BuddhaSasana Home Page 37 PHẨM
TRỢ ĐẠO
Ngài Hoà Thượng
LEDI SAYADAW Chương
VI Ngũ
lực Những
"Năng Lực Tinh Thần" (balàni) được gọi như
vậy bởi vì "nó khắc chế những trạng thái tâm đối
nghịch". [1] Hoặc nữa, như các bản chú giải giải
thích: Nó có nhiều năng lực, trong ý nghĩa các thế lực đối
nghịch không thể làm nó lay chuyển (akampanatthena) [2]. Ðối chiếu với Ngũ Căn có Ngũ
Lực (bala): 1. Saddhà (Tín Lực, đức
tin) Ngũ Lực giống như năm vị tướng
soái, hay chỉ huy trưởng, tàn sát và tiêu diệt "vương
quốc Thân Kiến đối nghịch". Ðây là năm năng lực hùng
mạnh mà chư vị Tỳ Khưu và hàng tại gia cư sĩ có thể đặt
niềm tin và an toàn nương tựa vào. Cũng như trường hợp Tín Căn, Tín
Lực (saddhà bala) có hai loại: 1) Tín Lực Thông Thường
(pakati-saddhà) và 2) Tín Lực được Trau Giồi (bhàvanà-saddhà). "Tín Lực Thông Thường"
không có được trau giồi và phát triển qua pháp hành đặc
biệt, còn liên hợp với Tham ái (tanhà) tùy trường hợp,
chỉ có thể tạo những thiện nghiệp thông thường (pakati-kusala-kamma)
như Bố Thí (dàna), Trì Giới (sìla) v.v... Năng lực
ở mức độ hạn chế của nó không thể khắc phục tâm
Tham. Ngược lại, Tham ái (tanhà) cầm giữ "Ðức
Tin Thông Thường" dưới quyền lực của nó. Tham ái giữ Ðức Tin Thông Thường
dưới quyền lực của nó như thế nào? -- Kinh điển Pàli
rõ ràng đề cập đến bốn "Phương Pháp Thực Hành Cổ
Truyền của chư Thánh Nhân" (ariya-vamsa) [3]. Ðó là: 1. Dễ dàng an phận, bằng lòng
với thức ăn mà mình có, "Bốn phương pháp thực hành
cổ truyền của chư Thánh Nhân" nầy hợp thành phạm vi
của saddhà [4], đức tin. Trong thế gian ngày nay phạm
vi rộng lớn nầy của đức tin, saddhà, đã kín đáo
ẩn mình chìm đắm mất dạng. Ngày nay, người ta hoan hỷ và
thỏa thích trong lạc thú trần gian (paccayàmisa); người
ta hoan hỷ và thỏa thích trong địa vị, quyền thế, và
danh vọng trần gian (lokàmisa); người ta hoan hỷ và thỏa
thích với cuộc sống có nhiều lạc thú, tài sản phong
phú, nhiều oai lực và quyền thế (vattàmisa) và như
thế, vương quốc rộng lớn của Tham ái (tanhà) được
kiên cố vững chắc và tỏ tường như đại dương mênh
mông rộng lớn bao trùm hòn đảo. Ðiều nầy cho thấy điểm
suy nhược của Ðức Tin Thông Thường (pakati-saddhà)
trong thế gian nầy. Chính "Ðức Tin được Trau Giồi",
sanh khởi từ công phu thực hành pháp Niệm Thân (như Niệm
Hơi Thở) -- được gia công chuyên cần chí đến khi mọi tình
trạng chao động và bất ổn trong tâm chấm dứt -- mới có
thể loại trừ Tham ái (tanhà), tức hoan hỷ thỏa
thích trong ba loại lạc thú trần gian (àmisa) kể
trên. [5] Chính Ðức Tin được Trau Giồi (bhàvanà saddhà)
có thể cứu vớt chư vị tỳ khưu và hàng cư sĩ tại gia
đang lặn hụp chìm đắm trong đại dương của ba Tham ái
[6], và giúp đưa họ đến "hòn đảo ẩn trú" của
vương quốc Ðức Tin (saddhà), tức bốn Pháp Thực
Hành Cổ Truyền của chư Thánh Nhân (ariya-vamsa-dhamma).
Trong phạm vi các Phẩm Trợ Ðạo (Bodhipakkiya-dhamma)
chính Ðức Tin được Trau Giồi phải được thành đạt. Trong hai loại Tinh Tấn (vìriya),
loại Tinh Tấn Thông Thường, không được có pháp hành trau
giồi, liên hợp với tánh lười biếng (kosajja), tùy
trường hợp, đưa đến những thiện nghiệp thông thường
(pakati-kusala-kamma) như Bố Thí, Trì Giới và nghiên cứu
học hỏi kinh điển v.v... Loại Tinh Tấn Thông Thường nầy
không đủ khả năng loại trừ tật lười biếng. Trái lại,
chính lười biếng kiểm soát và cầm quyền làm chủ Tinh Tấn
Thông Thường. Khi gặp Giáo Huấn của một vị
Phật (Buddha Sàsana) ta hiểu biết rằng từ trong quá
khứ xa xôi vô tận của vòng luân hồi mình đã gần gũi
quen thuộc với Thân Kiến (sakkàya-ditthi), với những
Bất Thiện Nghiệp (duccarita), và đã là chúng sanh ở
trong những Khổ Cảnh (apàya-loka). Kinh điển Pàli mô
tả rõ ràng và tường tận Phương Pháp Thực Hành Cổ Truyền
của Thánh Nhân, Ariya-vamsa, như đường lối để loại
trừ thói quen lười biếng, và yếu tố thứ tư trong bốn
pháp nầy -- tức hoan hỷ thỏa thích trong pháp hành thiền
-- phải được thực hành chí đến khi vượt thoát ra khỏi
tình trạng lười biếng (vốn đối nghịch với Tinh Tấn). Phương cách loại trừ trạng
thái lười biếng được mô tả như trên (trong trường hợp
của một vị tỳ khưu) [7]. Ðã tự trang bị với các sikkhàs
(pháp tu tập -- vốn là di sản của Ðức Phật) mà trong Lễ
Xuất Gia, khi trở thành tỳ khưu, vị nầy chú nguyện hành
trì: * lấy cây cối và lùm bụi
trong rừng làm nơi cư trú, Ðó là những tác động của Tinh
Tấn nhằm loại trừ nghiệp bất thiện (akusala kamma)
phát sanh do lười biếng (kasajja). Ðó là những công
trình nằm trong phạm vi Tinh Tấn (vìriya). Trong thế gian ngày nay phạm vi
Tinh Tấn nầy bị che dấu, còn tối tăm và không được biết
đến. Ngày nay, mặc dầu chư vị tỳ khưu biết mình thuộc
về hạng chúng sanh nằm trong Thân Kiến và Bất Thiện Nghiệp
và còn có thể sa đọa vào những Khổ Cảnh, nhưng vẫn
thường xuyên sống trong thành thị và xóm làng để được
gần tín thí; họ lấy làm vui thích nhận lãnh lễ vật
cúng dường và những lợi ích, họ không thể xa lánh những
cuộc hội họp đông người v.v... tất cả những điều ấy
đều nằm trong phạm vi của Lười Biếng (kasajja) và
phạm vi Lười Biếng nầy hiển hiện rõ ràng như nước
trong biển cả tràn ngập một hải đảo. Ðiều nầy biểu
hiện tánh cách suy nhược của Tinh Tấn Thông Thường (pakati
vìriya). Chỉ có Tinh Tấn được Trau Giồi
(bhàvanà vìriya) -- như an phận bằng lòng với tình trạng
ngủ nghỉ tối thiểu, luôn luôn giác tỉnh và tích cực
sinh hoạt, không sợ sệt, dũng cảm và quyết tâm sống
đơn độc, chuyên cần và bền vững thực hành thiền tập
-- chỉ có loại Tinh Tấn như vậy mới có thể loại trừ
trạng thái Lười Biếng. Trong phạm vi các Phẩm Trợ Ðạo
(Bodhipakkhiya-dhammà, những nhu cầu chánh yếu nhằm hướng
đến Giác Ngộ) phải thành đạt "Tinh Tấn được Trau
Giồi" qua thiền tập. ý nghĩa chi tiết về Niệm Lực,
Ðịnh Lực và Tuệ Lực có thể được lãnh hội qua những
lời giải thích ở phần trên. Nơi đây Sư (Ngài Ledi
Sayadaw) chỉ tóm lược vắn tắt. Nghịch nghĩa với sati, Niệm, là
mutthasacca, trạng thái tâm phóng dật hay không chăm chú (thất
niệm). Ðiều nầy có nghĩa là không thể chú tâm vào công
phu hành Thiền Vắng Lặng (samatha bhàvanà) hay
Thiền Minh Sát (vipassanà-bhàvanà); không đủ khả
năng tập trung và kiểm soát tâm; dòng tư tưởng hoang dại
hướng về những đối tượng khác, ngoài đề mục phải
gom tâm vào. Niệm Lực Thông Thường trong giai đoạn mới bắt
đầu tu tập không đủ khả năng loại trừ tình trạng thất
niệm như vậy. Chỉ tâm Niệm được Trau Giồi mới có đủ
khả năng. Nghịch nghĩa với samàdhi,
Ðịnh, là tình trạng Loạn Ðộng (vikkhepa, tức những
ý tưởng vẩn vơ bay nhảy không ý định). Ðó là tình trạng
bất lực, kém khả năng tập trung, kiểm soát và chú tâm vững
chắc vào một đối tượng. Ðó là sự khởi sanh những ý
nghĩ hướng về đối tượng khác, ngoài đề mục hành thiền.
Ðó là trạng thái tâm loạn động và bất an khi muốn áp
đặt vào công phu hành thiền. Tâm Ðịnh Thông Thường không
thể loại trừ trạng thái bất tịnh của tâm Loạn Ðộng.
Chỉ tâm Ðịnh được thiền tập Trau Giồi (bhàvanà
samàdhi) mới có đủ khả năng. Nghịch nghĩa với pannà, Tuệ,
là trạng thái sammoha, Si Mê. Ðây là trạng thái tâm
mê hoặc, kém trong sáng, mù mờ và không minh mẫn. Ðây là
trạng thái tâm mờ tối vì bị màng đen che lấp. Trí Tuệ
Thông Thường (pakati-pannà) cũng như sức học uyên
bác ngoài đời (pariyatti-pannà), có thể bao gồm tình
trạng thông suốt toàn thể Tam Tạng kinh điển, không thể
loại trừ trạng thái tâm Si Mê như thế đó. Chỉ có Trí
Tuệ được Trau Giồi bằng Thiền Tập (bhàvanà pannà)
vững vàng kiên cố trong pháp Niệm Thân, mới có thể dần
dần loại trừ Si Mê. Ðiều nầy có nghĩa là năm bất
thiện pháp đối nghịch (patipakkha-akusala-dhamma) đi đôi
từng cặp, song song với những Năng Lực tương ứng (bala). Năm năng lực bất thiện đối
nghịch ấy là: 1. Tham ái (tanhà); Năm sức mạnh có thể cưỡng chế,
hay phản ứng chống lại và loại trừ năm năng lực nầy
được gọi là Ngũ Lực (bala). Ðối với hạng Neyya,
những người cần phải được hướng dẫn, nếu một chi
trong Ngũ Lực yếu kém và không đủ khả năng loại trừ
năng lực đối nghịch thì pháp hành, dầu thiền Vắng Lặng
hay thiền Minh Sát, ắt khó thành công. Do đó, ngày nay vài người có thể
vượt lên khỏi phạm vi Tham ái (tanhà) bởi vì Tín Lực
(saddhà bala) của họ đủ dũng mãnh. Các người nầy
đã không còn luyến ái, không bám níu vào những sự việc
trần gian, vào địa vị, quyền thế, hay danh vọng. Nhưng vì
bốn Năng Lực kia còn yếu kém, nên họ không thể vượt khỏi
lên trên mức dễ dàng thỏa mãn (santutthi) với điều
kiện sinh sống của mình. Vài người có thể vượt lên khỏi
phạm vi Tham ái và Lười Biếng vì Tín Lực và Tấn Lực của
họ đủ mạnh. Họ có thể thường xuyên gìn giữ cuộc sống
thỏa mãn, và -- nếu là nhà sư -- có thể kiên trì sống
trong rừng sâu, trên đồi núi, và quyết chí hành trì hạnh
đầu đà (dhutanga), gương mẫu của hạnh Tinh Tấn.
Tuy nhiên, vì ba Năng Lực kia yếu kém nên họ không thể
thành công thực hành pháp Niệm Thân hay trong công phu thực
hành thiền Vắng Lặng hay thiền Minh Sát. Lại nữa, có vài người đủ mạnh
trong ba Năng Lực đầu (Tín Lực, Tấn Lực và Niệm Lực)
và nhờ vậy tiến đến pháp Niệm Thân (kàyagatà sati),
thành tựu trạng thái chú tâm như thực hành niệm hơi-thở-ra
thở-vào hoặc suy niệm về xương trong thân. Nhưng vì thiếu
hai Năng Lực kia (Ðịnh Lực và Tuệ Lực) nên không thể đắc
Thiền, Jhàna, và tuệ Minh Sát. Những người khác, có thể chứng
đắc các tầng Thiền (Jhàna) bởi vì bốn Năng Lực
đầu tiên của họ đủ mạnh nhưng Tuệ Lực còn yếu nên
không thể thành công trong pháp hành thiền Minh Sát. Vài người có Tuệ Lực đủ sức
mạnh nhờ học hỏi nghiên cứu Giáo Pháp và Tam Tạng kinh
điển. Họ cũng sáng suốt lãnh hội những giáo lý về
chân lý cùng tột (paramattha dhamma, chân đế). Nhưng bởi
vì còn thiếu nền tảng vững chắc của bốn Năng Lực kia,
nên họ không thể vượt qua khỏi lãnh vực tâm Tham ái, Lười
Biếng, Thất Niệm và Loạn Ðộng. Họ sống và chết trong
phạm vi của những trạng thái bất tịnh ấy. Như vậy, khi
một Năng Lực nào của Ngũ Lực còn yếu kém, mình không thể
vượt qua khỏi phạm vi của năng lực đối nghịch tương
đương. Trong Ngũ Lực, năng lực của Tinh
Tấn và Trí Tuệ cũng là Như ý Túc (Iddhipàdas) "Căn
Bản của sự Thành Công" về mặt tinh thần. Do đó, nếu
hai Năng Lực nầy dũng mãnh và dung hòa với nhau, sẽ không
có trường hợp không thể thành công hành thiền Minh Sát
vì ba Năng Lực kia suy yếu. Những người không hiểu cơ năng
và nhiệm vụ của Như ý Túc (iddhipàda, Nền Tảng của
Thành Công), của Ngũ Căn (indriya, Khả Năng Kiểm Soát)
và của Ngũ Lực (bala) không hiểu tại sao nhiệt tâm
thực hành Giáo Pháp của họ yếu kém và những năng lực
đối nghịch (patipakkha) nào tấn công họ. Họ không
hiểu biết những phẩm chất của tâm mà họ phải trau giồi
và do đó, lòng ham muốn trau giồi tâm không bao giờ đến với
họ. Vì lẽ đó mà ngày nay những Phương Pháp Thực Hành Cổ
Truyền của Thánh Nhân (ariya-vamsa) đã đến bờ vực
thẩm của tình trạng mất dạng. Sư (ngài Ledi Sayadaw) cho một thí
dụ. Có một giống bò gọi là usabha. Giống bò nầy
có giá trị cả ngàn lần cao hơn bò thường. Nếu nhận ra
những đặc tính và những dấu hiệu đặc thù của nó và
nếu nó được chăm sóc dưỡng nuôi đúng mức, chân cẳng
và mình mẩy nó sẽ nở nang to lớn, mạnh dạn và có rất
nhiều năng lực. Nó có thể canh gát giữ gìn và bảo bọc
cả bầy bò hàng trăm con chống lại sư tử, cọp, beo. Nếu người chủ của con bò quý
giá như vậy không biết giá trị của nó và do đó không
trông nom chăm sóc và dưỡng nuôi thích nghi mà vẫn đối xử
với nó như những con bò thường khác; cứ bắt nó kéo
cày, kéo bừa và kéo xe với những con bò thường, những đặc
tính khác biệt, mình mẩy và chân cẳng nó sẽ không nở
nang sức mạnh và năng lực to lớn của nó nằm im. Nó sẽ
sống như vậy và sẽ chết giống hệt như những con bò
thông thường khác. Nhưng người chủ bò hiểu biết
sẽ nuôi con bò giống tốt như vậy trong một cái chuồng
được xây cất riêng, che mưa đỡ gió kín đáo. Họ sẽ trải
cát trắng sạch sẽ để lót sàn cho cái chuồng, và đóng
trần cao tới nóc. Họ sẽ giữ chuồng sạch sẽ, cho bò ăn
loại lúa thóc dành cho người, và năng tắm rửa bò. Trong
trường hợp nầy những dấu hiệu đặc biệt, chân cẳng
và mình mẩy bò sẽ nở nang to lớn, sức mạnh và năng lực
của bò sẽ tăng trưởng phi thường. Trong Giáo Huấn hiện tại của Ðức
Phật, hạng người Neyya [8] (cần phải được hướng
dẫn) giống như người chủ bò. Ngũ Lực của hạng người
Neyya giống như con bò usabha. Những đoạn kinh sách
phân hạng Satipatthàna Vibhanga, Sammappadhàna Vibhanga,
Iddhipàda Vibhanga, Indriya Vibhanga, Bojjhanga Vibhanga, và Magganga
Vibhanga của Tạng Luận, Abhidhamma Pitaka, cũng như
những bài kinh Mahà-Satipatthàna-Sutta, Satipatthàna Samyutta,
Sammappa-dhàna Samyutta, Iddhipàda Samyutta, Indriya Samyutta, Bala
Samyutta, và Bojjhanga Samyutta của Tạng Kinh giống như sách
vỡ được trình bày, mô tả những đặc tính khác biệt,
những dấu hiệu đặc thù của loại bò usabha, những
phương pháp phải trông nom chăm sóc và dưỡng nuôi giống
bò như thế nào, và nếu được trông nom chăm sóc đúng mức
sức mạnh và năng lực của bò sẽ ra sao. Những người ở hạng Neyya,
vì không biết, không cố gắng trau giồi và phát triển Ngũ
Lực bằng thiền tập và như thế vẫn thỏa mãn với những
thành quả thấp kém trong Giáo Huấn của Ðức Phật như dàna,
sìla (bố thí, trì giới) và học hỏi kinh sách, họ giống
như người làm chủ một con bò usabha mà không biết cách chăm
sóc và dưỡng nuôi. Trong đời có nhiều loại công việc
phải làm thuộc về thế tục. Nhiều việc có thể thành tựu
bằng sức mạnh của tài sản, và có nhiều việc có thể
thành tựu bằng sức mạnh của sự hiểu biết. Cho đến những
canh tác nông nghiệp cũng phải cần đến nhiều loại năng
lực để hoàn thành. Ðôi khi, trước tiên phải cần đến
sức mạnh của tài sản. Những lúc khác, phải có sức mạnh
của sự hiểu biết. Căn bản giáo hóa và học vấn sơ khởi
hợp thành sức mạnh của sự hiểu biết. Cùng thế ấy, trong Giáo Huấn của
Ðức Phật, Ngũ Lực rất cần thiết cho công trình hành thiền
Vắng Lặng, thiền Minh Sát, và cho sự thành tựu các Thánh
Ðạo, Thánh Quả và Niết Bàn. Chỉ đến khi trước đó đã
có tích tụ Ngũ Lực nầy, mới có thể hoàn mãn thực hiện
công tác. Những người không có năng lực nào trong Ngũ Lực
không thể làm khởi sanh ý muốn thực hiện những công
trình to lớn nầy. ý nghĩ rằng mình có thể thành tựu những
công trình quan trọng như vậy trong kiếp sống nầy không
phát sanh đến họ. Họ sống một cách hững hờ cẩu thả
và không quyết định. Nếu có người chỉ dạy rằng công
trình có thể thực hiện, họ không thích nghe. Họ không biết
rằng những ý tưởng ương ngạnh tương tợ khởi sanh đến
họ bởi vì rõ ràng họ thiếu kém Năng Lực tinh thần. Họ
đổ lỗi cho tình trạng không tích trử đủ ba-la-mật (pàrami),
hay vì sanh ra chỉ với hai căn (dvi-hetuka), hoặc vì thời
giờ không thuận tiện. [9] Tuy nhiên, nếu những vị nầy
chuyên cần kiên cố trong một Niệm Xứ (satipatthàna)
như niệm Hơi Thở (ànàpàna sati), và do đó vững chắc
thiết lập ba Năng Lực Tín, Tấn và Niệm, những tư tưởng
ương ngạnh kia chắc chắn sẽ tan biến. Thế nào cũng có
những tư tưởng trong sạch mới mẻ phát sanh, vì người
ấy đã tạo sức mạnh cho những tư tưởng nầy. Sức mạnh khai triển như thế ấy.
Mặc dầu không thể chứng đắc tuệ minh sát và thấu hiểu
bản chất thật sự của Sắc (Thân) và Danh (Tâm), Ðức Tin
còn yếu ớt của người ấy tăng trưởng qua pháp hành kiểm
soát Tham ái (tanhà) ham muốn dục lạc (paccayàmisa)
và những thành tựu trần tục (lokàmisa). Tinh Tấn yếu
ớt được tăng trưởng nhờ kiểm soát Lười Biếng. Niệm
yếu ớt được tăng trưởng nhờ kiểm soát Thất Niệm
(tâm bất tại). Ðịnh và Tuệ cũng tăng trưởng thêm sức
mạnh nhờ kiểm soát Phóng Dật và Si Mê. Khi những Năng Lực
ấy tăng trưởng lớn mạnh, chắc chắn sẽ có sự đổi
thay trong tâm hành giả. Một người đang lâm trọng bịnh
ắt không quan tâm đến những sự việc và những sinh hoạt
tầm thường của thế gian. Nhưng sau khi nhờ thầy giỏi thuốc
hay và phương pháp trị liệu thích nghi, cơn bịnh nặng dần
dần thuyên giảm, người ấy vượt ra khỏi tình trạng
lãnh đạm thờ ơ, và chắc chắn sẽ quan tâm trở lại đến
những sinh hoạt bình thường. Nơi đây năm năng lực bất
thiện, tức tham ái, lười biếng v.v... giống như cơn trọng
bịnh. Công trình thực hành Tứ Niệm Xứ (satipatthàna)
như pháp Niệm Hơi Thở, cũng giống thầy giỏi thuốc hay và
phương pháp trị liệu thích nghi. Phần còn lại của thí dụ
có thể được hiểu biết dễ dàng. Do đó, Ðức Phật dạy: "vị
ấy khai triển Tín Lực, Tấn Lực, Niệm Lực, Ðịnh Lực
và Tuệ Lực". (saddhàbalam bhàveti .,.). Trong thế gian nầy, sức mạnh của
người thợ nề nhờ xử dụng những dụng cụ tốt như giùi,
đục, búa, dao, cưa v.v... Chỉ khi nào được trang bị dụng
cụ thích nghi người ấy mới hoàn thành tốt đẹp công việc
làm. Cùng thế ấy, trong Giáo Huấn của Ðức Phật, những
dụng cụ của công trình hành thiền Vắng Lặng và Minh Sát
(samatha và vipassanà) nhằm thành tựu Ðạo Tuệ
và Quả Tuệ (magga và phala-nàna) của bậc Thánh
Nhân bao gồm công phu khai triển Tín Lực, Tấn Lực, Niệm Lực,
Ðịnh Lực và Tuệ Lực (bhàvanà-saddhà v.v...) qua
pháp hành Trau Giồi Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna) như Niệm
Hơi Thở. Ngũ Lực nầy là sức mạnh của người hành thiền
(yogàvacara). Do đó Ngũ Lực phải được trau giồi và
phát triển nhằm viên mãn hoàn thành pháp hành thiền Vắng
Lặng và thiền Minh Sát trong Giáo Huấn của Ðức Phật (Buddha
Sàsana). Ðó là ý nghĩa của danh từ bhàveti (vị
ấy trau giồi ...) trong đoạn kinh được trích dẫn ở phần
trên. Ghi chú: [1] Xem sách Paramattha Dìpani,
do Ngài Ledi Sayadaw. [2] Xem Bản Chú Giải bộ Anguttara
Nikàya (Tăng Nhứt A-Hàm), Ekaka-nipata. [3] Anguttara-Nikàya, Tăng Nhứt
A-Hàm. Catukka Nipata, Những Con Số Bốn, bài kinh Ariyavamsa-Sutta,
do Tỳ Khưu Khantipalo dịch trong quyển "With Robes and
Bowl" (The Wheel số 83/84), trang 70. [4] Trong ý nghĩa là tín nhiệm nơi
những giá trị cổ truyền của cuộc sống giản dị và sự
phát triển tâm linh được diễn đạt trong một công thức
tổng quát, có thể áp dụng vào đời sống của hàng cư
sĩ tại gia -- Chủ Biên. [5] Ba loại lạc thú trần tục
ấy là vui thú thỏa thích trong vật thực, trong y phục và
trong chỗ ở, như được kể ở phần trên. [6] Ba Tham ái là: lòng tham luyến
ái dục lạc, lòng tham luyến ái kiếp sinh tồn, và lòng
tham luyến ái sự không-sinh-tồn (tuyệt diệt). [7] Trong trường hợp người cư
sĩ tại gia, những nguyên tắc được nhấn mạnh trong bốn
"Pháp Thực Hành Cổ Truyền" phải được áp dụng
càng chặt chẽ càng tốt. Những nguyên tắc nầy có thể
được tóm lược trong câu nói thông thường "sống giản
dị và suy gẫm thanh cao (hành thiền)". -- Chủ Biên [8] Xem Chương II. [9] Vài người tin tưởng rằng có
những khoảng thời gian mà không ai có thể chứng đắc Thánh
Ðạo hay Thánh Quả, và như thế có chiều hướng triển hoãn
tinh tấn, chờ cho đến khi ba-la-mật (pàrami) đủ chín
mùi. Vài người tin rằng trong thời hiện đại người ta chỉ
được sanh ra với hai căn (dvi-hetuka, tức hai căn Không-Tham
và Không-Sân) và như thế, vì thiếu căn Không-Si, nên không
thể chứng đắc Thánh Ðạo và Thánh Quả trong kiếp hiện
tại. -ooOoo- Ðầu
trang | 00
| 01 | 02 | 03
| 04 | 05 | 06 | 07
| 08 | 09 | 10 Chân thành cám ơn Bác
Phạm Kim Khánh đã gửi tặng bản điện tử (Bình Anson, 05-2002) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Một Toát Yếu Về Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Sự Giác Ngộ
Phạm Kim Khánh dịch
(Bala)
2. Vìriya (Tấn Lực, hạnh tinh tấn)
3. Sati (Niệm Lực, tâm chú niệm)
4. Samàdhi (Ðịnh Lực, tâm định)
5. Pannà (Tuệ Lực, trí tuệ).
2. Dễ dàng an phận, bằng lòng với y phục mà mình có,
3. Dễ dàng thỏa mãn với bất luận chỗ ở nào mình có,
4. Tìm thích thú và hoan hỷ trong công phu hành thiền (bhàvanà).
* chỉ sống với vật thực được bố thí trong khi đi trì
bình,
* thực hành hạnh đầu đà (Dhutanga, pháp hành
nghiêm khắc của các vị đạo sĩ ẩn dật), và
* và chuyên chú Niệm Thân.
2. Lười biếng (kosajja), hay kém khả năng chịu đựng
tình trạng cực nhọc (mỏi mệt), hoặc thiếu ý chí cương
nghị, thiếu quyết tâm không sợ thực hành Giáo Pháp;
3. Thất niệm (mutthasacca);
4. Loạn Ðộng (vikkhepa);
5. Si Mê (sammoha).
Bản dịch Anh ngữ
updated: 11-05-2002