BuddhaSasana Home Page 37 PHẨM
TRỢ ĐẠO
Ngài Hoà Thượng
LEDI SAYADAW CHƯƠNG
III Tứ
chánh cần Danh từ sammappadhàna
được định nghĩa như sau: Bhusam dahati vahatì'ti padhànam
sammadeva padhànam sammappadhànam. Có nghĩa: padhàna là tận lực
chuyên cần tinh tấn, mạnh mẽ cố gắng; nếu chuyên cần một
cách thích đáng và chân chánh thì đó là sammappadhàna,
Chánh Cần, hay Chánh Tinh Tấn. Ðó là quyết tâm, tận lực
chuyên cần tinh tấn, một sự cố gắng không mảy may hàm
ý gượng gạo, cũng được gọi là "nhiệt thành tinh tấn"
(àtàpa-vìriya). Ðó là một cố gắng có bốn đặc tính
được nêu lên trong đoạn văn sau đây: Kàmam taco ca nahàru ca atthi ca
avasissatu, sarìre upasussatu mamsalohitam; yam tam purisathàmena
purisavìriyena purisaparakkamena pattabbam, na tam apàpunitvà
viriyassa santhànam bhavissati. "Hãy để cho da, gân và xương,
thịt còn lại, máu trong thân tôi khô cạn dần, tôi sẽ
không chấm dứt chuyên cần tinh tấn cho đến khi thành đạt
những gì mà khả năng của con người, tánh chuyên cần của
con người, và sự cố gắng của con người, có thể thành
đạt." (Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A-Hàm, Duka
Nipàta; Wheel 155/158, tr.9). Những đặc tính nầy có thể được tóm gọn như sau: 1. Hãy để cho da còn lại, Ðây là loại tinh tấn cần phải
có sự quyết tâm dũng mãnh, "Nếu đây là mục tiêu mà
con người có thể đạt đến, ta sẽ không dể duôi ngừng
nghỉ hay hững hờ buông lơi cho đến khi viên mãn thành tựu,
ta quyết tâm phải vượt tới cho bằng được và vững chắc
nắm lấy mục tiêu ấy." Ðó là loại tinh tấn mà Ðại
Ðức Sona [1] và Ðại Ðức Cakkhupàla [2] đã tận lực gia
công. Khi đã chuyên cần tinh tấn trọn
cuộc đời như Ðức Phật đã chỉ dạy mà không đạt được
các tầng Thiền hay các Ðạo, các Quả, chỉ đến chừng đó
mới có thể nói rằng nguyên nhân của tình trạng không
thành công nầy là do thiếu sót điều kiện trong kiếp sống
hiện tại, vì được sanh ra với chỉ có hai nhân thiện (dvi-hetuka),
hay vì trong quá khứ ta tích trữ không đủ ba-la-mật (pàrami). Có vài người không chịu khó
tinh cần đúng mức như Ðức Phật chỉ dạy, cũng không cố
gắng hành pháp Niệm Thân để chữa trị cái tâm tán loạn
hoang dại của mình mà vẫn đổ lỗi là tại có những thời
kỳ mà không ai có thể chứng đắc tầng Thiền (Jhàna)
nào hay Ðạo (magga) và Quả (phala) gì. Có những
vị khác cũng thuộc về hạng những người nầy nói rằng
con người, nam hay nữ, trong thời hiện tại nầy không có
tích trữ đầy đủ ba-la-mật cần thiết để có thể đắc
Ðạo và Quả. Lại có người khác nữa, cũng thuộc hạng
người trên, chủ trương rằng trong thời nầy con người chỉ
được sanh ra với hai nhân thiện (dvi-hetuka). Tất cả
những người ấy nói như vậy bởi vì họ không biết rằng
có những thời kỳ mà chúng sanh trong hạng Neyya [3]
không thể thành đạt Ðạo và Quả nếu không tinh tấn
chuyên cần đúng mức, chánh cần (sammappadhàna). Nếu chuyên cần tinh tấn thích
nghi (sammap-padhàna), nhiệt thành quyết chí (pahitatta)
đúng mức, nơi nào có một ngàn người quyết tâm gia công
như vậy, có thể có ba, bốn, hay năm trăm người đủ khả
năng thành tựu những mức độ cao siêu; nếu có một trăm
người tinh tấn như vậy có thể có ba mươi, bốn mươi,
hay năm mươi vị đủ khả năng thành tựu. Nơi đây, "sự
quyết tâm" (pahitatta) có nghĩa là "dũng mãnh
quyết định gia công chuyên cần tinh tấn trọn đời, chí
đến khi chết, trong giây phút cuối cùng vẫn tận lực cố
gắng." Ðại Ðức Sona quyết định không
ngủ, thức suốt ba tháng mùa mưa (vassa), chỉ đi và
ngồi. Mức tinh tấn của Ngài Cakkhupàla cũng dường thế
ấy. Ðại Ðức Phussadeva [4] chỉ đắc Ðạo và Quả sau hai
mươi lăm năm tinh tấn ở mức độ ấy. Trường hợp của
Ngài Ðại Ðức Mahàsiva [5], mức tinh tấn như vậy kéo dài
ba mươi năm. Ngày nay chúng ta rất cần phải
có những mức độ tinh tấn (sammappadhàna, chánh cần)
như thế ấy. Có những vị gia công chuyên cần tinh tấn đúng
mức nhưng không có đủ pariyatti (pháp học, hay Sức Học
Giáo Lý) để làm nền tảng vững chắc cho pháp hành, trong
khi ấy những vị khác có nền tảng pariyatti (Sức Học
Giáo Lý) vững chắc, nhưng lại phải vấn vương trong những
công tác Phật sự của vị tỳ khưu có tánh cách gây palibodhas
(trở ngại), như thảo luận Giáo Pháp, thuyết giảng giáo
lý, viết sách về Giáo Pháp v.v... Ðó là những vị không
thể tận lực gia công chuyên cần (sammappadhàna, chánh
cần) suốt một thời gian lâu dài không gián đoạn. Vài người có thói quen nói rằng
đến chừng nào các ba-la-mật (pàramis) của mình đủ
chín mùi, thời gian sẽ trở nên thuận tiện và chừng ấy
họ sẽ đủ thuần thục để giải thoát ra khỏi mọi khổ
đau của thế gian. Ðến lúc ấy họ sẽ dễ dàng thành đạt
giải thoát, hiện giờ họ không tận lực gia công vì không
biết chắc công trình khổ nhọc ấy có đưa đến thành quả
tốt đẹp không. Hình như các vị ấy không so sánh những
khổ đau mà họ phải chịu trong thời gian ba mươi năm chuyên
cần tinh tấn với những hoàn cảnh bất hạnh vô cùng kham
khổ mà họ sẽ phải gặp, nếu trong khoảng thời gian chờ
đợi cho đến ngày giải thoát họ phải sa đọa vào cảnh
địa ngục cả trăm ngàn năm. Có vẻ như các vị ấy không
nhớ rằng những khổ nhọc mà họ phải chịu trong ba mươi
năm chuyên cần tinh tấn không đến đổi cùng cực khổ
đau như chỉ ba tiếng đồng hồ trong cảnh địa ngục. Những vị ấy có thể nói rằng
nếu họ không giải thoát thì hoàn cảnh vẫn như thế nầy
sau ba mươi năm chuyên cần tinh tấn. Nhưng nếu người đủ
thuần thục chín mùi để giải thoát thì công phu chuyên cần
ấy sẽ giúp họ thành đạt giải thoát. Nếu không đủ thuần
thục chín mùi, họ sẽ thành tựu giải thoát trong kiếp sống
tới kế đó. Dầu không thể giải thoát trong thời kỳ có
Giáo Huấn của vị Phật (Buddha Sàsana) hiện tiền,
nghiệp lành của công trình liên tục tinh tấn trau giồi
tâm trí (bhàvanà àcinna kamma) là một nghiệp lực dũng
mãnh. Nhờ cái nghiệp có năng lực hùng mạnh ấy họ có thể
tránh xa những khổ cảnh (apàya), và gặp vị Phật tương
lai kế sau đây, sau chuỗi dài những kiếp sống trong những
cảnh giới hữu phúc (sugati). Trong trường hợp những
vị không gia công chuyên cần tinh tấn, họ sẽ mất cơ hội
dù đã đủ thuần thục chín mùi để thành tựu giải
thoát sau ba mươi năm tinh tấn. Vì thiếu chánh cần những vị
nầy không thành đạt được gì, và để mất tất cả. Do
vậy, tất cả chúng ta hãy mở rộng "Cặp Mắt Trí Tuệ",
và để ý coi chừng hiểm họa. Có bốn loại sammappadhàna
[6], chánh cần, là: 1. Uppannànam akusalànam dhammànam
pahànàya vàyàmo, 1. Tinh tấn chế phục hoặc loại
trừ những hành động bất thiện đã khởi sanh, hoặc
đang trên đà phát sanh; Các Hành Ðộng (nghiệp) Bất Thiện
Ðã và Chưa Phát Sanh (Uppanna và Anuppanna Akusala Kamma) Bên trong cá tính của mỗi chúng
sanh còn thênh thang trong vòng luân hồi (samsàra) có hai
loại nghiệp bất thiện (hành động có tác ý bất thiện),
đó là: 1. Uppanna akusala kamma, và Uppanna akusala kamma (những
hành động bất thiện đã phát sanh) có nghĩa là những nghiệp
bất thiện đã tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Các
nghiệp nầy bao gồm những hành động bất thiện có tác
ý, bằng thân, khẩu, ý, mà mình đã làm trong chuỗi dài vô
tận những chu kỳ thế gian và trong những kiếp sống quá
khứ. Trong những akusala kammas (nghiệp bất thiện) ấy
có vài nghiệp đã trổ quả đưa đến tái sanh vào những apàya-lokas
(khổ cảnh, bốn cảnh giới thấp kém và khốn khổ của những
kiếp sống). Những nghiệp khác đang chờ đợi để đúng
lúc trổ quả đưa tái sanh vào những khổ cảnh (apàya-lokas),
và như vậy còn chứa đựng những tiềm năng dính liền với
chúng sanh từ chu kỳ thế gian nầy đến chu kỳ khác, từ
kiếp sống nầy đến kiếp khác, để đưa đến tái sanh
vào các cảnh khổ [7].
Tất cả những ai còn mang nặng sakkàya-ditthi
(Thân Kiến), dầu là người, chư Thiên, hay chư Phạm Thiên,
đều có tích trữ một kho tàng rộng lớn những món nợ cũ,
bao gồm akusala kammas (nghiệp bất thiện). Chính những
nghiệp bất thiện nầy tự nó có tiềm năng đưa đến tái
sanh vào cảnh Avìci, a-tỳ địa ngục, thấp nhất. Cùng
thế ấy, có vô số kho tàng tích trữ những nghiệp khác
có thể trổ quả đưa đến tái sanh vào những apàya-lokas
(khổ cảnh) khác. Các nghiệp quá khứ ấy chờ một cơ hội
thuận tiện để trổ quả đưa đến tái sanh và sẽ theo
dính liền chúng sanh từ kiếp nầy sang kiếp khác cho đến
khi khô cạn tiềm lực, được gọi là uppanna (đã
phát sanh). Những nghiệp bất thiện đã
phát sanh (uppanna akusala kammas) ấy bắt nguồn từ sakkàya-ditthi
(Thân Kiến, lầm lạc chấp thủ ý niệm rằng cơ thể vật
chất nầy là chính mình). Ngày nào còn chấp thủ Thân Kiến
thì còn tạo nghiệp mới. Nhưng đến khi tuệ minh sát rọi
sáng vào anattà-lakkhàna (đặc tướng vô ngã) thì sakkàya-ditthi,
Thân Kiến sai lầm ấy đương nhiên chính nó tự loại trừ.
Ðến chừng ấy tất cả uppanna akusala kammas, nghiệp bất
thiện đã phát sanh, mất dần tiềm năng và biến tan trong
kho tàng của những akusala kammas, nghiệp bất thiện. Kể
từ kiếp sống ấy trở đi ta sẽ không còn phải tái sanh
vào những khổ cảnh, apàya-lokas, dầu chỉ là trong giấc
mộng. Anuppanna akusala kammas
(những nghiệp bất thiện chưa phát sanh) có nghĩa là những
akusala kamma, nghiệp bất thiện, trong tương lai. Trong
kiếp sống nầy, bắt đầu từ khoảnh khắc kế tiếp trong
đời sống hiện tại, tất cả những nghiệp bất thiện mới
của ta mỗi khi phát sanh, bất luận lúc nào trong kiếp hiện
tiền và trong chuỗi dài những kiếp sau đó, được gọi là
anuppanna, chưa phát sanh. Những akusala duccarita kammas
(nghiệp ác và không trong sạch) mà ta có thể sẽ tạo, dầu
chỉ trong một kiếp sống, có thể nhiều vô số kể. Tất cả những anuppanna akusala
kammas, nghiệp bất thiện chưa tạo ấy bắt nguồn từ
Thân Kiến (sakàya-ditthi). Nếu Thân Kiến ấy chấm dứt, tất
cả những nghiệp bất thiện chưa phát sanh cũng tan biến
ngay trong khoảnh khắc ấy, không để lại dấu vết. Nơi đây
danh từ "tan biến" có nghĩa là kể từ giờ phút nầy,
trong những khoảnh khắc tương lai, trong chuỗi dài những kiếp
sống tương lai, và trong chuỗi dài những chu-kỳ-thế-gian tương
lai, không còn cơ hội nào để có thể tái phạm những akusala
kammas, nghiệp bất thiện mới. Xuyên qua trọn cuộc sống
tương lai trong anamatagga samsàra (vòng quanh những kiếp
sống vô cùng tận), những chúng sanh ấy sẽ không còn vi phạm,
dầu trong giấc mộng, bất luận bất thiện nghiệp nào như
sát sanh, pànàtipàta. Nếu còn chấp thủ Thân Kiến, dầu
chúng sanh ấy là một vị Ðại Ðế thống trị toàn thể vũ
trụ, cũng sẽ còn bị kẹp ở giữa, trước là lửa địa
ngục, và sau là lửa địa ngục. Hai ngọn lửa akusala
kammas của uppanna và anuppanna (nghiệp bất thiện
đã phát sanh và nghiệp bất thiện chưa phát sanh) chằn chịt
bao vây, không thể tới, mà lui cũng không được. Vị ấy
chỉ thuần túy là một tạo vật của lửa địa ngục. Cùng
thế ấy, vị vua của những cảnh trời (deva-lokas), Sakka,
vua của cảnh trời Ðạo Lợi, Tàvatimsa-deva-loka, tức
Tam Thập Tam Thiên, chư Phạm Thiên ở những cảnh Phạm
Thiên Sắc Giới và Vô Sắc Giới, tất cả cũng đều chỉ
là tạo vật của lửa địa ngục. Tất cả đều là những
tạo vật cố bám lấy những xiềng xích của địa ngục và
những khổ cảnh. Trong cái xoay tròn rộng lớn của vòng
luân hồi (samsàra) tất cả chỉ thuần túy là những
tạo vật lăn trôi và lặn hụp trong dòng nước lũ của những
kiếp sinh tồn. Trong vòng luân hồi dài dẳng vô
cùng tận, chúng sanh ham muốn được gặp Giáo Huấn của một
vị Phật, điều ấy cực kỳ khó thành tựu. Chúng sanh bị hai ngọn lửa-địa-ngục
uppanna và anuppanna akusala kammas -- những nghiệp bất
thiện đã phát sanh và những nghiệp bất thiện chưa phát
sanh -- ngăn trước chận sau, tấn thối lưỡng nan, phải tận
lực gia công, và thành tâm nghiêm trọng trau giồi ý nguyện
dập tắt hẳn hai ngọn lửa ấy. Từ đây về sau, những ai
đã gặp được Giáo Huấn của Ðức Phật (Buddha Sàsana)
phải xem sự dập tắt hai ngọn lửa-địa-ngục đã và chưa
phát sanh ấy là công trình tối quan trọng, tối cần thiết,
nhiệm vụ duy nhất, để thành đạt trạng thái an lành
trong tương lai. Công trình dập tắt nghiệp bất
thiện của những hành động đã và chưa phát sanh (akusala
kammas of uppanna and anuppanna) là loạị trừ Thân Kiến (sakkàya-ditthi)
bên trong chính mình, không có gì khác. Nếu ta có thể nhổ tận gốc rễ
sakkàya ditthi, Thân Kiến, hai nghiệp bất thiện (akusala
kammas) đều trọn vẹn tắt hẳn. "Bon-sin-san" Sotàpannas
[8], như bà Visàkhà và Trưởng Giả Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc),
đã vô số lần được sanh trong cảnh người, cảnh trời (deva)
và cảnh Phạm Thiên (brahmas), là những vị đã thành
đạt giải thoát ra khỏi trạng thái lặn hụp lăn trôi
trong đại trùng dương của vòng luân hồi (samsàra) từ
khi đã tận diệt Thân Kiến (sakàya-ditthi). Có những
chúng sanh đã thành tựu Niết Bàn lần đầu tiên được gọi
là sa-upadisesa nibbàna, Hữu Dư Niết Bàn [9]. Mặc dầu
còn phải thênh thang trong vòng sanh-tử tử-sanh nhiều lần
và nhiều chu kỳ thế gian, các Ngài không còn là một chúng
sanh tại thế (phàm tục). Ðã trở thành bậc Thánh "Bon-sin-san",
Ngài đã là chúng sanh Siêu Thế (lokuttara). Ðến đây chấm dứt phần giải
thích hai danh từ uppanna và anuppanna akusala kamma, nghiệp bất
thiện đã phát sanh và nghiệp bất thiện chưa phát sanh. Nghiệp Thiện Ðã Phát Sanh Và Chưa
Phát Sanh (Uppanna and Anuppanna Kusala Kamma) Giờ đây Sư sẽ chỉ rõ cách
phân chia những thiện nghiệp (kusala kammas) đã phát
sanh và chưa phát sanh (uppanna và anuppanna), làm hai phân
hạng. Trước tiên, liên quan đến ba phẩm hạnh sìla (Giới),
samàdhi (Ðịnh), pannà (Tuệ) và sau đó liên quan
đến satta visuddhi (bảy giai đoạn Thanh Tịnh) - Xem phần
Nhập Ðề. Tà Kiến (ditthi) Khi nói rằng Samsàra, Vòng
Luân Hồi, thật vô cùng khủng khiếp, đó là vì những
Hành Ðộng Bất Thiện (duccarita), đã phát sanh (uppanna,
trong quá khứ và trong hiện tại) và những hành động chưa
phát sanh (anuppanna, tức có tiềm năng sẽ phát sanh
trong tương lai) đều bắt nguồn từ Tà Kiến (ditthi).
Khi nói rằng không có nơi nào để lẫn trốn, không có cảnh
trời nào để nương tựa, cũng là vì những Hành Ðộng Bất
Thiện và những Tà Kiến. Khi đã dập tắt Tà Kiến thì cả
hai, những Hành Ðộng Bất Thiện (duccarita) mới và cũ
cũng đều bị dập tắt cùng lúc. Dập tắt những nghiệp bất
thiện cũ và mới tức là đóng chặt cánh cửa mở vào những
khổ cảnh (apàya, xem chú thích 1, trang 154). Chỉ còn
tái sanh vào những cảnh người, trời và Phạm Thiên. Bởi
vì chúng sanh phải phát triển lòng ham muốn gặp Giáo Huấn
của một vị Phật (Buddha Sàsana) để chắc chắn khỏi
rơi vào khổ cảnh, cùng với những nghiệp bất thiện cũ và
mới, giờ đây đã có duyên may gặp Phật Giáo trong chính
kiếp sống hiện tại ta phải cố gắng chuyên cần dập tắt
cái nghiệp bất thiện vô cùng quan trọng là Tà Kiến. Tà
Kiến có ba tầng lớp kiên cố nằm bên trong chúng sanh, đó
là: 1) Vìtikkama, lớp "Vượt
Ra Ngoài", (tâm bộc lộ, biểu hiện ra ngoài bằng
hành động hay lời nói, thân hay khẩu), 2) Pariyutthàna, lớp
"Quấy Nhiễu", (tâm bị những tư tưởng bất thiện,
những trạng thái tinh thần liên quan đến ô nhiễm, kilesa,
làm rối loạn), 3) Anusaya, lớp "Khuynh
Hướng Tâm Tánh Ngủ Ngầm", hay bản tánh bất thiện
của những ô nhiễm [10] tiềm ẩn ngấm ngầm trong tâm. Những lớp ấy là phạm vi sinh hoạt,
nơi an trú của Thân Kiến (Sakkàya-ditthi). Có thể gọi
ba tầng lớp ấy của Tà Kiến là thô thiển, trung bình, và
tế nhị. Giờ đây Sư (Ngài Ledi Sayadaw) sẽ
thảo luận về hậu quả của Tà Kiến, mười hành động bất
thiện (ducarita: xem chú thích ở Chương II), bên trong
những tầng lớp của Tà Kiến. Tầng lớp thô thiển của Tà Kiến,
"Vượt Ra Ngoài" (vìtikkama), bao gồm những
hành động tạo nghiệp bất thiện (akusala kamma), biểu
lộ ra hành động bằng thân và khẩu. Tầng lớp trung bình,
"Quấy Nhiễu" (pariyutthàna), bao gồm những ác
pháp phát sanh dưới hình thức tư tưởng trong tâm. Tầng lớp
tế nhị nhất, "Khuynh Hướng Tâm Tánh Ngủ Ngầm" (anusaya)
là những ác pháp tiềm tàng ngủ ngầm bên trong cá tính của
chúng sanh xuyên qua suốt những kiếp sanh-tử, tử-sanh của
vòng luân hồi vô tận (anamatagga-samsàra), mặc dầu
là chưa phát hiện ra ngoài bằng hành động, lời nói, hay tư
tưởng. Ta có thể nói đó là ba loại lửa
trong hộp diêm quẹt. Ðầu tiên là ngọn lửa tiềm tàng ngủ
ngầm trong toàn thể hộp diêm. Thứ nhì là ngọn lửa phát
hiện khi ta quẹt cây diêm trên cái hộp. Thứ ba là ngọn lửa
từ cây quẹt chuyển sang một vật khác khi ta đưa ngọn lửa
tiếp xúc với vật ấy. Ngọn lửa như vậy có thể đốt
cháy một đống rác, quần áo, nhà cửa, chùa chiền hay
làng xóm. Ngọn lửa ấy, từ vật nầy chuyển
sang vật khác giống như loại Tà Kiến thô thiển (vìtikkama
ditthi), vượt ra ngoài, biểu hiện dưới hình thức hành
động bằng thân hay khẩu. Ngọn lửa đốt cháy cây quẹt
giống như Tà Kiến loại trung bình, pariyutthàna ditthi,
phát hiện trong tâm mỗi khi tâm tiếp xúc với một đối
tượng. Lửa ngủ ngầm trong hộp quẹt giống như anusaya
ditthi, khuynh hướng tà kiến ngủ ngầm, tiềm tàng nằm
trong cá tính của chúng sanh xuyên qua chuỗi dài những kiếp
sống trong vòng luân hồi vô cùng tận, anamatagga samsàra. Lửa ngủ ngầm trong hộp diêm
không bật phát lên cháy nếu ta không quẹt đầu cây diêm
lên trên mặt nhạy cháy của hộp diêm. Trong trường hợp nầy,
nó không gây tai hại nào dầu ta để chung với những vật
dễ cháy như dầu lửa hay thuốc súng chẳng hạn. Cùng thế
ấy anusaya ditthi, tức khuynh hướng tà kiến ngủ ngầm
bên trong luồng nghiệp, không tự biểu hiện nếu không tiếp
xúc với những đối tượng bất thiện của tâm hoặc bất
thiện pháp nào khác. Tuy nhiên, khi những đối tượng bất
thiện của tâm hoặc những nguyên nhân khác tiếp xúc với
lục căn, anusaya ditthi, khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm
liên quan đến tà kiến bị khuấy động, bắt đầu tự biểu
hiện ở ý căn, hoặc ở từng lớp pariyutthàna (Quấy
Nhiễu) do năng lực của tác ý. Sự biểu hiện nầy có thể
bị đè nén nếu vào lúc ấy có giáo lý tốt đẹp phát
sanh kịp thời, nó sẽ tan biến ở tầng lớp pariyutthàna,
Quấy Nhiễu, và trở lại tầng lớp anusaya, ngủ ngầm,
ở đó như khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm thiên nhiên. Nếu
ta không thể đè nén, nó sẽ tiếp tục tự biểu hiện dưới
hình thức tác ý. Nếu, trong tầng lớp pariyutthàna, Quấy
Nhiễu, mà còn bị khuấy động nó sẽ tự biểu hiện trong
tầng lớp vìtikkama (Vượt Ra ngoài), dưới hình thức
lời nói hay việc làm, tức tạo khẩu nghiệp hay thân nghiệp. Trên thế gian nầy, nếu người
kia có thể tự kiểm soát mình trong tầng lớp vìtikkama
và pariyutthàna (Vượt Ra Ngoài và Quấy Nhiễu) và do đó
những việc làm, lời nói và tư tưởng tương đối trong sạch,
không bị nhiễm ô, người ấy được xem là người tốt, có
tâm đạo nhiệt thành, con người đạo đức. Nhưng vị ấy chưa hay biết để
canh chừng anusaya, lớp khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm.
Nếu chưa loại trừ lớp khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm,
dầu có kiểm soát chặt chẽ hai lớp vìtikkama và pariyutthàna
(Vượt Ra Ngoài và Quấy Nhiễu), tình trạng kiểm soát nầy
chỉ có tánh cách tạm bợ nhứt thời. Nếu người kia dũng
mãnh hành trì các nguyên tắc đạo đức tốt đẹp, sự kiểm
soát nầy chỉ kéo dài đến suốt kiếp sống. Nhưng không
có gì bảo đảm cho kiếp sống sắp đến sau, khi hai tầng
lớp kia có thể trổi dậy. Lobha (Tham),
dosa (Sân), và mohà (Si), mỗi tật xấu cũng có
ba tầng lớp.
Nhằm tận diệt ba lớp Tà Kiến
(ditthi) nầy, ta phải chuyên cần tinh tấn thực hành
ba Pháp Tu Học (sikkhàs): Giới (sìla), Ðịnh (samàdhi),
và Tuệ (pannà). Phải thực hành bảy Thanh Tịnh (visuddhis). Ðối với người tại gia cư sĩ,
sìla (Giới) có nghĩa là Ajìvatthamaka-sìla [11], vốn
là nicca-sìla, giới hành trì thường xuyên. Hành Bát
Quan Giới trong những ngày giới (Atthànga-uposatha-sìla)
và Thập Giới (Dasanga-sìla) thêm phần tinh luyện cho
giới thường xuyên (nicca-sìla). Nếu có thể nghiêm
trì các giới nầy thì tốt lắm; nhưng nếu không thể hành
được thì cũng không quan trọng lắm. Những ai đã đắp y
vàng của nhà tu ẩn sĩ (Isis) thì Ajìvatthamaka-sìla
và Dasanga-sìla (Thập Giới) là giới (sìla) phải
đuợc hành trì đầy đủ. Bát Quan Trai Giới (Atthanga-upasatha-sìla)
được bao gồm trong Thập Giới (Dasanga-sìla). Ðối với
chư vị tỳ khưu (bhikkhu), Tứ Thanh Tịnh Giới (Catupàrisuddhi-sìla)
là nhóm Giới (sìla). [12] Tạm Ðịnh, Cận Ðịnh, và Toàn
Ðịnh [13] bằng cách Niệm Thân (như niệm hơi-thở-ra và thở-vào),
hay niệm 32 phần trong thân) là nhóm Ðịnh (samàdhi). Bốn Thanh Tịnh tại thế [14]
cùng với Tri Kiến Tịnh (lokuttara-nànadassana-visuddhi)
siêu thế là nhóm Tuệ (pannà). Trong ba lớp Tà Kiến (ditthi),
nhóm Giới (sìla) loại trừ lớp "Vượt Ra Ngoài"
(vìtikamma). Ðiều nầy có nghĩa là nếu có phát triển
đầy đủ Giới Tịnh (sìla-visuddhi), ắt thân và khẩu
nghiệp không thể trổi dậy. Nhóm Ðịnh (samàdhi) có
thể loại trừ Tà Kiến ở lớp "Quấy Nhiễu" (pariyutthàna)
những tư tưởng trong tâm. Ðiều nầy có nghĩa là nếu tâm
định trong pháp hành (bhàvanà-manasikàra) được thiết
lập kiên cố, ắt ý nghiệp không thể trổi dậy. Nhóm Tuệ
(pannà) loại trừ Tà Kiến ở lớp anusaya,
"Khuynh Hướng Tâm Tánh Ngủ Ngầm." Ðiều nầy có
nghĩa là nếu tuệ minh sát được phát triển đầy đủ, ta
hiểu biết rằng toàn thể cái thường gọi là cá nhân, người,
chỉ là một nhóm tiến trình danh và sắc (nàma và rùpa)
và như sự cấu thành của một nhóm những thành phần vô
thường, khổ, và vô ngã. Chừng ấy khuynh hướng Tà Kiến
tiềm tàng ngủ ngầm trong luồng anusaya tự biểu hiện
trong ý niệm lầm lạc thấy có một người (puggala),
một chúng sanh (satta), và thấy trạng thái thường còn
(nicca) sẽ tan biến. Ngày nào mà "Khuynh Hướng Tà
Kiến Ngủ Ngầm" (ditthi-anusaya) còn hiện hữu,
tình trạng loại trừ lớp "Vượt Ra Ngoài", biểu
hiện qua hành động và lời nói bằng nhóm Giới (sìla),
và lớp "Quấy Nhiễu" (pariyutthàna) bằng nhóm
Ðịnh (samàdhi) chỉ có tánh cách tạm bợ. Trong phân hạng những hành động
"đã phát sanh" và "chưa phát sanh" (uppanna,
anuppanna), có hai phương pháp, đó là: 1. phân hạng căn cứ trên kiếp
sống hiện hữu như khởi điểm, và Sư sẽ chỉ rõ phương pháp căn cứ
trên kiếp sống nầy làm khởi điểm. Bên trong những người
chưa bao giờ giữ giới (sìla) trong kiếp sống nầy,
ắt không có Giới "đã phát sanh" (uppanna sìla).
Bên trong những ai có giữ giới, vào một lúc nào trong kiếp
sống nầy, ắt có Giới "đã phát sanh" (uppanna-sìla).
Ðịnh và Tuệ "không phát sanh" và "đã phát
sanh" cũng được hiểu cùng một thế ấy. Theo phương pháp căn cứ trên quá
khứ trong vòng luân hồi như khởi điểm có hai loại Giới,
tại thế và siêu thế (lokiya và lokuttara-sìla). Giới
Tại Thế là "đã phát sanh" (uppanna), bởi vì
không có ai mà trong vòng (samsàra) luân hồi từ quá khứ
xa xưa, chưa có lần nào giữ Giới Tại Thế. Nhưng Giới Siêu
Thế (lokuttara-sìla) thì đối với người phàm (puthujjana),
là "chưa phát sanh" (anuppanna). Ðịnh (samàdhi) cũng có hai
loại, Tại Thế và Siêu Thế. Vì Ðịnh Tại Thế đã được
chúng sanh thành đạt nhiều lần trong quá khứ xa xôi của
vòng luân hồi (samsàra) nên là "đã phát
sanh". Ðịnh Siêu Thế là "không phát sanh", đối
với hạng phàm nhân (puthujjana). Tuệ (pannà) cũng vậy, có
hai loại, Tại Thế và Siêu Thế. Bốn loại Thanh Tịnh (lokiya
visuddhi) [15], là Trí Tuệ Tại Thế và "đã phát
sanh" (uppanna) đối với những ai đã có gặp Giáo
Huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana) trong quá khứ
và đã thực hành bốn loại Thanh Tịnh nầy; nó là
"không phát sanh" (anuppanna) đối với những ai
chưa hề gặp Phật Giáo trong quá khứ. Tri Kiến Tịnh (nànadassana-visuddhi)
là Trí Tuệ Siêu Thế (lokuttara pannà). Ðối với hạng
phàm nhân, đó là Trí Tuệ "không phát sanh" bởi vì
nó chưa bao giờ phát sanh trong quá khứ xa xôi của vòng
luân hồi (samsàra). Giờ đây Sư sẽ giảng về bốn
pháp Tinh Tấn (padhàna, Tứ Chánh Cần). 1. Cơ hội tận diệt các nghiệp
bất thiện đã phát sanh (uppanna-akusala-kamma) chỉ có
thể được nếu có gặp Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha
Sàsana). 2. Cơ hội ngăn ngừa sự khởi
sanh của nghiệp bất thiện mới (anuppana-akusala-kamma)
trong chuỗi dài những kiếp sống từ đây về sau cũng chỉ
có thể được nếu gặp Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha
Sàsana). Mặc dầu cuộc đi quanh quẩn trong vòng luân hồi
quả thật dài vô tận, nhưng nếu ta không gặp được Giáo
Huấn của một vị Phật, ắt không có cơ hội để loại
trừ hai loại nghiệp bất thiện ấy. Ðó là bởi vì nhiệm
vụ loại trừ các nghiệp bất thiện đã phát sanh tức là
nhiệm vụ tận diệt tầng lớp anussaya, khuynh hướng
tâm tánh ngủ ngầm của Thân Kiến (sakkàya-ditthi), tức
khuynh hướng tâm tánh tiềm tàng nằm trong luồng nghiệp như
một tà kiến. Và tận diệt khuynh hướng ngủ ngầm (anussaya)
nầy là công phu của pháp hành thiền quán niệm vô ngã (anattà-bhàvanà),
chỉ có thể có vào thời kỳ có Giáo Huấn của một vị
Phật (Buddha Sàsana). Những vị sẽ chứng đắc Pacceka-Buddha,
Ðộc Giác Phật, trước tiên phải thành tựu hột giống anattà-bhàvanà,
hành thiền quán niệm Vô Ngã trong khi gặp Giáo Huấn của một
vị Phật. Khi không còn Giáo Huấn của một
vị Phật trên thế gian, chí đến tiếng Anattà, hay
vô ngã, cũng không được nghe. Và khi nói "tiếng vô
ngã", danh từ nầy có nghĩa là tiếng nói những danh từ
hàm ý bản chất vô ngã của kiếp sinh tồn như rùpa
(sắc), nàma (danh), khandha (uẩn), dhàtu (tứ
đại), àyatana (lục căn) và paticcasammupapàda (thập
nhị duyên khởi). Tiếng nói của Anattà, Vô Ngã, hàm
xúc toàn bộ Tạng Luận (Abhidhamma-Pitaka) ; và như vậy
toàn bộ quyển Vi Diệu Pháp Toát Yếu, Abhidhammattha-Sangaha.
[16] Công phu hành Anattà-bhàvanà
(phát triển ý niệm về đặc tướng Vô Ngã) bao gồm trước
tiên Giới Tịnh (sìla-visuddhi), rồi chú tâm Niệm
Thân (kàyagatà-sati), và sau khi đã vững vàng kiểm
soát và an trụ cái tâm hoang dại bất ổn và chao động, nỗ
lực chuyên cần tinh tấn thực hành thiền vắng lặng (samatha)
và thiền minh sát (vipassanà). Chỉ đến khi tận diệt
tầng lớp Khuynh Hướng Tà Kiến Ngủ Ngầm trong luồng nghiệp
(ditthi-anusaya) bằng cách cố gắng như mô tả trên, tất
cả những Tà Kiến "đã phát sanh" và "không
phát sanh" (uppanna và anuppanna-micchà-ditthi) và những
hành động bất thiện (duccarita) mới hoàn toàn tan biến. 3. Sự tinh tấn làm phát sanh những
nghiệp thiện (kusala kamma) trước đó chưa phát sanh,
và 4. Sự tinh tấn để bảo tồn và
duy trì những thiện nghiệp đã phát sanh -- những công
trình ấy phải được gia công chuyên cần để viên mãn
hoàn thành công phu quán niệm đặc tướng vô ngã (Anattà-bhàvanà)
sau khi vững chắc trong pháp Niệm Thân. Giới Ðã Phát Sanh và Giới Chưa
Phát Sanh (Uppanna và Anuppanna-Sìla) Anuppanna-sìla
-- tức Giới chưa bao giờ phát sanh trong đời của hạng Phàm
Nhân (puthujjana) xuyên qua vô số những kiếp sống
trong vòng luân hồi -- bao gồm ba chi của Bát Thánh Ðạo là
Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, và Chánh Mạng. Ba chi nầy được
bao gồm trong Tu-Ðà-Huờn Ðạo (sotàpatti-magga) và lấy
Niết Bàn làm đối tượng. Nhóm Giới nầy loại trừ những
bất thiện nghiệp tự biểu hiện ra ngoài bằng hành động,
lời nói và những phương cách sinh sống lầm lạc. Kể từ
khi đã bị tận diệt, những bất thiện nghiệp dưới ba hình
thức kể trên không còn phát hiện trở lại, dầu trong khoảnh
khắc, liên tục suốt những kiếp sống và những chu kỳ thế
gian về sau. Tầng lớp Giới Siêu Thế nầy chỉ
được thành tựu khi đã viên mãn thực hành quán niệm Vô
Ngã (Anattà-bhàvanà). Chúng sanh phải cố gắng làm
phát sanh "Giới Chưa Phát Sanh", anuppanna-sìla nầy,
trong lúc còn sống trong thời kỳ có Giáo Huấn của một vị
Phật. Ðiều nầy có nghĩa là từ ngày vững chắc trong Giới
Tịnh (sìla-visuddhi) cùng với pháp Niệm Thân (kàyagatà-sati),
cho đến khi hoàn tất viên mãn pháp hành quán niệm Vô Ngã
(Anattà-bhàvanà) chúng sanh phải cố gắng thực hành
không ngừng nghỉ 37 Phẩm Trợ Ðạo (Bodhipakkhiya-dhammas). Uppanna-sìla, Giới Ðã Phát Sanh,
đã phát sanh nhiều lần trong vòng luân hồi (samsàra)
vô tận, có nghĩa là Giới Tại Thế (kàmàvacara-sìla).
Khi nói phải tinh tấn bảo trì loại sìla nầy (tức
kiên cố giữ gìn, nghiêm trì loại giới nầy, đó là loại
Chánh Tinh Tấn thứ tư), ta nên hiểu biết rằng có hai tầng
lớp Giới Tại Thế, đó là niyàma (tầng lớp ổn định,
bất lay chuyển, không đổi thay) và aniyàma (bất ổn
định, còn biến chuyển). Trạng thái Giới của bậc Thánh
Nhân (Ariya) là ổn định (niyàma), trong khi trạng
thái Giới của hạng Phàm Nhân (puthujjana) là bất ổn
định (aniyàma). Giới Tại Thế (lokiya-sìla)
của cảnh Dục Giới tiến đạt đến mức "ổn định"
trong phẩm chất của bậc Tu-Ðà-Huờn (sotàpanna, Nhập
Lưu). Suốt chuỗi dài những kiếp sống và những chu kỳ thế
gian về sau, cho đến khi nhập Ðại Niết Bàn (Parinibbàna),
những bậc Thánh Tu-Ðà-Huờn không còn vi phạm Ajivatthamaka-sìla
[17] (tám giới chấm dứt với Chánh Mạng), dầu trong giấc
mơ. Tuy nhiên, trong trường hợp của
hạng Phàm Nhân (puthujjana), Giới Tại Thế trong cảnh
Dục Giới vẫn còn ở mức độ "bất ổn định" (aniyàma).
Những người nầy đã là những cá nhân đạo đức vô số
lần trong quá khứ. Họ cũng đã bị sa đọa vào những khổ
cảnh (apàya-loka) vô số lần, cũng đã là những tỳ
khưu và những đạo sĩ ẩn dật phẩm hạnh trong sạch trong
vô số lần. Tuy nhiên trong những kiếp sống quá khứ họ
chưa bao giờ thoát khỏi hiểm họa còn phải bị sa đọa vào
những Cảnh Giới Thấp Kém trong vô số lần làm người, làm
trời (deva), làm chư Phạm Thiên (Brahmas), vốn
luôn luôn ở bên bờ vực thẩm phải tái sanh, sa đọa vào
Khổ Cảnh. Do đó, những chúng sanh có Giới
Tại Thế của cảnh Dục Giới (kàmàvacara-lokiya-sìla) vẫn
còn "bất ổn định" (aniyàma) và chỉ giữ được
Giới bên trong mình một cách tạm bợ nhất thời. Trong khi còn cơ hội sống vào thời
kỳ có Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana) những
vị ấy phải cố gắng chuyển biến trạng thái "bất
ổn" ấy trở thành "ổn định" (niyàma),
phải nỗ lực kiên cố trong pháp Niệm Thân và sau đó thực
hành các Phẩm Trợ Ðạo, Bodhipakkhiya-dhammas, cho đến
khi viên mãn hoàn tất công phu quán niệm đặc tướng Vô
Ngã (anattà-bhàvanà). Ðịnh Ðã Phát Sanh và Ðịnh Chưa
Phát Sanh (Uppanna và Anuppanna Samàdhi) Ðịnh (samàdhi) và Tuệ (pannà)
cũng có hai tầng lớp, "ổn Ðịnh" (niyàma)
và "Bất ổn Ðịnh" (aniyàma). Trạng thái Toàn Ðịnh (của các
tầng Thiền, Jhànas, appanà-samàdhi), vốn là một với
Bát Thiền hay Cửu Thiền (samàpatti) [18], chỉ trở
thành "ổn định" khi tiến đạt đến giai đoạn Bất
Lai (Anàgami, A-Na-Hàm). Tuệ (pannà) bên trong phẩm
hạnh tàdi (xả) [19] chỉ trở thành "ổn định" ở
mức A-La-Hán. Giờ đây Sư sẽ chỉ rõ trạng
thái tâm Ðịnh và Tuệ của một vị Nhập Lưu (sotàpanna,
Tu-Ðà-Huờn). Ðúng theo kinh Cùla-Vedalla Sutta
[20], Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh được bao gồm
trong Tu-Ðà-Huờn Ðạo (Sotàpatti-magga) lấy Niết Bàn
làm đối tượng, được gọi là Ðịnh Siêu Thế (lokuttara
samàdhi). Ba thành phần ấy của nhóm Ðịnh
(nằm bên trong Bát Thánh Ðạo), bằng cách tinh tấn diệt trừ
đến tận cùng (samuccheda-pahàna), hay có thể hoàn
toàn loại trừ tận gốc rễ, những bất thiện pháp Tham
ái (abhijjhà) và Sân Hận (vyàpàda), vốn bắt
nguồn từ micchà-vàyàma (tà tinh tấn), micchà-sati (tà niệm)
và micchà-samàdhi (tà định). Khi đã bị tận diệt, những
bất thiện pháp Tham ái và Sân Hận ấy không còn phát sanh
trở lại trong suốt nhiều kiếp sống và nhiều chu kỳ thế
gian tương lai. Loại Ðịnh Siêu Thế nầy chỉ có thể
thành đạt trong thời kỳ có Giáo Huấn của một vị Phật
(Buddha Sàsana), khi hành giả quán niệm và phát triển
đặc tướng Vô Ngã (anattà bhàvanà). Do đó, hiện nay
mà chúng sanh đang có duyên lành gặp Phật Giáo (Buddha
Sàsana), chúng ta phải tận lực chuyên cần thành tựu
cho được, làm phát sanh loại "Ðịnh Chưa Phát
Sanh" (anuppanna-samàdhi), trước khi phải thăng trầm
lặn hụp trong vòng quanh những kiếp sinh tồn của vòng
luân hồi (samsàra). Ðiều nầy có nghĩa là ta phải bắt
đầu với pháp Niệm Thân, rồi thực hành các Phẩm Trợ Ðạo
(Bodhipakkhiya-dhammas) cho đến khi hoàn thành viên mãn
công phu quán niệm đặc tướng Vô Ngã (Anattà-bhàvanà). Uppanna-samàdhi,
"Ðịnh Ðã Phát Sanh", đã phát sanh vô số lần
trong quá khứ vô tận của vòng luân hồi, bao gồm Ðịnh của
Dục Giới (kàmàvacara-samàdhi, tức cận định), Ðịnh
của Sắc Giới (rùpàvacara-samàdhi), và Ðịnh của Vô
Sắc Giới (arùpàvacara-samàdhi). Khi nói rằng ta phải
cố gắng tiến đạt đến trạng thái "ổn định"
(niyàma) của "Ðịnh Ðã Phát Sanh", phải hiểu
rằng Ðịnh Tại Thế cũng có hai tầng lớp, ổn định và
bất ổn định.
Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và
Chánh Ðịnh của bậc Thánh Nhân (Ariya) ở tầng lớp
"ổn định". Các nghiệp Tham ái và Sân Hận bất
thiện (duccarita) không phát sanh đến các Ngài, dầu
trong giấc mơ, trong suốt chuỗi dài những kiếp sống tương
lai, cho đến khi nhập Ðại Niết Bàn (Parinibbàna). Nhóm Ðịnh gồm ba chi [21] của hạng
Phàm Nhân (puthujjana) ở trong tầng lớp "bất ổn
định" (aniyàma). Trong quá khứ vô tận của vòng
luân hồi những vị nầy đã có lần là những người có
nhập định, những đạo sĩ ẩn dật hay những vị tỳ
khưu có nhập định, những vị đã đắc Thiền (jhàna)
và đã đắc thần thông (idhi) trong chuỗi dài vô tận
những kiếp sống. Trong thời gian của mỗi hệ thống thế
gian có bốn chu kỳ (kappa), mỗi chu kỳ dài vô tận.
Ba trong bốn chu kỳ thế gian ấy, các người Phàm Nhân (puthujjana)
nầy đã là chư vị Phạm Thiên trong những cảnh Trời.
Trong mỗi hệ thống thế gian họ cũng đã có ở trong khổ
cảnh (apàya). Và trong những khổ cảnh ấy đầy những
người mà trước kia đã là trời Phạm Thiên, không ai
khác. Những hạng Phàm Nhân ấy đã là Trời Phạm Thiên, đã
là Ngạ Quỉ (peta), đã ở trong địa ngục, đã làm
thú, hay a-tu-la (asura). So với vòng luân hồi (samsàra)
dài vô tận, mỗi kiếp sống trong những hệ thống thế
gian nầy chỉ giống như thời gian một nháy mắt. Như vậy, trong khi được duyên
may sống giữa thời kỳ còn Giáo Huấn của một vị Phật
(Buddha Sàsana), tất cả chúng ta phải nỗ lực chuyển
biến trạng thái "bất ổn định" (aniyàma) của
ba chi nằm trong nhóm Ðịnh (Samàdhi) -- mà ta đã nhiều
lần thành tựu trong quá khứ -- thành trạng thái "ổn
định" (niyàma). Do đó, sau khi thiết lập vững chắc
trong pháp Niệm Thân, ta phải thực hành 37 Phẩm Trợ Ðạo,
Bodhipakkhiya-dhammas, chí đến khi viên mãn hoàn tất
quán niệm đặc tướng Vô Ngã (Anattà bhàvanà). Trí Tuệ Ðã Phát Sanh và Trí Tuệ
Chưa Phát Sanh (Uppanna và Anuppanna-Pannà) Theo kinh Cùla Vedalla Sutta,
Chánh Kiến (sammà-ditthi) và Chánh Tư Duy (sammà-sankappa),
nằm trong Tu-Ðà-Huờn Ðạo (sotàpatti-magga) và lấy Niết
Bàn làm đối tượng, được gọi là Trí Tuệ Siêu Thế (lokuttara-pannà).
Trí Tuệ nầy tận diệt tầng lớp khuynh hướng tâm tánh ngủ
ngầm (anusaya) của Thân Kiến (sakkàya-ditthi)
trong luồng nghiệp, và "khắc phục bằng cách loại trừ
tận cùng" (samuccheda-pahàna) mọi dấu vết tiềm
ẩn của Tà Kiến (micchà-ditthi) và Tà Tư Duy (micchà-sankappa),
cùng với những hành động bất thiện (duccarita) và
Tà Mạng (duràjiva). Kho tàng tích trữ những nghiệp bất
thiện trong quá khứ (duccarita kamma) cũng hoàn toàn tan
biến. Cánh cửa mở vào vòng quanh những khổ cảnh (Apàya-Samsàra)
hoàn toàn khóa chặt. Từ đây những nghiệp bất thiện của
Tà Kiến và những hành động sai lầm tuyệt đối không
còn phát sanh trong suốt chuỗi dài những kiếp sinh tồn và
những chu kỳ thế gian tương lai. Loại Trí Tuệ nầy chỉ có thể
phát sanh vào thời kỳ có Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha
Sàsana), khi pháp quán niệm đặc tướng Vô Ngã (Anattà-bhàvanà)
còn được lưu truyền hiện hữu. Do đó, là những chúng
sanh đã được diễm phúc sống trong thời kỳ Phật Giáo
còn lưu truyền, chúng ta phải chuyên cần tinh tấn để thành
tựu cho được, làm phát sanh "Trí Tuệ Chưa Phát
Sanh" (Anuppanna-Pannà), loại Trí Tuệ chưa bao giờ
đến với ta, trước khi mất đi Giáo Huấn nầy (trong tương
lai). Ðiều nầy có nghĩa là, bắt đầu với pháp Niệm
Thân chúng ta phải nỗ lực thực hành 37 Phẩm Trợ Ðạo (Bodhipakkhiya-dhamma)
chí đến khi hoàn tất viên mãn pháp quán niệm đặc tướng
Vô Ngã (Anattà-bhàvanà). Những loại Trí Tuệ đã thường
phát sanh (uppanna) trong quá khứ vô tận là: Chánh Kiến,
hiểu biết chân chánh rằng chúng sanh là sở hữu chủ (hay
người chịu trách nhiệm) của những hành động, tức cái
nghiệp (kammassakatà-sammà-ditthi) của mình; tất cả những
loại tuệ giác và trí tuệ (tại thế) thuộc về Dục Giới
(kàmàvacara) và những thần thông (abhinnà) như
nhãn thông (dibba-cakkhu) và nhĩ thông (dibba sota). Khi nói phải tận lực cố gắng
tiến đạt đến trạng thái Trí Tuệ "ổn định",
ta phải hiểu rằng Trí Tuệ tại thế nầy cũng có hai tầng
lớp, "ổn định" và "bất ổn định". Chánh
Kiến và Chánh Tư Duy tại thế của chư vị Thánh Nhân (Ariyas)
được kiên cố thiết lập ở mức độ "ổn định"
(niyàma). Từ khi Chánh Kiến và Chánh Tư Duy thiết lập
Trí Tuệ "ổn định", và suốt chuỗi dài những kiếp
sống sau đó cho đến khi nhập Ðại Niết Bàn, luôn luôn có
Chánh Kiến hiểu biết rằng mình là Sở Hữu Chủ của Nghiệp
(kammassakatà-sammà-ditthi), của Tuệ Giác về Pháp Học
(pariyatti-nàna) [22], của Tuệ Giác về Pháp Hành (patipatti-nàna)
và Tuệ Giác về Bốn Chân Lý (catu-sacca-nàna). Tuy nhiên, Trí Tuệ Tại Thế của
hạng Phàm Nhân (puthujjana) còn ở mức độ "bất
ổn định" (aniyàma). Trong khi thênh thang bất định
trong vòng luân hồi các vị nầy đôi khi có học được Giáo
Pháp (Dhamma), đôi khi nổi danh về sức học rộng hiểu
nhiều của mình, đôi khi là những vị Ðại Ðức Tỳ Khưu
hay lương y trứ danh, trong khi ở những lúc khác đã là sâu
bọ, sò ốc, côn trùng, đỉa, chí, rệp, dòi, bò chét v.v...
những con vật có thể được xem là chỉ có sự sống. Do đó, trong khi có duyên may gặp
được Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana) ta
phải tận lực chuyên cần nhằm chuyển biến "Trí Tuệ
bất ổn định" (chỉ tạm bợ nhất thời) thành
"Trí Tuệ ổn định", như đã trình bày ở phần
trên. Ðến đây chấm dứt phần trình
bày hai loại Giới, Ðịnh và Tuệ, đã phát sanh và chưa phát
sanh. Do đó, những người tại gia cư
sĩ, những vị đạo sĩ ẩn dật và Tỳ Khưu đã gặp Giáo
Huấn của một vị Phật trong kiếp sống hiện tại nầy
mà muốn tự thoát ra khỏi những khổ đau của những kiếp
sống tương lai, và muốn củng cố bền bỉ vững chắc các
Pháp như Giới Tịnh v.v... phải thực hành thích nghi những
Niệm Xứ (satipatthàna), phải chuyên cần tinh tấn theo
những loại Chánh Cần (sammappadhàna, xem phần trên),
nhằm tiêu diệt những khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm (anusaya)
của Thân Kiến. Nếu muốn tự thoát ra khỏi cảnh
điên cuồng và hoang dại loạn tâm như người mất trí, người
không biết lái thuyền, người bị bịnh chó dại, và người
bịnh uống thuốc mà ói mửa ra hết (như được mô tả
trong Chương II, liên quan đến pháp Tứ Niệm Xứ, satipatthàna),
và muốn củng cố tâm Ðịnh hoặc chuyển biến trạng thái
Ðịnh của mình trở thành vững bền "ổn định" (niyàma),
nhằm giữ tâm vắng lặng, bất lay chuyển, và chăm chú vào
bất cứ đề mục thiền định nào (kammatthàna), muốn
được vậy phải thực hành thích nghi pháp Niệm Xứ đến
mức độ tinh tấn chân chánh (sammappadhàna, Chánh Cần)
nhằm tận diệt khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm (anusaya)
của Thân Kiến. Nếu những vị ấy muốn tự
thoát ra khỏi những lý thuyết và những điều kiện Si Mê
lầm lạc (sammoha-dhamma) có thể lôi cuốn họ vào những
cảnh Vô Minh tăm tối; có thể tuyệt trừ tận gốc rễ,
không còn để lại dấu vết gì trong những kiếp sống tương
lai, tất cả lòng kỉnh mộ sùng kính mà họ đã nuôi dưỡng
trong lòng đối với những phẩm hạnh thánh thiện của Phật
Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo Thánh Thiện cũng như Giáo Huấn
của Ðức Phật; nếu họ muốn tự thoát ra khỏi những
Giáo Pháp Sai Lầm (micchà-dhamma), trong vòng luân hồi (samsàra)
vô cùng tận, đã dẫn dắt họ đến gần, tôn kính và lễ
lạy tất cả đủ hạng Phật (hay đạo sư) giả mạo, bởi
vì họ còn là Phàm Nhân (puthujjana) không ở trong vị
thế có thể hiểu biết vị Phật thiệt, Giáo Pháp thiệt
và Tăng Già thiệt; nếu, trong chuỗi dài những kiếp sống
và những chu kỳ thế gian, bắt đầu từ giờ phút hiện tại,
họ muốn có đức tin được gọi là Ðức Tin Kiên Cố Vững
Chắc (adhigama-saddhà) và trí tuệ được gọi là Trí
Tuệ Kiên Cố Vững Chắc (adhigama-pannà), nương nhờ
nơi oai lực của đức tin và trí tuệ ấy họ có thể cảm
nhận bên trong họ mà không bị trở ngại, lòng kỉnh mộ
và sùng kính vị Phật thật sự, Giáo Pháp thật sự và Tăng
Già thật sự; và nếu muốn chuyển biến đức tin và trí
tuệ ấy đến mức "ổn định" (niyàma) -- họ
phải thực hành thích nghi những Niệm Xứ (satipatthàna)
với Chánh Cần (sammappadhàna), nhằm tận diệt Thân Kiến
ở tầng lớp ngủ ngầm (anusaya-bhùmi). Nơi đây thực
hành Chánh Cần thích nghi có nghĩa là quyết tâm tận lực
chuyên cần với chú nguyện như sau: "Hãy để cho da, gân và xương,
thịt còn lại, máu trong thân tôi khô cạn dần, tôi sẽ
không chấm dứt chuyên cần tinh tấn cho đến khi thành đạt
những gì mà khả năng của con người, tánh chuyên cần của
con người và sự cố gắng của con người, có thể thành
đạt." Ghi chú: [1] Vinaya Pitaka, Mahàvagga,
câu 13. Sammohavinodàni (Chú Giải của Patisambhida
Magga) [2] Chú Giải Kinh Pháp Cú
(Dhammapada Commentary) câu chuyện liên quan đến câu 1. [3] Hạng Neyya, xem trang 1-2,
Phần Nhập Ðề. [4] Xem Chú Giải kinh Niệm Xứ (Satipatthàna
Sutta), The Way of Mindfulness, trang 68. [5] Xem Chú Giải Sakkapanha Sutta,
(Dìgha Nikàya, Trường A Hàm) [6] Xem Anguttara Nikàya, Tăng
Nhứt A Hàm. Những con số bốn, số 13f. "The Book of
Analysis" (Vibhanga) do U Thittila chuyển dịch (Pali
Text Society, London) trang 271ff . [7] Apàya-loka là bốn cảnh
khổ bao gồm: cảnh a-tu-la, cảnh ngạ quỷ, cảnh thú và cảnh
địa ngục. [8] Bon-sin-san là một
danh từ Miến Ðiện, có nghĩa là một hạng Tu-Ðà-Huờn (Sotàpanna)
sẽ tiến đến giải thoát cuối cùng của một vị A-La-Hán
sau nhiều kiếp sống cao thượng liên tục. Danh từ nầy
không có gì tương đương trong Kinh Tạng (Sutta). Trong Kinh Tạng chỉ gọi Sotàpanna,
là những vị tối đa chỉ còn tái sanh bảy lần trong cảnh
người hoặc cảnh trời. Bon-sin-san là một khái niệm
quen thuộc trong truyền thống Phật Giáo ở Miến Ðiện.
Danh từ nầy được nhắc đến trong những đoạn chú giải
sau đây: - Chú giải bộ Indriya-Samyutta,
phẩm Chalindriya Vagga, bài kinh Ekabiji Sutta, giảng
giải danh từ sattakkhattuparamo. Vị Chủ Biên The Wheel Publication
(Ðại Ðức Nyanaponika) tri ân Ngài Mahasi Sayadaw,
Agga-Maha-Pandita, Rangoon, đã giúp soạn thảo những chú
thích nầy và chú thích kế sau đây. "Có thể ghi nhận rằng
Bon-sin-san có hai loại: - Người trở thành một vị Tu
Ðà Huờn (Sotàpanna) trong cảnh Dục Giới (Kàmabhùmi)
và thành tựu ba tầng Thánh cao hơn (Sakadàgàmi, Tư-Ðà-Hàm
v.v...) trong năm cảnh Vô Phiên Thiên (Suddhàvàsa) của
Sắc Giới (Rùpaloka); - Người trở thành Tu-Ðà-Huờn,
Tư-Ðà-Hàm, A-Na-Hàm (Sotàpanna, Sakadàgàmi, Anàgàmi)
trong Dục Giới (Kàmabhùmi) và A-La-Hán (Arahat)
trong năm cảnh Vô Phiên Thiên (Suddhàvàsa) của Sắc
Giới. Do đó danh từ Bon-sin-san
có nghĩa là tiến lên trong những giai đoạn của kiếp
sinh tồn, tầng nầy đến tầng khác. "Hai hạng nầy hiển nhiên
là khác biệt với những hạng được đề cập đến
trong Tạng Kinh (Suttas): (1) Sattakkhattuparama Sotàpanna,
"người còn tái sanh tối đa là bảy lần", (2) Kolankola
Sotàpanna, "người đi từ tầng Thánh nầy sang một
tầng Thánh khác, (3) Ekabiji Sotàpanna, "người chỉ
còn tái sanh một lần". "Ba hạng nầy trở thành Sotàpanna
(Tu-Ðà-Huờn) trong Kàma-bhùmi (Dục Giới), hoặc
trong chính kiếp sống nầy hoặc về sau, nhưng không hơn bảy
kiếp, trở thành A-La-Hán cũng trong cảnh giới (bhùmi)
nầy. Xem chương VIII của sách nầy,
phần "Tu Ðà Huờn" (Chủ Biên The Wheel). [9] Ðây là thói quen của riêng
tác giả, Ngài Ledi Sayadaw, dùng chữ sa-upàdisesa, Hữu
Dư Niết Bàn, áp dụng cho một vị Tu Ðà Huờn (và nơi đây
áp dụng cho vị "Bon-sin-san"). Trong kinh điển
và chú giải Pali danh từ nầy chỉ áp dụng cho vị
A-La-Hán, đã tận diệt tất cả mười triền cái, trong khi
vị Tu-Ðà-Huờn chỉ loại trừ có ba. Cách xử dụng có phần
khác biệt nầy có thể vì vị Tu-Ðà-Huờn được nói là
"nhoáng thấy Niết Bàn lần đầu tiên" (pathama-dassana),
Ðạo và Quả siêu thế của Ngài có đối tượng là Niết
Bàn (chớ không phải là những hiện tượng được cấu tạo,
tức các pháp hữu vi, như tất cả các loại tâm tại thế).
Vì lẽ ấy có thể nói là lần đầu tiên Ngài chứng nghiệm
Niết Bàn, mặc dầu là chứng nghiệm một cách tạm thời
và không toàn vẹn. (Lời của vị Chủ Biên, The Wheel). [10] Xem "Manual of Insight"
(The Wheel số 31/32) trang 79ff. [11] Ajìvatthamaka-sìla, xem
chú thích trong phần Nhập Ðề. [12] Những danh từ Pàli trong đoạn
nầy đã được giải thích ở phần Nhập Ðề. [13] Tạm định, cận định, toàn
định: parikamma-, upacàra-, appanà-samàdhi. Xem Path of
Purification (Visuddhi Magga, Thanh Tịnh Ðạo), chương II,
trang 26, chương IV, trang 32. [14] 4 Bốn Thanh Tịnh tại thế là:
Kiến Tịnh, Ðoạn Nghi Tịnh, Ðạo Phi Ðạo Tri Kiến Tịnh
và Ðạo Tri Kiến Tịnh. [15] Xem chú thích 4, trang 210. [16] Bản dịch của Ð.Ð. Nàrada
Thera, dưới tựa đề "A Manual of Abhidhamma" (Buddhist
Publication Society, Kandy). [17] Ajivatthamaka-sìla, xem
chú thích trong phần Nhập Ðề. [18] Tám tầng Thiền (attha-samàpatti)
là bốn tầng Thiền Sắc Giới (rùpa- jhàna) và bốn tầng
Thiền Vô Sắc Giới (arùpajjhàna). Chín tầng Thiền
là tám tầng kể trên và tầng thứ chín là nirodha-samàpatti,
Diệt Thọ Tưởng Ðịnh, tức tạm thời ngưng những sinh hoạt
tâm linh. [19] Tàdi (theo nghĩa đen là:
giống như, cùng một thứ) là trạng thái tâm quân bình,
tâm xả, không thể bị ảnh hưởng của những thăng trầm
trong đời sống. Ðây cũng là một cách nói Phật và
A-La-Hán. [20] Yo ca Visàkha sammà-vàyàmo
yà ca sammà-sati yo ca sammà-samàdhi, ime dhammà samàdhikkhandhe
sangahità -- "Và bất luận nơi nào có Chánh Tinh Tấn,
Chánh Niệm và Chánh Ðịnh, những điều ấy được bao gồm
trong phân hạng Ðịnh". (Majjhima Nikàya, Trung A Hàm,
số 44) [21] Ba chi của nhóm Ðịnh là:
Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh [22] Pariyatti: "Học Giáo
Lý". Trong sự tiến bộ của vị đệ tử, có thể phân
biệt 3 giai đoạn: Lý Thuyết, Thực Hành và Chứng Ngộ. Tức
pariyatti (Pháp Học, nghiên cứu học hỏi Giáo Lý), patipatti
(Pháp Hành, thực hành Giáo Lý) và pativedha (Pháp
Thành, soi thấu Giáo Lý và chứng ngộ mục tiêu). -- Buddhist
Dictionary, Nyànatiloka -ooOoo- Ðầu
trang | 00
| 01 | 02 | 03 | 04
| 05 | 06 | 07
| 08 | 09 | 10 Chân thành cám ơn Bác
Phạm Kim Khánh đã gửi tặng bản điện tử (Bình Anson, 05-2002) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Một Toát Yếu Về Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Sự Giác Ngộ
Phạm Kim Khánh dịch
(Sammappadhàna)
2. Hãy để cho gân còn lại,
3. Hãy để cho xương còn lại,
4. Hãy để cho thịt và máu khô cạn dần.
2. Anuppannànam akusalànam dhammànam anuppà-dàya vàyàmo,
3. Anuppannànam kusalànam dhammànam uppàdàya vàyàmo,
4. Uppannànam kusalànam dhammànam bhiyyo-bhàvàya vàyàmo.
2. Tinh tấn xa lánh (chẳng những trong kiếp sống hiện tiền
mà luôn cả trong những kiếp về sau), ngăn ngừa những hành
động bất thiện chưa phát sanh, không để cho nó khởi
sanh;
3. Tinh tấn làm phát sanh những hành động thiện chưa khởi
sanh;
4. Tinh tấn tăng trưởng và duy trì bền lâu những hành động
thiện đã khởi sanh hoặc trên đà phát sanh.
2. Anuppanna akusala kamma.
2. phân hạng căn cứ trên quá khứ vô tận trong vòng luân
hồi (samsàra) như khởi điểm.
- Chú giải Dìgha Nikàya, Trường A Hàm, bài kinh Sakkapanha
Sutta (đoạn cuối), giảng giải những chữ so nivàso
bhavissati.
- Chú giải Puggala-pannatti (Pancappakarana Atthakatha),
Ekata-nidesa, giảng giải danh từ ekabiji.
Bản dịch Anh ngữ
updated: 18-10-2002