
(Iddhipàda)
2. Parinneyyesu dhammesu parinnà-siddhi,
3. Pahàtabbesu dhammesu pahàna-siddhi,
4. Sacchikàtabbesu dhammesu sacchikiriya-siddhi,
5. Bhàvetabbesu dhammesu bhànanà-siddhi.
2. Viriyiddhipàdo (viriya, tấn như ý túc)
3. Cittiddhipàdo (citta, tâm như ý túc)
4. Vimamsiddhipàdo (vimamsa hay pannà, trạch pháp, hay tuệ như
ý túc).
Cittiddhipàdam bhàveti, Vìmamsiddhipàdam bhàveti.
Bản dịch Anh ngữ
updated: 18-10-2002