SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

HỘI THỨ I

PHẨM 26: HỌC BÁT-NHÃ
(QUYỂN 85 - 89)

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.

QUYỂN 85

QUYỂN 86

QUYỂN 87

QUYỂN 88

QUYỂN 89

 


QUYỂN 85

PHẨM 26: HỌC BÁT-NHÃ (1)

Khi ấy, Thiên đế Thích suy nghĩ:

−Tôn giả Thiện Hiện, trí tuệ hết mực thâm diệu, chẳng hủy bỏ giả danh mà giảng nói pháp tánh.

Phật biết ý nghĩ của Đế Thích liền ấn chứng rằng:

−Như điều mà Kiều-thi-ca đã nghĩ, đúng là Cụ thọ Thiện Hiện trí tuệ thâm diệu chẳng hủy bỏ giả danh mà giảng nói pháp tánh.

Thiên đế Thích liền bạch Phật:

−Tôn giả Thiện Hiện, đối với những pháp nào, chẳng hủy bỏ giả danh mà nói giảng pháp tánh? Phật bảo:

−Kiều-thi-ca, sắc chỉ là giả danh; thọ, tưởng, hành, thức chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh sắc... ấy mà nói pháp tánh của sắc... Vì sao? Vì pháp tánh của sắc... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, nhãn xứ chỉ là giả danh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh nhãn xứ... ấy mà nói pháp tánh của nhãn xứ... vì sao? Vì pháp tánh của nhãn xứ... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, sắc xứ chỉ là giả danh; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh sắc xứ... ấy mà nói pháp tánh của sắc xứ... vì sao? Vì pháp tánh của sắc xứ... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, nhãn giới chỉ là giả danh; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh nhãn giới... ấy mà nói pháp tánh của nhãn giới... vì sao? Vì pháp tánh của nhãn giới... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, nhĩ giới chỉ là giả danh; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh nhĩ giới... ấy mà nói pháp tánh của nhĩ giới... vì sao? Vì pháp tánh của nhĩ giới... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, tỷ giới chỉ là giả danh; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh tỷ giới... ấy mà nói pháp tánh của tỷ giới... vì sao? Vì pháp tánh của tỷ giới... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, thiệt giới chỉ là giả danh; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh thiệt giới... ấy mà nói pháp tánh của thiệt giới... vì sao? Vì pháp tánh của thiệt giới... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, thân giới chỉ là giả danh; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh thân giới... ấy mà nói pháp tánh của thân giới... vì sao? Vì pháp tánh của thân giới... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, ý giới chỉ là giả danh; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh ý giới... ấy mà nói pháp tánh của ý giới... vì sao? Vì pháp tánh của ý giới... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, địa giới chỉ là giả danh; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh địa giới... ấy mà nói pháp tánh của địa giới... vì sao? Vì pháp tánh của địa giới... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, Thánh đế khổ chỉ là giả danh; Thánh đế tập, diệt, đạo chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh Thánh đế khổ... ấy mà nói pháp tánh của Thánh đế khổ... vì sao? Vì pháp tánh của Thánh đế khổ... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, vô minh chỉ là giả danh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh vô minh... ấy mà nói pháp tánh của vô minh... vì sao? Vì pháp tánh của vô minh... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, pháp không bên trong chỉ là giả danh; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh pháp không bên trong... ấy mà nói pháp tánh của pháp không bên trong... vì sao? Vì pháp tánh của pháp không bên trong... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, chân như chỉ là giả danh; pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh chân như... ấy mà nói pháp tánh của chân như... vì sao? Vì pháp tánh của chân như... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, Bố thí ba-la-mật-đa chỉ là giả danh; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh Bố thí ba-la-mật-đa... ấy mà nói pháp tánh của Bố thí ba-la-mật-đa... vì sao? Vì pháp tánh của Bố thí ba-la-mật-đa... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, bốn Tĩnh lự chỉ là giả danh; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh bốn Tĩnh lự... ấy mà nói pháp tánh của bốn Tĩnh lự... vì sao? Vì pháp tánh của bốn Tĩnh lự... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, tám Giải thoát chỉ là giả danh; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh tám Giải thoát... ấy mà nói pháp tánh của tám Giải thoát... vì sao? Vì pháp tánh của tám Giải thoát... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại. Kiều-thi-ca, bốn Niệm trụ chỉ là giả danh; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh bốn Niệm trụ... ấy mà nói pháp tánh của bốn Niệm trụ... vì sao? Vì pháp tánh của bốn Niệm trụ... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, pháp môn giải thoát Không chỉ là giả danh; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh pháp môn giải thoát Không... ấy mà nói pháp tánh của pháp môn giải thoát Không... vì sao? Vì pháp tánh của pháp môn giải thoát Không... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, năm loại mắt chỉ là giả danh; sáu phép thần thông chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh năm loại mắt... ấy mà nói pháp tánh của năm loại mắt... vì sao? Vì pháp tánh của năm loại mắt... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, mười lực của Phật chỉ là giả danh; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh mười lực của Phật... ấy mà nói pháp tánh của mười lực của Phật... vì sao? Vì pháp tánh của mười lực của Phật... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, pháp không quên mất chỉ là giả danh; tánh luôn luôn xả chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh pháp không quên mất... ấy mà nói pháp tánh của pháp không quên mất... vì sao? Vì pháp tánh của pháp không quên mất... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại. Kiều-thi-ca, trí Nhất thiết chỉ là giả danh; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh trí Nhất thiết... ấy mà nói pháp tánh của trí Nhất thiết... vì sao? Vì pháp tánh của trí Nhất thiết... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, tất cả pháp môn Đà-la-ni chỉ là giả danh; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh tất cả pháp môn Đàla-ni... ấy mà nói pháp tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni... vì sao? Vì pháp tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, Dự lưu chỉ là giả danh; Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh Dự lưu... ấy mà nói pháp tánh của Dự lưu... vì sao? Vì pháp tánh của Dự lưu... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, Dự lưu hướng, Dự lưu quả chỉ là giả danh; Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh Dự lưu hướng, Dự lưu quả... ấy mà nói pháp tánh của Dự lưu hướng, Dự lưu quả... vì sao? Vì pháp tánh của Dự lưu hướng, Dự lưu quả... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, Độc giác chỉ là giả danh; Độc giác hướng, Độc giác quả chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh Độc giác... ấy mà nói pháp tánh của Độc giác... vì sao? Vì pháp tánh của Độc giác... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát chỉ là giả danh; Tammiệu-tam Phật-đà chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh Đại Bồ-tát... ấy mà nói pháp tánh của Đại Bồ-tát... vì sao? Vì pháp tánh của Đại Bồ-tát... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, pháp của Đại Bồ-tát chỉ là giả danh; quả vị Giác ngộ cao tột chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh pháp của Đại Bồ-tát... ấy mà nói pháp tánh của pháp của Đại Bồ-tát... vì sao? Vì pháp tánh của pháp của Đại Bồ-tát... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, Thanh văn thừa chỉ là giả danh; Độc giác thừa, Vô thượng thừa chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hủy bỏ giả danh Thanh văn thừa... ấy mà nói pháp tánh của Thanh văn thừa... vì sao? Vì pháp tánh của Thanh văn thừa... là không hoại, không chẳng hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều-thi-ca, Cụ thọ Thiện Hiện đối với những pháp ấy chẳng hủy bỏ giả danh mà nói về pháp tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện nói với Đế Thích:

−Kiều-thi-ca, đúng vậy, đúng vậy! Như lời Phật dạy, các pháp sở hữu đều là giả danh.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát biết tất cả pháp là giả danh rồi, nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi sắc, chẳng học nơi thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong sắc có cái để học; chẳng thấy trong thọ, tưởng, hành, thức có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi nhãn xứ, chẳng học nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong nhãn xứ có cái để học; chẳng thấy trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi sắc xứ, chẳng học nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong sắc xứ có cái để học; chẳng thấy trong thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi nhãn giới, chẳng học nơi sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong nhãn giới có cái để học; chẳng thấy trong sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi nhĩ giới, chẳng học nơi thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong nhĩ giới có cái để học; chẳng thấy trong thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi tỷ giới, chẳng học nơi hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong tỷ giới có cái để học; chẳng thấy trong hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi thiệt giới, chẳng học nơi vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong thiệt giới có cái để học; chẳng thấy trong vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi thân giới, chẳng học nơi xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong thân giới có cái để học; chẳng thấy trong xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi ý giới, chẳng học nơi pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong ý giới có cái để học; chẳng thấy trong pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi địa giới, chẳng học nơi thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồtát ấy chẳng thấy trong địa giới có cái để học; chẳng thấy trong thủy, hỏa, phong, không, thức giới có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi Thánh đế khổ, chẳng học nơi Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong Thánh đế khổ có cái để học; chẳng thấy trong Thánh đế tập, diệt, đạo có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi vô minh, chẳng học nơi hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong vô minh có cái để học; chẳng thấy trong hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi pháp không bên trong, chẳng học nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong pháp không bên trong có cái để học; chẳng thấy trong pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi chân như, chẳng học nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong chân như có cái để học; chẳng thấy trong pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng học nơi Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong Bố thí ba-la-mật-đa có cái để học; chẳng thấy trong Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi bốn Tĩnh lự, chẳng học nơi bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồtát ấy chẳng thấy trong bốn Tĩnh lự có cái để học; chẳng thấy trong bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi tám Giải thoát, chẳng học nơi tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Vì sao? Kiềuthi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong tám Giải thoát có cái để học; chẳng thấy trong tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi bốn Niệm trụ, chẳng học nơi bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo. Vì sao? Kiều-thica, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong bốn Niệm trụ có cái để học; chẳng thấy trong bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi pháp môn giải thoát Không, chẳng học nơi pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong pháp môn giải thoát Không có cái để học; chẳng thấy trong pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi năm loại mắt, chẳng học nơi sáu phép thần thông. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong năm loại mắt có cái để học; chẳng thấy trong sáu phép thần thông có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi mười lực của Phật, chẳng học nơi bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong mười lực của Phật có cái để học; chẳng thấy trong bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi pháp không quên mất, chẳng học nơi tánh luôn luôn xả. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong pháp không quên mất có cái để học; chẳng thấy trong tánh luôn luôn xả có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi trí Nhất thiết, chẳng học nơi trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong trí Nhất thiết có cái để học; chẳng thấy trong trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng học nơi tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong tất cả pháp môn Đà-la-ni có cái để học; chẳng thấy trong tất cả pháp môn Tam-ma-địa có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi Dự lưu, chẳng học nơi Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong Dự lưu có cái để học; chẳng thấy trong Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi Dự lưu hướng, Dự lưu quả, chẳng học nơi Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong Dự lưu hướng, Dự lưu quả có cái để học; chẳng thấy trong Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi Độc giác, chẳng học nơi Độc giác hướng, Độc giác quả. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong Độc giác có cái để học; chẳng thấy trong Độc giác hướng, Độc giác quả có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi Đại Bồ-tát, chẳng học nơi Tam-miệu-tam Phật-đà. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong Đại Bồ-tát có cái để học; chẳng thấy trong Tam-miệu-tam Phật-đà có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi pháp của Đại Bồ-tát, chẳng học nơi quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong pháp của Đại Bồtát có cái để học; chẳng thấy trong quả vị Giác ngộ cao tột có cái để học.

Kiều-thi-ca, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học nơi Thanh văn thừa, chẳng học nơi Độc giác thừa, Vô thượng thừa. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trong Thanh văn thừa có cái để học; chẳng thấy trong Độc giác thừa, Vô thượng thừa có cái để học.

Thiên đế Thích hỏi Thiện Hiện:

−Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy sắc, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy nhãn xứ, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy sắc xứ, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy nhãn giới, chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy nhĩ giới, chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy tỷ giới, chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy thiệt giới, chẳng thấy vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy thân giới, chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy ý giới, chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy địa giới, chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy Thánh đế khổ, chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy vô minh, chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy pháp không bên trong, chẳng thấy pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy chân như, chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy Bố thí bala-mật-đa, chẳng thấy Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy bốn Tĩnh lự, chẳng thấy bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy tám Giải thoát, chẳng thấy tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy bốn Niệm trụ, chẳng thấy bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy pháp môn giải thoát Không, chẳng thấy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồtát chẳng thấy năm loại mắt, chẳng thấy sáu phép thần thông? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy mười lực của Phật, chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy pháp không quên mất, chẳng thấy tánh luôn luôn xả? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy trí Nhất thiết, chẳng thấy trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng thấy tất cả pháp môn Tamma-địa? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồtát chẳng thấy Dự lưu, chẳng thấy Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy Dự lưu hướng, Dự lưu quả, chẳng thấy Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy Độc giác, chẳng thấy Độc giác hướng, Độc giác quả? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy Đại Bồ-tát, chẳng thấy Tammiệu-tam Phật-đà? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy pháp của Đại Bồ-tát, chẳng thấy quả vị Giác ngộ cao tột? Bạch Đại đức, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát chẳng thấy Thanh văn thừa, chẳng thấy Độc giác thừa, Vô thượng thừa?

Thiện Hiện đáp:

−Kiều-thi-ca, vì sắc và tánh của sắc là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy sắc; vì thọ, tưởng, hành, thức và tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức.

Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy sắc nên chẳng học nơi sắc, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức nên chẳng học nơi thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của sắc thấy cái không của sắc, chẳng lẽ cái không của thọ, tưởng, hành, thức thấy cái không của thọ, tưởng, hành, thức. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của sắc học ở cái không của sắc, chẳng lẽ cái không của thọ, tưởng, hành, thức học ở cái không của thọ, tưởng, hành, thức.

Kiều-thi-ca, vì nhãn xứ và tánh của nhãn xứ là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy nhãn xứ; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy nhãn xứ nên chẳng học nơi nhãn xứ; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ nên chẳng học nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của nhãn xứ thấy cái không của nhãn xứ; chẳng lẽ cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thấy cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của nhãn xứ học ở cái không của nhãn xứ; chẳng lẽ cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ học ở cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Kiều-thi-ca, vì sắc xứ và tánh của sắc xứ là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy sắc xứ; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy sắc xứ nên chẳng học nơi sắc xứ; chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nên chẳng học nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của sắc xứ thấy cái không của sắc xứ; chẳng lẽ cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thấy cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của sắc xứ học ở cái không của sắc xứ; chẳng lẽ cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ học ở cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Kiều-thi-ca, vì nhãn giới và tánh của nhãn giới là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy nhãn giới; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra và tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra. Kiều-thica, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy nhãn giới nên chẳng học nơi nhãn giới; vì chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra nên chẳng học nơi sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của nhãn giới thấy cái không của nhãn giới; vì chẳng lẽ cái không của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra thấy cái không của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của nhãn giới học ở cái không của nhãn giới; vì chẳng lẽ cái không của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra học ở cái không của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.

Kiều-thi-ca, vì nhĩ giới và tánh của nhĩ giới là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy nhĩ giới; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra và tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy nhĩ giới nên chẳng học nơi nhĩ giới; vì chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra nên chẳng học nơi thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của nhĩ giới thấy cái không của nhĩ giới; vì chẳng lẽ cái không của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra thấy cái không của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của nhĩ giới học ở cái không của nhĩ giới; vì chẳng lẽ cái không của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra học ở cái không của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.

Kiều-thi-ca, vì tỷ giới và tánh của tỷ giới là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy tỷ giới; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra và tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra. Kiều-thica, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy tỷ giới nên chẳng học nơi tỷ giới; vì chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra nên chẳng học nơi hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của tỷ giới thấy cái không của tỷ giới; vì chẳng lẽ cái không của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra thấy cái không của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra. Kiều-thica, vì chẳng lẽ cái không của tỷ giới học ở cái không của tỷ giới; vì chẳng lẽ cái không của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra học ở cái không của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.

Kiều-thi-ca, vì thiệt giới và tánh của thiệt giới là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy thiệt giới; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra và tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra. Kiều-thica, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy thiệt giới nên chẳng học nơi thiệt giới; vì chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra nên chẳng học nơi vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của thiệt giới thấy cái không của thiệt giới; vì chẳng lẽ cái không của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra thấy cái không của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của thiệt giới học ở cái không của thiệt giới; vì chẳng lẽ cái không của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra học ở cái không của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.

Kiều-thi-ca, vì thân giới và tánh của thân giới là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy thân giới; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra và tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra. Kiều-thica, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy thân giới nên chẳng học nơi thân giới; vì chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra nên chẳng học nơi xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của thân giới thấy cái không của thân giới; vì chẳng lẽ cái không của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra thấy cái không của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của thân giới học ở cái không của thân giới; vì chẳng lẽ cái không của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra học ở cái không của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.

Kiều-thi-ca, vì ý giới và tánh của ý giới là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy ý giới; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra và tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy ý giới nên chẳng học nơi ý giới; vì chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra nên chẳng học nơi pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của ý giới thấy cái không của ý giới; vì chẳng lẽ cái không của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra thấy cái không của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của ý giới học ở cái không của ý giới; vì chẳng lẽ cái không của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra học ở cái không của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.

Kiều-thi-ca, vì địa giới và tánh của địa giới là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy địa giới; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy địa giới nên chẳng học nơi địa giới; vì chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên chẳng học nơi thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Kiềuthi-ca, vì chẳng lẽ cái không của địa giới thấy cái không của địa giới; vì chẳng lẽ cái không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới thấy cái không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của địa giới học ở cái không của địa giới; vì chẳng lẽ cái không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới học ở cái không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

QUYỂN 86

PHẨM 26: HỌC BÁT-NHÃ (2)

Kiều-thi-ca, vì Thánh đế khổ và tánh của Thánh đế khổ là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy Thánh đế khổ; vì Thánh đế tập, diệt, đạo và tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không, nên Đại Bồtát chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo. Kiều-thica, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy Thánh đế khổ nên chẳng học nơi Thánh đế khổ; vì chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo nên chẳng học nơi Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của Thánh đế khổ thấy cái không của Thánh đế khổ; vì chẳng lẽ cái không của Thánh đế tập, diệt, đạo thấy cái không của Thánh đế tập, diệt, đạo. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của Thánh đế khổ học ở cái không của Thánh đế khổ; vì chẳng lẽ cái không của Thánh đế tập, diệt, đạo học ở cái không của Thánh đế tập, diệt, đạo.

Kiều-thi-ca, vì vô minh và tánh của vô minh là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy vô minh; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não và tánh của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy vô minh nên chẳng học nơi vô minh; vì chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não nên chẳng học nơi hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của vô minh thấy cái không của vô minh; vì chẳng lẽ cái không của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não thấy cái không của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não. Kiềuthi-ca, vì chẳng lẽ cái không của vô minh học ở cái không của vô minh; vì chẳng lẽ cái không của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não học ở cái không của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.

Kiều-thi-ca, vì pháp không bên trong và tánh của pháp không bên trong là không, nên Đại Bồtát chẳng thấy pháp không bên trong; vì pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và tánh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy pháp không bên trong nên chẳng học nơi pháp không bên trong; vì chẳng thấy pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh nên chẳng học nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của pháp không bên trong thấy cái không của pháp không bên trong; vì chẳng lẽ cái không của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh thấy cái không của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh. Kiều-thica, vì chẳng lẽ cái không của pháp không bên trong học ở cái không của pháp không bên trong; vì chẳng lẽ cái không của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh học ở cái không của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Kiều-thi-ca, vì chân như và tánh của chân như là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy chân như; vì pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn và tánh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy chân như nên chẳng học nơi chân như; vì chẳng thấy pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn nên chẳng học nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của chân như thấy cái không của chân như; vì chẳng lẽ cái không của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thấy cái không của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của chân như học ở cái không của chân như; vì chẳng lẽ cái không của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn học ở cái không của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.

Kiều-thi-ca, vì Bố thí ba-la-mật-đa và tánh của Bố thí ba-la-mật-đa là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy Bố thí ba-la-mật-đa; vì Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và tánh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy Bố thí ba-la-mật-đa nên chẳng học nơi Bố thí ba-la-mật-đa; vì chẳng thấy Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa nên chẳng học nơi Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của Bố thí ba-la-mật-đa thấy cái không của Bố thí ba-la-mật-đa; vì chẳng lẽ cái không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa thấy cái không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của Bố thí ba-la-mật-đa học ở cái không của Bố thí bala-mật-đa; vì chẳng lẽ cái không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa học ở cái không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Kiều-thi-ca, vì bốn Tĩnh lự và tánh của bốn Tĩnh lự là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy bốn Tĩnh lự; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc và tánh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy bốn Tĩnh lự nên chẳng học nơi bốn Tĩnh lự; vì chẳng thấy bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc nên chẳng học nơi bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của bốn Tĩnh lự thấy cái không của bốn Tĩnh lự; vì chẳng lẽ cái không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thấy cái không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Kiềuthi-ca, vì chẳng lẽ cái không của bốn Tĩnh lự học ở cái không của bốn Tĩnh lự; vì chẳng lẽ cái không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc học ở cái không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.

Kiều-thi-ca, vì tám Giải thoát và tánh của tám Giải thoát là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy tám Giải thoát; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ và tánh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là không, nên Đại Bồtát chẳng thấy tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy tám Giải thoát nên chẳng học nơi tám Giải thoát; vì chẳng thấy tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ nên chẳng học nơi tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Vì sao? Kiềuthi-ca, vì chẳng lẽ cái không của tám Giải thoát thấy cái không của tám Giải thoát; vì chẳng lẽ cái không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ thấy cái không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của tám Giải thoát học ở cái không của tám Giải thoát; vì chẳng lẽ cái không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ học ở cái không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.

Kiều-thi-ca, vì bốn Niệm trụ và tánh của bốn Niệm trụ là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy bốn Niệm trụ; vì bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo và tánh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy bốn Niệm trụ nên chẳng học nơi bốn Niệm trụ; vì chẳng thấy bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo nên chẳng học nơi bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của bốn Niệm trụ thấy cái không của bốn Niệm trụ; vì chẳng lẽ cái không của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo thấy cái không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của bốn Niệm trụ học ở cái không của bốn Niệm trụ; vì chẳng lẽ cái không của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo học ở cái không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.

Kiều-thi-ca, vì pháp môn giải thoát Không và tánh của pháp môn giải thoát Không là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy pháp môn giải thoát Không; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện và tánh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy pháp môn giải thoát Không nên chẳng học nơi pháp môn giải thoát Không; vì chẳng thấy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện nên chẳng học nơi pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của pháp môn giải thoát Không thấy cái không của pháp môn giải thoát Không; vì chẳng lẽ cái không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện thấy cái không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của pháp môn giải thoát Không học ở cái không của pháp môn giải thoát Không; vì chẳng lẽ cái không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện học ở cái không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.

Kiều-thi-ca, vì năm loại mắt và tánh của năm loại mắt là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy năm loại mắt; vì sáu phép thần thông và tánh của sáu phép thần thông là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy sáu phép thần thông. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồtát chẳng thấy năm loại mắt nên chẳng học nơi năm loại mắt; vì chẳng thấy sáu phép thần thông nên chẳng học nơi sáu phép thần thông. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của năm loại mắt thấy cái không của năm loại mắt; vì chẳng lẽ cái không của sáu phép thần thông thấy cái không của sáu phép thần thông. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của năm loại mắt học ở cái không của năm loại mắt; vì chẳng lẽ cái không của sáu phép thần thông học ở cái không của sáu phép thần thông.

Kiều-thi-ca, vì mười lực của Phật và tánh nơi mười lực của Phật là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy mười lực của Phật; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng và tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy mười lực của Phật nên chẳng học nơi mười lực của Phật; vì chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng nên chẳng học nơi bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không nơi mười lực của Phật thấy cái không nơi mười lực của Phật; vì chẳng lẽ cái không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng thấy cái không của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không nơi mười lực của Phật học ở cái không nơi mười lực của Phật; vì chẳng lẽ cái không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng học ở cái không của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Kiều-thi-ca, vì pháp không quên mất và tánh của pháp không quên mất là không, nên Đại Bồtát chẳng thấy pháp không quên mất; vì tánh luôn luôn xả và tánh của tánh luôn luôn xả là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy tánh luôn luôn xả. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy pháp không quên mất nên chẳng học nơi pháp không quên mất; vì chẳng thấy tánh luôn luôn xả nên chẳng học nơi tánh luôn luôn xả. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của pháp không quên mất thấy cái không của pháp không quên mất; vì chẳng lẽ cái không của tánh luôn luôn xả thấy cái không của tánh luôn luôn xả. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của pháp không quên mất học ở cái không của pháp không quên mất; vì chẳng lẽ cái không của tánh luôn luôn xả học ở cái không của tánh luôn luôn xả.

Kiều-thi-ca, vì trí Nhất thiết và tánh của trí Nhất thiết là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy trí Nhất thiết; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng và tánh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy trí Nhất thiết nên chẳng học nơi trí Nhất thiết; vì chẳng thấy trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng nên chẳng học nơi trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của trí Nhất thiết thấy cái không của trí Nhất thiết; vì chẳng lẽ cái không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thấy cái không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của trí Nhất thiết học ở cái không của trí Nhất thiết; vì chẳng lẽ cái không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng học ở cái không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.

Kiều-thi-ca, vì tất cả pháp môn Đà-la-ni và tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni nên chẳng học nơi tất cả pháp môn Đà-la-ni; vì chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa nên chẳng học nơi tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của tất cả pháp môn Đà-la-ni thấy cái không của tất cả pháp môn Đà-la-ni; vì chẳng lẽ cái không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa thấy cái không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của tất cả pháp môn Đà-la-ni học ở cái không của tất cả pháp môn Đà-la-ni; vì chẳng lẽ cái không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa học ở cái không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Kiều-thi-ca, vì Dự lưu và tánh của Dự lưu là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy Dự lưu; vì Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và tánh của Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy Dự lưu nên chẳng học nơi Dự lưu; vì chẳng thấy Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán nên chẳng học nơi Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của Dự lưu thấy cái không của Dự lưu; vì chẳng lẽ cái không của Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán thấy cái không của Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Kiều-thica, vì chẳng lẽ cái không của Dự lưu học ở cái không của Dự lưu; vì chẳng lẽ cái không của Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán học ở cái không của Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Kiều-thi-ca, vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả và tánh của Dự lưu hướng, Dự lưu quả là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy Dự lưu hướng, Dự lưu quả; vì Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả và tánh của Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy Dự lưu hướng, Dự lưu quả nên chẳng học nơi Dự lưu hướng, Dự lưu quả; vì chẳng thấy Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả nên chẳng học nơi Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của Dự lưu hướng, Dự lưu quả thấy cái không của Dự lưu hướng, Dự lưu quả; vì chẳng lẽ cái không của Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả thấy cái không của Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của Dự lưu hướng, Dự lưu quả học ở cái không của Dự lưu hướng, Dự lưu quả; vì chẳng lẽ cái không của Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả học ở cái không của Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả.

Kiều-thi-ca, vì Độc giác và tánh của Độc giác là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy Độc giác; vì Độc giác hướng, Độc giác quả và tánh của Độc giác hướng, Độc giác quả là không, nên Đại Bồtát chẳng thấy Độc giác hướng, Độc giác quả. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy Độc giác nên chẳng học nơi Độc giác; vì chẳng thấy Độc giác hướng, Độc giác quả nên chẳng học nơi Độc giác hướng, Độc giác quả. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của Độc giác thấy cái không của Độc giác; vì chẳng lẽ cái không của Độc giác hướng, Độc giác quả thấy cái không của Độc giác hướng, Độc giác quả. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của Độc giác học ở cái không của Độc giác; vì chẳng lẽ cái không của Độc giác hướng, Độc giác quả học ở cái không của Độc giác hướng, Độc giác quả.

Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát và tánh của Đại Bồtát là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy Đại Bồtát; vì Tam-miệu-tam Phật-đà và tánh của Tammiệu-tam Phật-đà là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy Tam-miệu-tam Phật-đà. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy Đại Bồ-tát nên chẳng học nơi Đại Bồ-tát; vì chẳng thấy Tam-miệu-tam Phật-đà nên chẳng học nơi Tam-miệu-tam Phật-đà. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của Đại Bồ-tát thấy cái không của Đại Bồ-tát; vì chẳng lẽ cái không của Tam-miệu-tam Phật-đà thấy cái không của Tam-miệu-tam Phật-đà. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của Đại Bồ-tát học ở cái không của Đại Bồ-tát; vì chẳng lẽ cái không của Tam-miệu-tam Phật-đà học ở cái không của Tammiệu-tam Phật-đà.

Kiều-thi-ca, vì pháp của Đại Bồ-tát và tánh nơi pháp của Đại Bồ-tát là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy pháp của Đại Bồ-tát; vì quả vị Giác ngộ cao tột và tánh của quả vị Giác ngộ cao tột là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy quả vị Giác ngộ cao tột. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy pháp của Đại Bồ-tát nên chẳng học nơi pháp của Đại Bồ-tát; vì chẳng thấy quả vị Giác ngộ cao tột nên chẳng học nơi quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không nơi pháp của Đại Bồ-tát thấy cái không nơi pháp của Đại Bồtát; vì chẳng lẽ cái không của quả vị Giác ngộ cao tột thấy cái không của quả vị Giác ngộ cao tột. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không nơi pháp của Đại Bồ-tát học ở cái không nơi pháp của Đại Bồtát; vì chẳng lẽ cái không của quả vị Giác ngộ cao tột học ở cái không của quả vị Giác ngộ cao tột.

Kiều-thi-ca, vì Thanh văn thừa và tánh của Thanh văn thừa là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy Thanh văn thừa; vì Độc giác thừa, Vô thượng thừa và tánh của Độc giác thừa, Vô thượng thừa là không, nên Đại Bồ-tát chẳng thấy Độc giác thừa, Vô thượng thừa. Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát chẳng thấy Thanh văn thừa nên chẳng học nơi Thanh văn thừa; vì chẳng thấy Độc giác thừa, Vô thượng thừa nên chẳng học nơi Độc giác thừa, Vô thượng thừa. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của Thanh văn thừa thấy cái không của Thanh văn thừa; vì chẳng lẽ cái không của Độc giác thừa, Vô thượng thừa thấy cái không của Độc giác thừa, Vô thượng thừa. Kiều-thi-ca, vì chẳng lẽ cái không của Thanh văn thừa học ở cái không của Thanh văn thừa; vì chẳng lẽ cái không của Độc giác thừa, Vô thượng thừa học ở cái không của Độc giác thừa, Vô thượng thừa.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của sắc, chẳng học ở cái không của thọ, tưởng, hành, thức tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của sắc, đã học ở cái không của thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của nhãn xứ, chẳng học ở cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của nhãn xứ, đã học ở cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của sắc xứ, chẳng học ở cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của sắc xứ, đã học ở cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của nhãn giới, chẳng học ở cái không của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của nhãn giới, đã học ở cái không của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của nhĩ giới, chẳng học ở cái không của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của nhĩ giới, đã học ở cái không của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của tỷ giới, chẳng học ở cái không của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của tỷ giới, đã học ở cái không của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của thiệt giới, chẳng học ở cái không của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của thiệt giới, đã học ở cái không của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của thân giới, chẳng học ở cái không của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của thân giới, đã học ở cái không của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của ý giới, chẳng học ở cái không của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của ý giới, đã học ở cái không của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của địa giới, chẳng học ở cái không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới tức là Đại Bồtát ấy đã học ở cái không của địa giới, đã học ở cái không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của Thánh đế khổ, chẳng học ở cái không của Thánh đế tập, diệt, đạo tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của Thánh đế khổ, đã học ở cái không của Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của vô minh, chẳng học ở cái không của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của vô minh, đã học ở cái không của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của pháp không bên trong, chẳng học ở cái không của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của pháp không bên trong, đã học ở cái không của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của chân như, chẳng học ở cái không của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của chân như, đã học ở cái không của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng học ở cái không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của Bố thí ba-la-mật-đa, đã học ở cái không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của bốn Tĩnh lự, chẳng học ở cái không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của bốn Tĩnh lự, đã học ở cái không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của tám Giải thoát, chẳng học ở cái không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của tám Giải thoát, đã học ở cái không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của bốn Niệm trụ, chẳng học ở cái không của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của bốn Niệm trụ, đã học ở cái không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của pháp môn giải thoát Không, chẳng học ở cái không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của pháp môn giải thoát Không, đã học ở cái không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của năm loại mắt, chẳng học ở cái không của sáu phép thần thông tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của năm loại mắt, đã học ở cái không của sáu phép thần thông. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không nơi mười lực của Phật, chẳng học ở cái không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không nơi mười lực của Phật, đã học ở cái không của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của pháp không quên mất, chẳng học ở cái không của tánh luôn luôn xả tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của pháp không quên mất, đã học ở cái không của tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của trí Nhất thiết, chẳng học ở cái không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của trí Nhất thiết, đã học ở cái không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng học ở cái không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của tất cả pháp môn Đà-la-ni, đã học ở cái không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của Dự lưu, chẳng học ở cái không của Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của Dự lưu, đã học ở cái không của Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của Dự lưu hướng, Dự lưu quả, chẳng học ở cái không của Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-lahán quả tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của Dự lưu hướng, Dự lưu quả, đã học ở cái không của Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của Độc giác, chẳng học ở cái không của Độc giác hướng, Độc giác quả tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của Độc giác, đã học ở cái không của Độc giác hướng, Độc giác quả. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của Đại Bồ-tát, chẳng học ở cái không của Tam-miệu-tam Phật-đà tức là Đại Bồ-tát ấy đã học ở cái không của Đại Bồ-tát, đã học ở cái không của Tam-miệu-tam Phật-đà. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không nơi pháp của Đại Bồ-tát, chẳng học ở cái không của quả vị Giác ngộ cao tột tức là Đại Bồtát ấy đã học ở cái không nơi pháp của Đại Bồ-tát, đã học ở cái không của quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng học ở cái không của Thanh văn thừa, chẳng học ở cái không của Độc giác thừa, Vô thượng thừa tức là Đại Bồtát ấy đã học ở cái không của Thanh văn thừa, đã học ở cái không của Độc giác thừa, Vô thượng thừa. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của sắc không có hai phần, học ở cái không của thọ, tưởng, hành, thức không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của nhãn xứ không có hai phần, học ở cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của sắc xứ không có hai phần, học ở cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của nhãn giới không có hai phần, học ở cái không của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của nhĩ giới không có hai phần, học ở cái không của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của tỷ giới không có hai phần, học ở cái không của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của thiệt giới không có hai phần, học ở cái không của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của thân giới không có hai phần, học ở cái không của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của ý giới không có hai phần, học ở cái không của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của địa giới không có hai phần, học ở cái không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của Thánh đế khổ không có hai phần, học ở cái không của Thánh đế tập, diệt, đạo không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của vô minh không có hai phần, học ở cái không của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của pháp không bên trong không có hai phần, học ở cái không của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của chân như không có hai phần, học ở cái không của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của Bố thí ba-la-mật-đa không có hai phần, học ở cái không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của bốn Tĩnh lự không có hai phần, học ở cái không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của tám Giải thoát không có hai phần, học ở cái không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của bốn Niệm trụ không có hai phần, học ở cái không của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của pháp môn giải thoát Không không có hai phần, học ở cái không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của năm loại mắt không có hai phần, học ở cái không của sáu phép thần thông không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không nơi mười lực của Phật không có hai phần, học ở cái không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của pháp không quên mất không có hai phần, học ở cái không của tánh luôn luôn xả không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của trí Nhất thiết không có hai phần, học ở cái không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của tất cả pháp môn Đà-la-ni không có hai phần, học ở cái không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của Dự lưu không có hai phần, học ở cái không của Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của Dự lưu hướng, Dự lưu quả không có hai phần, học ở cái không của Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của Độc giác không có hai phần, học ở cái không của Độc giác hướng, Độc giác quả không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của Đại Bồ-tát không có hai phần, học ở cái không của Tam-miệu-tam Phật-đà không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không nơi pháp của Đại Bồ-tát không có hai phần, học ở cái không của quả vị Giác ngộ cao tột không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát học ở cái không của Thanh văn thừa không có hai phần, học ở cái không của Độc giác thừa, Vô thượng thừa không có hai phần.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở Bố thí ba-la-mật-đa, có khả năng học ở Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở pháp không bên trong, có khả năng học ở pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở chân như, có khả năng học ở pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở Thánh đế khổ, có khả năng học ở Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở bốn Tĩnh lự, có khả năng học ở bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở tám Giải thoát, có khả năng học ở tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở bốn Niệm trụ, có khả năng học ở bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở pháp môn giải thoát Không, có khả năng học ở pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở năm loại mắt, có khả năng học ở sáu phép thần thông. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở mười lực của Phật, có khả năng học ở bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở pháp không quên mất, có khả năng học ở tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở trí Nhất thiết, có khả năng học ở trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở tất cả pháp môn Đà-la-ni, có khả năng học ở tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở Dự lưu, có khả năng học ở Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở Dự lưu hướng, Dự lưu quả, có khả năng học ở Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở Độc giác, có khả năng học ở Độc giác hướng, Độc giác quả. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở Đại Bồ-tát, có khả năng học ở Tam-miệu-tam Phật-đà. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở pháp của Đại Bồ-tát, có khả năng học ở quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy có khả năng học ở Thanh văn thừa, có khả năng học ở Độc giác thừa, Vô thượng thừa. Vì sao? Vì không có hai phần.

QUYỂN 87

PHẨM 26: HỌC BÁT-NHÃ (3)

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở Bố thí ba-la-mật-đa không có hai phần, có khả năng học ở Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở pháp không bên trong không có hai phần, có khả năng học ở pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở chân như không có hai phần, có khả năng học ở pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở Thánh đế khổ không có hai phần, có khả năng học ở Thánh đế tập, diệt, đạo không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở bốn Tĩnh lự không có hai phần, có khả năng học ở bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở tám Giải thoát không có hai phần, có khả năng học ở tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở bốn Niệm trụ không có hai phần, có khả năng học ở bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở pháp môn giải thoát Không không có hai phần, có khả năng học ở pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở năm loại mắt không có hai phần, có khả năng học ở sáu phép thần thông không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở mười lực của Phật không có hai phần, có khả năng học ở bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng không có hai phần, thì Đại Bồtát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở pháp không quên mất không có hai phần, có khả năng học ở tánh luôn luôn xả không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở trí Nhất thiết không có hai phần, có khả năng học ở trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở tất cả pháp môn Đà-la-ni không có hai phần, có khả năng học ở tất cả pháp môn Tam-ma-địa không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở bậc Dự lưu không có hai phần, có khả năng học ở Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở bậc Dự lưu hướng, Dự lưu quả không có hai phần, có khả năng học ở bậc Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở bậc Độc giác không có hai phần, có khả năng học ở bậc Độc giác hướng, Độc giác quả không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở bậc Đại Bồ-tát không có hai phần, có khả năng học ở bậc Tam-miệu-tam Phật-đà không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở pháp của Đại Bồ-tát không có hai phần, có khả năng học ở quả vị Giác ngộ cao tột không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học ở Thanh văn thừa không có hai phần, có khả năng học ở Độc giác thừa, Vô thượng thừa không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của sắc mà học, chẳng vì sự tăng giảm của thọ, tưởng, hành, thức mà học. Vì sao? Vì sắc uẩn… không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của nhãn xứ mà học, chẳng vì sự tăng giảm của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học. Vì sao? Vì nhãn xứ… không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của sắc xứ mà học, chẳng vì sự tăng giảm của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học. Vì sao? Vì sắc xứ... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của nhãn giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học. Vì sao? Vì nhãn giới… không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của nhĩ giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra mà học. Vì sao? Vì nhĩ giới... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của tỷ giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra mà học. Vì sao? Vì tỷ giới... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của thiệt giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra mà học. Vì sao? Vì thiệt giới... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của thân giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra mà học. Vì sao? Vì thân giới… không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của ý giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra mà học. Vì sao? Vì ý giới... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của địa giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học. Vì sao? Vì địa giới… không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Thánh đế khổ mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học. Vì sao? Vì Thánh đế khổ... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của vô minh mà học, chẳng vì sự tăng giảm của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học. Vì sao? Vì vô minh… không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của pháp không bên trong mà học, chẳng vì sự tăng giảm của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà học. Vì sao? Vì pháp không bên trong... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của chân như mà học, chẳng vì sự tăng giảm của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học. Vì sao? Vì chân như... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Bố thí ba-la-mật-đa mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà học. Vì sao? Vì Bố thí ba-la-mật-đa... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của bốn Tĩnh lự mà học, chẳng vì sự tăng giảm của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học. Vì sao? Vì bốn Tĩnh lự... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của tám Giải thoát mà học, chẳng vì sự tăng giảm của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học. Vì sao? Vì tám Giải thoát... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của bốn Niệm trụ mà học, chẳng vì sự tăng giảm của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà học. Vì sao? Vì bốn Niệm trụ... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của pháp môn giải thoát Không mà học, chẳng vì sự tăng giảm của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát Không... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của năm loại mắt mà học, chẳng vì sự tăng giảm của sáu phép thần thông mà học. Vì sao? Vì năm loại mắt... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm nơi mười lực của Phật mà học, chẳng vì sự tăng giảm của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà học. Vì sao? Vì mười lực của Phật... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của pháp không quên mất mà học, chẳng vì sự tăng giảm của tánh luôn luôn xả mà học. Vì sao? Vì pháp không quên mất... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của trí Nhất thiết mà học, chẳng vì sự tăng giảm của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học. Vì sao? Vì trí Nhất thiết... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Dự lưu mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học. Vì sao? Vì Dự lưu... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Dự lưu hướng, Dự lưu quả mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả mà học. Vì sao? Vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Độc giác mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Độc giác hướng, Độc giác quả mà học. Vì sao? Vì Độc giác... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Tam-miệu-tam Phật-đà mà học. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm nơi pháp của Đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự tăng giảm của quả vị Giác ngộ cao tột mà học. Vì sao? Vì pháp của Đại Bồ-tát... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát có khả năng học pháp Phật thanh tịnh vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Thanh văn thừa mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Độc giác thừa, Vô thượng thừa mà học. Vì sao? Vì Thanh văn thừa... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của sắc mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của thọ, tưởng, hành, thức mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học. Vì sao? Vì sắc uẩn... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của nhãn xứ mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học. Vì sao? Vì nhãn xứ... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của sắc xứ mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học. Vì sao? Vì sắc xứ... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của nhãn giới mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học. Vì sao? Vì nhãn giới... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của nhĩ giới mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra mà học. Vì sao? Vì nhĩ giới... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của tỷ giới mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tỷ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra mà học. Vì sao? Vì tỷ giới... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của thiệt giới mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thiệt giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra mà học. Vì sao? Vì thiệt giới... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của thân giới mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thân giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra mà học. Vì sao? Vì thân giới... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của ý giới mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của ý giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra mà học. Vì sao? Vì ý giới... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của địa giới mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của địa giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học. Vì sao? Vì địa giới... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Thánh đế khổ mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, không có hai phần, thì Đại Bồtát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế khổ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học. Vì sao? Vì Thánh đế khổ... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của vô minh mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vô minh mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học. Vì sao? Vì vô minh... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của pháp không bên trong mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không bên trong mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học. Vì sao? Vì pháp không bên trong... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của chân như mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của chân như mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học. Vì sao? Vì chân như... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Bố thí ba-la-mật-đa mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Bố thí ba-la-mật-đa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà học. Vì sao? Vì Bố thí ba-la-mật-đa... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của bốn Tĩnh lự mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn Tĩnh lự mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học. Vì sao? Vì bốn Tĩnh lự... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của tám Giải thoát mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám Giải thoát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học. Vì sao? Vì tám Giải thoát... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của bốn Niệm trụ mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn Niệm trụ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà học. Vì sao? Vì bốn Niệm trụ... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của pháp môn giải thoát Không mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát Không mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát Không... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của năm loại mắt mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của sáu phép thần thông mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của năm loại mắt mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sáu phép thần thông mà học. Vì sao? Vì năm loại mắt... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm nơi mười lực của Phật mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt nơi mười lực của Phật mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà học. Vì sao? Vì mười lực của Phật... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của pháp không quên mất mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của tánh luôn luôn xả mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không quên mất mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tánh luôn luôn xả mà học. Vì sao? Vì pháp không quên mất... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của trí Nhất thiết mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học, không có hai phần, thì Đại Bồtát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí Nhất thiết mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học. Vì sao? Vì trí Nhất thiết... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Dự lưu mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự lưu mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học. Vì sao? Vì Dự lưu... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Dự lưu hướng, Dự lưu quả mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự lưu hướng, Dự lưu quả mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả mà học. Vì sao? Vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Độc giác mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Độc giác hướng, Độc giác quả mà học, không có hai phần, thì Đại Bồtát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc giác mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc giác hướng, Độc giác quả mà học. Vì sao? Vì Độc giác... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Đại Bồ-tát mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Tam-miệu-tam Phật-đà mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Tammiệu-tam Phật-đà mà học. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm nơi pháp của Đại Bồ-tát mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của quả vị Giác ngộ cao tột mà học, không có hai phần, thì Đại Bồtát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt nơi pháp của Đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của quả vị Giác ngộ cao tột mà học. Vì sao? Vì pháp của Đại Bồ-tát... không có hai phần.

Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Thanh văn thừa mà học, không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Độc giác thừa, Vô thượng thừa mà học, không có hai phần, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thanh văn thừa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc giác thừa, Vô thượng thừa mà học. Vì sao? Vì Thanh văn thừa... không có hai phần.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

−Này Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tỷ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thiệt giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thân giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của ý giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của địa giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế khổ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vô minh mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không bên trong mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của chân như mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Bố thí ba-la-mật-đa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn Tĩnh lự mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám Giải thoát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn Niệm trụ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát Không mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của năm loại mắt mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sáu phép thần thông mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt nơi mười lực của Phật mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không quên mất mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tánh luôn luôn xả mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí Nhất thiết mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tất cả pháp môn Đàla-ni mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự lưu mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự lưu hướng, Dự lưu quả mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc giác mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc giác hướng, Độc giác quả mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Tam-miệutam Phật-đà mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt nơi pháp của Đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của quả vị Giác ngộ cao tột mà học chăng?

Thiện Hiện, khi Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thanh văn thừa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc giác thừa, Vô thượng thừa mà học chăng?

QUYỂN 88

PHẨM 26: HỌC BÁT-NHÃ (4)

Thiện Hiện đáp:

–Đúng vậy, đúng vậy, Xá-lợi Tử! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tỷ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thiệt giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thân giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của ý giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của địa giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế khổ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vô minh mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không bên trong mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của chân như mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Bố thí ba-la-mật-đa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn Tĩnh lự mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám Giải thoát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn Niệm trụ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát Không mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của năm loại mắt mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sáu phép thần thông mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt nơi mười lực của Phật mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không quên mất mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tánh luôn luôn xả mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí Nhất thiết mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tất cả pháp môn Tam-mađịa mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự lưu mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự lưu hướng, Dự lưu quả mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc giác mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc giác hướng, Độc giác quả mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Tam-miệu-tam Phật-đà mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt nơi pháp của Đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của quả vị Giác ngộ cao tột mà học.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Khi Đại Bồtát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thanh văn thừa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc giác thừa, Vô thượng thừa mà học.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

−Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tỷ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thiệt giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thân giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của ý giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của địa giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế khổ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vô minh mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không bên trong mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của chân như mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Bố thí ba-la-mật-đa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn Tĩnh lự mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám Giải thoát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn Niệm trụ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát Không mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của năm loại mắt mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sáu phép thần thông mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt nơi mười lực của Phật mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không quên mất mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tánh luôn luôn xả mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí Nhất thiết mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tất cả pháp môn Tam-mađịa mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự lưu mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự lưu hướng, Dự lưu quả mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc giác mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc giác hướng, Độc giác quả mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Tam-miệu-tam Phật-đà mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt nơi pháp của Đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của quả vị Giác ngộ cao tột mà học?

Thiện Hiện, vì duyên cớ gì mà Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thanh văn thừa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc giác thừa, Vô thượng thừa mà học?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

−Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có sắc là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ sắc và hoại diệt; chẳng thấy có thọ, tưởng, hành, thức là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ thọ, tưởng, hành, thức và hoại diệt. Vì sao? Vì sắc uẩn... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có nhãn xứ là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ nhãn xứ và hoại diệt; chẳng thấy có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và hoại diệt. Vì sao? Vì nhãn xứ... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có sắc xứ là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ sắc xứ và hoại diệt; chẳng thấy có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và hoại diệt. Vì sao? Vì sắc xứ... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có nhãn giới là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ nhãn giới và hoại diệt; chẳng thấy có sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra và hoại diệt. Vì sao? Vì nhãn giới... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có nhĩ giới là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ nhĩ giới và hoại diệt; chẳng thấy có thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra và hoại diệt. Vì sao? Vì nhĩ giới... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có tỷ giới là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ tỷ giới và hoại diệt; chẳng thấy có hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra và hoại diệt. Vì sao? Vì tỷ giới... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có thiệt giới là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ thiệt giới và hoại diệt; chẳng thấy có vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra và hoại diệt. Vì sao? Vì thiệt giới... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có thân giới là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ thân giới và hoại diệt; chẳng thấy có xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra và hoại diệt. Vì sao? Vì thân giới... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có ý giới là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ ý giới và hoại diệt; chẳng thấy có pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra và hoại diệt. Vì sao? Vì ý giới... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có địa giới là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ địa giới và hoại diệt; chẳng thấy có thủy, hỏa, phong, không, thức giới là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ thủy, hỏa, phong, không, thức giới và hoại diệt. Vì sao? Vì địa giới... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có Thánh đế khổ là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ Thánh đế khổ và hoại diệt; chẳng thấy có Thánh đế tập, diệt, đạo là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo và hoại diệt. Vì sao? Vì Thánh đế khổ... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có vô minh là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ vô minh và hoại diệt; chẳng thấy có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não và hoại diệt. Vì sao? Vì vô minh... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có pháp không bên trong là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ pháp không bên trong và hoại diệt; chẳng thấy có pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh và hoại diệt. Vì sao? Vì pháp không bên trong... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có chân như là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ chân như và hoại diệt; chẳng thấy có pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn và hoại diệt. Vì sao? Vì chân như... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có Bố thí ba-la-mật-đa là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ Bố thí ba-la-mật-đa và hoại diệt; chẳng thấy có Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa và hoại diệt. Vì sao? Vì Bố thí ba-la-mậtđa... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có bốn Tĩnh lự là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ bốn Tĩnh lự và hoại diệt; chẳng thấy có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc và hoại diệt. Vì sao? Vì bốn Tĩnh lự... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có tám Giải thoát là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ tám Giải thoát và hoại diệt; chẳng thấy có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ và hoại diệt. Vì sao? Vì tám Giải thoát... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có bốn Niệm trụ là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ bốn Niệm trụ và hoại diệt; chẳng thấy có bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo và hoại diệt. Vì sao? Vì bốn Niệm trụ... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có pháp môn giải thoát Không là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ pháp môn giải thoát Không và hoại diệt; chẳng thấy có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện và hoại diệt. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát Không... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có năm loại mắt là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ năm loại mắt và hoại diệt; chẳng thấy có sáu phép thần thông là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ sáu phép thần thông và hoại diệt. Vì sao? Vì năm loại mắt... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có mười lực của Phật là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ mười lực của Phật và hoại diệt; chẳng thấy có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng và hoại diệt. Vì sao? Vì mười lực của Phật... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có pháp không quên mất là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ pháp không quên mất và hoại diệt; chẳng thấy có tánh luôn luôn xả là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ tánh luôn luôn xả và hoại diệt. Vì sao? Vì pháp không quên mất... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có trí Nhất thiết là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ trí Nhất thiết và hoại diệt; chẳng thấy có trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng và hoại diệt. Vì sao? Vì trí Nhất thiết... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có tất cả pháp môn Đà-la-ni là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni và hoại diệt; chẳng thấy có tất cả pháp môn Tam-ma-địa là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-mađịa và hoại diệt. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đàla-ni... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có Dự lưu là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ Dự lưu và hoại diệt; chẳng thấy có Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và hoại diệt. Vì sao? Vì Dự lưu... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có Dự lưu hướng, Dự lưu quả là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ Dự lưu hướng, Dự lưu quả và hoại diệt; chẳng thấy có Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả và hoại diệt. Vì sao? Vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có Độc giác là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ Độc giác và hoại diệt; chẳng thấy có Độc giác hướng, Độc giác quả là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ Độc giác hướng, Độc giác quả và hoại diệt. Vì sao? Vì Độc giác... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có Đại Bồ-tát là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ Đại Bồ-tát và hoại diệt; chẳng thấy có Tam-miệutam Phật-đà là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ Tam-miệutam Phật-đà và hoại diệt. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có pháp của Đại Bồ-tát là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ pháp của Đại Bồ-tát và hoại diệt; chẳng thấy có quả vị Giác ngộ cao tột là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ quả vị Giác ngộ cao tột và hoại diệt. Vì sao? Vì pháp của Đại Bồ-tát... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, khi Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng thấy có Thanh văn thừa là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ Thanh văn thừa và hoại diệt; chẳng thấy có Độc giác thừa, Vô thượng thừa là có thể nhiếp thọ và bị hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ có thể nhiếp thọ Độc giác thừa, Vô thượng thừa và hoại diệt. Vì sao? Vì Thanh văn thừa... hoặc năng, hoặc sở, trong, ngoài đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát đối với sắc, đối với thọ, tưởng, hành, thức; đối với nhãn xứ, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; đối với sắc xứ, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; đối với nhãn giới, đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; đối với nhĩ giới, đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra; đối với tỷ giới, đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra; đối với thiệt giới, đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra; đối với thân giới, đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra; đối với ý giới, đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; đối với địa giới, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới; đối với Thánh đế khổ, đối với Thánh đế tập, diệt, đạo; đối với vô minh, đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; đối với pháp không bên trong, đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; đối với chân như, đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; đối với Bố thí ba-la-mật-đa, đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; đối với bốn Tĩnh lự, đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; đối với tám Giải thoát, đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; đối với bốn Niệm trụ, đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; đối với pháp môn giải thoát Không, đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; đối với năm loại mắt, đối với sáu phép thần thông; đối với mười lực của Phật, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; đối với pháp không quên mất, đối với tánh luôn luôn xả; đối với trí Nhất thiết, đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; đối với tất cả pháp môn Đà-lani, đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa; đối với Dự lưu, đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả, đối với Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; đối với Độc giác, đối với Độc giác hướng, Độc giác quả; đối với Đại Bồ-tát, đối với Tam-miệu-tam Phật-đà; đối với pháp của Đại Bồ-tát, đối với quả vị Giác ngộ cao tột; đối với Thanh văn thừa, đối với Độc giác thừa, Vô thượng thừa chẳng thấy là có thể nhiếp thọ và có thể hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ nhiếp thọ và hoại diệt mà học Bát-nhã ba-lamật-đa, thì Đại Bồ-tát ấy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

−Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí chăng?

Thiện Hiện đáp:

−Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì đối với tất cả pháp chẳng vì lấy sự nhiếp thọ, hoại diệt làm phương tiện mà học.

Xá-lợi Tử hỏi:

–Nếu Đại Bồ-tát là người đối với tất cả pháp chẳng vì lấy sự nhiếp thọ, hoại diệt làm phương tiện mà học thì tại sao có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí?

Thiện Hiện đáp:

−Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thấy sắc hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy sắc hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy sắc hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy sắc hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy sắc hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của sắc uẩn... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy nhãn xứ hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy nhãn xứ hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy nhãn xứ hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy nhãn xứ hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy nhãn xứ hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của nhãn xứ... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy sắc xứ hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy sắc xứ hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy sắc xứ hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy sắc xứ hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy sắc xứ hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của sắc xứ... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy nhãn giới hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy nhãn giới hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy nhãn giới hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy nhãn giới hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy nhãn giới hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của nhãn giới... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy nhĩ giới hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy nhĩ giới hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy nhĩ giới hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy nhĩ giới hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy nhĩ giới hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của nhĩ giới... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

QUYỂN 89

PHẨM 26: HỌC BÁT-NHÃ (5)

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy tỷ giới hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy tỷ giới hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy tỷ giới hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy tỷ giới hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy tỷ giới hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của tỷ giới... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy thiệt giới hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy thiệt giới hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy thiệt giới hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy thiệt giới hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy thiệt giới hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của thiệt giới... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy thân giới hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy thân giới hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy thân giới hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy thân giới hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy thân giới hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của thân giới... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy ý giới hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy ý giới hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy ý giới hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy ý giới hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy ý giới hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của ý giới... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy địa giới hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy địa giới hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy địa giới hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy địa giới hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy địa giới hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của địa giới... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy Thánh đế khổ hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy Thánh đế khổ hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy Thánh đế khổ hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy Thánh đế khổ hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy Thánh đế khổ hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của Thánh đế khổ... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy vô minh hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy vô minh hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy vô minh hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy vô minh hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy vô minh hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của vô minh... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy pháp không bên trong hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy pháp không bên trong hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy pháp không bên trong hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy pháp không bên trong hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy pháp không bên trong hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của pháp không bên trong... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy chân như hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy chân như hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy chân như hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy chân như hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy chân như hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của chân như... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy Bố thí ba-la-mật-đa hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy Bố thí ba-la-mật-đa hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy Bố thí ba-la-mật-đa hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy Bố thí ba-la-mật-đa hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy Bố thí ba-la-mật-đa hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của Bố thí ba-la-mật-đa... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy bốn Tĩnh lự hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy bốn Tĩnh lự hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy bốn Tĩnh lự hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy bốn Tĩnh lự hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy bốn Tĩnh lự hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của bốn Tĩnh lự... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy tám Giải thoát hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy tám Giải thoát hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy tám Giải thoát hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy tám Giải thoát hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy tám Giải thoát hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của tám Giải thoát... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy bốn Niệm trụ hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy bốn Niệm trụ hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy bốn Niệm trụ hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy bốn Niệm trụ hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy bốn Niệm trụ hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của bốn Niệm trụ... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy pháp môn giải thoát Không hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy pháp môn giải thoát Không hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy pháp môn giải thoát Không hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy pháp môn giải thoát Không hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy pháp môn giải thoát Không hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của pháp môn giải thoát Không... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy năm loại mắt hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy sáu phép thần thông hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy năm loại mắt hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy sáu phép thần thông hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy năm loại mắt hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy sáu phép thần thông hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy năm loại mắt hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy sáu phép thần thông hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy năm loại mắt hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy sáu phép thần thông hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của năm loại mắt... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy mười lực của Phật hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy mười lực của Phật hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy mười lực của Phật hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy mười lực của Phật hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy mười lực của Phật hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của mười lực của Phật... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy pháp không quên mất hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy tánh luôn luôn xả hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy pháp không quên mất hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy tánh luôn luôn xả hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy pháp không quên mất hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy tánh luôn luôn xả hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy pháp không quên mất hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy tánh luôn luôn xả hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy pháp không quên mất hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy tánh luôn luôn xả hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao?

Vì tánh của pháp không quên mất... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy trí Nhất thiết hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy trí Nhất thiết hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy trí Nhất thiết hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy trí Nhất thiết hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy trí Nhất thiết hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của trí Nhất thiết... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy tất cả pháp môn Tamma-địa hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy Dự lưu hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy Dự lưu hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy Dự lưu hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy Dự lưu hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy Dự lưu hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của Dự lưu... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy Dự lưu hướng, Dự lưu quả hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-lahán hướng, A-la-hán quả hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy Dự lưu hướng, Dự lưu quả hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy Dự lưu hướng, Dự lưu quả hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy Dự lưu hướng, Dự lưu quả hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy Dự lưu hướng, Dự lưu quả hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-lahán hướng, A-la-hán quả hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của Dự lưu hướng, Dự lưu quả... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy Độc giác hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy Độc giác hướng, Độc giác quả hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy Độc giác hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy Độc giác hướng, Độc giác quả hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy Độc giác hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy Độc giác hướng, Độc giác quả hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy Độc giác hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy Độc giác hướng, Độc giác quả hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy Độc giác hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy Độc giác hướng, Độc giác quả hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của Độc giác... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy Đại Bồ-tát hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy Tam-miệu-tam Phật-đà hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy Đại Bồ-tát hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy Tam-miệu-tam Phật-đà hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy Đại Bồ-tát hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy Tam-miệu-tam Phật-đà hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy Đại Bồ-tát hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy Tam-miệu-tam Phật-đà hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy Đại Bồ-tát hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy Tam-miệu-tam Phật-đà hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của Đại Bồtát... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy pháp của Đại Bồ-tát hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy quả vị Giác ngộ cao tột hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy pháp của Đại Bồtát hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy quả vị Giác ngộ cao tột hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy pháp của Đại Bồ-tát hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy quả vị Giác ngộ cao tột hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy pháp của Đại Bồ-tát hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy quả vị Giác ngộ cao tột hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy pháp của Đại Bồ-tát hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy quả vị Giác ngộ cao tột hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của pháp của Đại Bồ-tát... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thấy Thanh văn thừa hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy Độc giác thừa, Vô thượng thừa hoặc sinh, hoặc diệt; chẳng thấy Thanh văn thừa hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy Độc giác thừa, Vô thượng thừa hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy Thanh văn thừa hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy Độc giác thừa, Vô thượng thừa hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy Thanh văn thừa hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy Độc giác thừa, Vô thượng thừa hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy Thanh văn thừa hoặc tăng, hoặc giảm; chẳng thấy Độc giác thừa, Vô thượng thừa hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của Thanh văn thừa... là không, không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy học Bát-nhã ba-lamật-đa như vậy có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Như vậy, Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp, chẳng thấy hoặc sinh hoặc diệt, hoặc thủ hoặc xả, hoặc nhiễm hoặc tịnh, hoặc tụ hoặc tán, hoặc tăng hoặc giảm mà học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có khả năng hoàn thành trí Nhất thiết trí, vì lấy cái vô sở học và cái không hoàn thành làm phương tiện.


Trước

[Đầu trang][Mục lục Kinh Đại Bát Nhã]

Tiếp theo


[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]


[Mục lục tổng quát]