SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

HỘI THỨ I

Phẩm 50: PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO
(QUYỂN 328 - 330)

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.

QUYỂN 328

QUYỂN 329

QUYỂN 330


QUYỂN 328

Phẩm 50: PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO (1)

Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển ấy đã thành tựu nhóm công đức rộng lớn thù thắng.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển ấy đã thành tựu nhóm công đức vô lượng thù thắng.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển ấy đã thành tựu nhóm công đức vô biên thù thắng.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển ấy đã thành tựu nhóm công đức vô số chẳng thể nghĩ bàn.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như ông đã nói! Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển ấy đã thành tựu nhóm công đức thù thắng, rộng lớn, vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm, khó nghĩ bàn. Vì sao?

Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy đã chứng đắc trí rộng lớn, vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm, khó nghĩ bàn, khác với trí của hàng Thanh văn và Độc giác. Đại Bồ-tát ấy an trú trong trí này, biểu hiện bốn sự hiểu biết thông suốt thù thắng đó mà Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian không có thể vấn nạn, khiến cho trí tuệ biện tài của Bồ-tát ấy đạt đến chỗ cùng tận.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, có thể nói về các hành, dạng, tướng của Đại Bồ-tát không thoái chuyển trong cả hằng hà sa kiếp. Do sự trình bày các hành, dạng, tướng này mà làm rõ sự thành tựu các loại công đức thù thắng của Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển. Cúi xin Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác lại vì Bồ-tát mà giảng nói về chỗ sâu xa, khiến các Bồ-tát an trú trong đó có thể tu Bố thí ba-la-mật-đa mau được viên mãn, có thể tu Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa để mau được viên mãn; có thể an trú nơi pháp không bên trong để mau được viên mãn, có thể an trú nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh để mau được viên mãn; có thể an trú nơi chân như để mau được viên mãn, có thể an trú nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn để mau được viên mãn; có thể tu bốn Niệm trụ để mau được viên mãn, có thể tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo để mau được viên mãn; có thể an trú nơi Thánh đế khổ để mau được viên mãn, có thể an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo để mau được viên mãn; có thể tu bốn Tĩnh lự để mau được viên mãn, có thể tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc để mau được viên mãn; có thể tu tám Giải thoát để mau được viên mãn, có thể tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ để mau được viên mãn; có thể tu pháp môn giải thoát Không để mau được viên mãn, có thể tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện để mau được viên mãn; có thể tu bậc Cực hỷ để mau được viên mãn, có thể tu bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân để mau được viên mãn; có thể tu năm loại mắt để mau được viên mãn, có thể tu sáu phép thần thông để mau được viên mãn; có thể tu pháp môn Tamma-địa để mau được viên mãn, có thể tu pháp môn Đà-la-ni để mau được viên mãn; có thể tu mười lực của Phật để mau được viên mãn, có thể tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng để mau được viên mãn; có thể tu pháp không quên mất để mau được viên mãn, có thể tu tánh luôn luôn xả để mau được viên mãn; có thể tu trí Nhất thiết để mau được viên mãn, có thể tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng để mau được viên mãn. Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, hay thay, hay thay! Nay ông đã có thể vì các Bồ-tát mà hỏi chỗ sâu xa, khiến các Bồ-tát an trú trong ấy, tu tập, an trú nơi công đức mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, chỗ sâu xa đó là không, vô tướng, vô nguyện, không tác, không sinh, không diệt, tịch tĩnh, Niết-bàn, chân như, pháp giới, pháp tánh, thật tế, các pháp như thế là chỗ sâu xa.

Này Thiện Hiện, tên của chỗ sâu xa đã nói như vậy đều nhằm chỉ rõ Niết-bàn là chỗ sâu xa.

Khi ấy Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, có phải chỉ có Niết-bàn mới gọi là sâu xa hay còn các pháp khác cũng gọi là sâu xa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, tất cả các pháp khác cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, sắc cũng gọi là sâu xa, thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, nhãn xứ cũng gọi là sâu xa, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, sắc xứ cũng gọi là sâu xa, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, nhãn giới cũng gọi là sâu xa, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, sắc giới cũng gọi là sâu xa, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng gọi là sâu xa. Này Thiện Hiện, nhãn thức giới cũng gọi là sâu xa, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, nhãn xúc cũng gọi là sâu xa, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng gọi là sâu xa, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, địa giới cũng gọi là sâu xa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, vô minh cũng gọi là sâu xa, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, Bố thí ba-la-mật-đa cũng gọi là sâu xa, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, pháp không bên trong cũng gọi là sâu xa, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, chân như cũng gọi là sâu xa, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, bốn Niệm trụ cũng gọi là sâu xa, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, Thánh đế khổ cũng gọi là sâu xa, Thánh đế tập, diệt, đạo cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, bốn Tĩnh lự cũng gọi là sâu xa, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, tám Giải thoát cũng gọi là sâu xa, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, pháp môn giải thoát Không cũng gọi là sâu xa, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, bậc Cực hỷ cũng gọi là sâu xa, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, năm loại mắt cũng gọi là sâu xa, sáu phép thần thông cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, pháp môn Tam-ma-địa cũng gọi là sâu xa, pháp môn Đà-la-ni cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, mười lực của Phật cũng gọi là sâu xa, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, pháp không quên mất cũng gọi là sâu xa, tánh luôn luôn xả cũng gọi là sâu xa. Này Thiện Hiện, quả Dự lưu cũng gọi là sâu xa, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, quả vị Độc giác cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, trí Nhất thiết cũng gọi là sâu xa, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, tất cả hạnh Đại Bồ-tát cũng gọi là sâu xa.

Này Thiện Hiện, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng gọi là sâu xa.

Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, vì sao sắc cũng gọi là sâu xa? Vì sao thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao nhãn xứ cũng gọi là sâu xa? Vì sao nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao sắc xứ cũng gọi là sâu xa? Vì sao thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao nhãn giới cũng gọi là sâu xa? Vì sao nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao sắc giới cũng gọi là sâu xa? Vì sao thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao nhãn thức giới cũng gọi là sâu xa? Vì sao nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao nhãn xúc cũng gọi là sâu xa? Vì sao nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng gọi là sâu xa? Vì sao các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao địa giới cũng gọi là sâu xa? Vì sao thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao vô minh cũng gọi là sâu xa? Vì sao hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao Bố thí ba-la-mật-đa cũng gọi là sâu xa? Vì sao Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao pháp không bên trong cũng gọi là sâu xa? Vì sao pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của cũng gọi là sâu xa? Vì sao pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao bốn Niệm trụ cũng gọi là sâu xa? Vì sao bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao Thánh đế khổ cũng gọi là sâu xa? Vì sao Thánh đế tập, diệt, đạo cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao bốn Tĩnh lự cũng gọi là sâu xa? Vì sao bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao tám Giải thoát cũng gọi là sâu xa? Vì sao tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao pháp môn giải thoát Không cũng gọi là sâu xa? Vì sao pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao bậc Cực hỷ cũng gọi là sâu xa? Vì sao bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao năm loại mắt cũng gọi là sâu xa? Vì sao sáu phép thần thông cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao pháp môn Tam-ma-địa cũng gọi là sâu xa? Vì sao pháp môn Đà-la-ni cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao mười lực của Phật cũng gọi là sâu xa? Vì sao bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao pháp không quên mất cũng gọi là sâu xa? Vì sao tánh luôn luôn xả cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao quả Dự lưu cũng gọi là sâu xa? Vì sao quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao quả vị Độc giác cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao trí Nhất thiết cũng gọi là sâu xa? Vì sao trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao tất cả hạnh Đại Bồ-tát cũng gọi là sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng gọi là sâu xa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, vì chân như của sắc sâu xa nên sắc cũng sâu xa; vì chân như của thọ, tưởng, hành, thức sâu xa nên thọ, tưởng, hành, thức cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của nhãn xứ sâu xa nên nhãn xứ cũng sâu xa; vì chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ sâu xa nên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của sắc xứ sâu xa nên sắc xứ cũng sâu xa; vì chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ sâu xa nên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của nhãn giới sâu xa nên nhãn giới cũng sâu xa; vì chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới sâu xa nên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của sắc giới sâu xa nên sắc giới cũng sâu xa; vì chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới sâu xa nên thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của nhãn thức giới sâu xa nên nhãn thức giới cũng sâu xa; vì chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới sâu xa nên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của nhãn xúc sâu xa nên nhãn xúc cũng sâu xa; vì chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sâu xa nên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra sâu xa nên các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng sâu xa; vì chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra sâu xa nên các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của địa giới sâu xa nên địa giới cũng sâu xa; vì chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới sâu xa nên thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của vô minh sâu xa nên vô minh cũng sâu xa; vì chân như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não sâu xa nên hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của Bố thí ba-lamật-đa sâu xa nên Bố thí ba-la-mật-đa cũng sâu xa; vì chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của pháp không bên trong sâu xa nên pháp không bên trong cũng sâu xa; vì chân như của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh sâu xa nên pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của chân như sâu xa nên chân như cũng sâu xa; vì chân như của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn sâu xa nên pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của bốn Niệm trụ sâu xa nên bốn Niệm trụ cũng sâu xa; vì chân như của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo sâu xa nên bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của Thánh đế khổ sâu xa nên Thánh đế khổ cũng sâu xa; vì chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo sâu xa nên Thánh đế tập, diệt, đạo cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của bốn Tĩnh lự sâu xa nên bốn Tĩnh lự cũng sâu xa; vì chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc sâu xa nên bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của tám Giải thoát sâu xa nên tám Giải thoát cũng sâu xa; vì chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ sâu xa nên tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của pháp môn giải thoát Không sâu xa nên pháp môn giải thoát Không cũng sâu xa; vì chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện sâu xa nên pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của bậc Cực hỷ sâu xa nên bậc Cực hỷ cũng sâu xa; vì chân như của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân sâu xa nên bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của năm loại mắt sâu xa nên năm loại mắt cũng sâu xa; vì chân như của sáu phép thần thông sâu xa nên sáu phép thần thông cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của pháp môn Tam-ma-địa sâu xa nên pháp môn Tam-ma-địa cũng sâu xa; vì chân như của pháp môn Đà-la-ni sâu xa nên pháp môn Đà-la-ni cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của mười lực của Phật sâu xa nên mười lực của Phật cũng sâu xa; vì chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng sâu xa nên bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của pháp không quên mất sâu xa nên pháp không quên mất cũng sâu xa; vì chân như của tánh luôn luôn xả sâu xa nên tánh luôn luôn xả cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của quả Dự lưu sâu xa nên quả Dự lưu cũng sâu xa; vì chân như của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán sâu xa nên quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của quả vị Độc giác sâu xa nên quả vị Độc giác cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của trí Nhất thiết sâu xa nên trí Nhất thiết cũng sâu xa; vì chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng sâu xa nên trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của tất cả hạnh Đại Bồ-tát sâu xa nên tất cả hạnh Đại Bồ-tát cũng sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật sâu xa nên quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng sâu xa.

Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của sắc sâu xa? Vì sao chân như của thọ, tưởng, hành, thức sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của nhãn xứ sâu xa? Vì sao chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của sắc xứ sâu xa? Vì sao chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của nhãn giới sâu xa? Vì sao chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của sắc giới sâu xa? Vì sao chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của nhãn thức giới sâu xa? Vì sao chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của nhãn xúc sâu xa? Vì sao chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra sâu xa? Vì sao chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của địa giới sâu xa? Vì sao chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của vô minh sâu xa? Vì sao chân như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của Bố thí bala-mật-đa sâu xa? Vì sao chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của pháp không bên trong sâu xa? Vì sao chân như của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của chân như sâu xa? Vì sao chân như của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của bốn Niệm trụ sâu xa? Vì sao chân như của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của Thánh đế khổ sâu xa? Vì sao chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của bốn Tĩnh lự sâu xa? Vì sao chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của tám Giải thoát sâu xa? Vì sao chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của pháp môn giải thoát Không sâu xa? Vì sao chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của bậc Cực hỷ sâu xa? Vì sao chân như của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của năm loại mắt sâu xa? Vì sao chân như của sáu phép thần thông sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của pháp môn Tam-ma-địa sâu xa? Vì sao chân như của pháp môn Đà-la-ni sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của mười lực của Phật sâu xa? Vì sao chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của pháp không quên mất sâu xa? Vì sao chân như của tánh luôn luôn xả sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của quả Dự lưu sâu xa? Vì sao chân như của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của quả vị Độc giác sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của trí Nhất thiết sâu xa? Vì sao chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của tất cả hạnh Đại Bồ-tát sâu xa?

Bạch Thế Tôn, vì sao chân như của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật sâu xa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, vì chân như của sắc chẳng phải là sắc, chẳng phải lìa sắc cho nên sâu xa; vì chân như của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức, chẳng phải lìa thọ, tưởng, hành, thức cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của nhãn xứ chẳng phải là nhãn xứ, chẳng phải lìa nhãn xứ cho nên sâu xa; vì chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng phải lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của sắc xứ chẳng phải là sắc xứ, chẳng phải lìa sắc xứ cho nên sâu xa; vì chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng phải lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của nhãn giới chẳng phải là nhãn giới, chẳng phải lìa nhãn giới cho nên sâu xa; vì chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng phải lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của sắc giới chẳng phải là sắc giới, chẳng phải lìa sắc giới cho nên sâu xa; vì chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng phải lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của nhãn thức giới chẳng phải là nhãn thức giới, chẳng phải lìa nhãn thức giới cho nên sâu xa; vì chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng phải lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của nhãn xúc chẳng phải là nhãn xúc, chẳng phải lìa nhãn xúc cho nên sâu xa; vì chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng phải lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng phải lìa các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cho nên sâu xa; vì chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, chẳng phải lìa các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của địa giới chẳng phải là địa giới, chẳng phải lìa địa giới cho nên sâu xa; vì chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng phải lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của vô minh chẳng phải là vô minh, chẳng phải lìa vô minh cho nên sâu xa; vì chân như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não, chẳng phải lìa hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của Bố thí ba-lamật-đa chẳng phải là Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng phải lìa Bố thí ba-la-mật-đa cho nên sâu xa; vì chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa chẳng phải là Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng phải lìa Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của pháp không bên trong chẳng phải là pháp không bên trong, chẳng phải lìa pháp không bên trong cho nên sâu xa; vì chân như của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, chẳng phải lìa pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của chân như chẳng phải là chân như, chẳng phải lìa chân như cho nên sâu xa; vì chân như của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải lìa pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của bốn Niệm trụ chẳng phải là bốn Niệm trụ, chẳng phải lìa bốn Niệm trụ cho nên sâu xa; vì chân như của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng phải là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, chẳng phải lìa bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của Thánh đế khổ chẳng phải là Thánh đế khổ, chẳng phải lìa Thánh đế khổ cho nên sâu xa; vì chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng phải lìa Thánh đế tập, diệt, đạo cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của bốn Tĩnh lự chẳng phải là bốn Tĩnh lự, chẳng phải lìa bốn Tĩnh lự cho nên sâu xa; vì chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, chẳng phải lìa bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của tám Giải thoát chẳng phải là tám Giải thoát, chẳng phải lìa tám Giải thoát cho nên sâu xa; vì chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, chẳng phải lìa tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của pháp môn giải thoát Không chẳng phải là pháp môn giải thoát Không, chẳng phải lìa pháp môn giải thoát Không cho nên sâu xa; vì chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, chẳng phải lìa pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của bậc Cực hỷ chẳng phải là bậc Cực hỷ, chẳng phải lìa bậc Cực hỷ cho nên sâu xa; vì chân như của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng phải là bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, chẳng phải lìa bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của năm loại mắt chẳng phải là năm loại mắt, chẳng phải lìa năm loại mắt cho nên sâu xa; vì chân như của sáu phép thần thông chẳng phải là sáu phép thần thông, chẳng phải lìa sáu phép thần thông cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là pháp môn Tam-ma-địa, chẳng phải lìa pháp môn Tam-ma-địa cho nên sâu xa; vì chân như của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải lìa pháp môn Đàla-ni cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như nơi mười lực của Phật chẳng phải là mười lực của Phật, chẳng phải lìa mười lực của Phật cho nên sâu xa; vì chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng phải lìa bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của pháp không quên mất chẳng phải là pháp không quên mất, chẳng phải lìa pháp không quên mất cho nên sâu xa; vì chân như của tánh luôn luôn xả chẳng phải là tánh luôn luôn xả, chẳng phải lìa tánh luôn luôn xả cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của quả Dự lưu chẳng phải là quả Dự lưu, chẳng phải lìa quả Dự lưu cho nên sâu xa; vì chân như của quả Nhất lai,

Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, chẳng phải lìa quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của quả vị Độc giác chẳng phải là quả vị Độc giác, chẳng phải lìa quả vị Độc giác cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của trí Nhất thiết chẳng phải là trí Nhất thiết, chẳng phải lìa trí Nhất thiết cho nên sâu xa; vì chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, chẳng phải lìa trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng phải lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát cho nên sâu xa.

Này Thiện Hiện, vì chân như của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng phải lìa quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cho nên sâu xa.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của sắc nhằm chỉ rõ Niếtbàn; nêu tính chất ly tác pháp của thọ, tưởng, hành, thức, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của nhãn xứ nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của sắc xứ nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của nhãn giới nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của sắc giới nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của nhãn thức giới nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của nhãn xúc nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của địa giới nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của vô minh nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của Bố thí ba-la-mật-đa nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của pháp không bên trong nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của chân như nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của bốn Niệm trụ nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của Thánh đế khổ nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của Thánh đế tập, diệt, đạo, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của bốn Tĩnh lự nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của tám Giải thoát nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của pháp môn giải thoát Không nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của bậc Cực hỷ nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của năm loại mắt nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của sáu phép thần thông, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của pháp môn Tam-mađịa nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của pháp môn Đà-la-ni, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của mười lực của Phật nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của pháp không quên mất nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của tánh luôn luôn xả, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của quả Dự lưu nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của quả vị Độc giác, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của trí Nhất thiết nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, nhằm chỉ rõ Niếtbàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của tất cả hạnh Đại Bồtát, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của tất cả pháp hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc cộng, hoặc bất cộng, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như ông đã nói! Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của các sắc nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của thọ, tưởng, hành, thức, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của nhãn xứ nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của sắc xứ nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của nhãn giới nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của sắc giới nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của nhãn thức giới nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của nhãn xúc nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của địa giới nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của vô minh nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của Bố thí ba-la-mật-đa nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của pháp không bên trong nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của chân như nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của bốn Niệm trụ nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của Thánh đế khổ nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của Thánh đế tập, diệt, đạo, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của bốn Tĩnh lự nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của tám Giải thoát nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, nhằm chỉ rõ Niết-bàn. Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của pháp môn giải thoát Không nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của bậc Cực hỷ nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của năm loại mắt nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của sáu phép thần thông, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của pháp môn Tam-ma-địa nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của pháp môn Đà-la-ni, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của mười lực của Phật nhằm chỉ rõ Niếtbàn; nêu tính chất ly tác pháp của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của pháp không quên mất nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của tánh luôn luôn xả, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồ- tát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của quả Dự lưu nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của quả vị Độc giác, nhằm chỉ rõ Niếtbàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của trí Nhất thiết nhằm chỉ rõ Niết-bàn; nêu tính chất ly tác pháp của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì Đại Bồtát ở quả vị không thoái chuyển, nêu tính chất ly tác pháp của tất cả pháp hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc cộng, hoặc bất cộng, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, nhằm chỉ rõ Niết-bàn.

QUYỂN 329

Phẩm 50: PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO (2)

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát đối với các chỗ sâu xa như thế, nên nương vào ý nghĩa tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà thẩm xét, tư duy, suy lường, quán sát, nên nghĩ thế này: “Nay ta nên an trú như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói. Nay ta nên học như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói”.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với các chỗ sâu xa như thế, thường nương vào ý nghĩa tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà thẩm xét, tư duy, suy lường, quán sát an trú như Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa đã nói, học như Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa đã nói thì Đại Bồ-tát ấy do thường tinh cần tu học như vậy, nương vào Bát-nhã ba-la-mậtđa khởi tâm nhất niệm, còn có khả năng thâu nhiếp vô số, vô lượng, vô biên công đức, vượt vô lượng kiếp sinh tử lưu chuyển, mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, huống hồ là thường tu Bát-nhã ba-lamật-đa không gián đoạn, thường an trú trong tác ý tương ưng quả vị Giác ngộ cao tột!

Này Thiện Hiện, như người mê đắm ái dục cùng với người con gái đẹp, hai bên yêu nhau, cùng nhau hẹn ước. Người con gái kia bị trở ngại, không đến chỗ đúng hẹn. Người ấy dục tâm bừng cháy, liên tục lưu chuyển, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Ý niệm về dục của người ấy chuyển đến nơi nào?

Bạch Thế Tôn, ý niệm về dục của người ấy hướng đến người nữ, người ấy nghĩ thế này: “Khi nào nàng sẽ đến đây để cùng nhau vui chơi.”

Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, nếu cả ngày đêm thì người ấy có bao nhiêu ý niệm về dục phát sinh?

Bạch Thế Tôn, kể cả ngày đêm thì ý niệm về dục của người ấy phát sinh rất nhiều.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa khởi một niệm tu học như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã dạy, thì số kiếp vượt thoát khỏi sinh tử lưu chuyển so với số lượng các ý niệm về dục của người đam mê ái dục đã khởi trải qua một ngày một đêm là bằng nhau.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy nương vào nghĩa lý mà Bát-nhã ba-la-mật-đa đã dạy, tư duy, tu học, theo đó có khả năng giải thoát những lầm lỗi gây chướng ngại cho quả vị Giác ngộ cao tột.

Vì vậy, Đại Bồ-tát ấy nương vào Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa, tinh cần tu học để chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú như Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa đã dạy, trải qua một ngày một đêm thì số lượng công đức đạt được này giả sử đều là vật hữu hình thì cả hằng hà sa thế giới ba lần ngàn của chư Phật cũng chẳng thể dung nạp hết. Giả sử các công đức khác đầy khắp cả hằng hà sa thế giới ba lần ngàn của chư Phật thì so với công đức này, chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn, chẳng bằng một phần trăm ức, chẳng bằng một phần ngàn ức, chẳng bằng một phần trăm ngàn ức, chẳng bằng một phần trăm triệu, chẳng bằng một phần ngàn triệu, chẳng bằng một phần trăm ngàn triệu; số phần, toán phần, kế phần, dụ phần rộng nói như thế cho đến chẳng bằng một phần của cực số.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp bố thí cúng dường ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua một ngày một đêm, theo như lời dạy ấy mà tu học, thì công đức đạt được còn nhiều hơn công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là cỗ xe của các Đại Bồ-tát ấy; các Đại Bồ-tát cỡi lên cỗ xe này thì mau đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột. Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp cung kính cúng dường các bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát và chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua một ngày một đêm, theo như lời dạy ấy mà tu học, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chư Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu, vượt qua các bậc Thanh văn và Độc giác, chóng nhập nẻo Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát; lại có khả năng tu hành các hạnh Bồ-tát, mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp tinh cần tu học các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua một ngày một đêm, tinh cần tu học các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa là mẹ của các Đại Bồ-tát ấy. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng sinh ra chúng Đại Bồ-tát. Tất cả chúng Đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thì mau chóng làm viên mãn tất cả Phật pháp.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp dùng pháp bố thí cho tất cả hữu tình, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, dùng pháp bố thí cho tất cả hữu tình, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là xa lìa trí Nhất thiết trí, nếu Đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa tức là chẳng xa lìa trí Nhất thiết trí. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành Bố thí ba-la-mật-đa, tu hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, tu hành Bố thí ba-lamật-đa, tu hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nếu Đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã bala-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì không hề có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì việc này có thật. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, an trú nơi pháp không bên trong, an trú nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, an trú nơi pháp không bên trong, an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nếu Đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì không hề có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, an trú nơi chân như, an trú nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, an trú nơi chân như, an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nếu Đại Bồtát chẳng xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì không hề có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành bốn Niệm trụ, tu hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, tu hành bốn Niệm trụ, tu hành bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nếu Đại Bồtát chẳng xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì không hề có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, an trú nơi Thánh đế khổ, an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, an trú nơi Thánh đế khổ, an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nếu Đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì không hề có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-lamật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành bốn Tĩnh lự, tu hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, tu hành bốn Tĩnh lự, tu hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nếu Đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì không hề có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-lamật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu tám Giải thoát, tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, tu tám Giải thoát, tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nếu Đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì không hề có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành pháp môn giải thoát Không, tu hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, tu hành pháp môn giải thoát Không, tu hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nếu Đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì không hề có việc đó. Nếu Đại Bồtát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành bậc Cực hỷ, tu hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, tu hành bậc Cực hỷ, tu hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nếu Đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì không hề có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành năm loại mắt, tu hành sáu phép thần thông, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, tu hành năm loại mắt, tu hành sáu phép thần thông, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nếu Đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã ba-lamật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì không hề có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tu hành tất cả pháp môn Đà-lani, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nếu Đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì không hề có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành mười lực của Phật, tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, tu hành mười lực của Phật, tu hành bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nếu Đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì không hề có việc đó. Nếu Đại Bồtát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, tu hành pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nếu Đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì không hề có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành trí Nhất thiết, tu hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, tu hành trí Nhất thiết, tu hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nếu Đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì không hề có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-lamật-đa, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thoái chuyển, thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành các môn Tài thí, Pháp thí, ở chỗ thanh vắng gắn chặt tư duy với việc đang tu hành, khắp vì tất cả hữu tình hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồtát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng? Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, tu hành các môn Tài thí, Pháp thí, ở chỗ thanh vắng gắn chặt tư duy với việc đang tu hành, khắp vì tất cả hữu tình hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà phát khởi sự hồi hướng, nên biết đó là sự hồi hướng tối thắng. Còn xa lìa Bát-nhã ba-lamật-đa mà phát khởi hồi hướng, nên biết không được gọi là sự hồi hướng tối thắng. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa để tu hành, để vì khắp tất cả hữu tình mà hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, duyên khắp căn lành nơi công đức của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử ở quá khứ, vị lai, hiện tại, hòa hợp, tùy hỷ, vì khắp tất cả hữu tình hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phước ấy là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà an trú, trải qua một ngày một đêm, duyên khắp căn lành nơi công đức của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử ở quá khứ, vị lai, hiện tại, hòa hợp, tùy hỷ, vì khắp tất cả hữu tình hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tất cả căn lành nơi công đức mà tùy hỷ hồi hướng đều lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa làm đầu. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột thì chẳng nên xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với các căn lành hòa hợp, tùy hỷ, vì khắp tất cả hữu tình hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, như lời Phật dạy, phân biệt về việc làm đều chẳng phải thật có, thế thì vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát ấy đạt được phước vô số, vô lượng, vô biên.

Bạch Thế Tôn, phân biệt về việc làm chẳng có thể phát khởi chánh kiến chân thật, chẳng có thể hướng vào nẻo Chánh tánh ly sinh, chẳng có thể đắc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán, hoặc quả vị Độc giác; cũng chẳng có thể đắc quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như ông đã nói! Phân biệt về việc làm chẳng có thể phát khởi chánh kiến chân thật, chẳng có thể hướng vào nẻo Chánh tánh ly sinh, chẳng có thể đắc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, hoặc quả vị Độc giác; cũng chẳng có thể đắc quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa thâm diệu thì biết rõ tất cả các loại phân biệt về việc làm là không, không có sở hữu, là hư vọng chẳng thật. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì các Đại Bồ-tát khéo học pháp không bên trong, khéo học các pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú nơi pháp không rồi, quán sát đúng như thật sự phân biệt về việc làm là không, không có sở hữu, là hư vọng chẳng thật, như thế tức là chẳng xa lìa Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đúng như thật chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, như thế nên mới đạt được phước vô số, vô lượng, vô biên.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, vô số, vô lượng, vô biên có gì sai biệt?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nói vô số là số chẳng thể nắm bắt được, chẳng thể đếm trong thế giới hữu vi, chẳng thể đếm trong thế giới vô vi. Nói vô lượng là lượng chẳng thể nắm bắt được, chẳng thể lường ở trong pháp quá khứ, chẳng thể lường ở trong pháp vị lai, chẳng thể lường ở trong pháp hiện tại. Nói vô biên là biên giới chẳng thể nắm bắt được, chẳng thể đo lường được giới hạn kia vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, vì có nhân duyên nào mà sắc cũng là vô số, vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng là vô số, vô lượng, vô biên?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, vì có nhân duyên nên sắc cũng là vô số, vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng là vô số, vô lượng, vô biên.

–Bạch Thế Tôn, vì nhân duyên gì mà sắc cũng là vô số, vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng là vô số, vô lượng, vô biên?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, vì sắc là không nên là vô số, vô lượng, vô biên; vì thọ, tưởng, hành, thức là không nên cũng là vô số, vô lượng, vô biên.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, có phải chỉ có sắc là không; thọ, tưởng, hành, thức là không hay tất cả pháp cùng không?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, trước đây Ta đã chẳng nói tất cả pháp đều là không ư?

Thiện Hiện đáp:

–Phật tuy đã nói tất cả pháp đều là không nhưng các hữu tình chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu cho nên con nay phải hỏi lại như thế.

Bạch Thế Tôn, Như Lai thường nói sắc là không; thọ, tưởng, hành, thức cũng là không. Như Lai thường nói nhãn xứ là không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng là không. Như Lai thường nói sắc xứ là không; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng là không. Như Lai thường nói nhãn giới là không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng là không. Như Lai thường nói sắc giới là không; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng là không. Như Lai thường nói nhãn thức giới là không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng là không. Như Lai thường nói nhãn xúc là không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng là không. Như Lai thường nói các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là không; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng là không. Như Lai thường nói địa giới là không; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng là không. Như Lai thường nói tánh của nhân duyên là không; tánh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng là không. Như Lai thường nói vô minh là không; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng là không. Như Lai thường nói ngã là không; hữu tình, dòng sinh mạng, khả năng sinh khởi, sự nuôi dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, khả năng tạo tác, khả năng thọ nhận, sự hiểu biết, sự nhận thức cũng là không. Như Lai thường nói Bố thí ba-la-mật-đa là không; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa cũng là không. Như Lai thường nói pháp không bên trong là không; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng là không. Như Lai thường nói chân như là không; pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng là không. Như Lai thường nói bốn Niệm trụ là không; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng là không. Như Lai thường nói Thánh đế khổ là không; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng là không. Như Lai thường nói bốn Tĩnh lự là không; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng là không. Như Lai thường nói pháp môn giải thoát Không là không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng là không. Như Lai thường nói bậc Cực hỷ là không; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng là không. Như Lai thường nói năm loại mắt là không; sáu phép thần thông cũng là không. Như Lai thường nói pháp môn Tam-ma-địa là không; pháp môn Đà-la-ni cũng là không. Như Lai thường nói mười lực của Phật là không; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng là không. Như Lai thường nói tập khí phiền não tương tục là không; pháp không quên mất cũng là không. Như Lai thường nói tánh luôn luôn xả là không. Như Lai thường nói trí Nhất thiết là không; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng là không. Như Lai thường nói quả Dự lưu là không; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng là không. Như Lai thường nói quả vị Độc giác là không; Như Lai thường nói tất cả hạnh Đại Bồ-tát là không. Như Lai thường nói quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là không. Như Lai thường nói hàng phàm phu là không; bậc Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai cũng là không. Như Lai thường nói pháp hữu sắc, pháp vô sắc là không; pháp hữu kiến, pháp vô kiến, pháp hữu đối, pháp vô đối, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi cũng là không. Như Lai thường nói pháp quá khứ, vị lai, hiện tại là không; pháp thiện, bất thiện, vô ký, pháp gắn liền với Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; pháp học, vô học, phi vô học; pháp kiến sở đoạn, tu sở đoạn, phi sở đoạn cũng là không.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy! Ta đã thường nói các pháp này đều là không.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, tất cả pháp là không tức là vô tận, cũng là vô số, vô lượng, vô biên.

Bạch Thế Tôn, trong cái không của các pháp, cái tận chẳng thể nắm bắt được, số chẳng thể nắm bắt được, lượng chẳng thể nắm bắt được, biên chẳng thể nắm bắt được. Do nhân duyên này, mà vô tận, vô số, vô lượng, vô biên văn nghĩa không phân biệt.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như ông đã nói! Vô tận, vô số, vô lượng, vô biên văn nghĩa không phân biệt, đều cùng làm sáng tỏ cái không của các pháp.

Này Thiện Hiện, tất cả pháp không đều chẳng thể nêu bày, diễn đạt. Như Lai phương tiện nói là vô tận, hoặc nói vô số, vô lượng, vô biên, hoặc nói là không, không tướng, không tác, hoặc nói không sinh, không diệt, hoặc nói ly nhiễm, tịch diệt, Niếtbàn, hoặc nói chân như, pháp giới, pháp tánh, thật tế; các nghĩa như thế đều là do Như Lai phương tiện mà diễn nói.

Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Như Lai dùng phương tiện rất là khéo léo, thật tướng của các pháp chẳng thể diễn nói, nhưng Như Lai đã vì các hữu tình mà phương tiện chỉ rõ.

Bạch Thế Tôn, theo con hiểu nghĩa Phật đã giảng nói là tánh của tất cả pháp đều chẳng thể diễn đạt.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy! Tánh của tất cả pháp đều chẳng thể diễn đạt. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp đều rốt ráo không, nên không có thể diễn nói cái không rốt ráo.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nghĩa chẳng thể diễn đạt có tăng giảm chăng?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nghĩa chẳng thể diễn đạt là không tăng không giảm.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu nghĩa chẳng thể diễn đạt không tăng không giảm thì Bố thí ba-la-mật-đa cũng phải không tăng không giảm; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng phải không tăng không giảm.

Bạch Thế Tôn, nếu nghĩa chẳng thể diễn đạt không tăng không giảm thì bốn Niệm trụ cũng phải không tăng không giảm; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng phải không tăng không giảm.

Bạch Thế Tôn, nếu nghĩa chẳng thể diễn đạt không tăng không giảm thì bốn Tĩnh lự cũng phải không tăng không giảm; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng phải không tăng không giảm.

Bạch Thế Tôn, nếu nghĩa chẳng thể diễn đạt không tăng không giảm thì tám Giải thoát cũng phải không tăng không giảm; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng phải không tăng không giảm.

Bạch Thế Tôn, nếu nghĩa chẳng thể diễn đạt không tăng không giảm thì pháp môn giải thoát Không cũng phải không tăng không giảm; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng phải không tăng không giảm.

Bạch Thế Tôn, nếu nghĩa chẳng thể diễn đạt không tăng không giảm thì bậc Cực hỷ cũng phải không tăng không giảm; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng phải không tăng không giảm.

Bạch Thế Tôn, nếu nghĩa chẳng thể diễn đạt không tăng không giảm thì năm loại mắt cũng phải không tăng không giảm; sáu phép thần thông cũng phải không tăng không giảm.

Bạch Thế Tôn, nếu nghĩa chẳng thể diễn đạt không tăng không giảm thì pháp môn Tam-ma-địa cũng phải không tăng không giảm; pháp môn Đàla-ni cũng phải không tăng không giảm.

Bạch Thế Tôn, nếu nghĩa chẳng thể diễn đạt không tăng không giảm thì mười lực của Phật cũng phải không tăng không giảm; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng phải không tăng không giảm.

Bạch Thế Tôn, nếu nghĩa chẳng thể diễn đạt không tăng không giảm thì pháp không quên mất cũng phải không tăng không giảm; tánh luôn luôn xả cũng phải không tăng không giảm.

Bạch Thế Tôn, nếu nghĩa chẳng thể diễn đạt không tăng không giảm thì trí Nhất thiết cũng phải không tăng không giảm; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng phải không tăng không giảm.

Bạch Thế Tôn, nếu Bố thí ba-la-mật-đa không tăng không giảm, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không tăng không giảm thì làm thế nào Đại Bồ-tát tu hành Bố thí ba-la-mật-đa, tu hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn, nếu bốn Niệm trụ không tăng không giảm, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng không tăng không giảm thì làm thế nào Đại Bồ-tát tu hành bốn Niệm trụ, tu hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn, nếu bốn Tĩnh lự không tăng không giảm, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng không tăng không giảm thì làm thế nào Đại Bồ-tát tu hành bốn Tĩnh lự, tu hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn, nếu tám Giải thoát không tăng không giảm, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng không tăng không giảm thì làm thế nào Đại Bồ-tát tu hành tám Giải thoát, tu hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn, nếu pháp môn giải thoát Không không tăng không giảm, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng không tăng không giảm thì làm thế nào Đại Bồ-tát tu hành pháp môn giải thoát Không, tu hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn, nếu bậc Cực hỷ không tăng không giảm, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng không tăng không giảm thì làm thế nào Đại Bồ-tát tu hành bậc Cực hỷ, tu hành bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn, nếu năm loại mắt không tăng không giảm, sáu phép thần thông cũng không tăng không giảm thì làm thế nào Đại Bồ-tát tu hành năm loại mắt, tu hành sáu phép thần thông chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn, nếu pháp môn Tam-ma-địa Không tăng không giảm, pháp môn Đà-la-ni cũng không tăng không giảm thì làm thế nào Đại Bồ-tát tu hành pháp môn Tam-ma-địa, tu hành pháp môn Đà-la-ni chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn, nếu mười lực của Phật không tăng không giảm, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không tăng không giảm thì làm thế nào Đại Bồ-tát tu hành mười lực của Phật, tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn, nếu pháp không quên mất không tăng không giảm, tánh luôn luôn xả cũng không tăng không giảm thì làm thế nào Đại Bồ-tát tu hành pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn, nếu trí Nhất thiết không tăng không giảm, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng không tăng không giảm thì làm thế nào Đại Bồ-tát tu hành trí Nhất thiết, tu hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?

QUYỂN 330

Phẩm 50: PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO (3)

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy! Nghĩa chẳng thể diễn đạt không tăng không giảm, Bố thí ba-la-mật-đa không tăng không giảm, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không tăng không giảm; bốn Niệm trụ không tăng không giảm, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng không tăng không giảm; bốn Tĩnh lự không tăng không giảm, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng không tăng không giảm; tám Giải thoát không tăng không giảm, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng không tăng không giảm; pháp môn giải thoát Không không tăng không giảm, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng không tăng không giảm; bậc Cực hỷ không tăng không giảm, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng không tăng không giảm; năm loại mắt không tăng không giảm, sáu phép thần thông cũng không tăng không giảm; pháp môn Tam-ma-địa Không tăng không giảm, pháp môn Đà-la-ni cũng không tăng không giảm; mười lực của Phật không tăng không giảm, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không tăng không giảm; pháp không quên mất không tăng không giảm, tánh luôn luôn xả cũng không tăng không giảm; trí Nhất thiết không tăng không giảm, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng không tăng không giảm.

Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, an trú nơi phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nghĩ thế này: “Ta đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc tăng hoặc giảm”; chẳng nghĩ thế này: “Ta đối với Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa hoặc tăng hoặc giảm”. Chỉ nghĩ thế này: “Chỉ có ý niệm về danh xưng là Bát-nhã ba-la-mật-đa.” Chỉ nghĩ thế này: “Chỉ có ý niệm về danh xưng là Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mậtđa.”

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bố thí ba-la-mật-đa, đem tác ý cùng lúc với Bố thí này và tâm, căn lành đều nương vào đấy mà khởi, bình đẳng ban cho các hữu tình cùng có sự hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột như quả vị Giác ngộ cao tột sâu xa vi diệu của Phật mà phát khởi hồi hướng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Tịnh giới ba-la-mật-đa, đem tác ý cùng lúc với Tịnh giới này và tâm, căn lành đều nương vào đấy mà khởi, bình đẳng ban cho các hữu tình cùng có sự hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột như quả vị Giác ngộ cao tột sâu xa vi diệu của Phật mà phát khởi hồi hướng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành An nhẫn ba-la-mật-đa, đem tác ý cùng lúc với An nhẫn này và tâm, căn lành đều nương vào đấy mà khởi, bình đẳng ban cho các hữu tình cùng có sự hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột như quả vị Giác ngộ cao tột sâu xa vi diệu của Phật mà phát khởi hồi hướng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Tinh tấn ba-la-mật-đa, đem tác ý cùng lúc với Tinh tấn này và tâm, căn lành đều nương vào đấy mà khởi, bình đẳng ban cho các hữu tình cùng có sự hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột như quả vị Giác ngộ cao tột sâu xa vi diệu của Phật mà phát khởi hồi hướng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Tĩnh lự ba-la-mật-đa, đem tác ý cùng lúc với Tĩnh lự này và tâm, căn lành đều nương vào đấy mà khởi, bình đẳng ban cho các hữu tình cùng có sự hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột như quả vị Giác ngộ cao tột sâu xa vi diệu của Phật mà phát khởi hồi hướng. Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, đem tác ý cùng lúc với Bát-nhã này và tâm, căn lành đều nương vào đấy mà khởi, bình đẳng ban cho các hữu tình cùng có sự hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột như quả vị Giác ngộ cao tột sâu xa vi diệu của Phật mà phát khởi hồi hướng.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, sao gọi là quả vị Giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, chân như của các pháp là quả vị Giác ngộ cao tột.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch:

–Bạch Thế Tôn, chân như của các pháp nào mà cho rằng chân như của các pháp là quả vị Giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, chân như của sắc là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của thọ, tưởng, hành, thức là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của nhãn xứ là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của sắc xứ là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của nhãn giới là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của sắc giới là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của nhãn thức giới là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của nhãn xúc là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của địa giới là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của tánh nhân duyên là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của vô minh là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của Bố thí ba-lamật-đa là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của pháp không bên trong là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của chân như là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của bốn Niệm trụ là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của Thánh đế khổ là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của bốn Tĩnh lự là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là quả vị Giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện, chân như của tám Giải thoát là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của pháp môn giải thoát Không là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của bậc Cực hỷ là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là quả vị Giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện, chân như của năm loại mắt là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của sáu phép thần thông là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của pháp môn Tamma-địa là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của pháp môn Đà-la-ni là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của mười lực của Phật là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của pháp không quên mất là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của tánh luôn luôn xả là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của quả Dự lưu là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của quả vị Độc giác là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của trí Nhất thiết là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của sinh tử là quả vị Giác ngộ cao tột; chân như của Niết-bàn là quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, chân như của các pháp không tăng không giảm nên quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không tăng không giảm.

Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, thường ưa an trú nơi chân như của các pháp, hoàn toàn chẳng thấy có pháp nào có tăng có giảm. Do nhân duyên này, nghĩa chẳng thể diễn đạt không tăng không giảm; nên Bố thí ba-la-mật-đa không tăng không giảm, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không tăng không giảm; bốn Niệm trụ không tăng không giảm, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng không tăng không giảm; bốn Tĩnh lự không tăng không giảm, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng không tăng không giảm; tám Giải thoát không tăng không giảm, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng không tăng không giảm; pháp môn giải thoát Không không tăng không giảm, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng không tăng không giảm; bậc Cực hỷ không tăng không giảm, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng không tăng không giảm; năm loại mắt không tăng không giảm, sáu phép thần thông cũng không tăng không giảm; pháp môn Tam-ma-địa Không tăng không giảm, pháp môn Đà-la-ni cũng không tăng không giảm; mười lực của Phật không tăng không giảm, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không tăng không giảm; pháp không quên mất không tăng không giảm, tánh luôn luôn xả cũng không tăng không giảm; trí Nhất thiết không tăng không giảm, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng không tăng không giảm.

Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nương vào phương tiện của sự không tăng không giảm ấy mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do pháp môn này, các công đức được tập hợp mà chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát nương vào phương tiện của sự không tăng không giảm ấy mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa và do pháp môn này, tất cả công đức đã được tập hợp để chứng quả vị Giác ngộ cao tột thì Đại Bồ-tát ấy đã dùng tâm ban đầu để chứng quả vị Giác ngộ cao tột, hay dùng tâm về sau để chứng quả vị ấy? Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy nếu dùng tâm ban đầu chứng quả vị Giác ngộ cao tột thì khi tâm ấy khởi, tâm về sau chưa khởi, không có sự tương hợp; còn nếu dùng tâm về sau chứng quả vị Giác ngộ cao tột thì khi tâm ấy khởi thì tâm trước đấy đã diệt, không có sự tương hợp. Như vậy thì tâm, tâm sở pháp xuất hiện trước sau, tiến lui không ăn khớp chẳng có tính hòa hợp thì làm thế nào có thể chứa nhóm căn lành được? Nếu chẳng thể chứa nhóm các căn lành được thì làm sao Bồ-tát có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, Ta sẽ nêu một thí dụ ngắn gọn khiến người có trí theo ý nghĩa ấy có thể dễ dàng lãnh hội được.

Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Như khi thắp đèn thì ngọn lửa ban đầu đốt tim đèn hay ngọn lửa sau đốt tim đèn?

Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Cái tim đèn bị đốt chăng?

–Bạch Thế Tôn, theo cái thấy thông thường thì cái tim đèn bị đối thật.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát cũng giống như thế, chẳng dùng tâm ban đầu chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng lìa tâm ấy chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột; chẳng phải dùng tâm về sau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng lìa tâm ấy chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Do vậy mà các Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì đã tu học viên mãn mười bậc dẫn tới việc chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát tu học mười bậc nào được viên mãn để chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát tu hành bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân, làm cho viên mãn, dẫn tới việc chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột; cũng học bậc Tịnh quán, bậc Chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc giác, Bậc Như Lai làm cho viên mãn, dẫn tới việc chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát đối với mười bậc này tinh cần tu học, khi được viên mãn, chẳng phải dùng tâm ban đầu chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng lìa tâm ấy chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột; chẳng phải dùng tâm về sau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột; cũng chẳng lìa tâm ấy chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Do đó, các Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, duyên khởi như thế là rất sâu xa, rất vi diệu, đó là các Đại Bồ-tát chẳng phải dùng tâm ban đầu chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng lìa tâm ấy chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột; chẳng phải dùng tâm về sau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột; cũng chẳng lìa tâm ấy chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Do đó, các Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu tâm đã diệt thì có thể sinh lại chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không thể được! Bạch Thiện Thệ! Không thể!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu tâm đã sinh thì có thể bị diệt chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Bạch Thiện Thệ, đúng vậy!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Có pháp bị diệt, tâm chẳng phải sẽ bị diệt chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không phải! Bạch Thiện Thệ, không phải!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Tâm trụ là như tâm chân như chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Bạch Thiện Thệ, đúng vậy!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Tâm như chân như an trụ là thật tế chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như, thật tế là sâu xa chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Bạch Thiện Thệ, đúng vậy!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chính chân như là tâm chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không phải! Bạch Thiện Thệ, không phải!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Lìa chân như có tâm chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chính tâm là chân như chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Lìa tâm có chân như chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như thấy chân như có chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu Đại Bồ-tát dốc tu hành như thế là tu hành Bát-nhã bala-mật-đa thâm diệu chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Nếu Đại Bồ-tát dốc tu hành như thế thì hoàn toàn không có chốn tu hành. Vì sao? Bạch Thế Tôn, vì nếu Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa thâm diệu thì không có tâm hiện hành, cũng không có chốn hiện hành. Vì sao? Bạch Thế Tôn, vì trong việc an trú nơi chân như, hoàn toàn không hiện hành và không có chốn hiện hành.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu là tu hành ở chỗ nào?

Thiện Hiện đáp:

–Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa thâm diệu thì tu hành ở Thắng nghĩa đế; nơi đây, sự hiện hành và chốn hiện hành đều không có sở hữu, chủ thể và đối tượng nhằm đạt đến đều chẳng thể nắm bắt được.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu thì trong việc tu hành nơi Thắng nghĩa đế, tuy chẳng chấp giữ về tướng mà tu hành theo tướng chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không phải! Bạch Thiện Thệ!

Không phải!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu thì trong việc tu hành nơi Thắng nghĩa đế là hủy hoại tướng chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không phải! Bạch Thiện Thệ!

Không phải!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu thì trong việc tu hành nơi Thắng nghĩa đế đã hủy hoại ý tưởng về tưởng chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Nếu Đại Bồ-tát khi dốc tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu chẳng hủy hoại tướng, cũng chẳng hủy hoại ý tưởng về tướng chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Đại Bồ-tát ấy khi dốc tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa thâm diệu, chẳng nghĩ thế này: “Ta sẽ hủy hoại tướng và hủy hoại ý tưởng về tướng”; cũng chẳng nghĩ thế này: “Ta sẽ hủy hoại không tướng, và hủy hoại ý tưởng về không tướng, vì đối với tất cả pháp không có sự phân biệt.”

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu, tuy có thể xa lìa các sự phân biệt như thế, nhưng vì đối với vô lượng công đức thù thắng nơi mười lực của Phật, của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng... chưa được viên mãn nên chưa chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo vi diệu; do diệu lực của phương tiện thiện xảo này nên đối với tất cả pháp chẳng giữ lấy, chẳng hủy hoại. Vì sao? Bạch Thế Tôn, vì Đại Bồtát ấy biết rõ tự tướng của tất cả pháp là không.

Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy an trú trong tự tướng không của tất cả pháp, vì sự thôi thúc của nguyện lực đại Bi nhằm hóa độ các hữu tình vào ba pháp Tam-ma-địa, nên dùng ba thứ định này để đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói!

Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy vì sao nhập ba pháp Tam-ma-địa này để đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú nơi Tam-ma-địa Không, thấy các hữu tình phần nhiều chấp ngã, nên dùng diệu lực của phương tiện để giáo hóa, khiến họ an trú nơi Tam-ma-địa Không. Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú nơi Tamma-địa Vô tướng, thấy các hữu tình phần nhiều tu hành theo hình tướng, nên dùng diệu lực của phương tiện để giáo hóa, khiến họ an trú nơi Tamma-địa Vô tướng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú nơi Tamma-địa Vô nguyện, thấy các hữu tình phần nhiều đều mong muốn được an vui từ bên ngoài, nên dùng diệu lực của phương tiện để giáo hóa, khiến họ an trú nơi Tam-ma-địa Vô nguyện.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu nhập ba pháp Tam-ma-địa này để đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình như thế.

Bấy giờ, Cụ thọ Xá-lợi Tử hỏi Cụ thọ Thiện Hiện:

–Thưa ngài Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở trong mộng, nhập ba pháp Tam-ma-địa này, đối với Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, có tăng thêm lợi ích chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Thưa ngài Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát vào lúc ban ngày nhập ba pháp Tam-ma-địa này, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có tăng thêm lợi ích, thì ở trong mộng có nhập ba pháp Tam-ma-địa ấy cũng tăng thêm lợi ích. Vì sao? Thưa ngài Xá-lợi Tử, vì ban ngày cùng trong mộng không sai biệt.

Thưa ngài Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát, ban ngày tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, mà đã gọi là tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì Đại Bồ-tát ấy, trong mộng tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng gọi là tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; ba pháp Tam-ma-địa đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể làm tăng thêm lợi ích, cũng giống như vậy.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

–Các Đại Bồ-tát ở trong mộng tạo nghiệp, thì có tăng thêm hoặc tổn giảm lợi ích chăng? Phật dạy rằng các pháp hữu vi là hư vọng, chẳng thật, như việc làm trong mộng, thế thì sao hành động kia có thể tăng hoặc giảm? Như thế là thế nào? Phải chăng đối với các nghiệp đã tạo trong mộng có thể tăng thêm lợi ích hoặc có thể tổn giảm, thậm chí khi tỉnh thức nhớ nghĩ, phân biệt các việc đã làm trong mộng cũng có sự tăng giảm?

Thiện Hiện đáp:

–Có những người ban ngày giết hại sinh mạng kẻ khác, rồi vào ban đêm trong mộng, nhớ nghĩ, phân biệt, tự cảm thấy rất vui sướng; hoặc có người trong mộng thấy giết kẻ khác tưởng là đang khi tỉnh nên phát sinh vui mừng; hai nghiệp như thế, theo ý ngài thì sao?

Xá-lợi Tử đáp:

–Không có cái đối tượng để duyên thì hoặc suy nghĩ, hoặc hành động đều chẳng phát sinh được; cần có đối tượng để duyên thì suy nghĩ và hành động mới phát khởi. Trong mộng, suy nghĩ và hành động duyên vào đâu mà sinh?

Thiện Hiện đáp:

–Đúng vậy, đúng vậy! Hoặc mộng, hoặc tỉnh, không có cái đối tượng để duyên thì suy nghĩ và hành động chẳng sinh; cần có đối tượng để duyên thì suy nghĩ và hành động mới hiện khởi. Vì sao? Thưa ngài Xá-lợi Tử, hoặc mộng, hoặc tỉnh, cần phải ở trong pháp thấy, nghe, hiểu, biết có sự chuyển biến của nhận thức, do đó mới khởi nhiễm hoặc tịnh. Nếu không có các pháp thấy nghe hiểu biết thì không có sự chuyển biến của nhận thức, cũng không nhiễm không tịnh. Do đó nên biết hoặc mộng, hoặc tỉnh, có cái đối tượng để duyên, thì suy nghĩ và hành động mới khởi; không có cái đối tượng để duyên thì suy nghĩ và hành động chẳng phát sinh.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

–Phật dạy rằng tư duy và tạo tác đều lìa tự tánh thì tại sao có thể nói là có đối tượng duyên hiện khởi?

Thiện Hiện đáp:

–Tuy các tư duy, tạo tác và pháp thuộc đối tượng duyên tự tánh đều là không, nhưng do tự tâm chấp giữ lấy hình tướng phân biệt, nên nói tự duy, tạo tác có đối tượng để duyên mới sinh; nếu không có đối tượng để duyên thì tư duy và tạo tác không khởi.

Bấy giờ, Cụ thọ Xá-lợi Tử lại hỏi Cụ thọ Thiện Hiện:

–Nếu Đại Bồ-tát, ở trong mộng tu hành Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã, đem căn lành ấy ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột thì Đại Bồ-tát ấy có phải thật hồi hướng Đại Bồ-đề chăng?

Cụ thọ Thiện Hiện nói với Xá-lợi Tử:

–Đại Bồ-tát Từ Thị, từ lâu đã được thọ ký không thoái chuyển, chỉ còn cách một đời nữa là nhất định sẽ thành Phật, đủ khả năng để trả lời một cách thuận hợp tất cả vấn nạn. Hiện tại, trong pháp hội này ta nên thỉnh vấn ngài. Từ Tôn Bổ xứ nhất định sẽ trả lời.

Khi ấy, Xá-lợi Tử theo lời của Thiện Hiện cung kính thỉnh vấn Bồ-tát Từ Thị.

Lúc này, Bồ-tát Từ Thị nói với Xá-lợi Tử:

–Đó gọi là những pháp gì để ta có thể giải đáp: Là sắc chăng? Là thọ, tưởng, hành, thức chăng? Là cái không của sắc chăng? Là cái không của thọ, tưởng, hành, thức chăng? Vả lại, sắc chẳng có thể giải đáp, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng có thể giải đáp. Cái không của sắc chẳng có thể giải đáp; cái không của thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng có thể giải đáp. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, ta hoàn toàn chẳng thấy có pháp nào là chủ thể giải đáp, có pháp nào là đối tượng được giải đáp, nơi chốn và thời gian giải đáp, và nhờ đấy mà được giải đáp cũng đều chẳng thấy. Ta hoàn toàn chẳng thấy có pháp gọi là chủ thể thọ ký, có pháp gọi là đối tượng được thọ ký; nơi chốn thọ ký, thời gian thọ ký, và nhờ đó mà được thọ ký cũng đều chẳng thấy. Vì bản tánh của tất cả pháp đều không, hoàn toàn không sở hữu, không hai, không phân biệt, rốt ráo tận cùng, chẳng thể nắm bắt được.

Khi ấy, Xá-lợi Tử lại hỏi Đại Bồ-tát Từ Thị:

–Pháp mà Ngài đã nói, có phải đúng như Ngài đã chứng chăng?

Đại Bồ-tát Từ Thị nói:

–Pháp mà ta đã nói chẳng phải như pháp đã chứng. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì pháp mà ta đã chứng là chẳng thể diễn đạt được.

Xá-lợi Tử lại nghĩ thế này: “Đại Bồ-tát Từ Thị trí tuệ sâu rộng đã tu tập tất cả pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa, viên mãn từ lâu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên đối với các câu hỏi, có thể giải đáp như thế.”

Bấy giờ, Đức Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Này Xá-lợi Tử, theo ý ông thì sao? Ông do pháp ấy mà chứng đắc quả A-la-hán, có phải thấy pháp ấy là có thể diễn nói chăng?

Xá-lợi Tử đáp:

–Bạch Thế Tôn, không thể! Bạch Thiện Thệ, không thể!

Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử, những pháp đã chứng của các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu cũng lại như vậy.

Này Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy chẳng nghĩ thế này: “Ta do pháp ấy sẽ được thọ ký; ta do pháp ấy hiện được thọ ký; ta do pháp ấy đã được thọ ký.” Chẳng nghĩ thế này: “Ta do pháp ấy sẽ được chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.”

Này Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu chẳng sinh do dự rằng: “Ta đối với quả vị Giác ngộ cao tột là đắc hay là chẳng đắc.”; chỉ nghĩ thế này: “Ta đối với quả vị Giác ngộ cao tột, nhất định sẽ chứng đắc.”

Này Xá-lợi Tử, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu, khi được nghe pháp sâu xa, tâm vị ấy chẳng kinh, chẳng hãi, chẳng sợ; đối với việc chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột cũng chẳng sợ sệt, quyết định tự biết là mình sẽ chứng đắc đối tượng đạt tới là quả vị Giác ngộ cao tột.

 


Trước

[Đầu trang][Mục lục Kinh Đại Bát Nhã]

Tiếp theo


[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]


[Mục lục tổng quát]