SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

HỘI THỨ I

Phẩm 60: GỒM THÂU, PHÁT HUY
(QUYỂN 349 - 350)

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.

QUYỂN 349

QUYỂN 350


QUYỂN 349

Phẩm 60: GỒM THÂU, PHÁT HUY (1)

Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Bố thí ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Tịnh giới ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát dùng tâm không thâu tóm, không bỏn sẻn khi tu bố thí, đem sự bố thí ấy ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, đối với các hữu tình an trú nơi thân nghiệp từ, an trú nơi ngữ nghiệp từ, an trú nơi ý nghiệp từ, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Bố thí ba-la-mậtđa lại gồm thâu, phát huy cả Tịnh giới ba-la-mậtđa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Bố thí ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả An nhẫn ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát dùng tâm không thâu tóm, không bỏn sẻn khi tu bố thí, đem sự bố thí ấy ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, nếu có người thọ nhận nào vô cớ mắng nhiếc, lại còn lăng nhục nhưng Bồ-tát đối với họ chẳng hề thay đổi mà dấy khởi tâm sân hận, độc hại, chỉ khởi tâm xót xa thương yêu, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Bố thí ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả An nhẫn ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Bố thí ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Tinh tấn ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát dùng tâm không thâu tóm, không bỏn sẻn khi tu bố thí, đem sự bố thí ấy ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, nếu có người thọ nhận nào vô cớ mắng nhiếc, lại còn lăng nhục nhưng khi ấy Bồ-tát suy nghĩ: “Các hữu tình tạo tác các loại nghiệp như thế tất trở lại nhận chịu các thứ quả báo như thế. Ta nay chẳng nên chấp vào việc ấy mà tự bỏ con đường tu tập của mình.” Lại nghĩ tiếp: “Ta nên đối với họ và các hữu tình khác, lại càng tăng thêm tâm xả, tâm thí, chẳng có gì để bận tâm, luyến tiếc.” Nghĩ như thế rồi, nên càng dốc phát tâm hơn nữa, tinh tấn bố thí không ngừng, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Bố thí ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Tinh tấn ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Bố thí ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Tĩnh lự ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát dùng tâm không thâu tóm, không bỏn sẻn khi tu bố thí, đem sự bố thí ấy ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, lúc này Bồ-tát tâm không tán loạn, chẳng bao giờ trở lại mong cầu các cảnh diệu dục, hoặc các cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, cũng chẳng trở lại mong cầu an trú ở các bậc Thanh văn, Độc giác, chỉ cho các hữu tình đều có như nhau cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, tâm như thế liên tục không tán loạn, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Bố thí ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Tĩnh lự ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Bố thí ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Bátnhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát dùng tâm không thâu tóm, không bỏn sẻn khi tu bố thí, đem sự bố thí ấy ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, Bồ-tát khi ấy quán về người nhận, người cho, vật cho đều như trò huyễn hóa, chẳng thấy sự bố thí ấy đối với các hữu tình là có ích lợi hay gây tổn hại, đạt đến diệu không thắng nghĩa, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Bố thí ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Tịnh giới ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Bố thí ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tịnh giới ba-la-mật-đa, thân, ngữ và ý đều đầy đủ luật nghi, tạo các phước nghiệp; do đầy đủ luật nghi và tạo các phước đức nên xa lìa việc sát hại sinh mạng, xa lìa việc không cho mà lấy, xa lìa dâm dục, tà hạnh, xa lìa lời nói hư dối, lời nói thô ác, lời nói ly gián, lời nói hỗn tạp, xa lìa tham dục, sân giận, tà kiến; Bồ-tát an trú nơi Tịnh giới ba-la-mậtđa như thế, chẳng cầu bậc Thanh văn, Độc giác, chỉ dốc cầu quả vị Giác ngộ cao tột; Bồ-tát vẫn an trú nơi Tịnh giới ba-la-mật-đa, rộng tu bố thí, tùy theo các hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần xe cho xe, cần y phục cho y phục, cần hương cho hương, cần tràng hoa cho tràng hoa, cần chuỗi báu cho chuỗi báu, cần hương xoa cho hương xoa, cần đồ nằm cho đồ nằm, cần phòng ốc cho phòng ốc, cần đèn đuốc cho đèn đuốc, cần của báu cho của báu, cần đồ dùng cho đồ dùng, tùy theo các nhu cầu thảy đều cấp cho đủ hết; lại đem căn lành từ sự bố thí ấy ban cho các hữu tình đều có như nhau cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng cầu bậc Thanh văn, Độc giác, này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Tịnh giới ba-lamật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Bố thí ba-la-mậtđa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Tịnh giới ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả An nhẫn ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tịnh giới ba-la-mật-đa, nếu như có các hữu tình tranh giành nhau đến nỗi chặt đứt cả tay chân của Bồ-tát mang đi mỗi nơi, khi ấy Bồ-tát chẳng hề sinh một niệm sân hận, chỉ nghĩ: “Ta nay đã đạt được lợi ích tốt đẹp, to lớn, đó là các hữu tình đã chặt đứt tay chân ta, tùy ý mang đi; ta nhờ đấy mà có được đầy đủ pháp An nhẫn ba-la-mật-đa; nay thân này của ta là thứ bất tịnh, mong manh, do bỏ nó mà đạt được thân kim cang kiên cố, thanh tịnh của Như Lai, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Tịnh giới ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả An nhẫn ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Tịnh giới ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Tinh tấn ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tịnh giới ba-la-mật-đa, thân tâm luôn tinh tấn, thường không biếng trễ, mang áo giáp đại Từ, suy nghĩ: “Tất cả hữu tình bị chìm đắm trong biển lớn sinh tử đầy những xấu ác đáng sợ, khó thoát ra khỏi; ta sẽ dốc tâm cứu vớt họ đặt ở cảnh giới Niếtbàn cam lồ an lạc”, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Tịnh giới ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Tinh tấn ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Tịnh giới ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Tĩnh lự ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tịnh giới ba-la-mật-đa, tuy nhập Sơ thiền, hoặc nhập Thiền thứ hai, thứ ba, thứ tư, hoặc nhập vào Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc nhập định Diệt tận mà không rơi vào bậc Thanh văn, Độc giác, cũng chẳng chứng thật tế, vì do giữ vững nguyện lực của mình nên nghĩ thế này: “Các loài hữu tình bị chìm đắm trong biển lớn sinh tử đầy những xấu ác đáng sợ khó thoát ra khỏi; nay ta đang thể hiện diệu dụng nơi cảnh thiền định Ba-la-mật-đa thanh tịnh, nên dùng phương tiện cứu vớt họ đặt ở cảnh giới Niết-bàn thường lạc”, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Tịnh giới ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Tĩnh lự ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Tịnh giới ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tịnh giới ba-la-mật-đa, chẳng thấy có pháp nào hoặc thiện hoặc bất thiện, hoặc vô ký; chẳng thấy có pháp nào hoặc hữu lậu hoặc vô lậu; chẳng thấy có pháp nào hoặc buộc chặt vào thế gian, hoặc ra khỏi thế gian; chẳng thấy có pháp nào hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng thấy có pháp nào hoặc rơi vào hữu số, hoặc rơi vào vô số; chẳng thấy có pháp nào hoặc rơi vào tướng có, hoặc rơi vào tướng không, cũng chẳng thấy có pháp nào hoặc có hoặc không; chỉ quán các pháp chẳng lìa chân như, pháp giới, mà chuyển biến; do phương tiện thiện xảo của Bátnhã ba-la-mật-đa này nên chẳng rơi vào bậc Thanh văn, Độc giác chỉ chuyên cầu quả vị Giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Tịnh giới ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi An nhẫn ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Bố thí ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú An nhẫn ba-la-mật-đa, từ lúc mới phát tâm cho đến khi an tọa tòa Bồ-đề mầu nhiệm, ở trong thời gian ấy, nếu có các loài hữu tình vô cớ mắng nhiếc, khinh miệt, lăng nhục, thậm chí chặt đứt từng bộ phận nơi cơ thể của Đại Bồ-tát, bấy giờ Bồ-tát hoàn toàn không chút sân hận, chỉ nghĩ: “Các hữu tình này thật đáng thương xót, bị phiền não độc hại nhiễu loạn thân tâm nên chẳng được tự tại, không nơi nương tựa, không người cứu giúp, nghèo khổ bức bách. Ta nên bố thí cho họ theo như điều họ mong cầu, chẳng nên có sự bỏn sẻn, hối tiếc; luôn nghĩ thế này: Đối với tất cả hữu tình đang cần có sự giúp đỡ, họ cần ăn thì cho ăn, cần uống cho uống, cần xe cho xe, cần y phục cho y phục, cần hương hoa cho hương hoa, cần đồ nằm cho đồ nằm, cần nhà cửa cho nhà cửa, cần đèn đuốc cho đèn đuốc, cần vàng cho vàng, cần bạc cho bạc, cần mạt-ni cho mạt-ni, cần trân châu cho trân châu, cần phệ-lưu-ly cho phệlưu-ly, cần mạt-la-yết-đa cho mạt-la-yết-đa; cần loa bối cho loa bối, cần bích ngọc cho bích ngọc, cần san hô cho san hô, cần thạch tạng cho thạch tạng, cần kim cương cho kim cương, cần đế thanh cho đế thanh, cần các đồ báu khác cho các đồ báu khác, cần thuốc men cho thuốc men, cần lúa gạo cho lúa gạo, cần đồ dùng cho đồ dùng, tùy theo nhu cầu của họ thảy đều chu cấp đầy đủ, lại đem căn lành của sự bố thí ấy ban cho các loài hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, lấy vô sở đắc làm phương tiện; khi hồi hướng quả Đại Bồ-đề như thế, xa lìa ba tâm đó là tâm suy nghĩ ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về chỗ nào; ba tâm như thế vĩnh viễn không khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi An nhẫn ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Bố thí ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi An nhẫn ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Tịnh giới ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi An nhẫn ba-la-mật-đa, từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa tòa Bồ-đề mầu nhiệm, ở trong khoảng thời gian ấy, thậm chí vì lý do nhằm cứu mạng sống cho mình, đối với các hữu tình, không bao giờ giết hại sinh mạng hoặc làm tổn hại đến các bộ phận trên cơ thể chúng, cũng thường đối với chúng, xa lìa trộm cướp, dâm dục, tà hạnh, xa lìa lời nói hư dối, lời nói thô ác, lời nói ly gián, lời nói hỗn tạp, xa lìa tham dục, sân hận, tà kiến; khi Bồ-tát tu tịnh giới như thế chẳng cầu bậc Thanh văn, Độc giác, lại đem căn lành này ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, lấy vô sở đắc làm phương tiện; khi hồi hướng quả Đại Bồ-đề như thế nên xa lìa ba tâm, đó là tâm suy nghĩ ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về chỗ nào; ba tâm như thế vĩnh viễn không khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi An nhẫn ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Tịnh giới ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi An nhẫn ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Tinh tấn ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi An nhẫn ba-la-mật-đa mà phát khởi tâm dũng mãnh, tinh tấn hơn nữa, thường suy nghĩ: “Nếu một hữu tình nào đấy ở ngoài một do-tuần, mười do-tuần, trăm do-tuần, ngàn do-tuần, hoặc ngoài trăm ngàn do-tuần, hoặc ngoài một ức do-tuần, mười ức dotuần, trăm ức do-tuần, ngàn ức do-tuần, trăm ngàn ức do-tuần, hoặc ngoài một triệu do-tuần, mười triệu do-tuần, trăm triệu do-tuần, ngàn triệu dotuần, trăm ngàn triệu do-tuần, trăm ngàn ức triệu do-tuần, hoặc ngoài một thế giới, mười thế giới, trăm thế giới, ngàn thế giới, trăm ngàn thế giới, hoặc ngoài một ức thế giới, mười ức thế giới, trăm ức thế giới, ngàn ức thế giới, trăm ngàn ức thế giới, hoặc ngoài một triệu thế giới, mười triệu thế giới, trăm triệu thế giới, ngàn triệu thế giới, trăm ngàn triệu thế giới, trăm ngàn ức triệu thế giới, là hữu tình đáng nên hóa độ thì nhất định ta sẽ đến, dùng phương tiện giáo hóa, khiến cho hữu tình ấy thọ trì hoặc một học xứ, hoặc hai, ba cho đến đầy đủ các giới, huống hồ là giáo hóa khiến đắc hoặc quả Dự lưu, Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán, hoặc quả vị Độc giác; hoặc khiến an trú nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, còn không mệt mỏi, huống hồ là giáo hóa vô lượng vô biên hữu tình đều khiến được lợi ích an lạc nơi thế gian và xuất thế gian.” Lại đem căn lành của sự tinh tấn như thế ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khi hồi hướng quả vị Đại Bồ-đề như thế, xa lìa ba tâm, đó là tâm suy nghĩ ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu; ba tâm như thế đều vĩnh viễn không khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi An nhẫn ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Tinh tấn ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi An nhẫn ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Tĩnh lự ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi An nhẫn ba-la-mật-đa, nhiếp tâm không loạn động, xa lìa các pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, lìa mọi hỷ lạc, nhập Sơ thiền, an trú trọn vẹn; cứ như thế, hoặc nhập đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền, an trú trọn vẹn; hoặc nhập định Không vô biên xứ, an trú trọn vẹn; hoặc nhập định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ và an trú trọn vẹn; hoặc nhập định Diệt tận và an trú trọn vẹn; ở trong các định ấy, tùy theo các pháp của tâm và tâm sở đã sinh khởi và căn lành được phát huy, tất cả hợp lại ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khi hồi hướng quả vị Đại Bồ-đề như vậy, xa lìa ba tâm, đó là tâm suy nghĩ ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu; ba tâm như thế đều vĩnh viễn không khởi, đối với các tĩnh lự và các cho của tĩnh lự đều không có sở đắc, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi An nhẫn ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Tĩnh lự ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi An nhẫn ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi An nhẫn ba-la-mật-đa, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, bấy giờ Bồ-tát tuy dùng các hành tướng xa lìa, tịch tĩnh, vô tận, vĩnh diệt, quán tất cả pháp mà đối với pháp tánh chẳng hề tác chứng, cho đến có thể ngồi nơi tòa Bồ-đề mầu nhiệm, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột; từ tòa này đứng dậy, chuyển chánh pháp luân, đem lại lợi ích an lạc cho các hữu tình; lại đem căn lành của trí vi diệu như thế ban cho các loài hữu tình đều có như nhau cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khi hồi hướng quả vị Đại Bồ-đề như vậy, nên xa lìa ba tâm, đó là tâm tư duy ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu; ba tâm như thế đều vĩnh viễn chẳng khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi An nhẫn ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, chẳng phải giữ, chẳng phải bỏ.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Bố thí ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa, thân tâm luôn tinh tấn thường không biếng lười, cầu các pháp thiện không hề mệt mỏi chán nản, luôn suy nghĩ: “Ta quyết phải đạt được đối tượng mong cầu là quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng thể chẳng đạt.” Đại Bồ-tát ấy thường mong muốn đem lại lợi lạc cho tất cả hữu tình, luôn nghĩ thế này: Nếu một hữu tình ở ngoài một dotuần, mười do-tuần, trăm do-tuần, ngàn do-tuần, hoặc ngoài trăm ngàn do-tuần, hoặc ngoài một ức do-tuần, mười ức do-tuần, trăm ức do-tuần, ngàn ức do-tuần, trăm ngàn ức do-tuần, hoặc ngoài một triệu do-tuần, mười triệu do-tuần, trăm triệu dotuần, ngàn triệu do-tuần, trăm ngàn triệu do-tuần, trăm ngàn ức triệu do-tuần, hoặc ngoài một thế giới, mười thế giới, trăm thế giới, ngàn thế giới, trăm ngàn thế giới, hoặc ngoài một ức thế giới, mười ức thế giới, trăm ức thế giới, ngàn ức thế giới, trăm ngàn ức thế giới, hoặc ngoài một triệu thế giới, mười triệu thế giới, trăm triệu thế giới, ngàn triệu thế giới, trăm ngàn triệu thế giới, trăm ngàn ức triệu thế giới, mà đó là hữu tình đáng hóa độ thì ta quyết sẽ đến đó, theo phương tiện giáo hóa; nếu là chúng sinh trụ ở Bồ-tát thừa thì khiến an trú nơi quả vị Giác ngộ cao tột; nếu chúng sinh trụ ở Thanh văn thừa thì khiến trụ nơi quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; nếu chúng sinh trụ ở Độc giác thừa thì khiến an trú nơi quả vị Độc giác; còn các hữu tình khác thì Đức Thế Tôn khiến họ an trú nơi mười nẻo nghiệp thiện như vậy rồi dùng phương tiện mà dẫn dắt thu phục qua việc bố thí của cải và bố thí chánh pháp làm cho họ sung túc, lại đem căn lành của sự bố thí như thế, chẳng cầu bậc Thanh văn, Độc giác... mà chỉ ban cho tất cả hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện; khi hồi hướng quả Đại Bồ-đề như thế, nên xa lìa ba tâm, đó là tâm tư duy ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu; ba tâm như thế vĩnh viễn không khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồtát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Bố thí ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Tịnh giới ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa, từ lúc mới phát tâm cho đến khi an tọa nơi tòa Bồ-đề mầu nhiệm, tự xa lìa việc giết hại sinh mạng, cũng khuyên người xa lìa việc giết hại sinh mạng, không làm ngược lại sự tán dương pháp xa lìa việc giết hại sinh mạng, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa việc giết hại sinh mạng; tự xa lìa việc không cho mà lấy, cũng khuyên người xa lìa việc không cho mà lấy, không làm ngược lại sự tán dương pháp xa lìa việc không cho mà lấy, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa việc không cho mà lấy; tự xa lìa dâm dục, tà hạnh, cũng khuyên người xa lìa dâm dục, tà hạnh, không làm ngược lại sự tán dương pháp xa lìa dâm dục, tà hạnh, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa dâm dục, tà hạnh; tự xa lìa lời nói hư dối, cũng khuyên người xa lìa lời nói hư dối, không làm ngược lại sự tán dương pháp xa lìa lời nói hư dối, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa lời nói hư dối; tự xa lìa lời nói thô ác, cũng khuyên người xa lìa lời nói thô ác, không làm ngược lại sự tán dương pháp xa lìa lời nói thô ác, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa lời nói thô ác; tự xa lìa lời nói ly gián, cũng khuyên người xa lìa lời nói ly gián, không làm ngược lại sự tán dương pháp xa lìa lời nói ly gián, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa lời nói ly gián; tự xa lìa lời nói hỗn tạp, cũng khuyên người xa lìa lời nói hỗn tạp, không làm ngược lại sự tán dương pháp xa lìa lời nói hỗn tạp, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa lời nói hỗn tạp; tự xa lìa tham dục, cũng khuyên người xa lìa tham dục, không làm ngược lại sự tán dương pháp xa lìa tham dục, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa tham dục; tự xa lìa sân hận, cũng khuyên người xa lìa sân hận, không làm ngược lại sự tán dương pháp xa lìa sân hận, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa sân hận; tự xa lìa tà kiến, cũng khuyên người xa lìa tà kiến, không làm ngược lại sự tán dương pháp xa lìa tà kiến, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa tà kiến; Đại Bồ-tát ấy, với Tịnh giới ba-la-mật-đa này, chẳng cầu sinh vào ba cõi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, chẳng cầu các bậc Thanh văn, Độc giác, chỉ đem căn lành của tịnh giới như thế ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện; trong khi hồi hướng quả Đại Bồ-đề như thế nên xa lìa ba tâm, đó là tâm suy nghĩ ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu. Ba tâm như thế vĩnh viễn chẳng khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Tịnh giới ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả An nhẫn ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa, từ lúc mới phát tâm cho đến khi an tọa nơi tòa Bồ-đề mầu nhiệm, ở trong khoảng thời gian ấy có các hàng người và phi nhân..., tranh nhau đến bức bách làm hại, hoặc lại đâm chém, chặt đứt cả tay chân, tùy ý mang đi, lúc ấy Bồ-tát chẳng hề dấy ý nghĩ: “Ai đã đâm chém, chặt đứt cả thân thể ta, ai đã mặc sức mang đi”, chỉ suy nghĩ: “Ta nay đã đạt được lợi ích tốt đẹp lớn lao; các hữu tình kia, vì làm lợi ích cho ta nên đã đến chặt đứt tay chân nơi thân thể ta; nhưng ta vốn vì các hữu tình mà thọ thân này, họ tới lấy đi những cái ta có là giúp ta hoàn thành sự nghiệp tu tập của mình”, Bồ-tát tư duy xét kỹ về thật tướng của các pháp như thế mà tu tập pháp an nhẫn, với căn lành thù thắng từ sự an nhẫn này, chẳng cầu bậc Thanh văn, Độc giác, chỉ đem căn lành từ sự an nhẫn như thế ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khi hồi hướng quả vị Đại Bồ-đề như thế, xa lìa ba tâm, đó là tâm suy nghĩ ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu; ba tâm như thế đều vĩnh viễn chẳng khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả An nhẫn ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Tĩnh lự ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa, tu tập các định, Đại Bồ-tát ấy luôn xa lìa các pháp dục ác bất thiện, có tầm, có tứ, lìa mọi hỷ lạc, nhập Sơ thiền, an trú trọn vẹn; tầm tứ tịch tĩnh, an trú trong tánh chuyên nhất của tâm thanh tịnh bình đẳng, không tầm, không tứ, do định sinh hỷ lạc, nhập đệ Nhị thiền, an trú trọn vẹn; lìa hỷ, trụ xả, đầy đủ niệm về chánh tri, toàn thân thọ lạc, bậc Thánh ở trong đó có thể nêu bày, buông xả, an trú đầy đủ nơi niệm an vui, nhập đệ Tam thiền, an trú trọn vẹn; dứt vui dứt khổ, mừng lo đều tan biến, chẳng khổ chẳng vui, xả niệm thanh tịnh, nhập đệ Tứ thiền, an trú trọn vẹn; Đại Bồ-tát ấy đối với các hữu tình khởi tưởng ban vui, tác ý nhập Từ vô lượng, an trú trọn vẹn; đối với các hữu tình khởi tưởng nhổ sạch gốc rễ của sự khổ, tác ý nhập Bi vô lượng, an trú trọn vẹn; đối với các hữu tình khởi tưởng mừng vui, tác ý nhập Hỷ vô lượng, an trú trọn vẹn; đối với các hữu tình khởi tưởng bình đẳng lìa khổ vui, tác ý nhập Xả vô lượng, an trú trọn vẹn; Đại Bồ-tát ấy đối với các sắc, khởi tưởng nhàm chán về sự thô kệch, tác ý nhập định Không vô biên xứ, an trú trọn vẹn; đối với các thức, khởi tưởng tịch tĩnh, tác ý nhập định Thức vô biên xứ, an trú trọn vẹn; đối với các pháp không sở hữu, tác ý nhập định Vô sở hữu xứ, an trú trọn vẹn; đối với pháp phi hữu tưởng phi vô tưởng, khởi tưởng tịch tĩnh, tác ý nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trú trọn vẹn; đối với định Diệt tưởng thọ, khởi tưởng ngừng nghỉ, tác ý nhập định Diệt tưởng thọ, an trú trọn vẹn; Đại Bồtát ấy tuy tu tĩnh lự với vô lượng pháp định Vô sắc diệt như thế mà chẳng thu nhận giữ lấy quả Dị thục ấy, chỉ tùy theo các hữu tình đáng được thọ nhận sự giáo hóa làm chỗ lợi lạc cho họ mà sinh vào đó; đã sinh vào nơi ấy rồi, dùng bốn pháp nhiếp để nhiếp hóa họ, theo phương tiện mà an lập, khiến đối với Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa luôn tinh cần tu học; Đại Bồ-tát ấy nương vào các tĩnh lự, khởi thần thông thù thắng, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thưa hỏi về tánh tướng sâu xa của các pháp, dốc hết sức phát huy căn lành thù thắng; Đại Bồ-tát ấy tập hợp các thứ căn lành như thế ban cho các hữu tình đều có như nhau cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khi hồi hướng quả vị Đại Bồ-đề như thế nên xa lìa ba tâm, đó là tâm tư duy ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu; ba tâm như thế đều vĩnh viễn chẳng khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Tĩnh lự ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa, đối với Bố thí ba-la-mật-đa thường chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của sự Bố thí kia, thường đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với bốn Niệm trụ chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với pháp không bên trong chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với chân như chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với Thánh đế khổ chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-lamật-đa thường đối với bốn Tĩnh lự chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với tám Giải thoát chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-lamật-đa thường đối với pháp môn giải thoát Không chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với năm loại mắt chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với sáu phép thần thông cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với mười lực của Phật chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với pháp không quên mất chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với tánh luôn luôn xả cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-lamật-đa thường đối với trí Nhất thiết chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với quả Dự lưu chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với sắc chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với nhãn xứ chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với sắc xứ chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với nhãn giới chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mậtđa thường đối với sắc giới chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn bala-mật-đa thường đối với nhãn thức giới chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với nhãn xúc chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với địa giới chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa thường đối với vô minh chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng thấy như thế; nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mậtđa thường đối với pháp hữu sắc, vô sắc chẳng thấy tên gọi, sự việc cùng tánh, tướng của các pháp ấy, thường đối với pháp hữu kiến, vô kiến, pháp hữu đối, vô đối, pháp hữu lậu, vô lậu, pháp hữu vi, vô vi, cũng chẳng thấy như thế; Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp, hoặc tên gọi, sự việc, hoặc tánh, tướng, hoàn toàn chẳng thấy; đối với các pháp cũng chẳng khởi tưởng niệm, dứt mọi chấp trước, theo đúng những gì đã nêu giảng mà hành hóa; lại đem căn lành của trí tuệ thâm diệu như vậy ban cho các hữu tình đều có như nhau cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khi hồi hướng quả vị Đại Bồ-đề như thế nên xa lìa ba tâm, đó là tâm tư duy ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu; ba tâm như thế đều vĩnh viễn chẳng khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồtát an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Bố thí ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa, đối với các hữu tình thực hiện các pháp Tài thí, Pháp thí, Đại Bồ-tát ấy lại luôn xa lìa pháp dục, ác bất thiện, có tầm, có tứ; lìa mọi hỷ lạc, nhập Sơ thiền an trú trọn vẹn; tầm tứ tịch tĩnh, an trú trong tánh chuyên nhất của tâm bình đẳng thanh tịnh, không tầm, không tứ, định sinh hỷ lạc, nhập đệ Nhị thiền, an trú trọn vẹn; lìa hỷ, trụ xả, đầy đủ niệm chánh tri, toàn thân thọ lạc, bậc Thánh ở trong ấy có thể nêu bày, buông xả, an trú đầy đủ niệm an lạc, nhập đệ Tam thiền, an trú trọn vẹn; dứt vui dứt khổ, mừng lo đều mất, chẳng khổ chẳng vui, xả niệm thanh tịnh, nhập đệ Tứ thiền, an trú trọn vẹn; đối với các hữu tình khởi tưởng ban vui, tác ý nhập Từ vô lượng, an trú trọn vẹn; đối với các hữu tình khởi tưởng cứu khổ, tác ý nhập Bi vô lượng, an trú trọn vẹn; đối với các hữu tình khởi tưởng mừng vui, tác ý nhập Hỷ vô lượng, an trú trọn vẹn; đối với các hữu tình khởi tưởng bình đẳng, lìa khổ vui, tác ý nhập Xả vô lượng, an trú trọn vẹn; đối với các sắc, khởi tưởng chán ghét sự thô kệch, tác ý nhập định Không vô biên xứ, an trú trọn vẹn; đối với các thức, khởi tưởng tịch tĩnh, tác ý nhập định Thức vô biên xứ, an trú trọn vẹn; đối với các pháp không sở hữu, khởi tưởng tịch tĩnh, tác ý nhập định Vô sở hữu xứ, an trú trọn vẹn; đối với phi hữu tưởng phi vô tưởng, khởi tưởng tịch tĩnh, tác ý nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trú trọn vẹn; đối với định Diệt tưởng thọ, khởi tưởng ngừng nghỉ, tác ý nhập định Diệt tưởng thọ, an trú trọn vẹn; Đại Bồ-tát ấy an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa như đã nêu bày, giữ tâm không loạn động, đối với các hữu tình thực hành Tài thí, Pháp thí, thường tự mình thực hiện Tài thí, Pháp thí, cũng thường khuyên người khác thực hành Tài thí, Pháp thí, thường không làm ngược lại sự khen ngợi pháp thực hành Tài thí, Pháp thí, thường hoan hỷ khen ngợi người thực hành Tài thí, Pháp thí; Đại Bồ-tát ấy đem căn lành của sự bố thí này, chẳng cầu bậc Thanh văn, Độc giác mà chỉ ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, lấy vô sở đắc làm phương tiện; khi hồi hướng quả Đại Bồđề như thế nên xa lìa ba tâm đó là tâm suy nghĩ ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì và hồi hướng về đâu; ba tâm như thế vĩnh viễn chẳng khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Tĩnh lự bala-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Bố thí ba-lamật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Tịnh giới ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa, lại thọ trì tịnh giới, thường chẳng phát khởi tâm cùng thực hiện tham, sân, si; thường chẳng phát khởi tâm cùng thực hiện các việc mưu hại, bỏn sẻn, ganh ghét, ưa thích hủy hoại tịnh giới, chỉ thường phát khởi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí, lại đem căn lành từ công đức như thế, cầu bậc Thanh văn, Độc giác mà ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, lấy vô sở đắc làm phương tiện; khi hồi hướng quả Đại Bồ-đề như thế nên xa lìa ba tâm đó là tâm suy lường ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì và hồi hướng về đâu; ba tâm như thế đều vĩnh viễn chẳng khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Tịnh giới ba-la-mật-đa.

QUYỂN 350

Phẩm 60: GỒM THÂU, PHÁT HUY (2)

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả An nhẫn ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa mà tu học an nhẫn, quán sắc như bọt nước, quán thọ như bọt nổi, quán tưởng như dợn nắng, quán hành như cây chuối, quán thức như trò huyễn hóa; khi quán như thế, đối với năm thủ uẩn ấy luôn luôn duy trì tưởng về sự không bền chắc. Lại suy nghĩ thế này: “Các pháp đều là không, không có ngã, và đối tượng của ngã: thế thì sắc là sắc của ai, thọ là thọ của ai, tưởng là tưởng của ai, hành là hành của ai, thức là thức của ai?” Khi quán như thế, lại suy nghĩ: “Các pháp đều là không, lìa ngã và đối tượng của ngã: thế thì ai cắt đứt, ai bị cắt đứt, ai mắng nhiếc, ai bị mắng nhiếc; lại đối với sự việc ấy ai khởi sân hận?” Bồ-tát nương vào tĩnh lự quán sát, suy xét kỹ như thế nên có được sự an nhẫn đầy đủ, lại đem căn lành của sự an nhẫn ấy ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khi hồi hướng quả vị Đại Bồ-đề như thế luôn xa lìa ba tâm, đó là tâm suy lường ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu; ba tâm như thế đều vĩnh viễn chẳng khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả An nhẫn ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Tinh tấn ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa, luôn phát khởi sự tinh tấn dũng mãnh, nghĩa là Bồ-tát lìa pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, lìa mọi hỷ lạc, nhập Sơ thiền, an trú trọn vẹn; tầm, từ tịch tĩnh, an trú trong tánh chuyên nhất của tâm thanh tịnh bình đẳng, không tầm, không tứ, định sinh hỷ lạc, nhập đệ Nhị thiền, an trú trọn vẹn; lìa hỷ trụ xả, đầy đủ niệm chánh tri, toàn thân thọ lạc; bậc Thánh ở trong đó có thể nêu bày, buông xả, an trú đầy đủ niệm an lạc, nhập đệ Tam thiền, an trú trọn vẹn; dứt vui, dứt khổ, mọi mừng lo tan biến, chẳng khổ chẳng vui, xả niệm đạt thanh tịnh, nhập đệ Tứ thiền, an trú trọn vẹn; khi Bồ-tát tu tĩnh lự như thế, đối với các tĩnh lự và các chi của tĩnh lự đều chẳng chấp giữ lấy hình tướng, phát khởi Thần cảnh trí thông thù thắng, có khả năng tạo ra vô biên việc biến hóa kỳ diệu, lớn lao, đó là làm chấn động khắp mười phương thế giới, biến một thành nhiều, biến nhiều thành một, hoặc ẩn, hoặc hiện, nhanh chóng không chút trở ngại, xuyên qua núi non tường vách như đi vào chỗ trống không, qua lại trên không giống như chim bay, lui tới trên đất như ra vào trong nước, bước trên nước như đi trên đất, thân xuất khói lửa như cao nguyên bốc cháy, thân tuôn ra các dòng nước khác nào núi tuyết tan, thần đức, uy thế của nhật nguyệt khó sánh kịp, dùng tay che khuất ánh sáng cho đến tận cõi trời Tịnh cư; chuyển thân tự tại, thần biến như thế số lượng là vô biên; phát khởi Thiên nhĩ trí thông thù thắng thanh tịnh, sáng tỏ, hơn hẳn tai của trời người, có khả năng nghe như thật vô số các thứ âm thanh của các loài hữu tình, chẳng phải hữu tình trong khắp mười phương thế giới, nghĩa là nghe khắp các thứ âm thanh nơi địa ngục, bàng sinh, quỷ giới, cõi người, cõi trời, âm thanh của các hàng Thanh văn, Độc giác, chư Bồtát, chư Phật, âm thanh chối từ sinh tử, âm thanh khen ngợi Niết-bàn, âm thanh lìa bỏ hữu vi, âm thanh hướng đến Bồ-đề, chán ngán hữu lậu, âm thanh ưa thích vô lậu, âm thanh tán dương Tam bảo, âm thanh chế ngự tà đạo, âm thanh bàn luận chọn lựa, đọc tụng kinh điển, âm thanh khuyên dứt trừ pháp ác, âm thanh khiến dốc tu pháp lành, âm thanh cứu giúp khổ nạn; vô số các thứ âm thanh như thế, hoặc lớn, hoặc nhỏ thảy được nghe hết không chút ngăn ngại; phát khởi Tha tâm trí thông thù thắng, có khả năng biết như thật về các pháp của tâm và tâm sở nơi các loài hữu tình trong khắp mười phương thế giới; đó là biết khắp các hữu tình hoặc có tâm tham, hoặc lìa tâm tham, hoặc có tâm sân, hoặc lìa tâm sân, hoặc có tâm si, hoặc lìa tâm si, hoặc có tâm ái hoặc lìa tâm ái, hoặc có tâm thủ hoặc lìa tâm thủ, hoặc tâm hội tụ hoặc tâm phân tán, hoặc tâm nhỏ hẹp hoặc tâm rộng lớn, hoặc tâm vươn cao hoặc tâm thấp kém, hoặc tâm tịch tĩnh hoặc tâm chẳng tịch tĩnh, hoặc tâm lay động hoặc tâm chẳng lay động, hoặc tâm định hoặc tâm bất định, hoặc tâm giải thoát hoặc tâm chẳng giải thoát, hoặc tâm hữu lậu hoặc tâm vô lậu, hoặc tâm có tu tập, hoặc tâm chẳng tu tập, hoặc có tâm hướng thượng; các thứ tâm như thế, đều nhận biết đúng như thật; lại phát khởi Túc trú trí thông thù thắng, nhớ biết như thật về các sự việc đã qua của vô lượng hữu tình trong khắp mười phương, đó là tùy theo sự nhớ nghĩ về các việc đã qua hoặc của chính mình, hoặc của người khác trong khoảnh khắc một tâm, mười tâm, trăm tâm, ngàn tâm, nhiều trăm ngàn tâm; hoặc lại tùy theo sự nhớ nghĩ về các việc đã qua trong vòng một ngày, mười ngày, trăm ngày, ngàn ngày, nhiều trăm ngàn ngày; hoặc lại tùy theo sự nhớ nghĩ về các việc đã qua trong vòng một tháng, mười tháng, trăm tháng, ngàn tháng, nhiều trăm ngàn tháng; hoặc lại tùy theo sự nhớ nghĩ về các việc đã qua trong vòng một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm; hoặc lại tùy theo sự nhớ nghĩ về các việc đã qua trong vòng một kiếp, mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, nhiều trăm ngàn kiếp cho đến vô lượng, vô số trăm ngàn ức triệu kiếp; hoặc tùy theo sự nhớ nhĩ về các việc xảy ra ở đời trước; khi ấy, chỗ ấy, có tên như thế, họ như thế, chủng loại như thế, ăn uống như thế, ở mãi như thế, tuổi thọ như thế, sống lâu như thế, hưởng an vui như thế, chịu khổ cực như thế, từ nơi ấy chết đi, sinh vào chốn này, từ chốn này chết đi lại sinh vào chỗ đó, dung mạo như vậy, ngôn ngữ như vậy, hoặc sơ lược, hoặc đầy đủ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác, về các việc đã qua, tùy theo sự nhớ nghĩ đều nhận biết; lại phát khởi Thiên nhĩ trí thông thù thắng, thanh tịnh sáng tỏ hơn hẳn mắt của hàng trời, người có khả năng nhìn thấy như thật về các thứ hình sắc của các loài hữu tình, vô tình trong mười phương thế giới, đó là nhìn thấy khắp về các chi tiết: Lúc sinh, lúc chết, hình sắc tươi đẹp hay thô xấu ở cõi thiện hay cõi ác, hoặc hơn hẳn hoặc thua kém nơi vô số hình tướng của các loài hữu tình, nhân đó lại biết các loài hữu tình ấy tùy theo tác dụng của nghiệp lực mà nhận lấy sinh mạng sai biệt; bao loài hữu tình như thế, gây tạo các hạnh ác về thân, ngữ, ý, hủy báng các bậc Hiền thánh, do nhân tà kiến ấy nên khi thân hoại mạng chung, sẽ đọa nơi các đường ác, hoặc sinh vào cõi địa ngục, hoặc sinh vào hàng bàng sinh, quỷ giới, hoặc sinh trong loài hữu tình hạ tiện, xấu ác, ở biên địa, chịu bao khổ não; còn các hữu tình thành tựu diệu hạnh về thân, ngữ, ý khen ngợi các bậc Thánh Hiền như vậy, do nhân duyên chánh kiến nên khi thân hoại mạng chung, sẽ được sinh vào cõi thiện, hoặc sinh lên cõi trời, hoặc sinh vào cõi người hưởng mọi sự an vui sung sướng. Nói chung là các hữu tình như thế, với đủ các loại nghiệp và sự thọ nhận quả báo sai biệt, thảy đều biết như thật, Bồ-tát an trú nơi năm loại thần thông vi diệu ấy, từ cõi Phật này đi đến cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thưa hỏi ý nghĩa sâu xa nơi các pháp của chư Phật, gieo trồng vô lượng căn lành, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, dốc tu các hạnh Bồ-tát, đem các căn lành này, chẳng cầu bậc Thanh văn, Độc giác, mà ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khi hồi hướng quả vị Đại Bồ-đề luôn xa lìa ba tâm, đó là tâm suy lường ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu; ba tâm như thế đều vĩnh viễn chẳng khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Tinh tấn ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa, quán sắc chẳng thể nắm bắt được, quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được; quán nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể nắm bắt được; quán sắc xứ chẳng thể nắm bắt được, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể nắm bắt được; quán nhãn giới chẳng thể nắm bắt được, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng thể nắm bắt được; quán sắc giới chẳng thể nắm bắt được, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng thể nắm bắt được; quán nhãn thức giới chẳng thể nắm bắt được, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng thể nắm bắt được; quán nhãn xúc chẳng thể nắm bắt được, quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng thể nắm bắt được; quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nắm bắt được, quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nắm bắt được; quán địa giới chẳng thể nắm bắt được, quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nắm bắt được; quán vô minh chẳng thể nắm bắt được, quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng thể nắm bắt được; quán Bố thí ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được, quán Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không bên trong chẳng thể nắm bắt được, quán pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được; quán chân như chẳng thể nắm bắt được, quán pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể nắm bắt được; quán Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được, quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nắm bắt được; quán bốn Tĩnh lự chẳng thể nắm bắt được, quán bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng thể nắm bắt được; quán tám Giải thoát chẳng thể nắm bắt được, quán tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng thể nắm bắt được; quán bốn Niệm trụ chẳng thể nắm bắt được, quán bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng thể nắm bắt được; quán pháp môn giải thoát Không chẳng thể nắm bắt được, quán pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng thể nắm bắt được; quán năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được, quán sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được; quán mười lực của Phật chẳng thể nắm bắt được, quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được, quán tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được; quán trí Nhất thiết chẳng thể nắm bắt được, quán trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng thể nắm bắt được; quán pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được, quán pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được; quán quả Dự lưu chẳng thể nắm bắt được, quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng thể nắm bắt được; quán quả vị Độc giác chẳng thể nắm bắt được; quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được; quán quả vị Giác ngộ cao tột chẳng thể nắm bắt được; quán cảnh giới hữu vi chẳng thể nắm bắt được; quán cảnh giới vô vi chẳng thể nắm bắt được. Như thế là Bồ-tát đã quán tất cả các pháp đều chẳng thể nắm bắt được, rõ ràng là chúng chẳng tạo tác, vì chẳng tạo tác nên không sinh, vì không sinh nên không diệt, vì không diệt nên rốt ráo thanh tịnh, thường trụ, bất biến. Vì sao? Vì đối với tất cả pháp ấy, Như Lai dù có xuất hiện hay không xuất hiện ở thế gian thì chúng vẫn an trú nơi pháp tánh, an trú nơi pháp giới, pháp trụ, pháp định, không sinh, không diệt, thường không biến đổi. Đại Bồ-tát ấy tâm không hề loạn động, luôn luôn an trú trong tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí, như thật quán sát về tất cả pháp tánh hoàn toàn không có sở hữu, lại đem căn lành của trí tuệ thâm diệu này ban cho các hữu tình đều có như nhau cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khi hồi hướng quả vị Đại Bồ-đề luôn xa lìa ba tâm, đó là tâm suy lường ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu; ba tâm như thế đều vĩnh viễn chẳng khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Tĩnh lự bala-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Bát-nhã ba-lamật-đa.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Bố thí ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì quán tất cả pháp đều là không, không sở hữu.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

–Thế nào là Đại Bồ-tát quán tất cả pháp đều là không, không sở hữu?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa quán tánh của pháp không bên trong, tánh của pháp không bên trong chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không bên ngoài, tánh của pháp không bên ngoài chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không cả trong ngoài, tánh của pháp không cả trong ngoài chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không không, tánh của pháp không không chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không lớn, tánh của pháp không lớn chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không thắng nghĩa, tánh của pháp không thắng nghĩa chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không hữu vi, tánh của pháp không hữu vi chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không vô vi, tánh của pháp không vô vi chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không rốt ráo, tánh của pháp không rốt ráo chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không không biên giới, tánh của pháp không không biên giới chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không tản mạn, tánh của pháp không tản mạn chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không không đổi khác, tánh của pháp không không đổi khác chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không bản tánh, tánh của pháp không bản tánh chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không tự tướng, tánh của pháp không tự tướng chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không cộng tướng, tánh của pháp không cộng tướng chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không nơi tất cả pháp, pháp không nơi tất cả pháp chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không chẳng thể nắm bắt được, tánh của pháp không chẳng thể nắm bắt được là chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không không tánh, tánh của pháp không không tánh chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không tự tánh, tánh của pháp không tự tánh chẳng thể nắm bắt được; quán tánh của pháp không không tánh tự tánh, tánh của pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được; Đại Bồ-tát ấy an trú trong các pháp quán không như thế, chẳng đạt được sắc, hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được thọ, tưởng, hành, thức hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được nhãn xứ hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được sắc xứ hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được nhãn giới hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được sắc giới hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được nhãn thức giới hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được nhãn xúc hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được địa giới hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được vô minh hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được Bố thí ba-la-mật-đa hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được pháp không bên trong hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được chân như hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được Thánh đế khổ hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được bốn Tĩnh lự hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được tám Giải thoát hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được bốn Niệm trụ hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được pháp môn giải thoát Không hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được năm loại mắt hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được sáu phép thần thông hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được mười lực của Phật hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được pháp không quên mất hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được tánh luôn luôn xả hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được trí Nhất thiết hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được quả Dự lưu hoặc không, hoặc chẳng không, chẳng đạt được quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được quả vị Độc giác hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được cảnh giới hữu vi hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng đạt được cảnh giới vô vi hoặc không, hoặc chẳng không; Đại Bồ-tát ấy, an trú nơi Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, đối với các hữu tình, thực hiện sự bố thí hoặc đồ ăn, thức uống, y phục, hoặc các hương hoa, đồ nằm, nhà cửa, đèn đuốc, giường tòa, hoặc các thứ kim cương, mạt-ni, trân châu, mạt-la-yết-đa, loa bối, bích ngọc, san hô, thạch tạng, đế thanh, kim cương, phệ lưu ly... đủ các thứ châu báu, hoặc các loại thuốc men, hương xoa, hương bột, của cải, lúa gạo, đồ dùng; đối với các thứ ấy Bồ-tát đều quán là không, hoặc chủ thể bố thí, hoặc đối tượng được bố thí, hoặc phước đức của sự bố thí, tất cả như thế cũng quán là không; khi ấy, Bồ-tát hoàn toàn không khởi tâm tham lam keo kiệt, tâm chấp trước. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy tu hành đúng nẻo Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu, từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa nơi tòa Bồđề mầu nhiệm, các sự phân biệt như thế nhất định chẳng khởi. Cũng như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chưa từng dấy tâm tham lam keo kiệt, chấp trước, Đại Bồ-tát ấy cũng vậy, tu hành đúng nẻo Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu, tâm tham lam keo kiệt, chấp trước đều vĩnh viễn chẳng khởi. Thiện Hiện nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là bậc thầy của Đại Bồ-tát, có khả năng khiến cho chúng Đại Bồ-tát chẳng hề dấy tất cả vọng tưởng phân biệt. Các Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa như thế thì việc tu hành bố thí đều không tham đắm; lại đem căn lành của sự bố thí ấy ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khi hồi hướng quả vị Đại Bồ-đề luôn xa lìa ba tâm, đó là tâm suy lường ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu; ba tâm như thế đều vĩnh viễn chẳng khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Bố thí ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Tịnh giới ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng khởi tâm mong cầu các bậc Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Vì Đại Bồtát ấy quán các bậc Thanh văn, Độc giác đều chẳng thể nắm bắt được, tâm hồi hướng của các bậc Thanh văn, Độc giác và thân, ngữ của họ cũng chẳng thể nắm bắt được; Đại Bồ-tát ấy an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa từ lúc mới phát tâm cho đến khi ngồi nơi tòa Bồ-đề mầu nhiệm, trong khoảng thời gian đó tự xa lìa việc giết hại sinh mạng, cũng khuyên người xa lìa việc giết hại sinh mạng, chẳng làm ngược lại sự khen ngợi pháp xa lìa việc giết hại sinh mạng, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa việc giết hại sinh mạng; tự xa lìa việc không cho mà lấy, cũng khuyên người xa lìa việc không cho mà lấy, không làm ngược lại sự khen ngợi pháp xa lìa việc không cho mà lấy, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa việc không cho mà lấy; tự xa lìa dâm dục, tà hạnh, cũng khuyên người xa lìa dâm dục, tà hạnh, không làm ngược lại sự khen ngợi pháp xa lìa dâm dục, tà hạnh, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa dâm dục, tà hạnh; tự xa lìa lời nói hư dối, cũng khuyên người xa lìa lời nói hư dối, không làm ngược lại sự khen ngợi pháp xa lìa lời nói hư dối, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa lời nói hư dối; tự xa lìa lời nói thô ác, cũng khuyên người xa lìa lời nói thô ác, không làm ngược lại sự khen ngợi pháp xa lìa lời nói thô ác, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa lời nói thô ác; tự xa lìa lời nói ly gián, cũng khuyên người xa lìa lời nói ly gián, không làm ngược lại sự khen ngợi pháp xa lìa lời nói ly gián, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa lời nói ly gián; tự xa lìa lời nói hỗn tạp, cũng khuyên người xa lìa lời nói hỗn tạp, không làm ngược lại sự khen ngợi pháp xa lìa lời nói hỗn tạp, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa lời nói hỗn tạp; tự xa lìa tham dục, cũng khuyên người xa lìa tham dục, không làm ngược lại sự khen ngợi pháp xa lìa tham dục, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa tham dục; tự xa lìa sân hận, cũng khuyên người xa lìa sân hận, không làm ngược lại sự khen ngợi pháp xa lìa sân hận, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa sân hận; tự xa lìa tà kiến, cũng khuyên người xa lìa tà kiến, không làm ngược lại sự khen ngợi pháp xa lìa tà kiến, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa tà kiến; Đại Bồ-tát ấy đem căn lành đã sinh do tịnh giới này, chẳng cầu sinh vào ba cõi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, chẳng cầu các bậc Thanh văn, Độc giác, chỉ đem căn lành của tịnh giới như thế ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện; trong khi hồi hướng quả Đại Bồ-đề như thế nên xa lìa ba tâm, đó là tâm suy nghĩ ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu; ba tâm như thế vĩnh viễn chẳng khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả Tịnh giới ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả An nhẫn ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa, khởi pháp nhẫn tùy thuận, có được pháp nhẫn này rồi thường suy nghĩ: Trong tất cả pháp, không có một pháp nào hoặc dấy lên hoặc dứt sạch, hoặc sinh hoặc diệt, hoặc già hoặc bệnh, hoặc có người mắng, hoặc có người bị mắng; hoặc có người phỉ báng, hoặc có người bị phỉ báng; hoặc có người cắt, hoặc có người bị cắt; hoặc có người xẻo, hoặc có người bị xẻo; hoặc có người đâm, hoặc có người bị đâm; hoặc có người phá, hoặc có người bị phá; hoặc có người trói, hoặc có người bị trói; hoặc có người đánh, hoặc có người bị đánh; hoặc có người bức hại, hoặc có người bị bức hại; hoặc có người giết, hoặc có người bị giết; như vậy là tất cả tánh tướng nơi các pháp ấy đều không, chẳng nên ở trong đó mà vọng tưởng phân biệt; Đại Bồ-tát ấy từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa nơi tòa Bồ-đề nhiệm mầu, trong khoảng thời gian đó, giả sử tất cả các loài hữu tình đều đến chê bai, trách mắng, lăng nhục, dùng các thứ dao, gậy, gạch ngói, đất đá... đánh ném, làm hại, cắt xẻo đâm róc cho đến chặt đứt cả tứ chi trên thân, khi ấy Bồtát tâm không biến đổi, chỉ nghĩ thế này: “Thật là điều lạ lùng! Trong tánh của các pháp hoàn toàn không có các việc chê bai, trách mắng, lăng nhục, gia hại... các hữu tình vì vọng tưởng phân biệt nên cho là thật có mà phát khởi các thứ phiền não, nghiệp ác, hiện tại, tương lai sẽ phải gánh chịu các thứ khổ não.” Đại Bồ-tát ấy lại đem căn lành của sự an nhẫn như thế ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khi hồi hướng quả vị Đại Bồ-đề như thế, xa lìa ba tâm, đó là tâm suy lường ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu; ba tâm như thế đều vĩnh viễn chẳng khởi”, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa lại gồm thâu, phát huy cả An nhẫn ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Tinh tấn ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa, luôn dũng mãnh tinh tấn vì các hữu tình tuyên thuyết chánh pháp, thân tâm không hề biết mỏi mệt; Đại Bồ-tát ấy an trú nơi bốn thần túc, dùng phương tiện thiện xảo, thân tâm tinh tấn, thường không biếng trễ, ngừng nghỉ, có thể đi đến một thế giới, mười thế giới, trăm thế giới, ngàn thế giới, trăm ngàn thế giới, trăm ngàn ức triệu thế giới của các hữu tình, tuyên thuyết giảng chánh pháp, phương tiện chỉ dạy, dẫn dắt, khiến an trú nơi Bố thí ba-la-mật-đa, phương tiện chỉ dạy dẫn dắt, khiến an trú nơi Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi pháp không bên trong, phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi chân như, phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi Thánh đế khổ, phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi bốn Tĩnh lự, phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi tám Giải thoát, phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi bốn Niệm trụ, phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi pháp môn giải thoát Không, phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi năm loại mắt, phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi sáu phép thần thông; phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi mười lực của Phật, phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi pháp không quên mất, phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi tánh luôn luôn xả; phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi trí Nhất thiết, phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi tất cả pháp môn Đà-la-ni, phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi tất cả pháp môn Tam-ma-địa; phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi quả Dự lưu, phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi quả vị Độc giác; phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi tất cả hạnh Đại Bồ-tát; phương tiện chỉ dạy dẫn dắt khiến an trú nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; tuy khiến an trú nơi các thứ công đức như đã nêu nhưng chẳng khiến họ chấp trước vào sự an trú nơi cảnh giới hữu vi hoặc vô vi; Đại Bồ-tát ấy lại đem căn lành của sự tinh tấn như thế ban cho các hữu tình đều có như nhau, cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khi hồi hướng quả vị Đại Bồ-đề như thế, xa lìa ba tâm, đó là tâm suy lường ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu; ba tâm như thế đều vĩnh viễn chẳng khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Tinh tấn ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Tĩnh lự ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa, trừ Tam-ma-địa của Phật, đối với các Tam-ma-địa khác, hoặc Tam-ma-địa của các bậc Thanh văn, Độc giác, hoặc Tam-mađịa của Bồ-tát đều được tự tại, tùy ý nhập xuất; Đại Bồ-tát ấy an trú tự tại trong Tam-ma-địa, đối với tám Giải thoát đều có thể tự tại vào ra theo chiều thuận nghịch. Những gì là tám? Đó là: Có sắc, quán các sắc, là giải thoát bước đầu; trong không có sắc tưởng, quán các sắc bên ngoài, là giải thoát thứ hai; thân tác chứng giải thoát thù thắng thanh tịnh là giải thoát thứ ba; vượt tất cả sắc tưởng, diệt tưởng hữu đối, chẳng tư duy về các loại tưởng, nhập định Không vô biên, Không vô biên xứ, nhập định Vô biên thức, Thức vô biên xứ, an trú trọn vẹn, là giải thoát thứ năm; vượt tất cả định Thức vô biên xứ, nhập định Vô thiểu sở hữu, Vô sở hữu xứ, an trú trọn vẹn, là giải thoát thứ sáu; vượt tất cả định Vô sở hữu xứ, nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trú trọn vẹn, là giải thoát thứ bảy; vượt tất cả định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập định Diệt tưởng thọ, an trú trọn vẹn, là giải thoát thứ tám; Đại Bồ-tát ấy có khả năng đối với tám Giải thoát như thế, hoặc thuận hoặc nghịch, ra vào tự tại; lại có khả năng đối với chín Định thứ đệ ấy, tự tại tùy ý nhập xuất theo chiều thuận nghịch. Những gì là chín? Đó là: Lìa pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ lìa mọi hỷ lạc, nhập Sơ thiền, an trú trọn vẹn là Định thứ đệ thứ nhất; tầm tứ tịch tĩnh, an trú trong tánh chuyên nhất của tâm bình đẳng thanh tịnh, không tầm, không tứ, định sinh hỷ lạc, nhập đệ Nhị thiền, an trú trọn vẹn là Định thứ đệ thứ hai; lìa hỷ, trụ xả, đầy đủ niệm chánh tri, toàn thân thọ lạc, bậc Thánh ở trong đó có thể nêu bày, buông xả, an trú đầy đủ nơi niệm an lạc, nhập đệ Tam thiền, an trú trọn vẹn, là Định thứ đệ thứ ba; dứt vui, dứt khổ, mừng lo đều mất, chẳng khổ chẳng vui, xả niệm thanh tịnh, nhập đệ Tứ thiền, an trú trọn vẹn là Định thứ đệ thứ tư; vượt tất cả sắc tưởng, diệt tưởng hữu đối, chẳng tư duy về các loại tưởng, nhập định Không vô biên, Không vô biên xứ, an trú trọn vẹn là Định thứ đệ thứ năm; vượt tất cả định Không vô biên xứ, nhập định Vô biên thức, Thức vô biên xứ, an trú trọn vẹn, là Định thứ đệ thứ sáu; vượt tất cả định Thức vô biên xứ, nhập định Vô thiểu sở hữu, Vô sở hữu xứ, an trú trọn vẹn là Định thứ đệ thứ bảy; vượt tất cả định Vô sở hữu xứ, nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trú trọn vẹn là Định thứ đệ thứ tám; vượt tất cả định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập định Diệt tưởng thọ, an trú trọn vẹn, là Định thứ đệ thứ chín. Đại Bồ-tát ấy có khả năng đối với chín Định thứ đệ như thế, hoặc thuận hoặc nghịch, nhập xuất tự tại. Thiện Hiện nên biết, Đại Bồ-tát ấy đối với tám Giải thoát, chín Định thứ đệ đã khéo thành tựu trọn vẹn, lại có khả năng nhập Tam-ma-địa Sư tử tần thân của Đại Bồ-tát. Thế nào gọi là Tam-ma-địa Sư tử tần thân của Đại Bồ-tát? Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát lìa pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, lìa mọi hỷ lạc, nhập Sơ thiền, an trú trọn vẹn; tầm tứ tịch tĩnh, an trú trong tánh chuyên nhất của tâm bình đẳng thanh tịnh, không tầm, không tứ, định sinh hỷ lạc, nhập đệ Nhị thiền, an trú trọn vẹn; lìa hỷ trụ xả, đầy đủ niệm chánh tri, toàn thân thọ lạc; bậc Thánh ở trong đó có thể nêu bày, buông xả, an trú đầy đủ niệm an lạc, nhập đệ Tam thiền, an trú trọn vẹn; dứt vui, dứt khổ, mọi mừng lo đều mất, chẳng khổ chẳng vui, xả niệm thanh tịnh, nhập đệ Tứ thiền, an trú trọn vẹn; vượt tất cả sắc tưởng, diệt tưởng hữu đối, chẳng tư duy về các loại tưởng, nhập định Vô biên không, Không vô biên xứ, an trú trọn vẹn; vượt tất cả định Không vô biên xứ, nhập định Vô biên thức, Thức vô biên xứ, an trú trọn vẹn; vượt tất cả định Thức vô biên xứ, nhập định Vô thiểu sở hữu, Vô sở hữu xứ, an trú trọn vẹn; vượt tất cả định Vô sở hữu xứ, nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trú trọn vẹn; vượt tất cả định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập định Diệt tưởng thọ, an trú trọn vẹn; lại từ định Diệt tưởng thọ xuất, nhập lại định Phi tưởng phi phi tưởng xứ xuất, nhập định Vô sở hữu xứ; từ định Vô sở hữu xứ xuất nhập định Thức vô biên xứ, từ định Thức vô biên xứ xuất nhập định Không vô biên xứ; từ định Không vô biên xứ, xuất, nhập đệ Tứ thiền; từ đệ Tứ thiền xuất nhập đệ Tam thiền; từ đệ Nhị thiền xuất nhập Sơ thiền, thì này Thiện Hiện, đó là Tam-ma-địa Sư tử tần thân của Đại Bồ-tát.

Thiện Hiện nên biết, Đại Bồ-tát ấy đối với Tam-ma-địa Sư tử tần thân, đã khéo thành tựu trọn vẹn, lại có khả năng nhập Tam-ma-địa Tập tán của Đại Bồ-tát. Thế nào là Tam-ma-địa Tập tán của Đại Bồ-tát?

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát xa lìa pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, lìa mọi hỷ lạc, nhập Sơ thiền, an trú trọn vẹn; từ Sơ thiền xuất, nhập đệ Nhị thiền, an trú trọn vẹn; từ đệ Nhị thiền xuất nhập đệ Tam thiền, an trú trọn vẹn; từ đệ Tam thiền xuất, nhập đệ Tứ thiền, an trú trọn vẹn; từ đệ Tứ thiền xuất, nhập định Không vô biên xứ, an trú trọn vẹn; từ định Không vô biên xứ xuất, nhập định Thức vô biên xứ, an trú trọn vẹn; từ định Thức vô biên xứ xuất, nhập định Vô sở hữu xứ, an trú trọn vẹn; từ định Vô sở hữu xứ xuất, nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trú trọn vẹn; từ định Phi tưởng phi phi tưởng xứ xuất, nhập định Diệt tưởng thọ, an trú trọn vẹn; từ định Diệt tưởng thọ xuất, nhập Sơ thiền, từ Sơ thiền xuất, nhập định Diệt tưởng thọ; từ định Diệt tưởng thọ xuất, nhập đệ Nhị thiền, từ đệ Nhị thiền xuất, nhập định Diệt tưởng thọ; từ định Diệt tưởng thọ xuất, nhập đệ Tam thiền, từ đệ Tam thiền xuất, nhập định Diệt tưởng thọ; từ định Diệt tưởng thọ xuất, nhập đệ Tứ thiền, từ đệ Tứ thiền xuất, nhập định Diệt tưởng thọ; từ định Diệt tưởng thọ xuất, nhập định Không vô biên xứ, từ định Không vô biên xứ xuất, nhập định Diệt tưởng thọ; từ định Diệt tưởng thọ xuất, nhập định Thức vô biên xứ, từ định Thức vô biên xứ xuất, nhập định Diệt tưởng thọ; từ định Diệt tưởng thọ xuất, nhập định Vô sở hữu xứ, từ định Vô sở hữu xứ xuất, nhập định Diệt tưởng thọ; từ định Diệt tưởng thọ xuất, nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, từ định Phi tưởng phi phi tưởng xứ xuất, nhập định Diệt tưởng thọ; từ định Diệt tưởng thọ xuất, an trú nơi tâm không định; từ tâm không định nhập định Diệt tưởng thọ; từ định Diệt tưởng thọ xuất, an trú nơi tâm không định; từ tâm không định nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ; từ định Phi tưởng phi phi tưởng xứ xuất, an trú nơi tâm không định; từ tâm không định nhập định Vô sở hữu xứ; từ định Vô sở hữu xứ xuất, an trú nơi tâm không định; từ tâm không định nhập định Thức vô biên xứ; từ định Thức vô biên xứ xuất, an trú nơi tâm không định; từ tâm không định nhập định Không vô biên xứ; từ định Thức vô biên xứ xuất, an trú nơi tâm không định; từ tâm không định nhập đệ Tứ thiền; từ đệ Tứ thiền xuất, an trú nơi tâm không định; từ tâm không định nhập đệ Tam thiền; từ đệ Tam thiền xuất, an trú nơi tâm không định; từ tâm không định nhập đệ Nhị thiền; từ đệ Nhị thiền xuất, an trú nơi tâm không định; từ tâm không định nhập Sơ thiền; từ Sơ thiền xuất, an trú nơi tâm không định, thì này Thiện Hiện, đó là Tam-ma-địa Tập tán của Đại Bồtát. Nếu Đại Bồ-tát an trú trong Tam-ma-địa Tập tán, chứng đắc thật tánh bình đẳng của tất cả pháp, lại đem căn lành của sự tu tập tĩnh lự như thế ban cho các hữu tình đều có như nhau cùng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khi hồi hướng quả vị Đại Bồ-đề luôn xa lìa ba tâm, đó là tâm suy lường ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì và hồi hướng về đâu; ba tâm như thế đều vĩnh viễn chẳng khởi, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát an trú nơi Bát-nhã ba-lamật-đa mà gồm thâu, phát huy cả Tĩnh lự ba-lamật-đa như thế, chẳng phải giữ, chẳng phải bỏ.


Trước

[Đầu trang][Mục lục Kinh Đại Bát Nhã]

Tiếp theo


[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]


[Mục lục tổng quát]