SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
HỘI THỨ I
Phẩm 53: KHÉO TU HỌC
(QUYỂN 331 - 335)
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu, làm thế nào tiếp cận Tamma-địa Không, làm thế nào nhập Tam-ma-địa Không? Làm thế nào tiếp cận Tam-ma-địa Vô tướng, làm thế nào nhập Tam-ma-địa Vô tướng? Làm thế nào tiếp cận Tam-ma-địa Vô nguyện, làm thế nào nhập Tam-ma-địa Vô nguyện? Làm thế nào tiếp cận bốn Niệm trụ, làm thế nào tu bốn Niệm trụ? Làm thế nào tiếp cận bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, làm thế nào tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo? Làm thế nào tiếp cận mười lực của Phật, làm thế nào tu mười lực của Phật? Làm thế nào tiếp cận bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, làm thế nào tu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa thâm diệu nên quán sắc là không, nên quán thọ, tưởng, hành, thức là không; nên quán nhãn xứ là không, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không; nên quán sắc xứ là không, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không; nên quán nhãn giới là không, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là không; nên quán sắc giới là không, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là không; nên quán nhãn thức giới là không, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là không; nên quán nhãn xúc là không, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là không; nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là không, nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là không; nên quán địa giới là không, nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không; nên quán vô minh là không, nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não là không; nên quán Bố thí ba-la-mật-đa là không, nên quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa là không; nên quán pháp không bên trong là không, nên quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là không; nên quán chân như là không, nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là không; nên quán Thánh đế khổ là không, nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo là không; nên quán bốn Tĩnh lự là không, nên quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là không; nên quán tám Giải thoát là không, nên quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là không; nên quán bốn Niệm trụ là không, nên quán bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo là không; nên quán pháp môn giải thoát Không là không, nên quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là không; nên quán mười địa Bồ-tát của ba thừa là không; nên quán năm loại mắt là không, nên quán sáu phép thần thông là không; nên quán mười lực của Phật là không, nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng là không; nên quán pháp không quên mất là không, nên quán tánh luôn luôn xả là không; nên quán trí Nhất thiết là không, nên quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là không; nên quán tất cả pháp môn Đà-la-ni là không, nên quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không; nên quán quả Dự lưu là không, nên quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là không; nên quán quả vị Độc giác là không; nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát là không; nên quán quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là không; nên quán pháp hữu lậu là không, nên quán pháp vô lậu là không; nên quán pháp thế gian là không, nên quán pháp xuất thế gian là không; nên quán pháp hữu vi là không, nên quán pháp vô vi là không; nên quán pháp quá khứ là không, nên quán pháp vị lai, hiện tại là không; nên quán pháp thiện là không, nên quán pháp bất thiện, vô ký là không; nên quán pháp nơi Dục giới là không, nên quán pháp nơi Sắc giới, Vô sắc giới là không.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi quán như vậy, khiến tâm chẳng tán loạn; nếu tâm chẳng tán loạn thì chẳng thấy có pháp nào cả; nếu chẳng thấy có pháp nào cả thì chẳng có sự chứng đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy đã khéo tu học, lãnh hội tự tướng các pháp đều là không, không pháp nào có thể tăng, không pháp nào có thể giảm, cho nên đối với các pháp chẳng thấy chẳng chứng. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì ở trong Thắng nghĩa đế của tất cả pháp, chủ thể chứng đắc, đối tượng được chứng đắc, nơi chốn chứng đắc, thời gian chứng đắc và do pháp đó mà được chứng đắc, hoặc hợp, hoặc ly đều chẳng thể nắm bắt, chẳng thể thấy được.
Khi ấy Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, như Phật đã dạy các Đại Bồtát đối với cái không của các pháp, chẳng nên chứng đắc. Bạch Thế Tôn, vì sao các Đại Bồ-tát an trú nơi cái không của các pháp mà chẳng chứng đắc?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi quán cái không của pháp thì trước hết nghĩ thế này: “Ta nên quán các tướng của pháp đều không, chẳng nên chứng đắc. Ta vì học nên quán cái không của các pháp chứ chẳng vì chứng đắc mà quán cái không của các pháp. Nay là lúc học chứ chẳng phải là lúc chứng.”
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chưa nhập định vị, giữ vững tâm ở đối tượng được duyên; khi đã nhập định thì chẳng gắn tâm nơi cảnh.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy ở trong lúc này, chẳng từ bỏ Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ pháp không bên trong, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ chân như, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ Thánh đế khổ, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ bốn Tĩnh lự, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ tám Giải thoát, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ bốn Niệm trụ, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát Không, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ năm loại mắt, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ sáu phép thần thông, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ mười lực của Phật, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ pháp không quên mất, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ tánh luôn luôn xả, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ trí Nhất thiết, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ tất cả pháp môn Tamma-địa, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ hạnh Đại Bồ-tát, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chứng lậu tận. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa thâm diệu nên suy nghĩ: “Ta đối với Bố thí ba-la-mật-đa, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với pháp không bên trong, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với chân như, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với Thánh đế khổ, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với bốn Tĩnh lự, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với tám Giải thoát, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với bốn Niệm trụ, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với pháp môn giải thoát Không, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với năm loại mắt, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với sáu phép thần thông, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với mười lực của Phật, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với pháp không quên mất, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với tánh luôn luôn xả, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với trí Nhất thiết, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với quả vị Giác ngộ cao tột, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta nay nên học trí Nhất thiết trí, chẳng nên chứng quả Dự lưu. Ta nay nên học trí Nhất thiết trí, chẳng nên chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán. Ta nay nên học trí Nhất thiết trí, chẳng nên chứng quả vị Độc giác.”
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu nên tiếp cận Tam-ma-địa Không, nên an trú nơi Tam-ma-địa Không, nên tu hành Tam-ma-địa Không, nhưng đối với Thật tế (Niết-bàn) chẳng nên chứng đắc. Nên tiếp cận Tam-ma-địa Vô tướng, vô nguyện, nên an trú nơi Tam-ma-địa Vô tướng, vô nguyện, nên tu hành Tam-ma-địa Vô tướng, vô nguyện, nhưng đối với Thật tế chẳng nên chứng đắc. Nên tiếp cận bốn Niệm trụ, nên an trú nơi bốn Niệm trụ, nên tu hành bốn Niệm trụ, nhưng đối với Thật tế chẳng nên chứng đắc; nên tiếp cận bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, nên an trú nơi bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, nên tu hành bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, nhưng đối với Thật tế chẳng nên chứng đắc. Như thế, cho đến nên tiếp cận mười lực của Phật, nên hướng đến mười lực của Phật, nên tu hành mười lực của Phật, nhưng đối với Thật tế chẳng nên chứng đắc; nên tiếp cận bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nên hướng đến bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, nên tu hành bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, nhưng đối với Thật tế chẳng nên chứng đắc.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tuy tiếp cận Tam-ma-địa Không, an trú nơi Tam-ma-địa Không, tu hành Tam-ma-địa Không nhưng chẳng chứng quả Dự lưu, cũng chẳng chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, cũng lại chẳng chứng quả vị Độc giác. Tuy tiếp cận Tam-ma-địa Vô tướng, vô nguyện, an trú nơi Tam-ma-địa Vô tướng, vô nguyện, tu hành Tam-ma-địa Vô tướng, vô nguyện, nhưng chẳng chứng quả Dự lưu, cũng chẳng chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, cũng lại chẳng chứng quả vị Độc giác. Tuy tiếp cận bốn Niệm trụ, an trú bốn Niệm trụ, tu hành bốn Niệm trụ, nhưng chẳng chứng quả Dự lưu, cũng chẳng chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, cũng lại chẳng chứng quả vị Độc giác; tuy tiếp cận bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, an trú bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, tu hành bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, nhưng chẳng chứng quả Dự lưu, cũng chẳng chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, lại cũng chẳng chứng quả vị Độc giác.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này nên chẳng rơi vào quả vị Thanh văn và Độc giác, mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, ví như vị tráng sĩ tướng mạo đoan nghiêm uy dũng hơn người, ai trong thấy cũng hoan hỷ, quyến thuộc đông đủ, thanh tịnh viên mãn; đối với binh pháp đều học đến chỗ rốt ráo, khéo sử dụng các thứ đao gậy, binh khí một cách vững vàng, tự tin; sáu mươi bốn loại tài năng, mười tám thứ kinh thư, mọi thứ kỹ thuật đều làu thông, mọi người thảy đều ngưỡng mộ, kính phục; việc làm luôn khéo léo nên công ít mà lợi nhiều, do đó được mọi người cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Bấy giờ, vị tráng sĩ ấy càng thêm vui mừng, phấn khởi, tự bằng lòng với mình. Vì có duyên sự, vị ấy dẫn đưa những người già yếu và thân quyến đi đến địa phương khác; giữa đường ngang qua vùng đồng hoang vắng đầy hiểm nạn, có nhiều thú dữ, giặc cướp, những kẻ thù oán nói chung đó là nơi vốn ẩn chứa bao sự việc khiếp sợ. Thân quyến lớn nhỏ thảy đều kinh hoàng. Vị tráng sĩ đó luôn tự tin ở sức lực dũng mãnh của mình, lại có nhiều tài nghệ nên thân ý thư thái, luôn an ủi cha mẹ cùng thân quyến chớ nên lo sợ, sẽ khiến hết khổ. Khi đó, vị tráng sĩ ấy đã dùng các phương thức khéo léo đưa các thân quyến đến nơi an ổn. Đã thoát khỏi chốn hiểm nạn rồi, thảy đều mừng vui, an lạc, nhưng vị tráng sĩ ấy, ở nơi chốn đồng hoang đầy thú dữ, giặc cướp, kẻ oán đều không có ý làm hại chúng. Vì sao? Vì tự trông cậy vào sức mạnh của chính mình, đủ các tài năng, chẳng hề sợ sệt.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát cũng lại như thế! Vì thương yêu các hữu tình bị thống khổ trong nẻo sinh tử nên dốc hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, duyên khắp các loài hữu tình, khởi bốn Vô lượng, an trú nơi tâm luôn hòa hợp với bốn Vô lượng, tinh cần tu tập các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, khiến mau viên mãn. Đại Bồ-tát ấy, đối với sáu pháp Ba-la-mật-đa này, ở quả vị chưa viên mãn, vì muốn tu học trí Nhất thiết trí nên chẳng chứng lậu tận. Tuy an trú nơi pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, nhưng chẳng chuyển theo diệu lực của pháp môn ấy, cũng chẳng bị dẫn dắt theo nẻo chướng ngại ấy; đối với pháp môn giải thoát cũng chẳng chứng đắc. Vì chẳng chứng đắc nên chẳng rơi vào hàng Thanh văn và Độc giác, chắc chắn hướng thẳng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, như con chim có đôi cánh khỏe bay trong hư không, tự tại bay lượn một cách thỏa thích, chẳng rơi xuống đất. Tuy nương nơi hư không bay lượn vui thích nhưng chẳng chiếm cứ hư không, cũng chẳng bị hư không ngăn ngại.
Này Thiện Hiện, nên biết các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, tuy đối với pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện luôn luôn tiếp cận, an trú, tu hành nhưng chẳng chứng đắc; do chẳng chứng đắc nên chẳng rơi vào hàng Thanh văn, Độc giác; tu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí Nhất thiết trí, nếu chưa viên mãn thì chẳng bao giờ nương ba pháp Tam-ma-địa Không, Vô tướng, Vô nguyện mà chứng lậu tận.
Này Thiện Hiện, ví như người khỏe mạnh, thông thạo nghệ thuật bắn cung, muốn biểu diễn tài năng của mình, ngước bắn lên hư không; vì muốn mũi tên ở mãi trên ấy chẳng rơi xuống đất, nên dùng mũi tên sau bắn vào mũi tên trước. Cứ như vậy, lần lượt trải qua nhiều thời gian, mũi tên này nối đuôi mũi tên kia chẳng hề rơi xuống; nếu muốn cho rơi thì dừng hẳn mũi tên sau; bấy giờ, các mũi tên kia liền rơi xuống đất.
Này Thiện Hiện, nên biết các Đại Bồ-tát cũng giống như thế! Vì dốc tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa thâm diệu, dùng các phương tiện thiện xảo nhiếp thọ cho đến quả vị Giác ngộ cao tột, do nhân tu tập các căn lành chưa thành thục, nên chẳng bao giờ nửa chừng mà chứng Thật tế. Nếu muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì tạo nhân tu tập các căn lành, tất cả đều thành thục, bấy giờ Bồ-tát mới chứng đắc Thật tế, đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu đều nên quán xét kỹ lưỡng về thật tướng của các pháp như trước đã nói.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát thường làm các việc khó làm, tuy học các pháp chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; tuy học các pháp không bên trong, không bên ngoài, không cả trong ngoài, không không, không lớn, không thắng nghĩa, không hữu vi, không vô vi, không rốt ráo, không không biên giới, không tản mạn, không không đổi khác, không bản tánh, không tự tướng, không cộng tướng, không nơi tất cả pháp, không chẳng thể nắm bắt được, không không tánh, không tự tánh, không không tánh tự tánh; tuy học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; tuy học bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; tuy học pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, nhưng nửa chừng chẳng rơi vào hàng Thanh văn, Độc giác, thoái chuyển đối với quả vị Giác ngộ cao tột.
Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy rất là hiếm có!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, vì các Đại Bồ-tát ấy đối với các hữu tình thề chẳng rời bỏ. Họ nguyện rằng, nếu các hữu tình chưa được giải thoát thì ta quyết chẳng bỏ gia hạnh đã khởi.
Này Thiện Hiện, nguyện lực của các Đại Bồtát là thù thắng, thường nghĩ rằng: “Tất cả hữu tình nếu chưa được giải thoát thì ta quyết chẳng bỏ họ.” Do phát khởi tâm rộng lớn như thế nên nửa chừng quyết chẳng thoái lui.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát thường suy nghĩ: “Ta chẳng nên bỏ tất cả hữu tình, quyết khiến họ được giải thoát. Nhưng các hữu tình làm việc bất chánh, ta vì dốc hóa độ họ nên luôn chỉ dẫn pháp môn giải thoát tịch tĩnh là không, vô tướng, vô nguyện. Tuy thường chỉ dẫn mà chẳng chứng đắc.”
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì thành tựu được diệu lực của phương tiện thiện xảo nên tuy luôn luôn hiện khởi ba pháp môn giải thoát, nhưng nửa chừng chẳng chứng Thật tế, cho đến chưa chứng đắc trí Nhất thiết trí; cần phải đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột thì mới chứng đắc.
Lại nữa Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát thường ưa quán xét chỗ thâm diệu. Đó là ưa quán sát pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng ưa quán sát bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện... đều là tự tánh không.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy quán sát như vậy rồi, sinh khởi ý nghĩ: Các loài hữu tình do sức lôi kéo của bạn ác, ở trong đêm dài sinh tử, khởi tưởng chấp ngã, tưởng chấp hữu tình, tưởng chấp dòng sinh mạng, tưởng chấp khả năng sinh khởi, tưởng chấp sự nuôi dưỡng, tưởng chấp sự trưởng thành, tưởng chấp chủ thể luân hồi, tưởng chấp ý sinh, tưởng chấp nho đồng, tưởng chấp khả năng tạo tác, tưởng chấp khả năng thọ nhận, tưởng chấp về sự hiểu biết, tưởng chấp về sự nhận thức. Do tưởng chấp này mà mọi tạo tác đều có sở đắc, trôi lăn theo nẻo luân hồi sinh tử, chịu đủ các nỗi thống khổ. Vì nhằm dứt trừ các tưởng chấp như thế của hữu tình nên ta dốc hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, vì các hữu tình mà giảng nói pháp sâu xa mầu nhiệm, khiến đoạn trừ tưởng chấp, lìa mọi khổ của sinh tử.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy bấy giờ tuy tu tập pháp môn giải thoát Không nhưng chẳng nương vào pháp này mà chứng Thật tế; tuy tu tập pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện nhưng chẳng nương vào pháp này mà chứng Thật tế. Vì đối với Thật tế chẳng chứng đắc nên chẳng rơi vào quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, lại cũng chẳng rơi vào quả vị Độc giác.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy do nghĩ như thế, nên tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu, thành tựu căn lành chẳng chứng Thật tế; tuy đối với Thật tế, chưa chứng đắc ngay nhưng chẳng từ bỏ bốn Tĩnh lự, cũng chẳng từ bỏ bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cũng chẳng từ bỏ bốn Niệm trụ, cũng chẳng từ bỏ bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; cũng chẳng từ bỏ tám Giải thoát, cũng chẳng từ bỏ tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; cũng chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát Không, cũng chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; cũng chẳng từ bỏ pháp không bên trong, cũng chẳng từ bỏ pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng chẳng từ bỏ chân như, cũng chẳng từ bỏ pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; cũng chẳng từ bỏ Thánh đế khổ, cũng chẳng từ bỏ Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng chẳng từ bỏ Bố thí ba-la-mật-đa, cũng chẳng từ bỏ Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa; cũng chẳng từ bỏ năm loại mắt, cũng chẳng từ bỏ sáu phép thần thông; cũng chẳng từ bỏ tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng từ bỏ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng chẳng từ bỏ mười lực của Phật, cũng chẳng từ bỏ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng chẳng từ bỏ pháp không quên mất, cũng chẳng từ bỏ tánh luôn luôn xả; cũng chẳng từ bỏ trí Nhất thiết, cũng chẳng từ bỏ trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy bấy giờ thành tựu tất cả pháp phần Bồ-đề cho đến chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, đối với các công đức, chẳng thể suy giảm.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu, vì dùng các phương tiện thiện xảo nhiếp thọ cho nên trong từng sát-na, pháp lành tăng trưởng, các căn lanh lợi, vượt qua tất cả bậc Thanh văn, Độc giác.
Lại nữa Thiện Hiện, hoặc Đại Bồ-tát thường suy nghĩ thế này: Các loài hữu tình ở trong đêm dài sinh tử, tâm họ thường bị bốn thứ điên đảo làm cho điên đảo. Đó là tưởng điên đảo về thường, khiến tâm điên đảo, nhận thức điên đảo; hoặc tưởng điên đảo về lạc, khiến tâm điên đảo, nhận thức điên đảo; hoặc tưởng điên đảo về ngã, khiến tâm điên đảo, nhận thức điên đảo; hoặc tưởng điên đảo về tịnh, khiến tâm điên đảo, nhận thức điên đảo. Ta vì các hữu tình kia nên dốc hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, tu các hạnh Đại Bồ-tát. Khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, vì các hữu tình giảng nói pháp không điên đảo: Đó là nêu giảng sinh tử là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, chỉ có Niết-bàn là tịch tĩnh vi diệu, đầy đủ các thứ công đức chân thật của Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thành tựu niệm này: Tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu, dùng phương tiện thiện xảo để nhiếp thọ nên đối mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nếu chưa viên mãn thì chẳng bao giờ nhập pháp định thù thắng của Như Lai.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy bấy giờ tuy tu tập pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, vào ra tự tại, nhưng đối với Thật tế chưa chứng đắc ngay, kể cả quả vị Giác ngộ cao tột cũng vậy; vì công đức tu hành chưa hoàn toàn viên mãn nên chẳng chứng đắc Thật tế và các công đức khác, khi dốc đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột thì mới chứng đắc.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy bấy giờ tuy đối với các công đức khác tu chưa viên mãn, nhưng đối với pháp môn Tam-ma-địa Vô nguyện thì sự tu tập đã viên mãn.
Lại nữa Thiện Hiện, hoặc Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Các loài hữu tình ở trong đêm dài sinh tử, mọi sự tạo tác đều có sở đắc, đó là chấp có ngã, hoặc chấp có hữu tình, dòng sinh mạng, khả năng sinh khởi, sự nuôi dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, khả năng tạo tác, khả năng thọ nhận, sự hiểu biết, sự nhận thức; hoặc chấp có sắc, hoặc chấp có thọ, tưởng, hành, thức; hoặc chấp có nhãn xứ, hoặc chấp có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; hoặc chấp có sắc xứ, hoặc chấp có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; hoặc chấp có nhãn giới, hoặc chấp có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; hoặc chấp có sắc giới, hoặc chấp có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; hoặc chấp có nhãn thức giới, hoặc chấp có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; hoặc chấp có nhãn xúc, hoặc chấp có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; hoặc chấp có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, hoặc chấp có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; hoặc chấp có địa giới, hoặc chấp có thủy, hỏa, phong, không, thức giới; hoặc chấp có vô minh, hoặc chấp có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; hoặc chấp có bốn Tĩnh lự, hoặc chấp có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; hoặc chấp có bốn chánh sự. Ta vì các hữu tình ấy, nên dốc hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, tu các hạnh Đại Bồ-tát; khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì sẽ khiến các hữu tình kia vĩnh viễn dứt trừ các chấp hữu sở đắc như thế.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thành tựu tâm niệm này, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu, dùng các phương tiện thiện xảo nhiếp thọ nên đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nếu chưa viên mãn thì chẳng chứng Thật tế.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy bấy giờ tuy đối với pháp môn Tam-ma-địa Vô tướng, vô nguyện, chẳng phải là chẳng tu tập, nhưng chỉ đối với pháp môn Tam-ma-địa Không thì sự tu tập đã viên mãn.
Lại nữa Thiện Hiện, hoặc Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu, nhận thấy các hữu tình do sức lôi kéo của bạn ác, trong đêm dài sinh tử chấp trước vô số các loại tướng. Đó là chấp trước tướng nữ, nam, tướng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nên luôn luôn nghĩ rằng: Ta vì các loài hữu tình như thế nên dốc hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, tu các hạnh Đại Bồ-tát, khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột sẽ khiến các hữu tình kia vĩnh viễn không còn có sự chấp trước các tướng như thế.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thành tựu tâm niệm này, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu, vì dùng phương tiện thiện xảo nhiếp thọ nên đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nếu chưa viên mãn thì chẳng chứng Thật tế.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy bấy giờ tuy đối với pháp môn Tam-ma-địa Không, vô nguyện chẳng phải là chẳng tu tập, nhưng đối với pháp môn Tam-ma-địa Vô tướng thì sự tu tập đã viên mãn.
Lại nữa Thiện Hiện, hoặc Đại Bồ-tát đã tu học hoàn hảo các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, đã an trú hoàn hảo nơi pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; đã an trú hoàn hảo nơi chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; đã an trú hoàn hảo nơi Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; đã tu học hoàn hảo bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; đã tu học hoàn hảo pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; đã tu học hoàn hảo... cho đến mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng vô biên các pháp Phật khác.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thành tựu công đức từ trí tuệ như thế, nếu đối với sinh tử phát khởi ý tưởng ưa thích, hoặc cho là ưa thích, hoặc đối với ba cõi, chấp trước để an trú thì không thể có việc đó.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đã tu học hoàn hảo pháp Bồ-đề phần, thì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng Đại Bồ-tát, phải nên nêu câu hỏi: Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột, làm thế nào tu học pháp Bồ-đề phần mà chẳng chứng các diệu lý không, vô tướng, vô nguyện, không sinh, không diệt, không tạo tác, không hành động, không tánh, thật tế? Do chẳng chứng nên chẳng rơi vào quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và quả vị Độc giác mà siêng năng tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường không chấp trước?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi được hỏi câu đó, nếu trả lời thế này: Các Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chỉ nên tư duy về các diệu lý không, vô tướng, vô nguyện, không sinh, không diệt, không tạo tác, không hành động, không tánh, thật tế; còn tất cả pháp Bồ-đề phần khác chẳng nên tu học, thì này Thiện Hiện, nên biết là Đại Bồ-tát ấy chưa được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Đại Bồtát ấy chưa đủ khả năng để khai thị sự thọ ký và biểu lộ rõ mình là Đại Bồ-tát trụ ở quả vị không thoái chuyển tu học pháp tướng.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi được hỏi câu này, nếu trả lời là các Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột thì nên tư duy đúng đắn về các diệu lý không, vô tướng, vô nguyện, không sinh, không diệt, không tạo tác, không hành động, không tánh, thật tế và tất cả pháp Bồ-đề phần khác, cũng nên theo phương tiện thiện xảo như trước đã nói mà tu học nhưng chẳng chứng đắc, thì này Thiện Hiện, nên biết Đại Bồ-tát ấy đã được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột không thoái chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy đã có khả năng để khai thị sự thọ ký, biểu lộ rõ mình là Đại Bồ-tát trụ ở quả vị không thoái chuyển tu học pháp tướng.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát chưa đủ khả năng để khai thị sự thọ ký, biểu lộ rõ mình là Đại Bồ-tát trụ ở quả vị không thoái chuyển tu học pháp tướng, nên biết Đại Bồ-tát ấy chưa tu học hoàn hảo các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, pháp Bồ-đề phần, chưa nhập vào bậc Bạc, chưa giống như các Đại Bồ-tát trụ ở quả vị không thoái chuyển khác, khai thị sự thọ ký, biểu lộ rõ là an trụ nơi quả vị không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát có khả năng để khai thị sự thọ ký, biểu lộ rõ mình là Đại Bồ-tát trụ ở quả vị không thoái chuyển tu học pháp tướng, nên biết Đại Bồ-tát ấy đã tu học hoàn hảo các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa, pháp Bồ-đề phần, đã nhập vào bậc Bạc, đã giống như các Đại Bồ-tát trụ ở quả vị không thoái chuyển khác, khai thị sự thọ ký, biểu lộ rõ là đã an trụ nơi quả vị không thoái chuyển.
Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, có vị nào chưa đắc Đại Bồ-tát không thoái chuyển mà có khả năng trả lời đúng như thật như thế chăng?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát tuy chưa đắc quả vị không thoái chuyển, nhưng có khả năng đối với câu hỏi này trả lời đúng như thật.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tuy chưa đắc quả vị không thoái chuyển nhưng thường tu tập các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, pháp Bồ-đề phần, đã thành tựu đầy đủ tuệ giác sắc bén, hoặc nghe hoặc chẳng nghe nhưng có khả năng trả lời đúng như thật như Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, có nhiều Đại Bồ-tát dốc tu hành quả vị Giác ngộ cao tột, nhưng chỉ số ít mới có khả năng trả lời đúng như thật như Đại Bồ-tát ở quả vị không thoái chuyển, vì đã tu tập hoàn hảo bậc Trị hay chưa tu tập hoàn hảo bậc Trị mà an trú? Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Vì sao? Này Thiện Hiện, vì chỉ có số ít Đại Bồ-tát được thọ ký quả vị không thoái chuyển với trí tuệ vi diệu như thế. Nếu có vị nào được thọ ký như vậy thì đều có khả năng, đối với câu hỏi này, trả lời đúng như thật.
Này Thiện Hiện, nếu vị nào có khả năng trả lời đúng như thật, nên biết Đại Bồ-tát ấy căn lành lanh lợi, các hàng Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian chẳng thể phá hoại được.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát, ngay cả trong mộng cũng chẳng ưa thích, khen ngợi bậc Thanh văn, Độc giác; đối với pháp ở ba cõi cũng chẳng để tâm ưa thích khen ngợi, thường quán các pháp như mộng, như huyễn, như tiếng vang, như ảnh tượng, nhơ bóng sáng, như dợn nắng, như trò ảo thuật, như thành ảo. Tuy quán sát như vậy nhưng chẳng chứng đắc thật tế thì này Thiện Hiện, nên biết đó là tướng không thoái chuyển của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát mộng thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có vô lượng chúng, vô lượng trăm chúng, vô lượng ngàn chúng, vô lượng trăm ngàn chúng, vô lượng ức chúng, vô lượng trăm ức chúng, vô lượng ngàn ức chúng, vô lượng trăm ngàn ức chúng, vô lượng triệu chúng, vô lượng trăm triệu chúng, vô lượng ngàn triệu chúng, vô lượng trăm ngàn triệu chúng, đó là Bísô, Bí-sô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca, Trời, Rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yếtlộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, Nhân phi nhân..., cung kính vây quanh để được nghe pháp; đã nghe pháp rồi, hiểu rõ nghĩa lý rồi, tinh tấn tu hành các pháp tùy, pháp hành cùng hòa kính hành, tùy pháp hành, thì này Thiện Hiện, nên biết đó là tướng không thoái chuyển của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát mộng thấy bọn giặc hung bạo phá hoại thôn xóm, thành ấp, hoặc thấy các loài thú dữ như hổ, lang, sư tử, các thứ rắn rít độc hại muốn đến hại thân mạng, hoặc thấy đám oan gia muốn tìm tới chặt đầu, hoặc thấy cha mẹ, anh em, chị em, vợ con, bạn bè sắp lâm chung, hoặc thấy chính mình bị lạnh nóng đói khát và các nỗi khổ khác bức bách não hại; mộng thấy những sự việc đáng sợ như thế nhưng chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng lo lắng; sau khi tỉnh mộng, liền thường tư duy về tính chất hư dối nơi ba cõi đều như những điều thấy trong mộng; nguyện khi ta chứng quả vị Giác ngộ cao tột, vì các hữu tình nêu giảng rõ về ba cõi, tất cả đều hư vọng, như cảnh mộng, thì này Thiện Hiện, nên biết đó là tướng không thoái chuyển của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát ngay cả trong mộng, thấy có các loài hữu tình nơi ba nẻo ác địa ngục, bàng sinh, quỷ giới, liền suy nghĩ thế này: “Ta sẽ tinh cần tu các hạnh Đại Bồ-tát, mau hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, nguyện khi ta chứng đắc quả vị ấy thì trong cõi Phật của ta, không còn có các loài hữu tình nơi địa ngục, bàng sinh, quỷ giới cho đến không có tên gọi các đường ác kia; sau khi tỉnh mộng cũng lại suy nghĩ như thế. Này Thiện Hiện, nên biết Đại Bồ-tát ấy, khi thành Phật, trong cõi Phật đó nhất định không có đường ác. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì hoặc mộng, hoặc tỉnh, các pháp đều không hai, không hai phần, thì này Thiện Hiện, nên biết đó là tướng không thoái chuyển của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát trong mộng thấy lửa thiêu đốt các loài hữu tình trong địa ngục..., hoặc lại thấy thiêu đốt thành ấp, làng xóm, liền phát thệ nguyện: Nếu ta đã được thọ ký bậc không thoái chuyển, sẽ chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nguyện cho ngọn lửa dữ này được dứt ngay tức khắc, biến thành hơi nước mát mẻ. Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy nguyện như vậy rồi, trong mộng nếu thấy lửa tức khắc bị diệt, nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển. Nhưng nếu nguyện như vậy rồi mà lửa chẳng dứt thì nên biết vị ấy chưa đắc bậc không thoái chuyển. Này Thiện Hiện, nên biết đó là tướng không thoái chuyển của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát trong lúc tỉnh thấy rõ lửa dữ bốc cháy thiêu đốt các thành ấp, hoặc xóm làng, liền suy nghĩ thế này: “Ta ở trong mộng, hoặc trong lúc tỉnh đã từng chứng kiến có các hành trạng, hình tướng của bậc không thoái chuyển mà chưa xét kỹ thật hư; nếu điều ta từng chứng kiến là thật có thì nguyện cho lửa dữ này tức thời dứt hẳn, biến thành hơi nước mát mẻ. Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi phát thệ nguyện thành thật như thế, lửa dữ tức thời dứt hết thì nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển. Nhưng phát lời thệ nguyện chân thật kia mà lửa chẳng dứt thì biết là vị ấy chưa đắc bậc không thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, nên biết đó là tướng không thoái chuyển của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát trong khi tỉnh, thấy lửa thiêu đốt các thành ấp, hoặc xóm làng, liền nghĩ thế này: “Ta ở trong mộng, hoặc trong khi tỉnh đã từng tự thấy có các hành trạng, hình tướng của bậc không thoái chuyển; nếu điều ta thấy nhất định là thật có, quyết đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì nguyện cho lửa dữ này tức thời dứt hết, biến thành hơi nước mát mẻ. Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy phát lời thệ nguyện chân thật này rồi, lửa dữ chẳng diệt liền mà đốt cháy một nhà, chừa một nhà, rồi lại đốt một nhà, hoặc đốt một xóm, chừa một xóm, lại đốt một xóm. Cứ lần lượt như vậy cho đến khi đám lửa ấy dứt hẳn. Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy nên tự biết rõ, nhất định là đã đắc bậc không thoái chuyển. Nhưng những chỗ bị thiêu đốt kia là do hữu tình ở đó đã tạo tác, tăng trưởng nghiệp phá hoại chánh pháp. Họ do nghiệp này, trước hết đọa vào đường ác trong vô lượng kiếp chịu khổ báo lớn; nay sinh vào cõi người phải thọ lấy tai ương còn lại ấy; hoặc do nghiệp này, sẽ đọa vào đường ác, trải qua vô lượng kiếp thọ các khổ báo lớn, nay tại cõi người, trước hết hiện ra tai ương nhỏ, thì này Thiện Hiện, nên biết đó là tướng không thoái chuyển của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Thiện Hiện, do các loại nhân duyên đã nói ở trước mà biết là Đại Bồ-tát không thoái chuyển. Lại có các hành trạng, hình tướng thành tựu khác để biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển. Ta sẽ nói cho ông rõ. Ông nên lắng nghe.
Thiện Hiện đáp:
–Dạ, xin Đức Thế Tôn giảng nói.
Phật bảo Thiện Hiện:
–Hoặc Đại Bồ-tát nhận thấy có các nam nữ, hoặc có người nữ đang bị hàng phi nhân nhập xác, liền nghĩ: Nếu các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết ta đã đạt được tâm ý thanh tịnh an lạc thì thọ ký cho ta bậc không thoái chuyển đối với quả vị Giác ngộ cao tột. Hoặc ta từ lâu phát khởi ý thanh tịnh cầu chứng quả vị Giác ngộ cao tột, xa lìa ý thích Thanh văn, Độc giác mà chỉ dốc cầu chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Hoặc tương lai, ta sẽ chắc chắn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, tận cùng đời vị lai đem lại lợi ích an lạc cho các loài hữu tình. Hoặc vô lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại thật có trong khắp mười phương thế giới, thuyết pháp nhiệm mầu, làm lợi lạc các loài hữu tình; chứ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác kia không gì là chẳng thấy, chẳng biết, chẳng hiểu, chẳng chứng, hiện nhận biết, thấu hiểu ý muốn sai biệt của tất cả loài hữu tình, nguyện xót thương soi thấu tâm niệm và lời bày tỏ chân thành của con. Nếu con có khả năng tu hạnh Bồ-tát thì quyết chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cứu vớt bao nỗi khổ sinh tử của hữu tình, xin nguyện cho nam tử ấy, hoặc nữ nhân này chẳng bị loài phi nhân quấy nhiễu; loài phi nhân ấy theo lời con nêu bày liền bỏ đi.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi nói lên lời này, nếu loài phi nhân kia chẳng bỏ đi thì nên biết Đại Bồ-tát ấy chưa từng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký bậc không thoái chuyển đối với quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi nói lên lời này, nếu loài phi nhân kia tức thời bỏ đi thì nên biết Đại Bồ-tát ấy đã được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký bậc không thoái chuyển đối với quả vị Giác ngộ cao tột.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát chưa tu học hoàn hảo pháp Bố thí ba-la-mật-đa, chưa tu học hoàn hảo các pháp Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; chưa an trú hoàn hảo nơi pháp không bên trong, chưa an trú hoàn hảo nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chưa an trú hoàn hảo nơi chân như, chưa an trú hoàn hảo nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; chưa an trú hoàn hảo nơi Thánh đế khổ, chưa an trú hoàn hảo nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; chưa tu học hoàn hảo bốn Niệm trụ, chưa tu học hoàn hảo bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chưa tu học hoàn hảo bốn Tĩnh lự, chưa tu học hoàn hảo bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chưa tu học hoàn hảo tám Giải thoát, chưa tu học hoàn hảo tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chưa tu học hoàn hảo pháp môn giải thoát Không, chưa tu học hoàn hảo pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chưa tu học hoàn hảo pháp môn Đà-la-ni, chưa tu học hoàn hảo pháp môn Tam-mađịa; chưa nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát; chưa tu tập đầy đủ tất cả pháp Phật; xa lìa phương tiện quyền xảo của Bồ-tát, chưa thoát khỏi sự não loạn của ác ma; đối với ma sự chưa có thể hiểu biết thấu đáo, chẳng tự lường tính được tính chất dày mỏng của căn lành; khi học nói lời chân thật của các Bồtát, liền bị ác ma lừa dối.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy nhận thấy có người nam, hoặc nữ đang bị hàng phi nhân dựa nhập, liền tỏ ra xem thường việc ấy, phát lời thành thật rằng: Nếu ta đã từ chư Phật quá khứ được thọ ký bậc không thoái chuyển đối với quả vị Giác ngộ cao tột thì khiến cho người nam, hoặc nữ kia chẳng bị hàng phi nhân nhiễu loạn, phi nhân kia theo lời ta bày tỏ hãy mau bỏ đi.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy nêu bày như thế rồi, lúc này, vì ác ma đang cố làm mê loạn nên liền đuổi được phi nhân. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì ác ma uy lực hơn loài phi nhân kia cho nên phi nhân nghe lời ác ma liền bỏ đi.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy nhận thấy sự việc ấy rồi, vô cùng vui mừng suy nghĩ: “Phi nhân nay đã bỏ đi là do oai lực của ta. Vì sao? Vì phi nhân kia theo sự phát nguyện của ta nên liền xả bỏ người nam, hoặc nữ ấy, chứ không phải lý do nào khác.”
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chẳng thể biết đó là việc làm của ác ma mà cho là do sức mình nên vọng sinh hoan hỷ. Dựa vào việc này mà xem thường các Bồ-tát khác, nói rằng, ta đã từ chư Phật trong quá khứ được thọ ký bậc không thoái chuyển đối với quả vị Giác ngộ cao tột, những điều đã phát nguyện đều không hư dối. Các ngươi chưa được chư Phật thọ ký, chẳng nên học phát lời thành thật tương hợp; dù có tha thiết mong cầu chắc chắn là không có kết quả gì.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì xem thường, chê bai các Bồ-tát khác do vọng tưởng dựa vào chút ít công năng kia; vì đối với các công đức đã làm sinh trưởng nhiều thứ tăng thượng mạn nên xa lìa quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì không có diệu lực của phương tiện thiện xảo, vì đã sinh trưởng nhiều thứ tăng thượng mạn, vì khinh miệt, chê bai các Bồ-tát khác nên tuy siêng năng tinh tấn nhưng bị rơi vào hàng Thanh văn, hoặc Độc giác.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì phước đức cạn mỏng nên nghiệp thiện đã làm trong sự phát lời thành thật đều từ ma sự dấy khởi.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chẳng thường thân cận cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen các thiện tri thức; chẳng có thể thỉnh vấn về hành tướng của các Bồ-tát đã đạt bậc không thoái chuyển; chẳng có thể nhận ra mưu mô quỷ quyệt của đám ma xấu ác, nên mọi sự hành động tạo tác đều bị đám ma kia trói buộc càng lúc càng siết chặt. Vì sao? Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì tu hành Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa chẳng được lâu dài, thậm chí lại xa lìa phương tiện quyền xảo cho nên bị ác ma nhiễu loạn. Vì vậy, này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nên hiểu biết đầy đủ về các loại ma sự.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiẹn liền bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát tu hành các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng được lâu dài? An trú nơi pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng được lâu dài; an trú nơi chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng được lâu dài; an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo chẳng được lâu dài; tu hành bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng được lâu dài; tu hành bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng được lâu dài; tu hành tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng được lâu dài; tu hành pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng được lâu dài; tu hành pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; chưa nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát; chưa tu hành đầy đủ tất cả pháp Phật; xa lìa phương tiện quyền xảo của Bồ-tát, nên bị các ác ma nhiễu loạn? Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, bọn ác ma biến ra đủ các loại hình tượng, đến trước Đại Bồ-tát này, tìm cách nói dối rằng: “Ồ, ông thiện nam! Ông có tự biết chăng, chư Phật quá khứ đã từng thọ ký quả vị Đại giác ngộ cho ông, đối với quả vị Giác ngộ ông quyết định sẽ chứng đắc, chẳng bị thoái chuyển; ông tên gọi như thế, cho mẹ tên như thế, anh em tên như thế, chị em tên như thế, bằng hữu quyến thuộc, cho đến cha mẹ bảy đời, dòng họ đều có tên như thế... Thân ông sinh vào phương đó, cõi nước đó, thành đó, ấp đó, xóm làng đó; ngươi sinh vào năm ấy, vào đời vua ấy...”
Này Thiện Hiện, ác ma kia nếu nhận thấy tâm hành của Bồ-tát này yếu đuối, căn tánh chậm lụt, bèn nói dối rằng: Đời trước, tâm hành của ông cũng yếu đuối, căn tánh cũng chậm lụt. Ác ma ấy nếu thấy tâm hành của Bồ-tát này vững vàng, căn tánh lanh lợi bèn nói dối rằng: Đời trước, tâm hành của ông cũng vững vàng, căn tánh cũng lanh lợi. Ác ma ấy nếu thấy Bồ-tát này ở chốn thanh vắng, hoặc ở bãi tha ma, chỗ vắng vẻ, dưới bóng cây, hoặc thường đi khất thực, hoặc ăn một bữa, hoặc ngồi ăn một chỗ, hoặc ăn một bát, hoặc mặc y chằm vá, hoặc chỉ có ba y, hoặc thường ngồi chứ không nằm, hoặc ưa trải tọa cụ cũ, hoặc ít ham muốn, hoặc thích vừa đủ, hoặc ưa xa lìa, hoặc có đủ chánh niệm, hoặc ưa định tĩnh, hoặc đủ diệu tuệ, hoặc chẳng coi trọng lợi dưỡng, hoặc chẳng quý chuộng tiếng khen, hoặc thích liêm khiết, tiết kiệm, chẳng thoa dầu chân, hoặc ít ngủ nghỉ, hoặc chẳng dao động, hoặc thích ít nói, hoặc ưa lời nhu hòa, thì ác ma ấy nói rằng: Ở đời trước, ông đã từng ở chỗ thanh vắng như thế, hoặc ở bãi tha ma... như đã nêu ở trên, cho đến ít nói, ưa lời nhu hòa. Vì sao? Vì nay ông đã thành tựu các thứ công đức Đỗ-đa như vậy, thế gian đều thấy. Nhất định đời trước ông cũng có các loại công đức thù thắng không khác. Nên tự vui mừng đi, chớ tự coi thường mình.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy nghe ác ma này nói về đời trước và đời sau của mình có những công đức thù thắng cùng những danh tự sai biệt của mình, của bà con ở hiện tại, cả nơi sinh, lúc sinh và khen ngợi công đức Đỗ-đa; nghe xong hoan hỷ, tâm sinh kiêu mạn, khinh miệt chê bai các vị Bồtát khác.
Này Thiện Hiện, bấy giờ ác ma biết tâm của Bồ-tát này ám độn, lại bảo rằng: “Ông có đầy đủ các tướng trạng về công đức như thế, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ nhất định đã thọ ký quả vị Đại giác ngộ cho ông; đối với quả vị Giác ngộ cao tột, chắc chắn ông sẽ chứng đắc, chẳng bị thoái chuyển.
Này Thiện Hiện, khi ấy vì bị ác ma vì muốn làm nhiễu loạn nên giả hiện hình dạng người xuất gia, hoặc giả hiện hình dạng người tại gia, hoặc giả hiện hình dạng cha mẹ, anh em, chị em, bạn hữu, hoặc giả hiện hình dạng Phạm chí, hoặc giả hiện hình dạng bậc thầy mẫu mực, hoặc giả hiện đủ các loại hình dạng Trời, Rồng, Dược-xoa, Nhân phi nhân... đến chỗ Đại Bồ-tát này nói như vầy: Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ, từ lâu đã thọ ký quả vị Đại giác ngộ cho ông; đối với quả vị ấy, quyết định ông sẽ chứng đắc, chẳng còn thoái chuyển. Vì sao? Vì các tướng trạng công đức của Đại Bồ-tát ở bậc không thoái chuyển ông đều có đủ. Nên tự tôn trọng, chớ sinh do dự.
Này Thiện Hiện, như Ta đã nói là Đại Bồ-tát thật sự có được hành trạng hình tướng của bậc Đại Bồ-tát không thoái chuyển mà còn ôm lòng tăng thượng mạn thì quả là điều chẳng có.
Này Thiện Hiện, nên biết Đại Bồ-tát ấy đã bị ma chi phối, bị ma ám nhập. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy đối với các hành, dạng, tướng của Đại Bồ-tát đạt được bậc không thoái chuyển thật sự chưa có, chỉ nghe ác ma nói về công đức, tên tuổi, chỗ sinh, khi sinh của mình có đôi phần giống sự thật, liền sinh tâm kiêu mạn, khinh thường, chê bai các Bồ-tát khác. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì nên hiểu biết rõ về các ma sự như thế.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát bị ác ma chi phối, bị ác ma làm mê hoặc, chỉ nghe danh tự liền vọng sinh chấp trước. Vì sao?
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy trước chưa tu học các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; trước chưa an trú nơi pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; trước chưa an trú nơi chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; trước chưa an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; trước chưa tu học bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; trước chưa tu học bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; trước chưa tu học tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; trước chưa tu học pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; trước chưa tu học mười địa Bồ-tát; trước chưa tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông; trước chưa tu học pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; trước chưa tu học mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; trước chưa tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; trước chưa tu học trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; trước chưa tu học tất cả hạnh Đại Bồ-tát; trước chưa tu học quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Do nhân duyên này, nên đã tạo điều kiện thuận tiện cho ma.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chẳng có khả năng nhận rõ hành tướng của uẩn ma, chẳng có khả năng nhận rõ hành tướng của tử ma, chẳng có khả năng nhận rõ hành tướng của thiên ma, chẳng có khả năng nhận rõ hành tướng của phiền não ma. Do nhân duyên này, nên đã tạo điều kiện thuận tiện cho ma.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chẳng hiểu rõ sắc, chẳng hiểu rõ thọ, tưởng, hành, thức; chẳng hiểu rõ nhãn xứ, chẳng hiểu rõ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng hiểu rõ sắc xứ, chẳng hiểu rõ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng hiểu rõ nhãn giới, chẳng hiểu rõ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng hiểu rõ sắc giới, chẳng hiểu rõ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng hiểu rõ nhãn thức giới, chẳng hiểu rõ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng hiểu rõ nhãn xúc, chẳng hiểu rõ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng hiểu rõ các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng hiểu rõ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; chẳng hiểu rõ địa giới, chẳng hiểu rõ thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng hiểu rõ vô minh, chẳng hiểu rõ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; chẳng hiểu rõ Bố thí ba-la-mậtđa, chẳng hiểu rõ Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng hiểu rõ pháp không bên trong, chẳng hiểu rõ pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng hiểu rõ chân như, chẳng hiểu rõ pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; chẳng hiểu rõ bốn Niệm trụ, chẳng hiểu rõ bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chẳng hiểu rõ Thánh đế khổ, chẳng hiểu rõ Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng hiểu rõ bốn Tĩnh lự, chẳng hiểu rõ bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chẳng hiểu rõ tám Giải thoát, chẳng hiểu rõ tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chẳng hiểu rõ pháp môn giải thoát Không, chẳng hiểu rõ pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chẳng hiểu rõ mười địa Bồ-tát; chẳng hiểu rõ năm loại mắt, chẳng hiểu rõ sáu phép thần thông; chẳng hiểu rõ pháp môn Tam-ma-địa, chẳng hiểu rõ pháp môn Đà-la-ni; chẳng hiểu rõ mười lực của Phật, chẳng hiểu rõ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng hiểu rõ quả Dự lưu, chẳng hiểu rõ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; chẳng hiểu rõ quả vị Độc giác; chẳng hiểu rõ trí Nhất thiết, chẳng hiểu rõ trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; cũng chẳng hiểu rõ thật tướng của danh tự nơi các nơi các pháp của hữu tình. Do nhân duyên này nên đã tạo điều kiện thuận tiện cho ma, chúng dùng phương tiện hóa đủ các hình dạng nói với Đại Bồ-tát này rằng: Hạnh nguyện tu hành của ông đã viên mãn, nên chứng quả vị Giác ngộ cao tột đi! Khi ông thành Phật, sẽ được danh hiệu tôn quý, công đức thù thắng như vậy.
Này Thiện Hiện, đó là ác ma kia đã biết Bồ-tát này trải qua thời gian vô tận tư duy tâm nguyện là khi mình thành Phật thì sẽ đạt được công đức, danh hiệu như thế, nên ác ma đã tùy theo tâm nguyện, tư duy của vị ấy mà nói như vậy.
Này Thiện Hiện, khi ấy, Bồ-tát này xa lìa Bátnhã ba-la-mật-đa, vì không có phương tiện thiện xảo, nên nghe ma nói, liền nghĩ thế này: “Lạ thật! Người này vì ta mà nói rõ là ta sẽ được thành Phật cùng công đức, danh hiệu tương ưng với tâm nguyện tư duy lâu dài của ta; do vậy nên biết chư Phật quá khứ chắc chắn đã thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột, ta nhất định đạt được không thoái chuyển. Khi ta thành Phật, chắc chắn sẽ đạt được danh hiệu tôn quý, công đức như thế.”
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy nghe ác ma kia hoặc quyến thuộc của ma, hoặc các Sa-môn đã bị ma chi phối nói là trong tương lai sẽ thành Phật, danh hiệu, nên tâm kiêu mạn cứ như thế mà càng tăng trưởng cho rằng ta trong đời vị lai nhất định sẽ thành Phật, đạt được danh hiệu công đức như vậy, các Bồ-tát khác chẳng ai bằng ta.
Này Thiện Hiện, như lời ta nói về các hành trạng, hình tướng của Đại Bồ-tát sẽ được không thoái chuyển thì Đại Bồ-tát này đều chưa thành tựu, chỉ nghe ma nói về hư danh của sự thành Phật liền sinh ngạo mạn, khinh miệt chê bai các chúng Đại Bồ-tát khác.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy do khởi ngạo mạn, khinh miệt chê bai các Đại Bồ-tát khác nên xa lìa quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì không có phương tiện thiện xảo, vì đã rời bỏ bạn lành, vì thường bị sự tác động của bạn xấu ác nên rơi vào hàng Thanh văn, hoặc Độc giác.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy hoặc từ nơi thân này, lại được chánh niệm, chí thành hối lỗi, bỏ tâm kiêu mạn cũ, luôn luôn gần gũi cúng dường, cung kính tôn trọng ngợi khen bạn lành tốt nhất, thì vị ấy tuy bị lưu chuyển theo nẻo sinh tử trong thời gian dài nhưng sau lại nương vào Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa dần dần tu học, cũng sẽ chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy hoặc từ nơi thân này nhưng chẳng được chánh niệm, chẳng biết hối lỗi, chẳng bỏ tâm kiêu mạn, chẳng muốn gần gũi, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen bạn lành tốt nhất, thì vị ấy nhất định bị lưu chuyển trong nẻo sinh tử dài lâu; sau tuy tinh tấn tu các nghiệp thiện nhưng cũng rơi vào hàng Thanh văn hoặc Độc giác.
Này Thiện Hiện, ví như Bí-sô cầu quả vị Thanh văn, đối với bốn trọng tội nếu bị phạm một thì chẳng phải là Sa-môn, chẳng phải là con dòng họ Thích; trong hiện tại, vị ấy nhất định chẳng có thể đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn.
Này Thiện Hiện, Bồ-tát vọng chấp hư danh cũng vậy, chỉ nghe ma nói đến hư danh là thành Phật thì liền khởi tâm kiêu mạn, khinh miệt chê bai các chúng Đại Bồ-tát khác. Nên biết, tội này hơn tội một trong bốn trọng tội mà Bí-sô kia đã phạm vô lượng lần.
Này Thiện Hiện, nếu đem so bốn trọng tội mà Bí-sô kia đã phạm, tội của Bồ-tát này còn hơn cả tội năm vô gián cũng vô lượng lần. Vì sao?
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy sự thật chẳng thành tựu các công đức thù thắng mà chỉ nghe ác ma nói về danh hiệu thành Phật liền tự ngạo mạn, khinh các Bồ-tát khác, do đó tội này còn hơn tội năm vô gián.
Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì phải nhận biết rõ lời nói về danh hiệu hư vọng như vậy chính là ma sự hết sức vi tế.
Lại nữa Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát ẩn cư nơi núi rừng, đồng hoang, đầm vắng, một mình ngồi yên, tu hạnh xa lìa. Khi ấy, có ác ma đi đến chỗ của vị đó cung kính khen ngợi công đức của hạnh xa lìa, nói thế này: “Lành thay, Đại sĩ, có thể tu hạnh xa lìa như thế. Hạnh xa lìa này, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều cùng khen ngợi. Thiên đế Thích, các vị Trời, Thiên thần đều cùng bảo vệ, cúng dường, tôn trọng. Vậy Đại sĩ nên thường trú ở đây, chớ đi nơi khác.”
Này Thiện Hiện, Ta chẳng khen ngợi các Đại Bồ-tát ở chốn thanh vắng, nơi đồng hoang, rừng núi, ngồi yên tư duy, tu hạnh xa lìa.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu Phật chẳng khen ngợi người ở nơi thanh vắng, chốn đồng hoang, rừng núi, bỏ các đồ nằm, ngồi yên, tư duy về công đức của hạnh xa lìa, thì các Đại Bồ-tát nên tu những hạnh xa lìa nào khác? Cúi xin Ngài chỉ dạy hạnh xa lìa thù thắng cho các Đại Bồ-tát.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, chư Đại Bồ-tát, hoặc ở các nơi thanh tịnh như rừng núi, đầm vắng, đồng hoang, hoặc ở các chỗ phức tạp ồn ào như thành ấp, xóm làng, kinh đô, thì chỉ có thể xa lìa nghiệp ác, phiền não, lại còn phải xa lìa tác ý đối với các hàng Thanh văn, Độc giác, phải dốc tu Bát-nhã bala-mật-đa và các công đức thù thắng khác, đó gọi là hạnh xa lìa chân chính của Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, hạnh xa lìa này, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều khen ngợi. Hạnh xa lìa ấy, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều khai thị và chấp nhận.
Này Thiện Hiện, hạnh xa lìa này, các Đại Bồtát thường phải tu học; hoặc ngày, hoặc đêm, phải chánh tư duy, tinh tấn tu hành pháp xa lìa ấy. Đó gọi là hạnh xa lìa của Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, hạnh xa lìa này chẳng làm lẫn lộn với tác ý về hàng Thanh văn, Độc giác, chẳng xen lẫn với tất cả phiền não, nghiệp ác xa lìa các việc ồn ào, phức tạp, hoàn toàn thanh tịnh, hiện tại giúp các Bồ-tát mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho các hữu tình, cùng tận đời vị lai luôn được nối tiếp.
Này Thiện Hiện, các việc mà ác ma đã khen ngợi về những chỗ ở thanh tịnh như núi rừng, đầm vắng, đồng hoang, rời bỏ đồ nằm, ngồi yên một mình chẳng phải là hạnh xa lìa thù thắng của Bồtát. Vì sao?
Này Thiện Hiện, vì hạnh xa lìa ấy còn có tính chất huyên náo, hỗn tạp, nghĩa là hạnh ấy còn xen lẫn nghiệp ác, phiền não, hoặc xen lẫn tác ý về hàng Thanh văn, Độc giác; đối với Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa chẳng thường tin tưởng, thọ nhận, tinh cần tu học, chẳng có thể làm viên mãn trí Nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện, có Đại Bồ-tát tuy siêng năng tu tập pháp hạnh xa lìa mà ác ma từng khen ngợi, lại khởi tâm kiêu mạn không thanh tịnh, khinh miệt chê bai các chúng Đại Bồ-tát khác. Đó là có chúng Đại Bồ-tát tuy ở thành ấp, xóm làng, đô thị mà tâm thanh tịnh, không bị các loại nghiệp ác phiền não xen lẫn, chẳng xen lẫn tác ý về hàng Thanh văn, Độc giác, tinh cần tu tập các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; tinh cần an trú nơi pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; tinh cần an trú nơi chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; tinh cần an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; tinh cần tu tập bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; đối với các công đức nơi thế gian như là bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, năm Thần thông... tu tập đã viên mãn, tinh cần tu tập pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; tinh cần tu tập năm loại mắt, sáu phép thần thông; tinh cần tu tập pháp môn Đàla-ni, pháp môn Tam-ma-địa; tinh cần tu tập mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; tinh cần tu tập pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tinh cần tu tập trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, làm nghiêm tịnh cõi Phật, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, tuy ở chỗ ồn ào nhưng tâm tĩnh lặng, thường xuyên siêng năng tu tập hạnh xa lìa thù thắng. Đối với các chúng Đại Bồ-tát thanh tịnh đích thực như vậy, họ sinh tâm kiêu mạn, phỉ báng, khinh miệt.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa vì không có phương tiện thiện xảo, nên dù ở nơi đồng hoang rộng hàng trăm do-tuần, nơi ấy tuyệt nhiên không có các loài cầm thú hung dữ, rắn rết, bọn trộm cướp, chỉ có Thần, Quỷ, Lasát... ra vào hay quanh quẩn trong đó. Họ ở chốn thanh vắng như thế, tuy trải qua một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm, hoặc trải qua trăm ngàn năm, ức năm, trăm ức năm, ngàn ức năm, trăm ngàn ức năm, hoặc vượt hơn số này, tu hạnh xa lìa nhưng chẳng hiểu rõ hạnh viễn ly chân chính của các Đại Bồ-tát, đó là các chúng Đại Bồ-tát tuy ở chỗ ồn ào mà tâm vẫn tĩnh lặng, xa lìa các loại phiền não, nghiệp ác, hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, xa lìa tác ý về hàng Thanh văn, Độc giác. Đại Bồ-tát ấy tuy ở nơi đồng hoang, trải qua thời gian lâu dài nhưng còn xen lẫn tác ý về hàng Thanh văn, Độc giác, tham đắm nơi pháp của quả vị Thanh văn, Độc giác, nương vào pháp ấy mà tu hạnh xa lìa; lại đối với hạnh này sinh tâm tham đắm sâu xa.
Này Thiện Hiện, Bồ-tát ấy, tuy tu hành hạnh xa lìa như thế nhưng chẳng thuận theo tâm của chư Như Lai.
Này Thiện Hiện, hạnh xa lìa đích thực của các Đại Bồ-tát mà Ta xưng tán, Đại Bồ-tát ấy hoàn toàn chẳng thành tựu. Vị ấy đối với hạnh xa lìa chân chính, thù thắng cũng chẳng thấy có hành tướng tương tợ. Vì sao? Vì vị ấy đối với hạnh xa lìa chân chính như thế chẳng sinh ưa thích, chỉ tu hành hạnh xa lìa không của hàng Thanh văn, Độc giác.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy khi tu hạnh xa lìa chẳng chân chính, thù thắng, ma sẽ đi đến chỗ trống, hoan hỷ khen ngợi, bảo rằng: “Hay thay! Hay thay! Ngài có khả năng tu hành hạnh xa lìa chân chính. Hạnh xa lìa này, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều xưng tán. Đối với hạnh này, ngài nên tinh cần tu tập thì mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.”
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy chấp trước nơi pháp hạnh xa lìa của hàng Thanh văn, Độc giác như vậy cho là tối thắng, khinh miệt chê bai những vị an trú nơi Bồ-tát thừa, tuy họ ở chỗ ồn ào mà tâm vẫn tĩnh lặng, và các Bí-sô mà pháp thiện đã thành tựu, thuận hợp... cho rằng họ chẳng có thể tu tập hạnh xa lìa, thân ở chỗ ồn ào, tâm chẳng tĩnh lặng.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đối với các vị Đại Bồ-tát an trú nơi hạnh xa lìa chân chính mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cùng khen ngợi, thì khinh miệt, chê bai cho là ở chỗ ồn ào tâm chẳng tĩnh lặng, chẳng thể tu hành hạnh xa lìa chân chính; còn đối với các Đại Bồ-tát an trú nơi hạnh huyên náo, hỗn tạp thật sự mà chư Như Lai chẳng hề xưng tán, thì lại tôn trọng ngợi khen, cho là chẳng huyên náo, hỗn tạp, tâm họ tĩnh lặng, có khả năng tu hành đúng theo hạnh xa lìa chân chính.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đối với người như bậc đại sư, nên thân cận cung kính cúng dường thì chẳng thân cận cung kính cúng dường, trái lại sinh khinh miệt. Còn đối với kẻ như bạn ác đáng xa lìa chẳng nên phụng sự thì chẳng xa lìa mà lại cung kính cúng dường như phụng sự bậc Đại sư.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì không có phương tiện thiện xảo nên vọng sinh chấp trước. Vì sao? Vì vị ấy nghĩ thế này: “Việc tu hành của ta là sự xa lìa chân chính, cho nên được hàng phi nhân xưng tán hộ niệm. Người ở thành ấp, thân tâm bị nhiễu loạn thì ai mà hộ niệm, cung kính khen ngợi.”
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này nên tâm chứa nhiều ngạo mạn, khinh miệt, chê bai các chúng Đại Bồ-tát khác, phiền não nghiệp ác ngày đêm tăng trưởng.
Này Thiện Hiện, nên biết Đại Bồ-tát ấy đối với các Bồ-tát chính là hạng Chiên-đồ-la làm ô uế chúng Đại Bồ-tát, tuy giống hình tướng Đại Bồ-tát nhưng chính là giặc dữ trong cõi trời, người dối trá, mê hoặc Trời, Người, A-tố-lạc..., thân tuy mang pháp y của Sa-môn nhưng tâm thường chứa ý muốn trộm cướp. Những người hướng đến Bồ-tát thừa chẳng nên thân cận cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen người xấu ác như thế. Vì sao?
Này Thiện Hiện, nên biết người ấy lòng đầy tăng thượng mạn, bên ngoài giống Bồ-tát nhưng bên trong chứa toàn những phiền não. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát chân thật thì chẳng lìa bỏ trí Nhất thiết trí, chẳng bỏ quả vị Giác ngộ cao tột, thân tâm cầu chứng trí Nhất thiết trí, cầu chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Vì lợi lạc khắp các hữu tình nên chẳng thân cận cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen người xấu ác như thế.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát thường nên tinh tấn tu hành sự nghiệp của mình, nhàm chán, xa lìa nẻo sinh tử, chẳng tham đắm ba cõi; đối với kẻ Chiên-đồ-la giặc ác kia thường phát tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, nên nghĩ thế này: “Ta chẳng nên dấy khởi như kẻ xấu ác kia đã sinh khởi những lỗi lầm. Nếu khi thất niệm, tạm khởi như kẻ ấy thì kịp thời nhận biết ngay, khiến mau diệt trừ.”
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, nên hiểu biết rõ ràng về ma sự như vậy, phải siêng năng tinh tấn, xa lìa, trừ diệt, như xa lìa, diệt trừ tội lỗi mà Bồ-tát kia đã khởi.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát, ý muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột tăng trưởng thì nên thường thân cận cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen bậc bạn lành tốt nhất.
Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, những ai được gọi là bạn lành tốt nhất của các Đại Bồ-tát?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; tất cả Đại Bồ-tát cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồtát. Các hàng Thanh văn và Thiện sĩ khác có khả năng vì chúng Đại Bồ-tát mà nêu bày, khai thị, phân biệt, làm rõ pháp tương ưng với Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa, khiến cho dễ lãnh hội, nên biết đó cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, nên biết Bố thí ba-la-mật-đa là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, nên biết bốn Niệm trụ là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, nên biết bốn Tĩnh lự là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồtát.
Này Thiện Hiện, nên biết tám Giải thoát là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, nên biết pháp môn giải thoát Không là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, nên biết bậc Cực hỷ là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồtát.
Này Thiện Hiện, nên biết năm loại mắt là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; sáu phép thần thông cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, nên biết pháp môn Tam-mađịa là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; pháp môn Đà-la-ni cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, nên biết mười lực của Phật là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, nên biết pháp không quên mất là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; tánh luôn luôn xả cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, nên biết vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí phiền não là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, nên biết trí Nhất thiết là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồtát.
Này Thiện Hiện, nên biết tất cả hạnh Đại Bồtát là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, nên biết Thánh đế khổ là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, nên biết tánh nhân duyên của các pháp là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; các chi duyên khởi cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, nên biết pháp không bên trong là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, nên biết chân như là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát; pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng là bạn lành tốt nhất của Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, nên biết Bố thí ba-la-mật-đa đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện, nên biết bốn Niệm trụ đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện, nên biết bốn Tĩnh lự đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện, nên biết tám Giải thoát đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện, nên biết pháp môn giải thoát Không đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện, nên biết bậc Cực hỷ đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện, nên biết năm loại mắt đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ; sáu phép thần thông cũng đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện, nên biết pháp môn Tam-mađịa đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ; pháp môn Đà-la-ni cũng đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện, nên biết mười lực của Phật đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện, nên biết pháp không quên mất đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ; tánh luôn luôn xả cũng đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện, nên biết sự vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí phiền não đối với các chúng Đại Bồtát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện, nên biết trí Nhất thiết đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện, nên biết tất cả hạnh Đại Bồtát đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ; quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện, nên biết Thánh đế khổ đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện, nên biết tánh nhân duyên của các pháp đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ; các chi duyên khởi cũng đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện, nên biết pháp không bên trong đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện, nên biết chân như đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ; pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng đối với các chúng Đại Bồ-tát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ. Vì sao?
Này Thiện Hiện, vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác của quá khứ đều lấy Bố thí ba-la-mậtđa nói rộng cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn làm thầy, làm người dẫn dắt, làm ánh sáng, làm ngọn đuốc, làm ngọn đèn sự soi sáng, làm sự hiểu thấu, làm sự nhận biết, làm trí, làm tuệ, làm sự cứu giúp, làm giúp, làm cửa, làm nhà, làm bến, làm bờ, làm chốn về, chốn đến, làm cha, làm mẹ. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác của vị lai đều lấy Bố thí ba-la-mật-đa... nói rộng cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn làm thầy, làm người dẫn dắt, làm ánh sáng, làm ngọn đuốc, làm ngọn đèn sự soi sáng, làm sự hiểu thấu, làm sự nhận biết, làm trí, làm tuệ, làm sự cứu giúp, làm giúp, làm cửa, làm nhà, làm bến, làm bờ, làm chốn về, chốn đến, làm cha, làm mẹ. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại nơi vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong khắp mười phương, giữ vững, đem lại sự an ổn cho tất cả hữu tình, khai thị pháp vi diệu đều lấy Bố thí ba-la-mật-đa... nói rộng cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn làm thầy, làm người dẫn dắt, làm ánh sáng, làm ngọn đuốc, làm ngọn đèn sự soi sáng, làm sự hiểu thấu, làm sự nhận biết, làm trí, làm tuệ, làm sự cứu giúp, làm giúp, làm cửa, làm nhà, làm bến, làm bờ, làm chốn về, chốn đến, làm cha, làm mẹ. Vì sao?
Này Thiện Hiện, vì chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều từ Bố thí ba-la-mật-đa... nói rộng cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà sinh ra. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát dốc sức tu tập muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, thì nên học Bố thí ba-la-mật-đa, nên học Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên học bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; nên học bốn Tĩnh lự, nên học bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; nên học tám Giải thoát, nên học tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; nên học pháp môn giải thoát Không, nên học pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; nên học bậc Cực hỷ, nên học bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; nên học năm loại mắt, nên học sáu phép thần thông; nên học pháp môn Tam-ma-địa, nên học pháp môn Đà-lani; nên học mười lực của Phật, nên học bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; nên học pháp không quên mất, nên học tánh luôn luôn xả; nên học đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não; nên học trí Nhất thiết, nên học trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; nên học tất cả hạnh Đại Bồ-tát; nên học quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; nên học Thánh đế khổ, nên học Thánh đế tập, diệt, đạo; nên học tánh duyên khởi của các pháp, nên học các chi duyên khởi; nên học pháp không bên trong, nên học pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; nên học chân như, nên học pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đã học Bố thí ba-la-mật-đa cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Lại nên dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp hóa các hữu tình, bốn nhiếp pháp là gì? Một là bố thí, hai là ái ngữ, ba là lợi hành, bốn là đồng sự.
Này Thiện Hiện, Ta quán xét nghĩa này cho nên nêu rõ là Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa... nói rộng cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, đối với các chúng Đại Bồtát là thầy, là người dẫn dắt, là ánh sáng, là ngọn đuốc, là ngọn đèn sự soi sáng, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là giúp, là cửa, là nhà, là bến, là bờ, là về, là đến, là cha, là mẹ. Vì vậy, này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát muốn tu hành hạnh không theo sự chỉ dạy của kẻ khác, muốn an trú nơi pháp trụ không theo sự chỉ dạy của kẻ khác, muốn đoạn trừ nghi hoặc của tất cả hữu tình, muốn thỏa mãn nguyện vọng của tất cả hữu tình, muốn làm nghiêm tịnh cõi Phật, muốn đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì ở trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này đã rộng nói về tất cả pháp tướng phải nên tu học của chúng Đại Bồ-tát. Tất cả chúng Đại Bồ-tát đối với pháp ấy đều phải siêng năng tu học.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa ấy lấy gì làm tướng mà khuyên chúng Đại Bồ-tát phải siêng năng tu học?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Bát-nhã ba-la-mật-đa ấy lấy hư không làm tướng, Bát-nhã ba-la-mật-đa ấy lấy vô trước làm tướng, Bát-nhã ba-la-mật-đa ấy lấy vô tướng làm tướng. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì ở trong tướng của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, các tướng của các pháp đều chẳng thể nắm bắt được, vì là không sở hữu.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, có nhân duyên nào để có thể nêu bày diệu tướng của Bát-nhã ba-la-mật-đa chăng? Các pháp cũng có tướng như thế chăng?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Có nhân duyên để có thể nêu bày diệu tướng của Bát-nhã ba-la-mật-đa, các pháp cũng có diệu tướng như thế. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa ấy lấy tánh không làm tướng; các pháp cũng lấy tánh không làm tướng. Bát-nhã ba-la-mật-đa ấy lấy tính xa lìa làm tướng; các pháp cũng lấy tính xa lìa làm tướng.
Này Thiện Hiện, do nhân duyên ấy nên có thể nói thế này: “Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có diệu tướng, các pháp cũng có diệu tướng như thế. Vì tất cả pháp, tự tánh đều là không, lìa tất cả các tướng.” Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp, tự tánh đều là không, xa lìa các tướng; thì tất cả pháp là tất cả các pháp không, cũng là tất cả các pháp, lìa tất cả các pháp. Vậy thì tại sao các hữu tình có thể bày ra nào tạp nhiễm, nào thanh tịnh?
Bạch Thế Tôn, chẳng phải pháp tánh không có nhiễm có tịnh, cũng chẳng phải pháp xa lìa có nhiễm có tịnh.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải pháp tánh không có khả năng chứng quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng phải pháp xa lìa có khả năng quả vị Giác ngộ cao tột.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong tánh không, có pháp có thể chứng đắc; cũng chẳng phải trong xa lìa, có pháp có thể chứng đắc.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong tánh không có Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột; cũng chẳng phải trong xa lìa, có Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Bạch Thế Tôn, làm sao cho con lãnh hội được diệu nghĩa sâu xa mà Phật đã dạy?
Bấy giờ, Phật bảo Cụ thọ Thiện Hiện:
–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Hữu tình trải qua thời gian vô tận có tâm về ngã và ngã sở, chấp ngã và ngã sở chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Bạch Thiện Thệ, đúng vậy! Hữu tình trong thời gian vô tận có tâm về ngã và ngã sở, chấp trước ngã và ngã sở.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Há chẳng phải do hữu tình chấp ngã và ngã sở mà lưu chuyển theo nẻo sinh tử?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Bạch Thiện Thệ, đúng vậy! Các loài hữu tình do chấp ngã và ngã sở mà lưu chuyển theo nẻo sinh tử.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, hữu tình lưu chuyển theo nẻo sinh tử như thế là do có tạp nhiễm. Vì vậy nên biết chắc rằng tạp nhiễm hiện hữu.
Này Thiện Hiện, nếu các hữu tình không có tâm chấp trước ngã và ngã sở, thì không có tạp nhiễm. Nếu không có tạp nhiễm thì không có lưu chuyển theo nẻo sinh tử, mà lưu chuyển theo nẻo sinh tử đã hiện hữu thì do đó nên biết có pháp tạp nhiễm; đã có tạp nhiễm; đã có tạp nhiễm thì cũng có thanh tịnh. Vì vậy, này Thiện Hiện, nên biết hữu tình tuy tự tánh là không, xa lìa các tướng, nhưng có tạp nhiễm, thanh tịnh hiện hữu.
Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành sắc, cũng chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành nhãn xứ, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành sắc xứ, cũng chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành nhãn giới, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành sắc giới, cũng chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành nhãn thức giới, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành nhãn xúc, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, cũng chẳng hành các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành địa giới, cũng chẳng hành thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành vô minh, cũng chẳng hành hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành Bố thí ba-la-mật-đa, cũng chẳng hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành pháp không bên trong, cũng chẳng hành pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành chân như, cũng chẳng hành pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành bốn Niệm trụ, cũng chẳng hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành Thánh đế khổ, cũng chẳng hành Thánh đế tập, diệt, đạo.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành bốn Tĩnh lự, cũng chẳng hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành tám Giải thoát, cũng chẳng hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành pháp môn giải thoát Không, cũng chẳng hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành năm loại mắt, cũng chẳng hành sáu phép thần thông.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành pháp môn Tam-ma-địa, cũng chẳng hành pháp môn Đà-la-ni.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành mười lực của Phật, cũng chẳng hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành pháp không quên mất, cũng chẳng hành tánh luôn luôn xả.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành quả Dự lưu, cũng chẳng hành quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành quả vị Độc giác.
Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát nếu tu hành như thế thì chẳng hành trí Nhất thiết, cũng chẳng hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Bạch Thế Tôn, vì các pháp ấy, chủ thể hành, đối tượng hành, thời gian hành, nơi chốn hành và nhờ đó mà được hành đều chẳng thể nắm bắt được.
Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát có khả năng tu hành như thế thì chẳng bị tất cả Trời, Người, A-tốlạc... trong thế gian hàng phục được; trái lại có khả năng hàng phục tất cả Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian.
Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát có khả năng tu hành như thế thì chẳng bị tất cả Thanh văn, Độc giác hàng phục, trái lại có khả năng hàng phục tất cả hàng Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy đã được an trú nơi chốn không thể hàng phục được, nghĩa là Đại Bồ-tát ấy lìa sinh vị.
Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy thường xuyên an trú nơi tác ý chẳng thể khuất phục của trí Nhất thiết trí nên mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như ông đã nói!
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình ở châu Nam thiệm-bộ này đều được làm thân người, đã được thân người rồi thì đều chứng quả vị Giác ngộ cao tột; có thiện nam, hay thiện nữ nào đó, suốt cả cuộc đời, dùng các phẩm vật thượng diệu của thế gian để cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này; lại đem căn lành từ sự cúng dường như thế ban cho tất cả hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng về quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa ấy, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, khiến cho người nghe dễ lãnh hội và an trú nơi tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa ấy, thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên đó nên công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình của cõi Nam thiệm-bộ và cõi Đông thắng thân này đều được làm thân người, được thân người rồi thì đều chứng quả vị Giác ngộ cao tột; có thiện nam, thiện nữ nào đó, suốt cả cuộc đời, đem các phẩm vật thượng diệu của thế gian, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; lại đem căn lành từ sự cúng dường ấy ban khắp cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa ấy, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, khiến cho người nghe dễ lãnh hội và an trú nơi tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa ấy, thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên đó, công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình của cõi Nam thiệm-bộ, cõi Đông thắng thân, cõi Tây ngưu hóa này đều được làm thân người, được thân người rồi thì đều chứng quả vị Giác ngộ cao tột; có thiện nam, thiện nữ nào đó, suốt cả cuộc đời, đem các phẩm vật thượng diệu của thế gian, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; lại đem căn lành từ sự cúng dường ấy ban khắp cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa ấy, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, khiến cho người nghe dễ lãnh hội và an trú nơi tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên đó công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong bốn đại châu này đều được làm thân người, được thân người rồi thì đều chứng quả vị Giác ngộ cao tột; có thiện nam, thiện nữ nào đó, suốt cả cuộc đời, đem các phẩm vật thượng diệu của thế gian, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; lại đem căn lành từ sự cúng dường như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa ấy, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, khiến cho người nghe dễ lãnh hội và an trú nơi tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên đó phước đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới tiểu thiên này đều được làm thân người, được thân người rồi thì đều chứng quả vị Giác ngộ cao tột; có thiện nam, thiện nữ nào đó, suốt cả cuộc đời, đem các phẩm vật thượng diệu của thế gian, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; lại đem căn lành từ sự cúng dường như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng? Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa ấy, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, khiến cho người nghe dễ lãnh hội và an trú nơi tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới trung thiên này đều được làm thân người, được thân người rồi thì đều chứng quả vị Giác ngộ cao tột; có thiện nam, thiện nữ nào đó, suốt cả cuộc đời, đem các phẩm vật thượng diệu của thế gian, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; lại đem căn lành từ sự cúng dường như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng? Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa ấy, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, khiến cho người nghe dễ lãnh hội và an trú nơi tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên này đều được làm thân người, được thân người rồi thì đều chứng quả vị Giác ngộ cao tột; có thiện nam, thiện nữ nào đó, suốt cả cuộc đời, đem các phẩm vật thượng diệu của thế gian, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; lại đem căn lành từ sự cúng dường như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa ấy, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, khiến cho người nghe dễ lãnh hội và an trú nơi tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình ở châu Nam thiệm-bộ này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi mười nẻo nghiệp thiện, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình của cõi Nam thiệm-bộ và cõi Đông thắng thân này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi mười nẻo nghiệp thiện, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình của cõi Nam thiệm-bộ, cõi Đông thắng thân, cõi Tây ngưu hóa này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi mười nẻo nghiệp thiện, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ đó, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong bốn đại châu này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi mười nẻo nghiệp thiện, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới tiểu thiên này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi mười nẻo nghiệp thiện, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới trung thiên này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi mười nẻo nghiệp thiện, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi mười nẻo nghiệp thiện, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình ở châu Nam thiệm-bộ này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, năm Thần thông, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng? Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình của cõi Nam thiệm-bộ và cõi Đông thắng thân này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, năm Thần thông, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình của cõi Nam thiệm-bộ, cõi Đông thắng thân, cõi Tây ngưu hóa này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, năm Thần thông, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ đó, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong bốn đại châu này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, năm Thần thông, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới tiểu thiên này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, năm Thần thông, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng? Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới trung thiên này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, năm Thần thông, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, năm Thần thông, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình ở châu Nam thiệm-bộ này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi bốn quả Sa-môn, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng? Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình của cõi Nam thiệm-bộ và cõi Đông thắng thân này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi bốn quả Sa-môn, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình của cõi Nam thiệm-bộ, cõi Đông thắng thân, cõi Tây ngưu hóa này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi bốn quả Sa-môn, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ đó, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong bốn đại châu này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi bốn quả Sa-môn, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới tiểu thiên này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi bốn quả Sa-môn, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng? Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới trung thiên này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi bốn quả Sa-môn, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng? Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều khiến an trú nơi bốn quả Sa-môn, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình ở châu Nam thiệm-bộ này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều làm cho an trú nơi quả vị Độc giác, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình của cõi Nam thiệm-bộ và cõi Đông thắng thân này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều làm cho an trú nơi quả vị Độc giác, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình của cõi Nam thiệm-bộ, cõi Đông thắng thân, cõi Tây ngưu hóa này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều làm cho an trú nơi quả vị Độc giác, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ đó, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong bốn đại châu này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều làm cho an trú nơi quả vị Độc giác, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới tiểu thiên này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều làm cho an trú nơi quả vị Độc giác, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới trung thiên này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều làm cho an trú nơi quả vị Độc giác, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, chỉ dẫn, đều làm cho an trú nơi quả vị Độc giác, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, chỉ dẫn ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình ở châu Nam thiệm-bộ này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, dẫn dắt, đều làm cho phát khởi tâm Vô thượng giác, tu tập hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, dẫn dắt ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình của cõi Nam thiệm-bộ và cõi Đông thắng thân này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, dẫn dắt, đều làm cho phát khởi tâm Vô thượng giác, tu tập hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, dẫn dắt như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng? Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình của cõi Nam thiệm-bộ, cõi Đông thắng thân, cõi Tây ngưu hóa này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, dẫn dắt, đều làm cho phát khởi tâm Vô thượng giác, tu tập hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, dẫn dắt ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ đó, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong bốn đại châu này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, dẫn dắt, đều làm cho phát khởi tâm Vô thượng giác, tu tập hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, dẫn dắt như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới tiểu thiên này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, dẫn dắt, đều làm cho phát khởi tâm Vô thượng giác, tu tập hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, dẫn dắt ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới trung thiên này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào dùng phương tiện dạy bảo, dẫn dắt, đều làm cho phát khởi tâm Vô thượng giác, tu tập hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, dẫn dắt ấy ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Giả sử, các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên này, chẳng phải trước chẳng phải sau đều được làm thân người, có thiện nam, thiện nữ nào đó dùng phương tiện dạy bảo, dẫn dắt, đều làm cho phát khởi tâm Vô thượng giác, tu tập hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, lại đem căn lành từ sự dạy bảo, dẫn dắt như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, thì thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào ở giữa đại chúng giảng nói rõ về Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế, nêu bày, sắp đặt, phân biệt, khai thị, làm cho người nghe dễ lãnh hội và an trú vững vàng nơi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên ấy công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm.
Này Thiện Hiện, nên biết Đại Bồ-tát ấy, do diệu lực từ sự tinh cần tăng tiến này nên có thể đưa các hữu tình đến bờ bên kia của phước điền. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy đối với pháp diệu lực tinh cần tăng tiến đó thì tất cả hữu tình chẳng ai có thể bì kịp, chỉ trừ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu, nhận thấy các hữu tình không có lợi lạc nên khởi tâm đại Từ, nhận thấy các hữu tình có sự khổ đau nên khởi tâm đại Bi, thấy các hữu tình được lợi lạc nên khởi tâm đại Hỷ, thấy các hữu tình không có tánh tướng nên khởi tâm đại Xả.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tuy đối với hữu tình luôn bình đẳng phát khởi tâm đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, nhưng đối với tất cả đều không chấp trước.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu nên được hào quang lớn, đó là hào quang từ hạnh Bố thí ba-la-mật-đa, cũng được hào quang từ các hạnh Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tuy chưa chứng đắc trí Nhất thiết trí, nhưng đối với quả vị Giác ngộ cao tột đã đạt được không thoái chuyển, nên có thể đưa các hữu tình đến bờ bên kia của phước điền, có thể thọ nhận các vật dụng sinh sống như tất cả y phục, đồ ăn uống, giường tòa, thuốc men...
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú nơi tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa nên có khả năng báo ân thí chủ một cách rốt ráo, cũng có khả năng gần gũi trí Nhất thiết trí. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát chẳng muốn hư dối trong việc nhận phẩm vật cúng dường của quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, hữu tình, muốn chỉ cho hữu tình con đường chân thiện, muốn vì hữu tình làm ánh sáng thanh tịnh, muốn cứu thoát hữu tình khỏi lao ngục trong ba cõi, muốn ban cho hữu tình pháp nhãn thanh tịnh, thì nên thường an trú nơi tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì khi nói ra điều gì đều nói về Bát-nhã ba-la-mật-đa, nghĩa là nói pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đã nói pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa rồi, lại thường tư duy đúng theo diệu lý của pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy thường an trú nơi tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa nên không dung nạp các tác ý khác bất chợt hiện khởi.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy ngày đêm tinh cần an trú nơi tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-lamật-đa, Đức Thế Tôn không có khi nào dừng nghỉ. Này Thiện Hiện, ví như có người, trước chưa từng có châu báu mạt-ni, sau đó gặp được, quá đỗi vui mừng, ngắm xem không chán, bỗng nhiên bị mất, lòng rất đau khổ, luôn luôn than tiếc: Tiếc thay! Chẳng biết ngày nào có lại viên ngọc báu mạt-ni đã mất kia! Người ấy luôn tác ý tương ưng với viên ngọc báu mạt-ni này, không khi nào dừng nghỉ.
Này Thiện Hiện, nên biết các Đại Bồ-tát cũng giống như thế, thường phải tinh cần an trú nơi tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa; nếu lìa tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thì sẽ làm tan mất tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí.
[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]