SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
HỘI THỨ I
Phẩm 49: KHÔNG THOÁI CHUYỂN
(QUYỂN 325 - 327)
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát không thoái chuyển có hạnh gì, có tướng trạng gì? Chúng con làm sao nhận biết là Đại Bồ-tát không thoái chuyển?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát có khả năng biết như thật về các bậc phàm phu, các bậc Thanh văn, các bậc Độc giác, các bậc Bồ-tát, các Bậc Như Lai, rằng trong chân như của các pháp, các bậc như thế không đổi khác, không phân biệt, đều không hai, không hai phần. Đại Bồ-tát ấy, tuy thật sự ngộ nhập chân như của các pháp không có sự phân biệt. Vì dùng vô sở đắc làm phương tiện nên Đại Bồ-tát ấy đã thật sự ngộ nhập chân như của các pháp rồi, tuy lãnh hội chân như cùng với tất cả các pháp là không hai, không khác nhưng không nghi ngờ vướng mắc. Vì sao? Vì chân như cùng tất cả các pháp, chẳng thể nói là một hoặc khác, là cùng hay chẳng cùng. Đại Bồ-tát ấy phát ra lời nói không bao giờ khinh suất, những lời nói ra đều mang ý nghĩa lợi ích; nếu không có ý nghĩa lợi ích thì chẳng bao giờ nói. Đại Bồ-tát ấy chẳng quán xem sự tốt xấu hơn kém của người khác, mà bình đẳng thương yêu, vì họ giảng nói chánh pháp.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát không thoái chuyển có các hành, các tướng trạng như thế nên nhận biết là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, lại căn cứ vào hành nào, vào những tướng trạng nào để biết là Đại Bồ-tát không thoái chuyển?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát có khả năng quán tất cả các pháp là không hành, không tướng trạng, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả các pháp là không hành, không dạng, không tướng thì Đại Bồ-tát ấy đối với pháp nào có thể thoái chuyển mà gọi là không thoái chuyển?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy đối với sắc thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với thọ, tưởng, hành, thức thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của sắc là không sở hữu, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng là không sở hữu. Đại Bồtát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với sắc thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với thọ, tưởng, hành, thức thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của sắc là không sở hữu, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng là không sở hữu. Đại Bồtát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với nhãn xứ thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của nhãn xứ là không sở hữu, tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với sắc xứ thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của sắc xứ là không sở hữu, tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với nhãn giới thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của nhãn giới là không sở hữu, tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với sắc giới thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của sắc giới là không sở hữu, tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với nhãn thức giới thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của nhãn thức giới là không sở hữu, tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với nhãn xúc thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của nhãn xúc là không sở hữu, tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là không sở hữu, tự tánh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với địa giới thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của địa giới là không sở hữu, tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với vô minh thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của vô minh là không sở hữu, tự tánh của hành cho đến lão tử cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với Bố thí ba-la-mật-đa thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của Bố thí ba-la-mật-đa là không sở hữu, tự tánh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với pháp không bên trong thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của pháp không bên trong là không sở hữu, tự tánh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với chân như thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của chân như là không sở hữu, tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với bốn Niệm trụ thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của bốn Niệm trụ là không sở hữu, tự tánh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với Thánh đế khổ thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với Thánh đế tập, diệt, đạo thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của Thánh đế khổ là không sở hữu, tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với bốn Tĩnh lự thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của bốn Tĩnh lự là không sở hữu, tự tánh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với tám Giải thoát thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của tám Giải thoát là không sở hữu, tự tánh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với pháp môn giải thoát Không thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của pháp môn giải thoát Không là không sở hữu, tự tánh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với năm loại mắt thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với sáu phép thần thông thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của năm loại mắt là không sở hữu, tự tánh của sáu phép thần thông cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với pháp môn Tam-ma-địa thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với pháp môn Đà-la-ni thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của pháp môn Tam-ma-địa là không sở hữu, tự tánh của pháp môn Đà-la-ni cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với mười lực của Phật thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của mười lực của Phật là không sở hữu, tự tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với quả Dự lưu thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của quả Dự lưu là không sở hữu, tự tánh của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với quả vị Độc giác thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của quả vị Độc giác là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với trí Nhất thiết thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của trí Nhất thiết là không sở hữu, tự tánh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với địa vị phàm phu thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với quả vị Thanh văn, quả vị Độc giác, quả vị Bồ-tát, quả vị Như Lai thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của địa vị phàm phu là không sở hữu, tự tánh của quả vị Thanh văn, quả vị Độc giác, quả vị Bồ-tát, quả vị Như Lai cũng là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ấy vì đối với quả vị Giác ngộ cao tột thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tự tánh của quả vị Giác ngộ cao tột là không sở hữu. Đại Bồ-tát nào chẳng an trú trong đó thì gọi là thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì chẳng bao giờ thích quan sát hình tướng, ngôn thuyết của Sa-môn, Bà-lamôn ngoại đạo. Các Sa-môn, Bà-la-môn ấy, đối với các pháp được nhận thức mà có sự nhận thức, hiểu biết đích thật, hoặc có thể kiến lập được nẻo chánh kiến thì chắc chắn không hề có việc ấy.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu đầy đủ các hành, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì đối với pháp Tỳ-nại-da mà Phật đã dạy, phát sinh sự tin, hiểu sâu xa, quyết không nghi hoặc, không chấp thủ giới cấm, chẳng rơi vào tà kiến, chẳng chấp vào các điềm tốt của thế tục cho là thanh tịnh, không bao giờ lễ kính các Thiên thần như các việc thờ cúng của thế gian ngoại đạo, cũng chẳng bao giờ dùng các loại tràng hoa, hương bột, y phục, chuỗi báu cờ phướn, lọng báu, nhạc hay, đèn đuốc sáng để cúng dường Thiên thần và các hàng ngoại đạo.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu đầy đủ các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồtát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì chẳng sinh vào trong các nẻo địa ngục, bàng sinh, quỷ giới, A-tố-lạc, cũng chẳng sinh vào các chủng tộc thấp hèn như Chiênđà-la, Bổ-yết-sa..., cũng chẳng bao giờ thọ sinh mang thân tướng như nam căn không đủ, vô hình, hai hình và thân nữ nhân, cũng chẳng bao giờ thọ thân tướng bị đui, điếc, câm ngọng, tay chân co quắp, hủi lác, lùn xấu, cũng chẳng bao giờ sinh vào chốn không có thời giờ rảnh rỗi.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì thường ưa thọ trì mười nẻo nghiệp thiện, tự xa lìa việc giết hại sinh mạng, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp xa lìa việc giết hại sinh mạng; hoan hỷ khen ngợi người xa lìa việc giết hại sinh mạng; tự xa lìa việc không cho mà lấy, cũng khuyên người khác xa lìa việc không cho mà lấy, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp xa lìa việc không cho mà lấy, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa việc không cho mà lấy; tự xa lìa dâm dục, tà hạnh, cũng khuyên người khác xa lìa dâm dục, tà hạnh, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp xa lìa dâm dục, tà hạnh, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa dâm dục, tà hạnh; tự xa lìa lời nói hư dối, cũng khuyên người khác xa lìa lời nói hư dối, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp xa lìa lời nói hư dối, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa lời nói hư dối; nên tự xa lìa lời nói thô ác, cũng khuyên người khác xa lìa lời nói thô ác, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp xa lìa lời nói thô ác, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa lời nói thô ác; nên tự xa lìa lời nói chia rẽ, cũng khuyên người khác xa lìa lời nói chia rẽ, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp xa lìa lời nói chia rẽ, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa lời nói chia rẽ; nên tự xa lìa lời nói hỗn tạp, cũng khuyên người khác xa lìa lời nói hỗn tạp, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp xa lìa lời nói hỗn tạp, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa lời nói hỗn tạp; nên tự xa lìa tham dục, cũng khuyên người khác xa lìa tham dục, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp xa lìa tham dục, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa tham dục; nên tự xa lìa sân giận, cũng khuyên người khác xa lìa sân giận, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp xa lìa sân giận, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa sân giận; nên tự xa lìa tà kiến, cũng khuyên người khác xa lìa tà kiến, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp xa lìa tà kiến, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa tà kiến. Đại Bồ-tát ấy ngay trong mộng cũng chẳng hiện khởi mười nẻo nghiệp ác, huống là lúc tỉnh.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu đầy đủ các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồtát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì vì nhằm làm lợi ích cho tất cả hữu tình mà luôn tu Bố thí ba-la-mật-đa; vì nhằm làm lợi ích cho tất cả hữu tình mà luôn tu An nhẫn ba-la-mật-đa; vì nhằm làm lợi ích cho tất cả hữu tình mà luôn tu Tinh tấn ba-la-mật-đa; vì nhằm làm lợi ích cho tất cả hữu tình mà luôn tu Tĩnh lự ba-la-mật-đa; vì nhằm làm lợi ích cho tất cả hữu tình mà luôn tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì các giáo pháp thanh tịnh mà họ thọ trì, tư duy, đọc tụng luôn rốt ráo thông lợi, đó là Khế kinh, Ứng tụng, Ký biệt, Phúng tụng, Tự thuyết, Duyên khởi, Bản sự, Bản sinh, Phương quảng, Hy pháp, Thí dụ, Luận nghị. Đem những pháp như thế, thường ưa bố thí cho tất cả hữu tình, luôn nhớ nghĩ thế này: “Nên làm thế nào khiến cho chỗ nguyện cầu về chánh pháp của các loài hữu tình đều được đầy đủ. Lại đem căn lành pháp thí ấy ban cho các hữu tình, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì đối với các pháp môn sâu xa mà Phật đã dạy không bao giờ sinh nghi hoặc, do dự?
Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì duyên do gì mà Đại Bồ-tát không thoái chuyển đối với pháp môn sâu xa mà Phật đã dạy không bao giờ sinh nghi hoặc, do dự?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy hoàn toàn không thấy có một pháp nào có thể nghi hoặc, do dự. Đó là chẳng thấy có sắc, cũng chẳng thấy có thọ, tưởng, hành, thức có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có sắc xứ, cũng chẳng thấy có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có nhãn giới, cũng chẳng thấy có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có sắc giới, cũng chẳng thấy có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có nhãn thức giới, cũng chẳng thấy có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có nhãn xúc, cũng chẳng thấy có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, cũng chẳng thấy có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có địa giới, cũng chẳng thấy có thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có vô minh, cũng chẳng thấy có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có Bố thí ba-la-mật-đa, cũng chẳng thấy có Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có pháp không bên trong, cũng chẳng thấy có pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có chân như, cũng chẳng thấy có pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có bốn Niệm trụ, cũng chẳng thấy có bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có Thánh đế khổ, cũng chẳng thấy có Thánh đế tập, diệt, đạo có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có bốn Tĩnh lự, cũng chẳng thấy có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có tám Giải thoát, cũng chẳng thấy có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có pháp môn giải thoát Không, cũng chẳng thấy có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có năm loại mắt, cũng chẳng thấy có sáu phép thần thông có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có pháp môn Tam-ma-địa, cũng chẳng thấy có pháp môn Đà-la-ni có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có mười lực của Phật, cũng chẳng thấy có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có quả Dự lưu, cũng chẳng thấy có quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có quả vị Độc giác có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có trí Nhất thiết, cũng chẳng thấy có trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có thể sinh nghi hoặc, do dự; chẳng thấy có địa vị phàm phu, cũng chẳng thấy có địa vị Thanh văn, địa vị Độc giác, địa vị Bồ-tát, địa vị Như Lai có thể sinh nghi hoặc, do dự. Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì thành tựu nhuần nhuyễn các nghiệp thân, ngữ, ý luôn được mến mộ; đối với các hữu tình tâm không vướng mắc.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì thường xuyên thành tựu các pháp Từ, Bi, Hỷ, Xả... Khởi nghiệp thân, ngữ, ý tương ưng.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì quyết định không ở chung với năm cái là tham dục, sân hận, hôn trầm, thùy miên, trạo cử, ác tác - nghi.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì tất cả tùy miên đều được ngăn trừ; tất cả sự trói buộc của tùy phiền não đều vĩnh viễn chẳng thể dấy khởi.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì vào ra qua lại, tâm chẳng mê lầm, luôn luôn an trú nơi chánh niệm, chánh tri; cử chỉ oai nghi đi đứng nằm ngồi, cất bước, hạ bước cũng lại như thế; đi đến nơi nào đều nhìn xuống đất, ung dung giữ vững niệm, thẳng đường mà đi; cử động nói năng đều không vội vàng, thô tháo.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì các vật dùng như đồ nằm, y phục đều luôn thơm sạch, không hôi hám, cũng không có mồ hôi cáu bẩn, không có các loại trùng bọ như rận, chí... tâm ưa thanh cao, thân không tật bệnh.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì thân tâm thanh tịnh, chẳng phải như thân của người thường luôn bị tận ổ trùng bọ gây hại. Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy, căn lành tăng trưởng, vượt khỏi thế gian, thọ thân hình trong ngoài đều thanh tịnh nên không có các loại trùng gây hại thân thể. Căn lành như thế, dần dần tăng trưởng, và cứ như vậy, thân tâm càng thanh tịnh. Do nhân duyên này, các Bồ-tát ấy, thân tâm kiên cố, giống như kim cương, chẳng bị nghịch duyên xâm phạm, não hại.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì sao mà Đại Bồ-tát ấy thân tâm được thanh tịnh như thế?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy các căn lành như thế, dần dần tăng trưởng, và cứ như vậy do diệu lực từ căn lành ấy mà tính chất dua nịnh quanh co nơi thân tâm được trừ diệt, cho đến cùng tận đời vị lai rốt ráo chẳng còn dấy khởi, do đó mà được thân tâm thanh tịnh.
Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thiện căn như thế dần dần tăng trưởng, và cứ như thế, các nghiệp thân ngữ ý vì nhờ diệu lực từ căn lành làm trong sạch nên xa lìa tất cả các thứ uế trược tà vạy, do đó mà thân tâm được thanh tịnh. Vì thân tâm thanh tịnh nên vượt qua địa vị Thanh văn và Độc giác, an trú nơi quả vị Bồ-tát kiên cố bất động.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì chẳng xem trọng lợi dưỡng, chẳng màng chuyện được khen ngợi; đối với các đồ ăn thức uống, y phục, dụng cụ để nằm ngồi, phòng xá, của cải đều chẳng tham đắm. Tuy thọ mười hai công đức Đỗ-đa nhưng hoàn toàn không chút ỷ lại.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì thường tu Bố thí ba-la-mậtđa, tâm tham lam keo kiệt rốt ráo chẳng khởi; thường tu Tịnh giới ba-la-mật-đa, tâm phạm giới rốt ráo chẳng khởi; thường tu An nhẫn ba-la-mậtđa, tâm sân giận rốt ráo chẳng khởi; thường tu Tinh tấn ba-la-mật-đa, tâm biếng trễ rốt ráo chẳng khởi; thường tu Tĩnh lự ba-la-mật-đa, tâm tán loạn rốt ráo chẳng khởi; thường tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm ngu si rốt ráo chẳng khởi. Do đó, các tâm ganh ghét, dua nịnh dối trá, kiêu mạn, phóng túng, che lấp, não hại cũng vĩnh viễn chẳng khởi.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì tuệ giác luôn kiên cố, có khả năng ngộ nhập sâu xa, lãnh hội chánh pháp, cung kính tín thọ, tùy theo pháp thế và xuất thế đã nghe, đều có khả năng dùng phương tiện hội nhập diệu nghĩa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các sự nghiệp đã tạo tác trong thế gian cũng nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà hội nhập pháp tánh, chẳng thấy có một sự việc nào nằm ngoài pháp tánh. Nếu có pháp nào chẳng tương ưng với pháp tánh thì cũng có khả năng dùng phương tiện để hội nhập vào diệu lý Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Do đó, chẳng thấy có pháp nào nằm ngoài pháp tánh.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì dù có ác ma hiện rõ trước mặt, hóa ra tám đại địa ngục ấy, hóa làm nhiều Bồtát, nhiều ngàn Bồ-tát, nhiều ức Bồ-tát, nhiều trăm ức Bồ-tát, nhiều ngàn ức Bồ-tát, nhiều trăm ngàn ức Bồ-tát, nhiều trăm ngàn ức triệu Bồ-tát đều bị lửa dữ thiêu đốt xuyên suốt, ai nấy đều chịu nỗi thống khổ độc hại cùng cực; hóa làm như thế rồi, ác ma nói với các Bồ-tát không thoái chuyển rằng: Đây là những Đại Bồ-tát đều được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký không thoái chuyển nên sinh vào các đại địa ngục như thế, luôn luôn chịu các nỗi khổ sở kịch liệt như vậy. Các ông là Bồ-tát đã nhận sự thọ ký không thoái chuyển của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng sẽ đọa vào các đại địa ngục này chịu bao nỗi thống khổ cùng cực trong đại địa ngục, chứ chẳng phải thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột không thoái chuyển cho các ông. Cho nên các ông phải mau xả bỏ tâm Đại Bồ-đề thì mới có thể được thoát khỏi nỗi khổ của đại địa ngục, sinh lên cõi trời, hoặc cõi người hưởng thọ sự giàu sang, an lạc.
Này Thiện Hiện, lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát không thoái chuyển thấy nghe sự việc như vậy, tâm họ bất động, cũng chẳng sợ hãi, nghi ngờ, chỉ nghĩ thế này: Đại Bồ-tát được thọ ký không thoái chuyển mà bị đọa vào các nẻo dữ địa ngục, bàng sinh, quỷ giới, A-tố-lạc thì chẳng bao giờ có việc ấy. Vì sao? Vì quả vị Bồ-tát không thoái chuyển nhất định không có nghiệp bất thiện, cũng không có nghiệp thiện mà phải rước lấy quả khổ. Như Lai nhất định không nói lời hư dối. Những điều Phật giảng dạy đều vì lợi lạc cho tất cả hữu tình, do tâm đại Từ bi mà phát sinh thể hiện. Các sự việc đã thấy nghe kia nhất định là do ác ma làm ra, nói ra.
Này Thiện Hiện, thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, giả sử có ác ma giả dạng Sa-môn đi đến chỗ vị ấy nói như thế này: “Trước đây ông đã nghe lời chỉ dạy nên tu Bố thí ba-la-mật-đa rốt ráo viên mãn, nên tu Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa rốt ráo viên mãn thì sẽ chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột; những điều đã nghe như thế đều là tà thuyết, phải mau xả bỏ. Lại, trước đây ông đã nghe lời chỉ dạy, nên đối với căn lành từ công đức của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cùng các hàng đệ tử trong quá khứ, vị lai và hiện tại từ khi mới phát tâm cho đến lúc trụ pháp đều sinh tùy hỷ, tất cả được tập trung, cùng với các hữu tình hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột. Những điều đã nghe như thế cũng là tà thuyết, phải mau xả bỏ. Nếu ông xả bỏ tà pháp đã nghe thì ta sẽ chỉ dạy cho ông Phật pháp chân thật của Phật. Văn tụng ấy là loại biên chép hư vọng. Những điều ta nói mới là lời chân thật của Phật.” Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát nghe nói như thế tâm liền dao động sợ hãi, nghi ngờ thì nên biết là vị ấy chưa được chư Phật thọ ký không thoái chuyển. Vị ấy đối với quả vị Giác ngộ cao tột còn chưa quyết định. Này Thiện Hiện, còn nếu Đại Bồtát nghe nói như thế mà tâm bất động, cũng chẳng sợ hãi, nghi ngờ, chỉ thuận theo pháp tánh không tác, không tướng, không sinh mà an trú thì này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi làm điều gì, cũng chẳng tin lời kẻ khác, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu Bố thí ba-la-mật-đa; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà an trú pháp không bên trong, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà an trú pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà an trú chân như, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà an trú pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu bốn Niệm trụ, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà an trú Thánh đế khổ, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà an trú Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu bốn Tĩnh lự, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu tám Giải thoát, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu pháp môn giải thoát Không, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu bậc Cực hỷ, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu năm loại mắt, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu sáu phép thần thông; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu pháp môn Tam-ma-địa, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu pháp môn Đàla-ni; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu mười lực của Phật, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu phép quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà khởi chứng trí quả Dự lưu, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà khởi chứng trí quả Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà khởi chứng trí quả vị Độc giác; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà khởi nhập trí bậc Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà làm nghiêm tịnh cõi Phật; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà khởi thần thông của Bồ-tát; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu trí Nhất thiết, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà đoạn tất cả tập khí phiền não tương tục; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu pháp không quên mất; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu tánh luôn luôn xả; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tự nhiếp thọ tuổi thọ viên mãn; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà chuyển pháp luân; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà hộ trì chánh pháp; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, như A-la-hán dứt sạch các lậu, khi làm việc gì chẳng tin vào lời của kẻ khác mà chứng đắc pháp tánh, không nghi, không lầm, tất cả ác ma chẳng có thể làm lay động, cũng thế Đại Bồ-tát không thoái chuyển, tất cả hàng Thanh văn, Độc giác, hoặc ngoại đạo, các ác ma... Chẳng thể phá hoại, làm lung lạc khiến cho họ đối với quả vị Giác ngộ cao tột sinh tâm thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy quyết định đã trụ nơi quả vị không thoái chuyển, có làm việc gì đều tự tư duy, chẳng phải tin vào kẻ khác mà làm; kể cả Bậc Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có dạy bảo còn chẳng tin làm, huống hồ là tin và làm theo lời của hàng Thanh văn, Độc giác, ngoại đạo, ác ma... Việc làm của Bồ-tát ấy, nếu chỉ tin vào kẻ khác mà thực hiện thì quyết không thể có việc có. Vì sao?
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy có pháp nào có thể tin tưởng, làm theo. Vì sao?
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy sắc, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của sắc, chẳng thấy chân như của thọ, tưởng, hành, thức có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy nhãn xứ, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của nhãn xứ, chẳng thấy chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy sắc xứ, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của sắc xứ, chẳng thấy chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể tin tưởng, làm theo. Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy nhãn giới, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của nhãn giới, chẳng thấy chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy sắc giới, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của sắc giới, chẳng thấy chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy nhãn thức giới, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của nhãn thức giới, chẳng thấy chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy nhãn xúc, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của nhãn xúc, chẳng thấy chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng thấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng thấy chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy địa giới, chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của địa giới, chẳng thấy chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy vô minh, chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của vô minh, chẳng thấy chân như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng thấy Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng thấy chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy pháp không bên trong, chẳng thấy pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của pháp không bên trong, chẳng thấy chân như của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy chân như, chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của chân như, chẳng thấy chân như của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy bốn Niệm trụ, chẳng thấy bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của bốn Niệm trụ, chẳng thấy chân như của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy Thánh đế khổ, chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của Thánh đế khổ, chẳng thấy chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy bốn Tĩnh lự, chẳng thấy bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của bốn Tĩnh lự, chẳng thấy chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy tám Giải thoát, chẳng thấy tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của tám Giải thoát, chẳng thấy chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy pháp môn giải thoát Không, chẳng thấy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của pháp môn giải thoát Không, chẳng thấy chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy năm loại mắt, chẳng thấy sáu phép thần thông có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của năm loại mắt, chẳng thấy chân như của sáu phép thần thông có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy pháp môn Tam-ma-địa, chẳng thấy pháp môn Đàla-ni có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của pháp môn Tam-ma-địa, chẳng thấy chân như của pháp môn Đà-la-ni có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy mười lực của Phật, chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của mười lực của Phật, chẳng thấy chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy quả Dự lưu, chẳng thấy quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của quả Dự lưu, chẳng thấy chân như của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy quả vị Độc giác có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của quả vị Độc giác có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trí Nhất thiết, chẳng thấy trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của trí Nhất thiết, chẳng thấy chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy địa vị phàm phu, chẳng thấy quả vị Thanh văn, quả vị Độc giác, quả vị Bồ-tát, quả vị Như Lai có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như của địa vị phàm phu, chẳng thấy chân như của quả vị Thanh văn, quả vị Độc giác, quả vị Bồ-tát, quả vị Như Lai có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chân như nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu là Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, giả sử có ác ma giả dạng Bísô đến chỗ vị ấy nói như thế này: “Pháp của các ông đang tu hành là pháp sinh tử, chẳng phải do pháp này mà đạt được trí Nhất thiết. Nay các ông nên tu theo đạo dứt hết khổ, mau dứt sạch hết các khổ thì chứng nhập Niết-bàn.” Khi ấy, ác ma liền nói cho Bồ-tát nghe về đạo pháp tương tợ chỉ khiến đọa lạc vào nẻo sinh tử đó là quán tưởng về xương, hoặc quán tưởng về sự xanh bầm, hoặc quán tưởng về mủ bị vỡ ra, hoặc quán tưởng về sự sình chướng, hoặc quán tưởng bị trùng bọ rỉa đục, hoặc quán tưởng về trường hợp chuyển thành màu đỏ, hoặc Từ, hoặc Bi, hoặc Hỷ, hoặc Xả, hoặc Sơ thiền, hoặc cho đến đệ Tứ thiền, hoặc Không vô biên xứ, hoặc cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Rồi bảo Bồ-tát rằng: “Đây là đạo chân thật, hạnh chân chính. Ông tu theo đạo này, hạnh này sẽ đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, hoặc quả vị Độc giác. Ông do đạo này, do hạnh này mau dứt sạch tất cả sinh, già, bệnh, chết, chứ chịu khổ về sinh tử lâu như vậy làm gì; thân khổ hiện tại còn nên nhàm chán vứt bỏ, huống hồ là cầu nhận lấy thân khổ ở vị lai! Nên tự suy nghĩ kỹ, lìa bỏ sự tin tưởng trước kia đi.” Thì, này Thiện Hiện, Đại Bồtát ấy khi nghe những lời như thế tâm họ bất động, cũng chẳng sợ hãi, chẳng nghi ngờ, chỉ nghĩ thế này: “Nay Bí-sô ấy đem lại lợi ích cho ta chẳng nhỏ, có thể vì ta mà nói đạo pháp tương tợ, khiến ta biết đạo này chẳng thể chứng đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, hoặc quả vị Độc giác, huống hồ là có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật! Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ như thế rồi, liền phát sinh sự hoan hỷ sâu xa, lại suy nghĩ tiếp: “Nay Bí-sô này rất có ích cho ta, vì ta mà phương tiện giảng nói pháp trở ngại, khiến ta biết rõ pháp trở ngại rồi thì đối với đạo của ba thừa, tự tại tu học.”
Này Thiện Hiện, bấy giờ ác ma biết Bồ-tát ấy tâm rất vui mừng, lại nói thế này: “Này vị thiện nam, ngươi có muốn thấy các Đại Bồ-tát, trải qua thời gian lâu xa, đã siêng năng tu hành hạnh chẳng đem lại lợi ích gì chăng? Đó là chúng Đại Bồ-tát trải qua hằng hà sa số đại kiếp dùng vô lượng các tứ y phục, đồ ăn uống, đồ nằm thuốc thang, của cải, hương hoa... đều là loại thượng diệu để cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen hằng hà sa chư Phật Thế Tôn. Lại ở chỗ hằng hà sa chư Phật, tu hành Bố thí ba-la-mật-đa, tu hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật học an trú pháp không bên trong, học an trú pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật học an trú chân như, học an trú pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu bốn Niệm trụ, tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật học an trú Thánh đế khổ, học an trú Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu bốn Tĩnh lự, tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu tám Giải thoát, tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu pháp môn giải thoát Không, tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu bậc Cực hỷ, tu bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu năm loại mắt, tu sáu phép thần thông; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu pháp môn Tam-ma-địa, tu pháp môn Đà-la-ni; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu mười lực của Phật, tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu pháp không quên mất; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu tánh luôn luôn xả; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật làm nghiêm tịnh cõi Phật, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu các thần thông thù thắng của Bồ-tát; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu tuổi thọ viên mãn, học chuyển pháp luân, hộ trì chánh pháp; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu trí Nhất thiết, tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Các chúng Đại Bồ-tát ấy cũng gần gũi phụng sự hằng hà sa chư Phật, ở chỗ chư Phật thỉnh vấn đạo của Đại Bồ-tát, nghĩa là nói như thế này: Đại Bồ-tát an trú nơi Đại thừa như thế nào? Đại Bồ-tát tu hành Bố thí ba-la-mật-đa, tu hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào? Đại Bồ-tát học an trú pháp không bên trong, học an trú pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh như thế nào? Đại Bồ-tát học an trú chân như, học an trú pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn như thế nào? Đại Bồ-tát tu bốn Niệm trụ, tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo như thế nào? Đại Bồ-tát học an trú Thánh đế khổ, học an trú Thánh đế tập, diệt, đạo như thế nào? Đại Bồ-tát tu bốn Tĩnh lự, tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc như thế nào? Đại Bồ-tát tu tám Giải thoát, tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ như thế nào? Đại Bồ-tát tu pháp môn giải thoát Không, tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện như thế nào? Đại Bồ-tát tu bậc Cực hỷ, tu bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân như thế nào? Đại Bồ-tát tu năm loại mắt, tu sáu phép thần thông như thế nào? Đại Bồ-tát tu pháp môn Tam-ma-địa, tu pháp môn Đà-la-ni như thế nào? Đại Bồ-tát tu mười lực của Phật, tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng như thế nào? Đại Bồtát tu pháp không quên mất như thế nào? Đại Bồtát tu tánh luôn luôn xả như thế nào? Đại Bồ-tát tu quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch như thế nào? Đại Bồ-tát làm nghiêm tịnh cõi Phật, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình như thế nào? Đại Bồ-tát tu các thần thông thù thắng của Bồ-tát như thế nào? Đại Bồ-tát tu tuổi thọ viên mãn như thế nào? Đại Bồ-tát học chuyển đại pháp luân như thế nào? Đại Bồ-tát hộ trì chánh pháp khiến được tồn tại lâu dài như thế nào? Đại Bồ-tát tu trí Nhất thiết, tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng như thế nào?
Hằng hà sa chư Phật Thế Tôn như lời thỉnh vấn mà lần lượt giảng thuyết. Các chúng Đại Bồ-tát ấy theo lời Phật chỉ dạy an trú tu học, trải qua vô lượng kiếp nỗ lực tinh tấn còn chẳng thể chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột sao!
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tuy nghe nói như vậy nhưng tâm không đổi khác, chẳng kinh, chẳng sợ, không hề nghi hoặc, lại càng hoan hỷ và suy nghĩ thế này: “Nay Bí-sô ấy, đem đến cho ta nhiều lợi ích, vì ta mà phương tiện giảng nói pháp chướng đạo, khiến ta biết rõ pháp chướng đạo này, quyết định chẳng có thể chứng quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, hoặc quả vị Độc giác, huống hồ là có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí.”
Này Thiện Hiện, khi ấy ác ma kia biết tâm Đại Bồ-tát ấy chẳng thoái chuyển, không sợ hãi, không nghi hoặc, liền ngay nơi ấy hóa làm vô lượng hình dạng Bí-sô, nói với Bồ-tát rằng: “Những Bí-sô này đều ở đời quá khứ dốc mong cầu quả vị Giác ngộ cao tột, trải qua vô lượng kiếp, tu tập vô số các hạnh khổ hạnh khó làm mà chẳng có thể chứng đắc, nay đều thoái lui, chỉ giữ lấy quả vị A-la-hán, các lậu đã hết, qua khỏi biển khổ, thì làm sao mà các vị kia có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thấy nghe như vậy rồi, liền nghĩ như thế này: “Nhất định là ác ma hóa làm hình dáng Bí-sô như thế để nhiễu loạn tâm ta, nhân đó nói đạo pháp tương tợ, tạo chướng ngại chứ không có Đại Bồ-tát nào tu hành Bát-nhã bala-mật-đa đạt đến địa vị viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, còn thoái chuyển rơi xuống hàng Thanh văn, hoặc quả vị Độc giác.”
Bấy giờ, Bồ-tát lại nghĩ: “Nếu Đại Bồ-tát tu hành Bố thí ba-la-mật-đa, tu hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồtát học an trú pháp không bên trong, học an trú pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát học an trú chân như, học an trú pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát tu bốn Niệm trụ, tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát học an trú Thánh đế khổ, học an trú Thánh đế tập, diệt, đạo đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát tu bốn Tĩnh lự, tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát tu tám Giải thoát, tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát tu pháp môn giải thoát Không, tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát tu bậc Cực hỷ, tu bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát tu năm loại mắt, tu sáu phép thần thông đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát tu pháp môn Tamma-địa, tu pháp môn Đà-la-ni đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát tu mười lực của Phật, tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát tu pháp không quên mất đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát tu tánh luôn luôn xả đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát tu quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát làm nghiêm tịnh cõi Phật, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát tu các thần thông thù thắng của Bồ-tát đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát tu tuổi thọ viên mãn đến chỗ rốt ráo mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát học chuyển pháp luân, hộ trì chánh pháp đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó. Nếu Đại Bồ-tát tu trí Nhất thiết, tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì quyết không thể có việc đó.”
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thường hành Bát-nhã ba-lamật-đa, thì luôn nghĩ thế này: “Nếu Đại Bồ-tát theo lời Phật dạy siêng năng tu học thì thường chẳng xa lìa diệu hạnh đã nhiếp thọ là Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, thường chẳng xa lìa tác ý tương ưng với Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa, thường chẳng xa lìa nẻo tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí; thường dùng phương tiện khuyên các hữu tình cần tu học Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy quyết định chẳng từ bỏ Bố thí ba-lamật-đa, quyết định chẳng từ bỏ Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; quyết định chẳng từ bỏ pháp không bên trong, quyết định chẳng từ bỏ pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; quyết định chẳng từ bỏ chân như, quyết định chẳng từ bỏ pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; quyết định chẳng từ bỏ bốn Niệm trụ, quyết định chẳng từ bỏ bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; quyết định chẳng từ bỏ Thánh đế khổ, quyết định chẳng từ bỏ Thánh đế tập, diệt, đạo; quyết định chẳng từ bỏ bốn Tĩnh lự, quyết định chẳng từ bỏ bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; quyết định chẳng từ bỏ tám Giải thoát, quyết định chẳng từ bỏ tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; quyết định chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát Không, quyết định chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; quyết định chẳng từ bỏ bậc Cực hỷ, quyết định chẳng từ bỏ bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; quyết định chẳng từ bỏ năm loại mắt, quyết định chẳng từ bỏ sáu phép thần thông; quyết định chẳng từ bỏ pháp môn Tam-ma-địa, quyết định chẳng từ bỏ pháp môn Đà-la-ni; quyết định chẳng từ bỏ mười lực của Phật, quyết định chẳng từ bỏ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; quyết định chẳng từ bỏ pháp không quên mất; quyết định chẳng từ bỏ tánh luôn luôn xả; quyết định chẳng từ bỏ trí Nhất thiết, quyết định chẳng từ bỏ trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; quyết định chẳng từ bỏ quả vị Giác ngộ cao tột.”
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thường hành Bát-nhã ba-lamật-đa, thì luôn luôn nghĩ thế này: “Nếu Đại Bồtát hiểu biết việc ma thì chẳng hề theo việc ma; hiểu biết bạn ác thì chẳng hề nghe lời bạn ác; hiểu biết cảnh giới thì chẳng chuyển theo cảnh giới; Đại Bồ-tát ấy quyết định chẳng từ bỏ Bố thí ba-la-mậtđa, quyết định chẳng từ bỏ Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; quyết định chẳng từ bỏ pháp không bên trong, quyết định chẳng từ bỏ pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; quyết định chẳng từ bỏ chân như, quyết định chẳng từ bỏ pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; quyết định chẳng từ bỏ bốn Niệm trụ, quyết định chẳng từ bỏ bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; quyết định chẳng từ bỏ Thánh đế khổ, quyết định chẳng từ bỏ Thánh đế tập, diệt, đạo; quyết định chẳng từ bỏ bốn Tĩnh lự, quyết định chẳng từ bỏ bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; quyết định chẳng từ bỏ tám Giải thoát, quyết định chẳng từ bỏ tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; quyết định chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát Không, quyết định chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; quyết định chẳng từ bỏ bậc Cực hỷ, quyết định chẳng từ bỏ bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; quyết định chẳng từ bỏ năm loại mắt, quyết định chẳng từ bỏ sáu phép thần thông; quyết định chẳng từ bỏ pháp môn Tam-ma-địa, quyết định chẳng từ bỏ pháp môn Đà-la-ni; quyết định chẳng từ bỏ mười lực của Phật, quyết định chẳng từ bỏ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; quyết định chẳng từ bỏ pháp không quên mất; quyết định chẳng từ bỏ tánh luôn luôn xả; quyết định chẳng từ bỏ trí Nhất thiết, quyết định chẳng từ bỏ trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; quyết định chẳng từ bỏ quả vị Giác ngộ cao tột.”
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển khi nghe giáo pháp quan trọng mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã nói, thì thân tâm hoan hỷ, cung kính tín thọ, khéo lãnh hội diệu nghĩa, tâm họ kiên cố, giống như kim cang chẳng thể lay chuyển, chẳng thể lung lạc, thường siêng tu học Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng khuyên các hữu tình tinh cần tu học Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì đối với cái gì thoái chuyển mà gọi là không thoái chuyển?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi sắc thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi thọ, tưởng, hành, thức thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi nhãn xứ thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi sắc xứ thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi nhãn giới thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi sắc giới thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi nhãn thức giới thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi nhãn xúc thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi địa giới thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi thủy, hỏa, phong, không, thức giới thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi vô minh thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi tham thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi sân, si, các tưởng nơi ác kiến thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi Bố thí ba-la-mật-đa thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi pháp không bên trong thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi chân như thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi bốn Niệm trụ thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi Thánh đế khổ thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi Thánh đế tập, diệt, đạo thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi bốn Tĩnh lự thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi pháp môn giải thoát Không thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi bậc Cực hỷ thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi năm loại mắt thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi sáu phép thần thông thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi pháp môn Tam-ma-địa thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi pháp môn Đà-la-ni thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi mười lực của Phật thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi pháp không quên mất thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi tánh luôn luôn xả thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi quả Dự lưu thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi quả vị Độc giác thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi trí Nhất thiết thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nơi phàm phu thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; vì đối với tưởng nơi Thanh văn, tưởng nơi Độc giác, tưởng nơi Bồ-tát, tưởng nơi Như Lai thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Vì sao?
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy đã từ tự tướng không quán chiếu tất cả pháp, đã nhập nẻo Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, cho đến chẳng thấy một pháp nhỏ nào có thể nắm bắt được; vì chẳng thể nắm bắt được nên không có sự tạo tác; vì không có sự tạo tác nên rốt ráo chẳng sinh; vì rốt ráo chẳng sinh nên gọi là Vô sinh pháp nhẫn. Do chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn như thế nên gọi là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, giả sử có ác ma đi đến chỗ vị ấy, vì nhằm não hại nên nói với Bồ-tát rằng: “Quả vị Giác ngộ cao tột cùng với hư không như nhau, tự tướng, tự tánh đều rốt ráo không, hoàn toàn không sở hữu; tự tánh, tự tướng của các pháp cũng vậy, cùng với hư không như nhau; trong cái rốt ráo không của tự tánh, tự tướng ấy, không có một pháp nào có thể gọi là chủ thể chứng đắc, không có một pháp nào có thể gọi là chủ thể chứng đắc, không có một pháp nào có thể gọi là đối tượng được chứng đắc, nơi chốn chứng, thời điểm chứng và do pháp này mà được chứng cũng đều chẳng thể nắm bắt được. Tánh tướng của tất cả pháp đều đã là không, cùng với hư không như nhau thì tại sao các ông lại chịu sự cần khổ vô ích để cầu chứng quả vị Giác ngộ cao tột thì đó đều là lời của ma nói, chẳng phải là lời dạy chân thật của Phật. Các ông nên bỏ chí nguyện lớn cầu đạt giác ngộ, chớ vì sự lợi ích không thiết thực đối với tất cả hữu tình mà tự gánh lấy sự khổ nhọc lâu dài; tuy thực hiện các hạnh khổ hạnh, khó làm nhằm cầu quả vị Bồ-đề, nhưng chẳng bao giờ đạt được.” Này Thiện Hiện, Đại Bồtát ấy khi nghe những lời nói như thế liền quan sát kỹ việc làm của ác ma này, là muốn cản trở phá hoại tâm dốc cầu quả vị Giác ngộ cao tột. Ta nay chẳng nên tin theo lời kẻ ấy. Tuy tất cả pháp cùng với hư không như nhau, tự tánh, tự tướng đều rốt ráo không, nhưng các hữu tình ở trong đêm dài sinh tử đều chẳng biết chẳng thấy, chẳng hiểu, chẳng tỉnh, luôn điên đảo, phóng dật, chịu bao nỗi khổ dữ dội. Ta nên mang áo giáp công đức lớn lao tánh tướng đều không như hư không bao la, mau hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, vì các hữu tình mà thuyết giảng các pháp thích ứng, khiến họ thoát khỏi nẻo khổ lớn của sinh tử, đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, hoặc chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy từ khi mới phát tâm đã nghe pháp này, tâm của vị đó luôn kiên cố, chẳng động, chẳng chuyển. Nương vào tâm kiên cố chẳng chuyển động này luôn luôn chân chính tu hành Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do thành tựu thuận hợp đủ sáu pháp này nên đã nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát. Lại càng tu hành chân chánh Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa; nhờ vậy nên được vào quả vị không thoái chuyển. Vì thế, tuy ác ma bày ra đủ các phương tiện dối gạt nhưng chẳng có thể làm thoái chuyển tâm Đại Bồ-đề đã phát của Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy có phải vì chẳng hề thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; hay là vì thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì chẳng hề thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; cũng vì thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát ấy vì chẳng hề thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển; tại sao cũng vì thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển?
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy vượt qua quả vị Thanh văn và Độc giác chẳng rơi trở lại vào hai quả vị ấy. Do đó, nên nói vì chẳng hề thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển. Đại Bồ-tát ấy xa lìa bậc Thanh văn và Độc giác; đối với hai bậc ấy quyết định chẳng rơi trở lại. Vì vậy nên nói do thoái chuyển nên gọi là không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển muốn nhập Sơ thiền thì liền tùy ý nhập; muốn nhập đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền cũng tùy ý nhập; muốn nhập Từ vô lượng liền tùy ý nhập; muốn nhập Bi, Hỷ, Xả vô lượng cũng tùy ý nhập; muốn nhập định Không vô biên xứ liền tùy ý nhập; muốn nhập định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng tùy ý nhập; muốn khởi bốn Niệm trụ liền tùy ý khởi, muốn khởi bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng tùy ý khởi; muốn khởi Sơ giải thoát liền tùy ý khởi, muốn khởi đệ Nhị giải thoát cho đến Bát giải thoát cũng tùy ý khởi; muốn khởi Sơ thắng xứ liền tùy ý khởi, muốn khởi đệ Nhị thắng xứ cho đến đệ Bát thắng xứ cũng tùy ý khởi; muốn nhập định Sơ thiền liền tùy ý nhập, muốn nhập định đệ Nhị thiền cho đến định diệt thọ tưởng cũng tùy ý nhập; muốn khởi Sơ biến xứ liền tùy ý khởi, muốn khởi đệ Nhị biến xứ cho đến đệ Thập biến xứ cũng tùy ý khởi; muốn khởi pháp môn giải thoát Không liền tùy ý khởi, muốn khởi pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng tùy ý khởi; muốn thể hiện năm pháp thần thông liền tùy ý thể hiện.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tuy nhập Sơ thiền mà chẳng thọ quả Sơ thiền; tuy nhập đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền mà chẳng thọ quả đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền; tuy nhập Từ vô lượng mà chẳng thọ quả Từ vô lượng, tuy nhập Bi, Hỷ, Xả vô lượng mà chẳng thọ quả Bi, Hỷ, Xả vô lượng; tuy nhập định Không vô biên xứ mà chẳng thọ quả định Không vô biên xứ, tuy nhập định Thức vô biên xứ,
Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ mà chẳng thọ quả định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ; tuy khởi bốn Niệm trụ mà chẳng thọ quả bốn Niệm trụ, tuy khởi bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà chẳng thọ quả bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; tuy khởi sơ giải thoát mà chẳng thọ quả Sơ giải thoát, tuy khởi đệ Nhị giải thoát cho đến đệ Bát giải thoát mà chẳng thọ quả đệ Nhị giải thoát cho đến đệ Bát giải thoát; tuy khởi Sơ thắng xứ mà chẳng thọ quả Sơ thắng xứ, tuy khởi đệ Nhị thắng xứ cho đến quả đệ Bát thắng xứ mà chẳng thọ quả đệ Nhị thắng xứ cho đến quả đệ Bát thắng xứ; tuy nhập định Sơ thiền mà chẳng thọ quả định Sơ thiền, tuy nhập định đệ Nhị thiền cho đến định Diệt thọ tưởng mà chẳng thọ quả định đệ Nhị thiền cho đến định Diệt thọ tưởng; tuy khởi Sơ biến xứ mà chẳng thọ quả Sơ biến xứ, tuy khởi đệ Nhị biến xứ cho đến đệ thập biến xứ mà chẳng thọ quả đệ Nhị biến xứ cho đến đệ Thập biến xứ; tuy khởi pháp môn giải thoát Không mà chẳng thọ quả pháp môn giải thoát Không; tuy khởi pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà chẳng thọ quả pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; tuy thể hiện năm Thần thông mà chẳng thọ quả năm Thần thông.
Này Thiện Hiện, do nhân duyên này, Đại Bồtát ấy chẳng thuận theo vô lượng các pháp thiền định cùng với diệu lực từ các công đức khác mà sinh, cũng chẳng chứng quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, hoặc quả vị Độc giác.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì muốn đem lại lợi lạc cho các hữu tình nên tùy theo ý muốn của nơi chốn tiếp nhận mà họ thân thích ứng, tức là theo sở nguyện của hữu tình đều có thể tiếp nhận.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, thành tựu về tác ý dốc đạt Bồ-đề vô thượng thì thường chẳng xa lìa tâm Đại Bồ-đề, chẳng quý trọng sắc, chẳng quý trọng thọ, tưởng, hành, thức; chẳng quý trọng nhãn xứ, chẳng quý trọng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng quý trọng sắc xứ, chẳng quý trọng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng quý trọng nhãn giới, chẳng quý trọng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng quý trọng sắc giới, chẳng quý trọng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng quý trọng nhãn thức giới, chẳng quý trọng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng quý trọng nhãn xúc, chẳng quý trọng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng quý trọng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng quý trọng các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; chẳng quý trọng địa giới, chẳng quý trọng thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng quý trọng tính chất duyên hợp của duyên khởi, chẳng quý trọng các tướng tốt phụ thuộc; chẳng quý trọng pháp hữu sắc, vô sắc, chẳng quý trọng pháp hữu kiến, vô kiến; chẳng quý trọng pháp hữu đối vô đối; chẳng quý trọng pháp hữu lậu, vô lậu; chẳng quý trọng pháp hữu vi, vô vi; chẳng quý trọng pháp thế gian, xuất thế gian; chẳng quý trọng ngã, chẳng quý trọng hữu tình, dòng sinh mạng, khả năng sinh khởi, sự nuôi dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, khả năng tạo tác, khả năng thọ nhận, sự hiểu biết, sự nhận thức; chẳng quý trọng đồ chúng, chẳng quý trọng quyến thuộc; chẳng quý trọng Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng quý trọng Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng quý trọng mười nẻo thiện nghiệp; chẳng quý trọng bốn Tĩnh lự, chẳng quý trọng bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chẳng quý trọng năm Thần thông; chẳng quý trọng bốn Niệm trụ, chẳng quý trọng bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chẳng quý trọng tám Giải thoát, chẳng quý trọng tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chẳng quý trọng pháp môn giải thoát Không, chẳng quý trọng pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chẳng quý trọng Thánh đế khổ, chẳng quý trọng Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng quý trọng pháp không bên trong, chẳng quý trọng pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng quý trọng chân như, chẳng quý trọng pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; chẳng quý trọng bậc Cực hỷ, chẳng quý trọng bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chẳng quý trọng năm loại mắt, chẳng quý trọng sáu phép thần thông; chẳng quý trọng mười lực của Phật, chẳng quý trọng bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng quý trọng pháp không quên mất, chẳng quý trọng tánh luôn luôn xả; chẳng quý trọng Thanh văn, chẳng quý trọng Độc giác, chẳng quý trọng Bồ-tát, chẳng quý trọng Như Lai; chẳng quý trọng quả Dự lưu, chẳng quý trọng quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; chẳng quý trọng quả vị Độc giác; chẳng quý trọng trí Nhất thiết, chẳng quý trọng trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; chẳng quý trọng quả vị Giác ngộ cao tột; chẳng quý trọng việc làm nghiêm tịnh cõi Phật; chẳng quý trọng việc đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình; chẳng quý trọng việc được thấy nhiều chư Phật; chẳng quý trọng việc trồng các căn lành. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy thấu đạt tất cả pháp ngang bằng hư không, tự tánh, tự tướng đều rốt ráo không, hoàn toàn không sở hữu, chẳng thấy có một pháp nào có thể sinh sự quý trọng; chủ thể sinh, đối tượng sinh, thời điểm sinh, nơi chốn sinh, nhờ đó nên được sinh đều chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tất cả pháp ấy cùng với hư không là như nhau, tánh, tướng đều không, tức là diệu nghĩa không sinh vậy.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thành tựu về tác ý dốc đạt Bồ-đề vô thượng, thường chẳng xa lìa tâm Đại Bồ-đề, thân đủ bốn oai nghi, đi đến vào ra, cất bước, hạ bước, tâm không tán loạn, đi đứng ngồi nằm, tới dừng đều giữ oai nghi; làm việc gì đều an trú trong chánh niệm.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, vì muốn đem lại lợi ích cho các hữu tình mà với phương tiện thiện xảo, hiện ở tại gia, tuy hiện hưởng thụ đầy đủ năm thứ dục lạc, mà đối với chúng chẳng sinh tham đắm, đều nhằm cứu giúp các loài hữu tình, cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần áo cho áo, cần đồ nằm cho đồ nằm, cần thuốc men cho thuốc men, cần nhà cửa cho nhà cửa, cần của cải cho của cải, tùy theo nhu cầu của hữu tình mà chu cấp, khiến cho mọi ý nguyện của học đều được thỏa mãn.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tự hành Bố thí ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành Bố thí ba-la-mật-đa, luôn luôn ưa thích tuyên dương pháp hành Bố thí ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người hành Bố thí ba-la-mật-đa; tự hành Tịnh giới ba-lamật-đa, cũng khuyên người khác hành Tịnh giới ba-la-mật-đa, luôn luôn ưa thích tuyên dương pháp hành Tịnh giới ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người hành Tịnh giới ba-la-mật-đa; tự hành An nhẫn ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành An nhẫn ba-la-mật-đa, luôn luôn ưa thích tuyên dương pháp hành An nhẫn ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người hành An nhẫn ba-la-mật-đa; tự hành Tinh tấn ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành Tinh tấn ba-la-mật-đa, luôn luôn ưa thích tuyên dương pháp hành Tinh tấn ba-la-mậtđa, hoan hỷ khen ngợi người hành Tinh tấn ba-lamật-đa; tự hành Tĩnh lự ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành Tĩnh lự ba-la-mật-đa, luôn luôn ưa thích tuyên dương pháp hành Tĩnh lự ba-la-mậtđa, hoan hỷ khen ngợi người hành Tĩnh lự ba-lamật-đa; tự hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, luôn luôn ưa thích tuyên dương pháp hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người hành Bátnhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy hiện ở tại gia, dùng diệu lực của thần thông, hoặc của đại nguyện, thâu nạp châu báu cả châu Thiệm-bộ đem cúng dường ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng và bố thí cho các loài hữu tình nghèo thiếu; dùng diệu lực của thần thông, hoặc của đại nguyện thâu nạp châu báu cả bốn đại châu, đem cúng dường ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng và bố thí cho các loài hữu tình nghèo thiếu; dùng diệu lực của thần thông, hoặc của đại nguyện thâu nạp châu báu cả thế giới tiểu thiên, đem cúng dường ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng và bố thí cho các loài hữu tình nghèo thiếu; dùng diệu lực của thần thông, hoặc của đại nguyện thâu nạp châu báu cả thế giới trung thiên, đem cúng dường ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng và bố thí cho các loài hữu tình nghèo thiếu; dùng diệu lực của thần thông, hoặc của đại nguyện thâu nạp châu báu cả thế giới tam thiên đại thiên, đem cúng dường ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng và bố thí cho các loài hữu tình nghèo thiếu.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tuy hiện ở tại gia mà thường tu phạm hạnh, chẳng bao giờ thọ dụng các cảnh diệu dục: tuy hiện thâu nạp các loại châu báu mà đối với chúng chẳng khởi tâm tham đắm và trong khi thâu nạp đầy đủ các thứ dục lạc và châu báu, chẳng bao giờ bức bách các loài hữu tình khiến họ sinh buồn khổ.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì có thần chủ Dược-xoa cầm chày kim cang thường theo hai bên bí mật bảo vệ, thường nghĩ thế này: “Đại Bồ-tát ấy, chẳng bao lâu sẽ chứng quả vị Giác ngộ cao tột, ta nguyện luôn luôn đi theo bí mật bảo vệ cho đến khi vị này đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Năm chúng thần Chấp kim cang, Dược-xoa cũng theo bảo vệ không khi nào xa rời khiến cho người và hàng phi nhân... đều chẳng thể tổn hại được. Các hàng Thiên, Ma, Phạm và các thế lực khác của thế gian cũng không có khả năng dùng cách gì để phá hoại tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột đã phát. Do nhân duyên này, Đại Bồtát ấy cho đến khi đạt quả vị Giác ngộ cao tột, thân ý luôn thư thái an nhiên, thường không bị nhiễu loạn.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì năm căn thế gian thường không khiếm khuyết, đó là nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, năm căn xuất thế gian cũng luôn đầy đủ, đó là Tín căn, Tinh tấn căn, Niệm căn, Định căn và Tuệ căn.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy toàn thân viên mãn, tướng hảo trang nghiêm; các công đức của tâm, niệm niệm tăng trưởng cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì luôn luôn làm bậc Thượng sĩ mà không làm kẻ tầm thường.
Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, tại sao nói Đại Bồ-tát này luôn luôn làm bậc Thượng sĩ mà chẳng làm kẻ tầm thường?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy tất cả phiền não chẳng hề dấy khởi trở lại, công đức tăng trưởng trong từng sát-na, cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, nơi tất cả thời tâm không tán loạn, cho nên Ta nói Đại Bồ-tát ấy luôn luôn làm bậc Thượng sĩ mà chẳng làm kẻ tầm thường.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì thành tựu về tác ý dốc đạt Bồ-đề vô thượng, thường chẳng xa lìa tâm Đại Bồđề; vì sinh sống thanh tịnh nên chẳng hành các việc tà mạng như chú thuật, thuốc men không đúng cách, bói toán; chẳng vì danh lợi mà chú nguyện các quỷ thần khiến nhập vào nam nữ để hỏi việc lành dữ, cũng chẳng chú nguyện nhằm ngăn cản các loài quỷ, bàng sinh lớn nhỏ theo giới tính, biểu hiện các việc hy hữu; cũng chẳng xem tướng để biết tuổi thọ dài ngắn, của cải, địa vị, các việc thiện, ác của nam nữ; cũng chẳng đoán trước việc lạnh nóng, được mùa, mất mùa, lành dữ, tốt xấu làm mê loạn hữu tình; cũng chẳng dùng chú thuật để pha chế thuốc thang trị bệnh theo tà đạo; giao du với đám quyền quý, ngắm nhìn nam nữ vui cười trò chuyện, tâm hãy còn chẳng nhiễm đắm, huống hồ là các việc khác. Vì sao?
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy biết tự tướng của tất cả pháp đều là không; vì trong cái tự tướng không chẳng thấy có tướng; do chẳng thấy tướng nên xa lìa tất cả các loại tà mạng như chú thuật, thuốc men không đúng cách, xem tướng, chỉ dốc cầu quả vị Giác ngộ cao tột, cứu cánh là nhằm đem lợi lạc cho các hữu tình.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì đối với các thứ văn chương, kỹ nghệ nơi thế gian tuy được thiện xảo nhưng chẳng mê đắm. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy thấu đạt tất cả pháp đều rốt ráo không; trong cái rốt ráo không, văn chương, kỹ nghệ của thế gian đều chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, các thứ văn chương, kỹ nghệ của thế gian đều là loại ngôn ngữ hỗn tạp, thuộc về tà mạng; vì vậy Bồ-tát biết mà chẳng làm.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đối với các sách vở luận thuyết của ngoại đạo, thế tục, tuy hiểu biết thấu đáo nhưng chẳng ưa thích trước tác. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy đã hiểu rõ tánh tướng của tất cả pháp đều không; ở trong cái không này tất cả sách vở luận thuyết đều chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, các lý sự được nêu bày ở trong sách vở luận thuyết của ngoại đạo, thế tục, phần nhiều có sự thêm bớt bịa đặt; đối với đạo Bồ-tát chẳng phải là nẻo nên theo, chúng đều là hý luận, thuộc về loại ngôn ngữ hỗn tạp. Vì vậy cho nên Bồ-tát biết mà chẳng ưa thích.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển lại có các hành, dạng, tướng khác. Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói, ông nên lắng nghe, phải tư duy kỹ lưỡng.
Thiện Hiện bạch:
–Dạ! Xin Thế Tôn chỉ dạy! Chúng con sẽ dốc lòng lắng nghe, lãnh hội.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thông đạt các pháp đều là không sở hữu, thường chẳng xa lìa tâm Đại Bồ-đề, chẳng ưa quán sát bàn luận về sắc uẩn; chẳng ưa quán sát bàn luận về thọ, tưởng, hành, thức uẩn; chẳng ưa quán sát bàn luận về nhãn xứ, chẳng ưa quán sát bàn luận về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng ưa quán sát bàn luận về sắc xứ, chẳng ưa quán sát bàn luận về thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng ưa quán sát bàn luận về nhãn giới, chẳng ưa quán sát bàn luận về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng ưa quán sát bàn luận về sắc giới, chẳng ưa quán sát bàn luận về thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng ưa quán sát bàn luận về nhãn thức giới, chẳng ưa quán sát bàn luận về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng ưa quán sát bàn luận về nhãn xúc, chẳng ưa quán sát bàn luận về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng ưa quán sát bàn luận về các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng ưa quán sát bàn luận về các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; chẳng ưa quán sát bàn luận về địa giới, chẳng ưa quán sát bàn luận về thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng ưa quán sát bàn luận về vô minh, chẳng ưa quán sát bàn luận về hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử. Vì sao?
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy đối với diệu lý rốt ráo không của uẩn, xứ, giới, duyên hợp của tánh duyên khởi, đã khéo tư duy, khéo thông đạt.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận về việc của vương quyền. Vì sao? Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khéo an trú nơi pháp không, chẳng thấy một pháp nhỏ nào có tướng hơn kém, sang hèn.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận về việc quân binh. Vì sao? Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú nơi bản tánh không, chẳng thấy có tướng nhiều, ít, tụ tán của các pháp.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận về việc tranh cãi chống đối. Vì sao? Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú nơi chân như, chẳng thấy một pháp nhỏ nào có tướng mạnh, yếu, thương, giận.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận về nam nữ. Vì sao? Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú trong cái không của các pháp, chẳng thấy một pháp nhỏ nào có tướng tốt, xấu, yêu ghét.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận về xóm làng. Vì sao? Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú nơi thật tánh của pháp, chẳng thấy một pháp nhỏ nào có tướng tốt, xấu, yêu ghét. Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận về việc thành ấp. Vì sao? Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú nơi cảnh giới hư không, chẳng thấy các pháp có tướng hơn thua, tốt xấu.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận về đất nước. Vì sao? Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú nơi cõi thật, chẳng thấy các pháp có tướng tùy thuộc hay chẳng tùy thuộc nơi này, nơi kia.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận về các tướng. Vì sao? Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú nơi không tướng, chẳng thấy các pháp có tướng tăng giảm sai biệt.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận về ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, khả năng sinh khởi, sự nuôi dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, khả năng tạo tác, khả năng thọ nhận, sự hiểu biết, sự nhận thức. Vì sao? Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú nơi pháp rốt ráo không, hoàn toàn chẳng thấy ngã cho đến sự nhận thức có tướng có, không sai biệt.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận về các việc thế gian như thế, chỉ ưa quán sát bàn luận về Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa luôn lìa các tướng, có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thường chẳng xa lìa tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí, tu hành Bố thí ba-la-mật-đa, lìa việc tham lam keo kiệt; tu hành Tịnh giới ba-la-mật-đa lìa việc phá giới; tu hành An nhẫn ba-la-mật-đa lìa việc giận dữ tranh cãi; tu hành Tinh tấn ba-la-mật-đa lìa việc biếng trễ; tu hành Tĩnh lự ba-la-mật-đa lìa việc tán loạn; tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa lìa nẻo ngu si.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tuy an trú nơi pháp không của tất cả pháp nhưng ưa thích chánh pháp, chẳng ưa phi pháp, tuy an trú nơi pháp không chẳng thể nắm bắt được nhưng thường khen ngợi pháp tánh bất hoại, làm lợi ích cho hữu tình; tuy an trú nơi chân như, pháp giới nhưng ưa thích bạn lành, chăng ưa bạn xấu ác. Bạn lành ở đây là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng Đại Bồtát; như các bậc Thanh văn, Độc giác... có khả năng giáo hóa an lập các hữu tình cùng khiến họ hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, cũng gọi là bạn lành.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì muốn nghe pháp nên thường ưa gặp Phật; nếu nghe Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở thế giới khác, đang thuyết giảng chánh pháp thì liền dùng nguyện lực sinh về cõi ấy, cung kính cúng dường, nghe thọ chánh pháp.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy hoặc ngày, hoặc đêm, thường chẳng xa lìa tác ý niệm Phật, thường chẳng xa lìa tác ý nghe pháp. Do nhân duyên này, tùy theo các quốc độ có chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đang thuyết giảng chánh pháp, liền nương theo nguyện lực, đến đó thọ sinh, hoặc nương theo thần thông mà đến nghe pháp. Do nhân duyên ấy, các Bồ-tát này nơi các cõi thọ sinh thường được gặp Phật, luôn luôn được nghe chánh pháp không hề gián đoạn.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thường nhằm đem lại lợi lạc cho các hữu tình, nên tuy luôn hiện khởi các định thâm diệu của thiền vô sắc nhưng lại dùng phương tiện thiện xảo, khởi tâm về cõi Dục để giảng dạy cho các hữu tình mười nẻo nghiệp thiện, cũng theo nguyện lực hiện sinh nơi cõi Dục, quốc độ có Phật.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì thường tu Bố thí ba-la-mậtđa, thường tu Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thường an trú nơi pháp không bên trong, thường an trú nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thường an trú nơi chân như, thường an trú nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thường tu bốn Niệm trụ, thường tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thường an trú nơi Thánh đế khổ, thường an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thường tu bốn Tĩnh lự, thường tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thường tu tám Giải thoát, thường tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thường tu pháp môn giải thoát Không, thường tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thường tu năm loại mắt, thường tu sáu phép thần thông.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thường tu pháp môn Tam-ma-địa, thường tu pháp môn Đà-la-ni.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thường tu mười lực của Phật, thường tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thường tu trí Nhất thiết, thường tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thường đối với quả vị của mình chẳng khởi nghi hoặc, chẳng nghĩ thế này: “Ta là không thoái chuyển, ta chẳng phải là không thoái chuyển.” Vì sao? Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy có pháp nhỏ nào có thể đối với quả vị Giác ngộ cao tột gọi là không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đối với pháp ở quả vị của mình không hề nghi hoặc. Vì sao? Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đối với pháp ở quả vị của mình đã khéo thấu tỏ, thông đạt.
Này Thiện Hiện, như bậc Dự lưu thì an trú nơi quả Dự lưu; đối với pháp ở quả vị của mình không hề nghi hoặc; các bậc Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác đều an trú nơi quả chứng của mình, đối với pháp nơi quả chứng của mình cũng không chút nghi hoặc. Đại Bồ-tát ấy cũng giống như thế, đối với quả vị không thoái chuyển mà mình an trú và các pháp đã thâu nhiếp hiện biết, hiện thấy, không hề nghi hoặc.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển ấy, an trú trong quả vị ấy, làm nghiêm tịnh cõi Phật, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, tu các công đức, nếu có ác ma dấy khởi việc quấy phá thì biết ngay, không bị chuyển theo thế lực của ác ma, cho khả năng khéo dẹp trừ các loại ma, khiến cho công đức tu hành không bị trở ngại.
Này Thiện Hiện, thí như người tạo tác nghiệp vô gián, tâm tạo nghiệp vô gián ấy luôn luôn theo đuổi, cho đến lúc mạng chung cũng không thể bỏ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì kẻ ấy đã cùng dấy khởi sự trói buộc của nghiệp vô quán, sức lôi kéo của nghiệp dữ càng tăng trưởng luôn luôn chi phối cho đến lúc mạng chung cũng không thể chế phục; dù có dấy tâm khác cũng chẳng thể ngăn cản được.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển ấy cũng giống như thế, an trú nơi quả vị của mình, tâm vị ấy không động, không có sự phân biệt, Trời, Người, A-tố-lạc ở thế gian đều chẳng thể lay chuyển được. Vì sao? Vì tâm của Đại Bồ-tát ấy kiên cố, vượt qua các hàng Trời, Người, Ma, Phạm, A-tố-lạc... trong thế gian; đã nhập nẻo Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, an trú nơi quả vị không thoái chuyển, đã đắc thần thông thù thắng của Bồ-tát, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn, lắng nghe chánh pháp, ở chỗ các Đức Phật vun trồng các căn lành, thỉnh vấn diệu nghĩa nơi các pháp đã học của Bồtát.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú nơi quả vị của mình, nếu có ác ma dấy khởi sự quấy nhiễu liền biết ngay, chẳng bao giờ bị chuyển theo chúng, dùng sức thiện xảo dồn các việc làm của ma lại đặt trong cõi thật tìm phương tiện diệt trừ đối với pháp ở quả vị mình không hề nghi hoặc. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy biết rõ tất cả pháp đều hòa nhập nơi cõi thật, thông đạt thật tế là chẳng phải một chẳng phải nhiều; ở trong cõi thật không có sự phân biệt, do đối với cõi thật không hề nghi hoặc, nên đối với pháp ở quả vị mình cũng không chút do dự.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy dù sự thọ sinh có chuyển biến thì đối với cõi thật cũng không thoái chuyển để hướng về quả vị Thanh văn, hoặc Độc giác. Vì sao? Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đã biết rõ tự tướng của tất cả pháp đều không; ở trong pháp không ấy chẳng thấy có pháp hoặc sinh, hoặc diệt, hoặc nhiễm, hoặc tịnh.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy cho đến lúc chuyển thân cũng chẳng nghi là ta sẽ chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột hay là sẽ không chứng đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy đã thông đạt các pháp tự tướng đều là không, đó chính là quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú nơi quả vị của mình, không theo duyên khác, đối với pháp nơi quả vị của mình không ai có thể phá hoại được. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy đã thành tựu được trí không động, không thoái chuyển, tất cả duyên xấu ác đều chẳng thể khuynh đảo.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển thì giả sử có ác ma giả làm Phật đi đến chỗ vị ấy, nói thế này: “Nay ông nên cầu quả vị A-la-hán, dứt hẳn các lậu, chứng Bátniết-bàn, ông chưa thể nhận nổi việc thọ ký Đại Bồ-đề, cũng chưa chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn. Nay ông chưa có các hành, dạng, tướng của quả vị không thoái chuyển; Như Lai chẳng nên thọ ký cho ông quả vị Giác ngộ cao tột, ông cần phải có đầy đủ các hành, dạng, tướng nơi quả vị không thoái chuyển của Đại Bồ-tát thì mới có thể mong Phật thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột.” Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát không thoái chuyển ấy nghe những lời lẽ như thế, tâm không biến đổi, chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng thoái lui, chẳng chìm đắm.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tự chứng biết: Ta ở chỗ chư Như Lai trong quá khứ tất đã được thọ ký Đại Bồ-đề. Vì sao? Vì Bồ-tát thành tựu các pháp thù thắng như thế nhất định được chư Phật thọ ký Bồ-đề; ta đã thành tựu các pháp như vậy, tại sao chư Phật lại không thọ ký cho ta được! Cho nên, ta ở chỗ chư Phật quá khứ chắc chắn đã được thọ ký Đại Bồ-đề.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy dù có ác ma, hoặc đám tay chân của ác ma giả làm Phật đi đến thọ ký quả vị Thanh văn, hoặc quả vị Độc giác cho Bồ-tát, nói rằng: “Này nam tử, cần gì quả vị Giác ngộ cao tột mà từ lâu phải chịu nhiều nỗi thống khổ trong sinh tử luân hồi, nên mau tự chứng Niết-bàn vô dư, vĩnh viễn xa lìa sinh tử, rốt ráo an lạc.” thì này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy nghe những lời như thế liền suy nghĩ: “Đây nhất định là ác ma hoặc đám tay chân của ma giả hiện làm Phật để nhiễu loạn tâm ta, thọ ký quả Thanh văn, Độc giác cho ta, khiến ta bỏ mất quả vị Giác ngộ cao tột.” Vì sao? Vì nhất định không có việc chư Phật dạy chư Bồ-tát hướng đến quả vị Thanh văn, Độc giác, mà xả bỏ quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy dù có ác ma, hoặc đám tay chân của ác ma giả hiện làm Phật nói với các Bồ-tát rằng: “Kinh điển Đại thừa mà ông đã thọ trì chẳng phải do Phật nói, cũng chẳng phải do đệ tử của Như Lai nói đó là nhằm dối gạt, mê hoặc ông nên nói như thế. Nay ông chẳng nên thọ trì, đọc tụng.” thì này Thiện Hiện Đại Bồ-tát ấy nghe những lời như thế rồi liền nghĩ: “Đây nhất định là ác ma hoặc quyến thuộc của ma, nhằm làm cho ta nhàm chán, xả bỏ quả vị Giác ngộ cao tột, cho nên nói kinh điển sâu xa của Đại thừa là chẳng phải Phật nói, cũng chẳng phải do đệ tử của Như Lai nói.” Vì sao? Vì rời kinh điển này mà có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột là việc nhất định không có.
Này Thiện Hiện nên biết, Đại Bồ-tát ấy đã an trú nơi quả vị không thoái chuyển. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ, từ lâu đã thọ ký cho Đại Bồ-tát đó. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Đại Bồtát ấy đã thành tựu đầy đủ các hành, dạng, tướng của quả vị không thoái chuyển.
Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết là đã được thọ ký bậc Đại giác ngộ, nhất định đã an trú nơi quả vị không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, khi tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa thì hộ trì chánh pháp chẳng tiếc thân mạng, thường suy nghĩ: “Ta thà xả bỏ của báu, quyến thuộc và thân mạng mình nhưng chẳng bao giờ xả bỏ chánh pháp của chư Phật. Vì sao? Vì của báu, quyến thuộc và thân mạng mình đời đời thường có, rất dễ được, nhưng chánh pháp của chư Phật thì trăm ngàn ức triệu kiếp mới được gặp một lần, mà trong đêm dài sinh tử, sự gặp gỡ ấy đã đem lại lợi lạc to lớn.”
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi hộ trì chánh pháp nghĩ thế này: “Ta chẳng phải hộ trì chánh pháp của một Đức Phật, hai Đức Phật cho đến trăm ngàn chư Phật mà là hộ trì chánh pháp của ba đời chư Phật trong mười phương, khiến chẳng bao giờ bị tổn giảm.”
Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, những gì là chánh pháp của chư Phật? Đại Bồ-tát ấy hộ trì chánh pháp chẳng tiếc thân mạng như thế nào?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì các Bồ-tát đã giảng nói pháp không, đó gọi là chánh pháp của chư Phật. Có hạng ngu si phỉ báng chê bai rằng: “Đây chẳng phải là Pháp, chẳng phải là Tỳ-nại-da, chẳng phải là Thánh giáo của Đấng Thiên Nhân Sư đã giảng nói, tu hành pháp này chẳng đắc đạo quả Bồ-đề, chẳng chứng Niết-bàn tịch tĩnh an lạc.”
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy hộ trì chánh pháp chẳng tiếc thân mạng, thường suy nghĩ: “Tất cả pháp không mà Như Lai đã giảng nói là nơi chốn quay về nương tựa của các hữu tình. Bồ-tát tu học pháp ấy mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cứu vớt bao nỗi khổ não lo buồn về sinh, già, bệnh, chết của các hữu tình, khiến họ đạt đến Niếtbàn rốt ráo an lạc, cho nên phải dốc hộ trì, chẳng tiếc thân mạng!” Lại suy nghĩ thế này: “Ta cũng sẽ có mặt trong số Phật vị lai, vì Phật đã thọ ký Đại Bồ-đề cho ta. Do nhân duyên này nên chánh pháp của chư Phật tức là pháp của ta, ta phải dốc hộ trì chẳng tiếc thân mạng. Vào đời vị lai khi ta thành Phật cũng sẽ thuyết giảng các pháp không này.”
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đã nhận thức rõ về nghĩa lợi này nên dốc hộ trì chánh pháp của Như Lai đã thuyết giảng, chẳng hề tiếc thân mạng.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, lãnh hội chánh pháp mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thuyết giảng không hề nghi hoặc; lãnh hội rồi thì thọ trì không bao giờ quên, cho đến khi đạt quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy đã khéo chứng đắc pháp Đà-la-ni.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy đã đắc pháp Đàla-ni nào mà nghe Khế kinh của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thuyết giảng đều chẳng nên mất, cũng không hề nghi hoặc?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đã đắc Đà-lani Tự tạng, Đà-la-ni Hải ấn, Đà-la-ni Liên hoa chúng tạng..., nên khi nghe Khế kinh mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thuyết giảng, đều chẳng quên mất, cũng không nghi hoặc.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy chỉ nghe chánh pháp mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thuyết giảng, không hề nghi hoặc; nghe rồi thọ trì, chẳng thể quên mất cho đến khi đạt quả vị Giác ngộ cao tột, hay còn vì nghe chánh pháp mà Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Thiên, Long, Dược-xoa, Atố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, Nhân phi nhân... đã giảng nói, cũng có thể đối với pháp ấy chẳng chút nghi hoặc; nghe rồi thọ trì, không bao giờ quên mất, cho đến khi chứng đắc quả vị Đại giác ngộ chăng?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy nghe khắp hết nghĩa lý nơi văn tự, âm thanh của tất cả các loài hữu tình, đều có thể hiểu rõ, không hề nghi hoặc, cho đến cùng tận đời vị lai không có quên mất. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát đã đắc pháp Đà-la-ni Tự tạng... ghi giữ lời nói, khiến chẳng quên mất.
Này Thiện Hiện, nếu thành tựu các hành, dạng, tướng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.
[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]