SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

HỘI THỨ I

Phẩm 55: HỌC PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO
(QUYỂN 336 - 341)

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.

QUYỂN 337

QUYỂN 338

QUYỂN 339

QUYỂN 340

QUYỂN 341


QUYỂN 337

Phẩm 55: HỌC PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO (1)

Lúc bấy giờ, Thiên đế Thích bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là vô cùng sâu xa, khó thấy, khó biết, chẳng thể suy tìm, vượt cảnh giới suy tìm, là chỗ chứng đắc của bậc trí thông tuệ thâm diệu; hoàn toàn xa lìa tất cả sự phân biệt.

Bạch Thế Tôn, nếu các hữu tình đối với kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thường ưa lắng nghe, thọ trì đọc tụng, thông tỏ rốt ráo, tư duy đúng theo diệu lý, nương theo giáo pháp tu hành, vì người khác giảng nói, cho đến quả vị Giác ngộ cao tột nhưng chẳng lìa các tâm và tâm sở khác, nên biết các hữu tình ấy chắc chắn chẳng thành tựu một chút căn lành nào.

Bấy giờ, Phật bảo Thiên đế Thích:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như ông đã nói!

Này Kiều-thi-ca, nếu các hữu tình đối với kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thường ưa lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, thông tỏ hoàn toàn, tư duy đúng theo diệu lý, nương theo giáo pháp tu hành, vì người khác giảng nói, cho đến quả vị Giác ngộ cao tột, mà chẳng xen lẫn các tâm và tâm sở khác, nên biết các hữu tình ấy quyết định thành tựu căn lành rộng lớn.

Này Kiều-thi-ca, giả sử tất cả hữu tình trong châu Thiệm-bộ này đều thành tựu vô lượng công đức của mười nẻo nghiệp thiện và bốn Tĩnh lự, bốn Tâm vô lượng, bốn Định vô sắc, năm Thần thông...; có thiện nam, thiện nữ nào đó, đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, thường ưa lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, thông suốt rốt ráo, tư duy như lý, nương theo giáo pháp tu hành, vì người khác giảng nói, thì công đức đạt được của thiện nam, thiện nữ ấy, đối với công đức đã thành tựu của các hữu tình trong châu Thiệm-bộ đã nói ở trước, trăm lần hơn, ngàn lần hơn, trăm ngàn lần hơn, ức lần hơn, trăm ức lần hơn, ngàn ức lần hơn, trăm ngàn ức lần hơn, triệu lần hơn, ngàn triệu lần hơn, trăm ngàn triệu lần hơn, cũng lại hơn cả tính, hơn cả đếm, hơn cả kể, hơn cả dụ cho đến hơn cả cực số.

Bấy giờ, trong pháp hội có một Bí-sô nói với Thiên đế Thích:

–Này Kiều-thi-ca, nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, nhiếp phục tâm không vọng động, thường ưa lắng nghe, thọ trì đọc tụng, vô cùng thông suốt, tư duy đúng theo diệu lý, nương theo giáo pháp tu hành, vì người khác giảng nói, cho đến quả vị Giác ngộ cao tột, mà chẳng xen lẫn các tâm và tâm sở khác thì công đức đạt được nhiều hơn vô lượng công đức mà các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ đã nói trước thành tựu tất cả mười nẻo nghiệp thiện và bốn Tĩnh lự, bốn Tâm vô lượng, bốn Định vô sắc, năm Thần thông...

Thiên đế Thích nói:

–Thiện nam, thiện nữ ấy khi mới phát một niệm tương ưng với trí Nhất thiết trí thì công đức đạt được đã hơn hẳn vô lượng công đức mà các loài hữu tình trong châu Thiệm-bộ đã nói trước thành tựu tất cả mười nẻo nghiệp thiện và bốn Tĩnh lự, bốn Tâm vô lượng, bốn Định vô sắc, năm Thần thông... nhiều hơn trăm ngàn lần, huống chi là đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, nhiếp phục tâm không vọng động, thường ưa lắng nghe, thọ trì đọc tụng, vô cùng thông suốt, tư duy như lý, nương theo giáo pháp tu hành, vì người khác giảng nói, cho đến quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng xen lẫn các tâm và tâm sở khác, về công đức đạt được nếu có thể so sánh thì Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy chẳng phải chỉ hơn các loài hữu tình trong châu Thiệm-bộ đã thành tựu mười nẻo nghiệp thiện... mà còn hơn tất cả Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình. Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy chẳng những chỉ hơn Trời, Người, Atố-lạc... trong thế gian kia mà cũng còn hơn tất cả bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác nữa. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy chẳng những chỉ hơn tất cả hàng Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác mà cũng còn hơn Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mậtđa và phương tiện thiện xảo mà tu Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã bala-mật-đa và phương tiện thiện xảo, an trú nơi pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã bala-mật-đa và phương tiện thiện xảo, an trú nơi chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo, an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo, tu hành bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo, tu hành tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo, tu hành bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo, tu hành pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo, tu hành bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân. Vì sao?

Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo, tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo, tu hành mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo, tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo, tu hành trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo, tu hành pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo, tu hành quán duyên tánh duyên khởi. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo mà làm nghiêm tịnh cõi Phật, thành tựu đầy đủ cho các hữu tình. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo mà tu các hạnh Đại Bồ-tát cùng quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Bí-sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ ấy cũng hơn Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Lại nữa, Bí-sô nên biết thiện nam, thiện nữ ấy tức là Đại Bồ-tát.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy theo đúng điều đã lãnh hội tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên tất cả hàng Trời, Người, A-tố-lạc... và các bậc Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát chẳng hơn được.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy theo đúng điều đã lãnh hội tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên có khả năng tiếp nối dòng giống Phật, không để đoạn tuyệt.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy theo đúng điều đã lãnh hội tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên thường chẳng xa lìa bạn lành tốt nhất là Bồ-tát và Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy theo đúng điều đã lãnh hội tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên chẳng bao lâu sẽ ngồi tòa Bồ-đề tôn quý, hàng phục ma quân, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, cứu vớt nỗi khổ sinh tử to lớn của hữu tình.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy theo đúng điều đã lãnh hội tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên thường học theo pháp nên học của chúng Đại Bồtát, chẳng học hạnh mà hàng Thanh văn và Độc giác phải học.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường học điều phải học của chúng Đại Bồ-tát, nên được bốn Thiên vương Hộ thế thống lãnh chúng trời Tứ đại Thiên vương đi đến chỗ Bồ-tát ấy cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói thế này: Hay lắm Đại sĩ! Nên siêng năng tinh tấn học pháp nên học của các chúng Đại Bồ-tát, chớ học các hạnh phải học của hàng Thanh văn và Độc giác. Nếu học như vậy thì sẽ mau an tọa nơi tòa Bồ-đề tôn quý, chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Như Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đời trước đã nhận bốn cái bát của bốn Thiên vương dâng cúng, lúc ấy Ngài cũng sẽ nhận. Như xưa Tứ đại Thiên vương Hộ thế đã dâng cúng bốn cái bát, chúng tôi cũng sẽ dâng cúng.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường học điều cần nên học của chúng Đại Bồ-tát nên hàng Thiên đế chúng tôi thống lãnh chúng trời Ba mươi ba, đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói thế này: Hay lắm Đại sĩ! Phải siêng năng tinh tấn học các pháp phải học của chúng Đại Bồ-tát, chớ học hạnh phải học của Thanh văn và Độc giác. Nếu học như vậy, sẽ mau an tọa nơi tòa Bồ-đề tôn quý, chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường học điều cần nên học của chúng Đại Bồ-tát nên Thiên vương Tô-dạ-ma thống lãnh chúng trời Dạ-ma đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói thế này: Hay lắm Đại sĩ! Phải siêng năng tinh tấn học các pháp cần nên học của chúng Đại Bồ-tát, chớ học hạnh phải học của hàng Thanh văn và các Độc giác. Nếu học như vậy sẽ mau an tọa nơi tòa Bồđề tôn quý, chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường học điều cần nên học của chúng Đại Bồ-tát nên Thiên vương San-đổ-sửđa thống lãnh chúng trời Đổ-sử-đa đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói thế này: Hay lắm Đại sĩ! Phải siêng năng tinh tấn học các pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, chớ học hạnh phải học của hàng Thanh văn và các Độc giác. Nếu học như thế, sẽ mau an tọa nơi tòa Bồđề tôn quý, chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường học điều cần nên học của chúng Đại Bồ-tát nên Thiên vương Diệu Biến Hóa thống lãnh chúng trời Lạc biến hóa đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói thế này: Hay lắm Đại sĩ! Phải siêng năng tinh tấn học các pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, chớ học hạnh phải học của hàng Thanh văn và các Độc giác. Nếu học như vậy sẽ mau an tọa nơi tòa Bồ-đề tôn quý, chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường học điều cần nên học của chúng Đại Bồ-tát nên Thiên vương Diệu Tự Tại thống lãnh chúng trời Tha hóa tự tại đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói thế này: Hay lắm Đại sĩ! Phải siêng năng tinh tấn học các pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, chớ học hạnh phải học của hàng Thanh văn và các Độc giác. Nếu học như thế, sẽ mau an tọa nơi tòa Bồ-đề tôn quý, chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường học điều cần nên học của chúng Đại Bồ-tát, nên Đại phạm Thiên vương là chủ cõi Sách-ha thống lãnh các chúng trời Phạm chúng, Phạm phụ, Phạm hội, đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói thế này: Hay lắm Đại sĩ! Phải siêng năng tinh tấn học các pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, chớ học hạnh phải học của hàng Thanh văn và các Độc giác. Nếu học như vậy sẽ mau an tọa nơi tòa Bồ-đề tôn quý, chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường học điều cần nên học của chúng Đại Bồ-tát nên Cực Quang Tịnh Thiên thống lãnh các Thiên chúng trời Quang, trời, Thiểu quang, trời Vô lượng quang, đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói thế này: Hay lắm Đại sĩ! Phải siêng năng tinh tấn học các pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, chớ học hạnh phải học của hàng Thanh văn và các Độc giác. Nếu học như vậy sẽ mau an tọa nơi tòa Bồ-đề tôn quý, chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường học điều cần nên học của chúng Đại Bồ-tát nên trời Biến Tịnh thống lãnh các Thiên chúng trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói thế này: Hay lắm, Đại sĩ! Phải siêng năng tinh tấn học các pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, chớ học hạnh phải học của hàng Thanh văn và các Độc giác. Nếu học như vậy sẽ mau an tọa nơi tòa Bồ-đề tôn quý, chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường học điều cần nên học của chúng Đại Bồ-tát nên trời Quảng Quả thống lãnh các Thiên chúng trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói thế này: Hay lắm Đại sĩ! Phải siêng năng tinh tấn học các pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, chớ học hạnh phải học của hàng Thanh văn và các Độc giác. Nếu học như vậy sẽ mau an tọa nơi tòa Bồ-đề tôn quý, chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường học điều cần nên học của chúng Đại Bồ-tát nên trời Sắc Cứu Cánh thống lãnh các Thiên chúng trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói thế này: Hay lắm Đại sĩ! Phải siêng năng tinh tấn học các pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, chớ học hạnh phải học của hàng Thanh văn và các Độc giác. Nếu học như vậy sẽ mau an tọa nơi tòa Bồđề tôn quý, chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh.

Bí-sô nên biết, vì Đại Bồ-tát ấy như thuyết tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng Đại Bồtát cùng các hàng Trời, Rồng, A-tố-lạc... thường theo hộ niệm. Do nhân duyên này, tất cả những hiểm nạn trong thế gian khiến thân tâm sầu khổ đều chẳng xâm hại Bồ-tát ấy được.

Bí-sô nên biết, Đại Bồ-tát ấy theo đúng điều đã lãnh hội tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vì chư Phật, Bồ-tát và các Trời, Rồng, A-tố-lạc... thường hộ niệm, nên những thứ bệnh khởi lên do các đại chủng nơi thế gian chống trái nhau đều chẳng làm tổn hại, đó là bệnh về mắt, bệnh về tai, bệnh về mũi, bệnh về lưỡi, bệnh về thân, bệnh nơi các chi: đau thân, đau tim, đau đầu, đau răng, đau hông, đau lưng, đau vai, đau bụng, đau ở các lóng đốt; có bốn trăm lẻ bốn bệnh như thế đều vĩnh viễn không còn trong thân, chỉ trừ nghiệp nặng nhưng khi nhận chịu thì cũng chuyển thành nhẹ.

Bí-sô nên biết, vì Đại Bồ-tát ấy đúng theo điều đã lãnh hội tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên đạt được vô lượng vô biên công đức ở đời hiện tại và vị lai như thế.

Bấy giờ, Cụ thọ A-nan thầm nghĩ: “Hôm nay, Đế Thích dùng biện tài của mình khen ngợi công đức thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, đó là nhờ diệu lực từ oai thần của Như Lai.”

Khi ấy, Thiên đế Thích biết tâm niệm của Anan, nên thưa với A-nan:

–Tôi đã khen ngợi công đức thù thắng của Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa đều nhờ diệu lực từ oai thần của Như Lai.

Lúc này, Phật bảo A-nan-đà:

–Đúng vậy, đúng vậy! Nay Thiên đế Thích khen ngợi công đức hy hữu của Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa, nên biết đều là do thần lực của Như Lai, chẳng phải là biện tài của mình. Vì sao? Vì công đức hy hữu của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng phải hàng người, trời... có thể biết được.

A-nan nên biết, nếu Đại Bồ-tát khi học tập Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tư duy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tu hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa như thế, thì thế giới ba lần ngàn này, tất cả ác ma đều sinh nghi hoặc, cùng nghĩ thế này: Đại Bồ-tát ấy có phải sẽ chứng đắc thật tế, thoái chuyển giữ lấy quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hay là hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột?

Lại nữa A-nan, nếu Đại Bồ-tát chẳng lìa Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì khi ấy các ác ma rất sầu khổ, thân tâm run sợ như bị trúng phải tên độc.

Lại nữa A-nan, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát- nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì có ác ma đến chỗ vị ấy hóa hiện đủ các hiện tượng đáng sợ như là đao, kiếm, thú ác, rắn độc, lửa dữ, bừng bừng, bốn phương đều phát cháy, nhằm làm cho thân tâm Bồtát sợ hãi, mê muội, mất tâm Đại Bồ-đề vô thượng, đối với việc tu hành sinh tâm thoái chuyển cho đến phát khởi một niệm loạn ý gây chướng ngại cho quả vị Giác ngộ cao tột.

Bấy giờ, Cụ thọ A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, có phải các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đều bị ác ma nhiễu loạn hay là có vị bị nhiễu loạn, có vị không bị nhiễu loạn?

Phật bảo A-nan:

–Chẳng phải các Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa đều bị ác ma nhiễu loạn mà có vị bị nhiễu loạn, có vị không bị nhiễu loạn.

Cụ thọ A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, những Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bị ác ma làm nhiễu loạn? Những Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng bị ác ma nhiễu loạn?

Phật bảo A-nan:

–Nếu Đại Bồ-tát nào đời trước nghe giảng về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà tâm chẳng tin, chẳng hiểu, lại sinh phỉ báng thì Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa liền bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-tát nào đời trước nghe giảng về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà dốc tâm tin hiểu, chẳng sinh phỉ báng, thì Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng bị ác ma nhiễu loạn.

Lại nữa A-nan, nếu Đại Bồ-tát đời trước nghe giảng về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, tâm sinh do dự là thật có hay không thật có Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa này, thì Đại Bồ-tát ấy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa liền bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-tát nào đời trước nghe giảng về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này chẳng sinh nghi hoặc, quyết định tin là có Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa thì Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa không bị ác ma nhiễu loạn.

Lại nữa A-nan, nếu Đại Bồ-tát xa lìa bạn lành, bị các bạn xấu ác chi phối, chẳng được nghe Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế; do chẳng nghe nên chẳng có thể hiểu rõ; vì chẳng hiểu rõ nên chẳng có thể tu tập; vì chẳng tu tập nên chẳng có thể chứng đắc như thật về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì Đại Bồ-tát ấy, khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, liền bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-tát gần gũi bạn lành, chẳng bị các bạn xấu ác ràng buộc, được nghe Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế; do được nghe nên có thể hiểu rõ; do hiểu rõ nên thường tu tập, do thường tu tập nên chứng đắc như thật về Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa, thì Đại Bồ-tát ấy, khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không bị ác ma nhiễu loạn.

Lại nữa A-nan, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, thâu nhận, khen ngợi pháp chẳng phải chân thật, mầu nhiệm thì Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, liền bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-tát gần gũi Bát-nhã bala-mật-đa, chẳng thâu nhận, khen ngợi pháp chẳng phải chân thật, mầu nhiệm, thì Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng bị ác ma nhiễu loạn.

Lại nữa A-nan, nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với pháp chân thật nhiệm mầu phỉ báng chê bai, khi ấy ác ma nghĩ thế này: “Nay Bồ-tát này cùng với ta làm bạn; do vị ấy hủy báng pháp chân thật mầu nhiệm, nên có vô lượng thiện nam, thiện nữ trụ nơi Bồ-tát thừa, đối với pháp chân thật nhiệm mầu cũng sinh hủy báng. Do nhân duyên này, ý nguyện của ta sẽ được viên mãn. Các thiện nam, thiện nữ trụ nơi Bồ-tát thừa ấy, dù siêng năng tinh tấn tu các pháp lành nhưng bị rơi vào bậc Thanh văn hay Độc giác, cũng khiến cho người khác rơi vào”, thì A-nan nên biết, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, liền bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-tát gần gũi Bát-nhã bala-mật-đa, đối với pháp mầu chân thật, tin tưởng, thọ trì, khen ngợi, cũng khiến cho vô lượng thiện nam, thiện nữ trụ nơi Bồ-tát thừa tin tưởng, thọ trì, khen ngợi, do đó ác ma kinh sợ sầu khổ, các thiện nam, thiện nữ trụ nơi Bồ-tát thừa ấy cho dù chẳng tinh cần tu tập các pháp lành, nhưng quyết định chẳng để mình và người rơi vào địa vị Thanh văn hay Độc giác, quyết chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì A-nan nên biết, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng bị ác ma nhiễu loạn.

Lại nữa A-nan, nếu Đại Bồ-tát khi nghe thuyết giảng kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nêu bày như thế này: “Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế rất là thâm diệu, khó thấy, khó biết, làm thế nào mà tuyên thuyết, lãnh hội, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tinh cần tu tập, sao chép, truyền bá; ta hãy còn chẳng thể đạt được cội nguồn của nó, huống là những kẻ trí cạn khác!”; khi ấy có vô lượng thiện nam, thiện nữ trụ nơi Bồ-tát thừa nghe lời nói ấy tâm sinh kinh sợ, đều thoái tâm đối với quả vị Giác ngộ cao tột, thì A-nan nên biết, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-tát nào khi nghe kinh Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa, nêu bày thế này: “Bát-nhã ba-lamật-đa như thế rất là thâm diệu, khó thấy, khó biết; nếu chẳng dốc tâm tuyên thuyết, lãnh hội, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tinh cần tu tập, sao chép truyền bá, mà có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì chắc chắn là điều không thể có.” Khi ấy, có vô lượng thiện nam, thiện nữ trụ nơi Bồ-tát thừa, nghe lời nói kia, hết sức vui mừng, đều đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thường dốc lãnh hội, thọ trì, đọc tụng, vô cùng thông tỏ, tư duy theo đúng lý, tinh tấn tu hành, vì người diễn nói, sao chép, truyền bá, mau hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, thì A-nan nên biết, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa chẳng bị ác ma nhiễu loạn.

Lại nữa A-nan, nếu Đại Bồ-tát ỷ lại vào công đức từ căn lành của mình, khinh thường các Đại Bồ-tát khác, nói thế này: “Ta có thể tu tập các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa, còn các ông thì chẳng có thể tu tập. Ta có thể an trú nơi pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh còn các ông thì chẳng có thể an trú. Ta có thể an trú nơi chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn còn các ông thì chẳng có thể an trú. Ta có thể an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo còn các ông thì chẳng có thể. Ta có thể tu tập bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc còn các ông thì chẳng có thể. Ta có thể tu tập tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ còn các ông thì chẳng có thể. Ta có thể tu tập bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo còn các ông thì chẳng có thể. Ta có thể tu tập pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện còn các ông thì chẳng có thể. Ta có thể tu tập mười địa Bồtát, còn các ông thì chẳng có thể. Ta có thể làm nghiêm tịnh cõi Phật, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, còn các ông thì chẳng có thể. Ta có thể quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch, còn các ông thì chẳng có thể. Ta có thể tu tập năm loại mắt, sáu phép thần thông, còn các ông thì chẳng có thể. Ta có thể tu tập mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, còn các ông thì chẳng có thể. Ta có thể tu tập các pháp Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na, còn các ông thì chẳng có thể. Ta có thể tu tập pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, còn các ông thì chẳng có thể. Ta có thể tu tập pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, còn các ông thì chẳng có thể. Ta có thể tu tập trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, còn các ông thì chẳng có thể. Ta có thể quán sát về tự tướng, cộng tướng của các pháp, còn các ông thì chẳng có thể. Ta có thể tu tập tất cả hạnh Đại Bồ-tát, còn các ông thì chẳng có thể. Ta có thể tu tập quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, còn các ông thì chẳng có thể.”. Bấy giờ, ác ma vui mừng vô cùng nói: “Bồ-tát này chính là bạn lữ của ta, mãi luân hồi theo nẻo sinh tử chưa có khi nào thoát khỏi được!” A-nan nên biết, Đại Bồ-tát đó khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-tát chẳng ỷ lại vào công đức từ căn lành của mình mà khinh thường các Đại Bồ-tát khác, tuy thường tinh tấn tu tập các pháp lành nhưng chẳng chấp trước tướng của các pháp ấy, A-nan nên biết, Đại Bồ-tát đó khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng bị ác ma nhiễu loạn.

Lại nữa A-nan, nếu Đại Bồ-tát ỷ lại vào tên tuổi được nhiều người biết của mình mà khinh miệt các Bồ-tát tu thiện khác, thường khen ngợi đức hạnh của mình, chê bai người khác; sự thật không có các hành trạng hình tướng của bậc Đại Bồ-tát không thoái chuyển mà cho là thật có, khởi các phiền não, khen mình, chê người, nói là các vị kia không là hạng Bồ-tát có tên tuổi; do tăng thượng mạn nên khinh miệt chê bai các chúng Đại Bồ-tát khác. Bấy giờ, ác ma nhận thấy việc ấy rồi bèn nghĩ: “Nay Bồ-tát này rõ là đã làm cho cung điện trong quốc độ của ta chẳng hề rỗng không mà còn làm tăng thêm các cõi địa ngục, bàng sinh, quỷ giới!”. Thế là ác ma hỗ trợ ma lực cho vị Bồ-tát kia, khiến cho uy thế của biện tài càng tăng thêm; do đó được nhiều người tin, nhận lời, nhân đây khiến phát khởi ác kiến giống như chúng; đã đồng với ác kiến của chúng rồi thì theo tà học của chúng; đã theo tà học tất phiền não bừng cháy, tâm ý điên đảo, các nghiệp thân, ngữ, ý phát khởi đều chiêu cảm quả khổ càng suy tổn khó chịu đựng; do nhân duyên này ba đường ác tăng thêm khiến cung điện nơi quốc độ của ma trở nên đầy ắp. Do đó, ác ma hết sức vui mừng, có làm việc gì cũng tha hồ theo ý mình. A-nan nên biết, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tất bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-tát chẳng ỷ lại vào hư danh của mình mà khinh miệt các Bồ-tát tu pháp thiện khác, đối với các công đức đạt được, không hề dấy tăng thượng mạn, chẳng tự khen mình cũng chẳng chê người khác, có khả năng hiểu biết rõ về việc làm của chúng ma, A-nan nên biết, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng hề bị ác ma nhiễu loạn.

Lại nữa A-nan, nếu Đại Bồ-tát cùng với những người cầu Thanh văn, Độc giác thừa, tranh cãi, chống đối, phỉ báng nhau, khi ấy ác ma nhận thấy sự việc này rồi bèn nghĩ: “Thiện nam này rõ là xa lìa quả vị Giác ngộ cao tột, gần gũi với các nẻo ác địa ngục, bàng sinh, quỷ giới. Vì sao? Vì mọi sự chống đối, tranh cãi, phỉ báng nhau đều chẳng phải là đạo Bồ-đề, chỉ là con đường của các cõi ác là địa ngục, bàng sinh, quỷ giới.” Nghĩ như vậy rồi nên vô cùng vui mừng, A-nan nên biết, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tất bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-tát nào không cùng với người cầu Thanh văn, Độc giác thừa chống đối, tranh cãi, phỉ báng nhau, mà khéo dùng phương tiện hành hóa dẫn dắt làm cho họ hướng về Đại thừa, hoặc khiến cho họ dốc tu pháp thiện của thừa mình, A-nan nên biết, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng bị ác ma nhiễu loạn.

Lại nữa A-nan, nếu Đại Bồ-tát nào cùng với các thiện nam, thiện nữ dốc cầu quả vị Giác ngộ cao tột, chống đối, tranh cãi, phỉ báng nhau, khi ấy ác ma nhận thấy việc này rồi liền nghĩ: “Hai hạng Bồtát này rõ là đều xa lìa quả vị Giác ngộ cao tột, mà cùng gần với các nẻo ác địa ngục, bàng sinh, quỷ giới”; nghĩ như vậy rồi nên vui mừng quá đỗi, Anan nên biết, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, sẽ bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-tát nào không cùng với các thiện nam, thiện nữ cầu quả vị Giác ngộ cao tột, chống đối, tranh cãi, phỉ báng nhau, mà cùng nhắc nhở nhau siêng tu các pháp thiện để mau chứng đắc trí Nhất thiết trí, A-nan nên biết, Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng bị ác ma nhiễu loạn.

A-nan nên biết, nếu Đại Bồ-tát chưa được thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột không thoái chuyển, ở nơi các Bồ-tát đã được thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột không thoái chuyển, khởi tâm muốn làm tổn hại, tranh cãi, chống đối, khinh miệt, phỉ báng Đại Bồ-tát này, thì tùy theo bao nhiêu tâm niệm chẳng đem lại lợi gì cả, trở lại bị thoái thất chừng ấy kiếp từng tu các hạnh thù thắng, trải qua chừng ấy thời gian xa lìa các bạn lành, trở lại chịu chừng ấy sự trói buộc vào nẻo sinh tử; nhưng nếu chẳng lìa bỏ tâm Đại Bồ-đề thì phải trở lại chừng ấy kiếp siêng năng tu tập thắng hạnh, nhiên hậu mới bù vào công đức đã mất.

Khi ấy, Cụ thọ A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy đã khởi tâm ác nên phải chịu tội khổ về sinh tử, có cần phải lưu chuyển trải qua hết chừng ấy thời gian, hay là ở khoảng giữa cũng được lìa khỏi nẻo sinh tử? Đại Bồ-tát ấy bị thoái thất thắng hạnh, có cần phải tinh tấn tu tập trải qua chừng ấy kiếp nhiên hậu mới bù lại, hay là ở khoảng giữa có sự phục hoàn như cũ? Phật bảo A-nan:

–Ta sẽ vì các hàng Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn mà nói về trường hợp pháp thiện có thể bù lại để ra khỏi tội.

A-nan nên biết, nếu Đại Bồ-tát chưa được thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột không thoái chuyển, ở chỗ các Đại Bồ-tát đã được thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột không thoái chuyển, khởi tâm muốn làm tổn hại, tranh cãi, chống đối, khinh miệt, phỉ báng, lại không biết hổ thẹn ôm hận chẳng lìa bỏ, chẳng thường phát lồ hối cải theo đúng pháp, thì ta nói hạng người ấy vào khoảng giữa không có cơ hội tốt đẹp để bù lại và ra khỏi tội, cần phải chừng ấy kiếp bị lưu chuyển trong nẻo sinh tử, xa lìa bạn lành, bị các khổ trói buộc; nếu chẳng bỏ tâm Đại Bồ-đề thì cần phải chừng ấy kiếp siêng tu thắng hạnh, nhiên hậu mới bù lại công đức đã mất. Còn nếu Đại Bồ-tát chưa được thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột không thoái chuyển ở chỗ các Đại Bồ-tát đã được thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột không thoái chuyển, khởi tâm muốn làm tổn hại, tranh cãi, chống đối, khinh miệt, phỉ báng, về sau sinh xấu hổ, tâm không kết oán, nhanh chóng theo pháp phát lồ cải hối suy nghĩ như thế này: “Ta nay đã có được thân người khó được, nhưng tại sao lại khởi các thứ tội ác như thế làm hỏng cả lợi ích lớn. Ta đáng lẽ nên cung kính tất cả các hữu tình, như kẻ ở phụng sự người chủ, nhưng tại sao đối với họ lại sinh kiêu mạn, hủy báng, khinh miệt. Ta đáng lẽ nên cung kính tất cả các hữu tình, như kẻ ở phụng sự người chủ, nhưng tại sao đối với họ lại sinh kiêu mạn, hủy báng, khinh miệt. Ta đáng lẽ nhẫn thọ với tất cả hữu tình dù bị họ đánh đập mắng nhiếc nhưng tại sao đối với họ lại dùng thân, ngữ thô bạo xấu ác mà đáp lại. Đáng lẽ ta nên hòa giải tất cả hữu tình làm cho họ thương yêu quý kính nhau, tại sao bỗng nhiên ta lại thốt lên lời nói thô ác cùng họ tranh cãi. Đáng lẽ ta nên nhẫn thọ chịu sự giẫm đạp lâu dài của tất cả hữu tình giống như con đường hoặc như cây cầu, nhưng tại sao đối với họ, ta lại lăng nhục. Ta dốc cầu đạt quả vị Giác ngộ cao tột là nhằm giải thoát nỗi khổ lớn về sinh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn an lạc rốt ráo, thì tại sao lại muốn bồi thêm cái khổ vốn có của họ? Đáng lẽ từ nay cho đến tận cùng đời vị lai, ta như kẻ dại khờ, câm, điếc, mù lòa, đối với các hữu tình không hề có sự phân biệt. Giả sử ta bị họ chặt đầu, tay chân và các bộ phận trên thân, thì đối với các hữu tình kia ta cũng không bao giờ khởi lên niệm ác, vậy mà ta đã dấy khởi điều ác, phá hoại tâm giác ngộ cao tột, làm chướng ngại cho việc cầu trí Nhất thiết trí. Anan nên biết, Đại Bồ-tát ấy Ta nói trong khoảng thời gian giữa cũng có cơ hội tốt để ra khỏi tội và bù lại, chẳng cần phải trải qua chừng ấy số kiếp lưu chuyển trong sinh tử. Ác ma đối với vị ấy chẳng có thể nhiễu loạn.

A-nan nên biết, các Đại Bồ-tát cùng với người cầu Thanh văn, Độc giác thừa chẳng nên giao thiệp, ví như có giao thiệp thì chẳng nên ở chung, nếu như ở chung thì chẳng nên cùng họ luận bàn, chọn lựa. Vì sao? Vì nếu cùng họ luận bàn, chọn lựa thì hoặc sẽ phát khởi tâm sân giận, tức tối, hoặc lại phát sinh lời nói thô ác. Vì các Bồ-tát đối với hữu tình chẳng nên dấy khởi tâm sân giận... cũng chẳng nên phát ra lời nói thô ác, cho dù bị chặt đầu, tay chân và các bộ phận trên thân, cũng chẳng nên dấy khởi lời nói thô ác. Vì sao? Vì Bồ-tát phải nên suy nghĩ thế này: “Ta dốc cầu quả vị Giác ngộ cao tột là nhằm cứu vớt các nỗi khổ lớn về sinh tử của hữu tình khiến cho họ được lợi ích, an lạc rốt ráo, thế thì tại sao đối với họ ta lại dấy khởi việc ác.”

A-nan nên biết, nếu Đại Bồ-tát đối với loài hữu tình khởi tâm sân giận, phát ra lời nói thô ác thì sẽ gây chướng ngại cho trí Nhất thiết trí của Bồ-tát, cũng phá hoại vô biên pháp hạnh thù thắng. Vì vậy, chúng Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì đối với các hữu tình, chẳng nên sân giận, cũng chẳng nên phát ra lời nói thô ác.

QUYỂN 338

Phẩm 55: HỌC PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO (2)

Lúc bấy giờ, Cụ thọ A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát cùng ở chung như thế nào?

Phật dạy:

–Này A-nan, Đại Bồ-tát ở chung nên xem nhau như Đại sư. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát lần lượt gần gũi nhau nên nghĩ thế này: Vị ấy là thiện tri thức chân thật của ta, cùng ta làm bạn, cùng đi trên một con thuyền. Chỗ học, thời gian học, pháp học của chúng ta và vị ấy tất cả đều không khác. Như vị ấy phải học các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học mười địa Bồ-tát, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học năm loại mắt, sáu phép thần thông, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học làm nghiêm tịnh cõi Phật, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, ta cũng phải học. Lại nghĩ thế này: Các Đại Bồ-tát ấy vì chúng ta mà thuyết giảng đạo Đại Bồ-đề, tức là bạn chân chính của ta, cũng là thầy ta. Nếu Đại Bồ-tát ấy an trú nơi tác ý tạp loạn, xa lìa tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí thì ta luôn luôn cùng học với vị đó.

A-nan nên biết, nếu các chúng Đại Bồ-tát luôn luôn học như thế thì hành trang vốn liếng cần cho sự giác ngộ mau được viên mãn. Nếu chúng Đại Bồ-tát khi học như thế thì gọi là học bình đẳng.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát mà các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, pháp không bên trong là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồtát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, sắc và tự tánh không của sắc là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh không của thọ, tưởng, hành, thức là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồtát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, nhãn xứ và tự tánh không của nhãn xứ là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tự tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, sắc xứ và tự tánh không của sắc xứ là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tự tánh không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, nhãn giới và tự tánh không của nhãn giới là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới và tự tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, sắc giới và tự tánh không của sắc giới là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới và tự tánh không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, nhãn thức giới và tự tánh không của nhãn thức giới là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới và tự tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, nhãn xúc và tự tánh không của nhãn xúc là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc và tự tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra và tự tánh không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra và tự tánh không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, địa giới và tự tánh không của địa giới là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, vô minh và tự tánh không của vô minh là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não và tự tánh không của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, Bố thí ba-la-mật-đa và tự tánh không của Bố thí ba-la-mật-đa là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và tự tánh không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, pháp không bên trong và tự tánh không của pháp không bên trong là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và tự tánh không của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Lại nữa Thiện Hiện, chân như và tự tánh không của chân như là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn và tự tánh không của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là tánh bình đẳng của Đại Bồtát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, Thánh đế khổ và tự tánh không của Thánh đế khổ là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; Thánh đế tập, diệt, đạo và tự tánh không của Thánh đế tập, diệt, đạo là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, bốn Tĩnh lự và tự tánh không của bốn Tĩnh lự là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc và tự tánh không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Lại nữa Thiện Hiện, tám Giải thoát và tự tánh không của tám Giải thoát là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ và tự tánh không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, bốn Niệm trụ và tự tánh không của bốn Niệm trụ là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo và tự tánh không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, pháp môn giải thoát Không và tự tánh không của pháp môn giải thoát Không là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện và tự tánh không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, bậc Cực hỷ và tự tánh không của bậc Cực hỷ là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân và tự tánh không của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng.

Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, năm loại mắt và tự tánh không của năm loại mắt là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; sáu phép thần thông và tự tánh không của sáu phép thần thông là tánh bình đẳng của Đại Bồtát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, mười lực của Phật và tự tánh không của mười lực của Phật là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng và tự tánh không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồtát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, pháp không quên mất và tự tánh không của pháp không quên mất là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; tánh luôn luôn xả và tự tánh không của tánh luôn luôn xả là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, trí Nhất thiết và tự tánh không của trí Nhất thiết là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng và tự tánh không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, tất cả pháp môn Đà-la-ni và tự tánh không của tất cả pháp môn Đà-la-ni là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tự tánh không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, quả Dự lưu và tự tánh không của quả Dự lưu là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và tự tánh không của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Lại nữa Thiện Hiện, quả vị Độc giác và tự tánh không của quả vị Độc giác là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, tất cả hạnh Đại Bồ-tát và tự tánh không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Lại nữa Thiện Hiện, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật và tự tánh không của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của nhãn xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của nhãn xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của nhãn xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của nhãn xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của nhãn xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của nhãn xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của nhãn xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của sắc xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của sắc xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của sắc xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của sắc xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của sắc xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của sắc xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của sắc xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của nhãn giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của nhãn giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của nhãn giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của nhãn giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của nhãn giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của nhãn giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của nhãn giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niếtbàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của sắc giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của sắc giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của sắc giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của sắc giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của sắc giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của sắc giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của sắc giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của nhãn thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của nhãn thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của nhãn thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của nhãn thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của nhãn thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của nhãn thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của nhãn thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của nhãn xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của nhãn xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của nhãn xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của nhãn xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của nhãn xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của nhãn xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của nhãn xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niếtbàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của địa giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của địa giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của địa giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của địa giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của địa giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của địa giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của địa giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của vô minh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của vô minh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của vô minh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của vô minh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của vô minh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của vô minh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của vô minh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của Bố thí ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của Bố thí ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của Bố thí ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của Bố thí ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của Bố thí ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của Bố thí ba-la-mậtđa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của Bố thí ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của pháp không bên trong mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của pháp không bên trong mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của pháp không bên trong mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của pháp không bên trong mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của pháp không bên trong mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của pháp không bên trong mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của pháp không bên trong mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của chân như mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của chân như mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của chân như mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của chân như mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của chân như mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của chân như mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của chân như mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của Thánh đế khổ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của Thánh đế khổ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của Thánh đế khổ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của Thánh đế khổ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của Thánh đế khổ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của Thánh đế khổ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của Thánh đế khổ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niếtbàn của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của bốn Tĩnh lự mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của bốn Tĩnh lự mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của bốn Tĩnh lự mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của bốn Tĩnh lự mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của bốn Tĩnh lự mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của bốn Tĩnh lự mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của bốn Tĩnh lự mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của tám Giải thoát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của tám Giải thoát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của tám Giải thoát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của tám Giải thoát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của tám Giải thoát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của tám Giải thoát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của tám Giải thoát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

QUYỂN 339

Phẩm 55: HỌC PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO (3)

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của bốn Niệm trụ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của bốn Niệm trụ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của bốn Niệm trụ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của bốn Niệm trụ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của bốn Niệm trụ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của bốn Niệm trụ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của bốn Niệm trụ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của pháp môn giải thoát Không mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của pháp môn giải thoát Không mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của pháp môn giải thoát Không mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của pháp môn giải thoát Không mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của pháp môn giải thoát Không mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Không mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của pháp môn giải thoát Không mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của bậc Cực hỷ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của bậc Cực hỷ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của bậc Cực hỷ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của bậc Cực hỷ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của bậc Cực hỷ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của bậc Cực hỷ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của bậc Cực hỷ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của năm loại mắt mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của sáu phép thần thông mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của năm loại mắt mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của sáu phép thần thông mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của năm loại mắt mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của sáu phép thần thông mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của năm loại mắt mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của sáu phép thần thông mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của năm loại mắt mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của sáu phép thần thông mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của năm loại mắt mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của sáu phép thần thông mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của năm loại mắt mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niếtbàn của sáu phép thần thông mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận nơi mười lực của Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa nơi mười lực của Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ nơi mười lực của Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh nơi mười lực của Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt nơi mười lực của Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh nơi mười lực của Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn nơi mười lực của Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của pháp không quên mất mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của tánh luôn luôn xả mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của pháp không quên mất mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của tánh luôn luôn xả mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của pháp không quên mất mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của tánh luôn luôn xả mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của pháp không quên mất mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của tánh luôn luôn xả mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của pháp không quên mất mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của tánh luôn luôn xả mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của pháp không quên mất mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của tánh luôn luôn xả mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của pháp không quên mất mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của tánh luôn luôn xả mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của trí Nhất thiết mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của trí Nhất thiết mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của trí Nhất thiết mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của trí Nhất thiết mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của trí Nhất thiết mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của trí Nhất thiết mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của trí Nhất thiết mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của tất cả pháp môn Tam-mađịa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của quả Dự lưu mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của quả Dự lưu mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của quả Dự lưu mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của quả Dự lưu mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của quả Dự lưu mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của quả

Dự lưu mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của quả Dự lưu mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của quả vị Độc giác mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của quả vị Độc giác mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của quả vị Độc giác mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của quả vị Độc giác mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của quả vị Độc giác mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của quả vị Độc giác mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của quả vị Độc giác mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của hữu tình mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của hữu tình mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của hữu tình mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của hữu tình mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của hữu tình mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của hữu tình mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của hữu tình mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của Bồtát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát vì sự đoạn tận của Như Lai mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của Như Lai mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của Như Lai mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của Như Lai mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của Như Lai mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của Như Lai mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của Như Lai mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao?

Chân như của sắc có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của thọ, tưởng, hành, thức có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của nhãn xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của nhãn xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của nhãn xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của nhãn xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của nhãn xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của nhãn xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của nhãn xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của nhãn xứ có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của sắc xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của sắc xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của sắc xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của sắc xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của sắc xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của sắc xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của sắc xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao?

Chân như của sắc xứ có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của nhãn giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của nhãn giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của nhãn giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của nhãn giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của nhãn giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của nhãn giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của nhãn giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của nhãn giới có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của sắc giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của sắc giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của sắc giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của sắc giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của sắc giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của sắc giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của sắc giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của sắc giới có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của nhãn thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của nhãn thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của nhãn thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của nhãn thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của nhãn thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của nhãn thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của nhãn thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của nhãn thức giới có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của nhãn xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của nhãn xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của nhãn xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của nhãn xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của nhãn xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của nhãn xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của nhãn xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niếtbàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của nhãn xúc có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của địa giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của địa giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của địa giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của địa giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của địa giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của địa giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của địa giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của địa giới có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của vô minh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của vô minh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của vô minh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của vô minh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của vô minh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của vô minh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của vô minh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của vô minh có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

QUYỂN 340

Phẩm 55: HỌC PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO (4)

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của Bố thí ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của Bố thí ba-la-mậtđa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của Bố thí bala-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của Bố thí ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của Bố thí ba-la-mậtđa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của Bố thí ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của Bố thí ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của Bố thí ba-la-mật-đa có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của pháp không bên trong mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của pháp không bên trong mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của pháp không bên trong mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của pháp không bên trong mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của pháp không bên trong mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của pháp không bên trong mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của pháp không bên trong mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của pháp không bên trong có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của chân như mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của chân như mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của chân như mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của chân như mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của chân như mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của chân như mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của chân như mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của chân như có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của Thánh đế khổ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của Thánh đế khổ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của Thánh đế khổ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của Thánh đế khổ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của Thánh đế khổ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của Thánh đế khổ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của Thánh đế khổ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của Thánh đế khổ có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của Thánh đế tập, diệt, đạo có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của bốn Tĩnh lự mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của bốn Tĩnh lự mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của bốn Tĩnh lự mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của bốn Tĩnh lự mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của bốn Tĩnh lự mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của bốn Tĩnh lự mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của bốn Tĩnh lự mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của bốn Tĩnh lự có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của tám Giải thoát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của tám Giải thoát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của tám Giải thoát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của tám Giải thoát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của tám Giải thoát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của tám Giải thoát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của tám Giải thoát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của tám Giải thoát có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của bốn Niệm trụ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của bốn Niệm trụ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của bốn Niệm trụ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng?

Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của bốn Niệm trụ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của bốn Niệm trụ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của bốn Niệm trụ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của bốn Niệm trụ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của bốn Niệm trụ có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của pháp môn giải thoát Không mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của pháp môn giải thoát Không mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của pháp môn giải thoát Không mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của pháp môn giải thoát Không mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của pháp môn giải thoát Không mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Không mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của pháp môn giải thoát Không mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của pháp môn giải thoát Không có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của bậc Cực hỷ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của bậc Cực hỷ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của bậc Cực hỷ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của bậc Cực hỷ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của bậc Cực hỷ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của bậc Cực hỷ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của bậc Cực hỷ mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của bậc Cực hỷ có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của năm loại mắt mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của sáu phép thần thông mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của năm loại mắt mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của sáu phép thần thông mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của năm loại mắt mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của sáu phép thần thông mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của năm loại mắt mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của sáu phép thần thông mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của năm loại mắt mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của sáu phép thần thông mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của năm loại mắt mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của sáu phép thần thông mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của năm loại mắt mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của sáu phép thần thông mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của năm loại mắt có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của sáu phép thần thông có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận nơi mười lực của Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa nơi mười lực của Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ nơi mười lực của Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh nơi mười lực của Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt nơi mười lực của Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh nơi mười lực của Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn nơi mười lực của Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như nơi mười lực của Phật có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của pháp không quên mất mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của tánh luôn luôn xả mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của pháp không quên mất mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của tánh luôn luôn xả mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của pháp không quên mất mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của tánh luôn luôn xả mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của pháp không quên mất mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của tánh luôn luôn xả mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của pháp không quên mất mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của tánh luôn luôn xả mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của pháp không quên mất mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của tánh luôn luôn xả mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của pháp không quên mất mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của tánh luôn luôn xả mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của pháp không quên mất có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của tánh luôn luôn xả có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của trí Nhất thiết mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của trí Nhất thiết mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của trí Nhất thiết mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của trí Nhất thiết mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của trí Nhất thiết mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của trí Nhất thiết mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của trí Nhất thiết mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của trí Nhất thiết có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của tất cả pháp môn Tam-mađịa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của tất cả pháp môn Đà-lani mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của tất cả pháp môn Đà-la-ni có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của tất cả pháp môn Tam-ma-địa có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của quả Dự lưu mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự đoạn tận của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của quả Dự lưu mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự rời xa của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của quả Dự lưu mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt trừ của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của quả Dự lưu mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không sinh của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của quả Dự lưu mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì sự không diệt của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của quả Dự lưu mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tĩnh của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của quả Dự lưu mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của quả Dự lưu có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của quả vị Độc giác mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của quả vị Độc giác mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của quả vị Độc giác mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của quả vị Độc giác mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của quả vị Độc giác mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của quả vị Độc giác mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của quả vị Độc giác mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của quả vị Độc giác có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của tất cả hạnh Đại Bồ-tát có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của hữu tình mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của hữu tình mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của hữu tình mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của hữu tình mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của hữu tình mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của hữu tình mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của hữu tình mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của hữu tình có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của Bồtát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của Bồ-tát mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của Bồ-tát có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

QUYỂN 341

Phẩm 55: HỌC PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO (5)

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, như ông đã hỏi, nếu Đại Bồtát vì sự đoạn tận của Như Lai mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự rời xa của Như Lai mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt trừ của Như Lai mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không sinh của Như Lai mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự không diệt của Như Lai mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tĩnh của Như Lai mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của Như Lai mà học, là học trí Nhất thiết trí chăng? Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Chân như của Như Lai có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí. Này Thiện Hiện, nên biết chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với chân như, học như thế là học trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là học Bố thí ba-la-mật-đa, là học Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát học Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là học trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là học pháp không bên trong, là học pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Nếu Đại Bồ-tát học pháp không bên trong, pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là học trí Nhất thiết trí. Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồthế là học chân như, là học pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Nếu Đại Bồ-tát học chân như, pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là học trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là học Thánh đế khổ, là học Thánh đế tập, diệt, đạo. Nếu Đại Bồ-tát học Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo là học trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là học bốn Tĩnh lự, là học bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Nếu Đại Bồ-tát học bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là học trí Nhất thiết trí. Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là học tám Giải thoát, là học tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Nếu Đại Bồ-tát học tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là học trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là học bốn Niệm trụ, là học bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo. Nếu Đại Bồ-tát học bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là học trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồthế là học pháp môn giải thoát Không, là học pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Nếu Đại Bồtát học pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là học trí Nhất thiết trí. Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là học bậc Cực hỷ, là học bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân. Nếu Đại Bồ-tát học bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân là học trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là học năm loại mắt, là học sáu phép thần thông. Nếu Đại Bồ-tát học năm loại mắt, sáu phép thần thông là học trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là học mười lực của Phật, là học bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Nếu Đại Bồ-tát học mười lực của Phật, bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là học trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là học pháp không quên mất, là học tánh luôn luôn xả. Nếu Đại Bồ-tát học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là học trí Nhất thiết trí. Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồthế là học trí Nhất thiết, là học trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Nếu Đại Bồ-tát học trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là học trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là học tất cả pháp môn Đà-la-ni, là học tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Nếu Đại Bồ-tát học tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa là học trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là học tất cả hạnh Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát học tất cả hạnh Đại Bồ-tát là học trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là học quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Nếu Đại Bồ-tát học quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là học trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là đạt đến chỗ rốt ráo viên mãn của tất cả sự học. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì tất cả Thiên ma và các ngoại đạo không thể phá hoại. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì mau đạt đến quả vị không thoái chuyển của Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì là tự tu hành chỗ nên tu hành nơi Tổ phụ của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì đối với pháp năng hộ, không bị chuyển theo sự điên đảo. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì có khả năng tu hành pháp thích ứng để xa lìa mọi nẻo hôn ám. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì học pháp làm nghiêm tịnh cõi Phật của mình. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì là học pháp đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì có khả năng như thật làm nghiêm tịnh cõi Phật. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì có khả năng như thật đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì có khả năng phát khởi đại Từ, đại Bi, thương yêu tất cả. Nếu Đại Bồtát khi học như thế là học mười hai hành tướng vi diệu của ba lượt chuyển pháp luân. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là học sự độ thoát tất cả hữu tình đưa vào cảnh giới Niết-bàn tuyệt đối. Nếu Đại Bồtát khi học như thế là học hạnh thâm diệu không làm đoạn diệt dòng giống Phật. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là học theo chư Phật vì các loài hữu tình mà mở cửa cam lồ. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế là học sự an lập cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình trụ ở pháp của ba thừa. Nếu Đại Bồtát khi học như thế là học sự thị hiện cảnh giới chân vô vi tịch diệt rốt ráo của tất cả hữu tình, là sự tu học trí Nhất thiết trí đúng đắn nhất. Việc học như thế thì hàng hữu tình căn cơ thấp kém không thể học được. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì có khả năng cứu vớt thật sự các đường sinh, lão, bệnh tử của tất cả hữu tình, nên phải siêng năng tu học điều nên tu học.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế, quyết định chẳng hề bị đọa trở lại vào ba đường ác là địa ngục, bàng sinh, quỷ giới. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế, quyết định chẳng sinh vào hàng hạ liệt ở chốn biên địa ác kiến. Nếu Đại Bồtát khi học như thế, quyết định chẳng sinh vào gia đình thấp kém, vào các nhà làm nghề khiêng xác chết, hoặc vào các gia đình bần cùng ti tiện, chẳng biết phép tắc khác. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế, chẳng bao giờ mang lấy thân tướng bị điếc, đui, câm ngọng, cùi cụt, các căn, chi chẳng đủ, lưng gù, điên cuồng và bao nhiêu thứ bệnh ung nhọt hiểm ác khác. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì đời đời thường được quyến thuộc đông đảo trọn vẹn, dung mạo đẹp đẽ, lời nói oai nghiêm, được mọi người kính mến. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì đời đời sinh ra ở chốn xa lìa mọi sự giết hại sinh mạng, xa lìa việc không cho mà lấy, xa lìa dâm dục, tà hạnh, xa lìa lời nói hư dối, lời nói thô ác, lời nói ly gián, lời nói hỗn tạp, cũng xa lìa tham dục, sân hận, tà kiến. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì đời đời sinh vào chốn chẳng dùng tà pháp để sinh sống, chẳng bao giờ dung túng loại tà pháp hư dối, cũng chẳng chấp nhận hạng hữu tình phá giới, ác kiến, hủy báng chánh pháp. Nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì chẳng bao giờ sinh vào chốn có thọ mạng lâu dài hoặc chết non, đam mê dục lạc, trí tuệ kém cỏi. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thành tựu được diệu lực từ các phương tiện thiện xảo, do diệu lực từ phương tiện thiện xảo này nên tuy thường nhập vô lượng pháp tĩnh lự và định vô sắc, nhưng chẳng theo lực dẫn ấy mà thọ sinh. Vì được Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa nhiếp thọ nên đã thành tựu các phương tiện thiện xảo như thế, ở trong các định tuy thường nhập xuất tự tại nhưng chẳng theo lực dẫn của các định ấy mà sinh vào các cõi có thọ mạng lâu dài hoặc chết non, bỏ tu hạnh Đại Bồ-tát.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì đối với các pháp như mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cùng vô lượng, vô số, vô biên pháp Phật khác đều được thanh tịnh, quyết định chẳng rơi vào tất cả các bậc Thanh văn và Độc giác.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu bản tánh của tất cả pháp là thanh tịnh thì làm sao Đại Bồ-tát ở trong các pháp để được thanh tịnh?

Phật bảo Thiện Hiện:

–Đúng vậy, đúng vậy! Như ông đã hỏi, bản lai của các pháp tự tánh là thanh tịnh, Đại Bồ-tát ấy ở trong bản tánh thanh tịnh của tất cả pháp tinh cần tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thông đạt như thật, không chìm đắm, không ngưng trệ, xa lìa tất cả phiền não nhiễm đắm, cho nên nói là Bồ-tát được thanh tịnh.

Lại nữa Thiện Hiện, tuy tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, nhưng các phàm phu chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu. Đại Bồ-tát ấy vì muốn cho họ biết, thấy, hiểu, nên tu hành pháp Bố thí ba-la-mậtđa, tu hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; an trú nơi pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; an trú nơi chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; tu hành bốn Tĩnh lự, tu hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; tu hành tám Giải thoát, tu hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; tu hành bốn Niệm trụ, tu hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; tu hành pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; tu hành bậc Cực hỷ, tu hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; tu hành năm loại mắt, tu hành sáu phép thần thông; tu hành mười lực của Phật, tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; tu hành pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả; tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa; tu hành trí Nhất thiết, tu hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đối với bản tánh thanh tịnh của tất cả pháp, khi học như thế thì đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng... cùng vô lượng, vô số, vô biên pháp Phật khác đều được thanh tịnh, chẳng rơi vào bậc Thanh văn và Độc giác; đối với sự sai biệt về tâm hành của các hữu tình đều có thể thông đạt đến chỗ rốt ráo, dùng phương tiện khéo léo khiến cho các hữu tình chứng đạt bản tánh thanh tịnh của tất cả pháp.

Này Thiện Hiện, nên biết ví như trên đại địa, có ít chỗ sinh ra vàng, bạc, châu báu, nhưng có nhiều chỗ sinh ra sỏi, đất, ngói, gạch; các loài hữu tình cũng giống như thế, phần ít có khả năng học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, còn phần nhiều thì học pháp của bậc Thanh văn, Độc giác.

Này Thiện Hiện, nên biết ví như trong loài người, chỉ thiểu số có khả năng tu tập theo sự nghiệp của Chuyển luân vương, còn đa số phải hành theo sự nghiệp của các tiểu vương; các loài hữu tình cũng giống như thế, chỉ thiểu số có khả năng tu tập đạo trí Nhất thiết trí, còn đa số phải hành theo đạo Thanh văn, Độc giác.

Này Thiện Hiện, nên biết các chúng Bồ-tát cầu hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, chỉ số ít chứng đắc quả vị ấy còn phần nhiều thì rơi vào bậc Thanh văn và Độc giác.

Này Thiện Hiện, nên biết các thiện nam, thiện nữ trụ nơi Bồ-tát thừa, nếu chẳng xa lìa phương tiện thiện xảo nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì nhất định có khả năng nhập vào bậc không thoái chuyển. Nếu xa lìa phương tiện thiện xảo nơi Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa thì nhất định đối với quả vị Giác ngộ cao tột sẽ bị thoái chuyển. Vì vậy, Đại Bồ-tát muốn đạt bậc Bồ-tát không thoái chuyển, muốn nhập Bồ-tát không thoái chuyển thì nên siêng năng tu học phương tiện thiện xảo nơi Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu học phương tiện thiện xảo nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với các nẻo tham lam, keo kiệt, phá giới, sân giận, biếng trễ, tán loạn, ác tuệ; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn hoặc các tội lỗi khác; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của sắc, về tướng của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của nhãn xứ, về tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của sắc xứ, về tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của nhãn giới, về tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của sắc giới, về tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của nhãn thức giới, về tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của nhãn xúc, về tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, về tướng của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của địa giới, về tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của vô minh, về tướng của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của Bố thí ba-la-mật-đa, về tướng của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của pháp không bên trong, về tướng của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của chân như, về tướng của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của Thánh đế khổ, về tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của bốn Tĩnh lự, về tướng của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của tám Giải thoát, về tướng của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của bốn Niệm trụ, về tướng của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của pháp môn giải thoát Không, về tướng của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của bậc Cực hỷ, về tướng của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của năm loại mắt, về tướng của sáu phép thần thông; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của mười lực của Phật, về tướng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của pháp không quên mất, về tướng của tánh luôn luôn xả; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của trí Nhất thiết, về tướng của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni, về tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của quả Dự lưu, về tướng của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của quả vị Độc giác; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về tướng nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao?

Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy hành theo phương tiện thiện xảo nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hoàn toàn chẳng thấy pháp nào có thể đạt được; vì không có sở đắc nên chẳng khởi tâm tương ưng với sự chấp thủ về pháp tướng như sắc... Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu học phương tiện thiện xảo nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì có khả năng gồm thâu, tập trung, dẫn dắt tất cả Ba-la-mật-đa. Vì sao?

Này Thiện Hiện, vì trong Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bao gồm hết tất cả Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện, ví như thân kiến có khả năng gồm thâu tất cả sáu mươi hai kiến chấp, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng vậy, bao gồm hết tất cả Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện, ví như các người chết, vì mạng căn diệt nên các căn đều diệt theo, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, tất cả pháp học về Ba-la-mật-đa đều tùy thuộc vào đấy; nếu không có Bát-nhã ba-la-mật-đa thì cũng không có tất cả Ba-la-mật-đa. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồtát muốn đạt đến bờ bên kia của tất cả Ba-la-mậtđa một cách rốt ráo thì phải siêng năng tu học Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, nên biết nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì đối với các hữu tình là bậc cao tột. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy đã có khả năng tu học chỗ tột cùng vậy.

Lại nữa Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Ở thế giới ba lần ngàn này, các loài hữu tình có nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Các loài hữu tình trong châu Thiệm-bộ hãy còn nhiều vô số huống là các loài hữu tình trong thế giới ba lần ngàn!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, giả sử, các loài hữu tình ở thế giới ba lần ngàn, chẳng phải trước, chẳng phải sau, đều được thân người rồi đều chứng quả vị Giác ngộ cao tột, có thiện nam, thiện nữ nào đó trụ nơi Bồ-tát thừa, suốt cả cuộc đời, thường dùng y phục, thức ăn uống, đồ nằm, thuốc thang đều thuộc loại thượng diệu cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy, thì thiện nam, thiện nữ đó, do nhân duyên này, được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu thiện nam, thiện nữ nào trụ nơi Bồ-tát thừa, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thường lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, sao chép, tư duy, tu tập thì công đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô số. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa gồm đủ mọi lợi ích lớn, có khả năng giúp cho chúng Đại Bồ-tát mau đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột, hơn hẳn các căn lành đã được của vị trước. Vì vậy, này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn làm bậc Thượng thủ đối với tất cả hữu tình thì nên học Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế. Nếu Đại Bồ-tát muốn đem lại lợi ích rộng khắp cho tất cả hữu tình, đối với người không ai cứu hộ làm người cứu hộ; người không nơi nương tựa, làm chốn nương tựa, người không nơi hướng về làm chỗ hướng về, người không có mắt làm đôi mắt sáng, người không có ánh sáng thì làm ánh sáng, người lạc đường thì chỉ cho đường đi; người chưa đạt Niết-bàn, khiến đạt được Niết-bàn thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế. Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, muốn hành hóa nơi cảnh giới chư Phật đã hành hóa, muốn thể hiện diệu dụng nơi chỗ Phật đã thể hiện, muốn gầm lên tiếng rống Đại sư tử của chư Phật, muốn gióng to tiếng trống pháp Vô thượng của chư Phật, muốn khua vang tiếng chuông pháp Vô thượng của chư Phật, muốn thổi lớn tiếng loa pháp Vô thượng của chư Phật, muốn bay lên tòa pháp Vô thượng của chư Phật, muốn giảng nói nghĩa pháp Vô thượng của chư Phật, muốn phá sạch lưới nghi của tất cả hữu tình, muốn hòa vào cõi pháp cam lồ của chư Phật, muốn thọ nhận niềm hỷ lạc vi diệu của chư Phật... thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát tu học Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì không có bất cứ thiện căn công đức nào mà không thể đạt được. Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì cũng đâu có thể đạt được thiện căn công đức của hàng Thanh văn, Độc giác.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, thiện căn công đức của hàng Thanh văn, Độc giác, các chúng Đại Bồ-tát này cũng đều có thể đạt được, chỉ đối với bậc ấy, không trụ, không vướng, dùng tri kiến thù thắng quán sát đúng đắn rồi vượt qua bậc ấy, nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, cho nên chúng Bồ-tát này không có bất cứ thiện căn công đức nào mà không thể đạt được.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì được gần gũi trí Nhất thiết trí, mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì chính là phước điền chân thật của tất cả hàng Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì vượt lên trên tất cả phước điền của Sa-môn, Phạm chí, nơi thế gian và cả bậc Thanh văn, Độc giác, mau chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi học như thế thì tùy theo chỗ thọ sinh, chẳng hề bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, luôn hành theo Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, nên biết đối với trí Nhất thiết trí đã đắc nẻo không thoái chuyển, xa lìa bậc Thanh văn, Độc giác, gần gũi quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, suy nghĩ như thế này: “Đây chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây là lúc tu, đây là chỗ tu, ta thường tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế mà lìa bỏ pháp cần lìa bỏ, chắc chắn sẽ chứng đắc trí Nhất thiết trí.” Nếu suy nghĩ như thế thì chẳng phải là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thể hiểu rõ, lãnh hội được sự thâm diệu của Bát-nhã ba-lamật-đa. Cũng chẳng nghĩ như thế này: “Đây là Bátnhã ba-la-mật-đa, đây là lúc tu, đây là chỗ tu, đây là người tu, đây là phiền não là pháp gây chướng ngại cho Bát-nhã ba-la-mật-đa cần phải xa lìa, đây là quả vị Giác ngộ cao tột, đối tượng được chứng đắc của Bát-nhã ba-la-mật-đa.” Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, suy nghĩ thế này: “Đây chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây chẳng phải là lúc tu, chẳng phải là chỗ tu, chẳng phải người tu, chẳng do Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có thể có sự xa lìa và chứng đắc.” Vì sao? Vì tất cả pháp đều trụ nơi chân như, pháp giới, thật tế không hề sai biệt. Nếu hành như thế là hành Bát-nhã bala-mật-đa.


Trước

[Đầu trang][Mục lục Kinh Đại Bát Nhã]

Tiếp theo


[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]


[Mục lục tổng quát]