SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

HỘI THỨ I

PHẨM 39: CÔNG ĐỨC KHÓ LÃNH HỘI
(QUYỂN 297 - 302)

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.

QUYỂN 297

QUYỂN 298

QUYỂN 299

QUYỂN 300

QUYỂN 301

QUYỂN 302

 


QUYỂN 297

PHẨM 39: CÔNG ĐỨC KHÓ LÃNH HỘI (1)

Khi ấy, Thiên đế Thích nghĩ thế này: “Nếu thiện nam, thiện nữ nào đã từng đối với vô lượng các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, thân cận cúng dường, phát nguyện rộng lớn, trồng các căn lành, được nhiều thiện tri thức nhiếp thọ thì nay mới được nghe danh tự công đức Bátnhã ba-la-mật-đa như thế, huống là thường sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy như lý, vì người diễn nói, hoặc tùy sức tu hành đúng theo pháp, nên biết người ấy đã ở chỗ vô lượng chư Phật trong quá khứ, thân cận, thừa sự, cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, trồng các cội đức, từng nghe Bátnhã ba-la-mật-đa; nghe rồi thọ trì, tư duy, đọc tụng, vì người diễn nói, tu hành đúng theo giáo pháp; hoặc đối với kinh này thường hỏi đáp, do phương lực này, nên nay được như vậy.

Nếu thiện nam, thiện nữ nào đã từng cúng dường vô lượng các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, công đức thuần tịnh, nghe Bát-nhã bala-mật-đa này, mà tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi; nghe rồi tin ưa, tu hành đúng theo pháp, thì nên biết người ấy nhiều ức kiếp đã từng tu tập Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cho nên đời nay mới thành tựu được việc này.”

Bấy giờ, Cụ thọ Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu thiện nam, thiện nữ nào nghe nghĩa lý sâu xa vi diệu của Bát-nhã ba-la-mậtđa này mà tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, nghe rồi sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy như lý, vì người diễn nói, hoặc lại tùy lực, tu hành đúng theo giáo pháp, thì nên biết người ấy như các Đại Bồ-tát ở địa vị không thoái chuyển. Vì sao? Bạch Thế Tôn, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy là diệu nghĩa sâu xa, rất khó tin hiểu; nếu đời trước chẳng tu tập lâu dài về Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa thì đâu có thể được nghe và tức thời tin hiểu.

–Bạch Thế Tôn, nếu thiện nam, thiện nữ nào nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa mà chê bai, phỉ báng thì nên biết người ấy đời trước đối với Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa này, cũng đã từng hủy báng. Vì sao? Bạch Thế Tôn, vì thiện nam, thiện nữ ấy nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, do tập khí đời trước, nên chẳng tin, chẳng ưa, tâm chẳng thanh tịnh.

–Bạch Thế Tôn, thiện nam, thiện nữ ấy chưa từng thân cận chư Phật Bồ-tát và chúng đệ tử, chưa từng thưa hỏi là nên hành Bố thí ba-la-mật-đa như thế nào; nên trụ pháp không bên trong như thế nào; nên trụ pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh như thế nào; nên trụ chân như như thế nào; nên trụ pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn như thế nào; nên trụ Thánh đế khổ như thế nào; nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo như thế nào; nên tu bốn Tĩnh lự như thế nào; nên tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc như thế nào; nên tu tám Giải thoát như thế nào; nên tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ như thế nào; nên tu bốn Niệm trụ như thế nào; nên tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo như thế nào; nên tu pháp môn giải thoát Không như thế nào; nên tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện như thế nào; nên tu năm loại mắt như thế nào; nên tu sáu phép thần thông như thế nào; nên tu mười lực của Phật như thế nào; nên tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng như thế nào; nên tu pháp không quên mất như thế nào; nên tu tánh luôn luôn xả như thế nào; nên tu trí Nhất thiết như thế nào; nên tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng như thế nào; nên tu tất cả pháp môn Đà-la-ni như thế nào; nên tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa như thế nào; nên tu tất cả hạnh Đại Bồ-tát như thế nào; nên tu quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật như thế nào; nên nay nghe nói Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa thì chê bai, phỉ báng, chẳng tin, chẳng ưa, tâm chẳng thanh tịnh.

Bấy giờ, Thiên đế Thích thưa với Xá-lợi Tử:

–Thưa Đại đức, Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, nghĩa lý sâu xa rất khó tin, khó hiểu. Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chưa tu tập thì khi nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thể tin hiểu, hoặc sinh tâm hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam, thiện nữ nào, đối với pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh từ lâu chưa từng tin, từ lâu chẳng an trú thì khi nghe nói Bátnhã ba-la-mật-đa chẳng thể tin hiểu, hoặc sinh tâm hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam, thiện nữ nào, đối với chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chẳng an trú thì khi nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thể tin hiểu, hoặc sinh tâm hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam, thiện nữ nào, đối với bốn Thánh đế từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chẳng an trú, khi nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng thể tin hiểu, hoặc sinh tâm hủy báng là việc có thể xảy ra. Nếu thiện nam, thiện nữ nào, đối với bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, hoặc tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, hoặc bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, hoặc pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, hoặc mười địa Bồ-tát, từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chẳng tu tập thì khi nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thể tin hiểu, hoặc sinh tâm hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam, thiện nữ nào, đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông, hoặc mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, hoặc trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chẳng tu tập thì khi nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thể tin hiểu, hoặc sinh tâm hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam, thiện nữ nào, đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, hoặc quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chẳng tu tập thì khi nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thể tin hiểu, hoặc sinh tâm hủy báng là việc có thể xảy ra. Thưa Đại đức, con nay kính lễ Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa; kính lễ Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là kính lễ trí Nhất thiết trí.

Lúc này, Phật bảo Thiên đế Thích:

–Này Kiều-thi-ca, đúng vậy, đúng vậy, như lời ông nói! Kính lễ Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là kính lễ trí Nhất thiết trí. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì trí Nhất thiết trí của chư Phật Thế Tôn đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được phát sinh.

–Này Kiều-thi-ca, nếu thiện nam, thiện nữ nào muốn an trú nơi trí Nhất thiết trí của chư Phật thì nên an trú Bát-nhã ba-la-mật-đa, muốn khởi trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa, muốn đoạn tất cả phiền não tập khí thì nên học Bát-nhã ba-la-mậtđa; muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nếu thiện nam, thiện nữ nào muốn dùng phương tiện thiện xảo để an lập hữu tình ở quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả Độc giác, hoặc muốn tự học thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nếu thiện nam, thiện nữ nào muốn dùng phương tiện thiện xảo để an lập hữu tình ở quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nếu thiện nam, thiện nữ nào muốn dùng phương tiện thiện xảo để an lập hữu tình ở các hạnh Đại Bồ-tát khiến không thoái chuyển, hoặc muốn tự tu hành thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát muốn hàng phục chúng ma, dẹp bỏ ngoại đạo thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát muốn khéo nhiếp thọ các Bí-sô tăng thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, Thiên đế Thích bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát- nhã ba-la-mật-đa thì an trú sắc như thế nào, an trú thọ, tưởng, hành, thức như thế nào? Tu tập sắc như thế nào, tu tập thọ, tưởng, hành, thức như thế nào? An trú nhãn xứ như thế nào, an trú nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như thế nào? Tu tập nhãn xứ như thế nào, tu tập nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như thế nào? An trú sắc xứ như thế nào, an trú thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như thế nào? Tu tập sắc xứ như thế nào, tu tập thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như thế nào? An trú nhãn giới như thế nào, an trú sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra như thế nào? Tu tập nhãn giới như thế nào, tu tập sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra như thế nào? An trú nhĩ giới như thế nào, an trú thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra như thế nào? Tu tập nhĩ giới như thế nào, tu tập thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra như thế nào? An trú tỷ giới như thế nào, an trú hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra như thế nào? Tu tập tỷ giới như thế nào, tu tập hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra như thế nào? An trú thiệt giới như thế nào, an trú vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra như thế nào? Tu tập thiệt giới như thế nào, tu tập vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra như thế nào? An trú thân giới như thế nào, an trú xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra như thế nào? Tu tập thân giới như thế nào, tu tập xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra như thế nào? An trú ý giới như thế nào, an trú pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra như thế nào? Tu tập ý giới như thế nào, tu tập pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra như thế nào? An trú địa giới như thế nào, an trú thủy, hỏa, phong, không, thức giới như thế nào? Tu tập địa giới như thế nào, tu tập thủy, hỏa, phong, không, thức giới như thế nào? An trú vô minh như thế nào, an trú hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não như thế nào? Tu tập vô minh như thế nào, tu tập hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não như thế nào? An trú Bố thí ba-la-mật-đa như thế nào, an trú Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào? Tu tập Bố thí ba-la-mật-đa như thế nào, tu tập Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào? An trú pháp không bên trong như thế nào, an trú pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh như thế nào? Tu tập pháp không bên trong như thế nào, tu tập pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh như thế nào? An trú chân như như thế nào, an trú pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn như thế nào? Tu tập chân như như thế nào, tu tập pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn như thế nào? An trú Thánh đế khổ như thế nào, an trú Thánh đế tập, diệt, đạo như thế nào? Tu tập Thánh đế khổ như thế nào, tu tập Thánh đế tập, diệt, đạo như thế nào? An trú bốn Tĩnh lự như thế nào, an trú bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc như thế nào? Tu tập bốn Tĩnh lự như thế nào, tu tập bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc như thế nào? An trú tám Giải thoát như thế nào, an trú tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ như thế nào? Tu tập tám Giải thoát như thế nào, tu tập tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ như thế nào? An trú bốn Niệm trụ như thế nào, an trú bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo như thế nào? Tu tập bốn Niệm trụ như thế nào, tu tập bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo như thế nào? An trú pháp môn giải thoát Không như thế nào, an trú pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện như thế nào? Tu tập pháp môn giải thoát Không như thế nào, tu tập pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện như thế nào? An trú mười địa Bồ-tát như thế nào? Tu tập mười địa Bồ-tát như thế nào? An trú năm loại mắt như thế nào, an trú sáu phép thần thông như thế nào? Tu tập năm loại mắt như thế nào, tu tập sáu phép thần thông như thế nào? An trú mười lực của Phật như thế nào, an trú bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng như thế nào? Tu tập mười lực của Phật như thế nào, tu tập bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng như thế nào? An trú pháp không quên mất như thế nào, an trú tánh luôn luôn xả như thế nào? Tu tập pháp không quên mất như thế nào, tu tập tánh luôn luôn xả như thế nào? An trú trí Nhất thiết như thế nào, an trú trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng như thế nào? Tu tập trí Nhất thiết như thế nào, tu tập trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng như thế nào? An trú tất cả pháp môn Đà-lani như thế nào, an trú tất cả pháp môn Tam-ma-địa như thế nào? Tu tập tất cả pháp môn Đà-la-ni như thế nào, tu tập tất cả pháp môn Tam-ma-địa như thế nào? An trú quả Dự lưu như thế nào, an trú quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán như thế nào? Tu tập quả Dự lưu như thế nào, tu tập quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán như thế nào? An trú quả vị Độc giác như thế nào? Tu tập quả vị Độc giác như thế nào? An trú tất cả hạnh Đại Bồ-tát như thế nào? Tu tập tất cả hạnh Đại Bồ-tát như thế nào? An trú quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật như thế nào? Tu tập quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật như thế nào?

Bấy giờ, Phật bảo Thiên đế Thích:

–Này Kiều-thi-ca, hay thay, hay thay! Ông nay nương vào thần lực của Phật nên có thể hỏi Như Lai ý nghĩa sâu xa như thế! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe và suy nghĩ chín chắn, ta sẽ nói cho ông nghe.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với sắc chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập sắc; nếu đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì sắc cho đến thức để an trú, tu tập, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với nhãn xứ chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập nhãn xứ; nếu đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì nhãn xứ cho đến ý xứ để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với sắc xứ chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập sắc xứ; nếu đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì sắc xứ cho đến pháp xứ để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với nhãn giới chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập nhãn giới; nếu đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với nhĩ giới chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập nhĩ giới; nếu đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với tỷ giới chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập tỷ giới; nếu đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với thiệt giới chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập thiệt giới; nếu đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Này Kiều-thica, vì thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với thân giới chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập thân giới; nếu đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với ý giới chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập ý giới; nếu đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với địa giới chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập địa giới; nếu đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì địa giới cho đến thức giới để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với vô minh chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập vô minh; nếu đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì vô minh cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập Bố thí ba-la-mật-đa; nếu đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Kiều-thica, vì Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-lamật-đa để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được. Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với pháp không bên trong chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập pháp không bên trong; nếu đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được. Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với chân như chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập chân như; nếu đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với Thánh đế khổ chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập Thánh đế khổ; nếu đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với bốn Tĩnh lự chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập bốn Tĩnh lự; nếu đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với tám Giải thoát chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập tám Giải thoát; nếu đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với bốn Niệm trụ chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập bốn Niệm trụ; nếu đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với pháp môn giải thoát Không chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập pháp môn giải thoát Không; nếu đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với mười địa Bồ-tát chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập mười địa Bồ-tát. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì mười địa Bồtát để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với năm loại mắt chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập năm loại mắt; nếu đối với sáu phép thần thông chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập sáu phép thần thông. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì năm loại mắt, sáu phép thần thông để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với mười lực của Phật chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập mười lực của Phật; nếu đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với pháp không quên mất chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập pháp không quên mất; nếu đối với tánh luôn luôn xả chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập tánh luôn luôn xả. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với trí Nhất thiết chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập trí Nhất thiết; nếu đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Này Kiềuthi-ca, vì trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập tất cả pháp môn Đà-la-ni; nếu đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với quả Dự lưu chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập quả Dự lưu; nếu đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với quả vị Độc giác chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập quả vị Độc giác. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì quả vị Độc giác để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập tất cả hạnh Đại Bồ-tát. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng an trú, chẳng tu tập tức là an trú tu tập quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật để an trú tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với sắc chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập sắc; nếu đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán sắc cho đến thức ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với nhãn xứ chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập nhãn xứ; nếu đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán nhãn xứ cho đến ý xứ ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với sắc xứ chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập sắc xứ; nếu đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán sắc xứ cho đến pháp xứ ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với nhãn giới chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập nhãn giới; nếu đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với nhĩ giới chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập nhĩ giới; nếu đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với tỷ giới chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập tỷ giới; nếu đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với thiệt giới chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập thiệt giới; nếu đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với thân giới chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập thân giới; nếu đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với ý giới chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập ý giới; nếu đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với địa giới chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập địa giới; nếu đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán địa giới cho đến thức giới ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với vô minh chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập vô minh; nếu đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán vô minh cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với Bố thí ba-la-mật-đa chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập Bố thí ba-la-mật-đa; nếu đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với pháp không bên trong chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập pháp không bên trong; nếu đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Này Kiều-thica, vì Đại Bồ-tát ấy quán pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

QUYỂN 298

PHẨM 39: CÔNG ĐỨC KHÓ LÃNH HỘI (2)

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với chân như chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập chân như; nếu đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với Thánh đế khổ chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập Thánh đế khổ; nếu đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với bốn Tĩnh lự chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập bốn Tĩnh lự; nếu đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với tám Giải thoát chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập tám Giải thoát; nếu đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với bốn Niệm trụ chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập bốn Niệm trụ; nếu đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với pháp môn giải thoát Không chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập pháp môn giải thoát Không; nếu đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với mười địa Bồ-tát chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập mười địa Bồ-tát. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán mười địa Bồ-tát ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với năm loại mắt chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập năm loại mắt; nếu đối với sáu phép thần thông chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập sáu phép thần thông. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán năm loại mắt, sáu phép thần thông ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với mười lực của Phật chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập mười lực của Phật; nếu đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với pháp không quên mất chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập pháp không quên mất; nếu đối với tánh luôn luôn xả chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập tánh luôn luôn xả. Vì sao? Này Kiều-thica, vì Đại Bồ-tát ấy quán pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với trí Nhất thiết chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập trí Nhất thiết; nếu đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập tất cả pháp môn Đà-la-ni; nếu đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồtát ấy quán tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với quả Dự lưu chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập quả Dự lưu; nếu đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với quả vị Độc giác chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập quả vị Độc giác. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồtát ấy quán quả vị Độc giác ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập tất cả hạnh Đại Bồ-tát. Vì sao? Này Kiều-thica, vì Đại Bồ-tát ấy quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải an trú, chẳng phải chẳng an trú, chẳng phải tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trú tu tập quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Kiều-thi-ca, vì Đại Bồ-tát ấy quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật ở khoảng trước, sau, giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế rất là sâu xa.

Phật dạy:

–Đúng vậy! Này Xá-lợi Tử, vì chân như của sắc sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của thọ, tưởng, hành, thức sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của nhãn xứ sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ sâu xa nên Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của sắc xứ sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của nhãn giới sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra sâu xa nên Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của nhĩ giới sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của tỷ giới sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra sâu xa nên Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của thiệt giới sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của thân giới sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra sâu xa nên Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của ý giới sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra sâu xa nên Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của địa giới sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới sâu xa nên Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của vô minh sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của Bố thí ba-lamật-đa sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của pháp không bên trong sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh sâu xa nên Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của chân như sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn sâu xa nên Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của Thánh đế khổ sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của bốn Tĩnh lự sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của tám Giải thoát sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của bốn Niệm trụ sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của pháp môn giải thoát Không sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của mười địa Bồtát sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của năm loại mắt sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của sáu phép thần thông sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như nơi mười lực của Phật sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng sâu xa nên Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của pháp không quên mất sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của tánh luôn luôn xả sâu xa nên Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của trí Nhất thiết sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của tất cả pháp môn Đà-la-ni sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của tất cả pháp môn Tam-ma-địa sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của quả Dự lưu sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì chân như của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của quả vị Độc giác sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của tất cả hạnh Đại Bồ-tát sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật sâu xa nên Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế khó có thể suy lường.

Phật dạy:

–Đúng vậy! Này Xá-lợi Tử, vì chân như của sắc khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của thọ, tưởng, hành, thức khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của nhãn xứ khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của sắc xứ khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của nhãn giới khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của nhĩ giới khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của tỷ giới khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của thiệt giới khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của thân giới khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của ý giới khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của địa giới khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của vô minh khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của Bố thí ba-lamật-đa khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của pháp không bên trong khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của chân như khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của Thánh đế khổ khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của bốn Tĩnh lự khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mậtđa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của tám Giải thoát khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ khó suy lường nên Bátnhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của bốn Niệm trụ khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo khó suy lường nên Bát-nhã bala-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của pháp môn giải thoát Không khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mậtđa khó có thể suy lường; vì chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của mười địa Bồtát khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của năm loại mắt khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của sáu phép thần thông khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như nơi mười lực của Phật khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của pháp không quên mất khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của tánh luôn luôn xả khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của trí Nhất thiết khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mậtđa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của tất cả pháp môn Đà-la-ni khó suy lường nên Bát-nhã ba-lamật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của tất cả pháp môn Tam-ma-địa khó suy lường nên Bátnhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của quả Dự lưu khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chân như của quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của quả vị Độc giác khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của tất cả hạnh Đại Bồ-tát khó suy lường nên Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật khó suy lường nên Bátnhã ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Xá-lợi Tử lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế rất là vô lượng.

Phật dạy:

–Đúng vậy! Này Xá-lợi Tử, vì chân như của sắc vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của thọ, tưởng, hành, thức vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của nhãn xứ vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô lượng nên Bátnhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của sắc xứ vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của nhãn giới vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của nhĩ giới vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của tỷ giới vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra vô lượng nên Bátnhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của thiệt giới vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của thân giới vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của ý giới vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra vô lượng nên Bát-nhã bala-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của địa giới vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của vô minh vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của Bố thí ba-lamật-đa vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của pháp không bên trong vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng. Này Xá-lợi Tử, vì chân như của chân như vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của Thánh đế khổ vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của bốn Tĩnh lự vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của tám Giải thoát vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của bốn Niệm trụ vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của pháp môn giải thoát Không vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện vô lượng nên Bát-nhã ba-lamật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của mười địa Bồtát vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của năm loại mắt vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của sáu phép thần thông vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như nơi mười lực của Phật vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô lượng nên Bátnhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của pháp không quên mất vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của tánh luôn luôn xả vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của trí Nhất thiết vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của tất cả pháp môn Đà-la-ni vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của tất cả pháp môn Tamma-địa vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của quả Dự lưu vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng; vì chân như của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của quả vị Độc giác vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của tất cả hạnh Đại Bồ-tát vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá-lợi Tử, vì chân như của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật vô lượng nên Bát-nhã bala-mật-đa vô lượng.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa như thế nào?

Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của sắc là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của thọ, tưởng, hành, thức là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của sắc thì chẳng phải là sắc; vì tánh sâu xa của thọ, tưởng, hành, thức thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của nhãn xứ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của nhãn xứ thì chẳng phải là nhãn xứ; vì tánh sâu xa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của sắc xứ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của sắc xứ thì chẳng phải là sắc xứ; vì tánh sâu xa của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của nhãn giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của nhãn giới thì chẳng phải là nhãn giới; vì tánh sâu xa của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của nhĩ giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của nhĩ giới thì chẳng phải là nhĩ giới; vì tánh sâu xa của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của tỷ giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của tỷ giới thì chẳng phải là tỷ giới; vì tánh sâu xa của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của thiệt giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của thiệt giới thì chẳng phải là thiệt giới; vì tánh sâu xa của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của thân giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của thân giới thì chẳng phải là thân giới; vì tánh sâu xa của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của ý giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của ý giới thì chẳng phải là ý giới; vì tánh sâu xa của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của địa giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xálợi Tử, vì tánh sâu xa của địa giới thì chẳng phải là địa giới; vì tánh sâu xa của thủy, hỏa, phong, không, thức giới thì chẳng phải là hỏa, phong, không, thức giới.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của vô minh là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của vô minh thì chẳng phải là vô minh; vì tánh sâu xa của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát- nhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của Bố thí ba-la-mật-đa là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của Bố thí ba-la-mật-đa thì chẳng phải là Bố thí ba-la-mật-đa; vì tánh sâu xa của Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng phải là Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của pháp không bên trong là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của pháp không bên trong thì chẳng phải là pháp không bên trong; vì tánh sâu xa của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh thì chẳng phải là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của chân như là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của chân như thì chẳng phải là chân như; vì tánh sâu xa của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của Thánh đế khổ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của Thánh đế tập, diệt, đạo là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của Thánh đế khổ thì chẳng phải là Thánh đế khổ; vì tánh sâu xa của Thánh đế tập, diệt, đạo thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của bốn Tĩnh lự là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của bốn Tĩnh lự thì chẳng phải là bốn Tĩnh lự; vì tánh sâu xa của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thì chẳng phải là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của tám Giải thoát là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của tám Giải thoát thì chẳng phải là tám Giải thoát; vì tánh sâu xa của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ thì chẳng phải là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của bốn Niệm trụ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của bốn Niệm trụ thì chẳng phải là bốn Niệm trụ; vì tánh sâu xa của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thì chẳng phải là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của pháp môn giải thoát Không là tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là tu hành Bát-nhã bala-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của pháp môn giải thoát Không thì chẳng phải là pháp môn giải thoát Không; vì tánh sâu xa của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện thì chẳng phải là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của mười địa Bồ-tát là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của mười địa Bồ-tát thì chẳng phải là mười địa Bồ-tát.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của năm loại mắt là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của sáu phép thần thông là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của năm loại mắt thì chẳng phải là năm loại mắt; vì tánh sâu xa của sáu phép thần thông thì chẳng phải là sáu phép thần thông.

QUYỂN 299

PHẨM 39: CÔNG ĐỨC KHÓ LÃNH HỘI (3)

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa nơi mười lực của Phật là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng là tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa nơi mười lực của Phật thì chẳng phải là mười lực của Phật; vì tánh sâu xa của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của pháp không quên mất là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của tánh luôn luôn xả là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của pháp không quên mất thì chẳng phải là pháp không quên mất; vì tánh sâu xa của tánh luôn luôn xả thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của trí Nhất thiết là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của trí Nhất thiết thì chẳng phải là trí Nhất thiết; vì tánh sâu xa của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thì chẳng phải là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của tất cả pháp môn Đà-la-ni là tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của tất cả pháp môn Đà-la-ni thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; vì tánh sâu xa của tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của quả Dự lưu là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của quả Dự lưu thì chẳng phải là quả Dự lưu; vì tánh sâu xa của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán thì chẳng phải là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của quả vị Độc giác là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của quả vị Độc giác thì chẳng phải là quả vị Độc giác.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của tất cả hạnh Đại Bồ-tát thì chẳng phải là tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh sâu xa của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật thì chẳng phải là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Lại nữa, này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của sắc là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của thọ, tưởng, hành, thức là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của sắc thì chẳng phải là sắc; vì tánh khó suy lường của thọ, tưởng, hành, thức thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của nhãn xứ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của nhãn xứ thì chẳng phải là nhãn xứ; vì tánh khó suy lường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của sắc xứ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của sắc xứ thì chẳng phải là sắc xứ; vì tánh khó suy lường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của nhãn giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của nhãn giới thì chẳng phải là nhãn giới; vì tánh khó suy lường của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của nhĩ giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của nhĩ giới thì chẳng phải là nhĩ giới; vì tánh khó suy lường của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của tỷ giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của tỷ giới thì chẳng phải là tỷ giới; vì tánh khó suy lường của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của thiệt giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của thiệt giới thì chẳng phải là thiệt giới; vì tánh khó suy lường của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của thân giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của thân giới thì chẳng phải là thân giới; vì tánh khó suy lường của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của ý giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xálợi Tử, vì tánh khó suy lường của ý giới thì chẳng phải là ý giới; vì tánh khó suy lường của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của địa giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của địa giới thì chẳng phải là địa giới; vì tánh khó suy lường của thủy, hỏa, phong, không, thức giới thì chẳng phải là hỏa, phong, không, thức giới.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của vô minh là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của vô minh thì chẳng phải là vô minh; vì tánh khó suy lường của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của Bố thí ba-la-mật-đa là tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của Bố thí ba-la-mật-đa thì chẳng phải là Bố thí ba-la-mật-đa; vì tánh khó suy lường của Tịnh giới cho đến Bátnhã ba-la-mật-đa thì chẳng phải là Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của pháp không bên trong là tu hành Bát-nhã bala-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của pháp không bên trong thì chẳng phải là pháp không bên trong; vì tánh khó suy lường của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh thì chẳng phải là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của chân như là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng hành tánh khó suy lường của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của chân như thì chẳng phải là chân như; vì tánh khó suy lường của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của Thánh đế khổ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của Thánh đế tập, diệt, đạo là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của Thánh đế khổ thì chẳng phải là Thánh đế khổ; vì tánh khó suy lường của Thánh đế tập, diệt, đạo thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của bốn Tĩnh lự là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của bốn Tĩnh lự thì chẳng phải là bốn Tĩnh lự; vì tánh khó suy lường của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thì chẳng phải là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát- nhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của tám Giải thoát là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng hành tánh khó suy lường của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của tám Giải thoát thì chẳng phải là tám Giải thoát; vì tánh khó suy lường của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ thì chẳng phải là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của bốn Niệm trụ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của bốn Niệm trụ thì chẳng phải là bốn Niệm trụ; vì tánh khó suy lường của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thì chẳng phải là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của pháp môn giải thoát Không là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của pháp môn giải thoát Không thì chẳng phải là pháp môn giải thoát Không; vì tánh khó suy lường của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện thì chẳng phải là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của mười địa Bồ-tát là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của mười địa Bồ-tát thì chẳng phải là mười địa Bồtát.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của năm loại mắt là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của sáu phép thần thông là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của năm loại mắt thì chẳng phải là năm loại mắt; vì tánh khó suy lường của sáu phép thần thông thì chẳng phải là sáu phép thần thông.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường nơi mười lực của Phật là tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường nơi mười lực của Phật thì chẳng phải là mười lực của Phật; vì tánh khó suy lường của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của pháp không quên mất là tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của tánh luôn luôn xả là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của pháp không quên mất thì chẳng phải là pháp không quên mất; vì tánh khó suy lường của tánh luôn luôn xả thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của trí Nhất thiết là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của trí Nhất thiết thì chẳng phải là trí Nhất thiết; vì tánh khó suy lường của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thì chẳng phải là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của tất cả pháp môn Đà-la-ni là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của tất cả pháp môn Đà-la-ni thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; vì tánh khó suy lường của tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của quả Dự lưu là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của quả Dự lưu thì chẳng phải là quả Dự lưu; vì tánh khó suy lường của quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán thì chẳng phải là quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của quả vị Độc giác là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của quả vị Độc giác thì chẳng phải là quả vị Độc giác.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là tu hành Bát-nhã bala-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của tất cả hạnh Đại Bồ-tát thì chẳng phải là tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh khó suy lường của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật thì chẳng phải là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của sắc là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của thọ, tưởng, hành, thức là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của sắc thì chẳng phải là sắc; vì tánh vô lượng của thọ, tưởng, hành, thức thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của nhãn xứ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của nhãn xứ thì chẳng phải là nhãn xứ; vì tánh vô lượng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của sắc xứ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao?

Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của sắc xứ thì chẳng phải là sắc xứ; vì tánh vô lượng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của nhãn giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của nhãn giới thì chẳng phải là nhãn giới; vì tánh vô lượng của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của nhĩ giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xálợi Tử, vì tánh vô lượng của nhĩ giới thì chẳng phải là nhĩ giới; vì tánh vô lượng của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của tỷ giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của tỷ giới thì chẳng phải là tỷ giới; vì tánh vô lượng của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của thiệt giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của thiệt giới thì chẳng phải là thiệt giới; vì tánh vô lượng của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của thân giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của thân giới thì chẳng phải là thân giới; vì tánh vô lượng của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của ý giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của ý giới thì chẳng phải là ý giới; vì tánh vô lượng của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của địa giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của địa giới thì chẳng phải là địa giới; vì tánh vô lượng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới thì chẳng phải là hỏa, phong, không, thức giới.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của vô minh là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao?

Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của vô minh thì chẳng phải là vô minh; vì tánh vô lượng của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của Bố thí ba-la-mật-đa là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng hành tánh vô lượng của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của Bố thí ba-la-mật-đa thì chẳng phải là Bố thí ba-la-mật-đa; vì tánh vô lượng của Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng phải là Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mậtđa.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của pháp không bên trong là tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của pháp không bên trong thì chẳng phải là pháp không bên trong; vì tánh vô lượng của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh thì chẳng phải là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của chân như là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của chân như thì chẳng phải là chân như; vì tánh vô lượng của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của Thánh đế khổ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của Thánh đế tập, diệt, đạo là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của Thánh đế khổ thì chẳng phải là Thánh đế khổ; vì tánh vô lượng của Thánh đế tập, diệt, đạo thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của bốn Tĩnh lự là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của bốn Tĩnh lự thì chẳng phải là bốn Tĩnh lự; vì tánh vô lượng của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thì chẳng phải là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của tám Giải thoát là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là tu hành Bát-nhã bala-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của tám Giải thoát thì chẳng phải là tám Giải thoát; vì tánh vô lượng của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ thì chẳng phải là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của bốn Niệm trụ là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo là tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của bốn Niệm trụ thì chẳng phải là bốn Niệm trụ; vì tánh vô lượng của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo thì chẳng phải là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của pháp môn giải thoát Không là tu hành Bát-nhã bala-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của pháp môn giải thoát Không thì chẳng phải là pháp môn giải thoát Không; vì tánh vô lượng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện thì chẳng phải là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của mười địa Bồ-tát là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của mười địa Bồ-tát thì chẳng phải là mười địa Bồ-tát.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của năm loại mắt là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng hành tánh vô lượng của sáu phép thần thông là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của năm loại mắt thì chẳng phải là năm loại mắt; vì tánh vô lượng của sáu phép thần thông thì chẳng phải là sáu phép thần thông.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng nơi mười lực của Phật là tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa; chẳng hành tánh vô lượng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng nơi mười lực của Phật thì chẳng phải là mười lực của Phật; vì tánh vô lượng của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của pháp không quên mất là tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của tánh luôn luôn xả là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của pháp không quên mất thì chẳng phải là pháp không quên mất; vì tánh vô lượng của tánh luôn luôn xả thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của trí Nhất thiết là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của trí Nhất thiết thì chẳng phải là trí Nhất thiết; vì tánh vô lượng của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thì chẳng phải là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của tất cả pháp môn Đà-la-ni là tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của tất cả pháp môn Đà-la-ni thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; vì tánh vô lượng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của quả Dự lưu là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của quả Dự lưu thì chẳng phải là quả Dự lưu; vì tánh vô lượng của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán thì chẳng phải là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của quả vị Độc giác là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của quả vị Độc giác thì chẳng phải là quả vị Độc giác.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát- nhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát thì chẳng phải là tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì tánh vô lượng của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật thì chẳng phải là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đã rất sâu xa, khó suy lường, vô lượng, khó có thể tin hiểu thì chẳng nên nói trước hàng Bồ-tát mới tu học Đại thừa vì khi họ thoáng nghe Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa này, lòng sinh kinh hoàng, sợ hãi, nghi hoặc, chẳng thể tin hiểu, chỉ nên nói trước hàng Bồ-tát ở địa vị không thoái chuyển, vì khi họ nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, lòng chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, cũng không nghi hoặc; nghe rồi tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, tư duy theo như lý, vì người diễn nói.

Khi ấy, Thiên đế Thích hỏi Xá-lợi Tử:

–Thưa Đại đức, nếu ở trước hàng Bồ-tát mới tu học Đại thừa mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì có lỗi gì?

Xá-lợi Tử đáp:

–Này Kiều-thi-ca, nếu ở trước hàng Bồ-tát mới tu học Đại thừa mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì khi nghe họ sẽ kinh hoàng, sợ hãi, nghi hoặc chẳng thể tin hiểu, hoặc sinh tâm hủy báng; do sự tạo tác ấy làm tăng trưởng mới chiêu cảm các nghiệp đọa vào cõi ác, chìm đắm theo ba đường ác; ở lâu trong nẻo sinh tử, khó đạt được quả vị Giác ngộ cao tột. Vì thế chẳng nên ở trước Bồtát mới tu học kia mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiên đế Thích lại hỏi Cụ thọ Xá-lợi Tử:

–Thưa Đại đức, có vị Đại Bồ-tát nào chưa được thọ ký mà khi nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi chăng?

Xá-lợi Tử đáp:

–Có đấy! Này Kiều-thi-ca, Đại Bồ-tát ấy chẳng bao lâu sẽ được thọ ký quả vị Đại Bồ-đề. Này Kiều-thi-ca, nếu Đại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa như thế mà tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi thì nên biết, Đại Bồ-tát ấy đã được thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột, nếu chưa được thọ ký thì chẳng qua một hoặc hai cảnh giới Phật, nhất định sẽ được thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột.

Bấy giờ, Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng như ông đã nói! Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát từ lâu đã học Đại thừa, từ lâu đã phát đại nguyện, từ lâu đã tu sáu pháp Ba-lamật-đa, từ lâu đã cúng dường chư Phật, từ lâu đã phụng sự các bậc thiện hữu, thì khi nghe nói Bátnhã ba-la-mật-đa như thế tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi; nghe rồi tin hiểu, thọ trì đọc tụng, tư duy đúng theo lý, vì người diễn nói, hoặc tùy sức tu hành theo như điều đã nêu bày.

QUYỂN 300

PHẨM 39: CÔNG ĐỨC KHÓ LÃNH HỘI (4)

Bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con nay muốn nói thí dụ về Bồ-tát.

Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử, tùy ý, ông cứ nói.

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, các thiện nam, thiện nữ trụ Đại thừa, giống như ở trong mộng tu hành Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí bala-mật-đa, ngồi ở đạo tràng, chứng đạo quả Giác ngộ vô thượng thì nên biết thiện nam, thiện nữ ấy hãy còn gần quả vị Giác ngộ cao tột, huống là Đại Bồ-tát khi tỉnh giác vì cầu quả vị Giác ngộ cao tột, tu hành Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa mà chẳng mau thành quả vị Giác ngộ cao tột sao!

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy chẳng bao lâu sẽ ngồi bên cội Bồ-đề chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh.

Bạch Thế Tôn, nếu thiện nam, thiện nữ nào được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thọ trì, đọc tụng, tu hành đúng theo giáo pháp thì nên biết thiện nam, thiện nữ ấy từ lâu đã học Đại thừa, căn lành thành thục, cúng dường nhiều chư Phật, phụng sự nhiều thiện hữu, vun trồng các gốc đức, mới có thể thành tựu được sự việc như vậy.

Bạch Thế Tôn, nếu thiện nam, thiện nữ nào được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy đúng như lý, vì người diễn nói, thì thiện nam, thiện nữ ấy hoặc đã được thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột, hoặc sắp được thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn, thiện nam, thiện nữ ấy như Đại Bồ-tát trụ địa vị không thoái chuyển, mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, do đó được nghe Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể tin hiểu sâu xa, thọ trì, đọc tụng, tư duy đúng như lý, theo giáo tu hành, vì người diễn nói.

Bạch Thế Tôn, thí như có người đi qua cánh đồng trống vắng, ngang qua đường hiểm hàng trăm do-tuần, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm trăm do-tuần, thấy các cảnh báo trước là có thành ấp, kinh đô, đó là cảnh mục đồng chăn trâu, vườn rừng, ruộng nương... Thấy các cảnh ấy rồi, liền nghĩ là thành ấp, kinh đô, cách đây chẳng xa, nghĩ như vậy nên thân tâm thư thái, chẳng sợ thú dữ, giặc cướp, đói khát... Bạch Thế Tôn, các Đại Bồtát cũng lại như vậy, nếu được nghe Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa này, thọ trì, đọc tụng, tư duy đúng theo lý, phát sinh tin, hiểu sâu xa thì nên biết, chẳng bao lâu sẽ được thọ ký, hoặc đã được thọ ký thì mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Đại Bồtát ấy không sợ rơi vào hàng Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy đã được thấy, nghe, cung kính cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cảnh giới của quả vị Giác ngộ cao tột.

Lúc bấy giờ, Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng như ông đã nói! Ông hãy nương vào Phật lực để tiếp tục diễn nói!

Xá-lợi Tử lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thí như có người muốn xem biển cả, lần lượt đi đến, trải qua nhiều thời gian, chẳng thấy núi rừng, liền nghĩ rằng, nay thấy hiện tượng này, chắc biển cả chẳng còn bao xa. Vì sao? Vì hễ gần bờ biển thì đất thấp dần, nhất định không có núi rừng, khi ấy, người kia tuy chưa thấy biển nhưng thấy hiện tượng gần biển, hoan hỷ hết mực. Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, nếu được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, thọ trì, đọc tụng, tư duy đúng như lý, phát sinh tin, hiểu sâu xa thì Đại Bồ-tát ấy tuy chưa được Phật hiện tiền thọ ký: “Ngươi vào đời sau, trải qua số kiếp như thế, hoặc trải qua trăm kiếp, hoặc trải qua ngàn kiếp, hoặc trải qua trăm ngàn kiếp cho đến hoặc trải qua trăm ngàn ức kiếp, sẽ được chứng quả vị Giác ngộ cao tột”, nhưng nên tự biết là việc được thọ ký chẳng còn xa. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy, đã được thấy nghe hiện tướng của quả vị Giác ngộ cao tột trước đó mà cung kính cúng dường, thọ trì, đọc tụng, tư duy đúng như lý Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Bạch Thế Tôn, thí như cây cối hoa quả, vào mùa xuân, sau khi lá đã rụng, cành nhánh tươi nhuận, mọi người trông thấy, liền nói thế này: Hoa quả lá mới chẳng bao lâu sẽ nẩy sinh. Vì sao? Vì những cây này, hiện tượng của hoa quả lá mới đã hiện ra trước. Người châu Thiệm-bộ, nam nữ lớn nhỏ, thấy hiện tượng này rồi, thảy đều vui mừng, cùng nghĩ thế này: “Chẳng còn bao lâu, chúng ta sẽ được thấy hoa quả này tươi tốt”. Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát cũng giống như thế, nếu đã được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, thọ trì, đọc tụng, tư duy đúng như lý, phát sinh lòng tin hiểu sâu xa, thì nên biết, đời trước, thiện căn đã thành thục, từng cúng dường nhiều đức Phật, phụng sự nhiều thiện hữu, chẳng còn bao lâu sẽ được thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy nên nghĩ thế này: “Nhất định trước đây vì ta có được căn lành thù thắng, có thể dẫn phát đến quả vị Giác ngộ cao tột, nên nay thấy nghe, cung kính cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đọc tụng, thọ trì, phát sinh sự tin hiểu sâu xa, tư duy như lý, tùy sức tu tập.”

Bạch Thế Tôn, ở trong pháp hội này, có các vị thiện tử đã từng thấy Phật quá khứ nói pháp như thế, đều sinh hoan hỷ, cùng bàn luận: “Xưa, các Bồ-tát nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa liền được thọ ký. Nay các Bồ-tát đã nghe nói Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa này, nhất định chẳng bao lâu sẽ được thọ ký quả vị Giác ngộ!”

Bạch Thế Tôn, thí như người nữ mang thai lâu ngày, thân thể trở nên nặng nề, đi đứng bất an, ăn uống ngủ nghĩ giảm thiểu; chẳng ưa nói nhiều, chán việc thường làm, vì chịu sự thống khổ nên bỏ hết các việc. Người đàn bà khác thấy hiện tượng ấy liền biết người này sắp sinh.

Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát cũng giống như thế, đời trước gieo trồng căn lành, cúng dường nhiều Phật phụng sự thiện hữu lâu dài, vì căn lành thành thục nên nay được nghe Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa này, thọ trì, đọc tụng, tư duy đúng như lý, phát sinh sự tin hiểu sâu xa, tùy sức tu tập.

Bạch Thế Tôn, nên biết, Đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này, chẳng còn bao lâu sẽ được thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột.

Bấy giờ, Phật khen Cụ thọ Xá-lợi Tử:

–Hay thay, hay thay! Ông thật khéo diễn đạt. Được nghe những thí dụ về Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, nên biết là đều do diệu lực từ oai thần của Phật.

Lúc này, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thật là hy hữu, khéo phó chúc các Đại Bồ-tát, khéo nhiếp thọ các Đại Bồ-tát.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy! Vì sao? Này Thiện Hiện, vì các Đại Bồ-tát cầu đạt quả vị Giác ngộ cao tột, để đem lại lợi lạc cho nhiều hữu tình, thương yêu, làm nhiều điều lợi ích. Vì hàng trời, người mà Đại Bồ-tát ấy khi hành Bồ-tát đạo, vì muốn làm lợi ích cho vô lượng trăm ngàn ức loài hữu tình, nên dùng bốn nhiếp pháp mà nhiếp thọ họ, đó là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự, cũng đem lại sự an lập khiến họ siêng năng tu tập theo mười nẻo nghiệp thiện.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tự hành bốn Tĩnh lự, cũng dạy người hành bốn Tĩnh lự, tự hành bốn Vô lượng, cũng dạy người hành bốn Vô lượng, tự hành bốn Định vô sắc, cũng dạy người hành bốn Định vô sắc; tự hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, cũng dạy người hành sáu pháp Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy y chỉ nơi Bátnhã ba-la-mật-đa, dùng diệu lực của phương tiện thiện xảo, tuy dạy hữu tình chứng quả Dự lưu nhưng tự mình chẳng chứng; tuy dạy hữu tình chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán nhưng tự mình chẳng chứng; tuy dạy hữu tình chứng quả Độc giác nhưng tự mình chẳng chứng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tự tu Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn ức Đại Bồ-tát tu Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; tự an trú địa vị không thoái chuyển, cũng khuyên họ an trú địa vị không thoái chuyển; tự làm nghiêm tịnh cõi Phật, cũng khuyên họ làm nghiêm tịnh cõi Phật; tự đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, cũng khuyên họ tạo được sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình; tự khởi thần thông Bồ-tát, cũng khuyên họ khởi thần thông Bồ-tát; tự tu pháp môn Đà-la-ni, cũng khuyên họ tu pháp môn Đà-la-ni; tự tu pháp môn Tam-mađịa, cũng khuyên họ tu pháp môn Tam-ma-địa; tự tạo đủ biện tài vô ngại, cũng khuyên họ tạo đủ biện tài vô ngại; tự tạo đủ sắc thân vi diệu, cũng khuyên họ tạo đủ sắc thân vi diệu; tự có đủ các tướng tốt, cũng khuyên họ có đủ các tướng tốt; tự thực hiện đủ hạnh đồng chân, cũng khuyên họ thực hiện đủ hạnh đồng chân; tự tu bốn Niệm trụ, cũng dạy họ tu bốn Niệm trụ, tự tu bốn Chánh đoạn, cũng dạy họ tu bốn Chánh đoạn; tự tu bốn Thần túc, cũng dạy họ tu bốn Thần túc; tự tu năm Căn, cũng dạy họ tu năm Căn; tự tu năm Lực, cũng dạy họ tu năm Lực; tự tu bảy chi Đẳng giác, cũng dạy họ tu bảy chi Đẳng giác; tự tu tám chi Thánh đạo, cũng dạy họ tu tám chi Thánh đạo; tự an trú pháp không bên trong, cũng dạy họ an trú pháp không bên trong; tự an trú pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng dạy họ an trú pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; tự an trú chân như, cũng dạy họ an trú chân như; tự an trú pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, cũng dạy họ an trú pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; tự an trú Thánh đế khổ, cũng dạy họ an trú Thánh đế khổ; tự an trú Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng dạy họ an trú Thánh đế tập, diệt, đạo; tự tu bốn Tĩnh lự, cũng dạy họ tu bốn Tĩnh lự; tự tu bốn Vô lượng, cũng dạy họ tu bốn Vô lượng, tự tu bốn Định vô sắc, cũng dạy họ tu bốn Định vô sắc; tự tu tám Giải thoát, cũng dạy họ tu tám Giải thoát; tự tu tám Thắng xứ, cũng dạy họ tu tám Thắng xứ; tự tu chín Định thứ đệ, cũng dạy họ tu chín Định thứ đệ; tự tu mười Biến xứ, cũng dạy họ tu mười Biến xứ; tự tu ba pháp môn giải thoát, cũng dạy họ tu ba pháp môn giải thoát; tự tu mười địa Bồ-tát, cũng dạy họ tu mười địa Bồ-tát; tự tu năm loại mắt, cũng dạy họ tu năm loại mắt; tự tu sáu phép thần thông, cũng dạy họ tu sáu phép thần thông; tự tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng dạy họ tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; tự tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng dạy họ tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; tự tu mười lực của Phật, cũng dạy họ tu mười lực của Phật; tự tu bốn sự hiểu biết thông suốt, cũng dạy họ tu bốn sự hiểu biết thông suốt; tự tu đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, cũng dạy họ tu đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; tự tu mười tám pháp Phật bất cộng, cũng dạy họ tu mười tám pháp Phật bất cộng; tự tu trí Nhất thiết, cũng dạy họ tu trí Nhất thiết; tự tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, cũng dạy họ tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; tự tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, cũng dạy họ tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tự đoạn tất cả phiền não, tập khí, cũng dạy họ đoạn tất cả phiền não, tập khí; tự chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng, cũng dạy họ chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thật hết sức kỳ diệu! Bạch Thiện Thệ, rất hy hữu! Đại Bồ-tát ấy thành tựu nhóm công đức lớn như thế là vì muốn đem lại lợi lạc cho tất cả hữu tình, tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, cầu chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã bala-mật-đa như thế nào để mau được viên mãn?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy sắc hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy nhãn xứ hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy sắc xứ hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy nhãn giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồtát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy nhĩ giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy tỷ giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy thiệt giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy thân giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy ý giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy địa giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy thủy, thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy vô minh hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy Bố thí bala-mật-đa hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy pháp không bên trong hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy chân như hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy Thánh đế khổ hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy bốn Tĩnh lự hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồtát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy tám Giải thoát hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy bốn Niệm trụ hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy pháp môn giải thoát Không hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy mười địa Bồ-tát hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy năm loại mắt hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy sáu phép thần thông hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy mười lực của Phật hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy pháp không quên mất hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy tánh luôn luôn xả hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồtát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy trí Nhất thiết hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy quả Dự lưu hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy quả vị Độc giác hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồtát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc tăng hoặc giảm thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Lại nữa này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thấy pháp đúng, chẳng thấy pháp sai, chẳng thấy hữu lậu, chẳng thấy vô lậu, chẳng thấy hữu vi, chẳng thấy vô vi, thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thấy quá khứ, chẳng thấy vị lai, chẳng thấy hiện tại, chẳng thấy thiện, chẳng thấy bất thiện, chẳng thấy vô ký, chẳng thấy Dục giới, chẳng thấy Sắc giới, chẳng thấy Vô sắc giới, thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thấy pháp không bên trong, chẳng thấy pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thấy chân như, chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thấy Thánh đế khổ, chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thấy bốn Niệm trụ chẳng thấy bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thấy bốn Tĩnh lự, chẳng thấy bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thấy tám Giải thoát chẳng thấy tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã bala-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thấy pháp môn giải thoát Không, chẳng thấy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thấy năm loại mắt chẳng thấy sáu phép thần thông thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-mađịa thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thấy pháp không quên mất, chẳng thấy tánh luôn luôn xả thì Đại Bồtát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thấy mười lực của Phật, chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thấy trí Nhất thiết, chẳng thấy trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tất cả các pháp vốn không có tánh, tướng, không có tác dụng, chẳng thể chuyển động, hư vọng giả dối, tánh chẳng chắc chắn, chẳng tự tại, không tri giác, không cảm thọ, xa lìa ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, sự sinh... cho đến cái biết, cái thấy.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, những điều Như Lai đã nói thật chẳng thể nghĩ bàn.

Phật bảo Thiện Hiện:

–Đúng vậy, đúng vậy! Những điều Như Lai đã nói thì chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì sắc chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì nhãn xứ chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì sắc xứ chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì nhãn giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì nhĩ giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì tỷ giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì thiệt giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì thân giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì ý giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì địa giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì thủy, thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì vô minh chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì Bố thí ba-la-mật-đa chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì pháp không bên trong chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì chân như chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì Thánh đế khổ chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì bốn Tĩnh lự chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì tám Giải thoát chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì bốn Niệm trụ chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì pháp môn giải thoát Không chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì mười địa Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn. Này Thiện Hiện, vì năm loại mắt chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì sáu phép thần thông chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì mười lực của Phật chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì pháp không quên mất chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì tánh luôn luôn xả chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì trí Nhất thiết chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì quả Dự lưu chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì quả vị Độc giác chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn. Này Thiện Hiện, vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, vì quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với sắc chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với nhãn xứ chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với sắc xứ chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với nhãn giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với nhĩ giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với tỷ giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với thiệt giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với thân giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với ý giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với địa giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với thủy, thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với vô minh chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

QUYỂN 301

Phẩm 39: CÔNG ĐỨC KHÓ LÃNH HỘI (5)

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với Bố thí ba-lamật-đa chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với pháp không bên trong chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với chân như chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với Thánh đế khổ chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với bốn Tĩnh lự chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với tám Giải thoát chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với bốn Niệm trụ chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với pháp môn giải thoát Không chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với mười địa Bồ-tát chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với năm loại mắt chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với sáu phép thần thông chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với mười lực của Phật chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với pháp không quên mất chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với tánh luôn luôn xả chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với trí Nhất thiết chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với quả Dự lưu chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với quả vị Độc giác chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn thì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa mau được viên mãn.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, nghĩa lý hết mực sâu xa, vậy thì ai có thể tin hiểu? Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nào từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu, thì Đại Bồ-tát ấy có thể tin hiểu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, làm thế nào để biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã vun trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt sắc, chẳng tư duy phân biệt thọ, tưởng, hành, thức; chẳng tư duy phân biệt tướng của sắc, chẳng tư duy phân biệt tướng của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng tư duy phân biệt tánh của sắc, chẳng tư duy phân biệt tánh của thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc cho đến thức chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt nhãn xứ, chẳng tư duy phân biệt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng tư duy phân biệt tướng của nhãn xứ, chẳng tư duy phân biệt tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng tư duy phân biệt tánh của nhãn xứ, chẳng tư duy phân biệt tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ cho đến ý xứ chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt sắc xứ, chẳng tư duy phân biệt thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng tư duy phân biệt tướng của sắc xứ, chẳng tư duy phân biệt tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng tư duy phân biệt tánh của sắc xứ, chẳng tư duy phân biệt tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì sắc xứ cho đến pháp xứ chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt nhãn giới, chẳng tư duy phân biệt sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; chẳng tư duy phân biệt tướng của nhãn giới, chẳng tư duy phân biệt tướng của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; chẳng tư duy phân biệt tánh của nhãn giới, chẳng tư duy phân biệt tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt nhĩ giới, chẳng tư duy phân biệt thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra; chẳng tư duy phân biệt tướng của nhĩ giới, chẳng tư duy phân biệt tướng của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra; chẳng tư duy phân biệt tánh của nhĩ giới, chẳng tư duy phân biệt tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt tỷ giới, chẳng tư duy phân biệt hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra; chẳng tư duy phân biệt tướng của tỷ giới, chẳng tư duy phân biệt tướng của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra; chẳng tư duy phân biệt tánh của tỷ giới, chẳng tư duy phân biệt tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt thiệt giới, chẳng tư duy phân biệt vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra; chẳng tư duy phân biệt tướng của thiệt giới, chẳng tư duy phân biệt tướng của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra; chẳng tư duy phân biệt tánh của thiệt giới, chẳng tư duy phân biệt tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt thân giới, chẳng tư duy phân biệt xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra; chẳng tư duy phân biệt tướng của thân giới, chẳng tư duy phân biệt tướng của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra; chẳng tư duy phân biệt tánh của thân giới, chẳng tư duy phân biệt tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt ý giới, chẳng tư duy phân biệt pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; chẳng tư duy phân biệt tướng của ý giới, chẳng tư duy phân biệt tướng của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; chẳng tư duy phân biệt tánh của ý giới, chẳng tư duy phân biệt tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt địa giới, chẳng tư duy phân biệt thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng tư duy phân biệt tướng của địa giới, chẳng tư duy phân biệt tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng tư duy phân biệt tánh của địa giới, chẳng tư duy phân biệt tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì địa giới cho đến thức giới chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt vô minh, chẳng tư duy phân biệt hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; chẳng tư duy phân biệt tướng của vô minh, chẳng tư duy phân biệt tướng của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não; chẳng tư duy phân biệt tánh của vô minh, chẳng tư duy phân biệt tánh của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não. Vì sao? Vì vô minh cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt Dục giới, chẳng tư duy phân biệt Sắc giới, Vô sắc giới; chẳng tư duy phân biệt tướng của Dục giới, chẳng tư duy phân biệt tướng của Sắc giới, Vô sắc giới; chẳng tư duy phân biệt tánh của Dục giới, chẳng tư duy phân biệt tánh của Sắc giới, Vô sắc giới. Vì sao? Vì Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng tư duy phân biệt tướng của Bố thí ba-la-mậtđa, chẳng tư duy phân biệt tướng của Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng tư duy phân biệt tánh của Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt tánh của Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mậtđa. Vì sao? Vì Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt pháp không bên trong, chẳng tư duy phân biệt pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng tư duy phân biệt tướng của pháp không bên trong, chẳng tư duy phân biệt tướng của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; chẳng tư duy phân biệt tánh của pháp không bên trong, chẳng tư duy phân biệt tánh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt chân như, chẳng tư duy phân biệt pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; chẳng tư duy phân biệt tướng của chân như, chẳng tư duy phân biệt tướng của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; chẳng tư duy phân biệt tánh của chân như, chẳng tư duy phân biệt tánh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt Thánh đế khổ, chẳng tư duy phân biệt Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng tư duy phân biệt tướng của Thánh đế khổ, chẳng tư duy phân biệt tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng tư duy phân biệt tánh của Thánh đế khổ, chẳng tư duy phân biệt tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt bốn Tĩnh lự, chẳng tư duy phân biệt bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chẳng tư duy phân biệt tướng của bốn Tĩnh lự, chẳng tư duy phân biệt tướng của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chẳng tư duy phân biệt tánh của bốn Tĩnh lự, chẳng tư duy phân biệt tánh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Vì sao? Vì bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt tám Giải thoát, chẳng tư duy phân biệt tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chẳng tư duy phân biệt tướng của tám Giải thoát, chẳng tư duy phân biệt tướng của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chẳng tư duy phân biệt tánh của tám Giải thoát, chẳng tư duy phân biệt tánh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Vì sao? Vì tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt bốn Niệm trụ, chẳng tư duy phân biệt bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chẳng tư duy phân biệt tướng của bốn Niệm trụ, chẳng tư duy phân biệt tướng của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; chẳng tư duy phân biệt tánh của bốn Niệm trụ, chẳng tư duy phân biệt tánh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Vì sao? Vì bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo chẳng thể nghĩ bàn. Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt pháp môn giải thoát Không, chẳng tư duy phân biệt pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chẳng tư duy phân biệt tướng của pháp môn giải thoát Không, chẳng tư duy phân biệt tướng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chẳng tư duy phân biệt tánh của pháp môn giải thoát Không, chẳng tư duy phân biệt tánh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt mười địa Bồ-tát; chẳng tư duy phân biệt tướng của mười địa Bồ-tát; chẳng tư duy phân biệt tánh của mười địa Bồ-tát. Vì sao? Vì mười địa Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt năm loại mắt, chẳng tư duy phân biệt sáu phép thần thông; chẳng tư duy phân biệt tướng của năm loại mắt, chẳng tư duy phân biệt tướng của sáu phép thần thông; chẳng tư duy phân biệt tánh của năm loại mắt, chẳng tư duy phân biệt tánh của sáu phép thần thông. Vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt mười lực của Phật, chẳng tư duy phân biệt bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng tư duy phân biệt tướng nơi mười lực của Phật, chẳng tư duy phân biệt tướng của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng tư duy phân biệt tánh nơi mười lực của Phật, chẳng tư duy phân biệt tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt pháp không quên mất, chẳng tư duy phân biệt tánh luôn luôn xả; chẳng tư duy phân biệt tướng của pháp không quên mất, chẳng tư duy phân biệt tướng của tánh luôn luôn xả; chẳng tư duy phân biệt tánh của pháp không quên mất, chẳng tư duy phân biệt tánh của tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt trí Nhất thiết, chẳng tư duy phân biệt trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; chẳng tư duy phân biệt tướng của trí Nhất thiết, chẳng tư duy phân biệt tướng của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; chẳng tư duy phân biệt tánh của trí Nhất thiết, chẳng tư duy phân biệt tánh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Vì trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng tư duy phân biệt tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng tư duy phân biệt tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng tư duy phân biệt tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng tư duy phân biệt tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng tư duy phân biệt tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt quả Dự lưu, chẳng tư duy phân biệt quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; chẳng tư duy phân biệt tướng của quả Dự lưu, chẳng tư duy phân biệt tướng của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; chẳng tư duy phân biệt tánh của quả Dự lưu, chẳng tư duy phân biệt tánh của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Vì sao? Vì quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt quả vị Độc giác, chẳng tư duy phân biệt tướng của quả vị Độc giác, chẳng tư duy phân biệt tánh của quả vị Độc giác. Vì sao? Vì quả vị Độc giác chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng tư duy phân biệt tướng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng tư duy phân biệt tánh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng tư duy phân biệt tướng của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng tư duy phân biệt tánh của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Vì quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều Đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy rất là sâu xa.

Phật dạy:

–Đúng vậy! Này Thiện Hiện, vì sắc sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì thọ, tưởng, hành, thức sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì nhãn xứ sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì sắc xứ sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì nhãn giới sâu xa nên Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì nhĩ giới sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì tỷ giới sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì thiệt giới sâu xa nên Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì thân giới sâu xa nên Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì ý giới sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì địa giới sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì vô minh sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì Bố thí ba-la-mật-đa sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì pháp không bên trong sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như sâu xa nên Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì Thánh đế khổ sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì Thánh đế tập, diệt, đạo sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì bốn Tĩnh lự sâu xa nên Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì tám Giải thoát sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ sâu xa nên Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì bốn Niệm trụ sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo sâu xa nên Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì pháp môn giải thoát Không sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì mười địa Bồ-tát sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì năm loại mắt sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì sáu phép thần thông sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì mười lực của Phật sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì pháp không quên mất sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì tánh luôn luôn xả sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì trí Nhất thiết sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì tất cả pháp môn Đà-la-ni sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa sâu xa nên Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì quả Dự lưu sâu xa nên Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa; vì quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì quả vị Độc giác sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật sâu xa nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Vì vậy nên gọi Bát-nhã ba-la-mật-đa là rất sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy là khối báu lớn.

Phật dạy:

–Đúng vậy! Vì Bát-nhã có khả năng ban cho hữu tình các thứ châu báu công đức.

Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu mười nẻo nghiệp thiện, bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, năm Thần thông.

Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy, có khả năng ban cho hữu tình pháp báu pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy, có khả năng ban cho hữu tình pháp báu chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, các Thánh đế.

Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy, có khả năng ban cho hữu tình pháp báu tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.

Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy, có khả năng ban cho hữu tình pháp báu bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo.

Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy, có khả năng ban cho hữu tình pháp báu pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện.

Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy, có khả năng ban cho hữu tình pháp báu mười địa Bồ-tát.

Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy, có khả năng ban cho hữu tình pháp báu năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy, có khả năng ban cho hữu tình pháp báu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy, có khả năng ban cho hữu tình pháp báu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy, có khả năng ban cho hữu tình pháp báu trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.

Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy, có khả năng ban cho hữu tình pháp báu tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy, có khả năng ban cho hữu tình pháp báu quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy, có khả năng ban cho hữu tình pháp báu quả vị Độc giác.

Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy, có khả năng ban cho hữu tình pháp báu tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện, khối châu báu lớn Bát-nhã bala-mật-đa như vậy, có khả năng ban cho hữu tình pháp báu quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.

Vì vậy nên gọi Bát-nhã ba-la-mật-đa là khối báu lớn.

QUYỂN 302

Phẩm 39: CÔNG ĐỨC KHÓ LÃNH HỘI (6)

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy là một tập hợp của sự thanh tịnh.

Phật dạy:

–Đúng vậy! Này Thiện Hiện, vì sắc thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì nhãn xứ thanh tịnh nên Bátnhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì sắc xứ thanh tịnh nên Bátnhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì nhãn giới thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra thanh tịnh nên Bát-nhã ba-lamật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì nhĩ giới thanh tịnh nên Bátnhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì tỷ giới thanh tịnh nên Bátnhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì thiệt giới thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì thân giới thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì ý giới thanh tịnh nên Bátnhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì địa giới thanh tịnh nên Bátnhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mậtđa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì vô minh thanh tịnh nên Bátnhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì Bố thí ba-la-mật-đa thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì pháp không bên trong thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì chân như thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì Thánh đế khổ thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì bốn Tĩnh lự thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mậtđa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì tám Giải thoát thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì bốn Niệm trụ thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo thanh tịnh nên Bátnhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì pháp môn giải thoát Không thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì mười địa Bồ-tát thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì năm loại mắt thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sáu phép thần thông thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì mười lực của Phật thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì pháp không quên mất thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tánh luôn luôn xả thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì trí Nhất thiết thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thanh tịnh nên Bát-nhã ba-lamật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh nên Bátnhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì quả Dự lưu thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán thanh tịnh nên Bát-nhã ba-lamật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì quả vị Độc giác thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, vì quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Vì vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa được gọi là một tập hợp của sự thanh tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, rất kỳ diệu, đặc biệt! Bạch Thiện Thệ, rất hy hữu! Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy vì rất sâu xa nên có nhiều trở ngại, nhưng nay đã rộng nói thì trở ngại chẳng sinh. Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy! Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa có nhiều trở ngại, nhưng nhờ thần lực Phật, nên nay rộng nói mà trở ngại chẳng sinh. Vì vậy, các thiện nam, thiện nữ tu học pháp Đại thừa, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này, nếu muốn sao chép thì nên sao chép ngay; nếu muốn đọc tụng thì nên đọc tụng ngay; nếu muốn thọ trì thì nên thọ trì ngay; nếu muốn tu tập thì nên tu tập ngay; nếu muốn tư duy thì nên tư duy ngay; nếu muốn tuyên thuyết thì nên tuyên thuyết ngay.

Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có nhiều trở ngại nên chớ trì trệ để sự trở ngại phát khởi, khiến người sao chép, đọc tụng, thọ trì, tu tập, tư duy, vì người diễn nói chẳng được rốt ráo.

Này Thiện Hiện, các thiện nam, thiện nữ ấy, nếu muốn, trong một tháng, hoặc hai, ba, bốn, năm, hoặc sáu, bảy tháng cho đến một năm, sao chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy được rốt ráo, phải nên siêng năng tinh tấn, gắn chặt tâm niệm vào việc sao chép kinh trong suốt thời gian ấy, thì sự việc mới đạt rốt ráo.

Này Thiện Hiện, các thiện nam, thiện nữ ấy, nếu muốn, trong một tháng, hoặc hai, ba, bốn, năm, hoặc sáu, bảy tháng cho đến một năm, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói, để đạt được cứu cánh, phải nên chuyên cần tinh tấn, gắn chặt tâm niệm vào việc thọ trì cho đến tuyên thuyết suốt thời gian ấy, thì sự việc mới đạt được rốt ráo. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa ấy là châu báu vô giá, có nhiều trở ngại.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, rất kỳ diệu! Bạch Thiện Thệ, rất hy hữu! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là châu báu vô giá, có nhiều trở ngại ấy, có người sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói; hẳn là có ác ma, đối với người ấy muốn gây trở ngại khiến không sao chép... cho đến diễn nói được.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, ác ma đối với Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa này, tuy muốn gây trở ngại khiến không thể sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói được nhưng chúng không đủ sức có thể làm trở ngại cho việc sao chép, thọ trì, Bátnhã của Đại Bồ-tát ấy.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, do thần lực của ai mà khiến cho ác ma kia không thể gây trở ngại đối với các Đại Bồ-tát trong việc sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử, do thần lực của Phật nên khiến cho ác ma kia chẳng thể làm trở ngại đối với các Đại Bồ-tát trong việc sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa Xá-lợi Tử, cũng do thần lực của tất cả chư Phật trong mười phương thế giới khiến ác ma kia chẳng thể làm trở ngại đối với các Đại Bồ-tát sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa Xá-lợi Tử, vì chư Phật Thế Tôn đều cùng hộ niệm các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, khiến ác ma kia chẳng thể làm trở ngại tất cả chúng Đại Bồ-tát, khiến chẳng thể sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, vì người rộng nói Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì chư Phật Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, tạo các nghiệp thiện khiến cho ác ma kia chẳng thể làm trở ngại.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói thì như thế đáng được vô lượng, vô số, vô biên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp trong mười phương thế giới hộ niệm. Nếu được chư Phật hộ niệm thì đương nhiên ác ma chẳng thể gây trở ngại.

Này Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thường sao chép thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói, nên suy nghĩ thế này: “Ta nay sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người rộng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đều được thần lực của vô lượng, vô số, vô biên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp trong mười phương hộ niệm.”

Khi ấy, Xá-lợi Tử lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu thiện nam, thiện nữ nào, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói, tất thảy đều được thần lực của chư Phật Như Lai trong mười phương thế giới hộ niệm, khiến cho nghiệp thiện thù thắng của kẻ ấy tạo được, tất cả ác ma chẳng thể gây trở ngại. Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Này Xá-lợi Tử, nếu thiện nam, thiện nữ, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói, nên biết đều nhờ thần lực của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hộ niệm.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu thiện nam, thiện nữ nào, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói, đều được vô lượng, vô số, vô biên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp trong mười phương thế giới biết đến là thiện nam, thiện nữ ấy đã sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; do nhân duyên này mà hoan hỷ hộ niệm.

–Bạch Thế Tôn, nếu các thiện nam, thiện nữ, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói, thì các thiện nam, thiện nữ ấy luôn được Phật nhãn của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đang thuyết pháp ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương xem thấy; do nhân duyên này mà từ bi hộ niệm.

Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Này Xá-lợi Tử, nếu thiện nam, thiện nữ nào sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì thiện nam, thiện nữ ấy, thường được Phật nhãn của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương xem thấy, biết đến, hộ niệm, khiến cho các ác ma chẳng thể gây trở ngại, các nghiệp thiện đang tu mau được thành tựu.

Này Xá-lợi Tử, các thiện nam, thiện nữ an trú Bồ-tát thừa, nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói, nên biết thiện nam, thiện nữ ấy, đã gần đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột; các ác ma tất sợ hãi, chẳng dám gây trở ngại.

Lại nữa Xá-lợi Tử, các thiện nam, thiện nữ an trú Bồ-tát thừa, nếu thường sao chép Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, dùng đủ thứ để trang nghiêm, thọ trì, đọc tụng, nên biết thiện nam, thiện nữ ấy, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này, phát sinh lòng tin hiểu sâu xa. Nếu lại đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, dùng các loại hương hoa, cờ phướn, lọng báu, y phục, chuỗi báu, nhạc hay, đèn đuốc, cung kính, cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nên biết thiện nam, thiện nữ ấy, thường được Phật nhãn của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xem thấy, biết được, hộ niệm; do nhân duyên ấy nhất định sẽ đạt được tài sản lớn, thắng lợi và thành quả lớn.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy vì thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, cung kính, cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên do căn lành này mà cho đến khi đạt được địa vị không thoái chuyển, ở trong khoảng ấy, thường chẳng xa lìa Phật, chẳng đọa vào nẻo ác.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa Bố thí ba-la-mật-đa, thường chẳng xa lìa Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy do căn lành này cho đến khi đắc quả giác ngộ cao tột, thường chẳng xa lìa pháp không bên trong, thường chẳng xa lìa pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa chân như, thường chẳng xa lìa pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa Thánh đế khổ, thường chẳng xa lìa Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa bốn Tĩnh lự, thường chẳng xa lìa bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa tám Giải thoát, thường chẳng xa lìa tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa bốn Niệm trụ, thường chẳng xa lìa bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa năm loại mắt, thường chẳng xa lìa sáu phép thần thông.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa mười lực của Phật, thường chẳng xa lìa bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa pháp không quên mất, thường chẳng xa lìa tánh luôn luôn xả.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa trí Nhất thiết, thường chẳng xa lìa trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, thường chẳng xa lìa tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa quả Dự lưu, thường chẳng xa lìa quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa quả vị Độc giác.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa thần thông diệu dụng tự tại của Đại Bồ-tát từ cõi Phật này, đến cõi Phật khác cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn và các chúng Đại Bồ-tát.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thường chẳng xa lìa việc làm nghiêm tịnh cõi Phật, đem lại sự thành tựu trọn vẹn cho hữu tình.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thường chẳng xa lìa thần thông tự tại, du hóa các cõi Phật, khuyến thỉnh chư Phật chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng.

Này Xá-lợi Tử, do nhân duyên này, các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ-tát thừa, đối với Bát-nhã bala-mật-đa này, nên siêng năng sao chép, thọ trì đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người rộng nói.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, sau khi Phật diệt độ, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa sẽ hưng thịnh ở phương nào? Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử, sau khi Ta diệt độ, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa sẽ đến phương Đông nam, dần dần hưng thạnh. Phương ấy sẽ có các Bí-sô, Bísô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ trụ Bồ-tát thừa, đối với Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy phát sinh tâm tin hiểu sâu xa, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói; lại dùng các thứ tràng hoa thượng diệu, các loại hương xoa, hương bột, y phục, chuỗi báu, cờ phướn, lọng báu, nhạc hay, đèn đuốc, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã bala-mật-đa như vậy. Do những căn lành thù thắng như thế, nên họ hoàn toàn chẳng bị đọa vào các nẻo hiểm ác, thường sinh nơi cõi trời, người được hưởng giàu sang, an lạc; do thế lực này, sáu pháp Ba-la-mật-đa tăng thêm lợi ích, khiến mau viên mãn. Nhân đó lại thêm cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi chư Phật Thế Tôn, về sau tùy theo sự thích hợp, nương theo pháp của ba thừa, lần lượt tu tập hạnh giải thoát.

Này Xá-lợi Tử, sau khi Ta diệt độ, Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, từ phương Đông nam chuyển đến phương Nam, sẽ dần dần hưng thạnh. Ở phương đó sẽ có Bí-sô, Bí-sô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ trụ Bồ-tát thừa, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thường sinh sự tin hiểu sâu xa, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói. Lại dùng các thứ tràng hoa thượng diệu, các loại hương xoa, hương bột, y phục, chuỗi báu, cờ phướn, lọng báu, nhạc hay, đèn đuốc, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy. Do các căn lành thù thắng ấy nên họ hoàn toàn chẳng bị đọa vào các nẻo hiểm ác, thường sinh vào cõi trời, người hưởng thọ giàu sang, an lạc; do diệu lực ấy, sáu pháp Ba-la-mật-đa tăng thêm lợi ích, khiến mau được viên mãn. Nhân đó lại thường cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi chư Phật Thế Tôn. Về sau tùy theo sự thích hợp, nương nơi pháp của ba thừa, lần lượt tu tập hạnh giải thoát.

Này Xá-lợi Tử, sau khi Ta diệt độ, Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, từ phương Nam đến phương Tây nam, sẽ dần dần hưng thạnh. Ở phương đó sẽ có Bí-sô, Bí-sô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ trụ Bồ-tát thừa, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thường sinh sự tin hiểu sâu xa, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói. Lại dùng các thứ tràng hoa thượng diệu, các loại hương xoa, hương bột, y phục, chuỗi báu, cờ phướn, lọng báu, nhạc hay, đèn đuốc, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy. Do các căn lành thù thắng ấy nên họ hoàn toàn chẳng bị đọa vào các nẻo hiểm ác, thường sinh vào cõi trời, người thọ hưởng giàu sang, an lạc; do diệu lực ấy, sáu pháp Ba-la-mật-đa tăng thêm lợi ích, khiến mau được viên mãn. Nhân đó lại thường cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi chư Phật Thế Tôn. Về sau tùy theo sự thích hợp, nương nơi pháp của ba thừa, lần lượt tu tập hạnh giải thoát.

Này Xá-lợi Tử, sau khi Ta diệt độ, Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, từ phương Tây nam đến phương Tây bắc, sẽ dần dần hưng thạnh. Ở phương đó sẽ có Bí-sô, Bí-sô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ trụ Bồ-tát thừa, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thường sinh sự tin hiểu sâu xa, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói. Lại dùng các thứ tràng hoa thượng diệu, các loại hương xoa, hương bột, y phục, chuỗi báu, cờ phướn, lọng báu, nhạc hay, đèn đuốc, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy. Do các căn lành thù thắng ấy nên họ hoàn toàn chẳng bị đọa vào các nẻo hiểm ác, thường sinh vào cõi trời, người hưởng thọ giàu sang, an lạc; do diệu lực ấy, sáu pháp Ba-la-mật-đa tăng thêm lợi ích, khiến mau được viên mãn. Nhân đó lại thường cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi chư Phật Thế Tôn. Về sau tùy theo sự thích hợp, nương nơi pháp của ba thừa, lần lượt tu tập hạnh giải thoát.

Này Xá-lợi Tử, sau khi Ta diệt độ, Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, từ phương Tây bắc đến phương Bắc, sẽ dần dần hưng thạnh. Ở phương đó sẽ có Bí-sô, Bí-sô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ trụ Bồ-tát thừa, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thường sinh sự tin hiểu sâu xa, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói. Lại dùng các thứ tràng hoa thượng diệu, các loại hương xoa, hương bột, y phục, chuỗi báu, cờ phướn, lọng báu, nhạc hay, đèn đuốc, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy. Do các căn lành thù thắng ấy nên họ hoàn toàn chẳng bị đọa vào các nẻo hiểm ác, thường sinh vào cõi trời, người hưởng thọ giàu sang, an lạc; do diệu lực ấy, sáu pháp Ba-la-mật-đa tăng thêm lợi ích, khiến mau được viên mãn. Nhân đó lại thường cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi chư Phật Thế Tôn. Về sau tùy theo sự thích hợp, nương nơi pháp của ba thừa, lần lượt tu tập hạnh giải thoát.

Này Xá-lợi Tử, sau khi Ta diệt độ, Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, từ phương Bắc đến phương Đông bắc, sẽ dần dần hưng thạnh. Ở phương đó sẽ có Bísô, Bí-sô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ trụ Bồ-tát thừa, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thường sinh sự tin hiểu sâu xa, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói. Lại dùng các thứ tràng hoa thượng diệu, các loại hương xoa, hương bột, y phục, chuỗi báu, cờ phướn, lọng báu, nhạc hay, đèn đuốc, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy. Do các căn lành thù thắng ấy nên họ hoàn toàn chẳng bị đọa vào các nẻo hiểm ác, thường sinh vào cõi trời, người hưởng thọ giàu sang, an lạc; do diệu lực ấy, sáu pháp Ba-la-mật-đa tăng thêm lợi ích, khiến mau được viên mãn. Nhân đó lại thường cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi chư Phật Thế Tôn. Về sau tùy theo sự thích hợp, nương nơi pháp của ba thừa, lần lượt tu tập hạnh giải thoát.

Này Xá-lợi Tử, sau khi Ta diệt độ, vào thời kỳ sau cùng của năm trăm năm sau, Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa ở phương Đông bắc, sẽ đảm đương Phật sự lớn lao. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì pháp mà tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác luôn tôn trọng là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bát-nhã ba-la-mậtđa như vậy, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều cùng hộ niệm.

Này Xá-lợi Tử, pháp nào chẳng phải là Chánh pháp luật vô thượng mà Phật chứng đắc thì có tướng diệt mất. Còn Chánh pháp luật vô thượng, pháp mà chư Phật chứng đắc, tức là Bát-nhã bala-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở phương Đông bắc ấy, nếu thường đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này, tìm hiểu, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói, thì ta thường hộ niệm các thiện nam, thiện nữ ấy, khiến không bị não hại.

Này Xá-lợi Tử, các thiện nam, thiện nữ ở phương Đông bắc ấy, nếu thường sao chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, lại dùng các loại tràng hoa thượng diệu, hương xoa, hương bột, y phục, chuỗi báu, cờ phướn, lọng báu, nhạc hay đèn đuốc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa thì Ta nói nhất định các thiện nam, thiện nữ ấy do căn lành này, rốt ráo chẳng đọa vào các nẻo hiểm ác, thường sinh nơi cõi trời, người thường thọ hưởng niềm an lạc, và do diệu lực ấy, sáu pháp Ba-la-mật-đa tăng thêm lợi ích, nhân đấy, lại cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn, về sau, tùy theo sự thích hợp, nương nơi pháp của ba thừa, dần dần tu tập, rồi nhập Niết-bàn. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì Ta dùng Phật nhãn, xem thấy, chứng biết, nên xưng dương tán thán công đức đạt được của thiện nam, thiện nữ ấy. Tất cả Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác an ổn trú trì, hiện đang thuyết pháp ở các phương Đông, Nam, Tây, Bắc, bốn hướng trên dưới, trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới, cũng dùng Phật nhãn xem thấy, chứng biết, xưng dương tán thán công đức đã đạt được của thiện nam, thiện nữ ấy.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, sau khi Phật diệt độ, thời kỳ sau của năm trăm năm sau, ở phương Đông bắc có lưu bố rộng rãi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chăng? Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Sau khi Ta diệt độ, vào thời kỳ sau cùng của năm trăm năm sau, ở phương Đông bắc sẽ lưu hành rộng rãi Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử, sau khi Ta diệt độ, vào thời kỳ sau cùng của năm trăm năm sau, ở phương Đông bắc, các thiện nam, thiện nữ nếu thường nghe Bátnhã ba-la-mật-đa thâm diệu này, phát sinh sự tin hiểu sâu xa, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói, nên biết thiện nam, thiện nữ ấy từ lâu đã phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, từ lâu đã tu hạnh Đại Bồ-tát, cúng dường nhiều Đức Phật, phụng sự nhiều thiện hữu, căn lành gieo trồng đều đã thành thục. Do phước lực ấy được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu như thế, phát sinh sự tin hiểu sâu xa. Lại thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người rộng nói.

Xá-lợi Tử lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, sau khi Phật diệt độ, vào thời kỳ sau cùng của năm trăm năm sau, ở phương Đông bắc, sẽ có bao nhiêu thiện nam, thiện nữ trụ Bồ-tát thừa được nghe và phát sinh sự tin hiểu sâu xa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu như thế và lại thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người rộng nói?

Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử, sau khi Ta diệt độ, vào thời kỳ sau cùng của năm trăm năm sau, ở phương Đông bắc, tuy có vô lượng thiện nam, thiện nữ trụ Bồ-tát thừa, nhưng ít người được nghe và phát sinh sự tin hiểu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà tâm họ chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, cũng không âu lo, và thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người rộng nói.

Này Xá-lợi Tử, các thiện nam, thiện nữ ấy nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa này, tâm họ chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, cũng không lo âu, phát sinh sự tin hiểu sâu xa, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói rất là hy hữu. Vì sao? Này Xálợi Tử, vì thiện nam, thiện nữ ấy đã từng thân cận cúng dường, tôn trọng ngợi khen vô lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng Đại Bồ-tát, thưa hỏi ý nghĩa tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu như thế.

Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn Bố thí ba-la-mậtđa, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn pháp không bên trong, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn chân như, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn Thánh đế khổ, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn bốn Tĩnh lự, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn tám Giải thoát, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn bốn Niệm trụ, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn năm loại mắt, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn sáu phép thần thông.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn mười lực của Phật, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn pháp không quên mất, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn tánh luôn luôn xả.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn trí Nhất thiết, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, do căn lành này cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng bao lâu nhất định sẽ tu tập viên mãn quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Xá-lợi Tử, vì thiện nam, thiện nữ ấy được tất cả Như Lai hộ niệm; vì được vô lượng thiện hữu nhiếp thọ, vì được căn lành thù thắng trụ trì, vì muốn làm lợi ích cho nhiều chúng sinh nên cầu đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, do Ta thường vì các thiện nam, thiện nữ ấy nói pháp tương ưng với trí Nhất thiết trí, các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ cũng thường vì các thiện nam, thiện nữ ấy nói pháp tương ưng với trí Nhất thiết trí. Do nhân duyên này, thiện nam, thiện nữ ấy đời sau, lại sẽ cầu đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột, cũng sẽ vì người nói pháp tương ưng như vậy, khiến đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, thân tâm an định, các Ma vương xấu ác và quyến thuộc của chúng còn chẳng thể phá hoại được tâm cầu đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột kia, huống là những kẻ ưa làm ác khác, muốn hủy báng Bát-nhã ba-lamật-đa, lại có thể cản trở tâm của các thiện nam, thiện nữ ấy khiến họ chẳng cầu đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Xá-lợi Tử, các thiện nam, thiện nữ tu học pháp Đại thừa ấy nghe ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, tâm đạt được sự hỷ lạc của pháp mầu rộng lớn, cũng có khả năng an lập cho vô lượng chúng sinh ở pháp thiện thù thắng, khiến đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy nay ở trước Ta phát thệ nguyện rộng lớn: Ta sẽ an lập cho vô lượng trăm ngàn ức các loại hữu tình, khiến phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, tu các hạnh Đại Bồ-tát, thị hiện, dẫn dắt, khuyến khích, chúc mừng, đối với quả vị Giác ngộ cao tột, cho đến khiến đạt được sự thọ ký quả vị không thoái chuyển.

Này Xá-lợi Tử, đối với thệ nguyện kia, ta rất tùy hỷ. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, Ta quán sự phát nguyện rộng lớn của thiện nam, thiện nữ trụ Bồ-tát thừa như thế, tâm và lời tương ưng. Thiện nam, thiện nữ ấy, vào đời sau, nhất định có khả năng an lập cho vô lượng trăm ngàn ức các loại hữu tình, khiến phát tâm đạt quả vị Giác ngộ cao tột, tu các hạnh Đại Bồ-tát, thị hiện, dẫn dắt, khuyến khích, chúc mừng, đối với quả vị Giác ngộ cao tột, cho đến khiến đạt được sự thọ ký quả vị không thoái chuyển.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy cũng ở trước vô lượng Đức Phật trong quá khứ phát thệ nguyện rộng lớn: Ta sẽ an lập cho vô lượng trăm ngàn ức các loại hữu tình, khiến phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, tu các hạnh Đại Bồ-tát, thị hiện, dẫn dắt, khuyến khích, chúc mừng, đối với quả vị Giác ngộ cao tột, cho đến khiến đạt được sự thọ ký quả vị không thoái chuyển.

Này Xá-lợi Tử, đối với thệ nguyện kia, chư Phật quá khứ cũng rất tùy hỷ. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, chư Phật quá khứ quán sự phát nguyện rộng lớn của thiện nam, thiện nữ trụ Bồ-tát thừa như thế, tâm và lời tương ưng. Thiện nam, thiện nữ ấy, vào thời vị lai, nhất định có khả năng an lập cho vô lượng trăm ngàn ức các loại hữu tình, khiến phát tâm đạt quả vị Giác ngộ cao tột, tu các hạnh Đại Bồ-tát, thị hiện, dẫn dắt, khuyến khích, chúc mừng, đối với quả vị Giác ngộ cao tột, cho đến khiến cho được thọ ký quả vị không thoái chuyển.

Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy tin hiểu rộng lớn; thường nương vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ diệu, tu bố thí rộng lớn; tu bố thí này rồi, lại thường gieo trồng căn lành rộng lớn. Nhân căn lành này, thường gặt hái quả báo rộng lớn như thế rồi chuyên vì đem lại lợi lạc cho tất cả hữu tình, đối với các hữu tình thường xả bỏ tất cả sở hữu của pháp bên trong, bên ngoài. Họ hồi hướng căn lành đã gieo trồng, nguyện sinh vào cõi nước chư Phật ở phương khác hiện có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đang tuyên thuyết pháp xứ vô thượng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế. Họ nghe pháp vô thượng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy rồi, lại thường ở trong cõi Phật ấy an lập cho vô lượng trăm ngàn ức các loại hữu tình, khiến phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, tu các hạnh Đại Bồ-tát, thị hiện, dẫn dắt, khuyến khích, chúc mừng, khiến họ đối với quả vị Giác ngộ cao tột được không thoái chuyển.

Khi ấy, Xá-lợi Tử lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, rất kỳ diệu! Bạch Thiện Thệ, rất hy hữu! Phật đối với các pháp sở hữu ở quá khứ, vị lai và hiện tại, không có pháp nào là không chứng biết; đối với tất cả pháp chân như, pháp giới, pháp tánh... không có pháp nào là chẳng chứng biết; đối với các giáo pháp, không có pháp nào là chẳng chứng biết; đối với tâm hành sai biệt của các hữu tình, không có tâm hành nào là chẳng chứng biết; đối với Phật, Bồ-tát, Thanh văn và cõi Phật ở quá khứ... đều chứng biết hết; đối với Phật, Bồ-tát, Thanh văn và cõi Phật vị lai đều chứng biết hết; đối với Phật, Bồ-tát, Thanh văn và cõi Phật hiện tại đều chứng biết hết; đối với tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và pháp đã diễn nói, Bồ-tát, Thanh văn và cõi Phật... các việc trong mười phương thế giới đều chứng biết hết.

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát đối với sáu pháp Ba-la-mật-đa, dũng mãnh, tinh tấn, luôn cầu không dừng nghỉ, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với sáu pháp Bala-mật-đa này có khi chứng đắc, có khi chẳng chứng đắc phải không?

Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ ấy, đối với sáu pháp Ba-la-mật-đa này luôn luôn dũng mãnh, tinh tấn, ưa cầu không dừng nghỉ, thì khi nào cũng chứng đắc, không có khi nào là chẳng chứng đắc. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì thiện nam, thiện nữ ấy đối với sáu pháp Ba-la-mật-đa này luôn luôn dũng mãnh, tinh tấn, ưa cầu không dừng nghỉ, thì chư Phật, Bồ-tát thường hộ niệm.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thiện nam, thiện nữ ấy, nếu khi chẳng chứng đắc kinh tương ưng với sáu pháp Bala-mật-đa thì như thế, sao có thể nói là họ đắc sáu pháp Ba-la-mật-đa này?

Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử, thiện nam, thiện nữ kia, đối với sáu pháp Ba-la-mật-đa ấy luôn luôn dũng mãnh tin cầu, chẳng hề tiếc đến thân mạng mà có khi chẳng chứng đắc kinh tương ưng này thì đó là điều không thể xảy ra. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì thiện nam, thiện nữ kia vì dốc cầu quả vị Giác ngộ cao tột mà thị hiện, dẫn dắt, khuyến khích, chúc mừng các loại hữu tình, khiến họ đối với kinh điển tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa này, thọ trì, đọc tụng, tu học. Do căn lành ấy, tùy theo chỗ sinh ra, thường có được khế kinh tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa này để thọ trì, đọc tụng, dũng mãnh, tinh tấn, tu hành đúng theo giáo pháp, tạo được sự thành tựu trọn vẹn cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.


Trước

[Đầu trang][Mục lục Kinh Đại Bát Nhã]

Tiếp theo


[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]


[Mục lục tổng quát]