BuddhaSasana Home Page 37 PHẨM
TRỢ ĐẠO
Ngài Hoà Thượng
LEDI SAYADAW Chương
VII Thất
giác chi Catusaccadhamme sutthu bujjhatì'ti
sambodhi; sambodhiyà ango sambojjhango. Sự giải thích danh từ như trên
có nghĩa là: bởi vì sambodhi, chứng ngộ đầy đủ Bốn
Chân Lý, nên gọi là "Giác Ngộ". Sambodhi ở
đây là Tuệ Giác thông hiểu Ðạo Siêu Thế (lokuttara-magga-nàna).
Một thành phần của Ðạo Tuệ như thế được gọi là Yếu
Tố của sự Giác Ngộ (Giác Chi). Loài chim đầu tiên được sanh ra
khỏi bụng mẹ dưới hình thức một cái trứng. Khi trứng
nở, chim được sanh ra lần thứ nhì. Cuối cùng, khi đủ lông
đủ cánh, chim thoát ra khỏi ổ và có thể bay đi bất luận
đâu mà nó thích. Trường hợp của người hành thiền cũng
cùng thế ấy. Trước tiên, do nhờ vững vàng trong pháp Niệm
Thân, hoặc nhờ thành công thực hành thiền Vắng Lặng (samatha),
tâm của hành giả thoát ra khỏi trạng thái loạn động đã
theo mình từ quá khứ vô tận của vòng luân hồi. Thứ đến,
khi thành đạt tuệ minh sát (vipassanà) thông hiểu Sắc,
Danh và các Uẩn (rùpa, nàma, khandhà) hành giả thoát
ra khỏi những hình thức thô kịch của vô minh. Cuối cùng,
khi bảy yếu tố của sự giác ngộ, hay Thất Giác Chi (bojjhanga)
phát triển và trở nên thuần thục, nó đủ trưởng thành
để thành đạt Ðạo Tuệ Siêu Thế (lokuttara-magga-nàna),
và như thế, đã thoát ra khỏi trạng thái phàm tục (puthujjana),
tiến đến trạng thái Thánh Nhân (ariya), Siêu Thế (lokuttara)
hay Niết Bàn. Có bảy Yếu Tố của sự Giác Ngộ
(Thất Giác Chi) là: 1. Niệm Giác Chi (sati-sambojjhanga),
Tâm sở "Niệm" (sati-cetasika),
được gọi bằng nhiều tên khác nhau satipatthàna,
satindriya, sati-bala, sammà-sati magganga (niệm xứ, niệm căn,
niệm lực, chánh niệm), là Sati-sambojjhanga, Niệm Giác
Chi. (yếu tố "Niệm" của sự Giác Ngộ). Tâm sở "Tuệ" (pannà-cetasika)
được gọi bằng nhiều tên khác nhau: vìmamsiddhipàda,
pannindriya, pannà-bala, sammà-ditthi magganga (trạch quán như
ý túc, tuệ căn, tuệ lực, chánh kiến), tất cả đều là dhammavicaya-sambojjhanga
(Trạch Pháp Giác Chi, yếu tố "Trạch Pháp" của sự
Giác Ngộ) -- Năm Thanh Tịnh thuộc về Trí Tuệ, ba Quán Niệm
về Tuệ Giác, mười Tuệ Minh Sát [1], cũng được gọi là dhammavicaya-sambojjhanga,
Trạch Pháp Giác Chi. Cũng như hột bông vải được xay, đánh
ra v.v... tạo thành vải, tiến trình quán niệm Ngũ Uẩn (khandhà)
lặp đi lặp lại dưới ánh sáng của Tuệ Minh Sát (vipassanà-nàna)
được gọi là Dhammavicaya-sambojjhanga, "Trạch Pháp
Giác Chi". Tâm sở "Tinh Tấn" (vìriya-cetasika)
được gọi bằng những danh từ khác nhau sammappadhàna,
vìriyindriya, vìriya-bala, và sammà-vayàma magganga (tấn như
ý túc, tấn căn, tấn lực, và chánh tinh tấn), tất cả đều
là "Tinh Tấn Giác Chi". Niềm vui và hạnh phúc phát sanh
khi tiến trình (thật sự) thấy và hiểu biết được tăng
trưởng do nhờ sự thực hành Tứ Niệm Xứ, Satipatthàna,
tức pháp Niệm Thân, được gọi là Piti-sambojjhanga,
"Phỉ Giác Chi". Tiến trình thân và tâm trở nên
an tĩnh và vắng lặng khi những chao động tinh thần, những
suy tư và nghĩ ngợi lắng đọng, được gọi là Passaddhi-sambojjhanga,
"Khinh An Giác Chi". Ðó là tâm sở (cetasika) nhẹ
nhàng an tĩnh của thân và tâm (kàya-passaddhi,
citta-passaddhi). Những yếu tố thuộc về Ðịnh
được gọi là samàdh-indriya, samàdhi-bala, và
sammà-samàdhi magganga (định căn, định lực, và chánh định)
tất cả đều là samàdhi-sambojjhanga, Ðịnh Giác Chi,
những yếu tố "Ðịnh của sự Giác Ngộ". Luân
phiên thay đổi nhau Tạm Ðịnh, Cận Ðịnh và Toàn Ðịnh,
hoặc tám tầng Thiền liên hợp với Thiền Vắng Lặng (samatha),
Tâm Tịnh (citta-visuddhi) và tâm Ðịnh Hư Không (sunnatà-samàdhi)
v.v... liên hợp với những Thanh Tịnh thuộc về Trí Tuệ, cũng
được gọi samàdhi-sambojjhanga, "Ðịnh Giác
Chi". Tâm Ðịnh nằm trong tuệ Minh Sát (vipassanà-nàna),
hoặc tuệ giác của Ðạo và của Quả được gọi là Tâm
Ðịnh Hư Không (sunnatà-samàdhi), tâm Ðịnh Vô Ðiều
Kiện (animitta-samàdhi) và tâm Ðịnh Không Ham Muốn (appanihità-samàdhi). Khi thực hành với một đề mục
hành thiền (kamma-tthàna) không đúng theo phương pháp
hoặc không đúng theo hệ thống, cần phải xử dụng nhiều
công phu vật chất và tinh thần. Nhưng khi đã hành đúng phương
pháp và hệ thống ắt sẽ không cần phải nhiều tinh tấn
như vậy. Tình trạng không còn phải cố gắng nhiều được
gọi là tatramajjhattatà cetasika, tâm sở Xả. Và đó
là upekkhà-sambojjhanga, "Xả Giác Chi", yếu tố
Xả của sự Giác Ngộ. Khi có đầy đủ và đồng đều
bảy sambodhi, đặc tánh cá biệt của sự Giác Ngộ,
hành giả thọ hưởng trạng thái hoan hỷ thỏa thích và hạnh
phúc của bậc sa-môn (samana, một nhà sư), trong Giáo
Huấn của Ðức Phật -- loại hạnh phúc và hoan hỷ thỏa
thích mà không có bất luận lạc thú trần gian nào có thể
sánh. Do đó kinh Dhammapada, Pháp
Cú, có lời dạy: "Vị tỳ khưu đã rút vào nơi
ẩn trú đơn độc và đã lắng tâm an tĩnh, kinh nghiệm phỉ
lạc siêu trần vì đã chứng ngộ Giáo Pháp (Dhamma)." "Mỗi khi suy niệm về tình trạng
sanh-diệt của các Uẩn (khandhà) vị ấy kinh nghiệm phỉ lạc
và hạnh phúc. Ðối với 'những ai hiểu biết', (suy niệm
ấy) là trạng thái Bất Diệt." (câu 373 và 374) Có những đoạn trong kinh điển và
những câu chuyện liên quan đến tình trạng cơ thể đau khổ
và những chứng bệnh trầm trọng đã được chữa trị khi
bịnh nhân nghe đọc tụng kinh Thất Giác Chi. Tuy nhiên những
khổ đau và tình trạng bịnh hoạn ngặt nghèo ấy chỉ có
thể được chữa trị khi người nghe hay biết đầy đủ ý
nghĩa của những "chi" (hay yếu tố) ấy của sự Giác
Ngộ rồi phát sanh Ðức Tin (Saddhà) rộng lớn và rõ
ràng nơi lời kinh. Khi bảy Chi nầy của sự Giác Ngộ
được hấp thụ đầy đủ một cách quân bình, hành giả
có thể an tâm chắc chắn rằng sẽ không còn khuyết điểm
nào của mình trong pháp Niệm Thân (kàyagatà sati),
không có khuyết điểm nào trong tuệ giác chứng ngộ Vô Thường
và Vô Ngã (anicca và anattà-sannà), cũng không có khuyết
điểm trong sự tinh tấn (vìriya) của thân hay của
tâm. Bởi vì tâm của hành giả an tĩnh tập trung vào ba yếu
tố sati, dhammavicaya, vìriya -- niệm giác chi, trạch
pháp giác chi, và tinh tấn giác chi -- hành giả kinh nghiệm
phỉ lạc trong sự hiểu biết rằng giờ đây mình có thể
chứng ngộ ánh sáng Niết Bàn mà trong vòng luân hồi (samsàra)
vô tận không bao giờ phát sanh đến mình, dầu trong giấc mơ.
Do trạng thái tâm phỉ và lạc (sukha) ấy, trạng thái
gom tâm vào đề mục của hành giả, tức tâm định (samàdhi)
của hành giả, an tĩnh nhẹ nhàng và kiên cố (passaddhi,
an khinh) và tâm Xả (upekkhà) khởi sanh, không còn lo
âu và cố gắng chú niệm (sati), không lo âu và cố gắng
Trạch Pháp (dhammavicaya) tức chứng ngộ anicca và
anattà (vô thường và vô ngã), và không cần phải tinh tấn
(vìriya). Tất cả những điều được đề
cập ở phần trên, liên quan đến giai đoạn mà những Yếu
Tố của sự Giác Ngộ đều nhất trí đồng phát sanh và tương
trợ lẫn nhau và những cơ năng tương đương đều viên
mãn hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng dầu còn ở giai đoạn thực
hành thông thường, từ lúc sự "Chú Niệm hướng về
Thân" được củng cố, những đặc tính như "niệm"
cũng được xem là Bojjhanga (Niệm Giác Chi). Trong kinh Bojjhanga Samyutta Ðức
Phật dạy: Satisambojjhangam bhàveti,
vivekanissitam, viràganissitam, nirodhanissitam, vossaggaparinàmim;
dhammavicayasambojjhangam ... upekkhà-samboj-jhangam bhàveti,
vivekanissitam viràganissitam nirodhanissitam vossaggaparinàmim. "Vị ấy phát triển Niệm
Giác Chi ... Xả Giác Chi, tùy thuộc nơi (hay căn cứ trên) sự
không luyến ái, tùy thuộc nơi tình trạng không tham ái,
tùy thuộc nơi tình trạng chấm dứt, rồi tiến đến tột
điểm là buông xả." Ðiều nầy có nghĩa là, trong diễn
tiến thông thường (nơi đây được diễn đạt bằng những
danh từ "Vị ấy phát triển ..."), tiến trình củng
cố Niệm Thân, có nghĩa là củng cố Thất Giác Chi. Sự
phân biệt và tình trạng phát triển đến mức cao độ được
diễn đạt bằng những chữ "tùy thuộc nơi tình trạng
không luyến ái ......." [2] Ðoạn kinh Pàli được trích
dẫn ở trên có nghĩa là: Ta phải thực hành các yếu tố
"Niệm Giác Chi, v.v ... vốn tùy thuộc nơi tình trạng
không có mặt tất cả những loại sinh hoạt và lo âu,
không có mặt dục vọng và tham ái, vắng mặt tình trạng
khổ đau dính liền theo những kiếp sống trong vòng luân hồi
và tùy thuộc sự buông xả những tầng lớp nằm phía dưới
kiếp sinh tồn (upadhi) [3]. Ghi chú: [1] Xem chú thích trong Chương V. [2] Ðược giải thích trong Bản
Chú Giải BojjhangaVibanga.
[3] Bốn tầng lớp nằm phía dưới
kiếp sinh tồn là: 1. dục lạc (kàmapadhi), 2. những ô
nhiễm tinh thần (kilesàpadhi), 3. nghiệp (kammapadhi)
và 4. ngũ uẩn (khandhùpadhi). -ooOoo- Ðầu
trang | 00
| 01 | 02 | 03
| 04 | 05 | 06
| 07 | 08 | 09 | 10 Chân thành cám ơn Bác
Phạm Kim Khánh đã gửi tặng bản điện tử (Bình Anson, 05-2002) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Một Toát Yếu Về Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Sự Giác Ngộ
Phạm Kim Khánh dịch
(Bojjhanga)
2. Trạch Pháp Giác Chi (dhammavicaya-sambojjhanga)
3. Tinh Tấn Giác Chi (vìriya-sambojjhanga),
4. Phỉ Giác Chi (piti-sambojjhanga),
5. Khinh An Giác Chi (passaddhi-sambojjhanga),
6. Ðịnh Giác Chi (samàdhi-sambojjhanga)
7. Xả Giác Chi (upekkhà-sambojjhanga)
Bản dịch Anh ngữ
updated: 11-05-2002