SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
HỘI THỨ I
PHẨM 32: KHEN NGỢI BÁT-NHÃ
(QUYỂN 172 - 181)
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Bấy giờ, Cụ thọ Xá-lợi Tử bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, chỗ thuyết giảng như vậy, há chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Phật dạy:
−Này Xá-lợi Tử, thuyết giảng như vậy tức là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi Tử lại bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng tỏa sáng, rốt ráo thanh tịnh. Bạch Thế Tôn, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đều nên kính lễ, trời, người chúng con đều dốc tuân theo. Bạch Thế Tôn, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, không hề bị nhiễm đắm vướng mắc, nên các pháp trong thế gian chẳng thể làm ô uế được. Bạch Thế Tôn, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là xa lìa tất cả mê mờ trong ba cõi, có khả năng dứt trừ những sự tối tăm của phiền não. Bạch Thế Tôn, vì Bátnhã ba-la-mật-đa như thế rất là cao cả, vì ở trong tất cả các pháp thuộc về giác ngộ, nó là tôn quý. Bạch Thế Tôn, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng làm cho an ổn, vĩnh viễn dứt trừ tất cả sự khiếp sợ, mọi ưu sầu bức bách, mọi tai họa bất ngờ. Bạch Thế Tôn, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng phát sinh ánh sáng nhiếp thọ các loài hữu tình, khiến chứng đắc năm loại mắt. Bạch Thế Tôn, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng chỉ bày nẻo Trung đạo, khiến kẻ lạc đường chóng lìa khỏi hai bên. Bạch Thế Tôn, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng phát sinh trí Nhất thiết trí, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả các phiền não tương tục và tập khí lâu đời. Bạch Thế Tôn, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là mẹ của các Đại Bồ-tát, tất cả Phật pháp mà Bồ-tát đã tu đều từ đấy phát sinh. Bạch Thế Tôn, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là bất sinh, bất diệt, là tự tánh không. Bạch Thế Tôn, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là xa lìa sinh tử, chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Bạch Thế Tôn, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng làm chỗ nương tựa, bố thí các pháp bảo. Bạch Thế Tôn, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế có khả năng làm thành tựu mười lực của Phật, chẳng thể bị khuất phục. Bạch Thế Tôn, vì Bát-nhã ba-lamật-đa như thế là có khả năng chuyển pháp luân vô thượng gồm ba chuyển, mười hai hành tướng, đạt tất cả pháp, không thể xoay chuyển trở lại. Bạch Thế Tôn, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là có khả năng chỉ rõ tánh không điên đảo của các pháp, làm hiển bày pháp không không tánh tự tánh. Bạch Thế Tôn, vậy trụ Bồ-tát thừa, hoặc Độc giác thừa, hoặc Thanh văn thừa, các loại hữu tình đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này, nên trụ như thế nào?
Phật dạy:
−Này Xá-lợi Tử, các hữu tình ấy, đối với Bát- nhã ba-la-mật-đa này nên an trụ như Phật, cúng dường lễ kính, tư duy Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên như cúng dường lễ kính, tư duy về Phật, Bạc-giàphạm. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng khác Phật, Bạc-già-phạm; Phật, Bạc-già-phạm chẳng khác Bát-nhã ba-la-mật-đa; Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là Phật, Bạc-già-phạm; Phật, Bạc-già-phạm tức là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Xá-lợi Tử, vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá-lợi Tử, vì tất cả Đại Bồ-tát, Độc giác, A-la-hán, Bất hoàn, Nhất lai, Dự lưu… đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá-lợi Tử, vì tất cả mười nẻo thiện nghiệp, bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, năm phép thần thông ở thế gian, đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá-lợi Tử, vì tất cả các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá-lợi Tử, vì tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá-lợi Tử, vì tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá-lợi Tử, vì tất cả Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xálợi Tử, vì tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá-lợi Tử, vì tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá-lợi Tử, vì tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo đều do Bát-nhã ba-la-mậtđa mà được xuất hiện. Này Xá-lợi Tử, vì tất cả pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, pháp môn giải thoát Vô nguyện đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xálợi Tử, vì tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá-lợi Tử, vì tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá-lợi Tử, vì tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả đều do Bát-nhã ba-la-mậtđa mà được xuất hiện. Này Xá-lợi Tử, vì tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá-lợi Tử, vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được xuất hiện.
Khi ấy, Thiên đế Thích bỗng nghĩ rằng: “Hôm nay Cụ thọ Xá-lợi Tử, do nhân duyên gì mà hỏi việc này?”
Cụ thọ Xá-lợi Tử nhận biết tâm niệm ấy của Thiên đế Thích liền bảo rằng:
−Này Kiều-thi-ca, vì các Đại Bồ-tát được Bátnhã ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo nhiếp thọ nên có khả năng đối với hết thảy căn lành, công đức của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ, vị lai, hiện tại trong mười phương thế giới, ở khoảng ấy từ lúc mới phát tâm đến khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu cho tới thời kỳ pháp diệt, hoặc căn lành công đức của chư Thanh văn, Độc giác, Bồtát và các loại hữu tình khác, tập hợp lại, cân nhắc, suy lường, khởi ngay sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột; do nhân duyên ấy, cho nên tôi mới nêu hỏi việc này.
Lại nữa Kiều-thi-ca, các Đại Bồ-tát tu học Bát- nhã ba-la-mật-đa vượt hơn Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, gấp vô lượng lần. Thí như trăm ngàn kẻ sinh ra đã bị mù, không có người sáng mắt khéo dẫn đường thì còn chẳng có thể đến gần đường chính, huống là có thể đi xa để tới nơi thành lớn đông đúc an vui; các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa ấy cũng như vậy. Các kẻ mù bẩm sinh đó, nếu không có Bát-nhã ba-la-mậtđa là người sáng mắt dẫn đường thì còn chẳng thể hướng đến đường chánh Bồ-tát huống là có thể được vào thành trí Nhất thiết.
Lại nữa Kiều-thi-ca, Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, vì do Bát-nhã ba-la-mật-đa này nhiếp thọ nên được gọi là “kẻ có mắt”; lại vì do Bát-nhã ba-lamật-đa nhiếp thọ nên Bố thí… tất cả đều có tên gọi là “đến bờ kia”.
Thiên đế Thích liền bạch Cụ thọ Xá-lợi Tử:
−Như Đại đức đã nói: Bố thí… năm pháp Bala-mật-đa, chính là do Bát-nhã ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên mới được gọi là “đến bờ kia”. Vậy há chẳng có thể cho rằng: chính là do Bố thí ba-lamật-đa nhiếp thọ mà năm pháp kia được có tên là đến bờ kia; chính là do Tịnh giới ba-la-mật-đa nhiếp thọ mà năm pháp kia được có tên là đến bờ kia; chính là do An nhẫn ba-la-mật-đa nhiếp thọ mà năm pháp kia được có tên là đến bờ kia; chính là do Tinh tấn ba-la-mật-đa nhiếp thọ mà năm pháp kia được có tên là đến bờ kia; chính là do Tĩnh lự ba-la-mật-đa nhiếp thọ mà năm pháp kia được có tên là đến bờ kia. Như thế thì dựa vào cái gì mà chỉ khen ngợi riêng Bát-nhã là vượt hơn năm pháp Bala-mật-đa kia?
Xá-lợi Tử đáp:
−Chẳng phải vậy! Chẳng phải vậy! Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì chẳng phải do Bố thí ba-lamật-đa nhiếp thọ mà năm pháp kia mới được gọi là đến bờ kia; chẳng phải do Tịnh giới ba-la-mậtđa nhiếp thọ mà năm pháp kia mới được gọi là đến bờ kia; chẳng phải do An nhẫn ba-la-mật-đa nhiếp thọ mà năm pháp kia mới được gọi là đến bờ kia; chẳng phải do Tinh tấn ba-la-mật-đa nhiếp thọ mà năm pháp kia mới được gọi là đến bờ kia; chẳng phải do Tĩnh lự ba-la-mật-đa nhiếp thọ mà năm pháp kia mới được gọi là đến bờ kia. Mà chỉ do Bát-nhã ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên năm pháp kia mới được gọi là đến bờ kia. Vì sao? Vì các Đại Bồtát chính là trụ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mới có khả năng làm viên mãn Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng phải trụ nơi năm pháp kia mà có thể thành tựu được việc ấy; vì vậy nên Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với năm pháp trước là tối thắng, là tôn quý, là vi diệu, là cao cả, là không gì trên, không gì bằng, không gì hơn.
Bấy giờ, Cụ thọ Xá-lợi Tử bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nên thể hiện, phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào?
Phật dạy:
−Này Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy sắc mà thể hiện phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy thọ, tưởng, hành, thức mà thể hiện phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy sắc mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy thọ, tưởng, hành, thức mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì sắc là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy sắc mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì thọ, tưởng, hành, thức là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy thọ, tưởng, hành, thức mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy nhãn xứ mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy nhãn xứ mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì nhãn xứ là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy nhãn xứ mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy sắc xứ mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy sắc xứ mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì sắc xứ là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy sắc xứ mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà phát huy Bát-nhã bala-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy nhãn giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy nhãn giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì nhãn giới là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy nhãn giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy nhĩ giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy nhĩ giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì nhĩ giới là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy nhĩ giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy tỷ giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy tỷ giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì tỷ giới là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy tỷ giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy thiệt giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy thiệt giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì thiệt giới là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy thiệt giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy thân giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy thân giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì thân giới là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy thân giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy ý giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy ý giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì ý giới là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy ý giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy địa giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy địa giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì địa giới là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy địa giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy vô minh mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy vô minh mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì vô minh là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy vô minh mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy Bố thí ba-la-mật-đa mà phát huy Bát-nhã bala-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy Bố thí ba-la-mật-đa mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì Bố thí ba-la-mật-đa là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy Bố thí ba-la-mật-đa mà phát huy Bát-nhã bala-mật-đa; vì Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mậtđa là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-lamật-đa mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy pháp không bên trong mà phát huy Bát-nhã bala-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy pháp không bên trong mà phát huy Bátnhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì pháp không bên trong là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy pháp không bên trong mà phát huy Bátnhã ba-la-mật-đa; vì pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh, nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy chân như mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy chân như mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì chân như là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy chân như mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy Thánh đế khổ mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy Thánh đế tập, diệt, đạo mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy Thánh đế khổ mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng lấy sự phát huy Thánh đế tập, diệt, đạo mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì Thánh đế khổ là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh, nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy Thánh đế khổ mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; vì Thánh đế tập, diệt, đạo là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy Thánh đế tập, diệt, đạo mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy bốn Tĩnh lự mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy bốn Tĩnh lự mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng lấy sự phát huy bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì bốn Tĩnh lự là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy bốn Tĩnh lự mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà phát huy Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy tám Giải thoát mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy tám Giải thoát mà phát huy Bát-nhã bala-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà phát huy Bátnhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì tám Giải thoát là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy tám Giải thoát mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy bốn Niệm trụ mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy bốn Niệm trụ mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng lấy sự phát huy bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà phát huy Bát-nhã bala-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì bốn Niệm trụ là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy bốn Niệm trụ mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; vì bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy pháp môn giải thoát Không mà phát huy Bátnhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà phát huy Bátnhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy pháp môn giải thoát Không mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì pháp môn giải thoát Không là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy pháp môn giải thoát Không mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy năm loại mắt mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy sáu phép thần thông mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy năm loại mắt mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng lấy sự phát huy sáu phép thần thông mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì năm loại mắt là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy năm loại mắt mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; vì sáu phép thần thông là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy sáu phép thần thông mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy mười lực của Phật mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng lấy sự phát huy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy mười lực của Phật mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì mười lực của Phật là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy mười lực của Phật mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy pháp không quên mất mà phát huy Bát-nhã bala-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy tánh luôn luôn xả mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy pháp không quên mất mà phát huy Bátnhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy tánh luôn luôn xả mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì pháp không quên mất là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy pháp không quên mất mà phát huy Bátnhã ba-la-mật-đa; vì tánh luôn luôn xả là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy tánh luôn luôn xả mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy trí Nhất thiết mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng lấy sự phát huy trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy trí Nhất thiết mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng lấy sự phát huy trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa?
Này Xá-lợi Tử, vì trí Nhất thiết là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy trí Nhất thiết mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy tất cả pháp môn Đà-la-ni mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà phát huy Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy tất cả pháp môn Đà-la-ni mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì tất cả pháp môn Đà-la-ni là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy tất cả pháp môn Đà-la-ni mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì tất cả pháp môn Tam-mađịa là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy quả Dự lưu mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng lấy sự phát huy quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy quả Dự lưu mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng lấy sự phát huy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa? Này Xá-lợi Tử, vì quả Dự lưu là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy quả Dự lưu mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa; vì quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà phát huy Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy quả vị Độc giác mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy quả vị Độc giác mà phát huy Bát-nhã bala-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì quả vị Độc giác là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy quả vị Độc giác mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy hạnh Đại Bồ-tát mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy hạnh Đại Bồ-tát mà phát huy Bát-nhã bala-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì hạnh Đại Bồ-tát là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy hạnh Đại Bồ-tát mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy tất cả pháp mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy tất cả pháp mà phát huy Bát-nhã ba-lamật-đa?
Này Xá-lợi Tử, vì tất cả pháp là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên Đại Bồ-tát chẳng lấy sự phát huy tất cả pháp mà phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Khi ấy, Xá-lợi Tử lại bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là cùng hợp với pháp nào?
Phật dạy:
−Này Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát phát huy Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là chẳng hợp với tất cả pháp. Vì chẳng hợp nên được gọi là Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là không cùng hợp với tất cả những pháp nào?
Này Xá-lợi Tử! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là chẳng cùng hợp với pháp thiện; chẳng cùng hợp với pháp phi thiện; chẳng cùng hợp với pháp hữu tội; chẳng cùng hợp với pháp vô tội; chẳng cùng hợp với pháp hữu lậu; chẳng cùng hợp với pháp vô lậu; chẳng cùng hợp với pháp hữu vi; chẳng cùng hợp với pháp vô vi; chẳng cùng hợp với pháp tạp nhiễm; chẳng cùng hợp với pháp thanh tịnh; chẳng cùng hợp với pháp nhiễm ô; chẳng cùng hợp với pháp bất nhiễm ô; chẳng cùng hợp với pháp thế gian; chẳng cùng hợp với pháp xuất thế gian; chẳng cùng hợp với pháp sinh tử; chẳng cùng hợp với pháp Niết-bàn. Vì sao? Xá-lợi Tử, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là đối với tất cả pháp đều không có sở đắc.
Bấy giờ, Thiên đế Thích bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế há cũng chẳng hợp với trí Nhất thiết trí?
Phật dạy:
−Này Kiều-thi-ca, đúng vậy, đúng vậy! Bátnhã ba-la-mật-đa này cũng chẳng hợp với trí Nhất thiết trí. Vì do cái này đối với cái kia đều chẳng thể nắm bắt được.
Bạch Thế Tôn, vì sao Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với trí Nhất thiết trí không hợp cũng không đắc?
Này Kiều-thi-ca, chẳng phải Bát-nhã ba-lamật-đa đối với trí Nhất thiết trí đúng như danh, như tướng, như tác dụng của nó, có hợp, có đắc.
Bạch Thế Tôn, vì sao Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với trí Nhất thiết trí cũng có hợp, có đắc?
Này Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với trí Nhất thiết trí không nhận, không giữ, không trụ, không dứt, không chấp, không xả đúng như danh tướng…, hợp đắc như vậy mà không hợp đắc.
Này Kiều-thi-ca, Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp cũng không nhận, không giữ, không trụ, không dứt, không chấp, không xả đúng như danh tướng…, hợp đắc như vậy mà không hợp đắc.
Thiên đế Thích lại bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, thật là điều hy hữu! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế vì tất cả pháp là không tạo tác, không dừng nghỉ, không sinh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên trong hiện tại; tuy có hợp có đắc mà là không hợp không đắc.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa cùng hợp với tất cả pháp; Bát-nhã bala-mật-đa chẳng cùng hợp với tất cả pháp thì Đại Bồ-tát ấy đều vứt bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa; đều xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Phật dạy:
−Này Thiện Hiện, lại có nhân duyên khiến các Đại Bồ-tát vứt bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa; xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, đó là khi Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, khởi tưởng thế này: Bát-nhã bala-mật-đa như thế là không sở hữu, chẳng phải chân thật, chẳng kiên cố, chẳng tự tại, nên Đại Bồtát ấy đã vứt bỏ hết Bát-nhã ba-la-mật-đa; đã xa lìa hết Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp nào?
Phật dạy:
−Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc; chẳng tin thọ, tưởng, hành, thức.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc; chẳng tin thọ, tưởng, hành, thức?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán sắc chẳng thể nắm bắt được; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-lamật-đa thì chẳng tin sắc; chẳng tin thọ, tưởng, hành, thức.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhãn xứ; chẳng tin nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhãn xứ; chẳng tin nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã bala-mật-đa thì chẳng tin nhãn xứ; chẳng tin nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc xứ; chẳng tin thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc xứ; chẳng tin thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán sắc xứ chẳng thể nắm bắt được; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc xứ; chẳng tin thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhãn giới; chẳng tin sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhãn giới; chẳng tin sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán nhãn giới chẳng thể nắm bắt được; quán sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhãn giới; chẳng tin sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhĩ giới; chẳng tin thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhĩ giới; chẳng tin thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán nhĩ giới chẳng thể nắm bắt được; quán thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhĩ giới; chẳng tin thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin tỷ giới; chẳng tin hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin tỷ giới; chẳng tin hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán tỷ giới chẳng thể nắm bắt được; quán hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin tỷ giới; chẳng tin hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin thiệt giới; chẳng tin vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin thiệt giới; chẳng tin vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán thiệt giới chẳng thể nắm bắt được; quán vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin thiệt giới; chẳng tin vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin thân giới; chẳng tin xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin thân giới; chẳng tin xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán thân giới chẳng thể nắm bắt được; quán xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin thân giới; chẳng tin xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin ý giới; chẳng tin pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bát- nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin ý giới; chẳng tin pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán ý giới chẳng thể nắm bắt được; quán pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin ý giới; chẳng tin pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin địa giới; chẳng tin thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin địa giới; chẳng tin thủy, hỏa, phong, không, thức giới?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán địa giới chẳng thể nắm bắt được; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin địa giới; chẳng tin thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin vô minh; chẳng tin hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bát- nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin vô minh; chẳng tin hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán vô minh chẳng thể nắm bắt được; quán hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin vô minh; chẳng tin hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin Bố thí ba-la-mật-đa; chẳng tin Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin Bố thí ba-la-mật-đa; chẳng tin Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán Bố thí ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được; quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã bala-mật-đa thì chẳng tin Bố thí ba-la-mật-đa; chẳng tin Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không bên trong; chẳng tin pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không bên trong; chẳng tin pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán pháp không bên trong chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không bên trong; chẳng tin pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin chân như; chẳng tin pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin chân như; chẳng tin pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán chân như chẳng thể nắm bắt được; quán pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin chân như; chẳng tin pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin Thánh đế khổ; chẳng tin Thánh đế tập, diệt, đạo.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin Thánh đế khổ; chẳng tin Thánh đế tập, diệt, đạo?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin Thánh đế khổ; chẳng tin Thánh đế tập, diệt, đạo.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn Tĩnh lự; chẳng tin bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn Tĩnh lự; chẳng tin bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán bốn Tĩnh lự chẳng thể nắm bắt được; quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn Tĩnh lự; chẳng tin bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin tám Giải thoát; chẳng tin tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin tám Giải thoát; chẳng tin tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát- nhã ba-la-mật-đa quán tám Giải thoát chẳng thể nắm bắt được; quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin tám Giải thoát; chẳng tin tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn Niệm trụ; chẳng tin bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn Niệm trụ; chẳng tin bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán bốn Niệm trụ chẳng thể nắm bắt được; quán bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn Niệm trụ; chẳng tin bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp môn giải thoát Không; chẳng tin pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp môn giải thoát Không; chẳng tin pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán pháp môn giải thoát Không chẳng thể nắm bắt được; quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp môn giải thoát Không; chẳng tin pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin năm loại mắt; chẳng tin sáu phép thần thông.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin năm loại mắt; chẳng tin sáu phép thần thông?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được; quán sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã bala-mật-đa thì chẳng tin năm loại mắt; chẳng tin sáu phép thần thông.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin mười lực của Phật; chẳng tin bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bát- nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin mười lực của Phật; chẳng tin bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán mười lực của Phật chẳng thể nắm bắt được; quán bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-lamật-đa thì chẳng tin mười lực của Phật; chẳng tin bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không quên mất; chẳng tin tánh luôn luôn xả.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không quên mất; chẳng tin tánh luôn luôn xả?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được; quán tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không quên mất; chẳng tin tánh luôn luôn xả.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin trí Nhất thiết; chẳng tin trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin trí Nhất thiết; chẳng tin trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán trí Nhất thiết chẳng thể nắm bắt được; quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin trí Nhất thiết; chẳng tin trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả pháp môn Đàla-ni; chẳng tin tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả pháp môn Đàla-ni; chẳng tin tất cả pháp môn Tam-ma-địa?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng tin tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả Dự lưu; chẳng tin quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả Dự lưu; chẳng tin quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán quả Dự lưu chẳng thể nắm bắt được; quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả Dự lưu; chẳng tin quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị Độc giác.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị Độc giác?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán quả vị Độc giác chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị Độc giác.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả hạnh Đại Bồtát.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả hạnh Đại Bồtát?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả hạnh Đại Bồ-tát.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bát- nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả pháp.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát khi tin Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả pháp?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa quán tất cả pháp chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên Đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã bala-mật-đa thì chẳng tin tất cả pháp.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát nên gọi là Đại Ba-la-mật-đa.
Phật dạy:
−Này Thiện Hiện, ông dựa vào ý gì mà nói Bátnhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Bát-nhã bala-mật-đa?
Thiện Hiện bạch Phật:
−Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với sắc chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sắc chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sắc chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với sắc chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với sắc chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con dựa vào ý này nên nói Bátnhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-la-mậtđa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với nhãn xứ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với nhãn xứ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với nhãn xứ chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với nhãn xứ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với nhãn xứ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con dựa vào ý này nên nói Bátnhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-la-mậtđa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với sắc xứ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sắc xứ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sắc xứ chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với sắc xứ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với sắc xứ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con dựa vào ý này nên nói Bát- nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-la-mậtđa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với nhãn giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với nhãn giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với nhãn giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với nhãn giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với nhãn giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với nhĩ giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với nhĩ giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với nhĩ giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với nhĩ giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với nhĩ giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với tỷ giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tỷ giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tỷ giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tỷ giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tỷ giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với thiệt giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thiệt giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thiệt giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thiệt giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thiệt giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với thân giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thân giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thân giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thân giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thân giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với ý giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với ý giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với ý giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với ý giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với ý giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với địa giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với địa giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với địa giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với địa giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với địa giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với vô minh chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với vô minh chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với vô minh chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với vô minh chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với vô minh chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Tịnh giới cho đến Bátnhã ba-la-mật-đa chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mậtđa chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với pháp không bên trong chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp không bên trong chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp không bên trong chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp không bên trong chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp không bên trong chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với chân như chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với chân như chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với chân như chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với chân như chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với chân như chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với Thánh đế khổ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Thánh đế khổ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Thánh đế khổ chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Thánh đế khổ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Thánh đế khổ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với bốn Tĩnh lự chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với bốn Tĩnh lự chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với bốn Tĩnh lự chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Tĩnh lự chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với bốn Tĩnh lự chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với tám Giải thoát chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tám Giải thoát chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tám Giải thoát chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tám Giải thoát chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tám Giải thoát chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với bốn Niệm trụ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với bốn Niệm trụ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với bốn Niệm trụ chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Niệm trụ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với bốn Niệm trụ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với pháp môn giải thoát Không chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp môn giải thoát Không chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp môn giải thoát Không chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp môn giải thoát Không chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp môn giải thoát Không chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với năm loại mắt chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sáu phép thần thông chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với năm loại mắt chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sáu phép thần thông chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với năm loại mắt chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với sáu phép thần thông cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với năm loại mắt chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với sáu phép thần thông chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với năm loại mắt chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với sáu phép thần thông chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với mười lực của Phật chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với mười lực của Phật chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với mười lực của Phật chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với mười lực của Phật chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với mười lực của Phật chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với pháp không quên mất chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tánh luôn luôn xả chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp không quên mất chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tánh luôn luôn xả chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp không quên mất chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tánh luôn luôn xả cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp không quên mất chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tánh luôn luôn xả chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp không quên mất chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với tánh luôn luôn xả chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với trí Nhất thiết chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với trí Nhất thiết chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với trí Nhất thiết chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với trí Nhất thiết chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với trí Nhất thiết chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tất cả pháp môn Đà-lani chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tất cả pháp môn Tamma-địa chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với Dự lưu chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Dự lưu chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Dự lưu chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Dự lưu chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Dự lưu chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Nhất lai hướng cho đến Ala-hán quả cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với Độc giác chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với quả vị Độc giác chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Độc giác chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với quả vị Độc giác chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Độc giác chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với quả vị Độc giác cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Độc giác chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với quả vị Độc giác chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Độc giác chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với quả vị Độc giác chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với Đại Bồ-tát chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với hạnh Đại Bồ-tát chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Đại Bồ-tát chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với hạnh Đại Bồ-tát chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Đại Bồ-tát chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Đại Bồ-tát chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với hạnh Đại Bồ-tát chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Đại Bồtát chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với hạnh Đại Bồ-tát chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tất cả pháp chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tất cả pháp cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tất cả pháp chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tất cả pháp chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới học Đại thừa nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, Tĩnh lự ba-la-mật-đa, Tinh tấn ba-la-mật-đa, An nhẫn bala-mật-đa, Tịnh giới ba-la-mật-đa, Bố thí ba-lamật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mậtđa như thế, đối với sắc chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sắc chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sắc chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với sắc chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với sắc chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với nhãn xứ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với nhãn xứ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với nhãn xứ chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với nhãn xứ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với nhãn xứ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với sắc xứ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sắc xứ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sắc xứ chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với sắc xứ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với sắc xứ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với nhãn giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với nhãn giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với nhãn giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với nhãn giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với nhãn giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với nhĩ giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với nhĩ giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với nhĩ giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với nhĩ giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với nhĩ giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tỷ giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tỷ giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tỷ giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tỷ giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tỷ giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với thiệt giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thiệt giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thiệt giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thiệt giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thiệt giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với thân giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thân giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thân giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thân giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thân giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với ý giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với ý giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với ý giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với ý giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với ý giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với địa giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với địa giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với địa giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với địa giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với địa giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với vô minh chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với vô minh chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với vô minh chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với vô minh chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với vô minh chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Bố thí ba-la-mậtđa chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Bố thí ba-lamật-đa chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp không bên trong chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp không bên trong chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp không bên trong chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp không bên trong chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp không bên trong chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với chân như chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với chân như chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với chân như chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với chân như chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với chân như chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Thánh đế khổ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Thánh đế khổ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Thánh đế khổ chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Thánh đế khổ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Thánh đế khổ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với bốn Tĩnh lự chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với bốn Tĩnh lự chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với bốn Tĩnh lự chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Tĩnh lự chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với bốn Tĩnh lự chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tám Giải thoát chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tám Giải thoát chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tám Giải thoát chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tám Giải thoát chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tám Giải thoát chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồtát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với bốn Niệm trụ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với bốn Niệm trụ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với bốn Niệm trụ chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Niệm trụ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với bốn Niệm trụ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp môn giải thoát Không chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp môn giải thoát Không chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp môn giải thoát Không chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp môn giải thoát Không chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp môn giải thoát Không chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với năm loại mắt chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sáu phép thần thông cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với năm loại mắt chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sáu phép thần thông cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với năm loại mắt chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với sáu phép thần thông cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với năm loại mắt chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với sáu phép thần thông cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với năm loại mắt chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với sáu phép thần thông cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với mười lực của Phật chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với mười lực của Phật chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với mười lực của Phật chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với mười lực của Phật chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với mười lực của Phật chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp không quên mất chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tánh luôn luôn xả cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp không quên mất chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tánh luôn luôn xả cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp không quên mất chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tánh luôn luôn xả cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp không quên mất chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tánh luôn luôn xả cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp không quên mất chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với tánh luôn luôn xả cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với trí Nhất thiết chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với trí Nhất thiết chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với trí Nhất thiết chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với trí Nhất thiết chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với trí Nhất thiết chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tất cả pháp môn Tamma-địa cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tất cả pháp môn Tamma-địa cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Dự lưu chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Dự lưu chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Dự lưu chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Dự lưu chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Dự lưu chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Độc giác chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với quả vị Độc giác cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Độc giác chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với quả vị Độc giác cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Độc giác chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với quả vị Độc giác cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Độc giác chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với quả vị Độc giác cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Độc giác chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với quả vị Độc giác cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Đại Bồ-tát chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Đại Bồ-tát chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Đại Bồ-tát chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Đại Bồ-tát chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Đại Bồ-tát chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồtát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tất cả pháp chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ, chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán, cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng, chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp, chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồtát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, Tĩnh lự bala-mật-đa, Tinh tấn ba-la-mật-đa, An nhẫn ba-lamật-đa, Tịnh giới ba-la-mật-đa, Bố thí ba-la-mậtđa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, đối với sắc làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với sắc làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với sắc làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với sắc làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với sắc làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với nhãn xứ làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với nhãn xứ làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với nhãn xứ làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với nhãn xứ làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với nhãn xứ làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồtát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với sắc xứ làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với sắc xứ làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với sắc xứ làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với sắc xứ làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với sắc xứ làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với nhãn giới làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với nhãn giới làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với nhãn giới làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với nhãn giới làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với nhãn giới làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với nhĩ giới làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với nhĩ giới làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với nhĩ giới làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với nhĩ giới làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với nhĩ giới làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tỷ giới làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với tỷ giới làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với tỷ giới làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với tỷ giới làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với tỷ giới làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với thiệt giới làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với thiệt giới làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với thiệt giới làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với thiệt giới làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với thiệt giới làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với thân giới làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với thân giới làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với thân giới làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với thân giới làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với thân giới làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với ý giới làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với ý giới làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với ý giới làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với ý giới làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với ý giới làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với địa giới làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với địa giới làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với địa giới làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với địa giới làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với địa giới làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với vô minh làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với vô minh làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với vô minh làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với vô minh làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với vô minh làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Bố thí ba-la-mật-đa làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Bố thí ba-la-mật-đa làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Bố thí ba-la-mật-đa làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Bố thí ba-la-mật-đa làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Bố thí ba-lamật-đa làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp không bên trong làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với pháp không bên trong làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với pháp không bên trong làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với pháp không bên trong làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với pháp không bên trong làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với chân như làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với chân như làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với chân như làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với chân như làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với chân như làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Thánh đế khổ làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Thánh đế khổ làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Thánh đế khổ làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Thánh đế khổ làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Thánh đế khổ làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với bốn Tĩnh lự làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với bốn Tĩnh lự làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với bốn Tĩnh lự làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Tĩnh lự làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với bốn Tĩnh lự làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tám Giải thoát làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với tám Giải thoát làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với tám Giải thoát làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với tám Giải thoát làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với tám Giải thoát làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với bốn Niệm trụ làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với bốn Niệm trụ làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với bốn Niệm trụ làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Niệm trụ làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với bốn Niệm trụ làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp môn giải thoát Không làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với pháp môn giải thoát Không làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với pháp môn giải thoát Không làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với pháp môn giải thoát Không làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với pháp môn giải thoát Không làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với năm loại mắt làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với sáu phép thần thông cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với năm loại mắt làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với sáu phép thần thông cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với năm loại mắt làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với sáu phép thần thông cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với năm loại mắt làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với sáu phép thần thông cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với năm loại mắt làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với sáu phép thần thông cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với mười lực của Phật làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với mười lực của Phật làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với mười lực của Phật làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với mười lực của Phật làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với mười lực của Phật làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp không quên mất làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với tánh luôn luôn xả cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với pháp không quên mất làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với tánh luôn luôn xả cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với pháp không quên mất làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với tánh luôn luôn xả cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với pháp không quên mất làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với tánh luôn luôn xả cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với pháp không quên mất làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với tánh luôn luôn xả cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồtát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với trí Nhất thiết làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với trí Nhất thiết làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với trí Nhất thiết làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với trí Nhất thiết làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với trí Nhất thiết làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với tất cả pháp môn Đàla-ni làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với tất cả pháp môn Đàla-ni làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với tất cả pháp môn Tamma-địa cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Dự lưu làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Dự lưu làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Dự lưu làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Dự lưu làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Dự lưu làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-lahán quả cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Độc giác làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với quả vị Độc giác cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Độc giác làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với quả vị Độc giác cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Độc giác làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với quả vị Độc giác cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Độc giác làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với quả vị Độc giác cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Độc giác làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với quả vị Độc giác cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Đại Bồ-tát làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Đại Bồ-tát làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Đại Bồ-tát làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Đại Bồ-tát làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Đại Bồtát làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tất cả pháp làm cho lớn, làm cho nhỏ, làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán, cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng, làm cho rộng, làm cho hẹp, làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, Tĩnh lự ba-la-mật-đa, Tinh tấn ba-la-mật-đa, An nhẫn ba-la-mật-đa, Tịnh giới ba-la-mật-đa, Bố thí ba-lamật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mậtđa như thế, đối với sắc chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sắc chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sắc chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với sắc chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với sắc chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với nhãn xứ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với nhãn xứ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với nhãn xứ chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với nhãn xứ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với nhãn xứ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với sắc xứ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sắc xứ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sắc xứ chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với sắc xứ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với sắc xứ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với nhãn giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với nhãn giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với nhãn giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với nhãn giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với nhãn giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với nhĩ giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với nhĩ giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với nhĩ giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với nhĩ giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với nhĩ giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tỷ giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tỷ giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tỷ giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tỷ giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tỷ giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với thiệt giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thiệt giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thiệt giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thiệt giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thiệt giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với thân giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thân giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thân giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thân giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thân giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với ý giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với ý giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với ý giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với ý giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với ý giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với địa giới chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với địa giới chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với địa giới chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với địa giới chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với địa giới chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với vô minh chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với vô minh chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với vô minh chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với vô minh chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với vô minh chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Tịnh giới cho đến Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Bố thí ba-la-mậtđa chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Tịnh giới cho đến Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã bala-mật-đa cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp không bên trong chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp không bên trong chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp không bên trong chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp không bên trong chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp không bên trong chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với chân như chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với chân như chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với chân như chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với chân như chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với chân như chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Thánh đế khổ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Thánh đế khổ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Thánh đế khổ chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Thánh đế khổ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Thánh đế khổ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với bốn Tĩnh lự chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với bốn Tĩnh lự chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với bốn Tĩnh lự chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Tĩnh lự chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với bốn Tĩnh lự chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tám Giải thoát chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tám Giải thoát chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tám Giải thoát chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tám Giải thoát chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tám Giải thoát chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với bốn Niệm trụ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với bốn Niệm trụ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với bốn Niệm trụ chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Niệm trụ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với bốn Niệm trụ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp môn giải thoát Không chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp môn giải thoát Không chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp môn giải thoát Không chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp môn giải thoát Không chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp môn giải thoát Không chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với năm loại mắt chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sáu phép thần thông cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với năm loại mắt chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sáu phép thần thông cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với năm loại mắt chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với sáu phép thần thông cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với năm loại mắt chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với sáu phép thần thông cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với năm loại mắt chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với sáu phép thần thông cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với mười lực của Phật chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với mười lực của Phật chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với mười lực của Phật chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với mười lực của Phật chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với mười lực của Phật chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp không quên mất chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tánh luôn luôn xả cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với pháp không quên mất chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tánh luôn luôn xả cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với pháp không quên mất chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tánh luôn luôn xả cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với pháp không quên mất chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tánh luôn luôn xả cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với pháp không quên mất chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với tánh luôn luôn xả cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với trí Nhất thiết chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với trí Nhất thiết chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với trí Nhất thiết chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với trí Nhất thiết chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với trí Nhất thiết chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tất cả pháp môn Tamma-địa cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Dự lưu chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Dự lưu chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Dự lưu chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Dự lưu chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Dự lưu chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Độc giác chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với quả vị Độc giác cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Độc giác chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với quả vị Độc giác cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Độc giác chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với quả vị Độc giác cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Độc giác chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với quả vị Độc giác cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Độc giác chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với quả vị Độc giác cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Đại Bồ-tát chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với Đại Bồtát chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với Đại Bồtát chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với Đại Bồ-tát chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với Đại Bồ-tát chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồtát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tất cả pháp chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ, chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán, cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng, chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp, chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, Tĩnh lự ba-la-mật-đa, Tinh tấn ba-la-mật-đa, An nhẫn ba-la-mật-đa, Tịnh giới ba-la-mật-đa, Bố thí ba-lamật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mậtđa như thế, đối với sắc làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với sắc làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với sắc làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với sắc làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với sắc làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải là tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với nhãn xứ làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với nhãn xứ làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với nhãn xứ làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với nhãn xứ làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với nhãn xứ làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với sắc xứ làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với sắc xứ làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với sắc xứ làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với sắc xứ làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với sắc xứ làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với nhãn giới làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với nhãn giới làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với nhãn giới làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với nhãn giới làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với nhãn giới làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồtát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với nhĩ giới làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với nhĩ giới làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với nhĩ giới làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với nhĩ giới làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với nhĩ giới làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã bala-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tỷ giới làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với tỷ giới làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với tỷ giới làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với tỷ giới làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với tỷ giới làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã bala-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với thiệt giới làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với thiệt giới làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với thiệt giới làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với thiệt giới làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với thiệt giới làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với thân giới làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với thân giới làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với thân giới làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với thân giới làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với thân giới làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồtát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với ý giới làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với ý giới làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với ý giới làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với ý giới làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với ý giới làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với địa giới làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với địa giới làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với địa giới làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với địa giới làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với địa giới làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã bala-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với vô minh làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với vô minh làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với vô minh làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với vô minh làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với vô minh làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã bala-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Bố thí ba-la-mật-đa làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Bố thí ba-la-mật-đa làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Bố thí ba-la-mật-đa làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Bố thí ba-la-mật-đa làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Bố thí bala-mật-đa làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp không bên trong làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với pháp không bên trong làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với pháp không bên trong làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với pháp không bên trong làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với pháp không bên trong làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với chân như làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với chân như làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với chân như làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với chân như làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với chân như làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Thánh đế khổ làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Thánh đế khổ làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Thánh đế khổ làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Thánh đế khổ làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Thánh đế khổ làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với bốn Tĩnh lự làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với bốn Tĩnh lự làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với bốn Tĩnh lự làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Tĩnh lự làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với bốn Tĩnh lự làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tám Giải thoát làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với tám Giải thoát làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với tám Giải thoát làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với tám Giải thoát làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với tám Giải thoát làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với bốn Niệm trụ làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với bốn Niệm trụ làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với bốn Niệm trụ làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với bốn Niệm trụ làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với bốn Niệm trụ làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã bala-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp môn giải thoát Không làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với pháp môn giải thoát Không làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với pháp môn giải thoát Không làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với pháp môn giải thoát Không làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với pháp môn giải thoát Không làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với năm loại mắt làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với sáu phép thần thông cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với năm loại mắt làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với sáu phép thần thông cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với năm loại mắt làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với sáu phép thần thông cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với năm loại mắt làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với sáu phép thần thông cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với năm loại mắt làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với sáu phép thần thông cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với mười lực của Phật làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với mười lực của Phật làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với mười lực của Phật làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với mười lực của Phật làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với mười lực của Phật làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp không quên mất làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với tánh luôn luôn xả cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với pháp không quên mất làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với tánh luôn luôn xả cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với pháp không quên mất làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với tánh luôn luôn xả cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với pháp không quên mất làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với tánh luôn luôn xả cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với pháp không quên mất làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với tánh luôn luôn xả cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồtát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với trí Nhất thiết làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với trí Nhất thiết làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với trí Nhất thiết làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với trí Nhất thiết làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với trí Nhất thiết làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với tất cả pháp môn Tamma-địa cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Dự lưu làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Dự lưu làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Dự lưu làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Dự lưu làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Dự lưu làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã bala-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Độc giác làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với quả vị Độc giác cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Độc giác làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với quả vị Độc giác cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Độc giác làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với quả vị Độc giác cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Độc giác làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với quả vị Độc giác cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Độc giác làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với quả vị Độc giác cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã bala-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Đại Bồ-tát làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với Đại Bồ-tát làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với Đại Bồ-tát làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với Đại Bồ-tát làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với hạnh Đại Bồtát cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với Đại Bồ-tát làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với hạnh Đại Bồ-tát cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng làm cho lớn, làm cho nhỏ; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng làm cho rộng, làm cho hẹp; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm cho có sức, làm cho không có sức; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát mới tu học Đại thừa chẳng nương vào Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tất cả pháp làm cho lớn, làm cho nhỏ, làm cho nhóm tụ, làm cho phân tán, cũng làm cho có hạn lượng, làm cho không có hạn lượng, làm cho rộng, làm cho hẹp, làm cho có sức, làm cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng như vậy nên chẳng phải tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, đối với sắc hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với thọ, tưởng, hành, thức hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với sắc hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với thọ, tưởng, hành, thức hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với sắc hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với thọ, tưởng, hành, thức hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với sắc hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với thọ, tưởng, hành, thức hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với sắc hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với thọ, tưởng, hành, thức hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với nhãn xứ hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với nhãn xứ hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với nhãn xứ hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với nhãn xứ hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với nhãn xứ hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với sắc xứ hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với sắc xứ hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với sắc xứ hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với sắc xứ hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với sắc xứ hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa. đa như thế đối với nhãn giới hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với nhãn giới hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với nhãn giới hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với nhãn giới hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với nhãn giới hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bátnhã ba-la-mật-đa. đa như thế đối với nhĩ giới hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với nhĩ giới hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với nhĩ giới hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với nhĩ giới hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với nhĩ giới hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-lamật-đa. đa như thế đối với tỷ giới hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tỷ giới hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với tỷ giới hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với tỷ giới hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với tỷ giới hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ tưởng thế này: Bát với thiệt giới hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với thiệt giới hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với thiệt giới hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với thiệt giới hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với thiệt giới hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ tưởng thế này: Bát với thân giới hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với thân giới hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với thân giới hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với thân giới hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với thân giới hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ tưởng thế này: Bát với ý giới hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với ý giới hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với ý giới hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với ý giới hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với ý giới hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với địa giới hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với địa giới hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với địa giới hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với địa giới hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với địa giới hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với vô minh hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với vô minh hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với vô minh hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với vô minh hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với vô minh hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Bố thí ba-la-mật-đa hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Bố thí ba-la-mật-đa hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Bố thí ba-la-mật-đa hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã bala-mật-đa hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Bố thí ba-la-mật-đa hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Bố thí ba-la-mật-đa hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-lamật-đa hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp không bên trong hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với pháp không bên trong hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với pháp không bên trong hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với pháp không bên trong hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với pháp không bên trong hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với chân như hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với chân như hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với chân như hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với chân như hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với chân như hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Thánh đế khổ hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Thánh đế khổ hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Thánh đế khổ hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Thánh đế khổ hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Thánh đế khổ hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với bốn Tĩnh lự hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với bốn Tĩnh lự hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với bốn Tĩnh lự hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với bốn Tĩnh lự hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với bốn Tĩnh lự hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tám Giải thoát hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tám Giải thoát hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với tám Giải thoát hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với tám Giải thoát hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với tám Giải thoát hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với bốn Niệm trụ hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với bốn Niệm trụ hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với bốn Niệm trụ hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với bốn Niệm trụ hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với bốn Niệm trụ hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp môn giải thoát Không hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với pháp môn giải thoát Không hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với pháp môn giải thoát Không hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với pháp môn giải thoát Không hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với pháp môn giải thoát Không hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với năm loại mắt hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với sáu phép thần thông hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với năm loại mắt hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với sáu phép thần thông hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với năm loại mắt hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với sáu phép thần thông hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với năm loại mắt hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với sáu phép thần thông hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với năm loại mắt hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với sáu phép thần thông hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với mười lực của Phật hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với mười lực của Phật hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với mười lực của Phật hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với mười lực của Phật hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với mười lực của Phật hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp không quên mất hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với pháp không quên mất hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với pháp không quên mất hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với pháp không quên mất hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với pháp không quên mất hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bátnhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với trí Nhất thiết hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với trí Nhất thiết hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với trí Nhất thiết hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với trí Nhất thiết hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với trí Nhất thiết hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tất cả pháp môn Đàla-ni hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với tất cả pháp môn Đàla-ni hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Dự lưu hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Dự lưu hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Dự lưu hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Dự lưu hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Dự lưu hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Nhất lai hướng cho đến Ala-hán quả hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Nhất lai hướng cho đến Ala-hán quả hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Độc giác hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với quả vị Độc giác hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Độc giác hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với quả vị Độc giác hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Độc giác hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với quả vị Độc giác hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Độc giác hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với quả vị Độc giác hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Độc giác hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với quả vị Độc giác hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Đại Bồ-tát hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với hạnh Đại Bồ-tát hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Đại Bồ-tát hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với hạnh Đại Bồ-tát hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Đại Bồ-tát hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với hạnh Đại Bồ-tát hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Đại Bồ-tát hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với hạnh Đại Bồ-tát hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Đại Bồ-tát hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với hạnh Đại Bồ-tát hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tất cả pháp hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ, hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán, hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp, hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, đối với sắc hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với thọ, tưởng, hành, thức hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với sắc hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với thọ, tưởng, hành, thức hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với sắc hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với thọ, tưởng, hành, thức hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với sắc hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với thọ, tưởng, hành, thức hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với sắc hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với thọ, tưởng, hành, thức hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã bala-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với nhãn xứ hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với nhãn xứ hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với nhãn xứ hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với nhãn xứ hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với nhãn xứ hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với sắc xứ hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với sắc xứ hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với sắc xứ hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với sắc xứ hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với sắc xứ hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với nhãn giới hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với nhãn giới hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với nhãn giới hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với nhãn giới hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với nhãn giới hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với nhĩ giới hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với nhĩ giới hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với nhĩ giới hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với nhĩ giới hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với nhĩ giới hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tỷ giới hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tỷ giới hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với tỷ giới hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với tỷ giới hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với tỷ giới hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với thiệt giới hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với thiệt giới hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với thiệt giới hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với thiệt giới hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với thiệt giới hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với thân giới hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với thân giới hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với thân giới hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với thân giới hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với thân giới hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với ý giới hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với ý giới hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với ý giới hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với ý giới hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với ý giới hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với địa giới hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với địa giới hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với địa giới hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với địa giới hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với địa giới hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với vô minh hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với vô minh hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với vô minh hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với vô minh hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với vô minh hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã bala-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Bố thí ba-la-mật-đa hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Bố thí ba-la-mật-đa hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Bố thí ba-la-mật-đa hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã bala-mật-đa hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Bố thí ba-la-mật-đa hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Bố thí ba-la-mật-đa hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-lamật-đa hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp không bên trong hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với pháp không bên trong hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với pháp không bên trong hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với pháp không bên trong hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với pháp không bên trong hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã bala-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với chân như hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với chân như hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với chân như hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với chân như hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với chân như hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Thánh đế khổ hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Thánh đế khổ hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Thánh đế khổ hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Thánh đế khổ hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Thánh đế khổ hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với bốn Tĩnh lự hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với bốn Tĩnh lự hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với bốn Tĩnh lự hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với bốn Tĩnh lự hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với bốn Tĩnh lự hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã bala-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tám Giải thoát hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tám Giải thoát hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với tám Giải thoát hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với tám Giải thoát hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với tám Giải thoát hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với bốn Niệm trụ hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với bốn Niệm trụ hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với bốn Niệm trụ hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với bốn Niệm trụ hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với bốn Niệm trụ hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp môn giải thoát Không hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với pháp môn giải thoát Không hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với pháp môn giải thoát Không hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với pháp môn giải thoát Không hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với pháp môn giải thoát Không hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với năm loại mắt hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với sáu phép thần thông hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với năm loại mắt hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với sáu phép thần thông hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với năm loại mắt hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với sáu phép thần thông hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với năm loại mắt hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với sáu phép thần thông hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với năm loại mắt hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với sáu phép thần thông hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với mười lực của Phật hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với mười lực của Phật hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với mười lực của Phật hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với mười lực của Phật hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với mười lực của Phật hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với pháp không quên mất hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với pháp không quên mất hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với pháp không quên mất hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với pháp không quên mất hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với pháp không quên mất hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với trí Nhất thiết hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với trí Nhất thiết hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với trí Nhất thiết hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với trí Nhất thiết hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với trí Nhất thiết hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tất cả pháp môn Đàla-ni hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với tất cả pháp môn Đàla-ni hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã bala-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Dự lưu hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Dự lưu hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Dự lưu hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Dự lưu hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Dự lưu hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Nhất lai hướng cho đến Ala-hán quả hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Nhất lai hướng cho đến Ala-hán quả hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Dự lưu hướng, Dự lưu quả hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với Độc giác hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với quả vị Độc giác hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Độc giác hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với quả vị Độc giác hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Độc giác hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với quả vị Độc giác hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Độc giác hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với quả vị Độc giác hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Độc giác hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với quả vị Độc giác hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với các Đại Bồ-tát hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với hạnh Đại Bồtát hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với các Đại Bồ-tát hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với hạnh Đại Bồ-tát hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với các Đại Bồ-tát hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với hạnh Đại Bồ-tát hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với các Đại Bồ-tát hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với hạnh Đại Bồ-tát hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với các Đại Bồ-tát hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với hạnh Đại Bồ-tát hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã bala-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với tất cả pháp hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tất cả pháp hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với tất cả pháp hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với tất cả pháp hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với tất cả pháp hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tuy gọi là có sở đắc lớn, nhưng chẳng phải tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng hữu sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Bạch Thế Tôn, vì hữu tình không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì hữu tình không diệt, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì hữu tình không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì hữu tình không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì hữu tình là không, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không; vì hữu tình vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì hữu tình vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì hữu tình xa lìa, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì hữu tình tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì hữu tình chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì hữu tình chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì hữu tình dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì hữu tình chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì sắc không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì thọ, tưởng, hành, thức không sinh, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không sinh; vì sắc không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì thọ, tưởng, hành, thức không diệt, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không diệt; vì sắc không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì thọ, tưởng, hành, thức không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì sắc không có sở hữu, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không có sở hữu; vì thọ, tưởng, hành, thức không có sở hữu, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không có sở hữu; vì sắc là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì thọ, tưởng, hành, thức là không, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không; vì sắc vô tướng, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì thọ, tưởng, hành, thức vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng vô tướng; vì sắc vô nguyện, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì thọ, tưởng, hành, thức vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng vô nguyện; vì sắc là xa lìa, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng là xa lìa; vì thọ, tưởng, hành, thức là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng là xa lìa; vì sắc tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì thọ, tưởng, hành, thức tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì sắc chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì sắc chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì sắc dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì thọ, tưởng, hành, thức dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì sắc chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì nhãn xứ không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sinh, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì nhãn xứ không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì nhãn xứ không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không có tự tánh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không có tự tánh, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không có tự tánh; vì nhãn xứ không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì nhãn xứ là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì nhãn xứ vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì nhãn xứ vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì nhãn xứ xa lìa, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì nhãn xứ tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng tịch tĩnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì nhãn xứ chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì nhãn xứ dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì nhãn xứ chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì sắc xứ không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì sắc xứ không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì sắc xứ không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì sắc xứ không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì sắc xứ là không, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì sắc xứ vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng vô tướng; vì sắc xứ vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì sắc xứ xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì sắc xứ tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì sắc xứ chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì sắc xứ chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì sắc xứ dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì sắc xứ chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì nhãn giới không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì nhãn giới không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì nhãn giới không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì nhãn giới không có sở hữu, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì nhãn giới là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì nhãn giới vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng vô tướng; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra vô tướng, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì nhãn giới vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra vô nguyện, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng vô nguyện; vì nhãn giới xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì nhãn giới tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì nhãn giới chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì nhãn giới chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì nhãn giới dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì nhãn giới chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì nhĩ giới không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì nhĩ giới không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì nhĩ giới không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không có tự tánh, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì nhĩ giới không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì nhĩ giới là không, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì nhĩ giới vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng vô tướng; vì nhĩ giới vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì nhĩ giới xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì nhĩ giới tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì nhĩ giới chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì nhĩ giới chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì nhĩ giới dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì nhĩ giới chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì tỷ giới không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì tỷ giới không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không diệt, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì tỷ giới không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì tỷ giới không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì tỷ giới là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì tỷ giới vô tướng, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng vô tướng; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì tỷ giới vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra vô nguyện, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì tỷ giới xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì tỷ giới tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng tịch tĩnh; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì tỷ giới chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì tỷ giới chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì tỷ giới dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì tỷ giới chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì thiệt giới không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì thiệt giới không diệt, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không diệt; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì thiệt giới không có tự tánh, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không có tự tánh; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì thiệt giới không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì thiệt giới là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra là không, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không; vì thiệt giới vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì thiệt giới vô nguyện, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì thiệt giới xa lìa, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng xa lìa; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra xa lìa, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì thiệt giới tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì thiệt giới chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì thiệt giới chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì thiệt giới dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì thiệt giới chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì thân giới không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì thân giới không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không diệt, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không diệt; vì thân giới không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không có tự tánh, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì thân giới không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng không có sở hữu; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì thân giới là không, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra là không, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không; vì thân giới vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng vô tướng; vì thân giới vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì thân giới xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng xa lìa; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì thân giới tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì thân giới chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì thân giới chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì thân giới dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì thân giới chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì ý giới không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì ý giới không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì ý giới không có tự tánh, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì ý giới không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì ý giới là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì ý giới vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì ý giới vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng vô nguyện; vì ý giới xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì ý giới tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì ý giới chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì ý giới chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì ý giới dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì ý giới chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì địa giới không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì địa giới không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì địa giới không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì địa giới không có sở hữu, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì địa giới là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì địa giới vô tướng, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng vô tướng; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng vô tướng; vì địa giới vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì địa giới xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì địa giới tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì địa giới chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì địa giới chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì địa giới dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì địa giới chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì vô minh không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì vô minh không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì vô minh không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì vô minh không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì vô minh là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não là không, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không; vì vô minh vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì vô minh vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì vô minh xa lìa, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não xa lìa, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng xa lìa; vì vô minh tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não tịch tĩnh, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì vô minh chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì vô minh chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì vô minh dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì vô minh chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì Bố thí ba-la-mật-đa không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự ba-la-mật-đa không sinh, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không sinh; vì Bố thí ba-la-mật-đa không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì Tịnh giới cho đến Tĩnh lự ba-la-mậtđa không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì Bố thí ba-la-mật-đa không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì Tịnh giới cho đến Tĩnh lự ba-la-mật-đa không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì Bố thí ba-la-mật-đa không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì Tịnh giới cho đến Tĩnh lự ba-la-mật-đa không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì Bố thí bala-mật-đa là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì Tịnh giới cho đến Tĩnh lự ba-lamật-đa là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì Bố thí ba-la-mật-đa vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì Tịnh giới cho đến Tĩnh lự ba-la-mật-đa vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì Bố thí ba-la-mật-đa vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng vô nguyện; vì Tịnh giới cho đến Tĩnh lự ba-la-mật-đa vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng vô nguyện; vì Bố thí ba-la-mật-đa là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì Tịnh giới cho đến Tĩnh lự ba-la-mật-đa là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì Bố thí ba-la-mật-đa tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng tịch tĩnh; vì Tịnh giới cho đến Tĩnh lự ba-la-mật-đa tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng tịch tĩnh; vì Bố thí ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì Tịnh giới cho đến Tĩnh lự ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì Bố thí ba-la-mật-đa chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì Tịnh giới cho đến Tĩnh lự ba-la-mật-đa chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì Bố thí ba-la-mật-đa dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì Tịnh giới cho đến Tĩnh lự ba-la-mật-đa dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì Bố thí ba-la-mật-đa chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì Tịnh giới cho đến Tĩnh lự ba-la-mật-đa chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì pháp không bên trong không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không sinh, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì pháp không bên trong không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng không diệt; vì pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì pháp không bên trong không có tự tánh, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không có tự tánh; vì pháp không bên trong không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng không có sở hữu; vì pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì pháp không bên trong là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì pháp không bên trong vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng vô tướng; vì pháp không bên trong vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh vô nguyện, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì pháp không bên trong là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là xa lìa, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì pháp không bên trong tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh tịch tĩnh, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì pháp không bên trong chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì pháp không bên trong chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì pháp không bên trong dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì pháp không bên trong chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì chân như không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn không sinh, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì chân như không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn không diệt, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không diệt; vì chân như không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không có tự tánh; vì chân như không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn không có sở hữu, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì chân như là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì chân như vô tướng, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì chân như vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn vô nguyện, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng vô nguyện; vì chân như là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì chân như tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì chân như chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì chân như chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì chân như dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì chân như chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì Thánh đế khổ không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì Thánh đế khổ không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì Thánh đế tập, diệt, đạo không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì Thánh đế khổ không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì Thánh đế khổ không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì Thánh đế tập, diệt, đạo không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì Thánh đế khổ là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì Thánh đế tập, diệt, đạo là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì Thánh đế khổ vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì Thánh đế tập, diệt, đạo vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì Thánh đế khổ vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì Thánh đế tập, diệt, đạo vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì Thánh đế khổ là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì Thánh đế tập, diệt, đạo là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì Thánh đế khổ tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng tịch tĩnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì Thánh đế khổ chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì Thánh đế khổ dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì Thánh đế tập, diệt, đạo dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì Thánh đế khổ chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì bốn Tĩnh lự không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì bốn Tĩnh lự không diệt, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không diệt; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không diệt, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không diệt; vì bốn Tĩnh lự không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì bốn Tĩnh lự không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì bốn Tĩnh lự là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì bốn Tĩnh lự vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì bốn Tĩnh lự vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì bốn Tĩnh lự là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng xa lìa; vì bốn Tĩnh lự tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì bốn Tĩnh lự chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì bốn Tĩnh lự chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì bốn Tĩnh lự dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì bốn Tĩnh lự chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì tám Giải thoát không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì tám Giải thoát không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì tám Giải thoát không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì tám Giải thoát không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì tám Giải thoát là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì tám Giải thoát vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì tám Giải thoát vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng vô nguyện; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì tám Giải thoát là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì tám Giải thoát tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng tịch tĩnh; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì tám Giải thoát chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì tám Giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì tám Giải thoát dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì tám Giải thoát chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì bốn Niệm trụ không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì bốn Niệm trụ không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì bốn Niệm trụ không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì bốn Niệm trụ không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì bốn Niệm trụ là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì bốn Niệm trụ vô tướng, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì bốn Niệm trụ vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng vô nguyện; vì bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì bốn Niệm trụ là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì bốn Niệm trụ tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng tịch tĩnh; vì bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì bốn Niệm trụ chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì bốn Niệm trụ chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì bốn Niệm trụ dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì bốn Niệm trụ chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì pháp môn giải thoát Không không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không sinh, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không sinh; vì pháp môn giải thoát Không không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng không diệt; vì pháp môn giải thoát Không không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không có tự tánh, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì pháp môn giải thoát Không không sở hữu, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không sở hữu; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sở hữu; vì pháp môn giải thoát Không là không, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là không, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không; vì pháp môn giải thoát Không là vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng vô tướng; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì pháp môn giải thoát Không là vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng vô nguyện; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì pháp môn giải thoát Không là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng xa lìa; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì pháp môn giải thoát Không tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì pháp môn giải thoát Không chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì pháp môn giải thoát Không chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì pháp môn giải thoát Không dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì pháp môn giải thoát Không chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì năm loại mắt không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì sáu phép thần thông không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì năm loại mắt không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì sáu phép thần thông không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì năm loại mắt không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì sáu phép thần thông không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì năm loại mắt không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng không có sở hữu; vì sáu phép thần thông không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì năm loại mắt là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì sáu phép thần thông là không, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không; vì năm loại mắt vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì sáu phép thần thông vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng vô tướng; vì năm loại mắt vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì sáu phép thần thông vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì năm loại mắt là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì sáu phép thần thông là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì năm loại mắt tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì sáu phép thần thông tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng tịch tĩnh; vì năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì năm loại mắt chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì sáu phép thần thông chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì năm loại mắt dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì sáu phép thần thông dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì năm loại mắt chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì sáu phép thần thông chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì mười lực của Phật không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng không sinh, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì mười lực của Phật không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì mười lực của Phật không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không có tự tánh; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì mười lực của Phật không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì mười lực của Phật là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì mười lực của Phật vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô tướng, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng vô tướng; vì mười lực của Phật vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì mười lực của Phật là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì mười lực của Phật tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì mười lực của Phật chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì mười lực của Phật chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì mười lực của Phật dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì mười lực của Phật chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì pháp không quên mất không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì tánh luôn luôn xả không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì pháp không quên mất không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì tánh luôn luôn xả không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì pháp không quên mất không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì tánh luôn luôn xả không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì pháp không quên mất không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì tánh luôn luôn xả không có sở hữu, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì pháp không quên mất là không, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không; vì tánh luôn luôn xả là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì pháp không quên mất vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng vô tướng; vì tánh luôn luôn xả vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì pháp không quên mất vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì tánh luôn luôn xả vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì pháp không quên mất là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì tánh luôn luôn xả là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng xa lìa; vì pháp không quên mất tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì tánh luôn luôn xả tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng tịch tĩnh; vì pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì pháp không quên mất chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì tánh luôn luôn xả chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì pháp không quên mất dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì tánh luôn luôn xả dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì pháp không quên mất chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì tánh luôn luôn xả chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì trí Nhất thiết không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì trí Nhất thiết không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì trí Nhất thiết không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không có tự tánh, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không có tự tánh; vì trí Nhất thiết không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không có sở hữu, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không có sở hữu; vì trí Nhất thiết là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì trí Nhất thiết vô tướng, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì trí Nhất thiết vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì trí Nhất thiết là xa lìa, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng xa lìa; vì trí Nhất thiết tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì trí Nhất thiết chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì trí Nhất thiết chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì trí Nhất thiết dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì trí Nhất thiết chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì tất cả pháp môn Đàla-ni không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không có tự tánh, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni là không, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng không; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng vô nguyện; vì tất cả pháp môn Đà-lani là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì tất cả pháp môn Tamma-địa tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì Dự lưu không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì Dự lưu không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì Dự lưu không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán không có tự tánh, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì Dự lưu không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng không có sở hữu; vì Dự lưu là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là không, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không; vì Dự lưu vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì Dự lưu vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì Dự lưu là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì Dự lưu tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì Dự lưu chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì Dự lưu chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì Dự lưu dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì Nhất lai,
Bất hoàn, A-la-hán dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì Dự lưu chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả không sinh, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không sinh; vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì Nhất lai hướng cho đến A-lahán quả không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả không có sở hữu, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả vô tướng, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng vô tướng; vì Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả vô tướng, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng vô tướng; vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả là xa lìa, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì Nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì Độc giác không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì quả vị Độc giác không sinh, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không sinh; vì Độc giác không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì quả vị Độc giác không diệt, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không diệt; vì Độc giác không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì quả vị Độc giác không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì Độc giác không có sở hữu, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì quả vị Độc giác không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không có sở hữu; vì Độc giác là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì quả vị Độc giác là không, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không; vì Độc giác vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì quả vị Độc giác vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì Độc giác vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì quả vị Độc giác vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng vô nguyện; vì Độc giác là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì quả vị Độc giác là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì Độc giác tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì quả vị Độc giác tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì Độc giác chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì quả vị Độc giác chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì Độc giác chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì quả vị Độc giác chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì Độc giác dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì quả vị Độc giác dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì Độc giác chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì quả vị Độc giác chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì Đại Bồ-tát không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì hạnh Đại Bồ-tát không sinh, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì Đại Bồ-tát không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì hạnh Đại Bồ-tát không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì Đại Bồtát không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng không có tự tánh; vì hạnh Đại Bồ-tát không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì Đại Bồ-tát không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì hạnh Đại Bồ-tát không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì Đại Bồ-tát là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng không; vì hạnh Đại Bồ-tát là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì Đại Bồtát vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì hạnh Đại Bồ-tát vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì Đại Bồ-tát vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì hạnh Đại Bồ-tát vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì Đại Bồtát là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì hạnh Đại Bồ-tát là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì Đại Bồ-tát tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì hạnh Đại Bồ-tát tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng tịch tĩnh; vì Đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì hạnh Đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì Đại Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì hạnh Đại Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì Đại Bồ-tát dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì hạnh Đại Bồ-tát dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì Đại Bồ-tát chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì hạnh Đại Bồ-tát chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mậtđa cũng không sinh; vì quả vị Giác ngộ cao tột không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì quả vị Giác ngộ cao tột không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì quả vị Giác ngộ cao tột không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì quả vị Giác ngộ cao tột không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là không, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không; vì quả vị Giác ngộ cao tột là không, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng không; vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vô tướng, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng vô tướng; vì quả vị Giác ngộ cao tột vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì quả vị Giác ngộ cao tột vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là xa lìa, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì quả vị Giác ngộ cao tột là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì quả vị Giác ngộ cao tột tịch tĩnh, nên biết Bátnhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì quả vị Giác ngộ cao tột chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì quả vị Giác ngộ cao tột chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì quả vị Giác ngộ cao tột dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết; vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực; vì quả vị Giác ngộ cao tột chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
Lại nữa bạch Thế Tôn, vì tất cả pháp không sinh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh; vì tất cả pháp không diệt, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không diệt; vì tất cả pháp không có tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh; vì tất cả pháp không có sở hữu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu; vì tất cả pháp là không, nên biết Bát-nhã bala-mật-đa cũng không; vì tất cả pháp vô tướng, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì tất cả pháp vô nguyện, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì tất cả pháp là xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa; vì tất cả pháp tịch tĩnh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng tịch tĩnh; vì tất cả pháp chẳng thể nắm bắt được, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được; vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn; vì tất cả pháp dứt mọi nẻo nhận biết, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dứt mọi nẻo nhận biết vì tất cả pháp chẳng thành tựu từ thế lực, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu từ thế lực.
Bạch Thế Tôn, con nương vào ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát là Đại Ba-lamật-đa.
[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]