BuddhaSasana Home Page 37 PHẨM
TRỢ ĐẠO
Ngài Hoà Thượng
LEDI SAYADAW Chương
V Ngũ
căn Danh từ indriya
được giải thích là: Indassa kammam indriyam. Có nghĩa: indriya là hành động
thống trị hay kiểm soát, của người cai trị. "Hành động
thống trị" có nghĩa là bất luận ở nơi đâu, người
thống trị cũng có toàn quyền định đoạt, không ai có
thể chống đối hay cưỡng lại. Nơi đây, kiểm soát hay thống
trị tâm mình là điểm chánh yếu của Ngũ Căn, tức năm
khả năng kiểm soát tâm. Có năm Khả Năng như thế ấy: [1] 1. Saddhindriya(Tín Căn) Tín Căn Saddhindriya,
(ở một mức độ nào) đồng nghĩa với saddhà, đức
tin. Nhưng có hai saddhà, đức tin, là:
1. Pakati-saddhà, Ðức Tin
thông thường, và Ðức Tin và sự tín nhiệm (saddhà)
dắt dẫn người thường thực hiện những hành động như
Bố Thí (dàna), Trì Giới (sìla) và "bắt đầu
tập tành" Hành Thiền (Bhàvanà) [2] -- được gọi
là Ðức Tin Thông Thường. Nơi đây, như đã chỉ trong hình
ảnh người mất trí (chương II), mặc dầu ở một mức độ
nào, niềm tin (saddhà) ấy cũng là một Khả Năng
Kiểm Soát, nó không tăng trưởng đến khả năng có thể
kiểm soát cái tâm chao động của một người thường trong
khi hành thiền (bhàvanà). Tầm mức kiểm soát chỉ đến
mức độ kềm chế và hướng dẫn một cái tâm bất ổn đến
hành động Bố Thí, Trì Giới và "bắt đầu" hành
thiền. Không có Ðức Tin và Tín Nhiệm (saddhà)
tâm không bao giờ hướng về thiện nghiệp, kusala kamma
(những hành động có tác ý trong sạch) bởi vì thông thường
tâm chỉ thỏa thích trong những hành động bất thiện. Ðiều
nầy đúng, trong nỗ lực thành đạt Giới Tịnh (sìla
visuddhi) cũng như trong việc nghiên cứu học hỏi kinh điển.
Bởi vậy cho nên những hành động thiện thông thường (pakati-kusala-kamma)
cũng được tạo nên do Ðức Tin Thông Thường (pakati-saddhà),
không phải được trau giồi qua pháp hành thật sự thích đáng
(abhàvita). Trong công trình theo dõi một đề
mục hành thiền (kammatthàna) khi thực hành thiền
Vắng Lặng và Minh Sát, Ðức Tin Thông Thường không đủ
khả năng để kiểm soát tâm vì tâm có thể từ chối,
thối lui và nhảy ra khỏi Ðức Tin sang một nơi khác. Trong
công trình hành thiền, Ðức Tin Thông Thường không đủ. Chính Ðức Tin được Trau Giồi
chuẩn bị nền tảng để tâm thâu thập cường độ và năng
lực qua pháp hành thiền, như Niệm Hơi Thở. Trong phạm vi các "Phẩm Trợ
Ðạo" (bodhipakkhiya-dhamma) chính "Ðức Tin được
Trau Giồi" (bhàvanà saddhà) được gọi là saddhindriya,
Tín Căn, hay đức tin có khả năng kiểm soát. Trong công phu
hành thiền, Ðức Tin nầy một đàng tự biểu hiện qua sự
biến dạng của tình trạng chú tâm bất ổn định và chao
động và đàng khác tượng trưng cho sự xuất hiện của tâm
sáng suốt và vững bền. [3] Trạng thái gom tâm chỉ có
thể vững chắc tập trung vào những đề mục sáng tỏ không
mù mờ. Pháp hành Niệm Thân (kàyagatà-sati) như Niệm
Hơi Thở, chuẩn bị làm nền tảng cho bhàvanà-saddhà,
Ðức Tin và Tín Nhiệm được công phu thực hành thiền
tập trau giồi, phát triển và thuần hóa. Nếu gom tâm vào
pháp Niệm Thân, như niệm hơi-thở-ra-và hơi-thở-vào, có
nghĩa là đã có Ðức Tin được Trau Giồi. Chừng đó, nếu
tiếp tục hành thiền Vắng Lặng (samatha) và Minh Sát
(vipassanà), hành giả sẽ thành đạt khả năng tận
diệt ba tầng lớp của Thân Kiến (sakkàya-ditthi) trong
chính kiếp sống hiện tại. Công phu hành thiền Vắng Lặng
và thiền Minh Sát cần phải được thực hành thích nghi. Hành
giả phải nương tựa nơi một vị thầy thông suốt Giáo Pháp. Tấn Căn Viriyindriya,
ở một mức độ nào, là đồng nghĩa với viriya, tinh tấn.
Nhưng có hai loại, hay hai trình độ tinh tấn. Ðó là: 1. Pakati-viriya, Tinh Tấn Thông
Thường, và Một cách phân loại khác là: 1. Kàyika-viriya, thân tinh
tấn, và Tinh Tấn Thông Thường (pakati-viriya)
có thể được nhận ra dễ dàng. Những người có nhiều
Tinh Tấn Thông Thường trong những vấn đề thế gian cũng có
thể dễ dàng đạt đến loại Tinh Tấn Trau Giồi (bhàvanà-viriya).
Hạnh đầu đà (dhutanga) hay những giới luật nghiêm
khắc của vị tỳ khưu là một thí dụ về Thân Tinh Tấn
trong bản chất được trau giồi (kàyika-bhàvanà-viriya). Nếu, sau khi vững vàng trau giồi
"Thân Tinh Tấn" như giảm bớt ngủ nghỉ, tỉnh
thức và cương quyết, mà vẫn không đạt đến "Tâm
Tinh Tấn" (cetasika-viriya), như hăng say chăm chú hành
thiền (bhàvanà-manasikàra), vững chắc định tâm vào
đề mục hành thiền (kammatthàna), như Niệm Hơi Thở,
và thời gian thực hành kéo dài mà không thành tựu trạng
thái tâm sáng suốt, ta phải suy tư. Bất luận làm việc gì, chỉ khi
nào người thực hành công việc ấy nhanh chóng làm chủ
vấn đề -- tức nắm vững, hiểu biết rõ ràng và cặn
kẻ vấn đề -- mới hoàn thành thích nghi và đúng đắn. Công
việc sẽ không được hoàn tất thích nghi và viên mãn nếu
chính công việc ấy làm chủ người thực hành. Nói rằng
"công việc làm chủ người thực hành" có nghĩa là
công việc được thực hành một cách lơ đễnh dể duôi,
không hăng say, không thật sự nhiệt tâm. Người thực hành
sẽ không gặt hái kết quả thiết thực, rồi ngày qua ngày,
tháng nầy kéo dài sang tháng kia, đâm ra chán nản (trong pháp
hành) buồn phiền, rồi ngán ngao uể oải dẫn đến hôn
trầm dã dượi. Vì hôn trầm dã dượi, pháp hành không
tiến, rồi vì pháp hành không tiến triển, càng thêm dã dượi
hôn trầm. Chừng ấy sẽ có ý nghĩ phát sanh thúc giục nên
thay đổi phương pháp thực hành. Như vậy luôn luôn thay đổi
pháp hành, và đó là "công việc làm chủ người thực
hành kém tinh tấn". Trong công phu hành thiền chỉ
nhanh chóng thâu hoạch thành quả khi có đủ cả hai, thân
tinh tấn và tâm tinh tấn. Từ lúc nắm vững pháp hành
Niệm Hơi Thở, hạnh tinh tấn ngày càng phát triển thêm lên
là bhàvanà viriya (tinh tấn được phát triển do pháp
hành thiền) và trong các Phẩm Trợ Ðạo (bodhipakkhiya-dhamma)
được gọi là viriyindriya (Tấn Căn). Tinh tấn nầy
được tiêu biểu bằng sự biến dạng tình trạng dã dượi
hôn trầm và sự xuất hiện tình trạng nhiệt thành, hăng
say và cương quyết, trong khi hành thiền. Tâm thỏa thích
mạnh mẽ tập trung vào đề mục. Do đó, nhiệm vụ thiết
lập "Tinh Tấn được Trau Giồi và Phát triển" do
pháp hành thiền cũng giống như nhiệm vụ thiết lập "Ðức
Tin được Trau Giồi và Phát Triển" do pháp hành thiền. Trong các Phẩm Trợ Ðạo (bodhipakkiya-dhamma)
Niệm Căn (satindriya) có nghĩa là vững chắc
thiết lập chú niệm vào thân kàyagatà-sati, Niệm Thân,
tức vào hơi-thở-ra và hơi-thở-vào và trau giồi pháp quán
niệm (Bhàvanà-sati) gọi là Satipatthàna, (Niệm
Xứ), cho đến Chánh Niệm Siêu Thế (lokuttara-sammà-sati),
như là một chi của Ðạo siêu thế. Ðịnh Căn và Tuệ Căn (samàdhindriya
và pannindriya) cũng có
thể được định nghĩa và mô tả cùng một thế ấy.
Ðịnh Căn
loại trừ tình trạng tâm phóng dật khi được áp đặt vào
pháp Niệm Xứ (Satipatthàna), như đề mục Niệm Hơi
Thở. Tuệ Căn loại trừ tình trạng tâm rối loạn và mơ
hồ. Tín Căn, Tấn Căn và Niệm Căn --
đến trước Ðịnh và Tuệ -- cũng như những người hỗ
trợ một vì vua lên ngôi. Tín, Tấn và Niệm hỗ trợ Ðịnh
và Tuệ chí đến tuyệt đỉnh cao. Sau khi đã kiên cố thiết lập pháp
Niệm Thân và vững vàng làm chủ tâm, nếu đi con đường
Vắng Lặng (samatha) thì Ðịnh Căn trở thành tám
tầng Thiền (samàpatti hay jhàna) trong khi Tuệ Căn trở
thành năm Tuệ Giác Cao Thượng (abhinna) [4] như thần
thông, hay Năng Lực Siêu Thế v.v... Nếu đi con đường Minh
Sát (Vipassanà), Ðịnh Căn trở thành tâm Ðịnh Hư Vô
(sunnatà-samàdhi), Ðịnh Vô Ðiều Kiện (animitta-samàdhi)
hay Ðịnh Vô Tác ý (appanihita-samàdhi), trong khi Tuệ Căn
trở thành năm Thanh Tịnh (visuddhi) liên quan đến trí
tuệ [5], Tuệ Giác về ba điều Quán Niệm (anupassanà-nàna)
[6], mười Tuệ Minh Sát (vipassanà-nàna) [7], những
Tuệ Giác liên quan đến bốn Ðạo và bốn Quả và mười
chín Tuệ Ôn Duyệt (paccavekkhana-nàna) [8]. Phần trên đây cho thấy năm chi
của Ngũ Căn đồng phát sanh chung như thế nào. Sự nổi bật của
Ngũ Căn Giờ đây nơi nào mỗi chi của Ngũ
Căn hợp thành yếu tố nổi bật. Kinh điển dạy: Kattha saddhindriyam datthabbam? "Phải tìm Tín Căn ở đâu? Ðiều nầy có nghĩa là Tín Căn
nổi bật trong bốn thành phần của tầng Nhập Lưu. Bốn thành
phần ấy là: 1. Ðức tin không lay chuyển nơi
những phẩm hạnh thánh thiện của Ðức Phật, như Araham,
Sammà-sambuddho ... (Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Chánh Giác
v.v...) 2. Ðức tin không lay chuyển nơi
những phẩm hạnh thánh thiện của Giáo Pháp như Svàkkhàto
... (Ðã khéo giảng dạy và được khẩu truyền y theo Chánh
Pháp v.v...) 3. Ðức tin không lay chuyển nơi
những phẩm hạnh thánh thiện của Tăng Già như Supatipanno
... (Ðức hạnh toàn hảo đã tu hành y theo thánh pháp
v.v...) 4. Trọn vẹn và toàn hảo được
phú cho Nền Tảng (hay nguyên nhân kế cận; padatthàna)
của tâm Ðịnh Siêu Thế (lokuttara-samàdhi), vốn là
"Giới Tịnh" (sìla-visuddhi) Ðó là bốn yếu tố bảo đảm tình
trạng thành tựu Sotàpatti-magga-nàna (Tu-Ðà-Huờn Ðạo
Tuệ, hay tuệ giác liên quan đến Tu-Ðà-Huờn Ðạo), trong
kiếp sống nầy. Trong đoạn văn "Buddhe
aveccappasàdena samannà-gato", danh từ "aveccappasàdo"
có nghĩa "đức tin không lay chuyển". Ðó là đức
tin (saddhà) của những vị đã đạt đến mức Cận
Ðịnh (upacàra-samàdhi) trong khi suy niệm những phẩm
hạnh thánh thiện của Ðức Phật. Upacàra-samàdhi nơi
đây là sự chú tâm vững chắc và không lay chuyển trong khi
suy niệm hồng danh Ðức Phật. Khi có sự chú tâm vững
chắc và không lay chuyển như thế, phải hiểu rằng sự
kiểm soát của Ðức Tin đã nổi bật. Người như thế đã
thành đạt mức độ làm chủ tâm mình trong vấn đề liên
quan đến Ðức Tin nơi những phẩm hạnh thánh thiện của
Ðức Phật. Ðối với những phẩm hạnh thánh thiện của
Pháp Bảo và Tăng Bảo cũng nên hiểu cùng một thế ấy. "Nền Tảng của Tâm Ðịnh Siêu
Thế" có nghĩa "Giới hạnh thường xuyên, chấm
dứt với Chánh Mạng như giới thứ tám" (àjìvatthamaka-niccasìla)
[10], vốn là pháp có thể giúp hành giả đạt đến tâm Ðịnh
Siêu Thế trong kiếp sống hiện tại. Khi giới (sìla)
nầy được giữ gìn trong sạch, không bị vi phạm, và được
nghiêm túc hành trì, ắt không thể có những ô nhiễm của
ái dục (tanhà), ngã mạn (màna) và tà kiến (ditthi),
và trong trường hợp tương tợ ta phải hiểu rằng saddhà
(đức tin) nổi bật nằm trong sìla (giới). Không đủ
khả năng gìn giữ những nhu cầu của sìla (giới)
được gọi là "phạm giới". Mặc dầu trên nguyên
tắc, sìla có thể không bị vi phạm, nhưng nhìn dưới khía
cạnh của những điều kiện trần gian, giới được thấy
là "không trong sạch". Theo thành ngữ "giá trị
của con bò có thể được thẩm định khi nhìn nó kéo xe băng
ngang một dòng sông", hạng người cư sĩ hay những vị
tỳ khưu tự xem mình là Phật tử, chỉ có thể hiểu biết
trong tâm mình còn tiềm ẩn ngủ ngầm tình trạng loạn động
và phóng dật nữa không -- tức mình đã làm chủ cái tâm
chưa -- sau khi xem xét tận tường bốn yếu tố trên. Katha vìriyindriyam datthabbam? "Phải tìm Tấn Căn ở đâu? Hạng người cư sĩ hay những vị
tỳ khưu tự xem mình là những người bước theo dấu chân
của Ðức Phật chỉ có thể hiểu biết tình trạng loạn
động và phóng dật nằm trong hạnh Tinh Tấn (vìriya)
của mình đã bị loại trừ và biến dạng chưa -- tức mình
đã làm chủ cái tâm chưa -- sau khi quan sát cặn kẻ bốn
yếu tố của Tứ Chánh Cần (sammappadhàna). "Hãy để da của ta còn lại,
để gân của ta còn lại, hãy để xương của ta còn lại,
hãy để máu khô cạn, ta sẽ không an tâm ngơi nghỉ cho đến
khi tận diệt quyền lực của Thân Kiến (sakkàyaditthi),
tận diệt quyền lực của các Bất Thiện Pháp (duccaritas),
và những khổ cảnh của vòng luân hồi (apàya-samsàra)
bên trong cá nhân ta, trong kiếp sống nầy." Ðây là ý
chí cương quyết và hạnh chuyên cần tinh tấn nằm trong
Tứ Chánh Cần, không gì khác. Ðây là hạnh tinh tấn giống
như mức tinh tấn của Ngài Ðại Ðức Cakkhupàla. [11] Khi
thấy có ý chí cương quyết và hạnh tinh tấn như vậy ta
phải nhận ra tình trạng nổi bật và kiểm soát tâm của vìriya,
tinh tấn. Trong phạm vi Tinh Tấn (vìriya) trạng thái tâm
loạn động và bất ổn định đã tan biến, không còn
thấy nơi người như thế ấy, và người ấy, trong Giáo
Huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana) đã làm chủ tâm
mình. Kattha satindriyam datthabbam? "Phải tìm Niệm Căn ở đâu? Hàng cư sĩ và những vị tỳ khưu
tự xem mình là những người noi theo dấu chân của Ðức
Phật, chỉ có thể hiểu biết tình trạng loạn động và
bất ổn định trong chú niệm (sati) của mình có tan
biến không, và mình có thật sự làm chủ tâm mình không,
bằng cách thực hành bốn yếu tố của satipatthàna, Tứ
Niệm Xứ. Nếu có thể vững chắc gom tâm vào phần nào
của thân, như hơi-thở-ra và thở-vào chẳng hạn, mình thành
công Niệm Thân (kàyagatàsati) bao lâu cũng được, thì
phải nhận biết rằng mình đã kiểm soát niệm (sati).
Tình trạng loạn động và bất ổn định của người như
thế đã biến tan. Vị ấy đã làm chủ tâm mình. Kattha samàdhindriyam datthabbam? "Phải tìm Ðịnh Căn ở đâu? Nếu trong khi hành thiền samatha
(Vắng Lặng), như niệm hơi-thở-ra thở-vào, ta thành công
tiến đến mức tối thiểu là giai đoạn cận định upacàra
samàdhi bhàvanà, và nếu do đó những Triền Cái (nivaranas,
tức những chướng ngại tinh thần) như Tham Dục (kàmacchanda),
Sân Hận (byàpàda) v.v... mà từ quá khứ xa xôi của vòng
luân hồi (samsàra), liên tục chạy loạn và khuấy động
tâm đã được loại trừ, sự chú tâm vào những đề mục
của thiền Vắng Lặng đã đặc biệt trở thành vững
chắc và tĩnh lặng. Sự kiện nầy phải được nhận thức
là phát sanh từ cơ năng kiểm soát của samàdhi, tâm
Ðịnh. Tình trạng loạn động và bất ổn trong tâm định
đã biến tan, và hành giả là người đã làm chủ tâm mình. Kattha pannindriyam datthabbam? "Phải tìm Tuệ Căn ở đâu? Trong những người đã gặp được
Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana), sự
hiểu biết Tứ Diệu Ðế có giá trị tối quan trọng. Chỉ khi thông suốt Tứ Diệu Ðế
mới có thể tiến đến mức giải thoát ra khỏi quyền
lực của sakkàyaditthi (Thân Kiến), của những duccaritas
(Bất Thiện Pháp) và của apàya samsàra, những cảnh
khổ của vòng luân hồi. Do đó, nhằm thấu đạt ý nghĩa
thâm sâu của Tứ Diệu Ðế phải cố gắng tối thiểu là
minh sát hiểu biết sáu dhàtus (tức sáu nguyên tố căn
bản): pathavi, àpo, tejo, vàyo, àkàsa và vinnàna -- đất,
nước, lửa, gió, không gian và thức, [12] hoặc minh sát
bản chất phù du tạm bợ và bất ổn định -- thấy nó không
thể tồn tại lâu hơn một nháy mắt và không ngừng hoại
diệt. Ta phải minh sát thông suốt những điều nầy bằng
những phương pháp thực hành như học, nhớ, đọc đi đọc
lại, suy gẫm, lắng nghe, thảo luận, tìm hỏi, tu tập
thiền minh sát và quán niệm. Nếu đã minh sát nhận thức rõ
ràng sáu nguyên tố ấy, ắt không cần còn phải đặc
biệt thực hành những pháp gì khác. [13] Nếu có thể
chứng ngộ bản chất anicca (vô thường), tiếp theo
sau bản chất anattà (vô ngã) ắt sẽ được chứng
ngộ một cách tự nhiên. [14] Bản chất dukkha (Khổ) chỉ
có thể được chứng ngộ trọn vẹn khi đạt đến giai đoạn
arahatta phala (A-La-Hán Quả). Như vậy, sau khi chuyên cần tinh
tấn trong một thời gian dài, đến lúc thành đạt sự
hiểu biết minh sát về bản chất của sáu nguyên tố căn
bản ở bên trong và bên ngoài mình -- cả hai nơi -- cũng như
bản chất vô thường của nó, mới có sự kiên cố chú tâm
vào đó. Sự hiểu biết minh sát nầy phải được nhận
thức là đã phát sanh do bản chất kiểm soát nổi bật
của pannà (trí tuệ). Tình trạng không thể tin cậy,
vốn là bản chất thông thường của tâm, từ quá khứ vô
tận trong vòng luân hồi, dần dần tan biến. Nơi đây, "tình trạng không
thể tin cậy của tâm" có nghĩa là nhận thấy thường
còn trong những sự việc vô thường, thấy hạnh phúc trong
đau khổ, thấy thú vị trong sự việc đáng ghê tởm, thấy
cái ta trong vô ngã, thấy những cá nhân trong cái không-cá-nhân,
những chúng sanh trong cái không-chúng-sanh, thấy những con người
trong cái không-con-người, thấy chư thiên, Trời Ðế Thích
và chư Phạm Thiên trong cái không-chư-thiên, không-Trời-Ðế-Thích,
không-Phạm-Thiên, thấy đàn ông, đàn bà, trâu, bò, voi,
ngựa trong cái không-đàn-ông, không-đàn-bà, không-trâu, không-bò,
không-voi, và không-ngựa. Vượt ra khỏi tình trạng "không
thể tin cậy" có nghĩa nhận thức sự thật đúng như
thật sự nó là vậy, sau khi đã làm chủ tâm mình trong Giáo
Huấn của một vị Phật. Nếu dukkha-sacca, Khổ Ðế,
hay Chân Lý Thâm Diệu về sự Khổ, được nhận thức rõ ràng,
tiếp theo sau, ba Chân Lý kia cũng sẽ được nhận thức rõ
ràng theo dòng diễn tiến của nó. Trong sự nhận thức bốn
Chân Lý, phương cách mà người thế gian (puthujjana)
hiểu biết được gọi là "hiểu biết trên lý
thuyết" (anubodha). Phương cách hiểu biết của
hạng Thánh Nhân (ariya, tức như những vị Tu-Ðà-Huờn
v.v...) được gọi là "hiểu biết xuyên thấu" (pativedha,
tức hiểu biết một cách rõ ràng, thâm sâu và sắc bén).
"Hiểu biết trên lý thuyết" cũng giống như nhìn
thấy ánh sáng trong đêm tối, thấy sáng nhưng không thấy
ngọn lửa, nguồn gốc mà từ đó ánh sáng khởi phát. Mặc
dầu không thể trực tiếp nhận thấy ngọn lửa, nhưng
chỉ thấy ánh sáng ta cũng có thể biết chắc chắn rằng có
một ngọn lửa. Trực tiếp nhận thấy ngọn lửa như pativedha,
"hiểu biết xuyên thấu". Saddhindriyam bhàveti, Vìriyindriyam
bhàveti, Satindriyam bhàveti, Samàdhindriyam bhàveti, Pannindriyam
bhàveti." [15] Câu Pàli trên do Ðức Phật dạy,
có nghĩa là Ngũ Căn phải được thực hành và phát triển
nhằm làm dễ dàng công trình hành thiền samatha và vipassanà
(Vắng Lặng và Minh Sát). Người không trau giồi và phát
triển năm khả năng indriyas, Ngũ Căn, nầy cũng giống như
một quốc gia không có người cai trị, như một vương
quốc không có vua. Giống như một khu rừng núi hoang vu trong
đó những giống thổ dân sinh sống ô tạp, không người lãnh
đạo, quản lý. Trong một quốc gia như vậy không có luật
pháp. Dân chúng trong đó sống buông lung hỗn tạp không có
gì kềm chế. Giống như loài thú, kẻ yếu làm mồi cho người
mạnh. Cùng một thế ấy, tâm của người không trau giồi
Ngũ Căn cũng phóng túng và chạy loạn với những ô nhiễm
như vậy. Y hệt người bị ma quỷ nhập không chịu nổi âm
thanh của lời kinh như "iti' piso" hay "hetu
paccayo", khi người mà không trau giồi Ngũ Căn nghe
những câu chuyện liên quan đến nhân duyên đưa đến hạnh
phúc (paccaya santosa) hoặc đề cập đến pháp hành
trau giồi tâm linh (bhàvanà-rambha) thì nhanh chóng tìm
ra lý lẽ để chê bai, chỉ trích, và phản đối. Bên trong
những người như thế ấy không bao giờ có ý muốn hành
thiền, Vắng Lặng hay Minh Sát, phát sanh. Ðàng khác, người có phát triển
Ngũ Căn giống như một quốc gia có vị quốc vương công
minh chánh trực lãnh đạo. Giống như thị thành hay làng xóm
nằm ngay nơi có chánh phủ trung ương. Người như thế ấy
không bị những lý thuyết khác nhau làm tâm trí rối loạn.
Người ấy kiên cố vững chắc trong đường lối duy nhất
của Giáo Pháp. Khi nghe bàn thảo về nguyên nhân đưa đến
hạnh tri túc, hoặc về pháp hành để mở mang tinh thần thì
tâm trở nên mát mẻ và sáng tỏ. Người ấy vững vàng
trong ý muốn thực hành thiền Vắng Lặng (samatha) và
Minh Sát (vipassanà). Như vậy, trong thế gian nầy hai
loại ý muốn phát sanh, không phải vì bản chất của
những chúng sanh hay những cá nhân, mà tùy thuộc nơi mức
độ phát triển Ngũ Căn (indriyas) của những vị ấy.
Nếu không phát triển Ngũ Căn (indriyas) ắt có một
loại ý muốn phát sanh. Nếu có phát triển Ngũ Căn (indriyas)
ý muốn đó tan biến và loại ý muốn mới chắc chắn sanh
khởi. Ngũ Căn càng được phát triển mạnh mẽ, loại ý
muốn mới càng tăng trưởng và càng trở nên dũng mãnh. Khi
tất cả năm indriyas kiên cố vững chắc, ý muốn thành đạt
Ðạo và Quả liền phát khởi. Như vậy ta nên phát triển
Ngũ Căn để vượt lên, từ mức độ Thông Thường (pakati-saddhà
v.v...) đến mức độ Phát Triển (bhàvanà-saddhà
v.v...) do pháp hành thiền. Ghi chú: [1] Về Ngũ Căn xem "The Way of
Wisdom" do tác giả Edward Conze (The Wheel số 65/66) [2] "Tập tành" hành
thiền. Trong bản dịch tiếng Anh đầu tiên, dịch giả dùng
danh từ "imitation meditation", hàm ý như bắt chước,
giả bộ hành thiền. Vị chủ biên (Ngài Nyanaponika Maha
Thera) cảm thấy rằng danh từ nầy phần nào làm giảm giá
trị của công trình bắt đầu hành thiền, và đó chắc không
phải là nguyên ý của tác giả. Theo ý Ngài đây là bắt đầu
tập hành thiền (rudimentary meditation). Bởi vì đây là bước
đầu, hành giả mới khởi công suy niệm chớ không đi sâu
vào pháp hành. Do đó theo ý nghĩa của đoạn văn, đây là
một trong ba phương cách tạo phước (punna-kiriya-vatthu).
Dầu sao pháp hành nầy có thể đem lại nhiều lợi ích và
rất có thể dẫn đến tâm định và pháp hành thích nghi.
(người dịch) [3] Sắc thái saddhà (Ðức
Tin) đặc biệt biểu hiện nơi đây là lòng tín nhiệm. Tín
nhiệm nơi phương pháp thực hành (và tín nhiệm nơi Giáo Pháp
nói chung) và lòng tự tin. (Chủ Biên) [4] Năm Tuệ Giác Cao Thượng (abhinna)
là: 1. Iddhividha, Thần Thông, 2. Dibba-sota, Thiên
Nhĩ (nhĩ thông), 3. Parassa cetopariya-nàna, Tha Tâm Thông
(tuệ giác biết được tâm của người khác), 4. Pubbe-nivàsànussati,
Túc Mạng Thông (tuệ giác nhớ lại những kiếp sống quá
khứ), 5. Dibba-cakkhu, Thiên Nhãn (nhãn thông). [5] Năm Thanh Tịnh liên quan đến
tuệ: Kiến Tịnh (Ditthi-visuddhi), Ðoạn Nghi Tịnh (Kankhàvitarana-visuddhi),
Ðạo Phi Ðạo Tri Kiến Tịnh (Maggàmagganànadassana-visuddhi),
Ðạo Tri Kiến Tịnh (Patipadànàna-dassana-visuddhi), và
Tri Kiến Tịnh (Nànadassana-visuddhi). [6] Ðó là Quán Niệm về Vô Thường,
Khổ và Vô Ngã. [7] Ðó là Tuệ Thấu Ðạt (sammasana-nàna)
và chín Tuệ Minh Sát được đề cập đến trong Chương XXI
sách "The Path of Purification" (Thanh Tịnh Ðạo). [8] Mười chín Tuệ Giác nầy được
liệt kê trong "The Path of Purification" (Thanh Tịnh Ðạo),
Chương XXII. [9] Sotàpannassa angàni; Xem Indriya
Samyutta, Sutta 8, Datthabba-sutta.
[10] Xem chú thích trong chương II. [11] Xem Dhammapada Commentary, tích
chuyện liên quan đến câu 1. [12] Sáu nguyên tố căn bản là:
1. Nguyên tố Ðất, có đặc tính chiếm không gian, 2. Nguyên
tố Nước có đặc tính làm dính liền, 3. Nguyên tố Lửa,
có đặc tính làm đổi thay, 4. Nguyên tố Gió, có đặc tính
di chuyển, hay nâng đỡ, 5. Nguyên tố Không Gian. 6. Nguyên
tố Thức. Về pháp hành thiền niệm bốn nguyên tố đầu,
xem Magga Dìpani, của tác giả Ngài Ledi Sayadaw, phần "How
to establish the Wisdom Group". [13] Những pháp khác, như phân
hạng các Uẩn (khandha) hay lục căn (àyatana). [14] Xem Udàna, Meghiya Vagga Suttà:
"Nơi người đã nhận thức bản chất vô thường, tri
giác về bản chất Vô Ngã tự nhiên phát sanh. Và người đã
nhận thức Vô Ngã, tánh ngã mạn, chấp thủ "Tôi Là",
sẽ bị loại trừ và chứng đắc Niết Bàn ngay trong kiếp
sống nầy." [15] Samyutta Nikàya, Mahà Vagga,
Indriya Samyutta, Vagga 6, Sutta 8. -ooOoo- Ðầu
trang | 00
| 01 | 02 | 03
| 04 | 05 | 06 | 07
| 08 | 09 | 10 Chân thành cám ơn Bác
Phạm Kim Khánh đã gửi tặng bản điện tử (Bình Anson, 05-2002) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Một Toát Yếu Về Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Sự Giác Ngộ
Phạm Kim Khánh dịch
(Indriya)
2. Viriyindriya(Tấn Căn)
3. Satindriya (Niệm Căn)
4. Samàdhindriya (Ðịnh Căn)
5. Pannidriya(Tuệ Căn)
2. Bhàvanà-saddhà, Ðức Tin được Tu Tập (tức được
trau giồi hay thuần thục hóa) do pháp hành thiền.
2. Bhàvanà-viriya, Tinh Tấn được Trau Giồi bằng pháp
hành thiền.
2. Cetasika-viriya, tâm tinh tấn.
Catùsu sotàpattiyangesu ettha saddhindriyam datthab-bam.
Ta phải tìm nó trong bốn thành phần của tầng Nhập Lưu."
[9]
Càtusu sammappadhànesu ettha vìriyindriyam datthabbam.
Ta phải tìm nó trong "Tứ Chánh Cần", bốn thành
phần của Tinh Tấn (sammappadhàna)."
Catùsu satipatthànesu ettha satindriyam datthabbam.
Ta phải tìm nó trong Tứ Niệm Xứ (satipatthàna, tức Nền
Tảng của tâm Niệm)."
Catùsu jhànesu ettha samàdhindriyam datthabbam.
Ta phải tìm nó trong Tứ Thiền, tức bốn tầng Thiền (jhàna)
dục giới."
Catùsu ariyasaccesu ettha pannindriyam datthabbam.
Ta phải tìm nó trong Tứ Diệu Ðế."
Bản dịch Anh ngữ
updated: 11-05-2002