SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
HỘI THỨ I
PHẨM 11: THÍ DỤ
(QUYỂN 42 - 45)
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Bấy giờ, Trưởng lão Thiện Hiện bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, nếu có người hỏi rằng: “Nhà ảo thuật có khả năng học Bát-nhã ba-la-mật-đa, thành tựu trí Nhất thiết chăng; nhà ảo thuật có khả năng học Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa, thành tựu trí Nhất thiết chăng?” Đối với câu hỏi ấy, con nên trả lời như thế nào?
Bạch Thế Tôn, nếu có người hỏi: “Nhà ảo thuật có khả năng học bốn Tĩnh lự, thành tựu trí Nhất thiết chăng; nhà ảo thuật có khả năng học bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thành tựu trí Nhất thiết chăng?” Đối với câu hỏi ấy, con nên trả lời như thế nào?
Bạch Thế Tôn, nếu có người hỏi: “Nhà ảo thuật có khả năng học bốn Niệm trụ, thành tựu trí Nhất thiết chăng; nhà ảo thuật có khả năng học bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, thành tựu trí Nhất thiết chăng?” Đối với câu hỏi ấy, con nên trả lời như thế nào?
Bạch Thế Tôn, nếu có người hỏi: “Nhà ảo thuật có khả năng học pháp môn giải thoát Không, thành tựu trí Nhất thiết chăng; nhà ảo thuật có khả năng học pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện thành tựu trí Nhất thiết chăng?” Đối với câu hỏi ấy, con nên trả lời như thế nào?
Bạch Thế Tôn, nếu có người hỏi: “Nhà ảo thuật có khả năng học năm loại mắt, thành tựu trí Nhất thiết chăng; nhà ảo thuật có khả năng học sáu phép thần thông, thành tựu trí Nhất thiết chăng?” Đối với câu hỏi ấy, con nên trả lời như thế nào?
Bạch Thế Tôn, nếu có người hỏi, nhà ảo thuật có khả năng học mười lực của Phật, thành tựu trí Nhất thiết chăng; nhà ảo thuật có khả năng học bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thành tựu trí Nhất thiết chăng?” Đối với câu hỏi ấy, con nên trả lời như thế nào?
Phật bảo Thiện Hiện:
−Ta hỏi lại ông, tùy theo ý ông mà trả lời. Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Sắc cùng với huyễn có khác chăng? Thọ, tưởng, hành, thức cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì sắc chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác sắc, sắc tức là huyễn, huyễn tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nhãn xứ cùng với huyễn có khác chăng? Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì nhãn xứ chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác nhãn xứ, nhãn xứ tức là huyễn, huyễn tức là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Sắc xứ cùng với huyễn có khác chăng? Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì sắc xứ chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác sắc xứ, sắc xứ tức là huyễn, huyễn tức là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nhãn giới cùng với huyễn có khác chăng? Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cùng với huyễn có khác chăng? Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì nhãn giới chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác nhãn giới, nhãn giới tức là huyễn, huyễn tức là nhãn giới. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nhĩ giới cùng với huyễn có khác chăng? thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì nhĩ giới chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác nhĩ giới, nhĩ giới tức là huyễn, huyễn tức là nhĩ giới; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Tỷ giới cùng với huyễn có khác chăng? hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì tỷ giới chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác tỷ giới, tỷ giới tức là huyễn, huyễn tức là tỷ giới; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Thiệt giới cùng với huyễn có khác chăng? Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì thiệt giới chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác thiệt giới, thiệt giới tức là huyễn, huyễn tức là thiệt giới; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Thân giới cùng với huyễn có khác chăng? Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì thân giới chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác thân giới, thân giới tức là huyễn, huyễn tức là thân giới. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Ý giới cùng với huyễn có khác chăng? Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì ý giới chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác ý giới, ý giới tức là huyễn, huyễn tức là ý giới; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Địa giới cùng với huyễn có khác chăng? Thủy, hỏa, phong, không, thức giới cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì địa giới chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác địa giới, địa giới tức là huyễn, huyễn tức là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Thánh đế khổ cùng với huyễn có khác chăng? Thánh đế tập, diệt, đạo cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì Thánh đế khổ chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác Thánh đế khổ, Thánh đế khổ tức là huyễn, huyễn tức là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Vô minh cùng với huyễn có khác chăng? hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì vô minh chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác vô minh, vô minh tức là huyễn, huyễn tức là vô minh; hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Bốn Tĩnh lự cùng với huyễn có khác chăng? Bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì bốn Tĩnh lự chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác bốn Tĩnh lự, bốn Tĩnh lự tức là huyễn, huyễn tức là bốn Tĩnh lự; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì bốn Niệm trụ chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác bốn Niệm trụ, bốn Niệm trụ tức là huyễn, huyễn tức là bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Pháp môn giải thoát Không cùng với huyễn có khác chăng? Pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì pháp môn giải thoát Không chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Không tức là huyễn, huyễn tức là pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Bố thí ba-lamật-đa cùng với huyễn có khác chăng? Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì Bố thí bala-mật-đa chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác Bố thí ba-la-mật-đa, Bố thí ba-la-mật-đa tức là huyễn, huyễn tức là Bố thí ba-la-mật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Năm loại mắt cùng với huyễn có khác chăng? Sáu phép thần thông cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì năm loại mắt chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác năm loại mắt, năm loại mắt tức là huyễn, huyễn tức là năm loại mắt; sáu phép thần thông cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Mười lực của Phật cùng với huyễn có khác chăng? Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì mười lực của Phật chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác mười lực của Phật, mười lực của Phật tức là huyễn, huyễn tức là mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng cũng lại như vậy.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Quả vị Giác ngộ cao tột cùng với huyễn có khác chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì quả vị Giác ngộ cao tột chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác quả vị Giác ngộ cao tột, quả vị Giác ngộ cao tột tức là huyễn, huyễn tức là quả vị Giác ngộ cao tột. Phật bảo Thiện Hiện:
−Theo ý ông thì sao? Huyễn có tạp nhiễm, có thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Huyễn có sinh có diệt chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu pháp không tạp nhiễm, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, là pháp có thể học Bát-nhã ba-la-mậtđa, thành tựu trí Nhất thiết trí chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu pháp không tạp nhiễm, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, là pháp có thể học Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa, thành tựu trí Nhất thiết trí chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu pháp không tạp nhiễm, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, là pháp có thể học bốn Tĩnh lự, thành tựu trí Nhất thiết trí chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu pháp không tạp nhiễm, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, là pháp có thể học bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, thành tựu trí Nhất thiết trí chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu pháp không tạp nhiễm, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, là pháp có thể học bốn Niệm trụ, thành tựu trí Nhất thiết trí chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu pháp không tạp nhiễm, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, là pháp có thể học bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, thành tựu trí Nhất thiết trí chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu pháp không tạp nhiễm, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, là pháp có thể học pháp môn giải thoát Không, thành tựu trí Nhất thiết trí chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu pháp không tạp nhiễm, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, là pháp có thể học pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, thành tựu trí Nhất thiết trí chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu pháp không tạp nhiễm, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, là pháp có thể học năm loại mắt, thành tựu trí Nhất thiết trí chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu pháp không tạp nhiễm, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, là pháp có thể học sáu phép thần thông, thành tựu trí Nhất thiết trí chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu pháp không tạp nhiễm, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, là pháp có thể học mười lực của Phật, thành tựu trí Nhất thiết trí chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu pháp không tạp nhiễm, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, là pháp có thể học bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, thành tựu trí Nhất thiết trí chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Khác với năm uẩn... các pháp, tưởng, các tưởng do giả lập, ngôn thuyết, có Đại Bồ-tát chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chỉ đối với năm uẩn... các pháp, tưởng, các tưởng do giả lập, ngôn thuyết, gọi đó là Đại Bồ-tát chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, đúng vậy!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Có phải chỉ đối với năm uẩn... các pháp, tưởng, các tướng do giả lập, ngôn thuyết, có tạp nhiễm, có thanh tịnh, có sinh, có diệt chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu pháp không có tưởng, không có các tưởng, không giả lập, không ngôn thuyết, không có danh, không có giả danh, không có thân, không nghiệp của thân, không có lời nói, không có nghiệp của lời nói, không có ý, không có nghiệp của ý, không tạp nhiễm, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, là pháp có thể học Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến trí Nhất thiết tướng, thành tựu trí Nhất thiết trí chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không!
Phật bảo Thiện Hiện:
−Nếu Đại Bồ-tát, có khả năng lấy vô sở đắc như vậy làm phương tiện để học Bát-nhã ba-lamật-đa, cho đến trí Nhất thiết tướng, nên biết, Đại Bồ-tát ấy có thể thành tựu trí Nhất thiết trí.
Trưởng lão Thiện Hiện bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột, thì khi tu học Bát-nhã bala-mật-đa, nên như nhà ảo thuật tu học Bát-nhã bala-mật-đa, đối với tất cả mọi việc, không có sự phân biệt. Vì sao? Vì nên biết, nhà ảo thuật tức là năm uẩn... năm uẩn... tức là nhà ảo thuật.
Phật bảo Thiện Hiện:
−Theo ý ông thì sao? Như năm uẩn... huyễn có thể học Bát-nhã ba-la-mật-đa, thành tựu trí Nhất thiết trí chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì năm uẩn... huyễn như vậy, lấy vô tánh làm tự tánh, mà tự tánh của vô tánh không thể được.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Như chiêm bao, như tiếng vang, như ánh sáng, như ảnh tượng, hoa trong hư không, như ánh nước, như ảo thành, như ngũ uẩn biến hóa... có thể học Bát-nhã ba-lamật-đa, thành tựu trí Nhất thiết trí chăng?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì chiêm bao, năm uẩn... cho đến năm uẩn biến hóa như vậy, lấy vô tánh làm tự tánh, mà tự tánh của vô tánh không thể được.
–Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Như huyễn..., năm uẩn... các pháp ấy, chúng có gì khác nhau?
Thiện Hiện đáp:
−Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức như huyễn... ấy, tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức như mộng...; sắc, thọ, tưởng, hành, thức như huyễn... ấy, tức là sáu căn... như huyễn..., sáu căn... như huyễn... ấy, tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức như huyễn...; đều do không bên trong nên không thể được, cho đến đều do không không tánh tự tánh không, nên không thể được.
Trưởng lão Thiện Hiện lại bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát mới phát tâm hướng về Đại thừa nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tâm vị ấy sẽ không kinh hãi, sợ sệt chăng? Phật bảo Thiện Hiện:
−Đại Bồ-tát mới phát tâm hướng đến Đại thừa, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu không có phương tiện thiện xảo, chẳng được bạn lành hỗ trợ, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì tâm địa ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện bạch:
−Bạch Thế Tôn, những Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm các vị ấy không kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt?
Phật bảo Thiện Hiện:
−Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng thường, vô thường của sắc không thể được; quán tướng thường, vô thường của thọ, tưởng, hành, thức không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng lạc, khổ của sắc không thể được; quán tướng lạc, khổ của thọ, tưởng, hành, thức không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng ngã, vô ngã của sắc không thể được; quán tướng ngã, vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịnh, bất tịnh của sắc không thể được; quán tướng tịnh, bất tịnh của thọ, tưởng, hành, thức không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng không, bất không của sắc không thể được; quán tướng không, bất không của thọ, tưởng, hành, thức không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô tướng, hữu tướng của sắc không thể được; quán tướng vô tướng, hữu tướng của thọ, tưởng, hành, thức không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của sắc không thể được; quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của thọ, tưởng, hành, thức không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sắc không thể được; quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thọ, tưởng, hành, thức không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của sắc không thể được; quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thọ, tưởng, hành, thức không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, thì nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng thường, vô thường của nhãn xứ không thể được; quán tướng thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng lạc, khổ của nhãn xứ không thể được; quán tướng lạc, khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng ngã, vô ngã của nhãn xứ không thể được; quán tướng ngã, vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịnh, bất tịnh của nhãn xứ không thể được; quán tướng tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng không, bất không của nhãn xứ không thể được; quán tướng không, bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô tướng, hữu tướng của nhãn xứ không thể được; quán tướng vô tướng, hữu tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của nhãn xứ không thể được; quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhãn xứ không thể được; quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của nhãn xứ không thể được; quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, thì nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng thường, vô thường của sắc xứ không thể được; quán tướng thường, vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng lạc, khổ của sắc xứ không thể được; quán tướng lạc, khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng ngã, vô ngã của sắc xứ không thể được; quán tướng ngã, vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịnh, bất tịnh của sắc xứ không thể được; quán tướng tịnh, bất tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng không, bất không của sắc xứ không thể được; quán tướng không, bất không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô tướng, hữu tướng của sắc xứ không thể được; quán tướng vô tướng, hữu tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của sắc xứ không thể được; quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sắc xứ không thể được; quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của sắc xứ không thể được; quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, thì nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng thường, vô thường của nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng lạc, khổ của nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng ngã, vô ngã của nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịnh, bất tịnh của nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng không, bất không của nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô tướng, hữu tướng của nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, thì nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng thường, vô thường của nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng lạc, khổ của nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng ngã, vô ngã của nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịnh, bất tịnh của nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng không, bất không của nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô tướng, hữu tướng của nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, thì nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng thường, vô thường của tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng lạc, khổ của tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng ngã, vô ngã của tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịnh, bất tịnh của tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng không, bất không của tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô tướng, hữu tướng của tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, thì nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng thường, vô thường của thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng lạc, khổ của thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng ngã, vô ngã của thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịnh, bất tịnh của thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng không, bất không của thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô tướng, hữu tướng của thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, thì nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng thường, vô thường của thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng lạc, khổ của thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng ngã, vô ngã của thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịnh, bất tịnh của thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng không, bất không của thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô tướng, hữu tướng của thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, thì nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng thường, vô thường của ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng lạc, khổ của ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng ngã, vô ngã của ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịnh, bất tịnh của ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng không, bất không của ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô tướng, hữu tướng của ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng thường, vô thường của địa giới không thể được; quán tướng thường, vô thường của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng lạc, khổ của địa giới không thể được; quán tướng lạc, khổ của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng ngã, vô ngã của địa giới không thể được; quán tướng ngã, vô ngã của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịnh, bất tịnh của địa giới không thể được; quán tướng tịnh, bất tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng không, bất không của địa giới không thể được; quán tướng không, bất không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô tướng, hữu tướng của địa giới không thể được; quán tướng vô tướng, hữu tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của địa giới không thể được; quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của địa giới không thể được; quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của địa giới không thể được; quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, thì nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng thường, vô thường của Thánh đế khổ không thể được; quán tướng thường, vô thường của Thánh đế tập, diệt, đạo không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng lạc, khổ của Thánh đế khổ không thể được; quán tướng lạc, khổ của Thánh đế tập, diệt, đạo không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng ngã, vô ngã của Thánh đế khổ không thể được; quán tướng ngã, vô ngã của Thánh đế tập, diệt, đạo không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịnh, bất tịnh của Thánh đế khổ không thể được; quán tướng tịnh, bất tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng không, bất không của Thánh đế khổ không thể được; quán tướng không, bất không của Thánh đế tập, diệt, đạo không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô tướng, hữu tướng của Thánh đế khổ không thể được; quán tướng vô tướng, hữu tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của Thánh đế khổ không thể được; quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của Thánh đế tập, diệt, đạo không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Thánh đế khổ không thể được; quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Thánh đế tập, diệt, đạo không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của Thánh đế khổ không thể được; quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của Thánh đế tập, diệt, đạo không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, thì nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng thường, vô thường của vô minh không thể được; quán tướng thường, vô thường của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng lạc, khổ của vô minh không thể được; quán tướng lạc, khổ của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng ngã, vô ngã của vô minh không thể được; quán tướng ngã, vô ngã của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịnh, bất tịnh của vô minh không thể được; quán tướng tịnh, bất tịnh của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng không, bất không của vô minh không thể được; quán tướng không, bất không của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô tướng, hữu tướng của vô minh không thể được; quán tướng vô tướng, hữu tướng của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của vô minh không thể được; quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của vô minh không thể được; quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của vô minh không thể được; quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng thường, vô thường của bốn Tĩnh lự không thể được; quán tướng thường, vô thường của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng lạc, khổ của bốn Tĩnh lự không thể được; quán tướng lạc, khổ của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng ngã, vô ngã của bốn Tĩnh lự không thể được; quán tướng ngã, vô ngã của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịnh, bất tịnh của bốn Tĩnh lự không thể được; quán tướng tịnh, bất tịnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng không, bất không của bốn Tĩnh lự không thể được; quán tướng không, bất không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô tướng, hữu tướng của bốn Tĩnh lự không thể được; quán tướng vô tướng, hữu tướng của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của bốn Tĩnh lự không thể được; quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Tĩnh lự không thể được; quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí mà quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Tĩnh lự không thể được; quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành
Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng thường, vô thường của bốn Niệm trụ không thể được; quán tướng thường, vô thường của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng lạc, khổ của bốn Niệm trụ không thể được; quán tướng lạc, khổ của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng ngã, vô ngã của bốn Niệm trụ không thể được; quán tướng ngã, vô ngã của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng tịnh, bất tịnh của bốn Niệm trụ không thể được; quán tướng tịnh, bất tịnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng không, bất không của bốn Niệm trụ không thể được; quán tướng không, bất không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng vô tướng, hữu tướng của bốn Niệm trụ không thể được; quán tướng vô tướng, hữu tướng của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của bốn Niệm trụ không thể được; quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Niệm trụ xứ không thể được; quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Niệm trụ không thể được; quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng thường, vô thường của pháp môn giải thoát Không không thể được; quán tướng thường, vô thường của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng lạc, khổ của pháp môn giải thoát Không không thể được; quán tướng lạc, khổ của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng ngã, vô ngã của pháp môn giải thoát Không không thể được; quán tướng ngã, vô ngã của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng tịnh, bất tịnh của pháp môn giải thoát Không không thể được; quán tướng tịnh, bất tịnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng không, bất không của pháp môn giải thoát Không không thể được; quán tướng không, bất không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng vô tướng, hữu tướng của pháp môn giải thoát Không không thể được; quán tướng vô tướng, hữu tướng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của pháp môn giải thoát Không không thể được; quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Không không thể được; quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của pháp môn giải thoát Không không thể được; quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng thường, vô thường của Bố thí ba-lamật-đa không thể được; quán tướng thường, vô thường của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng lạc, khổ của Bố thí ba-la-mật-đa không thể được; quán tướng lạc, khổ của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng ngã, vô ngã của Bố thí ba-la-mật-đa không thể được; quán tướng ngã, vô ngã của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng tịnh, bất tịnh của Bố thí ba-la-mật-đa không thể được; quán tướng tịnh, bất tịnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng không, bất không của Bố thí ba-lamật-đa không thể được; quán tướng không, bất không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng vô tướng, hữu tướng của Bố thí ba-la-mật-đa không thể được; quán tướng vô tướng, hữu tướng của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của Bố thí bala-mật-đa không thể được; quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Bố thí ba-la-mật-đa không thể được; quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của Bố thí ba-la-mật-đa không thể được; quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng thường, vô thường của năm loại mắt không thể được; quán tướng thường, vô thường của sáu phép thần thông không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng lạc, khổ của năm loại mắt không thể được; quán tướng lạc, khổ của sáu phép thần thông không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng ngã, vô ngã của năm loại mắt không thể được; quán tướng ngã, vô ngã của sáu phép thần thông không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng tịnh, bất tịnh của năm loại mắt không thể được; quán tướng tịnh, bất tịnh của sáu phép thần thông không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng không, bất không của năm loại mắt không thể được; quán tướng không, bất không của sáu phép thần thông không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng vô tướng, hữu tướng của năm loại mắt không thể được; quán tướng vô tướng, hữu tướng của sáu phép thần thông không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của năm loại mắt không thể được; quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của sáu phép thần thông không thể được.
Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của năm loại mắt không thể được; quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sáu phép thần thông không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của năm loại mắt không thể được; quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của sáu phép thần thông không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng thường, vô thường nơi mười lực của Phật không thể được; quán tướng thường, vô thường của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng lạc, khổ nơi mười lực của Phật không thể được; quán tướng lạc, khổ của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng ngã, vô ngã nơi mười lực của Phật không thể được; quán tướng ngã, vô ngã của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng tịnh, bất tịnh nơi mười lực của Phật không thể được; quán tướng tịnh, bất tịnh của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng không, bất không nơi mười lực của Phật không thể được; quán tướng không, bất không của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng vô tướng, hữu tướng nơi mười lực của Phật không thể được; quán tướng vô tướng, hữu tướng của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng vô nguyện, hữu nguyện nơi mười lực của Phật không thể được; quán tướng vô nguyện, hữu nguyện của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh nơi mười lực của Phật không thể được; quán tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng không thể được. Nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa nơi mười lực của Phật không thể được; quán tướng xa lìa, chẳng xa lìa của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng không thể được.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành
Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi khởi lên sự quán chiếu đó, lại khởi lên ý nghĩ thế này: “Ta nên lấy vô sở đắc làm phương tiện, vì các loài hữu tình mà nói về tướng thường, vô thường của các pháp không thể được; tướng lạc, khổ; tướng ngã, vô ngã; tướng tịnh, bất tịnh; tướng không, bất không; tướng vô tướng, hữu tướng; tướng vô nguyện, hữu nguyện; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh; tướng xa lìa, chẳng xa lìa đều không thể được.” Này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không đắm trước Bố thí ba-la-mật-đa. Như vậy là Đại Bồ-tát, do Bố thí ba-la-mật-đa có phương tiện thiện xảo này, nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt. Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, thì chẳng nên lấy tâm của Thanh văn, Độc giác quán tướng thường, vô thường của các pháp không thể được; tướng lạc, khổ; tướng ngã, vô ngã; tướng tịnh, bất tịnh; tướng không, bất không; tướng vô tướng, hữu tướng; tướng vô nguyện, hữu nguyện; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh; tướng xa lìa, chẳng xa lìa đều không thể được. Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện nên này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không đắm trước Tịnh giới ba-lamật-đa. Như vậy là Đại Bồ-tát, do Tịnh giới ba-lamật-đa có phương tiện thiện xảo này, nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán tướng thường, vô thường của các pháp không thể được; tướng lạc, khổ; tướng ngã, vô ngã; tướng tịnh, bất tịnh; tướng không, bất không; tướng vô tướng, hữu tướng; tướng vô nguyện, hữu nguyện; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh; tướng xa lìa, chẳng xa lìa đều không thể được, thì ở trong đó thường được an nhẫn vui vẻ. Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không đắm trước An nhẫn ba-la-mật-đa. Như vậy là Đại Bồ-tát, do An nhẫn ba-la-mật-đa có phương tiện thiện xảo này, nên nghe nói Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như vậy, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa nên lấy tâm của trí Nhất thiết trí quán tướng thường, vô thường của các pháp không thể được; tướng lạc, khổ; tướng ngã, vô ngã; tướng tịnh, bất tịnh; tướng không, bất không; tướng vô tướng, hữu tướng; tướng vô nguyện, hữu nguyện; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh; tướng xa lìa, chẳng xa lìa đều không thể được, tuy lấy vô sở đắc làm phương tiện, nhưng thường không bỏ ý niệm tương ưng với trí Nhất thiết trí. Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không đắm trước Tinh tấn ba-la-mật-đa. Như vậy là Đại Bồ-tát, do Tinh tấn ba-la-mật-đa có phương tiện thiện xảo này, nên nghe nói Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như vậy, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa lấy tâm của Thanh văn, Độc giác quán, quán tướng thường, vô thường của các pháp không thể được; tướng lạc, khổ; tướng ngã, vô ngã; tướng tịnh, bất tịnh; tướng không, bất không; tướng vô tướng, hữu tướng; tướng vô nguyện, hữu nguyện; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh; tướng xa lìa, chẳng xa lìa đều không thể được. Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện nên ở trong chẳng nên khởi tâm Thanh văn, Độc giác và các tâm bất thiện khác làm tán động. Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không đắm trước Tĩnh lự ba-la-mật-đa. Như vậy là Đại Bồ-tát, do Tĩnh lự ba-la-mật-đa có phương tiện thiện xảo này, nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt. Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khởi lên sự quán chiếu thế này: Sắc chẳng phải là không, nên không là sắc, sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Nhãn xứ chẳng phải là không, nên không là nhãn xứ, nhãn xứ tức là không, không tức là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng lại như vậy. Sắc xứ chẳng phải là không, nên không là sắc xứ, sắc xứ tức là không, không tức là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng lại như vậy. Nhãn giới chẳng phải là không, nên không là nhãn giới, nhãn giới tức là không, không tức là nhãn giới; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng lại như vậy. Nhĩ giới chẳng phải là không, nên không là nhĩ giới, nhĩ giới tức là không, không tức là nhĩ giới; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng lại như vậy. Tỷ giới chẳng phải là không, nên không là tỷ giới, tỷ giới tức là không, không tức là tỷ giới; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng lại như vậy. Thiệt giới chẳng phải là không, nên không là thiệt giới, thiệt giới tức là không, không tức là thiệt giới; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng lại như vậy. Thân giới chẳng phải là không, nên không là thân giới, thân giới tức là không, không tức là thân giới; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng lại như vậy. Ý giới chẳng phải là không, nên không là ý giới, ý giới tức là không, không tức là ý giới; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng lại như vậy. Địa giới chẳng phải là không, nên không là địa giới, địa giới tức là không, không tức là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng lại như vậy. Thánh đế khổ chẳng phải là không, nên không là Thánh đế khổ, Thánh đế khổ tức là không, không tức là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng lại như vậy. Vô minh chẳng phải là không, nên không là vô minh, vô minh tức là không, không tức là vô minh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng lại như vậy. Bốn Tĩnh lự chẳng phải là không, nên không là bốn Tĩnh lự, bốn Tĩnh lự tức là không, không tức là bốn Tĩnh lự; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng lại như vậy. Bốn Niệm trụ chẳng phải là không, nên không là bốn Niệm trụ, bốn Niệm trụ tức là không, không tức là bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng lại như vậy. Pháp môn giải thoát Không chẳng phải là không, nên không là pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Không tức là không, không tức là pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng lại như vậy. Bố thí bala-mật-đa chẳng phải là không, nên không là Bố thí ba-la-mật-đa, Bố thí ba-la-mật-đa tức là không, không tức là Bố thí ba-la-mật-đa; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lại như vậy. Năm loại mắt chẳng phải là không, nên không là năm loại mắt, năm loại mắt tức là không, không tức là năm loại mắt; sáu phép thần thông cũng lại như vậy. Mười lực của Phật chẳng phải là không, nên không là mười lực của Phật, mười lực của Phật tức là không, không tức là mười lực của Phật; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng lại như vậy.
Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa không đắm trước Bát-nhã ba-lamật-đa. Như vậy là Đại Bồ-tát, do Bát-nhã ba-lamật-đa có phương tiện thiện xảo này, nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của các thiện hữu, nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt?
Phật bảo Thiện Hiện:
−Bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, nói tướng thường, vô thường của sắc; tướng thường, vô thường của thọ, tưởng, hành, thức không thể được. Nói cái tướng lạc, khổ của sắc, tướng lạc, khổ của thọ, tưởng, hành, thức; tướng ngã, vô ngã của sắc, tướng ngã, vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức; tướng tịnh, bất tịnh của sắc, tướng tịnh, bất tịnh của thọ, tưởng, hành, thức; tướng không, bất không của sắc, tướng không, bất không của thọ, tưởng, hành, thức; tướng vô tướng, hữu tướng của sắc, tướng vô tướng, hữu tướng của thọ, tưởng, hành, thức; tướng vô nguyện, hữu nguyện của sắc, tướng vô nguyện, hữu nguyện của thọ, tưởng, hành, thức; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sắc, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thọ, tưởng, hành, thức; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của sắc, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thọ, tưởng, hành, thức đều không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, không khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, mà chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, nói tướng thường, vô thường của nhãn xứ không thể được; nói tướng thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thể được. Nói tướng lạc, khổ của nhãn xứ, tướng lạc, khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; tướng ngã, vô ngã của nhãn xứ, tướng ngã, vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; tướng tịnh, bất tịnh của nhãn xứ, tướng tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; tướng không, bất không của nhãn xứ, tướng không, bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; tướng vô tướng, hữu tướng của nhãn xứ, tướng vô tướng, hữu tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; tướng vô nguyện, hữu nguyện của nhãn xứ, tướng vô nguyện, hữu nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhãn xứ, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của nhãn xứ, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đều không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, mà chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại
Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, nói tướng thường, vô thường của sắc xứ không thể được; nói tướng thường, vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thể được. Nói tướng lạc, khổ của sắc xứ, tướng lạc, khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; tướng ngã, vô ngã của sắc xứ, tướng ngã, vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; tướng tịnh, bất tịnh của sắc xứ, tướng tịnh, bất tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; tướng không, bất không của sắc xứ, tướng không, bất không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; tướng vô tướng, hữu tướng của sắc xứ, tướng vô tướng, hữu tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; tướng vô nguyện, hữu nguyện của sắc xứ, tướng vô nguyện, hữu nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sắc xứ, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của sắc xứ, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đều không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, mà chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, nói tướng thường, vô thường của nhãn giới không thể được; nói tướng thường, vô thường của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nói tướng lạc, khổ của nhãn giới, tướng lạc, khổ của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; tướng ngã, vô ngã của nhãn giới, tướng ngã, vô ngã của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; tướng tịnh, bất tịnh của nhãn giới, tướng tịnh, bất tịnh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; tướng không, bất không của nhãn giới, tướng không, bất không của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; tướng vô tướng, hữu tướng của nhãn giới, tướng vô tướng, hữu tướng của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; tướng vô nguyện, hữu nguyện của nhãn giới, tướng vô nguyện, hữu nguyện của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhãn giới, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của nhãn giới, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra đều không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, mà chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, nói tướng thường, vô thường của nhĩ giới không thể được; nói tướng thường, vô thường của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nói tướng lạc, khổ của nhĩ giới, tướng lạc, khổ của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra; tướng ngã, vô ngã của nhĩ giới, tướng ngã, vô ngã của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra; tướng tịnh, bất tịnh của nhĩ giới, tướng tịnh, bất tịnh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra; tướng không, bất không của nhĩ giới, tướng không, bất không của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra; tướng vô tướng, hữu tướng của nhĩ giới, tướng vô tướng, hữu tướng của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra; tướng vô nguyện, hữu nguyện của nhĩ giới, tướng vô nguyện, hữu nguyện của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhĩ giới, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của nhĩ giới, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra đều không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, mà chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, nói tướng thường, vô thường của tỷ giới không thể được; nói tướng thường, vô thường của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nói tướng lạc, khổ của tỷ giới, tướng lạc, khổ của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra; tướng ngã, vô ngã của tỷ giới, tướng ngã, vô ngã của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra; tướng tịnh, bất tịnh của tỷ giới, tướng tịnh, bất tịnh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra; tướng không, bất không của tỷ giới, tướng không, bất không của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra; tướng vô tướng, hữu tướng của tỷ giới, tướng vô tướng, hữu tướng của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra; tướng vô nguyện, hữu nguyện của tỷ giới, tướng vô nguyện, hữu nguyện của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của tỷ giới, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của tỷ giới, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra đều không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, mà chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, nói tướng thường, vô thường của thiệt giới không thể được; nói tướng thường, vô thường của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nói tướng lạc, khổ của thiệt giới, tướng lạc, khổ của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra; tướng ngã, vô ngã của thiệt giới, tướng ngã, vô ngã của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra; tướng tịnh, bất tịnh của thiệt giới, tướng tịnh, bất tịnh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra; tướng không, bất không của thiệt giới, tướng không, bất không của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra; tướng vô tướng, hữu tướng của thiệt giới, tướng vô tướng, hữu tướng của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra; tướng vô nguyện, hữu nguyện của thiệt giới, tướng vô nguyện, hữu nguyện của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thiệt giới, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thiệt giới, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra đều không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, mà chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, nói tướng thường, vô thường của thân giới không thể được; nói tướng thường, vô thường của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nói tướng lạc, khổ của thân giới, tướng lạc, khổ của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra; tướng ngã, vô ngã của thân giới, tướng ngã, vô ngã của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra; tướng tịnh, bất tịnh của thân giới, tướng tịnh, bất tịnh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra; tướng không, bất không của thân giới, tướng không, bất không của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra; tướng vô tướng, hữu tướng của thân giới, tướng vô tướng, hữu tướng của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra; tướng vô nguyện, hữu nguyện của thân giới, tướng vô nguyện, hữu nguyện của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thân giới, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thân giới, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra đều không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, mà chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, nói tướng thường, vô thường của ý giới không thể được; nói tướng thường, vô thường của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không thể được. Nói tướng lạc, khổ của ý giới, tướng lạc, khổ của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; tướng ngã, vô ngã của ý giới, tướng ngã, vô ngã của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; tướng tịnh, bất tịnh của ý giới, tướng tịnh, bất tịnh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; tướng không, bất không của ý giới, tướng không, bất không của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; tướng vô tướng, hữu tướng của ý giới, tướng vô tướng, hữu tướng của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; tướng vô nguyện, hữu nguyện của ý giới, tướng vô nguyện, hữu nguyện của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của ý giới, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của ý giới, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra đều không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, mà chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, mà tâm của vị ấy chẳng kinh khiếp, chẳng hãi hùng, chẳng sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, tướng thường, vô thường của địa giới, tướng thường, vô thường của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thể được. Nói tướng lạc, khổ của địa giới, tướng lạc, khổ của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; tướng ngã, vô ngã của địa giới, tướng ngã, vô ngã của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; tướng tịnh, bất tịnh của địa giới, tướng tịnh, bất tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; tướng không, bất không của địa giới, tướng không, bất không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; tướng vô tướng, hữu tướng của địa giới, tướng vô tướng, hữu tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; tướng vô nguyện, hữu nguyện của địa giới, tướng vô nguyện, hữu nguyện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của địa giới, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của địa giới, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, mà chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, nói tướng thường, vô thường của Thánh đế khổ, tướng thường, vô thường của Thánh đế tập, diệt, đạo không thể được. Nói tướng lạc, khổ của Thánh đế khổ, tướng lạc, khổ của Thánh đế tập, diệt, đạo; tướng ngã, vô ngã của Thánh đế khổ, tướng ngã, vô ngã của Thánh đế tập, diệt, đạo; tướng tịnh, bất tịnh của Thánh đế khổ, tướng tịnh, bất tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo; tướng không, bất không của Thánh đế khổ, tướng không, bất không của Thánh đế tập, diệt, đạo; tướng vô tướng, hữu tướng của Thánh đế khổ, tướng vô tướng, hữu tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo; tướng vô nguyện, hữu nguyện của Thánh đế khổ, tướng vô nguyện, hữu nguyện của Thánh đế tập, diệt, đạo; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Thánh đế khổ, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Thánh đế tập, diệt, đạo; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của Thánh đế khổ, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của
Thánh đế tập, diệt, đạo không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, mà chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, nói tướng thường, vô thường của vô minh, tướng thường, vô thường của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não không thể được. Nói tướng lạc, khổ của vô minh, tướng lạc, khổ của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não; tướng ngã, vô ngã của vô minh, tướng ngã, vô ngã của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não; tướng tịnh, bất tịnh của vô minh, tướng tịnh, bất tịnh của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não; tướng không, bất không của vô minh, tướng không, bất không của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não; tướng vô tướng, hữu tướng của vô minh, tướng vô tướng, hữu tướng của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não; tướng vô nguyện, hữu nguyện của vô minh, tướng vô nguyện, hữu nguyện của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của vô minh, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của vô minh, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, mà chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, tướng thường, vô thường của bốn Tĩnh lự không thể được; tướng thường, vô thường của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được. Nói tướng lạc, khổ của bốn Tĩnh lự; tướng lạc, khổ của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được. Nói tướng ngã, vô ngã của bốn Tĩnh lự; tướng ngã, vô ngã của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được. Nói tướng tịnh, bất tịnh của bốn Tĩnh lự; tướng tịnh, bất tịnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được. Nói tướng không, bất không của bốn Tĩnh lự; tướng không, bất không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được. Nói tướng vô tướng, hữu tướng của bốn Tĩnh lự; tướng vô tướng, hữu tướng của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được. Nói tướng vô nguyện, hữu nguyện của bốn Tĩnh lự; tướng vô nguyện, hữu nguyện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được. Nói tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Tĩnh lự; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được. Nói tướng xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Tĩnh lự; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, tướng thường, vô thường của bốn Niệm trụ không thể được; tướng thường, vô thường của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo không thể được. Nói tướng lạc, khổ của bốn Niệm trụ; tướng lạc, khổ của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không thể được. Nói tướng ngã, vô ngã của bốn Niệm trụ; tướng ngã, vô ngã của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không thể được. Nói tướng tịnh, bất tịnh của bốn Niệm trụ; tướng tịnh, bất tịnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không thể được. Nói tướng không, bất không của bốn Niệm trụ; tướng không, bất không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không thể được. Nói tướng vô tướng, hữu tướng của bốn Niệm trụ; tướng vô tướng, hữu tướng của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không thể được. Nói tướng vô nguyện, hữu nguyện của bốn Niệm trụ; tướng vô nguyện, hữu nguyện của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không thể được. Nói tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Niệm trụ; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không thể được. Nói tướng xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Niệm trụ; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, tướng thường, vô thường của pháp môn giải thoát Không; tướng thường, vô thường của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được. Nói tướng lạc, khổ của pháp môn giải thoát Không; tướng lạc, khổ của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được. Nói tướng ngã, vô ngã của pháp môn giải thoát Không; tướng ngã, vô ngã của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được. Nói tướng tịnh, bất tịnh của pháp môn giải thoát Không; tướng tịnh, bất tịnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được. Nói tướng không, bất không của pháp môn giải thoát Không; tướng không, bất không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được. Nói tướng vô tướng, hữu tướng của pháp môn giải thoát Không; tướng vô tướng, hữu tướng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được. Nói tướng vô nguyện, hữu nguyện của pháp môn giải thoát Không; tướng vô nguyện, hữu nguyện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được. Nói tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Không; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được. Nói tướng xa lìa, chẳng xa lìa của pháp môn giải thoát Không; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, tướng thường, vô thường của Bố thí ba-la-mật-đa; tướng thường, vô thường của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa không thể được. Nói tướng lạc, khổ của Bố thí ba-la-mật-đa; tướng lạc, khổ của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể được. Nói tướng ngã, vô ngã của Bố thí ba-la-mật-đa; tướng ngã, vô ngã của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể được. Nói tướng tịnh, bất tịnh của Bố thí ba-la-mật-đa; tướng tịnh, bất tịnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa không thể được. Nói tướng không, bất không của Bố thí ba-la-mật-đa; tướng không, bất không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể được. Nói tướng vô tướng, hữu tướng của Bố thí ba-la-mật-đa xứ không thể được; nói tướng vô tướng, hữu tướng của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể được. Nói tướng vô nguyện, hữu nguyện của Bố thí ba-la-mật-đa; tướng vô nguyện, hữu nguyện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể được. Nói tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Bố thí ba-la-mật-đa; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể được. Nói tướng xa lìa, chẳng xa lìa của Bố thí ba-lamật-đa; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, tướng thường, vô thường của năm loại mắt; tướng thường, vô thường của sáu phép thần thông không thể được. Nói tướng lạc, khổ của năm loại mắt; tướng lạc, khổ của sáu phép thần thông không thể được. Nói tướng ngã, vô ngã của năm loại mắt; tướng ngã, vô ngã của sáu phép thần thông không thể được. Nói tướng tịnh, bất tịnh của năm loại mắt; tướng tịnh, bất tịnh của sáu phép thần thông không thể được. Nói tướng không, bất không của năm loại mắt; tướng không, bất không của sáu phép thần thông không thể được. Nói tướng vô tướng, hữu tướng của năm loại mắt; tướng vô tướng, hữu tướng của sáu phép thần thông không thể được. Nói tướng vô nguyện, hữu nguyện của năm loại mắt; tướng vô nguyện, hữu nguyện của sáu phép thần thông không thể được. Nói tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của năm loại mắt; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sáu phép thần thông không thể được. Nói tướng xa lìa, chẳng xa lìa của năm loại mắt; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của sáu phép thần thông không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, tướng thường, vô thường nơi mười lực của Phật; tướng thường, vô thường của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không thể được. Nói tướng lạc, khổ nơi mười lực của Phật; tướng lạc, khổ của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng không thể được. Nói tướng ngã, vô ngã nơi mười lực của Phật; tướng ngã, vô ngã của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng không thể được. Nói tướng tịnh, bất tịnh nơi mười lực của Phật; tướng tịnh, bất tịnh của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng không thể được. Nói tướng không, bất không nơi mười lực của Phật; tướng không, bất không của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng không thể được. Nói tướng vô tướng, hữu tướng nơi mười lực của Phật; tướng vô tướng, hữu tướng của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng không thể được. Nói tướng vô nguyện, hữu nguyện nơi mười lực của Phật; tướng vô nguyện, hữu nguyện của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng không thể được. Nói tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh nơi mười lực của Phật; tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng không thể được. Nói tướng xa lìa, chẳng xa lìa nơi mười lực của Phật; tướng xa lìa, chẳng xa lìa của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng không thể được và khuyên theo phép này mà siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu
Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy nói tu pháp bốn Tĩnh lự, tu pháp bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không thể được, mà khuyên theo phép này, siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy nói tu pháp bốn Niệm trụ, tu pháp bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo không thể được, mà khuyên theo phép này, siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy nói tu pháp môn giải thoát Không, tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không thể được, mà khuyên theo phép này, siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy nói tu pháp Bố thí ba-la-mật-đa, tu pháp Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa không thể được, mà khuyên theo phép này, siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy nói tu pháp năm loại mắt, tu pháp sáu phép thần thông không thể được, mà khuyên theo phép này, siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, bậc thiện hữu của các Đại Bồ-tát, nếu là người có khả năng lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy nói tu pháp mười lực của Phật, tu pháp bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không thể được, mà khuyên theo phép này, siêng tu thiện căn, chẳng khiến hướng đến Thanh văn, Độc giác, chỉ khiến chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì này Thiện Hiện, đó chính là thiện hữu của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được sự hỗ trợ của thiện hữu này, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thì tâm của vị ấy không còn kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Bấy giờ, Trưởng lão Thiện Hiện bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt?
Phật bảo Thiện Hiện:
−Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với sự tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đó, có chứng đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí mà tu hành Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa, đối với sự tu hành Tĩnh lự cho đến Bố thí ba-lamật-đa đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí mà tu hành bốn Tĩnh lự, đối với sự tu hành bốn Tĩnh lự đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí mà tu hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, đối với sự tu hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí mà tu hành bốn Niệm trụ, đối với sự tu hành bốn Niệm trụ đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí mà tu hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, đối với sự tu hành bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí mà tu hành pháp môn giải thoát Không, đối với sự tu hành pháp môn giải thoát Không đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí mà tu hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, đối với sự tu hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí mà tu hành năm loại mắt, đối với sự tu hành năm loại mắt đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí mà tu hành sáu phép thần thông, đối với sự tu hành sáu phép thần thông đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí mà tu hành mười lực của Phật, đối với sự tu hành mười lực của Phật đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí mà tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, đối với sự tu hành bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh của sắc, đối với sự quán không của sắc, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức, đối với sự quán không của thọ, tưởng, hành, thức đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của nhãn xứ, đối với sự quán không của nhãn xứ đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, đối với sự quán không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát- nhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của sắc xứ, đối với sự quán không của sắc xứ đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, đối với sự quán không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của nhãn giới, đối với sự quán không của nhãn giới đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, đối với sự quán không của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của nhĩ giới, đối với sự quán không của nhĩ giới đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra, đối với sự quán không của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của tỷ giới, đối với sự quán không của tỷ giới đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra, đối với sự quán không của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của thiệt giới, đối với sự quán không của thiệt giới đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra, đối với sự quán không của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của thân giới, đối với sự quán không của thân giới đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra, đối với sự quán không của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của ý giới, đối với sự quán không của ý giới đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra, đối với sự quán không của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của địa giới, đối với sự quán không của địa giới đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, đối với sự quán không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của Thánh đế khổ, đối với sự quán không của Thánh đế khổ đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo, đối với sự quán không của Thánh đế tập, diệt, đạo đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của vô minh, đối với sự quán không của vô minh đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, đối với sự quán không của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của bốn Tĩnh lự, đối với sự quán không của bốn Tĩnh lự đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, đối với sự quán không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của bốn Niệm trụ, đối với sự quán không của bốn Niệm trụ đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của bốn
Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, đối với sự quán không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của pháp môn giải thoát Không, đối với sự quán không của pháp môn giải thoát Không đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, đối với sự quán không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của Bố thí ba-la-mật-đa, đối với sự quán không của Bố thí ba-la-mật-đa đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với sự quán không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của năm loại mắt, đối với sự quán không của năm loại mắt đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của sáu phép thần thông, đối với sự quán không của sáu phép thần thông đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh nơi mười lực của Phật, đối với sự quán không nơi mười lực của Phật đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện; lìa tâm tương ưng trí Nhất thiết trí quán không bên trong cho đến không không tánh tự tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, đối với sự quán không của bốn điều không sợ cho đến trí Nhất thiết tướng đó, có cái sở đắc, có nương tựa, vì lấy cái có sở đắc làm phương tiện.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, bị dẫn dắt của các ác hữu, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt?
Phật bảo Thiện Hiện:
−Kẻ ác hữu của các Đại Bồ-tát, hoặc bảo nhàm chán, xa lìa pháp tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc bảo nhàm chán, xa lìa pháp tương ưng Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mậtđa, nói như thế này: “Này thiện nam, các ông đối với sáu pháp tương ưng đến bờ kia này, chẳng nên tu học.” Vì sao? Vì pháp này nhất định chẳng phải Như Lai nói, mà do kẻ văn tụng lừa dối tạo ra, vì vậy các ông chẳng nên nghe theo, tu tập, thọ trì, đọc tụng, tư duy, suy cứu, vì người khác mà tuyên thuyết, khai thị.
Thiện Hiện, đó là ác hữu của các Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, bị dẫn dắt của các ác hữu, nghe nói Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, kẻ ác hữu của các Đại Bồ-tát, nếu chẳng nói đến việc ma, tội lỗi của ma, thì có ác ma hiện làm hình Phật đến dạy Đại Bồ-tát nhàm chán xa lìa sáu pháp Ba-la-mật-đa, kẻ ấy nói: “Thiện nam, nay ông cần gì tu Ba-la-mật-đa này! Nay ông cần gì tu Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa này!”
Thiện Hiện, đó là ác hữu của các Đại Bồ-tát, vì nếu chẳng nói những việc như vậy, thì Đại Bồ-tát đã được giác ngộ rồi!
Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, bị dẫn dắt của các ác hữu, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, kẻ ác hữu của các Đại Bồ-tát, nếu chẳng nói đến việc ma, tội lỗi của ma thì có ác ma hiện làm hình Phật đến nói pháp tương ưng Thanh văn, Độc giác cho Đại Bồ-tát, đó là Khế kinh cho đến luận nghị, phân biệt, khai thị khuyên phải tu học.
Thiện Hiện, đó là ác hữu của các Đại Bồ-tát, vì nếu chẳng nói những việc như vậy, thì Đại Bồ-tát đã được giác ngộ rồi.
Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, bị dẫn dắt của các ác hữu, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, kẻ ác hữu của các Đại Bồ-tát, nếu chẳng nói đến việc của ma, tội lỗi của ma thì có ác ma hiện làm hình Phật đi đến chỗ Đại Bồ-tát, kẻ ấy nói: “Thiện nam, như ông thì không có chủng tánh Bồ-tát, không có tâm Bồ-đề chân thật, chẳng có khả năng chứng đắc bậc không thoái chuyển, cũng chẳng có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột!”
Thiện Hiện, đó là ác hữu của các Đại Bồ-tát, vì nếu chẳng nói những việc như vậy, Đại Bồ-tát đã được giác ngộ rồi.
Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, bị dẫn dắt của các ác hữu, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, kẻ ác hữu của các Đại Bồ-tát, nếu chẳng nói đến việc ma, tội lỗi của ma thì có ác ma hiện làm hình Phật, đi đến chỗ Đại Bồ-tát, nói:
–Thiện nam, sắc là không, không có ngã, ngã sở; thọ, tưởng, hành, thức là không, không có ngã, ngã sở; nhãn xứ là không, không có ngã, ngã sở; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, không có ngã, ngã sở; sắc xứ là không, không có ngã, ngã sở; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, không có ngã, ngã sở; nhãn giới là không, không có ngã, ngã sở; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là không, không có ngã, ngã sở; nhĩ giới là không, không có ngã, ngã sở; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra là không, không có ngã, ngã sở; tỷ giới là không, không có ngã, ngã sở; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra là không, không có ngã, ngã sở; thiệt giới là không, không có ngã, ngã sở; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra là không, không có ngã, ngã sở; thân giới là không, không có ngã, ngã sở; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra là không, không có ngã, ngã sở; ý giới là không, không có ngã, ngã sở; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra là không, không có ngã, ngã sở; địa giới là không, không có ngã, ngã sở; thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, không có ngã, ngã sở; Thánh đế khổ là không, không có ngã, ngã sở; Thánh đế tập, diệt, đạo là không, không có ngã, ngã sở; vô minh là không, không có ngã, ngã sở; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não là không, không có ngã, ngã sở; bốn Tĩnh lự là không, không có ngã, ngã sở; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là không, không có ngã, ngã sở; bốn Niệm trụ là không, không có ngã, ngã sở; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo là không, không có ngã, ngã sở; pháp môn giải thoát Không là không, không có ngã, ngã sở; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là không, không có ngã, ngã sở; Bố thí bala-mật-đa là không, không có ngã, ngã sở; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa là không, không có ngã, ngã sở; năm loại mắt là không, không có ngã, ngã sở; sáu phép thần thông là không, không có ngã, ngã sở; mười lực của Phật là không, không có ngã, ngã sở; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là không, không có ngã, ngã sở. Này thiện nam, các pháp đều là không, không có ngã, ngã sở thì ai có thể tu tập sáu pháp đến bờ kia; ai có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột? Dù cho chứng quả vị Giác ngộ đi nữa, thì dùng để làm gì?
Thiện Hiện, đó là ác hữu của các Đại Bồ-tát, vì nếu chẳng nói những việc như vậy, thì Đại Bồ-tát đã được giác ngộ rồi.
Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, bị dẫn dắt của các ác hữu, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, kẻ ác hữu của các Đại Bồ-tát, nếu chẳng nói đến việc ma, tội lỗi của ma thì có ác ma hiện làm hình Phật, đi đến chỗ Đại Bồ-tát, kẻ ấy nói: “Thiện nam, mười phương đều không; chư Phật, Bồ-tát và chúng Thanh văn đều không có.”
Thiện Hiện, đó là ác hữu của các Đại Bồ-tát, vì nếu chẳng nói những việc như vậy, Đại Bồ-tát đã được giác ngộ rồi.
Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, bị dẫn dắt của các ác hữu, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, kẻ ác hữu của các Đại Bồ-tát, nếu chẳng nói đến việc ma, tội lỗi của ma có ác ma hiện làm hình Thanh văn, đi đến chỗ Đại Bồ-tát, chê bai pháp tương ưng trí Nhất thiết trí, khiến khởi lên ý nghĩ rất nhàm chán, xa lìa; khen ngợi pháp tương ưng Thanh văn, Độc giác, khiến khởi lên ý nghĩ rất ưa thích.
Thiện Hiện, đó là ác hữu của các Đại Bồ-tát, vì nếu chẳng nói những việc như vậy, Đại Bồ-tát đã được giác ngộ rồi.
Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, bị dẫn dắt của các ác hữu, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, kẻ ác hữu của các Đại Bồ-tát, nếu chẳng nói đến việc ma, tội lỗi của ma có ác ma hiện làm hình bậc thầy mô phạm, đi đến chỗ Đại Bồ-tát dạy bảo, khiến cho nhàm chán, xa lìa thắng hạnh của Bồ-tát, đó là bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; và khiến nhàm chán, xa lìa trí Nhất thiết trí, đó là năm loại mắt, sáu phép thần thông, mười lực của Phật cho đến trí Nhất thiết tướng; chỉ dạy tu tập ba pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện. Người học pháp này mau chứng quả Thanh văn, hoặc Độc giác cứu cánh an lạc; cần gì phải siêng năng cực khổ cầu đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột?
Thiện Hiện, đó là ác hữu của các Đại Bồ-tát, vì nếu chẳng nói những việc như vậy, Đại Bồ-tát đã được giác ngộ rồi.
Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, bị dẫn dắt của các ác hữu, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, kẻ ác hữu của các Đại Bồ-tát, nếu không nói đến việc ma, tội lỗi của ma, thì có ác ma hiện làm hình cha mẹ, đi đến chỗ Đại Bồ-tát, bảo rằng: “Này con, con nên siêng năng cầu chứng các quả vị Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, đủ để được vĩnh viễn xa lìa đại khổ sinh tử, mau chứng Niết-bàn cứu cánh an lạc. Cần gì phải cầu đạt quả vị Giác ngộ xa xôi. Người cầu giác ngộ, cần phải trải qua vô lượng, vô số đại kiếp luân hồi sinh tử, giáo hóa hữu tình, xả thân, xả mạng, chặt đứt các bộ phận nơi cơ thể, chỉ tự chuốc lấy sự lao khổ. Con mang ân của ai? Việc cầu giác ngộ của con hoặc là đạt được, hoặc là chẳng đạt được?”
Thiện Hiện, đó là ác hữu của các Đại Bồ-tát, vì nếu chẳng nói những việc như vậy, thì Đại Bồ-tát đã được giác ngộ rồi.
Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, bị dẫn dắt của các ác hữu, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, kẻ ác hữu của các Đại Bồ-tát, nếu chẳng nói đến việc ma, tội lỗi của ma thì có ác ma hiện làm hình các Bí-sô, đi đến chỗ Đại Bồ-tát, lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của sắc, có thể được, tướng thường, vô thường của thọ, tưởng, hành, thức, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của sắc, tướng lạc, khổ của thọ, tưởng, hành, thức có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của sắc, tướng ngã, vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của sắc, tướng tịnh, bất tịnh của thọ, tưởng, hành, thức có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của sắc, tướng không, bất không của thọ, tưởng, hành, thức có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của sắc, tướng vô tướng, hữu tướng của thọ, tưởng, hành, thức có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của sắc, tướng vô nguyện, hữu nguyện của thọ, tưởng, hành, thức có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sắc, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thọ, tưởng, hành, thức có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của sắc, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thọ, tưởng, hành, thức có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của nhãn xứ, có thể được, nói tướng thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của nhãn xứ, tướng lạc, khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của nhãn xứ, tướng ngã, vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của nhãn xứ, tướng tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của nhãn xứ, tướng không, bất không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của nhãn xứ, tướng vô tướng, hữu tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của nhãn xứ, tướng vô nguyện, hữu nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhãn xứ, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của nhãn xứ, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của sắc xứ, có thể được, nói tướng thường, vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của sắc xứ, tướng lạc, khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của sắc xứ, tướng ngã, vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của sắc xứ, tướng tịnh, bất tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của sắc xứ, tướng không, bất không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của sắc xứ, tướng vô tướng, hữu tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của sắc xứ, tướng vô nguyện, hữu nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sắc xứ, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của sắc xứ, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của nhãn giới, có thể được, nói tướng thường, vô thường của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của nhãn giới, tướng lạc, khổ của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của nhãn giới, tướng ngã, vô ngã của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của nhãn giới, tướng tịnh, bất tịnh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của nhãn giới, tướng không, bất không của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của nhãn giới, tướng vô tướng, hữu tướng của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của nhãn giới, tướng vô nguyện, hữu nguyện của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhãn giới, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của nhãn giới, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của nhĩ giới, có thể được, nói tướng thường, vô thường của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của nhĩ giới, tướng lạc, khổ của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của nhĩ giới, tướng ngã, vô ngã của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của nhĩ giới, tướng tịnh, bất tịnh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của nhĩ giới, tướng không, bất không của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của nhĩ giới, tướng vô tướng, hữu tướng của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của nhĩ giới, tướng vô nguyện, hữu nguyện của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của nhĩ giới, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của nhĩ giới, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của tỷ giới, có thể được, nói tướng thường, vô thường của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của tỷ giới, tướng lạc, khổ của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của tỷ giới, tướng ngã, vô ngã của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của tỷ giới, tướng tịnh, bất tịnh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của tỷ giới, tướng không, bất không của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của tỷ giới, tướng vô tướng, hữu tướng của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của tỷ giới, tướng vô nguyện, hữu nguyện của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của tỷ giới, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của tỷ giới, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của thiệt giới, có thể được, nói tướng thường, vô thường của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của thiệt giới, tướng lạc, khổ của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của thiệt giới, tướng ngã, vô ngã của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của thiệt giới, tướng tịnh, bất tịnh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của thiệt giới, tướng không, bất không của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của thiệt giới, tướng vô tướng, hữu tướng của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của thiệt giới, tướng vô nguyện, hữu nguyện của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thiệt giới, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thiệt giới, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của thân giới, có thể được, nói tướng thường, vô thường của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của thân giới, tướng lạc, khổ của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của thân giới, tướng ngã, vô ngã của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của thân giới, tướng tịnh, bất tịnh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của thân giới, tướng không, bất không của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của thân giới, tướng vô tướng, hữu tướng của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của thân giới, tướng vô nguyện, hữu nguyện của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thân giới, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thân giới, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của ý giới, có thể được, nói tướng thường, vô thường của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của ý giới, tướng lạc, khổ của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của ý giới, tướng ngã, vô ngã của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của ý giới, tướng tịnh, bất tịnh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của ý giới, tướng không, bất không của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của ý giới, tướng vô tướng, hữu tướng của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của ý giới, tướng vô nguyện, hữu nguyện của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của ý giới, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của ý giới, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của địa giới, có thể được, nói tướng thường, vô thường của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của địa giới, tướng lạc, khổ của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của địa giới, tướng ngã, vô ngã của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của địa giới, tướng tịnh, bất tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của địa giới, tướng không, bất không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của địa giới, tướng vô tướng, hữu tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của địa giới, tướng vô nguyện, hữu nguyện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của địa giới, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của địa giới, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của Thánh đế khổ, có thể được, nói tướng thường, vô thường của Thánh đế tập, diệt, đạo, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của Thánh đế khổ, tướng lạc, khổ của Thánh đế tập, diệt, đạo có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của Thánh đế khổ, tướng ngã, vô ngã của Thánh đế tập, diệt, đạo có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của Thánh đế khổ, tướng tịnh, bất tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của Thánh đế khổ, tướng không, bất không của Thánh đế tập, diệt, đạo có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của Thánh đế khổ, tướng vô tướng, hữu tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của Thánh đế khổ, tướng vô nguyện, hữu nguyện của Thánh đế tập, diệt, đạo có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Thánh đế khổ, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Thánh đế tập, diệt, đạo có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của Thánh đế khổ, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của Thánh đế tập, diệt, đạo có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của vô minh, có thể được, nói tướng thường, vô thường của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của vô minh, tướng lạc, khổ của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của vô minh, tướng ngã, vô ngã của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của vô minh, tướng tịnh, bất tịnh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của vô minh, tướng không, bất không của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của vô minh, tướng vô tướng, hữu tướng của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của vô minh, tướng vô nguyện, hữu nguyện của hành cho đến lão tử có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của vô minh, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của vô minh, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của bốn Tĩnh lự, có thể được, nói tướng thường, vô thường của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của bốn Tĩnh lự, tướng lạc, khổ của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của bốn Tĩnh lự, tướng ngã, vô ngã của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của bốn Tĩnh lự, tướng tịnh, bất tịnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của bốn Tĩnh lự, tướng không, bất không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của bốn Tĩnh lự, tướng vô tướng, hữu tướng của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của bốn Tĩnh lự, tướng vô nguyện, hữu nguyện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Tĩnh lự, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Tĩnh lự, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của bốn Niệm trụ, có thể được, nói tướng thường, vô thường của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của bốn Niệm trụ, tướng lạc, khổ của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của bốn Niệm trụ, tướng ngã, vô ngã của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của bốn Niệm trụ, tướng tịnh, bất tịnh của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của bốn Niệm trụ, tướng không, bất không của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của bốn Niệm trụ, tướng vô tướng, hữu tướng của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của bốn Niệm trụ, tướng vô nguyện, hữu nguyện của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Niệm trụ, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Niệm trụ, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của pháp môn giải thoát Không, có thể được, nói tướng thường, vô thường của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của pháp môn giải thoát Không, tướng lạc, khổ của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của pháp môn giải thoát Không, tướng ngã, vô ngã của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của pháp môn giải thoát Không, tướng tịnh, bất tịnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của pháp môn giải thoát Không, tướng không, bất không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của pháp môn giải thoát Không, tướng vô tướng, hữu tướng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của pháp môn giải thoát Không, tướng vô nguyện, hữu nguyện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Không, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của pháp môn giải thoát Không, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của Bố thí ba-la-mật-đa, có thể được, nói tướng thường, vô thường của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của Bố thí ba-la-mật-đa, tướng lạc, khổ của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của Bố thí ba-la-mật-đa, tướng ngã, vô ngã của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của Bố thí ba-la-mật-đa, tướng tịnh, bất tịnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của Bố thí ba-la-mật-đa, tướng không, bất không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của Bố thí ba-la-mật-đa, tướng vô tướng, hữu tướng của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của Bố thí ba-la-mật-đa, tướng vô nguyện, hữu nguyện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Bố thí ba-la-mật-đa, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của Bố thí ba-la-mật-đa, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường của năm loại mắt, có thể được, nói tướng thường, vô thường của sáu phép thần thông, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ của năm loại mắt, tướng lạc, khổ của sáu phép thần thông có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã của năm loại mắt, tướng ngã, vô ngã của sáu phép thần thông có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh của năm loại mắt, tướng tịnh, bất tịnh của sáu phép thần thông có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không của năm loại mắt, tướng không, bất không của sáu phép thần thông có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng của năm loại mắt, tướng vô tướng, hữu tướng của sáu phép thần thông có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện của năm loại mắt, tướng vô nguyện, hữu nguyện của sáu phép thần thông có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của năm loại mắt, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của sáu phép thần thông có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa của năm loại mắt, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của sáu phép thần thông có thể được.
Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng thường, vô thường nơi mười lực của Phật, có thể được, nói tướng thường, vô thường của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng lạc, khổ nơi mười lực của Phật, tướng lạc, khổ của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng ngã, vô ngã nơi mười lực của Phật, tướng ngã, vô ngã của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịnh, bất tịnh nơi mười lực của Phật, tướng tịnh, bất tịnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng không, bất không nơi mười lực của Phật, tướng không, bất không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô tướng, hữu tướng nơi mười lực của Phật, tướng vô tướng, hữu tướng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng vô nguyện, hữu nguyện nơi mười lực của Phật, tướng vô nguyện, hữu nguyện của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh nơi mười lực của Phật, tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có thể được. Lấy sở đắc làm phương tiện, nói về tướng xa lìa, chẳng xa lìa nơi mười lực của Phật, tướng xa lìa, chẳng xa lìa của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có thể được.
Thiện Hiện, đó là ác hữu của các Đại Bồ-tát, vì nếu chẳng nói những việc như vậy, Đại Bồ-tát đã được giác ngộ rồi.
Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, bị sự dẫn dắt của các ác hữu, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Lại nữa Thiện Hiện, kẻ ác hữu của các Đại Bồ-tát, nếu chẳng nói đến việc ma, tội lỗi của ma thì có ác ma hiện làm hình Đại Bồ-tát, đi đến chỗ Đại Bồ-tát, khuyên quán không bên trong, có sở đắc; khuyên quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, đều có sở đắc. Khuyên tu bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, có sở đắc. Khuyên tu bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, có sở đắc. Khuyên tu pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, có sở đắc. Khuyên tu Bố thí ba-la-mật-đa, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, có sở đắc. Khuyên tu năm loại mắt, sáu phép thần thông có sở đắc. Khuyên tu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng đều có sở đắc.
Thiện Hiện, đó là ác hữu của các Đại Bồ-tát, vì nếu không nói những việc như vậy, thì Đại Bồ-tát đã được giác ngộ rồi.
Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, bị dẫn dắt của các ác hữu, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, tâm của vị ấy có sự kinh khiếp, hãi hùng, sợ sệt.
Vì vậy, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, đối với các ác hữu phải mau xa lìa.
[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]