SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

HỘI THỨ I

PHẨM 29: NHIẾP THỌ
(QUYỂN 99 - 103)

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.

QUYỂN 99

QUYỂN 100

QUYỂN 101

QUYỂN 102

QUYỂN 103

 


QUYỂN 99

PHẨM 29: NHIẾP THỌ (1)

Bấy giờ trong chúng hội, Thiên đế Thích..., chúng trời cõi Dục, Phạm thiên vương..., chúng trời cõi Sắc và Thần tiên thiên nữ Y-xá-na, cùng lúc lớn tiếng xướng lên ba lần:

−Hay thay, hay thay! Tôn giả Thiện Hiện vâng theo thần lực Phật, lấy Phật làm chỗ nương, khéo vì trời, người thế gian chúng tôi mà phân biệt khai thị chánh pháp vi diệu, đó là Bát-nhã ba-la-mậtđa. Như có Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này, có khả năng thực hành như lời nói, không hề xa lìa, thì chúng tôi đối với vị ấy sẽ cung kính phụng sự như Phật. Như vậy, trong giáo pháp Bátnhã ba-la-mật-đa hết mực thâm diệu, không có pháp nào có thể nắm bắt được. Đó là, trong ấy:

Không có sắc có thể nắm bắt được; không có thọ, tưởng, hành, thức có thể nắm bắt được.

Không có nhãn xứ có thể nắm bắt được; không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể nắm bắt được.

Không có sắc xứ có thể nắm bắt được; không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể nắm bắt được.

Không có nhãn giới có thể nắm bắt được; không có sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có thể nắm bắt được.

Không có nhĩ giới có thể nắm bắt được; không có thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra có thể nắm bắt được.

Không có tỷ giới có thể nắm bắt được; không có hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra có thể nắm bắt được.

Không có thiệt giới có thể nắm bắt được; không có vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra có thể nắm bắt được.

Không có thân giới có thể nắm bắt được; không có xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra có thể nắm bắt được.

Không có ý giới có thể nắm bắt được; không có pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra có thể nắm bắt được.

Không có địa giới có thể nắm bắt được; không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể nắm bắt được.

Không có Thánh đế khổ có thể nắm bắt được; không có Thánh đế tập, diệt, đạo có thể nắm bắt được.

Không có vô minh có thể nắm bắt được; không có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não có thể nắm bắt được.

Không có pháp không bên trong có thể nắm bắt được; không có pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh có thể nắm bắt được.

Không có chân như có thể nắm bắt được; không có pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có thể nắm bắt được.

Không có Bố thí ba-la-mật-đa có thể nắm bắt được; không có Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể nắm bắt được.

Không có bốn Tĩnh lự có thể nắm bắt được; không có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có thể nắm bắt được.

Không có tám Giải thoát có thể nắm bắt được; không có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có thể nắm bắt được.

Không có bốn Niệm trụ có thể nắm bắt được; không có bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có thể nắm bắt được.

Không có pháp môn giải thoát Không có thể nắm bắt được; không có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có thể nắm bắt được.

Không có năm loại mắt có thể nắm bắt được; không có sáu phép thần thông có thể nắm bắt được.

Không có mười lực của Phật có thể nắm bắt được; không có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng có thể nắm bắt được. Không có pháp không quên mất có thể nắm bắt được; không có tánh luôn luôn xả có thể nắm bắt được.

Không có trí Nhất thiết có thể nắm bắt được; không có trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có thể nắm bắt được.

Không có tất cả pháp môn Đà-la-ni có thể nắm bắt được; không có tất cả pháp môn Tam-ma-địa có thể nắm bắt được.

Không có Dự lưu có thể nắm bắt được; không có Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán có thể nắm bắt được.

Không có Dự lưu hướng, Dự lưu quả có thể nắm bắt được; không có Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể nắm bắt được.

Không có Độc giác có thể nắm bắt được; không có Độc giác hướng, Độc giác quả có thể nắm bắt được.

Không có Đại Bồ-tát có thể nắm bắt được; không có Tam-miệu-tam Phật-đà có thể nắm bắt được.

Không có pháp của Đại Bồ-tát có thể nắm bắt được; không có quả vị Giác ngộ cao tột có thể nắm bắt được.

Không có Thanh văn thừa có thể nắm bắt được; không có Độc giác thừa, Vô thượng thừa có thể nắm bắt được.

Tuy không có các pháp như vậy có thể nắm bắt được nhưng có đặt bày ra giáo pháp của ba thừa, đó là giáo pháp của Thanh văn, Độc giác và Vô thượng thừa.

Bấy giờ, Phật bảo các vị Thiên, Tiên...:

−Đúng vậy, đúng vậy, như các ông đã nói! Ở trong giáo pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa hết mực thâm diệu này, tuy không có các pháp sắc... có thể nắm bắt được nhưng có đặt bày ra giáo pháp của ba thừa. Nếu có Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mậtđa này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, có khả năng thực hành như lời nói, không hề lìa nhau, thì Thiên, Tiên các vị đối với Bồ-tát ấy nên cung kính phụng sự như Như Lai. Các vị nên biết:

Chẳng phải ngay nơi Bố thí ba-la-mật-đa mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Bố thí ba-lamật-đa có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi pháp không bên trong mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa pháp không bên trong có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi chân như mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa chân như có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi Thánh đế khổ mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Thánh đế khổ có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi Thánh đế tập, diệt, đạo mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Thánh đế tập, diệt, đạo có thể đắc Như Lai. Chẳng phải ngay nơi bốn Tĩnh lự mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa bốn Tĩnh lự có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi tám Giải thoát mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa tám Giải thoát có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi bốn Niệm trụ mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa bốn Niệm trụ có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi pháp môn giải thoát Không mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa pháp môn giải thoát Không có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi năm loại mắt mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa năm loại mắt có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi sáu phép thần thông mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa sáu phép thần thông có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi mười lực của Phật mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa mười lực của Phật có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi pháp không quên mất mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa pháp không quên mất có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi tánh luôn luôn xả mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa tánh luôn luôn xả có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi trí Nhất thiết mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa trí Nhất thiết có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi tất cả pháp môn Đà-la-ni mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa tất cả pháp môn Tam-mađịa có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi Dự lưu mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Dự lưu có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi Dự lưu hướng, Dự lưu quả mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Dự lưu hướng, Dự lưu quả có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi Độc giác mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Độc giác có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi Độc giác hướng, Độc giác quả mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Độc giác hướng, Độc giác quả có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi Đại Bồ-tát mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Đại Bồ-tát có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi Tam-miệu-tam Phật-đà mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Tam-miệutam Phật-đà có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi pháp của Đại Bồ-tát mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa pháp của Đại Bồ-tát có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi quả vị Giác ngộ cao tột mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa quả vị Giác ngộ cao tột có thể đắc Như Lai.

Chẳng phải ngay nơi Thanh văn thừa mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Thanh văn thừa có thể đắc Như Lai; chẳng phải ngay nơi Độc giác thừa, Vô thượng thừa mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Độc giác thừa, Vô thượng thừa có thể đắc Như Lai.

Thiên, Tiên các vị nên biết, nếu Đại Bồ-tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì đối với tất cả pháp luôn luôn tinh cần tu học. Đó là:

Học Bố thí ba-la-mật-đa, học Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Học pháp không bên trong, học pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Học chân như, học pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Học các Thánh đế.

Học bốn Tĩnh lự, học bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.

Học tám Giải thoát, học tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.

Học bốn Niệm trụ, học bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo.

Học pháp môn giải thoát Không, học pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.

Học năm loại mắt, học sáu phép thần thông.

Học mười lực của Phật, học bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Học pháp không quên mất, học tánh luôn luôn xả.

Học trí Nhất thiết, học trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.

Học tất cả pháp môn Đà-la-ni, học tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Học Dự lưu Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Học Dự lưu hướng, Dự lưu quả, học Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả.

Học Độc giác, học Độc giác hướng, Độc giác quả.

Học Đại Bồ-tát, học Tam-miệu-tam Phật-đà.

Học pháp của Đại Bồ-tát, học quả vị Giác ngộ cao tột.

Học Thanh văn thừa, học Độc giác thừa, Vô thượng thừa.

Đại Bồ-tát học như vậy nên đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa luôn luôn chuyên nhất tu hành không xao lãng. Vì vậy nên các vị đối với Bồ-tát ấy phải nên cung kính, phụng sự giống như đối với Như Lai. Các vị nên biết, thuở xưa, thời Đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở thế gian, nơi đầu ngã tư đường, trong thành Chúng hoa, trông thấy Phật Nhiên Đăng, Ta liền tung rải năm cành hoa và xõa tóc trên bùn, cầu được nghe pháp vô thượng. Nhờ lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên được:

Chẳng lìa Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng lìa Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa.

Chẳng lìa pháp không bên trong, chẳng lìa pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Chẳng lìa chân như, chẳng lìa pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.

Chẳng lìa các Thánh đế.

Chẳng lìa bốn Tĩnh lự, chẳng lìa bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.

Chẳng lìa tám Giải thoát, chẳng lìa tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.

Chẳng lìa bốn Niệm trụ, chẳng lìa bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo.

Chẳng lìa pháp môn giải thoát Không, chẳng lìa pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.

Chẳng lìa năm loại mắt, chẳng lìa sáu phép thần thông.

Chẳng lìa mười lực của Phật, chẳng lìa bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Chẳng lìa pháp không quên mất, chẳng lìa tánh luôn luôn xả.

Chẳng lìa trí Nhất thiết, chẳng lìa trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.

Chẳng lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng lìa tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Chẳng lìa vô lượng pháp Phật khác.

Khi ấy, Phật Nhiên Đăng liền thọ ký cho Ta đạt quả vị Giác ngộ cao tột, nói rằng:

−Thiện nam tử, vào đời vị lai, trải qua một vô số đại kiếp, ở trong hiền kiếp thế giới này, người sẽ đắc thành quả Phật, hiệu là Năng Tịch Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hành Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc-già-phạm.

Lúc đó, các Thiên, Tiên... bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy rất là hy hữu, khiến các chúng Đại Bồ-tát nhanh chóng có thể thu nhiếp đạt được trí Nhất thiết trí, vì lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đó là:

Đối với sắc, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với thọ, tưởng, hành, thức, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với nhãn xứ, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với sắc xứ, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với nhãn giới, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với nhĩ giới, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với tỷ giới, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với thiệt giới, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với thân giới, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với ý giới, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với địa giới, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với Thánh đế khổ, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với vô minh, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với pháp không bên trong, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với chân như, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với bốn Tĩnh lự, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với tám Giải thoát, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với bốn Niệm trụ, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với pháp môn giải thoát Không, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với năm loại mắt, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với sáu phép thần thông, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với mười lực của Phật, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với pháp không quên mất, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với tánh luôn luôn xả, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với trí Nhất thiết, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với Dự lưu, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-lahán hướng, A-la-hán quả, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với Độc giác, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với Độc giác hướng, Độc giác quả, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với Đại Bồ-tát, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với Tam-miệu-tam Phật-đà, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với pháp của Đại Bồ-tát, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

Đối với Thanh văn thừa, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện; đối với Độc giác thừa, Vô thượng thừa, chẳng giữ chẳng bỏ làm phương tiện.

QUYỂN 100

PHẨM 29: NHIẾP THỌ (2)

Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết rõ bốn chúng, là Bí-sô, Bí-sô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca và các vị Đại Bồ-tát cùng với bốn Đại thiên vương, các Thiên chủ các cõi trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm, trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh, đều tập hợp, hòa hợp để làm chứng, liền bảo Thiên đế Thích:

Kiều-thi-ca, hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bí-sô, Bísô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca, hoặc các Thiên tử, hoặc các Thiên nữ, hoặc các hàng thiện nam, hoặc thiện nữ, chẳng lìa tâm của trí Nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã bala-mật-đa này, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu tập, tư duy đúng theo diệu lý, vì người khác mà diễn giảng, truyền bá rộng rãi, thì nên biết những người ấy không hề bị các ma vương xấu ác và quyến thuộc của chúng có thể quấy nhiễu phá hoại được. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì các thiện nam, thiện nữ... ấy đã khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của sắc; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì sắc uẩn... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của nhãn xứ; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì nhãn xứ... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của sắc xứ; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì sắc xứ... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của nhãn giới; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì nhãn giới... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của nhĩ giới; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì nhĩ giới... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của tỷ giới; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì tỷ giới... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của thiệt giới; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì thiệt giới... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của thân giới; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì thân giới... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của ý giới; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì ý giới... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của địa giới; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì địa giới... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của Thánh đế khổ; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì Thánh đế khổ... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của vô minh; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì vô minh... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của pháp không bên trong; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì pháp không bên trong... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của chân như; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì chân như... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của Bố thí ba-la-mật-đa; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì Bố thí ba-la-mật-đa... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của bốn Tĩnh lự; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì bốn Tĩnh lự... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của tám Giải thoát; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì tám Giải thoát... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của bốn Niệm trụ; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì bốn Niệm trụ... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của pháp môn giải thoát Không; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát Không... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của năm loại mắt; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của sáu phép thần thông, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì năm loại mắt... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện thuộc mười lực của Phật; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì mười lực của Phật... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện thuộc pháp không quên mất; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của tánh luôn luôn xả, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì pháp không quên mất... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ… ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của trí Nhất thiết; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì trí Nhất thiết… tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của tất cả pháp môn Đà-la-ni; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của Dự lưu; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì Dự lưu... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của Dự lưu hướng, Dự lưu quả; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của Độc giác; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của Độc giác hướng, Độc giác quả, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì Độc giác... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của Đại Bồ-tát; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của Tam-miệu-tam Phật-đà, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của pháp của Đại Bồ-tát; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì pháp của Đại Bồ-tát... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của Thanh văn thừa; khéo an trú nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện của Độc giác thừa, Vô thượng thừa, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì Thanh văn thừa... tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy là những người, mà loài người và phi nhân đều không thể dễ dàng làm hại được. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ... ấy lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với tất cả hữu tình, khéo tu tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả.

Kiều-thi-ca, hàng thiện nam, thiện nữ... ấy chẳng bao giờ bị não hại do các sự kiện hiểm ác một cách bất ngờ, cũng chẳng bị chết đột ngột. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ... ấy tu hành Bố thí ba-la-mật-đa, đối với các hữu tình luôn đem lại sự bình an chân chánh.

Lại nữa Kiều-thi-ca, ở thế giới ba lần ngàn này, có chúng trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng, trời Cực quang tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng quả,... đã phát tâm cầu sự Giác ngộ cao tột, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này, nếu vị nào chưa được nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng đắn, thì nay nên, chẳng lìa tâm của trí Nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này chú tâm nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng theo diệu lý.

Kiều-thi-ca, nếu hàng thiện nam, thiện nữ... ấy chẳng lìa tâm của trí Nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này, chí tâm nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng theo diệu lý, thì các thiện nam, thiện nữ... ấy, hoặc tại nhà trống vắng, hoặc tại đồng hoang, hoặc tại đường hiểm và nơi có tai nạn, chẳng bao giờ sợ hãi, hay kinh hoàng rợn người. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ... ấy chẳng lìa tâm của trí Nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu pháp không bên trong, khéo tu pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Bấy giờ, ở thế giới ba lần ngàn này có chúng trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm, trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh... cùng bạch Phật:

Bạch Thế Tôn, nếu các hàng thiện nam, thiện nữ... chẳng lìa tâm của trí Nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã ba-la-mậtđa thâm diệu này, thường hay thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng như diệu lý, sao chép giảng giải, truyền bá rộng rãi thì chúng con thường theo cung kính hộ trì chẳng để tất cả tai nạn xâm phạm bất ngờ. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ... chính là Đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên khiến các hữu tình vĩnh viễn lìa dứt các nẻo hiểm ác như địa ngục, bàng sinh, quỷ giới, A-tố-lạc.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên các chúng trời, người vĩnh viễn xa lìa tất cả các khổ về tai họa, bệnh tật, bần cùng, đói khát, nóng lạnh...

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có mười đường thiện nghiệp.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có các pháp Bố thí ba-la-mật-đa, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có dòng dõi lớn Sát-đế-lợi, dòng dõi lớn Bàla-môn, dòng dõi lớn Trưởng giả, dòng dõi lớn Cư sĩ, các tiểu quốc vương, Chuyển luân thánh vương, các hàng đại thần giúp việc triều chính.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có chúng trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm, trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có trời Không vô biên xứ, trời Thức vô biên xứ, trời Vô sở hữu xứ, trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Dự lưu Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và Dự lưu hướng, Dự lưu quả, Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Độc giác và Độc giác hướng, Độc giác quả.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Đại Bồ-tát đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Phật bảo, Pháp bảo, Bí-sô Tăng bảo.

Bạch Thế Tôn, vì do Đại Bồ-tát ấy nên chúng con: Thiên, Long, A-tố-lạc, Kiền-đạt-phược, Yếtlộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Dược-xoa, La-sát-ta, Mạchô-lạc-già, Nhân phi nhân... thường theo cung kính ủng hộ Đại Bồ-tát ấy, chẳng để cho tất cả tai họa xâm phạm não hại.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Thiên đế Thích và các Thiên, Long, A-tố-lạc...:

−Đúng vậy, đúng vậy, như các vị đã nói! Kiềuthi-ca, nếu các hàng thiện nam, thiện nữ... chẳng lìa tâm của trí Nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu này, thường thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng như lý, sao chép giảng giải, truyền bá rộng rãi thì nên biết các thiện nam, thiện nữ… ấy chính là Đại Bồ-tát.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên các hữu tình vĩnh viễn được dứt trừ mọi đọa lạc nơi địa ngục, bàng sinh, quỷ giới, A-tố-lạc... Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên chư thiên, nhân vĩnh viễn được xa lìa tất cả các khổ về tai họa, bệnh tật, bần cùng, đói khát, nóng lạnh...

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có mười đường thiện nghiệp xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Bố thí ba-la-mật-đa, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có năm loại mắt, sáu phép thần thông xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có dòng dõi lớn Sát-đế-lợi, dòng dõi lớn Bàla-môn, dòng dõi lớn Trưởng giả, dòng dõi lớn Cư sĩ, các tiểu quốc vương, Chuyển luân thánh vương, các đại thần giúp việc triều chính.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có chúng trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm, trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có trời Không vô biên xứ, trời Thức vô biên xứ, trời Vô sở hữu xứ, trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Dự lưu Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và Dự lưu hướng, Dự lưu quả, Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Độc giác và Độc giác hướng, Độc giác quả xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Đại Bồ-tát xuất hiện ở thế gian đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở thế gian, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh.

Kiều-thi-ca, vì do Đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Phật bảo, Pháp bảo, Bí-sô Tăng bảo xuất hiện.

Kiều-thi-ca, vì duyên cớ này, Thiên, Long, Atố-lạc... các ngươi thường nên theo cung kính, cúng dường, tôn trọng ngợi khen và siêng năng ủng hộ Đại Bồ-tát ấy, chớ để tất cả tai họa xâm phạm não hại.

Kiều-thi-ca, nếu có người thường cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Đại Bồ-tát như vậy, thì nên biết chính là cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Ta và tất cả các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương. Vì vậy nên tất cả Thiên, Long, A-tố-lạc... các ngươi thường nên theo cung kính, cúng dường, tôn trọng ngợi khen và siêng năng ủng hộ Đại Bồ-tát ấy, chớ để tất cả tai họa xâm phạm não hại.

Kiều-thi-ca, giả sử các chúng Thanh văn, Duyên giác đầy khắp châu Nam thiệm-bộ, như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm dày đặc, có các thiện nam, thiện nữ... đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp vừa ý, cúng kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, suốt cả cuộc đời; hoặc lại có người chỉ trong khoảnh khắc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen một Đại Bồ-tát mới phát tâm chẳng lìa sáu pháp Ba-lamật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người sau thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, ức phần chẳng bằng một, trăm ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn ức phần chẳng bằng một, phần tính đếm, phần thí dụ cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.

Kiều-thi-ca, giả sử các chúng Thanh văn, Duyên giác đầy khắp châu Nam thiệm-bộ, châu Đông thắng thân như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm dày đặc, có hàng thiện nam, thiện nữ... đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp vừa ý, cúng kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, suốt cả cuộc đời; hoặc lại có người chỉ trong khoảnh khắc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen một Đại Bồ-tát mới phát tâm chẳng lìa sáu pháp Ba-la-mật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người sau thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, ức phần chẳng bằng một, trăm ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn ức phần chẳng bằng một, phần tính đếm, phần thí dụ cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.

Kiều-thi-ca, giả sử các chúng Thanh văn, Duyên giác đầy khắp châu Nam thiệm-bộ, châu Đông thắng thân, châu Tây ngưu hóa như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm dày đặc, có hàng thiện nam, thiện nữ... đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp vừa ý, cúng kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, suốt cả cuộc đời; hoặc lại có người chỉ trong khoảnh khắc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen một Đại Bồ-tát mới phát tâm chẳng lìa sáu pháp Ba-lamật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người sau thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, ức phần chẳng bằng một, trăm ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn ức phần chẳng bằng một, phần tính đếm, phần thí dụ cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.

Kiều-thi-ca, giả sử các chúng Thanh văn, Duyên giác đầy khắp châu Nam thiệm-bộ, châu Đông thắng thân, châu Tây ngưu hóa, châu Bắc cu-lô như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm dày đặc, có hàng thiện nam, thiện nữ... đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp vừa ý, cúng kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, suốt cả cuộc đời; hoặc lại có người chỉ trong khoảnh khắc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen một Đại Bồ-tát mới phát tâm chẳng lìa sáu pháp Ba-la-mật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người sau thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, ức phần chẳng bằng một, trăm ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn ức phần chẳng bằng một, phần tính đếm, phần thí dụ cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.

Kiều-thi-ca, giả sử các chúng Thanh văn, Duyên giác đầy khắp cả bốn châu như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm dày đặc, có hàng thiện nam, thiện nữ... đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp vừa ý, cúng kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, suốt cả cuộc đời; hoặc lại có người chỉ trong khoảnh khắc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen một Đại Bồ-tát mới phát tâm chẳng lìa sáu pháp Ba-la-mật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người sau thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, ức phần chẳng bằng một, trăm ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn ức phần chẳng bằng một, phần tính đếm, phần thí dụ cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.

Kiều-thi-ca, giả sử các chúng Thanh văn, Duyên giác đầy khắp Tiểu thiên thế giới như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm dày đặc, có hàng thiện nam, thiện nữ... đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp vừa ý, cúng kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, suốt cả cuộc đời; hoặc lại có người chỉ trong khoảnh khắc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen một Đại Bồ-tát mới phát tâm chẳng lìa sáu pháp Ba-lamật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người sau thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, ức phần chẳng bằng một, trăm ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn ức phần chẳng bằng một, phần tính đếm, phần thí dụ cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.

Kiều-thi-ca, giả sử các chúng Thanh văn, Duyên giác đầy khắp Trung thiên thế giới như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm dày đặc, có hàng thiện nam, thiện nữ... đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp vừa ý, cúng kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, suốt cả cuộc đời; hoặc lại có người chỉ trong khoảnh khắc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen một Đại Bồ-tát mới phát tâm chẳng lìa sáu pháp Ba-la-mật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người sau thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, ức phần chẳng bằng một, trăm ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn ức phần chẳng bằng một, phần tính đếm, phần thí dụ cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.

Kiều-thi-ca, giả sử các chúng Thanh văn, Duyên giác đầy khắp cảnh giới chư Phật trong thế giới ba lần ngàn như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm dày đặc, có hàng thiện nam, thiện nữ... đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp vừa ý, cúng kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, suốt cả cuộc đời; hoặc lại có người chỉ trong khoảnh khắc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen một Đại Bồ-tát mới phát tâm chẳng lìa sáu pháp Ba-la-mật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người sau thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, ức phần chẳng bằng một, trăm ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn ức phần chẳng bằng một, phần tính đếm, phần thí dụ cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.

Kiều-thi-ca, giả sử các chúng Thanh văn, Duyên giác đầy khắp vô lượng, vô biên thế giới trong mười phương như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm dày đặc, có hàng thiện nam, thiện nữ... đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp vừa ý, cúng kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, suốt cả cuộc đời; hoặc lại có người chỉ trong khoảnh khắc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen một Đại Bồ-tát mới phát tâm chẳng lìa sáu pháp Ba-la-mật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người sau thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, ức phần chẳng bằng một, trăm ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn ức phần chẳng bằng một, phần tính đếm, phần thí dụ cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì chẳng do Thanh văn và Độc giác mà có Đại Bồtát và các Đức Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở thế gian, chỉ do Đại Bồ-tát mà có Thanh văn và Độc giác và các Đức Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện. Vì vậy nên các ngươi, tất cả Thiên, Long, A-tố-lạc, Kiền-đạt-phược, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Dược-xoa, La-sát-ta, Mạc-hô-lạc-già, Nhân phi nhân thường theo cung kính ủng hộ Đại Bồ-tát này, chớ để tất cả tai họa xâm phạm não hại.

Bấy giờ, Thiên đế Thích bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, thật là hy hữu! Đại Bồ-tát ấy, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu này, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng như lý, sao chép giảng giải, truyền bá rộng rãi, thâu nhận công đức của những việc cụ thể như vậy, tạo được sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, thân cận, phụng sự các Đức Phật Thế Tôn, theo đấy luôn được an vui, căn lành thù thắng, do đối với chư Phật cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, liền được viên mãn; đối với chánh pháp của chư Phật đã được nghe, cho đến khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, không bao giờ quên. Những pháp yếu đã được lãnh hội, có khả năng nhanh chóng thâu nhận, nên được dòng họ viên mãn, thân mẫu viên mãn, sự sinh viên mãn, quyến thuộc viên mãn, tướng hảo viên mãn, quang minh viên mãn, nhãn viên mãn, nhĩ viên mãn, âm thanh viên mãn, Đà-la-ni viên mãn, Tam-ma-địa viên mãn.

Lại dùng diệu lực của phương tiện thiện xảo, biến thân như Phật, từ thế giới này đến thế giới khác, đến nước không có Phật, giảng thuyết khen ngợi Bố thí ba-la-mật-đa, giảng thuyết khen ngợi Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa; giảng thuyết khen ngợi pháp không bên trong, giảng thuyết khen ngợi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; giảng thuyết khen ngợi chân như, giảng thuyết khen ngợi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; giảng thuyết khen ngợi Thánh đế khổ, giảng thuyết khen ngợi Thánh đế tập, diệt, đạo; giảng thuyết khen ngợi bốn Tĩnh lự, giảng thuyết khen ngợi bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; giảng thuyết khen ngợi tám Giải thoát, giảng thuyết khen ngợi tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; giảng thuyết khen ngợi bốn Niệm trụ, giảng thuyết khen ngợi bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; giảng thuyết khen ngợi pháp môn giải thoát Không, giảng thuyết khen ngợi pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; giảng thuyết khen ngợi năm loại mắt, giảng thuyết khen ngợi sáu phép thần thông; giảng thuyết khen ngợi mười lực của Phật, giảng thuyết khen ngợi bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; giảng thuyết khen ngợi pháp không quên mất, giảng thuyết khen ngợi tánh luôn luôn xả; giảng thuyết khen ngợi trí Nhất thiết, giảng thuyết khen ngợi trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; giảng thuyết khen ngợi tất cả pháp môn Đà-la-ni, giảng thuyết khen ngợi tất cả pháp môn Tam-ma-địa; giảng thuyết khen ngợi Phật bảo, giảng thuyết khen ngợi Pháp bảo, giảng thuyết khen ngợi Bí-sô Tăng bảo. Lại dùng diệu lực của phương tiện thiện xảo, vì các hữu tình, nêu giảng giáo pháp quan trọng, tùy nghi sắp đặt ổn định trong pháp của ba thừa, khiến vĩnh viễn giải thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử, chứng cảnh giới Vô dư Niết-bàn; hoặc lại cứu giúp bao nỗi khổ trong các đường ác, khiến được vào cõi người, trời hưởng sự an lạc.

QUYỂN 101

PHẨM 29: NHIẾP THỌ (3)

Khi ấy, Thiên đế Thích lại bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa thật là hy hữu! Nếu nhiếp thọ được Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là nhiếp thọ Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; nếu nhiếp thọ được Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là nhiếp thọ pháp không bên trong, không bên ngoài, không cả trong ngoài, không không, không lớn, không thắng nghĩa, không hữu vi, không vô vi, không rốt ráo, không không biên giới, không tản mạn, không không đổi khác, không bản tánh, không tự tướng, không cộng tướng, không nơi tất cả pháp, không chẳng thể nắm bắt được, không không tánh, không tự tánh, không không tánh tự tánh; nếu nhiếp thọ được Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là nhiếp thọ chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; nếu nhiếp thọ được Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là nhiếp thọ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo; nếu nhiếp thọ được Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là nhiếp thọ bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; nếu nhiếp thọ được Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là nhiếp thọ tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; nếu nhiếp thọ được Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là nhiếp thọ bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; nếu nhiếp thọ được Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là nhiếp thọ pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; nếu nhiếp thọ được Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là nhiếp thọ năm loại mắt, sáu phép thần thông; nếu nhiếp thọ được Bátnhã ba-la-mật-đa tức là nhiếp thọ mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; nếu nhiếp thọ được Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là nhiếp thọ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; nếu nhiếp thọ được Bátnhã ba-la-mật-đa tức là nhiếp thọ trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; nếu nhiếp thọ được Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nếu nhiếp thọ được Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là nhiếp thọ Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất hoàn quả,

A-la-hán quả; nếu nhiếp thọ được Bát-nhã ba-lamật-đa tức là nhiếp thọ quả vị Độc giác; nếu nhiếp thọ được Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là nhiếp thọ Thập địa Bồ-tát; nếu nhiếp thọ được Bát-nhã bala-mật-đa tức là nhiếp thọ quả vị Giác ngộ cao tột; nếu nhiếp thọ được Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là nhiếp thọ tất cả pháp thiện ở thế gian, xuất thế gian. Bấy giờ, Phật bảo Thiên đế Thích:

−Đúng vậy, đúng vậy, như ông đã nói! Bát-nhã ba-la-mật-đa thật là hy hữu! Nếu người đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ pháp không bên trong, không bên ngoài, không cả trong ngoài, không không, không lớn, không thắng nghĩa, không hữu vi, không vô vi, không rốt ráo, không không biên giới, không tản mạn, không không đổi khác, không bản tánh, không tự tướng, không cộng tướng, không nơi tất cả pháp, không chẳng thể nắm bắt được, không không tánh, không tự tánh, không không tánh tự tánh; nếu đối với Bátnhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo; nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ năm loại mắt, sáu phép thần thông; nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; nếu đối với Bát-nhã ba-lamật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ trí Nhất thiết trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất hoàn quả, A-la-hán quả; nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ quả vị Độc giác; nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ Thập địa Bồtát; nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ quả vị Giác ngộ cao tột; nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có khả năng nhiếp thọ, thì có khả năng nhiếp thọ tất cả pháp thiện ở thế gian, xuất thế gian.

Lại nữa Kiều-thi-ca, nếu hàng thiện nam, thiện nữ đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng như lý, sao chép giảng giải, truyền bá rộng rãi, thì các pháp hiện tại và sau này của thiện nam, thiện nữ ấy luôn được công đức thù thắng. Ngươi nên lắng nghe, khởi lên ý thiện mạnh mẽ, Ta sẽ vì ngươi phân biệt, giảng thuyết.

Thiên đế Thích bạch:

−Dạ bạch Thế Tôn, xin Ngài nói ngay vào lúc này, chúng con muốn được nghe.

Phật dạy:

−Kiều-thi-ca, nếu có các hàng Phạm chí ngoại đạo, hoặc các ác ma và quyến thuộc của ma, hoặc kẻ bạo ác, tăng thượng mạn khác, ở chỗ Đại Bồtát này, muốn gây sự, lăng nhục, làm hại, những kẻ ấy mới vừa khởi tâm liền gặp tai họa, tự bị tiêu diệt, chẳng đạt được ý muốn. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy lấy tâm của trí Nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, luôn luôn kiên trì tu hành Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, lấy nguyện đại Bi làm đầu. Nếu các hữu tình vì tham lam mà mãi tranh giành nhau, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả sự kiện trong, ngoài đều bỏ hết, dùng phương tiện làm cho họ an trú nơi Bố thí ba-la-mật-đa.

Nếu các hữu tình luôn luôn phá giới thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả sự kiện trong, ngoài đều bỏ hết, dùng phương tiện làm cho họ an trú nơi Tịnh giới ba-la-mật-đa.

Nếu các hữu tình luôn luôn sân giận thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả sự kiện trong, ngoài đều bỏ hết, dùng phương tiện làm cho họ an trú nơi An nhẫn ba-la-mật-đa.

Nếu các hữu tình luôn luôn lười biếng thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả sự kiện trong, ngoài đều bỏ hết, dùng phương tiện làm cho họ an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa.

Nếu các hữu tình tâm luôn luôn loạn động, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả sự kiện trong, ngoài đều bỏ hết, dùng phương tiện làm cho họ an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa.

Nếu các hữu tình luôn luôn ngu si thì Đại Bồtát ấy, đối với tất cả sự kiện trong, ngoài đều bỏ hết, dùng phương tiện làm cho họ an trú nơi Bátnhã ba-la-mật-đa.

Nếu các hữu tình mãi xoay vần trôi giạt trong sinh tử, luôn luôn bị các loại tùy miên, triền cấu của tham, sân, si... làm nhiễu loạn thì Đại Bồ-tát ấy, thường dùng các thứ phương tiện thiện xảo làm cho đoạn diệt, vĩnh viễn xa lìa sinh tử, hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi pháp không bên trong, không bên ngoài, không cả trong ngoài, không không, không lớn, không thắng nghĩa, không hữu vi, không vô vi, không rốt ráo, không không biên giới, không tản mạn, không không đổi khác, không bản tánh, không tự tướng, không cộng tướng, không nơi tất cả pháp, không chẳng thể nắm bắt được, không không tánh, không tự tánh, không không tánh tự tánh; hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo; hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất hoàn quả, A-la-hán quả; hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi quả vị Độc giác; hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi Thập địa Bồ-tát; hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi quả vị Giác ngộ cao tột; hoặc khiến họ đứng vững và an trú nơi tất cả pháp thiện ở thế gian, xuất thế gian.

Kiều-thi-ca, như vậy gọi là thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng theo lý, sao chép giảng giải, truyền bá rộng rãi Bát-nhã ba-la-mậtđa, là pháp hiện tại của Đại Bồ-tát đạt được công đức lợi lạc thù thắng.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy đối với Bát-nhã bala-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng theo lý, sao chép giảng giải, truyền bá rộng rãi, vào đời sau nhanh chóng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh, tùy theo sở nguyện đem lại sự an lập cho hữu tình khiến họ đối với ba thừa đều dốc tu học rốt ráo cho đến chứng nhập Vô dư Niếtbàn.

Kiều-thi-ca, như vậy gọi là thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng theo lý, sao chép giảng giải, truyền bá rộng rãi Bát-nhã ba-la-mật-đa, đó là pháp sau này của Đại Bồ-tát đạt được công đức lợi lạc thù thắng.

Lại nữa Kiều-thi-ca, nếu các thiện nam, thiện nữ đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng theo lý, sao chép giảng giải, truyền bá rộng rãi thì ở bất kỳ nơi nào, nếu có ác ma và quyến thuộc của chúng, hoặc có các hạng Phạm chí ngoại đạo và những kẻ bạo ác tăng thượng mạn khác ghét chê Bát-nhã ba-la-mậtđa muốn tạo chướng ngại, vặn hỏi chê bai, chống phá, khiến mau tiêu diệt, tất chẳng bao giờ đạt. Vì những kẻ ấy được nghe qua Bát-nhã, nên các ác dần dần tiêu diệt, công đức dần dần phát sinh, về sau nương vào ba thừa mà được hết khổ.

Kiều-thi-ca, như có một loại thuốc hay tên là Mạc-kỳ, công dụng đặc biệt của loại thuốc này là có thể tiêu trừ các thứ độc. Có một con rắn độc lớn đang đói bò đi tìm mồi gặp một sinh vật khác liền thè nọc độc định mổ, sinh vật ấy sợ chết vội chạy ào vào chỗ thuốc quý giá kia. Rắn ngửi qua mùi thuốc bèn tháo lui. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì tác dụng cực mạnh của vị thuốc Mạc-kỳ có thể chế ngự được các thứ độc, có ích cho thân mạng. Nên biết diệu dụng to lớn đầy đủ của Bát-nhã ba-lamật-đa cũng lại như vậy. Nếu các hàng thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng theo lý, sao chép giảng giải, truyền bá rộng rãi, thì các loại ác ma ở chỗ Đại Bồ-tát ấy, muốn thực hiện các việc ác, nhưng do diệu lực từ oai thần của Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên các việc ác kia liền tự tiêu diệt ngay tại chỗ. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì sức mạnh từ oai thần to lớn đầy đủ của Bát-nhã này có khả năng xua tan các việc ác, làm tăng trưởng các điều thiện.

Kiều-thi-ca, thế nào là Bát-nhã ba-la-mật-đa có khả năng diệt trừ các điều ác, làm tăng trưởng các điều thiện?

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ tham dục, sân hận, ngu si, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, chính là sự tích tụ của bao nỗi khổ lớn, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ tất cả sự chướng ngại, mê muội, cấu uế, trói buộc, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ mọi kiến chấp về ngã, kiến chấp về hữu tình, kiến chấp về dòng sinh mạng, kiến chấp về sự sinh, kiến chấp về sự dưỡng, kiến chấp về sự trưởng thành, kiến chấp về chủ thể luân hồi, kiến chấp về ý sinh, kiến chấp về nho đồng, kiến chấp về sự tạo tác, kiến chấp về sự thọ báo, kiến chấp về cái biết, kiến chấp về cái thấy, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ tất cả thường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô kiến cho đến con đường dẫn tới các loại ác kiến khác, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ các loại tham lam keo kiệt, phá giới, sân hận, lười biếng, tán loạn, ngu si sẵn có, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ các vọng tưởng sẵn có về thường, lạc, ngã, tịnh, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ tất cả các hành: tham, sân, si, mạn, nghi, kiến..., làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ sắc, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ thọ, tưởng, hành, thức, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ nhãn xứ, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ sắc xứ, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ nhãn giới, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ nhĩ giới, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ tỷ giới, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ thiệt giới, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ thân giới, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ xúc giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ ý giới, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ địa giới, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ thủy, hỏa, phong, không, thức giới, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ Thánh đế khổ, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ Thánh đế tập, diệt, đạo, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ vô minh, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ pháp không bên trong, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ pháp không bên ngoài, không cả trong ngoài, không không, không lớn, không thắng nghĩa, không hữu vi, không vô vi, không rốt ráo, không không biên giới, không tản mạn, không không đổi khác, không bản tánh, không tự tướng, không cộng tướng, không nơi tất cả pháp, không chẳng thể nắm bắt được, không không tánh, không tự tánh, không không tánh tự tánh, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ chân như, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ Bố thí ba-la-mậtđa, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ bốn Tĩnh lự, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ tám Giải thoát, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ bốn Niệm trụ, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy. Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ pháp môn giải thoát Không, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ năm loại mắt, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ sáu phép thần thông, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ mười lực của Phật, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ pháp không quên mất, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ tánh luôn luôn xả, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ trí Nhất thiết, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ tất cả pháp môn Đàla-ni, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ tất cả pháp môn Tamma-địa, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ Dự lưu, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ Dự lưu hướng, Dự lưu quả, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ Độc giác, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ Độc giác hướng, Độc giác quả, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ Đại Bồ-tát, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ Tam-miệu-tam Phật-đà, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ pháp của Đại Bồ-tát, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ quả vị Giác ngộ cao tột, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ sự chấp giữ Thanh văn thừa, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy; có khả năng diệt trừ sự chấp giữ Độc giác thừa, Vô thượng thừa, làm tăng trưởng việc đối trị các thứ ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, thậm chí còn có khả năng diệt trừ sự chấp giữ Bátniết-bàn và làm tăng trưởng việc đối trị ấy.

Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng diệt trừ tất cả pháp mà ma dựa vào cùng có khả năng sinh trưởng tất cả mọi việc lành. Vì vậy nên Bát-nhã ba-la-mật-đa hàm chứa vô số diệu lực oai thần lớn lao.

Lại nữa Kiều-thi-ca, nếu các hàng thiện nam, thiện nữ... đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này chí tâm lãnh hội, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng theo lý, sao chép giảng giải, truyền bá rộng rãi thì Đại Bồ-tát ấy thường được bốn Đại Thiên vương và Thiên đế Thích trong thế giới ba lần ngàn, vua trời Đại phạm, chủ thế giới Kham nhẫn, trời Cực quang tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng quả, trời Tịnh cư..., cùng các Thiện thần đều cùng ủng hộ, chẳng để cho tất cả tai họa xâm phạm, não hại; những điều mong cầu đúng theo pháp đều được đầy đủ; chư Phật hiện tại trong thế giới mười phương cũng thường hộ niệm. Bồ-tát như thế luôn khiến cho các pháp ác tiêu diệt, các pháp thiện tăng trưởng, đó là:

Tăng trưởng Bố thí ba-la-mật-đa, khiến không tổn giảm; tăng trưởng Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa khiến không tổn giảm. Vì sao? Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Tăng trưởng pháp không bên trong, khiến không tổn giảm; tăng trưởng pháp không bên ngoài, không cả trong ngoài, không không, không lớn, không thắng nghĩa, không hữu vi, không vô vi, không rốt ráo, không không biên giới, không tản mạn, không không đổi khác, không bản tánh, không tự tướng, không cộng tướng, không nơi tất cả pháp, không chẳng thể nắm bắt được, không không tánh, không tự tánh, không không tánh tự tánh khiến không tổn giảm. Vì sao? Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Tăng trưởng chân như, khiến không tổn giảm; tăng trưởng pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn khiến không tổn giảm. Vì sao? Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Tăng trưởng Thánh đế khổ, khiến không tổn giảm; tăng trưởng Thánh đế tập, diệt, đạo khiến không tổn giảm. Vì sao? Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Tăng trưởng bốn Tĩnh lự, khiến không tổn giảm; tăng trưởng bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc khiến không tổn giảm. Vì sao? Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Tăng trưởng tám Giải thoát, khiến không tổn giảm; tăng trưởng tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ khiến không tổn giảm. Vì sao? Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Tăng trưởng bốn Niệm trụ, khiến không tổn giảm; tăng trưởng bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo khiến không tổn giảm. Vì sao? Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Tăng trưởng pháp môn giải thoát Không, khiến không tổn giảm; tăng trưởng pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện khiến không tổn giảm. Vì sao? Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Tăng trưởng năm loại mắt, khiến không tổn giảm; tăng trưởng sáu phép thần thông khiến không tổn giảm. Vì sao? Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Tăng trưởng mười lực của Phật, khiến không tổn giảm; tăng trưởng bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng khiến không tổn giảm. Vì sao? Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Tăng trưởng pháp không quên mất, khiến không tổn giảm; tăng trưởng tánh luôn luôn xả khiến không tổn giảm. Vì sao? Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Tăng trưởng trí Nhất thiết, khiến không tổn giảm; tăng trưởng trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng khiến không tổn giảm. Vì sao? Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Tăng trưởng tất cả pháp môn Đà-la-ni, khiến không tổn giảm; tăng trưởng tất cả pháp môn Tamma-địa khiến không tổn giảm. Vì sao? Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy nói năng luôn nghiêm túc, người nghe đều cung kính vâng theo; khen ngợi, đàm luận, ngôn từ không hề lầm lẫn, rối loạn; luôn biết rõ nẻo ân nghĩa, kiên trì trong việc giao tiếp với bạn lành, chẳng bị các thứ keo kiệt, ganh ghét, phẫn, hận, phú, não, siểm, cuống, kiêu, mạn... làm mờ ám.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự xa lìa sự giết hại sinh mạng, dạy người khác xa lìa sự giết hại sinh mạng, khen ngợi sự xa lìa giết hại sinh mạng, vui vẻ khen ngợi người xa lìa sự giết hại sinh mạng. Tự xa lìa sự không cho mà lấy, dạy người khác xa lìa sự không cho mà lấy, khen ngợi sự xa lìa không cho mà lấy, vui vẻ khen ngợi người xa lìa sự không cho mà lấy. Tự xa lìa sự tà hạnh về dục, dạy người khác xa lìa sự tà hạnh về dục, khen ngợi sự xa lìa tà hạnh về dục, vui vẻ khen ngợi người xa lìa sự tà hạnh về dục. Tự xa lìa sự nói dối trá, dạy người khác xa lìa sự nói dối trá, khen ngợi sự xa lìa nói dối trá, vui vẻ khen ngợi người xa lìa sự nói dối trá. Tự xa lìa sự nói ly gián, dạy người khác xa lìa sự nói ly gián, khen ngợi sự xa lìa nói ly gián, vui vẻ khen ngợi người xa lìa sự nói ly gián. Tự xa lìa sự nói thô ác, dạy người khác xa lìa sự nói thô ác, khen ngợi sự xa lìa nói thô ác, vui vẻ khen ngợi người xa lìa sự nói thô ác. Tự xa lìa sự nói uế tạp, dạy người khác xa lìa sự nói uế tạp, khen ngợi sự xa lìa nói uế tạp, vui vẻ khen ngợi người xa lìa sự nói uế tạp. Tự xa lìa sự tham dục, dạy người khác xa lìa sự tham dục, khen ngợi sự xa lìa tham dục, vui vẻ khen ngợi người xa lìa sự tham dục. Tự xa lìa sự sân hận, dạy người khác xa lìa sự sân hận, khen ngợi sự xa lìa sân hận, vui vẻ khen ngợi người xa lìa sự sân hận. Tự xa lìa sự tà kiến, dạy người khác xa lìa sự tà kiến, khen ngợi sự xa lìa tà kiến, vui vẻ khen ngợi người xa lìa sự tà kiến.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự tu hành pháp Bố thí ba-la-mật-đa, dạy người khác tu hành pháp Bố thí ba-la-mật-đa, khen ngợi pháp Bố thí ba-la-mậtđa, vui vẻ khen ngợi người tu hành pháp Bố thí ba-la-mật-đa. Tự tu hành pháp Tịnh giới ba-lamật-đa, dạy người khác tu hành pháp Tịnh giới bala-mật-đa, khen ngợi pháp Tịnh giới ba-la-mật-đa, vui vẻ khen ngợi người tu hành pháp Tịnh giới bala-mật-đa. Tự tu hành pháp An nhẫn ba-la-mật-đa, dạy người khác tu hành pháp An nhẫn ba-la-mậtđa, khen ngợi pháp An nhẫn ba-la-mật-đa, vui vẻ khen ngợi người tu hành pháp An nhẫn ba-la-mậtđa. Tự tu hành pháp Tinh tấn ba-la-mật-đa, dạy người khác tu hành pháp Tinh tấn ba-la-mật-đa, khen ngợi pháp Tinh tấn ba-la-mật-đa, vui vẻ khen ngợi người tu hành pháp Tinh tấn ba-la-mật-đa. Tự tu hành pháp Tĩnh lự ba-la-mật-đa, dạy người khác tu hành pháp Tĩnh lự ba-la-mật-đa, khen ngợi pháp Tĩnh lự ba-la-mật-đa, vui vẻ khen ngợi người tu hành pháp Tĩnh lự ba-la-mật-đa. Tự tu hành pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, dạy người khác tu hành pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, khen ngợi pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, vui vẻ khen ngợi người tu hành pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự an trú pháp không bên trong, dạy người khác an trú pháp không bên trong, khen ngợi pháp không bên trong, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không bên trong. Tự an trú pháp không bên ngoài, dạy người khác an trú pháp không bên ngoài, khen ngợi pháp không bên ngoài, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không bên ngoài. Tự an trú pháp không cả trong ngoài, dạy người khác an trú pháp không cả trong ngoài, khen ngợi pháp không cả trong ngoài, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không cả trong ngoài. Tự an trú pháp không không, dạy người khác an trú pháp không không, khen ngợi pháp không không, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không không. Tự an trú pháp không lớn, dạy người khác an trú pháp không lớn, khen ngợi pháp không lớn, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không lớn. Tự an trú pháp không thắng nghĩa, dạy người khác an trú pháp không thắng nghĩa, khen ngợi pháp không thắng nghĩa, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không thắng nghĩa. Tự an trú pháp không hữu vi, dạy người khác an trú pháp không hữu vi, khen ngợi pháp không hữu vi, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không hữu vi. Tự an trú pháp không vô vi, dạy người khác an trú pháp không vô vi, khen ngợi pháp không vô vi, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không vô vi. Tự an trú pháp không rốt ráo, dạy người khác an trú pháp không rốt ráo, khen ngợi pháp không rốt ráo, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không rốt ráo. Tự an trú pháp không không biên giới, dạy người khác an trú pháp không không biên giới, khen ngợi pháp không không biên giới, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không không biên giới. Tự an trú pháp không tản mạn, dạy người khác an trú pháp không tản mạn, khen ngợi pháp không tản mạn, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không tản mạn. Tự an trú pháp không không đổi khác, dạy người khác an trú pháp không không đổi khác, khen ngợi pháp không không đổi khác, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không không đổi khác. Tự an trú pháp không bản tánh, dạy người khác an trú pháp không bản tánh, khen ngợi pháp không bản tánh, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không bản tánh. Tự an trú pháp không tự tướng, dạy người khác an trú pháp không tự tướng, khen ngợi pháp không tự tướng, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không tự tướng. Tự an trú pháp không cộng tướng, dạy người khác an trú pháp không cộng tướng, khen ngợi pháp không cộng tướng, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không cộng tướng. Tự an trú pháp không nơi tất cả pháp, dạy người khác an trú pháp không nơi tất cả pháp, khen ngợi pháp không nơi tất cả pháp, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không nơi tất cả pháp. Tự an trú pháp không chẳng thể nắm bắt được, dạy người khác an trú pháp không chẳng thể nắm bắt được, khen ngợi pháp không chẳng thể nắm bắt được, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không chẳng thể nắm bắt được. Tự an trú pháp không không tánh, dạy người khác an trú pháp không không tánh, khen ngợi pháp không không tánh, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không không tánh. Tự an trú pháp không tự tánh, dạy người khác an trú pháp không tự tánh, khen ngợi pháp không tự tánh, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không tự tánh. Tự an trú pháp không không tánh tự tánh, dạy người khác an trú pháp không không tánh tự tánh, khen ngợi pháp không không tánh tự tánh, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp không không tánh tự tánh.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự an trú pháp chân như, dạy người khác an trú pháp chân như, khen ngợi pháp chân như, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp chân như. Tự an trú pháp giới, dạy người khác an trú pháp giới, khen ngợi pháp giới, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp giới. Tự an trú pháp tánh, dạy người khác an trú pháp tánh, khen ngợi pháp tánh, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp tánh. Tự an trú pháp tánh không hư vọng, dạy người khác an trú pháp tánh không hư vọng, khen ngợi pháp tánh không hư vọng, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp tánh không hư vọng. Tự an trú pháp tánh chẳng đổi khác, dạy người khác an trú pháp tánh chẳng đổi khác, khen ngợi pháp tánh chẳng đổi khác, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp tánh chẳng đổi khác. Tự an trú pháp tánh bình đẳng, dạy người khác an trú pháp tánh bình đẳng, khen ngợi pháp tánh bình đẳng, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp tánh bình đẳng. Tự an trú pháp tánh ly sinh, dạy người khác an trú pháp tánh ly sinh, khen ngợi pháp tánh ly sinh, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp tánh ly sinh. Tự an trú pháp định pháp, dạy người khác an trú pháp định pháp, khen ngợi pháp định pháp, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp định pháp. Tự an trú pháp trụ pháp, dạy người khác an trú pháp trụ pháp, khen ngợi pháp trụ pháp, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp trụ pháp. Tự an trú pháp thật tế, dạy người khác an trú pháp thật tế, khen ngợi pháp thật tế, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp thật tế. Tự an trú pháp cảnh giới hư không, dạy người khác an trú pháp cảnh giới hư không, khen ngợi pháp cảnh giới hư không, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp cảnh giới hư không. Tự an trú pháp cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, dạy người khác an trú pháp cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, khen ngợi pháp cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự an trú pháp Thánh đế khổ, dạy người khác an trú pháp Thánh đế khổ, khen ngợi pháp Thánh đế khổ, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp Thánh đế tập. Tự an trú pháp Thánh đế tập, dạy người khác an trú pháp Thánh đế tập, khen ngợi pháp Thánh đế tập, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp Thánh đế tập. Tự an trú pháp Thánh đế diệt, dạy người khác an trú pháp Thánh đế diệt, khen ngợi pháp Thánh đế diệt, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp Thánh đế diệt. Tự an trú pháp Thánh đế đạo, dạy người khác an trú pháp Thánh đế đạo, khen ngợi pháp Thánh đế đạo, vui vẻ khen ngợi người an trú pháp Thánh đế đạo.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự tu pháp Sơ tĩnh lự, dạy người khác tu pháp Sơ tĩnh lự, khen ngợi pháp Sơ tĩnh lự, vui vẻ khen ngợi người tu pháp Sơ tĩnh lự. Tự tu pháp đệ Nhị tĩnh lự, dạy người khác tu pháp đệ Nhị tĩnh lự, khen ngợi pháp đệ Nhị tĩnh lự, vui vẻ khen ngợi người tu pháp đệ Nhị tĩnh lự. Tự tu pháp đệ Tam tĩnh lự, dạy người khác tu pháp đệ Tam tĩnh lự, khen ngợi pháp đệ Tam tĩnh lự, vui vẻ khen ngợi người tu pháp đệ Tam tĩnh lự. Tự tu pháp đệ Tứ tĩnh lự, dạy người khác tu pháp đệ Tứ tĩnh lự, khen ngợi pháp đệ Tứ tĩnh lự, vui vẻ khen ngợi người tu pháp đệ Tứ tĩnh lự.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự tu pháp Từ vô lượng, dạy người khác tu pháp Từ vô lượng, khen ngợi pháp Từ vô lượng, vui vẻ khen ngợi người tu pháp Từ vô lượng. Tự tu pháp Bi vô lượng, dạy người khác tu pháp Bi vô lượng, khen ngợi pháp Bi vô lượng, vui vẻ khen ngợi người tu pháp Bi vô lượng. Tự tu pháp Hỷ vô lượng, dạy người khác tu pháp Hỷ vô lượng, khen ngợi pháp Hỷ vô lượng, vui vẻ khen ngợi người tu pháp Hỷ vô lượng. Tự tu pháp Xả vô lượng, dạy người khác tu pháp Xả vô lượng, khen ngợi pháp Xả vô lượng, vui vẻ khen ngợi người tu pháp Xả vô lượng.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự tu pháp định Không vô biên xứ, dạy người khác tu pháp định Không vô biên xứ, khen ngợi pháp định Không vô biên xứ, vui vẻ khen ngợi người tu pháp định Không vô biên xứ. Tự tu pháp định Thức vô biên xứ, dạy người khác tu pháp định Thức vô biên xứ, khen ngợi pháp định Thức vô biên xứ, vui vẻ khen ngợi người tu pháp định Thức vô biên xứ. Tự tu pháp định Vô sở hữu xứ, dạy người khác tu pháp định Vô sở hữu xứ, khen ngợi pháp định Vô sở hữu xứ, vui vẻ khen ngợi người tu pháp định Vô sở hữu xứ. Tự tu pháp định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, dạy người khác tu pháp định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, khen ngợi pháp định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vui vẻ khen ngợi người tu pháp định Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự tu pháp tám Giải thoát, dạy người khác tu pháp tám Giải thoát, khen ngợi pháp tám Giải thoát, vui vẻ khen ngợi người tu pháp tám Giải thoát. Tự tu pháp tám Thắng xứ, dạy người khác tu pháp tám Thắng xứ, khen ngợi pháp tám Thắng xứ, vui vẻ khen ngợi người tu pháp tám Thắng xứ. Tự tu pháp chín Định thứ đệ, dạy người khác tu pháp chín Định thứ đệ, khen ngợi pháp chín Định thứ đệ, vui vẻ khen ngợi người tu pháp chín Định thứ đệ. Tự tu pháp mười Biến xứ, dạy người khác tu pháp mười Biến xứ, khen ngợi pháp mười Biến xứ, vui vẻ khen ngợi người tu pháp mười Biến xứ.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự tu pháp bốn Niệm trụ, dạy người khác tu pháp bốn Niệm trụ, khen ngợi pháp bốn Niệm trụ, vui vẻ khen ngợi người tu pháp bốn Niệm trụ. Tự tu pháp bốn Chánh đoạn, dạy người khác tu pháp bốn Chánh đoạn, khen ngợi pháp bốn Chánh đoạn, vui vẻ khen ngợi người tu pháp bốn Chánh đoạn. Tự tu pháp bốn Thần túc, dạy người khác tu pháp bốn Thần túc, khen ngợi pháp bốn Thần túc, vui vẻ khen ngợi người tu pháp bốn Thần túc. Tự tu pháp năm Căn, dạy người khác tu pháp năm Căn, khen ngợi pháp năm Căn, vui vẻ khen ngợi người tu pháp năm Căn. Tự tu pháp năm Lực, dạy người khác tu pháp năm Lực, khen ngợi pháp năm Lực, vui vẻ khen ngợi người tu pháp năm Lực. Tự tu pháp bảy chi Đẳng giác, dạy người khác tu pháp bảy chi Đẳng giác, khen ngợi pháp bảy chi Đẳng giác, vui vẻ khen ngợi người tu pháp bảy chi Đẳng giác. Tự tu pháp tám chi Thánh đạo, dạy người khác tu pháp tám chi Thánh đạo, khen ngợi pháp tám chi Thánh đạo, vui vẻ khen ngợi người tu pháp tám chi Thánh đạo.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự tu pháp môn giải thoát Không, dạy người khác tu pháp môn giải thoát Không, khen ngợi pháp môn giải thoát Không, vui vẻ khen ngợi người tu pháp môn giải thoát Không. Tự tu pháp môn giải thoát Vô tướng, dạy người khác tu pháp môn giải thoát Vô tướng, khen ngợi pháp môn giải thoát Vô tướng, vui vẻ khen ngợi người tu pháp môn giải thoát Vô tướng. Tự tu pháp môn giải thoát Vô nguyện, dạy người khác tu pháp môn giải thoát Vô nguyện, khen ngợi pháp môn giải thoát Vô nguyện, vui vẻ khen ngợi người tu pháp môn giải thoát Vô nguyện.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự tu pháp năm loại mắt, dạy người khác tu pháp năm loại mắt, khen ngợi pháp năm loại mắt, vui vẻ khen ngợi người tu pháp năm loại mắt. Tự tu pháp sáu phép thần thông, dạy người khác tu pháp sáu phép thần thông, khen ngợi pháp sáu phép thần thông, vui vẻ khen ngợi người tu pháp sáu phép thần thông.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự tu pháp mười lực của Phật, dạy người khác tu pháp mười lực của Phật, khen ngợi pháp mười lực của Phật, vui vẻ khen ngợi người tu pháp mười lực của Phật. Tự tu pháp bốn điều không sợ, dạy người khác tu pháp bốn điều không sợ, khen ngợi pháp bốn điều không sợ, vui vẻ khen ngợi người tu pháp bốn điều không sợ. Tự tu pháp bốn sự hiểu biết thông suốt, dạy người khác tu pháp bốn sự hiểu biết thông suốt, khen ngợi pháp bốn sự hiểu biết thông suốt, vui vẻ khen ngợi người tu pháp bốn sự hiểu biết thông suốt.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự tu pháp đại Từ, dạy người khác tu pháp đại Từ, khen ngợi pháp đại Từ, vui vẻ khen ngợi người tu pháp đại Từ. Tự tu pháp đại Bi, dạy người khác tu pháp đại Bi, khen ngợi pháp đại Bi, vui vẻ khen ngợi người tu pháp đại Bi. Tự tu pháp đại Hỷ, dạy người khác tu pháp đại Hỷ, khen ngợi pháp đại Hỷ, vui vẻ khen ngợi người tu pháp đại Hỷ. Tự tu pháp đại Xả, dạy người khác tu pháp đại Xả, khen ngợi pháp đại Xả, vui vẻ khen ngợi người tu pháp đại Xả.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự tu pháp mười tám pháp Phật bất cộng, dạy người khác tu pháp mười tám pháp Phật bất cộng, khen ngợi pháp mười tám pháp Phật bất cộng, vui vẻ khen ngợi người tu pháp mười tám pháp Phật bất cộng.

QUYỂN 102

Phẩm 29: NHIẾP THỌ (4)

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự tu pháp không quên mất, dạy người khác tu pháp không quên mất, khen ngợi pháp không quên mất, vui vẻ khen ngợi người tu pháp không quên mất. Tự tu pháp tánh luôn luôn xả, dạy người khác tu pháp tánh luôn luôn xả, khen ngợi pháp tánh luôn luôn xả, vui vẻ khen ngợi người tu pháp tánh luôn luôn xả.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự tu pháp tất cả pháp môn Đà-la-ni, dạy người khác tu pháp tất cả pháp môn Đà-la-ni, khen ngợi pháp tất cả pháp môn Đà-la-ni, vui vẻ khen ngợi người tu pháp tất cả pháp môn Đà-la-ni. Tự tu pháp tất cả pháp môn Tam-ma-địa, dạy người khác tu pháp tất cả pháp môn Tam-ma-địa, khen ngợi pháp tất cả pháp môn Tam-ma-địa, vui vẻ khen ngợi người tu pháp tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tự tu pháp trí Nhất thiết, dạy người khác tu pháp trí Nhất thiết, khen ngợi pháp trí Nhất thiết, vui vẻ khen ngợi người tu pháp trí Nhất thiết. Tự tu pháp trí Đạo tướng, dạy người khác tu pháp trí Đạo tướng, khen ngợi pháp trí Đạo tướng, vui vẻ khen ngợi người tu pháp trí Đạo tướng. Tự tu pháp trí Nhất thiết tướng, dạy người khác tu pháp trí Nhất thiết tướng, khen ngợi pháp trí Nhất thiết tướng, vui vẻ khen ngợi người tu pháp trí Nhất thiết tướng.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy tu hành sáu pháp Bala-mật-đa, khi hành Bố thí ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột; khi giữ Tịnh giới ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột; khi tu An nhẫn ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột; khi khởi Tinh tấn ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột; khi nhập Tĩnh lự ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột; khi học Bát-nhã ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột.

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thường nghĩ thế này: “Nếu ta chẳng hành Bố thí ba-la-mật-đa thì sẽ sinh vào nhà bần cùng, không có phương tiện thích hợp, lấy gì đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng chứng đắc trí Nhất thiết trí. Nếu ta chẳng giữ Tịnh giới ba-lamật-đa thì sẽ sinh vào các đường ác, còn chẳng thể được thân người hạ tiện, lấy gì đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng chứng đắc trí Nhất thiết trí. Nếu ta chẳng tu An nhẫn ba-la-mật-đa thì sinh ra các căn sẽ khiếm khuyết, dung mạo xấu xí, chẳng đầy đủ sắc thân viên mãn của Bồ-tát; nếu được sắc thân viên mãn của Bồ-tát, hành hạnh Bồ-tát, hữu tình nào thấy thì chắc chắn đạt được quả vị Giác ngộ cao tột, nếu chẳng được sắc thân viên mãn này thì chẳng có thể đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng chứng đắc trí Nhất thiết trí. Nếu ta biếng nhác, chẳng khởi Tinh tấn ba-la-mật-đa thì đạo thù thắng của Bồ-tát còn chẳng có khả năng đạt được, lấy gì đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng chứng đắc trí Nhất thiết trí. Nếu ta tâm bị loạn động, chẳng nhập Tĩnh lự ba-la-mật-đa thì định thù thắng của Bồ-tát còn chẳng thể khởi được, lấy gì đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng chứng đắc trí Nhất thiết trí. Nếu ta không có trí tuệ, chẳng học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì trí tuệ phương tiện thiện xảo còn chẳng đạt được, lấy gì đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng chứng đắc trí Nhất thiết trí.”

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy học sáu pháp Ba-lamật-đa thường nghĩ thế này: “Ta chẳng nên chạy theo thế lực tham lam keo kiệt, vì nếu chạy theo thế lực ấy thì Bố thí ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn, mà việc Bố thí ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn, thì chẳng bao giờ có khả năng thành tựu trí Nhất thiết trí. Ta chẳng nên buông theo thế lực phá giới, vì nếu buông theo thế lực ấy thì Tịnh giới ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn, mà nếu Tịnh giới ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn, thì chẳng bao giờ có khả năng thành tựu trí Nhất thiết trí. Ta chẳng nên buông theo thế lực giận dữ, vì nếu buông theo thế lực ấy thì An nhẫn ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn và nếu An nhẫn ba-la-mật-đa của ta chẳng viên mãn thì chẳng bao giờ có khả năng thành tựu trí Nhất thiết trí. Ta chẳng nên buông theo thế lực biếng trễ, vì nếu buông theo thế lực ấy thì Tinh tấn ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn, mà nếu Tinh tấn ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn thì chẳng bao giờ có khả năng thành tựu trí Nhất thiết trí. Ta chẳng nên buông theo thế lực làm loạn tâm, vì nếu buông theo thế lực ấy thì Tĩnh lự ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn, mà nếu Tĩnh lự ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn, thì chẳng bao giờ có khả năng thành tựu trí Nhất thiết trí. Ta chẳng nên buông theo thế lực vô trí vì nếu buông theo thế lực ấy thì Bát-nhã bala-mật-đa của ta chẳng được viên mãn, mà nếu Bátnhã ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn, thì chẳng bao giờ có khả năng thành tựu trí Nhất thiết trí.”

Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy chẳng lìa tâm của trí Nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng theo lý, sao chép giảng giải, truyền bá rộng rãi, thì sẽ đạt được công đức thắng lợi như thế trong hiện tại và về sau.

Bấy giờ, Thiên đế Thích bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, thật là hết sức hy hữu, đã điều phục Bồ-tát, khiến cho chẳng sinh tâm tự cao, mà lại có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Phật bảo:

−Kiều-thi-ca, thế nào là Bát-nhã ba-la-mật-đa đã điều phục Bồ-tát, khiến cho chẳng sinh tâm tự cao, mà lại có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí? Thiên đế Thích bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi hành Bố thí bala-mật-đa ở thế gian, nếu đối với Phật, thực hành bố thí mà nghĩ thế này: “Ta có khả năng bố thí cho Phật”; nếu đối với các hàng Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn, hoặc những kẻ cô độc, bần cùng, già cả, bệnh tật, lỡ đường, xin ăn, hành bố thí mà nghĩ: “Ta có khả năng bố thí cho Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn, những kẻ cô độc, bần cùng, già cả, bệnh tật, lỡ đường, xin ăn”, thì Đại Bồ-tát ấy vì không có phương tiện thiện xảo để hành bố thí, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi hành Tịnh giới ba-la-mật-đa ở thế gian, liền nghĩ: “Ta có khả năng tu hành Tịnh giới ba-la-mật-đa, ta có khả năng làm viên mãn Tịnh giới ba-la-mật-đa”, vì Đại Bồ-tát ấy không có phương tiện thiện xảo để tu hành tịnh giới, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi hành An nhẫn ba-la-mật-đa ở thế gian, liền nghĩ: “Ta có khả năng tu hành An nhẫn ba-la-mật-đa, ta có khả năng làm viên mãn An nhẫn ba-la-mật-đa”, vì Đại Bồ-tát ấy không có phương tiện thiện xảo để tu hành an nhẫn, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi hành Tinh tấn ba-la-mật-đa ở thế gian, liền nghĩ: “Ta có khả năng tu hành Tinh tấn ba-la-mật-đa, ta có khả năng làm viên mãn Tinh tấn ba-la-mật-đa”, vì Đại Bồ-tát ấy không có phương tiện thiện xảo để tu hành tinh tấn, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi hành Tĩnh lự ba-la-mật-đa ở thế gian, liền nghĩ: “Ta có khả năng tu hành Tĩnh lự ba-la-mật-đa, ta có khả năng làm viên mãn Tĩnh lự ba-la-mật-đa”, vì Đại Bồ-tát ấy không có phương tiện thiện xảo để tu hành tĩnh lự, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa ở thế gian, liền nghĩ: “Ta có khả năng tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, ta có khả năng làm viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa”, vì Đại Bồ-tát ấy không có phương tiện thiện xảo để tu hành Bát-nhã, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi an trú pháp không bên trong, nếu nghĩ: “Ta có khả năng an trú pháp không bên trong”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trú pháp không bên trong, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi an trú pháp không bên ngoài, không cả trong ngoài, không không, không lớn, không thắng nghĩa, không hữu vi, không vô vi, không rốt ráo, không không biên giới, không tản mạn, không không đổi khác, không bản tánh, không tự tướng, không cộng tướng, không nơi tất cả pháp, không chẳng thể nắm bắt được, không không tánh, không tự tánh, không không tánh tự tánh, nếu nghĩ: “Ta có khả năng an trú pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trú pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi an trú chân như, nếu nghĩ: “Ta có khả năng an trú chân như”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trú chân như, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi an trú pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, nếu nghĩ: “Ta có khả năng an trú pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trú pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi an trú Thánh đế khổ, nếu nghĩ: “Ta có khả năng an trú Thánh đế khổ”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trú Thánh đế khổ, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi an trú Thánh đế tập, diệt, đạo, nếu nghĩ: “Ta có khả năng an trú Thánh đế tập, diệt, đạo”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trú Thánh đế tập, diệt, đạo, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi tu hành bốn Tĩnh lự, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành bốn Tĩnh lự”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành bốn Tĩnh lự, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi tu hành tám Giải thoát, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành tám Giải thoát”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành tám Giải thoát, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi tu hành bốn Niệm trụ, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành bốn Niệm trụ”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành bốn Niệm trụ, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi tu hành pháp môn giải thoát Không, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành pháp môn giải thoát Không”, thì Đại Bồtát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành pháp môn giải thoát Không, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi tu hành năm loại mắt, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành năm loại mắt”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành năm loại mắt, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành sáu phép thần thông, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành sáu phép thần thông”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành sáu phép thần thông, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi tu hành mười lực của Phật, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành mười lực của Phật”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành mười lực của Phật, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi tu hành pháp không quên mất, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành pháp không quên mất”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành pháp không quên mất, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành tánh luôn luôn xả, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành tánh luôn luôn xả”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành tánh luôn luôn xả, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành tất cả pháp môn Tamma-địa, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí. Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi tu hành trí Nhất thiết, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành trí Nhất thiết”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành trí Nhất thiết, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, nếu nghĩ: “Ta có khả năng tu hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi dốc đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, nếu nghĩ: “Ta có khả năng đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình”, thì Đại Bồ-tát ấy vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sở nguyện đối với hữu tình, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi dốc làm nghiêm tịnh cõi Phật, nếu nghĩ: “Ta có khả năng làm nghiêm tịnh cõi Phật”, thì Đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sở nguyện làm nghiêm tịnh cõi Phật, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát như vậy là theo tâm thế gian mà tu các pháp thiện, vì không có phương tiện thiện xảo để tu hành Bố thí..., vì sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn tâm, vì tuy tu Bát-nhã bala-mật-đa mà chưa đạt được, nên chẳng có khả năng như thật điều phục tâm tự cao, cũng chẳng có khả năng như thật hồi hướng trí Nhất thiết trí. Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bố thí ba-la-mật-đa xuất thế gian, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có người bố thí, chẳng thấy có kẻ nhận, chẳng thấy có vật bố thí; do vì Đại Bồ-tát ấy đã dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà hành Bố thí ba-la-mật-đa, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Tịnh giới ba-lamật-đa xuất thế gian, vì khéo tu Bát-nhã ba-lamật-đa, nên chẳng thấy có tịnh giới, chẳng thấy có người đầy đủ tịnh giới; do vì Đại Bồ-tát ấy đã dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà hành Tịnh giới bala-mật-đa, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành An nhẫn ba-la-mậtđa xuất thế gian, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có an nhẫn, chẳng thấy có người đầy đủ an nhẫn; do vì Đại Bồ-tát ấy đã dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà hành An nhẫn ba-la-mậtđa, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Tinh tấn ba-la-mậtđa xuất thế gian, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có tinh tấn, chẳng thấy có người đầy đủ tinh tấn; do vì Đại Bồ-tát ấy đã dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà hành Tinh tấn ba-la-mậtđa, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Tĩnh lự ba-la-mậtđa xuất thế gian, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có tĩnh lự, chẳng thấy có người đầy đủ tĩnh lự; vì Đại Bồ-tát ấy đã dựa vào Bát-nhã bala-mật-đa mà hành Tĩnh lự ba-la-mật-đa, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa xuất thế gian, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có Bát-nhã, chẳng thấy có người đầy đủ Bát-nhã; do vì Đại Bồ-tát ấy đã dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi an trú nơi pháp không bên trong, vì khéo tu Bát-nhã ba-lamật-đa, nên chẳng thấy có pháp không bên trong, chẳng thấy có người an trú nơi pháp không bên trong; do vì Đại Bồ-tát ấy đã dựa vào Bát-nhã bala-mật-đa mà an trú nơi pháp không bên trong, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi an trú nơi pháp không bên ngoài, không cả trong ngoài, không không, không lớn, không thắng nghĩa, không hữu vi, không vô vi, không rốt ráo, không không biên giới, không tản mạn, không không đổi khác, không bản tánh, không tự tướng, không cộng tướng, không nơi tất cả pháp, không chẳng thể nắm bắt được, không không tánh, không tự tánh, không không tánh tự tánh, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có pháp không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh, chẳng thấy có người an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến không không tánh tự tánh, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi an trú chân như, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có chân như, chẳng thấy có người an trú chân như; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã bala-mật-đa mà an trú chân như, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi an trú pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thấy có người an trú pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà an trú pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi an trú Thánh đế khổ, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có Thánh đế khổ, chẳng thấy có người an trú Thánh đế khổ; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà an trú Thánh đế khổ, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi an trú Thánh đế tập, diệt, đạo, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng thấy có người an trú Thánh đế tập, diệt, đạo; do vì Đại Bồtát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà an trú Thánh đế tập, diệt, đạo, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành bốn Tĩnh lự, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có bốn Tĩnh lự, chẳng thấy có người tu hành bốn Tĩnh lự; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu hành bốn Tĩnh lự, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, chẳng thấy có người tu hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành tám Giải thoát, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có tám Giải thoát, chẳng thấy có người tu hành tám Giải thoát; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu hành tám Giải thoát, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, vì khéo tu Bát-nhã bala-mật-đa, nên chẳng thấy có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, chẳng thấy có người tu hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bátnhã ba-la-mật-đa mà tu hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành bốn Niệm trụ, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có bốn Niệm trụ, chẳng thấy có người tu hành bốn Niệm trụ; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu hành bốn Niệm trụ, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, vì khéo tu Bát-nhã ba-lamật-đa, nên chẳng thấy có bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, chẳng thấy có người tu hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành pháp môn giải thoát Không, vì khéo tu Bát-nhã ba-lamật-đa, nên chẳng thấy có pháp môn giải thoát Không, chẳng thấy có người tu hành pháp môn giải thoát Không; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu hành pháp môn giải thoát Không, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, vì khéo tu Bát-nhã bala-mật-đa, nên chẳng thấy có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, chẳng thấy có người tu hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-lamật-đa mà tu hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành năm loại mắt, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có năm loại mắt, chẳng thấy có người tu hành năm loại mắt; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu hành năm loại mắt, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành sáu phép thần thông, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có sáu phép thần thông, chẳng thấy có người tu hành sáu phép thần thông; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu hành sáu phép thần thông, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành mười lực của Phật, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mậtđa, nên chẳng thấy có mười lực của Phật, chẳng thấy có người tu hành mười lực của Phật; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu hành mười lực của Phật, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng thấy có người tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành pháp không quên mất, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có pháp không quên mất, chẳng thấy có người tu hành pháp không quên mất; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu hành pháp không quên mất, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành tánh luôn luôn xả, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có tánh luôn luôn xả, chẳng thấy có người tu hành tánh luôn luôn xả; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu hành tánh luôn luôn xả, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, vì khéo tu Bát-nhã ba-lamật-đa, nên chẳng thấy có tất cả pháp môn Đà-lani, chẳng thấy có người tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bátnhã ba-la-mật-đa mà tu hành tất cả pháp môn Đàla-ni, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng thấy có người tu hành tất cả pháp môn Tam-mađịa; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã bala-mật-đa mà tu hành tất cả pháp môn Tam-mađịa, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành trí Nhất thiết, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có trí Nhất thiết, chẳng thấy có người tu hành trí Nhất thiết; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu hành trí Nhất thiết, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, chẳng thấy có người tu hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi dốc đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, vì khéo tu Bátnhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có sở nguyện ấy đối với hữu tình, chẳng thấy có người thực hiện sở nguyện ấy đối với hữu tình; là vì Đại Bồ-tát đó đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà thực hiện sở nguyện, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ-tát khi dốc làm nghiêm tịnh cõi Phật, vì khéo tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có sự nghiêm tịnh nơi cõi Phật, chẳng thấy có người nghiêm tịnh cõi Phật; do vì Đại Bồ-tát ấy đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà làm nghiêm tịnh cõi Phật, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí. Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát như thế, vì đã nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa xuất thế gian mà tu pháp thiện nên có khả năng như thật điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng như thật hồi hướng trí Nhất thiết trí, vì vậy nên tôi nói Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế thật là hy hữu, đã điều phục Bồ-tát, khiến cho chẳng khởi tâm tự cao, lại có khả năng hồi hướng trí Nhất thiết trí.

Bấy giờ, Phật bảo Thiên đế Thích:

−Kiều-thi-ca, nếu các thiện nam, thiện nữ luôn luôn đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu như vậy, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng theo lý, sao chép, giảng thuyết, truyền bá rộng rãi, thì các thiện nam, thiện nữ ấy thân thường an ổn, tâm thường vui vẻ, chẳng bị tất cả các thứ tai họa xâm phạm, não hại.

Lại nữa Kiều-thi-ca, nếu các thiện nam, thiện nữ đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này thọ trì, đọc tụng, thân cận cúng dường, tư duy đúng theo lý, sao chép, giảng thuyết, truyền bá rộng rãi, thì các thiện nam, thiện nữ ấy nếu khi theo quân lính ra trận mà chí tâm tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, thì chẳng bị đao trượng làm tổn hại, kẻ oán địch đều khởi từ tâm, dù sắp bị trúng thương, tự nhiên tránh được, chẳng bao giờ có chuyện mất mạng ở chiến trường. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì các thiện nam, thiện nữ ấy chẳng lìa tâm của trí Nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, luôn luôn tu tập sáu pháp Ba-la-mật-đa, tự từ bỏ đao gậy của sự tham dục, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao gậy của sự tham dục; tự từ bỏ đao gậy của sự sân hận, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao gậy của sự sân hận; tự từ bỏ đao gậy của sự ngu si, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao gậy của sự ngu si; tự từ bỏ đao gậy của ác kiến, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao gậy của ác kiến; tự từ bỏ đao gậy của sự trói buộc cấu uế, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao gậy của sự trói buộc cấu uế; tự từ bỏ đao gậy của sự mê muội, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao gậy của sự mê muội; tự từ bỏ đao gậy của nghiệp ác, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao gậy của nghiệp ác.

Kiều-thi-ca, do duyên cớ này, nên các hàng thiện nam, thiện nữ ấy dù nhập quân trận chẳng bị đao gậy của sự làm tổn thương, kẻ đối địch đều khởi lòng Từ, dù sắp bị trúng thương, tự nhiên tránh được, chẳng bao giờ có chuyện bỏ mạng ở chiến trường.

Lại nữa Kiều-thi-ca, nếu các hàng thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm của trí Nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thường đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu như thế mà chí tâm lắng nghe, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, thọ trì, đọc tụng, tư duy đúng theo lý, tinh cần tu học, sao chép, giảng thuyết, truyền bá rộng rãi, thì các thiện nam, thiện nữ ấy không bị tất cả các thứ thuốc độc, trùng độc, quỷ mị trù yếm, chú thuật có thể làm tổn hại, không thể chìm trong nước, chẳng bị lửa làm cháy; đao gậy, thú dữ, oán tặc, thần ác, các thứ yêu tinh quái vật, chẳng thể làm hại được. Vì sao? Kiều-thi-ca, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là chú Đại thần; Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là chú Đại minh; Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là chú không gì có thể sánh; Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là vua của tất cả thần chú, tối thượng, tối diệu, không gì có thể sánh bằng, đầy đủ oai lực lớn, có khả năng hàng phục tất cả, chẳng hề bị một cái gì hàng phục được. Thiện nam, thiện nữ ấy tinh cần tu học chú vương này, chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ ấy học Bát-nhã ba-la- mật-đa này, hiểu rõ mình và người, cả hai đều chẳng thể nắm bắt được.

Kiều-thi-ca, các thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này, chẳng thấy có ngã, chẳng thấy có hữu tình, chẳng thấy có dòng sinh mạng, chẳng thấy có sự sinh, chẳng thấy có sự dưỡng, chẳng thấy có sự trưởng thành, chẳng thấy có chủ thể luân hồi, chẳng thấy có ý sinh, chẳng thấy có nho đồng, chẳng thấy có sự tạo tác, chẳng thấy có sự thọ nhận, chẳng thấy có cái biết, chẳng thấy có cái thấy. Do đối với ngã... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, các thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có sắc, chẳng thấy có thọ, tưởng, hành, thức; vì đối với sắc uẩn... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, các thiện nam, thiện nữ... ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có nhãn xứ, chẳng thấy có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; vì đối với nhãn xứ... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai. ca, các thiện nam, thiện nữ ấy khi học thấy có sắc xứ, chẳng thấy có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; vì đối với sắc xứ... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, các thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có nhãn giới, chẳng thấy có sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; vì đối với nhãn giới... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, các thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có nhĩ giới, chẳng thấy có thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra; vì đối với nhĩ giới... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, các thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có tỷ giới, chẳng thấy có hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra; vì đối với tỷ giới... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai. ca, các thiện nam, thiện nữ ấy khi học thấy có thiệt giới, chẳng thấy có vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra; vì đối với thiệt giới... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, các thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có thân giới, chẳng thấy có xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra; vì đối với thân giới... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, các thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có ý giới, chẳng thấy có pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; vì đối với ý giới... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, các thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có địa giới, chẳng thấy có thủy, hỏa, phong, không, thức giới; vì đối với địa giới... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai. ca, các thiện nam, thiện nữ ấy khi học thấy có Thánh đế khổ, chẳng thấy có Thánh đế tập, diệt, đạo; vì đối với Thánh đế khổ... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, các thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có vô minh, chẳng thấy có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; vì đối với vô minh... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, các thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có pháp không bên trong, chẳng thấy có pháp không bên ngoài, không cả trong ngoài, không không, không lớn, không thắng nghĩa, không hữu vi, không vô vi, không rốt ráo, không không biên giới, không tản mạn, không không đổi khác, không bản tánh, không tự tướng, không cộng tướng, không nơi tất cả pháp, không chẳng thể nắm bắt được, không không tánh, không tự tánh, không không tánh tự tánh; vì đối với pháp không bên trong... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, các thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có chân như, chẳng thấy có pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; vì đối với chân như... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.


QUYỂN 103

Phẩm 29: NHIẾP THỌ (5)

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng thấy có Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì đối với Bố thí ba-la-mật-đa... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có bốn Tĩnh lự, chẳng thấy có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; vì đối với bốn Tĩnh lự... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có tám Giải thoát, chẳng thấy có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; vì đối với tám Giải thoát... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có bốn Niệm trụ, chẳng thấy có bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; vì đối với bốn Niệm trụ... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có pháp môn giải thoát Không, chẳng thấy có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; vì đối với pháp môn giải thoát Không... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có năm loại mắt, chẳng thấy có sáu phép thần thông; vì đối với năm loại mắt... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có mười lực của Phật, chẳng thấy có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vì đối với mười lực của Phật... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có pháp không quên mất, chẳng thấy có tánh luôn luôn xả; vì đối với pháp không quên mất... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có trí Nhất thiết, chẳng thấy có trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; vì đối với trí Nhất thiết... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng thấy có tất cả pháp môn Tam-ma-địa; vì đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có Dự lưu, chẳng thấy có Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán; vì đối với Dự lưu... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có Dự lưu hướng, Dự lưu quả, chẳng thấy có Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; vì đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có Độc giác, chẳng thấy có Độc giác hướng, Độc giác quả; vì đối với Độc giác... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có Đại Bồ-tát, chẳng thấy có Tam-miệu-tam Phậtđà; vì đối với Đại Bồ-tát... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có pháp của Đại Bồ-tát, chẳng thấy có quả vị Giác ngộ cao tột; vì đối với pháp của Đại Bồ-tát... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng thấy có Thanh văn thừa, chẳng thấy có Độc giác thừa, Vô thượng thừa; vì đối với Thanh văn thừa... đều vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều-thi-ca, thiện nam, thiện nữ ấy khi học Đại chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này, đối với ngã và pháp, tuy không sở đắc mà chứng quả vị Giác ngộ cao tột, quán chiếu mọi nẻo sai biệt nơi tâm hành của các hữu tình, tùy nghi chuyển pháp luân vô thượng, khiến họ y theo lời dạy mà tu hành, đều được ích lợi. Vì sao? Vì chúng Đại Bồ-tát quá khứ, đối với Đại thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa này, luôn tinh cần tu học, đã chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh. Chúng Đại Bồ-tát vị lai, đối với Đại thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa này, cũng tinh cần tu học, sẽ chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh. Chúng Đại Bồ-tát hiện tại trong mười phương vô biên thế giới, đối với Đại thần chú Bát-nhã ba-lamật-đa này, đều tinh cần tu học, chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh.

Lại nữa Kiều-thi-ca, nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng theo lý, sao chép, giảng thuyết, truyền bá rộng rãi, thì các thiện nam, thiện nữ ấy ở bất kỳ thành ấp, quốc độ nào, chẳng hề bị tất cả các thứ tai họa, bệnh dịch của người và phi nhân làm tổn hại. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy, ở bất cứ đâu cũng được chúng trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm, trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh và các Rồng, Thần, A-tố-lạc... ở trong thế giới ba lần ngàn này và vô lượng vô số, vô biên thế giới khác trong mười phương thường đến ủng hộ, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, vì chẳng để cho Đại thần chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa bị trở ngại.

Lại nữa Kiều-thi-ca, nếu thiện nam, thiện nữ sao chép Đại thần chú vương Bát-nhã ba-la-mậtđa này, đặt để nơi thanh tịnh, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, tuy chẳng được nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, tư duy đúng theo lý, cũng chẳng vì người khác mà chỉ bày dẫn giải, nhưng ngay nơi trú xứ quốc độ, thành ấp kinh đô của người và phi nhân này... chẳng hề bị tất cả các thứ tai họa, bệnh dịch làm tổn hại. Vì sao? Vì Đại thần chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, ở bất cứ chỗ nào, đều được chúng trời Tứ đại vương cho đến trời Sắc cứu cánh cùng các Rồng, Thần, A-tố-lạc... trong thế giới ba lần ngàn này và vô lượng, vô số, vô biên thế giới khác trong mười phương, thường đến ủng hộ, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, vì chẳng để cho Đại thần chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa này bị trở ngại.

Kiều-thi-ca, nếu thiện nam, thiện nữ ấy, chỉ sao chép Đại thần chú vương Bát-nhã ba-la-mậtđa này, đặt để nơi thanh tịnh, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, mà hiện tại còn được lợi ích như vậy, huống chi là thường lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, theo đúng lý tư duy và vì người khác mà chỉ bày giảng giải. Nên biết công đức của người ấy là vô biên, mau chóng chứng đắc quả Giác ngộ, làm lợi lạc cho tất cả.

Kiều-thi-ca, nếu thiện nam, thiện nữ sợ hãi đối với oan gia, ác thú, tai họa, trù yếm, bệnh dịch, thuốc độc, chú thuật... thì nên sao chép Đại thần chú vương Bát-nhã ba-la-mật-đa, tùy theo số lượng nhiều ít, gói trong túi thơm, đặt nơi ống quý, thường mang theo bên mình, luôn cung kính cúng dường, thì các sự sợ hãi đều được tiêu trừ, vì Trời, Rồng, Quỷ thần thường ủng hộ.

Kiều-thi-ca, thí như có người hoặc loài bàng sinh đi vào chỗ cây Bồ-đề, hoặc đến bên cây ấy, thì người hoặc phi nhân đều không thể làm hại được. Vì sao? Vì chư Phật cả ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều an tọa nơi này mà chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột; đạt được giác ngộ rồi, thì nêu dạy cho các hữu tình những điều không sợ hãi khiến họ thân tâm an lạc; tạo sự an lập cho vô lượng vô số hữu tình, khiến được an trú nơi diệu hạnh, được người trời tôn quý; tạo sự an lập cho vô lượng vô số hữu tình, khiến được an trú nơi diệu hạnh an lạc của ba thừa; tạo sự an lập cho vô lượng vô số hữu tình, khiến chứng đắc ngay, hoặc Dự lưu quả, hoặc Nhất lai quả, hoặc Bất hoàn quả, hoặc A-la-hán quả; tạo sự an lập cho vô lượng vô số hữu tình, khiến sẽ chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, những việc thù thắng như thế đều do diệu lực từ oai thần của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì vậy nên chốn này, Trời, Rồng, A-tố-lạc... đều cùng bảo vệ, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa, có mặt ở chỗ nào cũng lại như vậy, tất cả Trời, Rồng, A-tố-lạc... thường đến ủng hộ, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, vì chẳng để Bát-nhã ba-la-mậtđa bị trở ngại. Nên biết chốn ấy tức là chốn tháp chùa linh thiêng; tất cả hữu tình đều nên kính lễ, nên dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột... thượng diệu, y phục, anh lạc, cờ phướn, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng để cúng dường.


Trước

[Đầu trang][Mục lục Kinh Đại Bát Nhã]

Tiếp theo


[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]


[Mục lục tổng quát]