SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

HỘI THỨ I

Phẩm 66: KHÔNG TƯỚNG KHÔNG ĐẮC
(QUYỂN 373 - 378)

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.

QUYỂN 373

QUYỂN 374

QUYỂN 375

QUYỂN 376

QUYỂN 377

QUYỂN 378


QUYỂN 373

Phẩm 66: KHÔNG TƯỚNG KHÔNG ĐẮC (1)

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Nếu tất cả pháp đều lấy không tánh làm tự tánh thì Đại Bồ-tát do nhận thức về những nghĩa nào mà vì muốn đem lại lợi lạc cho các hữu tình, nên cầu đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, vì tất cả pháp đều lấy không tánh làm tự tánh, nên Đại Bồ-tát vì muốn đem lại lợi lạc cho các hữu tình mà cầu đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì các loại hữu tình đủ cả đoạn kiến, thường kiến, trụ nơi hữu sở đắc, khó có thể điều phục, lại ngu si điên đảo nên khó có thể giải thoát.

Này Thiện Hiện, người trụ nơi hữu sở đắc, do tưởng chấp có sở đắc nên không đắc, không hiện quán, cũng không có quả vị Giác ngộ cao tột.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, người không có sở đắc thì có đắc, có hiện quán, có quả vị Giác ngộ cao tột chăng?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu không có sở đắc tức là đắc, tức là hiện quán, tức là quả vị Giác ngộ cao tột vì chẳng hủy hoại pháp giới.

Này Thiện Hiện, nếu có ai ở trong không sở đắc mà muốn có sở đắc, muốn được hiện quán, muốn đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì nên biết kẻ ấy là muốn hủy hoại pháp giới.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu không có sở đắc tức là đắc, tức là hiện quán, tức là quả vị Giác ngộ cao tột thì ở trong cái không sở đắc, không có đắc, không có hiện quán, cũng không có quả vị Giác ngộ cao tột, nhưng tại sao lại có sự đắc bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân của Đại Bồ-tát? Tại sao có sự đắc Vô sinh pháp nhẫn của Đại Bồ-tát? Tại sao có sự chứng đắc thần thông sinh từ phước báo? Tại sao có sự đắc Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh từ quả báo? Tại sao có Đại Bồ-tát đắc an trú Như Lai nơi pháp được sinh từ quả báo như thế, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, ở chỗ chư Phật cung kính cúng dường thức ăn uống, y phục, tràng hoa, hương xoa, hương bột, xe cộ, chuỗi anh lạc, cờ phướn, lọng báu phòng xá, đồ nằm, nhạc hay, đèn sáng và đủ các thứ đồ dùng thượng diệu của trời, người; căn lành đạt được cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cùng với vô tận quả vị, lần lượt cho tới sau khi nhập Niếtbàn, Xá-lợi và các đệ tử vẫn còn được cung kính cúng dường đủ thứ, mà diệu lực của căn lành ấy vẫn chưa hết?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, vì tất cả pháp là không có sở đắc nên có sự chứng đắc bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân của Đại Bồ-tát; do đó, có sự đắc thần thông từ phước báu phát sinh, có sự đắc Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa do quả báo phát sinh; do đó có Đại Bồ-tát an trú nơi pháp được sinh từ quả báo như thế, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, ở chỗ các Đức Phật, cung kính cúng dường đồ ăn uống, y phục, tràng hoa, các thứ hương xoa, hương bột, xe cộ, anh lạc, cờ phướn lọng báu, phòng xá, đò nằm, nhạc hay, đèn sáng và các thứ đồ dùng thượng diệu khác của trời, người, cho đến khi đạt được quả vị Giác ngộ cao tột, chỗ căn lành đạt được cùng với vô tận quả báo, lần lượt cho tới sau khi nhập Niết-bàn, Xá-lợi và các đệ tử vẫn còn được cung kính cúng dường đủ thứ mà diệu lực của căn lành vẫn chưa hết.

Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp đều không có sở đắc thì Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và các thần thông có gì sai khác?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đã không sở đắc thì Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa và các thần thông đều không sai khác. Vì muốn khiến cho kẻ có sở đắc kia xa lìa nhiễm, chấp nên dùng phương tiện thuyết giảng về Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa và các thần thông có tướng sai biệt.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, vì nhân duyên gì mà không sở đắc thì Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và các thần thông đều không sai khác?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa chẳng chấp trước sự bố thí, người bố thí, người thọ nhận và vật bố thí mà hành bố thí; chẳng chấp trước tịnh giới mà giữ tịnh giới, chẳng chấp trước an nhẫn mà tu an nhẫn, chẳng chấp trước tinh tấn mà tu tinh tấn; chẳng chấp trước tĩnh lự mà tu tĩnh lự; chẳng chấp trước Bát-nhã mà tu Bát-nhã; chẳng chấp trước thần thông mà tu thần thông; chẳng chấp trước bốn Niệm trụ mà tu bốn Niệm trụ; chẳng chấp trước bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chẳng chấp trước pháp môn giải thoát Không mà tu pháp môn giải thoát Không; chẳng chấp trước pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chẳng chấp trước bốn Tĩnh lự mà tu bốn Tĩnh lự; chẳng chấp trước bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chẳng chấp trước tám Giải thoát mà tu tám Giải thoát; chẳng chấp trước tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chẳng chấp trước tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng chấp trước tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng chấp trước mười địa Bồ-tát mà tu mười địa Bồ-tát; chẳng chấp trước năm loại mắt mà tu năm loại mắt; chẳng chấp trước sáu phép thần thông mà tu sáu phép thần thông; chẳng chấp trước mười lực của Phật mà tu mười lực của Phật; chẳng chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng chấp trước đại Từ mà tu đại Từ; chẳng chấp trước đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; chẳng chấp trước pháp không quên mất mà tu pháp không quên mất; chẳng chấp trước tánh luôn luôn xả mà tu tánh luôn luôn xả; chẳng chấp trước trí Nhất thiết mà tu trí Nhất thiết; chẳng chấp trước trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; chẳng chấp trước hữu tình mà đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình; chẳng chấp trước cõi Phật mà làm nghiêm tịnh cõi Phật; chẳng chấp trước tất cả Phật pháp mà chứng quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa theo nẻo vô sở đắc như thế.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa theo nẻo vô sở đắc như thế thì tất cả ác ma và quyến thuộc của chúng đều chẳng thể phá hoại.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nhất tâm gồm thâu, giữ gìn đầy đủ Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-lani; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, việc hành Bố thí ba-la-mậtđa chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bátnhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn, việc hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn; việc tu bốn Tĩnh lự chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn, việc tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn; việc tu bốn Niệm trụ chẳng lìa Bátnhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn, việc tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn; việc tu pháp môn giải thoát Không chẳng lìa Bátnhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn, việc tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn; việc an trú nơi Thánh đế khổ chẳng lìa Bát-nhã bala-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn, việc an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bátnhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn; việc tu tám Giải thoát chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn, việc tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn; việc tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn, việc tu tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn.

QUYỂN 374

Phẩm 66: KHÔNG TƯỚNG KHÔNG ĐẮC (2)

Việc an trú nơi pháp không bên trong chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mậtđa gồm thâu, giữ gìn, việc an trú nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bátnhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn; việc an trú nơi chân như chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn, việc an trú nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng lìa Bát-nhã ba-lamật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn; việc tu năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn; việc tu mười lực của Phật chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn, việc tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng lìa Bát-nhã bala-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn; việc tu đại Từ chẳng lìa Bát-nhã bala-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn, việc tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-lamật-đa gồm thâu, giữ gìn; việc tu pháp không quên mất chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bátnhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn, việc tu tánh luôn luôn xả chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn; việc tu trí Nhất thiết chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn, việc tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng lìa Bátnhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn; việc tu ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn, việc tu tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc chẳng lìa Bát-nhã bala-mật-đa đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn.

Này Thiện Hiện, như vậy Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, trong khoảng một sátna tâm có thể gồm thâu đầy đủ Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; cũng có thể gồm thâu đầy đủ bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cũng có thể gồm thâu đầy đủ bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; cũng có thể gồm thâu đầy đủ pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; cũng có thể gồm thâu đầy đủ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; cũng có thể gồm thâu đầy đủ tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; cũng có thể gồm thâu đầy đủ tất cả pháp môn Tam-mađịa, tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng có thể gồm thâu đầy đủ pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng có thể gồm thâu đầy đủ chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; cũng có thể gồm thâu đầy đủ năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng có thể gồm thâu đầy đủ mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng có thể gồm thâu đầy đủ đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; cũng có thể gồm thâu đầy đủ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng có thể gồm thâu đầy đủ trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; cũng có thể gồm thâu đầy đủ ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, các việc đã làm chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, thường được Bát-nhã ba-lamật-đa gồm thâu, giữ gìn, nên trong khoảng một sát-na, tâm có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; cũng có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, việc hành Bố thí ba-la-mậtđa vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng, việc hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng; việc tu bốn Tĩnh lự vì được Bát-nhã bala-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng, việc tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc vì được Bátnhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng; việc tu bốn Niệm trụ vì được Bát-nhã ba-lamật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng, việc tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng; việc tu pháp môn giải thoát Không vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng, việc tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng; việc an trú nơi Thánh đế khổ vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng, việc an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo vì được Bát-nhã ba-lamật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng; việc tu tám Giải thoát vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng, việc tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng; việc tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng, việc tu tất cả pháp môn Đà-la-ni vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng; việc an trú nơi pháp không bên trong vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng, việc an trú nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng; việc an trú nơi chân như vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng, việc an trú nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng; việc tu năm loại mắt, sáu phép thần thông vì được Bát-nhã ba-lamật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng; việc tu mười lực của Phật vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng, việc tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng vì được Bát-nhã ba-la-mậtđa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng; việc tu đại Từ vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng, việc tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng; việc tu pháp không quên mất vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng, việc tu tánh luôn luôn xả vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng; việc tu trí Nhất thiết vì được Bátnhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng, việc tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng; việc nêu bày ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng, việc nêu bày tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc vì được Bát-nhã ba-la-mậtđa gồm thâu, giữ gìn nên xa lìa hai tưởng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, tuy hành Bố thí ba-la-mậtđa mà không có hai tưởng, tuy hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà không có hai tưởng; tuy tu bốn Tĩnh lự mà không có hai tưởng, tuy tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà không có hai tưởng; tuy tu bốn Niệm trụ mà không có hai tưởng, tuy tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà không có hai tưởng; tuy tu pháp môn giải thoát Không mà không có hai tưởng, tuy tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mà không có hai tưởng; tuy an trú nơi Thánh đế khổ mà không có hai tưởng, tuy an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo mà không có hai tưởng; tuy tu tám Giải thoát mà không có hai tưởng, tuy tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà không có hai tưởng; tuy tu tất cả pháp môn Tamma-địa mà không có hai tưởng, tuy tu tất cả pháp môn Đà-la-ni mà không có hai tưởng; tuy an trú nơi pháp không bên trong mà không có hai tưởng, tuy an trú nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà không có hai tưởng; tuy an trú nơi chân như mà không có hai tưởng, tuy an trú nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà không có hai tưởng; tuy tu năm loại mắt, sáu phép thần thông mà không có hai tưởng; tuy tu mười lực của Phật mà không có hai tưởng, tuy tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà không có hai tưởng; tuy tu đại Từ mà không có hai tưởng, tuy tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà không có hai tưởng; tuy tu pháp không quên mất mà không có hai tưởng, tuy tu tánh luôn luôn xả mà không có hai tưởng; tuy tu trí Nhất thiết mà không có hai tưởng, tuy tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà không có hai tưởng; tuy nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ mà không có hai tưởng, tuy nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà không có hai tưởng?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn Bố thí bala-mật-đa, nên ngay trong Bố thí ba-la-mật-đa, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà hành bố thí; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà hành bố thí; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà hành bố thí; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà hành bố thí; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà hành bố thí; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà hành bố thí; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà hành bố thí; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà hành bố thí; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà hành bố thí; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà hành bố thí; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà hành bố thí; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà hành bố thí; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà hành bố thí; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà hành bố thí; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà hành bố thí. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa nên ngay trong Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-lamật-đa, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa mà hành Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà hành Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà hành Tịnh giới cho đến Bátnhã ba-la-mật-đa; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà hành Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà hành Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà hành Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà hành Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà hành Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà hành Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà hành Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà hành Tịnh giới cho đến Bátnhã ba-la-mật-đa; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà hành Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà hành Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà hành Tịnh giới cho đến Bát-nhã bala-mật-đa; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà hành Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Do nhân duyên ấy, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn bốn Tĩnh lự nên ngay trong bốn Tĩnh lự, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu bốn Tĩnh lự; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu bốn Tĩnh lự; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu bốn Tĩnh lự; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu bốn Tĩnh lự; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu bốn Tĩnh lự; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu bốn Tĩnh lự; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu bốn Tĩnh lự; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu bốn Tĩnh lự; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu bốn Tĩnh lự; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu bốn Tĩnh lự; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu bốn Tĩnh lự; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu bốn Tĩnh lự; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu bốn Tĩnh lự; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu bốn Tĩnh lự; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu bốn Tĩnh lự. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc nên ngay trong bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn bốn Niệm trụ nên ngay trong bốn Niệm trụ, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu bốn Niệm trụ; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu bốn Niệm trụ; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu bốn Niệm trụ; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu bốn Niệm trụ; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu bốn Niệm trụ; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu bốn Niệm trụ; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu bốn Niệm trụ; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu bốn Niệm trụ; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu bốn Niệm trụ; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu bốn Niệm trụ; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu bốn Niệm trụ; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu bốn Niệm trụ; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu bốn Niệm trụ; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu bốn Niệm trụ; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu bốn Niệm trụ. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo nên ngay trong bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn pháp môn giải thoát Không nên ngay trong pháp môn giải thoát Không, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa mà tu pháp môn giải thoát Không; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu pháp môn giải thoát Không; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu pháp môn giải thoát Không; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu pháp môn giải thoát Không; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu pháp môn giải thoát Không; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu pháp môn giải thoát Không; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu pháp môn giải thoát Không; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu pháp môn giải thoát Không; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu pháp môn giải thoát Không; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu pháp môn giải thoát Không; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu pháp môn giải thoát Không; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu pháp môn giải thoát Không; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu pháp môn giải thoát Không; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu pháp môn giải thoát Không; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu pháp môn giải thoát Không. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện nên ngay trong pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn Thánh đế khổ nên ngay trong Thánh đế khổ, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà an trú nơi Thánh đế khổ; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà an trú nơi Thánh đế khổ; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà an trú nơi Thánh đế khổ; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà an trú nơi Thánh đế khổ; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà an trú nơi Thánh đế khổ; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà an trú nơi Thánh đế khổ; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà an trú nơi Thánh đế khổ; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà an trú nơi Thánh đế khổ; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà an trú nơi Thánh đế khổ; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà an trú nơi Thánh đế khổ; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà an trú nơi Thánh đế khổ; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà an trú nơi Thánh đế khổ; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà an trú nơi Thánh đế khổ; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà an trú nơi Thánh đế khổ; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà an trú nơi Thánh đế khổ. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn Thánh đế tập, diệt, đạo nên ngay trong Thánh đế tập, diệt, đạo, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn tám Giải thoát nên ngay trong tám Giải thoát, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu tám Giải thoát; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu tám Giải thoát; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu tám Giải thoát; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu tám Giải thoát; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu tám Giải thoát; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu tám Giải thoát; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu tám Giải thoát; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu tám Giải thoát; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu tám Giải thoát; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu tám Giải thoát; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu tám Giải thoát; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu tám Giải thoát; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu tám Giải thoát; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu tám Giải thoát; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu tám Giải thoát. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ nên ngay trong tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn tất cả pháp môn Tam-ma-địa nên ngay trong tất cả pháp môn Tam-ma-địa, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu tất cả pháp môn Tamma-địa; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu tất cả pháp môn Tamma-địa; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu tất cả pháp môn Tamma-địa; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

QUYỂN 375

Phẩm 66: KHÔNG TƯỚNG KHÔNG ĐẮC (3)

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn tất cả pháp môn Đà-la-ni nên ngay trong tất cả pháp môn Đà-la-ni, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu tất cả pháp môn Đàla-ni; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu tất cả pháp môn Đàla-ni; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn pháp không bên trong nên ngay trong pháp không bên trong, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà an trú nơi pháp không bên trong; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà an trú nơi pháp không bên trong; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà an trú nơi pháp không bên trong; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà an trú nơi pháp không bên trong; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà an trú nơi pháp không bên trong; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà an trú nơi pháp không bên trong; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà an trú nơi pháp không bên trong; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà an trú nơi pháp không bên trong; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà an trú nơi pháp không bên trong; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà an trú nơi pháp không bên trong; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà an trú nơi pháp không bên trong; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà an trú nơi pháp không bên trong; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà an trú nơi pháp không bên trong; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà an trú nơi pháp không bên trong; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà an trú nơi pháp không bên trong. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nên ngay trong pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-mađịa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn chân như nên ngay trong chân như, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa mà an trú nơi chân như; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà an trú nơi chân như; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà an trú nơi chân như; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà an trú nơi chân như; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà an trú nơi chân như; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà an trú nơi chân như; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà an trú nơi chân như; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà an trú nơi chân như; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà an trú nơi chân như; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà an trú nơi chân như; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà an trú nơi chân như; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà an trú nơi chân như; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà an trú nơi chân như; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà an trú nơi chân như; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà an trú nơi chân như.

Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn nên ngay trong pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn năm loại mắt nên ngay trong năm loại mắt, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu năm loại mắt; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu năm loại mắt; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu năm loại mắt; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu năm loại mắt; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu năm loại mắt; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu năm loại mắt; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tamma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu năm loại mắt; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu năm loại mắt; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu năm loại mắt; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu năm loại mắt; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu năm loại mắt; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu năm loại mắt; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu năm loại mắt; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu năm loại mắt; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu năm loại mắt. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn sáu phép thần thông nên ngay trong sáu phép thần thông, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu sáu phép thần thông; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu sáu phép thần thông; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu sáu phép thần thông; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu sáu phép thần thông; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu sáu phép thần thông; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu sáu phép thần thông; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu sáu phép thần thông; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu sáu phép thần thông; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu sáu phép thần thông; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu sáu phép thần thông; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu sáu phép thần thông; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu sáu phép thần thông; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu sáu phép thần thông; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu sáu phép thần thông; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu sáu phép thần thông.

Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn mười lực của Phật nên ngay trong mười lực của Phật, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu mười lực của Phật; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu mười lực của Phật; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu mười lực của Phật; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu mười lực của Phật; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu mười lực của Phật; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu mười lực của Phật; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tamma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu mười lực của Phật; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu mười lực của Phật; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu mười lực của Phật; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu mười lực của Phật; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu mười lực của Phật; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu mười lực của Phật; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu mười lực của Phật; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu mười lực của Phật; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu mười lực của Phật.

Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng nên ngay trong bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn đại Từ nên ngay trong đại Từ, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu đại Từ; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu đại Từ; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu đại Từ; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu đại Từ; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu đại Từ; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu đại Từ; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu đại Từ; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu đại Từ; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu đại Từ; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu đại Từ; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu đại Từ; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu đại Từ; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu đại Từ; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu đại Từ; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu đại Từ. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn đại Bi, đại Hỷ, đại Xả nên ngay trong đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn pháp không quên mất nên ngay trong pháp không quên mất, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu pháp không quên mất; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu pháp không quên mất; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu pháp không quên mất; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu pháp không quên mất; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu pháp không quên mất; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu pháp không quên mất; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu pháp không quên mất; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu pháp không quên mất; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu pháp không quên mất; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu pháp không quên mất; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu pháp không quên mất; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu pháp không quên mất; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu pháp không quên mất; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu pháp không quên mất; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu pháp không quên mất. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn tánh luôn luôn xả nên ngay trong tánh luôn luôn xả, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu tánh luôn luôn xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu tánh luôn luôn xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu tánh luôn luôn xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu tánh luôn luôn xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu tánh luôn luôn xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu tánh luôn luôn xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu tánh luôn luôn xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu tánh luôn luôn xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu tánh luôn luôn xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu tánh luôn luôn xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu tánh luôn luôn xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu tánh luôn luôn xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu tánh luôn luôn xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu tánh luôn luôn xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu tánh luôn luôn xả. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn trí Nhất thiết nên ngay trong trí Nhất thiết, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu trí Nhất thiết; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu trí Nhất thiết; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu trí Nhất thiết; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu trí Nhất thiết; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu trí Nhất thiết; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu trí Nhất thiết; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tamma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu trí Nhất thiết; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu trí Nhất thiết; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu trí Nhất thiết; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu trí Nhất thiết; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu trí Nhất thiết; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu trí Nhất thiết; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu trí Nhất thiết; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu trí Nhất thiết; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu trí Nhất thiết. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng nên ngay trong trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ nên ngay trong ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát- nhã ba-la-mật-đa, vì muốn làm viên mãn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc nên ngay trong tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, gồm thâu, giữ gìn tất cả Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; gồm thâu, giữ gìn tất cả tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; gồm thâu, giữ gìn tất cả đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; gồm thâu, giữ gìn tất cả ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Lại nữa Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên khi hành Bố thí ba-lamật-đa thì an trú nơi tâm vô lậu mà hành Bố thí bala-mật-đa; hoặc khi hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa thì an trú nơi tâm vô lậu mà hành Tịnh giới cho đến Bát-nhã bala-mật-đa. Vì vậy, tuy hành Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên khi tu bốn Tĩnh lự thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu bốn Tĩnh lự; hoặc khi tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Vì vậy, tuy tu bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc nhưng không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên khi tu bốn Niệm trụ thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu bốn Niệm trụ; hoặc khi tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Vì vậy, tuy tu bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo nhưng không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên khi tu pháp môn giải thoát Không thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu pháp môn giải thoát Không; hoặc khi tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Vì vậy, tuy tu pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện nhưng không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên khi an trú nơi Thánh đế khổ thì an trú ở tâm vô lậu mà an trú nơi Thánh đế khổ; hoặc khi an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo thì an trú ở tâm vô lậu mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì vậy, tuy an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo nhưng không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên khi tu tám Giải thoát thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu tám Giải thoát; hoặc khi tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Vì vậy, tuy tu tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ nhưng không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên khi tu tất cả pháp môn Tam-mađịa thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc khi tu tất cả pháp môn Đà-la-ni thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu tất cả pháp môn Đàla-ni. Vì vậy, tuy tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni nhưng không có hai tưởng.

QUYỂN 376

Phẩm 66: KHÔNG TƯỚNG KHÔNG ĐẮC (4)

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên khi an trú nơi pháp không bên trong thì an trú ở tâm vô lậu mà an trú nơi pháp không bên trong; hoặc khi an trú nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thì an trú ở tâm vô lậu mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh. Vì vậy, tuy an trú nơi pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh nhưng không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên khi an trú nơi chân như thì an trú ở tâm vô lậu mà an trú nơi chân như; hoặc khi an trú nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thì an trú ở tâm vô lậu mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì vậy, tuy an trú nơi chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn nhưng không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên khi tu năm loại mắt thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu năm loại mắt; hoặc khi tu sáu phép thần thông thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu sáu phép thần thông. Vì vậy, tuy tu năm loại mắt, sáu phép thần thông nhưng không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, nên khi tu mười lực của Phật thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu mười lực của Phật; hoặc khi tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì vậy, tuy tu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng nhưng không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên khi tu đại Từ thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu đại Từ; hoặc khi tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả. Vì vậy, tuy tu đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả nhưng không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên khi tu pháp không quên mất thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu pháp không quên mất; hoặc khi tu tánh luôn luôn xả thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu tánh luôn luôn xả. Vì vậy, tuy tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả nhưng không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên khi tu trí Nhất thiết thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu trí Nhất thiết; hoặc khi tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì vậy, tuy tu trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng nhưng không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên khi nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ thì an trú nơi tâm vô lậu mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; hoặc khi nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc thì an trú nơi tâm vô lậu mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc. Vì vậy, tuy nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc nhưng không có hai tưởng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát vì tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên khi hành Bố thí ba-lamật-đa thì an trú nơi tâm vô lậu mà hành Bố thí bala-mật-đa; khi hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa thì an trú nơi tâm vô lậu mà hành Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mậtđa?

Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát vì tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên khi tu bốn Niệm trụ thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu bốn Niệm trụ; khi tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo?

Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát vì tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên khi tu pháp môn giải thoát Không thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu pháp môn giải thoát Không; khi tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện?

Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát vì tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên khi an trú nơi Thánh đế khổ thì an trú ở tâm vô lậu mà an trú nơi Thánh đế khổ; khi an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo thì an trú ở tâm vô lậu mà an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo?

Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát vì tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên khi tu tám Giải thoát thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu tám Giải thoát; khi tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ?

Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát vì tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên khi tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; khi tu tất cả pháp môn Đàla-ni thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni?

Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát vì tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên khi an trú nơi pháp không bên trong thì an trú ở tâm vô lậu mà an trú nơi pháp không bên trong; khi an trú nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thì an trú ở tâm vô lậu mà an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh?

Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát vì tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên khi an trú nơi chân như thì an trú ở tâm vô lậu mà an trú nơi chân như; khi an trú nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thì an trú ở tâm vô lậu mà an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn?

Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát vì tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên khi tu năm loại mắt thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu năm loại mắt; khi tu sáu phép thần thông thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu sáu phép thần thông?

Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát vì tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên khi tu mười lực của Phật thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu mười lực của Phật; khi tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng?

Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát vì tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên khi tu đại Từ thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu đại Từ; khi tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu đại Bi, đại Hỷ, đại Xả?

Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát vì tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên khi tu pháp không quên mất thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu pháp không quên mất; khi tu tánh luôn luôn xả thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu tánh luôn luôn xả?

Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát vì tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên khi tu trí Nhất thiết thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu trí Nhất thiết; khi tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng thì an trú nơi tâm vô lậu mà tu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng?

Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát vì tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên khi nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ thì an trú nơi tâm vô lậu mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; khi nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc thì an trú nơi tâm vô lậu mà nêu dẫn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng mà tu Bố thí ba-la-mật-đa, nghĩa là chẳng thấy ta có thể hành bố thí, ta có thể xả việc này, đối với việc này mà hành bố thí, do việc này mà bố thí, vì việc này mà bố thí, thì hành bố thí như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng lìa ái, lìa tham lam mà hành Bố thí ba-la-mật-đa; khi ấy chẳng thấy đối tượng hành là việc bố thí, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồtát an trú nơi tâm vô lậu mà hành Bố thí ba-la-mậtđa.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng mà tu hành Tịnh giới ba-la-mật-đa, nghĩa là chẳng thấy ta có thể trì giới, ta có thể xả việc này, đối với việc này mà trì giới, do việc này mà trì giới, vì việc này mà trì giới, thì trì giới như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà hành Tịnh giới ba-la-mật-đa; khi ấy chẳng thấy đối tượng hành là tịnh giới, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồ-tát an trú nơi tâm vô lậu mà hành Tịnh giới ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng mà tu hành An nhẫn ba-la-mật-đa, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu nhẫn, ta có thể xả việc này, đối với việc này mà tu nhẫn, do việc này mà tu nhẫn, vì việc này mà tu nhẫn, thì tu nhẫn như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà hành An nhẫn ba-la-mật-đa; khi ấy chẳng thấy đối tượng hành là an nhẫn, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồ-tát an trú nơi tâm vô lậu mà hành An nhẫn ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng mà tu hành Tinh tấn ba-la-mật-đa, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tinh tấn, ta có thể xả việc này, đối với việc này mà tinh tấn, do việc này mà tinh tấn, vì việc này mà tinh tấn, thì tinh tấn như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà hành Tinh tấn ba-la-mật-đa; khi ấy chẳng thấy đối tượng hành là tinh tấn, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồ-tát an trú nơi tâm vô lậu mà hành Tinh tấn ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng mà tu hành Tĩnh lự ba-la-mật-đa, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu định, ta có thể xả việc này, đối với việc này mà tu định, do việc này mà tu định, vì việc này mà tu định, thì tu định như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu Tĩnh lự ba-la-mật-đa; khi ấy chẳng thấy sự tu hành tĩnh lự, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồ-tát an trú nơi tâm vô lậu mà hành Tĩnh lự bala-mật-đa.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu tuệ, ta có thể xả việc này, đối với việc này mà tu tuệ, do việc này mà tu tuệ, vì việc này mà tu tuệ, thì tu tuệ như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; khi ấy chẳng thấy việc hành Bát-nhã, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồtát an trú nơi tâm vô lậu mà hành Bát-nhã ba-lamật-đa.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng, tu hành bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này mà tu bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; khi ấy chẳng thấy việc tu hành bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồ-tát an trú nơi tâm vô lậu mà tu bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng, tu hành bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này mà tu bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; khi ấy chẳng thấy việc tu hành bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồ-tát an trú nơi tâm vô lậu mà tu bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng, tu hành pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này mà tu pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; khi ấy chẳng thấy đối tượng tu là pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồ-tát an trú nơi tâm vô lậu mà tu pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng, an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này mà an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, như thế là an trú ở tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; khi ấy chẳng thấy đối tượng được an trú là Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồ-tát an trú ở tâm vô lậu mà an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng, tu tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này mà tu tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; khi ấy chẳng thấy đối tượng tu là tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồ-tát an trú nơi tâm vô lậu mà tu tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu tất cả pháp môn Tam-mađịa, pháp môn Đà-la-ni, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni, như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu tất cả pháp môn Tamma-địa, pháp môn Đà-la-ni; khi ấy chẳng thấy đối tượng tu là tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồtát an trú nơi tâm vô lậu mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng, an trú nơi pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trú nơi pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này mà an trú nơi pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh, như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà an trú nơi pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh; khi ấy chẳng thấy đối tượng được an trú là pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồ-tát an trú ở tâm vô lậu mà an trú nơi pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng, an trú nơi chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trú nơi chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này mà an trú nơi chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà an trú nơi chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; khi ấy chẳng thấy đối tượng được an trú là chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồ-tát an trú ở tâm vô lậu mà an trú nơi chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng tu năm loại mắt, sáu phép thần thông, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu năm loại mắt, sáu phép thần thông, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này mà tu năm loại mắt, sáu phép thần thông, như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu năm loại mắt, sáu phép thần thông; khi ấy chẳng thấy đối tượng tu là năm loại mắt, sáu phép thần thông, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồ-tát an trú nơi tâm vô lậu mà tu năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng tu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này mà tu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; khi ấy chẳng thấy đối tượng tu là mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồ-tát an trú nơi tâm vô lậu mà tu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng tu đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này mà tu đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; khi ấy chẳng thấy đối tượng tu là đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồ-tát an trú nơi tâm vô lậu mà tu đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này mà tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; khi ấy chẳng thấy đối tượng tu là pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồ-tát an trú nơi tâm vô lậu mà tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng tu trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này mà tu trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; khi ấy chẳng thấy đối tượng tu là trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồ-tát an trú nơi tâm vô lậu mà tu trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng tâm lìa tướng, nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, nghĩa là chẳng thấy ta có thể nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, như thế là an trú nơi tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; khi ấy chẳng thấy đối tượng được nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là Đại Bồtát an trú nơi tâm vô lậu mà tu nêu dẫn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa ở trong tất cả các pháp không tướng, không giác, không đắc, không ảnh, không tác, làm sao có thể làm viên mãn Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa? Làm sao có thể làm viên mãn bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo? Làm sao có thể làm viên mãn pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện? Làm sao có thể làm viên mãn pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh? Làm sao có thể làm viên mãn chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn? Làm sao có thể làm viên mãn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo? Làm sao có thể làm viên mãn bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc? Làm sao có thể làm viên mãn tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ? Làm sao có thể làm viên mãn tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni? Làm sao có thể làm viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông? Làm sao có thể làm viên mãn mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng? Làm sao có thể làm viên mãn đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả? Làm sao có thể làm viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả? Làm sao có thể làm viên mãn trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng? Làm sao có thể làm viên mãn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát- nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể dùng tâm vô lậu lìa tướng mà hành bố thí: Nếu các hữu tình cần ăn thì cho ăn, cần uống cho uống, cần y phục cho y phục, cần đồ nằm cho đồ nằm, cần xe cộ cho xe cộ, cần tôi tớ cho tôi tớ, cần châu báu cho châu báu, cần của cải lúa gạo cho của cải lúa gạo, cần hương hoa cho hương hoa, cần nhà đất cho nhà đất, cần đồ trang sức cho đồ trang sức, cho đến tùy theo nhu cầu của họ về đồ dùng thảy đều cho hết; hoặc có người cần cái thuộc nơi thân như đầu, mắt, tủy não, da thịt, lóng đốt, gân, cốt, thân mạng, cũng đều cho hết; hoặc có người cần vật bên ngoài thân như là quốc gia, thành ấp, vợ con, quyến thuộc thân yêu, các đồ trang sức, cũng hoan hỷ cho hết. Trong khi bố thí như thế, giả sử có người đến trước chê trách rằng: “Này Đại sĩ, cần gì làm việc bố thí vô ích ấy. Bố thí như thế thì đời này đời sau đều bọ nhiều khổ đau.” Đại Bồ-tát ấy vì tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa, nên tuy nghe lời đó cũng chẳng thoái chuyển, chỉ nghĩ thế này: “Người ấy tuy đến chê trách ta nhưng ta chẳng nên sinh tâm lo buồn, hối hận. Ta sẽ dũng mãnh bố thí cho các hữu tình những tài vật mà họ cần, thân tâm không hề biết mệt mỏi.” Đại Bồ-tát ấy đem phước của sự bố thí này ban cho các hữu tình cùng có như nhau và hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột. Khi bố thí và hồi hướng như thế, chẳng thấy tướng ấy, nghĩa là chẳng thấy ai cho, ai nhận, bố thí vật gì, đối với cái gì mà thí, do cái gì mà thí, vì cái gì mà thí, vì sao mà thí; cũng lại chẳng thấy ai là chủ thể hồi hướng, hồi hướng về đâu, đối với cái gì mà hồi hướng, do cái gì mà hồi hướng, vì cái gì mà hồi hướng, tại sao hồi hướng; đối với tất cả sự vật như thế đều chẳng thấy. Vì sao? Vì các pháp như thế, hoặc do pháp không bên trong nên không, hoặc do pháp không bên ngoài nên không, hoặc do pháp không cả trong ngoài nên không, hoặc do pháp không không nên không, hoặc do pháp không lớn nên không, hoặc do pháp không thắng nghĩa nên không, hoặc do pháp không hữu vi nên không, hoặc do pháp không vô vi nên không, hoặc do pháp không rốt ráo nên không, hoặc do pháp không không biên giới nên không, hoặc do pháp không tản mạn nên không, hoặc do pháp không không đổi khác nên không, hoặc do pháp không bản tánh nên không, hoặc do pháp không tự tướng nên không, hoặc do pháp không cộng tướng nên không, hoặc do pháp không nơi tất cả pháp nên không, hoặc do pháp không chẳng thể nắm bắt được nên không, hoặc do pháp không không tánh nên không, hoặc do pháp không tự tánh nên không, hoặc do pháp không không tánh tự tánh nên không.

Đại Bồ-tát ấy quán tất cả pháp đều không rồi, lại nghĩ thế này: “Ai là chủ thể hồi hướng, hồi hướng về đâu, đối với cái gì mà hồi hướng, do cái gì mà hồi hướng, vì cái gì mà hồi hướng, tại sao hồi hướng? Tất cả pháp như thế đều chẳng thể nắm bắt được.” Đại Bồ-tát ấy do quán như thế và nghĩ như thế, nên việc hồi hướng đó gọi là thiện hồi hướng, lìa độc hồi hướng, cũng gọi là ngộ nhập pháp giới hồi hướng; do đó lại có thể làm nghiêm tịnh cõi Phật, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, cũng có thể làm viên mãn Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa; cũng có thể làm viên mãn bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; cũng có thể làm viên mãn pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; cũng có thể làm viên mãn pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng có thể làm viên mãn chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; cũng có thể làm viên mãn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; cũng có thể làm viên mãn bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cũng có thể làm viên mãn tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; cũng có thể làm viên mãn tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng có thể làm viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng có thể làm viên mãn mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng có thể làm viên mãn đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; cũng có thể làm viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng có thể làm viên mãn trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; cũng có thể làm viên mãn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc.

Đại Bồ-tát ấy tuy có thể làm viên mãn Bố thí ba-la-mật-đa như thế, nhưng chẳng gồm thâu, giữ gìn quả từ phước báo của việc bố thí; xa lìa sự chẳng gồm thâu, giữ gìn quả từ phước báo của việc bố thí, nhưng do khéo làm thanh tịnh Bố thí ba-lamật-đa, nên tùy ý có thể có đầy đủ tất cả tài vật. Thí như chư Thiên cõi Tha hóa tự tại, tất cả vật dụng theo nhu cầu đều tùy ý hiện ra; Đại Bồ-tát ấy cũng như thế, có nhu cầu về vật gì đều tùy ý có đủ. Do diệu lực từ sự bố thí này luôn tăng trưởng, nên có thể dùng đủ các thứ đồ cúng thượng diệu, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn; cũng có thể có đầy đủ đồ dùng theo ý muốn của Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian. Đại Bồ-tát ấy, do Bố thí ba-la-mật-đa này, nhiếp phục các hữu tình, dùng phương tiện thiện xảo theo pháp của ba thừa mà an lập, khiến họ tùy theo căn cơ mà được lợi lạc.

Này Thiện Hiện, như vậy Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, do diệu lực của tâm vô lậu lìa các tướng mà có thể ở trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không ảnh, không tác, làm viên mãn Bố thí ba-la-mật-đa, cũng có thể làm viên mãn các công đức khác.

Lại nữa Thiện Hiện, làm sao Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể ở trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không ảnh, không tác, làm viên mãn Tịnh giới bala-mật-đa?

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể dùng tâm vô lậu lìa tướng để thọ trì tịnh giới, đó là pháp như nhiên được thu giữ của chi Thánh đạo vô lậu, là chỗ đạt được của giới thanh tịnh trọn vẹn; tịnh giới như thế, không thiếu sót, không gián đoạn, không tỳ vết, không ô uế, không có sự chấp giữ xứng đáng nhận cúng dường; được người trí khen ngợi là thọ trì khéo léo, rốt ráo viên mãn, thuận theo định thù thắng, chẳng thể khuất phục; do tịnh giới này nên đối với tất cả pháp không có sự chấp giữ nghĩa là chẳng chấp giữ nơi sắc, cũng chẳng chấp giữ nơi thọ, tưởng, hành, thức; chẳng chấp giữ nơi nhãn xứ, cũng chẳng chấp giữ nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng chấp giữ nơi sắc xứ, cũng chẳng chấp giữ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng chấp giữ nơi nhãn giới, cũng chẳng chấp giữ nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng chấp giữ nơi sắc giới, cũng chẳng chấp giữ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng chấp giữ nơi nhãn thức giới, cũng chẳng chấp giữ nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng chấp giữ nơi ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, cũng chẳng chấp giữ nơi tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; chẳng chấp giữ nơi dòng dõi lớn Sát-đế-lợi, cũng chẳng chấp giữ nơi dòng dõi lớn Bà-la-môn, dòng dõi lớn Trưởng giả, dòng dõi lớn Cư sĩ; chẳng chấp giữ nơi chúng trời Tứ đại vương, cũng chẳng chấp giữ nơi trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổsử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng, cũng chẳng chấp giữ nơi trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm; chẳng chấp giữ nơi trời Quang, cũng chẳng chấp giữ nơi trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh; chẳng chấp giữ nơi trời Tịnh, cũng chẳng chấp giữ nơi trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh; chẳng chấp giữ nơi trời Quảng, cũng chẳng chấp giữ nơi trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả, trời Vô tưởng; chẳng chấp giữ nơi trời Vô phiền, cũng chẳng chấp giữ nơi trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh; chẳng chấp giữ nơi trời Không vô biên xứ, cũng chẳng chấp giữ nơi trời Thức vô biên xứ, trời Vô sở hữu xứ, trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ; chẳng chấp giữ nơi quả Dự lưu, cũng chẳng chấp giữ nơi quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; chẳng chấp giữ nơi ngôi vị Chuyển luân vương, cũng chẳng chấp giữ nơi các ngôi vua khác các bậc đại quan phú quý quyền thế, mà chỉ đem sự giữ gìn tịnh giới như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột; dùng không tướng, không đắc, không hai làm phương tiện mà thực hiện hồi hướng, chẳng phải dùng có tướng, có đắc, có hai làm phương tiện; tùy theo thế tục mà có hồi hướng chứ chẳng phải thắng nghĩa. Do nhân duyên này, tất cả Phật pháp đều được viên mãn. Đại Bồ-tát ấy, do Tịnh giới ba-lamật-đa này được viên mãn thanh tịnh, nên dùng phương tiện thiện xảo phát khởi phần thắng tấn của bốn Tĩnh lự, dùng sự không mê đắm làm phương tiện mà phát khởi các thần thông. Đại Bồ-tát ấy dùng Thiên nhãn thanh tịnh phát sinh từ phước báo tu tập thường thấy chư Phật hiện tại trong vô biên thế giới ở khắp mười phương an ổn hành hóa, vì các hữu tình giảng nói chánh pháp; thấy rồi cho đến khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng không quên mất. Đại Bồ-tát ấy dùng Thiên nhĩ thanh tịnh vượt hẳn người thường, thường nghe chư Phật trong mười phương thuyết pháp; nghe rồi, cho đến khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột cũng chẳng quên mất; theo pháp đã nghe có thể làm các việc lợi lạc cho mình và người, không việc nào là chẳng lợi ích. Đại Bồ-tát ấy dùng trí tha tâm sai biệt để biết tâm và tâm sở pháp của mười phương Phật và các hữu tình; biết rồi, thường phát khởi các việc lợi lạc cho tất cả hữu tình. Đại Bồ-tát ấy dùng trí túc trụ tùy niệm, biết nghiệp đã tạo không mất nên sinh vào các chỗ như thế, thọ các điều khổ, vui; biết rồi, vì họ mà giảng nói về nhân duyên của nghiệp cũ, khiến họ nhớ biết mà làm các việc lợi ích. Đại Bồ-tát ấy dùng trí lậu tận an lập hữu tình hoặc khiến an trú quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, hoặc khiến an trú nơi quả vị Độc giác, nơi bậc Đại Bồ-tát, hoặc khiến an trú nơi quả vị Giác ngộ cao tột. Nói tóm lại, Đại Bồ-tát ấy ở bất cứ nơi nào tùy theo khả năng sai khác của các hữu tình mà dùng phương tiện thiện xảo khiến họ an trú trong các pháp thiện.

Này Thiện Hiện, như vậy là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, do diệu lực từ tâm vô lậu lìa các tướng mà có thể ở trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không ảnh, không tác, làm viên mãn Tịnh giới ba-la-mậtđa, cũng có thể làm viên mãn các công đức khác.

Lại nữa Thiện Hiện, làm sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể ở trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không ảnh, không tác, làm viên mãn An nhẫn bala-mật-đa?

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể dùng tâm vô lậu lìa tướng mà tu an nhẫn. Đại Bồ-tát ấy từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa nơi tòa Bồ-đề mầu nhiệm, trong khoảng thời gian này, giả sử tất cả hữu tình đều dùng các thứ ngói đá, đao gậy tranh nhau đến làm hại, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng khởi một niệm sân hận. Bấy giờ, Bồ-tát nên tu hai nhẫn. Hai nhẫn là gì? Một là nên thọ nhận tất cả sự nhục mạ, làm hại của hữu tình, chẳng sinh sân hận, kiềm chế đẩy lùi mọi sự giận dữ, hai là nên khởi Vô sinh pháp nhẫn. Đại Bồ-tát ấy nếu bọ đủ các thứ lời ác nhục mạ, hoặc bị các loại đao gậy gây hại thì nên tư duy chín chắn, so lường quán sát là ai nhục mạ, ai làm hại, ai thọ nhục mạ, ai thọ sự làm hại, ai khởi sân hận, ai nên nhẫn chịu. Lại nên quán sát tất cả pháp tánh đều rốt ráo không; pháp còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có pháp tánh; pháp tánh còn chẳng có, huống là có hữu tình! Khi quán sát như thế thì hoặc chủ thể nhục mạ, hoặc đối tượng bị nhục mạ, hoặc chủ thể gây hại, hoặc đối tượng bị gây hại đều chẳng thấy có, cho đến thân thể bị cắt xẻo ra từng phần nhỏ, tâm vẫn an nhẫn, hoàn toàn không có niệm nào khác; đối với các pháp tánh, quán sát như thế, thì có khả năng chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn. Thế nào gọi là Vô sinh pháp nhẫn? Đó là khiến cho các phiền não rốt ráo chẳng sinh và quán các pháp rốt ráo chẳng khởi, trí tuệ vi diệu thường không gián đoạn; như vậy gọi là Vô sinh pháp nhẫn. Đại Bồ-tát ấy an trú trong hai pháp nhẫn như thế thì mau có thể làm viên mãn Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng có thể làm viên mãn bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; cũng có thể làm viên mãn pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; cũng có thể làm viên mãn pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng có thể làm viên mãn chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; cũng có thể làm viên mãn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; cũng có thể làm viên mãn bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cũng có thể làm viên mãn tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; cũng có thể làm viên mãn tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng có thể làm viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng có thể làm viên mãn mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng có thể làm viên mãn đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; cũng có thể làm viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng có thể làm viên mãn trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; cũng có thể làm viên mãn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc. Đại Bồ-tát ấy an trú nơi các pháp của Phật như thế rồi ở nơi bậc Thánh vô lậu, xuất thế, chẳng cùng với tất cả hàng Thanh văn, Độc giác, thần thông đều được tự tại; an trú nơi thần thông thù thắng như thế rồi, Đại Bồ-tát ấy dùng Thiên nhãn thanh tịnh, thường thấy chư Phật hiện tại trong vô biên thế giới khắp mười phương, an ổn hành hóa, vì các hữu tình thuyết giảng chánh pháp; thấy rồi, cho đến khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, khởi tùy niệm Phật, thường không gián đoạn. Đại Bồ-tát ấy dùng Thiên nhĩ thanh tịnh, thường nghe chư Phật trong mười phương thuyết pháp; nghe rồi thọ trì, thường chẳng quên mất, vì các hữu tình giảng nói như thật. Đại Bồ-tát ấy dùng trí tha tâm thanh tịnh, có thể lường biết đúng về tâm, tâm sở pháp của chư Phật mười phương, cũng có thể biết đúng về tâm, tâm sở pháp của tất cả Bồtát, Độc giác, Thanh văn, cũng có thể biết đúng về tâm, tâm sở pháp của tất cả hữu tình, tùy theo căn cơ của họ mà giảng nói chánh pháp. Đại Bồ-tát ấy dùng trí Túc trụ tùy niệm biết các loại căn lành sai khác từ đời trước của các hữu tình; biết rồi dùng phương tiện thị hiện khuyên bảo dẫn dắt, khen ngợi, khích lệ, chúc mừng, khiến họ đạt được lợi ích an lạc thù thắng. Đại Bồ-tát ấy dùng trí vô lậu, tùy theo căn cơ, an lập hữu tình nơi pháp của ba thừa. Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, với phương tiện thiện xảo, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, có thể mau thành tựu viên mãn trí Nhất thiết tướng, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng sinh. Này Thiện Hiện, như vậy Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, do diệu lực từ tâm vô lậu lìa các tướng, có thể ở trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không ảnh, không tác, làm viên mãn An nhẫn ba-la-mật-đa, cũng có thể làm viên mãn các công đức khác.

QUYỂN 377

Phẩm 66: KHÔNG TƯỚNG KHÔNG ĐẮC (5)

Lại nữa Thiện Hiện, làm sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể ở trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không ảnh, không tác, làm viên mãn Tinh tấn bala-mật-đa?

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể dùng tâm vô lậu lìa tướng mà tu tinh tấn. Đại Bồ-tát ấy thành tựu tinh tấn, thân tâm dũng mãnh; do đó có thể nhập và an trú trọn vẹn trong Sơ thiền, có thể nhập và an trú trọn vẹn trong đệ Nhị, đệ Tam và đệ Tứ thiền; nương vào đệ Tứ thiền phát khởi vô lượng pháp thần thông biến hiện, cho đến dùng tay nắm lấy nhật, nguyệt, ung dung xoay vòng chẳng cho là khó; vì thành tựu tinh tấn thân dũng mãnh nên dùng sức thần thông, trong khoảnh khắc có thể đến vô lượng trăm ngàn thế giới chư Phật ở phương khác; lại dùng các thứ thức ăn uống, y phục, đồ nằm, thuốc thang, hương hoa, phướn lọng, đèn sáng, châu báu, nhạc hay đều là hạng thượng diệu, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Do căn lành này mà phước báo vô tận, cho đến dần dần chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Do căn lành này nên chứng đắc Bồ-đề rồi, lại được vô lượng Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian dùng vô lượng các thứ ăn uống, y phục, đồ nằm, thuốc thang, hương hoa, phướn lọng, đèn sáng, trân bảo, nhạc hay thuộc hàng thượng diệu, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Do căn lành này, sau khi nhập Niếtbàn, Xá-lợi và các đệ tử vẫn được vô lượng Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Đại Bồ-tát ấy lại dùng thần lực có thể đến vô lượng trăm ngàn thế giới chư Phật ở phương khác, ở chỗ chư Phật luôn lắng nghe chánh pháp; nghe rồi thì dốc thọ trì, chẳng bao giờ quên mất. Cho đến khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, Đại Bồ-tát ấy lại dùng thần lực đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, tinh cần tu học trí Nhất thiết tướng; trí Nhất thiết tướng được viên mãn rồi thì chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng sinh.

Này Thiện Hiện, như vậy Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì thành tựu đầy đủ tinh tấn nơi thân dũng mãnh nên có thể khiến cho Tinh tấn ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện, thế nào là Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa vì thành tựu đầy đủ tinh tấn tâm dũng mãnh, nên có thể khiến cho Tinh tấn bala-mật-đa mau được viên mãn?

Này Thiện Hiện, thế nào là Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì thành tựu đầy đủ tinh tấn nơi tâm dũng mãnh nên có thể mau viên mãn đạo vô lậu của các bậc Thánh và với đối tượng được gồm thâu là Tinh tấn ba-la-mật-đa. Do đó có thể khiến cho tất cả nghiệp bất thiện nơi thân, ngữ, ý không có chỗ dung chứa để phát khởi. Đại Bồ-tát ấy chẳng bao giờ chấp giữ nơi sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi nhãn xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi sắc xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi nhãn giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi sắc giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi nhãn thức giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi nhãn xúc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi địa giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi nhân duyên hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi vô minh hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi cảnh giới hữu vi hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi cảnh giới vô vi hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi Dục giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi Sắc, Vô sắc giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi cảnh giới hữu lậu hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi cảnh giới vô lậu hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi Sơ thiền hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi Từ vô lượng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi Bi, Hỷ, Xả vô lượng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi định Không vô biên xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi bốn Niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi pháp môn giải thoát Không hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi Bố thí ba-la-mật-đa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi pháp không bên trong hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi chân như hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi Thánh đế khổ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi tám Giải thoát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi tất cả pháp môn Tamma-địa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi năm loại mắt hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi sáu phép thần thông hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi mười lực của Phật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi đại Từ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi đại Bi, đại Hỷ, đại Xả hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi pháp không quên mất hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi tánh luôn luôn xả hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi trí Nhất thiết hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi quả Dự lưu hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; chẳng bao giờ chấp giữ nơi tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, cũng chẳng chấp giữ nơi quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Đại Bồ-tát ấy chẳng bao giờ chấp giữ đây là Dự lưu, là Nhất lai, là Bất hoàn, là A-la-hán, là Độc giác, là Bồ-tát, là Như Lai, cũng chẳng chấp giữ hữu tình như thế vì thấy biết đầy đủ nên gọi là Dự lưu, hữu tình như thế vì hạ phần kết giảm thiểu nên gọi là Nhất lai, hữu tình như thế vì hạ phần kết dứt hết nên gọi là Bất hoàn, hữu tình như thế vì thượng phần kết dứt hết nên gọi là A-la-hán, hữu tình như thế vì đắc đạo Độc giác nên gọi là Độc giác, hữu tình như thế vì đắc trí Đạo tướng nên gọi là Bồ-tát, hữu tình như thế vì đắc trí Nhất thiết tướng nên gọi là Như Lai. Vì sao? Vì các pháp bị chấp giữ ấy và các hữu tình đều không có tự tánh để có thể chấp giữ, nên Đại Bồ-tát ấy thành tựu tinh tấn nơi tâm dũng mãnh; tuy làm việc lợi ích cho các hữu tình nhưng chẳng tiếc thân mạng, đối với hữu tình hoàn toàn không sở đắc; tuy có thể làm viên mãn đối tượng tu tập là Tinh tấn ba-la-mật-đa nhưng đối với Tinh tấn bala-mật-đa hoàn toàn không có sở đắc; tuy có thể làm viên mãn tất cả Phật pháp nhưng đối với Phật pháp hoàn toàn không có sở đắc; tuy có thể làm nghiêm tịnh tất cả cõi Phật, nhưng đối với cõi Phật hoàn toàn không có sở đắc. Đại Bồ-tát ấy thành tựu tinh tấn nơi thân, tâm như vậy, tuy có thể xa lìa tất cả pháp ác, cũng có thể gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp thiện nhưng không chấp giữ. Vì không chấp giữ nên từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, từ thế giới này đến thế giới khác, vì nhằm đem lại lợi ích cho các hữu tình nên các trường hợp muốn thị hiện thần thông đều có thể thị hiện tự tại, vô ngại, nghĩa là hoặc thị hiện mưa các hoa quý, hoặc lại thị hiện tung rải các hương thơm, thị hiện hòa tấu các nhạc hay, thị hiện làm chấn động đại địa, thị hiện bảy thứ báu vô giá để trang nghiêm thế giới, thị hiện thân phóng hào quang khiến chúng sinh đui mù đều được thấy rõ, thị hiện thân xuất hương vi diệu khiến các thứ xú uế đều được thơm sạch, thị hiện thiết lập đền miếu thờ lớn, ở trong đó, chẳng gây hại cho các loài hữu tình; nhân đó hóa độ dẫn dắt vô biên hữu tình khiến họ đến với chánh đạo, xa lìa giết hại sinh mạng, xa lìa việc không cho mà lấy, xa lìa dâm dục, tà hạnh, xa lìa lời nói thô ác, xa lìa lời nói tạp uế, xa lìa tham dục, xa lìa sân hận, xa lìa tà kiến; hoặc dùng bố thí nhiếp phục các hữu tình, hoặc dùng tịnh giới nhiếp phục các hữu tình, hoặc dùng an nhẫn nhiếp phục các hữu tình, hoặc dùng tinh tấn nhiếp phục các hữu tình, hoặc dùng tĩnh lự nhiếp phục các hữu tình, hoặc dùng Bát-nhã nhiếp phục các hữu tình. Vì muốn tạo mọi lợi ích cho các hữu tình, hoặc lìa bỏ của báu, hoặc lìa bỏ vợ con, hoặc lìa bỏ ngôi vua, hoặc lìa bỏ các bộ phận của thân, hoặc lìa bỏ sinh mạng, tùy các hữu tình, đáng dùng phương tiện như thế mới được lợi ích thì liền dùng phương tiện như thế mà làm lợi ích cho họ.

Này Thiện Hiện, như vậy Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, do diệu lực từ tâm vô lậu lìa các tướng, nên ở trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không ảnh, không tác, thành tựu viên mãn Tinh tấn ba-la-mật-đa, cũng có thể làm viên mãn các công đức khác.

Lại nữa Thiện Hiện, thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể ở trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không ảnh, không tác, thành tựu, viên mãn Tĩnh lự ba-la-mật-đa?

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể dùng tâm vô lậu lìa tướng mà tu tĩnh lự. Đại Bồ-tát ấy, trừ định Như Lai, đối với các định khác, đều có thể thành tựu viên mãn. Đại Bồ-tát ấy có thể xa lìa pháp dục, ác, bất thiện có tầm có tứ, ly sinh hỷ lạc, nhập Sơ thiền, an trú trọn vẹn; tầm tứ tịch tĩnh, ở trong tâm thanh tịnh bình đẳng chuyên nhất, không tầm không tứ, định sinh hỷ lạc, nhập đệ Nhị thiền, an trú trọn vẹn; ly hỷ trụ xả, chánh niệm chánh tri, thân thọ lạc, Phật dạy nên xả, nhập đệ Tam thiền, an trú trọn vẹn; đoạn lạc, đoạn khổ, mọi vui, buồn trước tan biến, chẳng khổ chẳng vui, xả niệm thanh tịnh, nhập đệ Tứ thiền, an trú trọn vẹn. Đại Bồ-tát ấy dùng tâm cùng hợp với Từ duyên khắp một phương cho đến mười phương trong tất cả thế gian, an trú trọn vẹn; dùng tâm cùng hợp với Bi duyên khắp một phương cho đến mười phương trong tất cả thế gian, an trú trọn vẹn; dùng tâm cùng hợp với Hỷ duyên khắp một phương cho đến mười phương trong tất cả thế gian, an trú trọn vẹn; dùng tâm cùng hợp với Xả duyên khắp một phương cho đến mười phương trong tất cả thế gian, an trú trọn vẹn. Đại Bồ-tát ấy vượt qua các tưởng về sắc, diệt tướng hữu đối, chẳng tư duy về các thứ tưởng, nhập vô biên không, Không vô biên xứ, an trú trọn vẹn; vượt tất cả các Không vô biên xứ, nhập vô biên thức, Thức vô biên xứ, an trú trọn vẹn; vượt tất cả các Thức vô biên xứ, nhập Vô sở hữu xứ, Vô sở hữu xứ, an trú trọn vẹn; vượt tất cả các Vô sở hữu xứ, nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trú trọn vẹn. Đại Bồ-tát ấy an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa, đối với tám Giải thoát, có thể nhập theo chiều thuận nghịch, an trú trọn vẹn; đối với tám Thắng xứ, có thể nhập theo chiều thuận nghịch, an trú trọn vẹn; đối với chín Định thứ đệ, có thể nhập theo chiều thuận nghịch, an trú trọn vẹn; đối với mười Biến xứ có thể nhập theo chiều thuận nghịch, an trú trọn vẹn. Đại Bồ-tát ấy có thể nhập Tam-mađịa Không, an trú trọn vẹn, nhập Tam-ma-địa Vô tướng, an trú trọn vẹn, nhập Tam-ma-địa Vô nguyện, an trú trọn vẹn, nhập Tam-ma-địa Vô gián, an trú trọn vẹn, nhập Tam-ma-địa Như điển, an trú trọn vẹn, nhập Tam-ma-địa Thánh chánh, an trú trọn vẹn, nhập Tam-ma-địa Kim cang dụ, an trú trọn vẹn. Đại Bồ-tát ấy an trú nơi Tĩnh lự ba-lamật-đa, tu ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề và trí Đạo tướng đều được viên mãn, dùng trí Đạo tướng gồm thâu, giữ gìn tất cả Tam-ma-địa rồi, lần lượt tu vượt qua bậc Tịnh quán, bậc Chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc giác, chứng nhập Chánh tánh ly sinh của Bồtát; đã nhập bậc Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát rồi, tu các địa hành, thành tựu viên mãn Phật địa. Đại Bồ-tát ấy tuy đối với các bậc lần lượt tu vượt qua nhưng ở trong ấy không quả vị chứng đắc cho đến khi chưa đắc trí Nhất thiết tướng. Đại Bồ-tát ấy an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn; ở chỗ chư Phật vun trồng các căn lành, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, từ thế giới này đến thế khác, làm lợi ích cho các hữu tình, thân tâm không mệt mỏi; hoặc dùng Bố thí nhiếp phục các hữu tình, hoặc dùng Tịnh giới nhiếp phục các hữu tình, hoặc dùng An nhẫn nhiếp phục các hữu tình, hoặc dùng Tinh tấn nhiếp phục các hữu tình, hoặc dùng Tĩnh lự nhiếp phục các hữu tình, hoặc dùng Bát-nhã nhiếp phục các hữu tình, hoặc dùng Giải thoát nhiếp phục các hữu tình, hoặc dùng Giải thoát tri kiến nhiếp phục các hữu tình, hoặc giáo hóa hữu tình an trú nơi quả Dự lưu, hoặc giáo hóa hữu tình an trú nơi quả Nhất lai, hoặc giáo hóa hữu tình an trú nơi quả Bất hoàn, hoặc giáo hóa hữu tình an trú nơi quả A-la-hán, hoặc giáo hóa hữu tình an trú nơi quả vị Độc giác, hoặc giáo hóa hữu tình an trú nơi bậc Đại Bồ-tát, hoặc giáo hóa hữu tình an trú nơi quả vị Giác ngộ cao tột, tùy theo diệu lực từ căn lành và pháp thiện tăng trưởng của các hữu tình mà dùng các thứ phương tiện khiến họ an trú. Đại Bồ-tát ấy an trú nơi Tĩnh lự ba-lamật-đa có thể phát huy tất cả pháp môn Tam-mađịa, có thể phát huy tất cả pháp môn Đà-la-ni, có thể chứng đắc bốn sự hiểu biết thông suốt thù thắng, có thể chứng đắc thần thông dị thục thù thắng. Đại Bồ-tát ấy, do đắc thần thông thù thắng từ phước báo tu tập nên quyết định chẳng nhập lại theo thai mẹ, quyết định chẳng thọ lại thú vui dâm dục, quyết định chẳng bị giữ lại trong nẻo sinh tử; cũng lại chẳng bị tội lỗi trong đời sống làm nhiễm ô. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy khéo nhận thức và thông đạt về tất cả pháp tánh đều như huyễn hóa, tuy biết các hành đều như huyễn hóa, nhưng nương vào Bi nguyện để đem lại lợi ích cho hữu tình; tuy nương vào Bi nguyện để đem lại lợi ích cho hữu tình nhưng thông tỏ về hữu tình và sự an lập ấy đều chẳng thể nắm bắt được; tuy thông tỏ về hữu tình và sự an lập ấy đều chẳng thể nắm bắt được, nhưng có thể an lập cho tất cả hữu tình, khiến họ an trú trong pháp chẳng thể nắm bắt được, nương vào lý thế tục, chẳng nương vào thắng nghĩa. Đại Bồ-tát ấy an trú nơi Tĩnh lự ba-la-mật-đa, tu hành tất cả tĩnh lự, đẳng trì, đẳng chí giải thoát cho đến thành tựu viên mãn đối tượng mong đạt tới là quả vị Giác ngộ cao tột, thường chẳng lìa bỏ đối tượng tu tập là Tĩnh lự ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy hành trí Đạo tướng, dùng phương tiện nêu dẫn, phát huy trí Nhất thiết tướng, an trú trong đó, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí tương tục. Vì Đại Bồ-tát ấy có thể đoạn trừ vĩnh viễn tập khí tương tục nên có thể tự lợi và lợi tha chính đáng. Do Đại Bồ-tát ấy có thể tự lợi, lợi tha chính đáng nên đối với tất cả Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian làm ruộng phước thanh tịnh, có thể thọ nhận tất cả sự cung kính cúng dường của Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian.

Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, do diệu lực từ tâm vô lậu lìa các tướng nên có thể ở trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không ảnh, không tác, thành tựu viên mãn Tĩnh lự ba-la-mậtđa, cũng có thể làm viên mãn các công đức khác.

Lại nữa Thiện Hiện, thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể ở trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không ảnh, không tác, thành tựu viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể dùng tâm vô lậu lìa tướng mà tu Bát-nhã. Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy một pháp nhỏ nào thật có thành tựu, nghĩa là chẳng thấy sắc thật có thành tựu, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức thật có thành tựu, chẳng thấy sắc sinh, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức sinh; chẳng thấy sắc diệt, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức diệt; chẳng thấy sắc là loại tăng trưởng, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức là loại tăng trưởng; chẳng thấy sắc là loại tổn giảm, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức là loại tổn giảm; chẳng thấy sắc có chứa nhóm, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức có chứa nhóm; chẳng thấy sắc có ly tán, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức có ly tán; như thật quán sắc là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại; như thật quán thọ, tưởng, hành, thức là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại. Chẳng thấy nhãn xứ thật có thành tựu, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thật có thành tựu, chẳng thấy nhãn xứ sinh, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ sinh; chẳng thấy nhãn xứ diệt, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ diệt; chẳng thấy nhãn xứ là loại tăng trưởng, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là loại tăng trưởng; chẳng thấy nhãn xứ là loại tổn giảm, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là loại tổn giảm; chẳng thấy nhãn xứ có chứa nhóm, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có chứa nhóm; chẳng thấy nhãn xứ có ly tán, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có ly tán; như thật quán nhãn xứ là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại; như thật quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại. Chẳng thấy sắc xứ thật có thành tựu, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thật có thành tựu, chẳng thấy sắc xứ sinh, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ sinh; chẳng thấy sắc xứ diệt, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ diệt; chẳng thấy sắc xứ là loại tăng trưởng, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là loại tăng trưởng; chẳng thấy sắc xứ là loại tổn giảm, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là loại tổn giảm; chẳng thấy sắc xứ có chứa nhóm, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có chứa nhóm; chẳng thấy sắc xứ có ly tán, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có ly tán; như thật quán sắc xứ là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại; như thật quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại. Chẳng thấy nhãn giới thật có thành tựu, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thật có thành tựu, chẳng thấy nhãn giới sinh, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới sinh; chẳng thấy nhãn giới diệt, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới diệt; chẳng thấy nhãn giới là loại tăng trưởng, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là loại tăng trưởng; chẳng thấy nhãn giới là loại tổn giảm, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là loại tổn giảm; chẳng thấy nhãn giới có chứa nhóm, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có chứa nhóm; chẳng thấy nhãn giới có ly tán, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có ly tán; như thật quán nhãn giới là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại; như thật quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại. Chẳng thấy sắc giới thật có thành tựu, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thật có thành tựu, chẳng thấy sắc giới sinh, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới sinh; chẳng thấy sắc giới diệt, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới diệt; chẳng thấy sắc giới là loại tăng trưởng, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là loại tăng trưởng; chẳng thấy sắc giới là loại tổn giảm, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là loại tổn giảm; chẳng thấy sắc giới có chứa nhóm, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có chứa nhóm; chẳng thấy sắc giới có ly tán, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có ly tán; như thật quán sắc giới là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại; như thật quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại. Chẳng thấy nhãn thức giới thật có thành tựu, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thật có thành tựu, chẳng thấy nhãn thức giới sinh, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới sinh; chẳng thấy nhãn thức giới diệt, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới diệt; chẳng thấy nhãn thức giới là loại tăng trưởng, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là loại tăng trưởng; chẳng thấy nhãn thức giới là loại tổn giảm, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là loại tổn giảm; chẳng thấy nhãn thức giới có chứa nhóm, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có chứa nhóm; chẳng thấy nhãn thức giới có ly tán, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có ly tán; như thật quán nhãn thức giới là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại; như thật quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại. Chẳng thấy nhãn xúc thật có thành tựu, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thật có thành tựu, chẳng thấy nhãn xúc sinh, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sinh; chẳng thấy nhãn xúc diệt, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc diệt; chẳng thấy nhãn xúc là loại tăng trưởng, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là loại tăng trưởng; chẳng thấy nhãn xúc là loại tổn giảm, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là loại tổn giảm; chẳng thấy nhãn xúc có chứa nhóm, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có chứa nhóm; chẳng thấy nhãn xúc có ly tán, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có ly tán; như thật quán nhãn xúc là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại; như thật quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại. Chẳng thấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra thật có thành tựu, chẳng thấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra thật có thành tựu, chẳng thấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra sinh, chẳng thấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra sinh; chẳng thấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra diệt, chẳng thấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra diệt; chẳng thấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là loại tăng trưởng, chẳng thấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là loại tăng trưởng; chẳng thấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là loại tổn giảm, chẳng thấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là loại tổn giảm; chẳng thấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có chứa nhóm, chẳng thấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có chứa nhóm; chẳng thấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có ly tán, chẳng thấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra có ly tán; như thật quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại; như thật quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại. Chẳng thấy tất cả pháp hữu lậu thật có thành tựu, chẳng thấy tất cả pháp vô lậu thật có thành tựu, chẳng thấy tất cả pháp hữu lậu sinh, chẳng thấy tất cả pháp vô lậu sinh; chẳng thấy tất cả pháp hữu lậu diệt, chẳng thấy tất cả pháp vô lậu diệt; chẳng thấy tất cả pháp hữu lậu là loại tăng trưởng, chẳng thấy tất cả pháp vô lậu là loại tăng trưởng; chẳng thấy tất cả pháp hữu lậu là loại tổn giảm, chẳng thấy tất cả pháp vô lậu là loại tổn giảm; chẳng thấy tất cả pháp hữu lậu có chứa nhóm, chẳng thấy tất cả pháp vô lậu có chứa nhóm; chẳng thấy tất cả pháp hữu lậu có ly tán, chẳng thấy tất cả pháp vô lậu có ly tán; như thật quán tất cả pháp hữu lậu là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại; như thật quán tất cả pháp vô lậu là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại.

Đại Bồ-tát ấy khi quán như thế chẳng đạt được tự tánh của sắc, chẳng đạt được tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng đạt được tự tánh của nhãn xứ, chẳng đạt được tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng đạt được tự tánh của sắc xứ, chẳng đạt được tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng đạt được tự tánh của nhãn giới, chẳng đạt được tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng đạt được tự tánh của sắc giới, chẳng đạt được tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng đạt được tự tánh của nhãn thức giới, chẳng đạt được tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng đạt được tự tánh của nhãn xúc, chẳng đạt được tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng đạt được tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng đạt được tự tánh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; chẳng đạt được tự tánh của tất cả pháp hữu lậu, chẳng đạt được tự tánh của tất cả pháp vô lậu.

Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp đều lấy không tánh làm tự tánh, phát sinh tin hiểu sâu xa. Đại Bồ-tát ấy đối với sự việc như thế sinh tin hiểu rồi, có thể hành pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Đại Bồ-tát ấy khi tu hành như thế, đối với tất cả pháp hoàn toàn không chấp trước sắc, chẳng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; chẳng chấp trước nhãn xứ, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng chấp trước sắc xứ, chẳng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng chấp trước nhãn giới, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng chấp trước sắc giới, chẳng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng chấp trước nhãn thức giới, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng chấp trước nhãn xúc, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng chấp trước các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; chẳng chấp trước địa giới, chẳng chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng chấp trước tánh nhân duyên, chẳng chấp trước tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; chẳng chấp trước vô minh, chẳng chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; chẳng chấp trước Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng chấp trước pháp không bên trong, chẳng chấp trước pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng chấp trước chân như, chẳng chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; chẳng chấp trước bốn Niệm trụ, chẳng chấp trước bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chẳng chấp trước Thánh đế khổ, chẳng chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng chấp trước bốn Tĩnh lự, chẳng chấp trước bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chẳng chấp trước tám Giải thoát, chẳng chấp trước tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chẳng chấp trước tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng chấp trước tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng chấp trước pháp môn giải thoát Không, chẳng chấp trước pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chẳng chấp trước năm loại mắt, chẳng chấp trước sáu phép thần thông; chẳng chấp trước mười lực của Phật, chẳng chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng chấp trước đại Từ, chẳng chấp trước đại Bi, đại Hỷ, đại Xả.

QUYỂN 378

Phẩm 66: KHÔNG TƯỚNG KHÔNG ĐẮC (6)

Chẳng chấp trước pháp không quên mất, chẳng chấp trước tánh luôn luôn xả; chẳng chấp trước trí Nhất thiết, chẳng chấp trước trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; chẳng chấp trước quả Dự lưu, chẳng chấp trước quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; chẳng chấp trước quả vị Độc giác; chẳng chấp trước tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng chấp trước quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, lấy không tánh làm tự tánh, có thể làm viên mãn con đường tu tập của Bồ-tát, nghĩa là có thể làm viên mãn Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa; cũng có thể làm viên mãn pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng có thể làm viên mãn chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; cũng có thể làm viên mãn bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; cũng có thể làm viên mãn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; cũng có thể làm viên mãn bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cũng có thể làm viên mãn tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; cũng có thể làm viên mãn tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng có thể làm viên mãn pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; cũng có thể làm viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng có thể làm viên mãn mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng có thể làm viên mãn đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; cũng có thể làm viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng có thể làm viên mãn trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; cũng có thể làm viên mãn ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc.

Đại Bồ-tát ấy an trú trong đạo Bồ-đề với các pháp do phước báo đem lại, cũng có thể làm viên mãn Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; cũng có thể làm viên mãn pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng có thể làm viên mãn chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; cũng có thể làm viên mãn bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo đa; cũng có thể làm viên mãn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; cũng có thể làm viên mãn bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cũng có thể làm viên mãn tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; cũng có thể làm viên mãn tất cả pháp môn Tamma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng có thể làm viên mãn pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; cũng có thể làm viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông và vô lượng công đức khác. Đại Bồ-tát ấy thành tựu viên mãn đạo Bồ-đề như thế rồi, lìa các nẻo tối tăm chướng ngại, an trú trong con đường tu tập của Phật; do diệu lực của thần thông thù thắng từ phước báo sinh ra, tùy phương tiện thu phục hóa độ lợi ích cho các loài hữu tình, người nên dùng Bố thí thu phục hóa độ thì liền dùng bố thí mà thu phục hóa độ họ, người nên dùng Tịnh giới thu phục hóa độ thì liền dùng tịnh giới mà thu phục hóa độ họ, nên dùng An nhẫn thu phục hóa độ thì liền dùng an nhẫn mà thu phục hóa độ họ, nên dùng Tinh tấn thu phục hóa độ thì liền dùng tinh tấn mà thu phục hóa độ họ, nên dùng Tĩnh lự thu phục hóa độ thì liền dùng tĩnh lự mà thu phục hóa độ họ, nên dùng Bát-nhã thu phục hóa độ thì liền dùng Bát-nhã mà thu phục hóa độ họ, nên dùng Giải thoát thu phục hóa độ thì liền dùng giải thoát mà thu phục hóa độ họ, nên dùng Giải thoát tri kiến thu phục hóa độ thì liền dùng giải thoát tri kiến mà thu phục hóa độ họ, nên khiến an trú nơi quả Dự lưu thì dùng phương tiện khiến an trú nơi quả Dự lưu, nên khiến an trú nơi quả Nhất lai thì dùng phương tiện khiến an trú nơi quả Nhất lai, nên khiến an trú nơi quả Bất hoàn thì dùng phương tiện khiến an trú nơi quả Bất hoàn, nên khiến an trú nơi quả A-la-hán thì dùng phương tiện khiến an trú nơi quả A-la-hán, nên khiến an trú nơi quả vị Độc giác thì dùng phương tiện khiến an trú nơi quả vị Độc giác, nên khiến an trú nơi quả vị Giác ngộ cao tột thì dùng phương tiện khiến an trú nơi quả vị Giác ngộ cao tột. Đại Bồ-tát ấy có thể hiện vô số các loại thần thông biến hóa, muốn an trú nơi hằng sa thế giới thì tùy ý có thể an trú, muốn hiện ra các loại châu báu ở thế giới đó thì có thể tùy ý hiện ra, muốn khiến cho hữu tình ở trong thế giới đó thọ dụng các loại châu báu tốt đẹp kia, thì tùy theo sở thích của họ đều khiến được đầy đủ.

Đại Bồ-tát ấy từ thế giới này đến thế giới khác, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình, thấy hình tướng nghiêm tịnh của các thế giới có thể tự thu giữ hình tướng cõi Phật nghiêm tịnh tùy theo sở thích của mình. Thí như chư Thiên nơi cõi trời Tha hóa tự tại cần có các thứ vật dụng an vui vi diệu thì tùy tâm hiện ra, Bồ-tát ấy tùy ý thu giữ vô lượng cõi Phật đủ các loại nghiêm tịnh. Đại Bồ-tát ấy do phước báo từ sự tu tập các pháp Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, do phước báo nên có được các thứ thần thông vi diệu và con đường tu tập của Bồ-tát nên hành trí Đạo tướng; do trí Đạo tướng được thành tựu đầy đủ nên lại có thể chứng đắc trí Nhất thiết tướng; do đắc trí này, đối với tất cả các pháp, không có sự thu giữ, nghĩa là chẳng thu giữ sắc, chẳng thu giữ thọ, tưởng, hành, thức; chẳng thu giữ nhãn xứ, chẳng thu giữ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng thu giữ sắc xứ, chẳng thu giữ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng thu giữ nhãn giới, chẳng thu giữ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng thu giữ sắc giới, chẳng thu giữ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng thu giữ nhãn thức giới, chẳng thu giữ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng thu giữ nhãn xúc, chẳng thu giữ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng thu giữ các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng thu giữ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; chẳng thu giữ tất cả pháp thiện, pháp chẳng phải thiện, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp hữu tội, pháp vô tội, cũng chẳng đối tượng chứng đắc là quả vị Giác ngộ cao tột; cũng chẳng vật thọ dụng trong tất cả cõi Phật; cả hữu tình ở trong đó cũng không. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy trước kia chẳng tất cả pháp nên đối với tất cả pháp không có sở đắc, vì các hữu tình nêu giảng rõ ràng rằng tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện, như vậy Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, do diệu lực từ tâm vô lậu lìa các tướng, nên có thể ở trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không ảnh, không tác, thành tựu viên mãn Bát-nhã ba-la-mậtđa, cũng có thể thành tựu viên mãn các công đức khác.


Trước

[Đầu trang][Mục lục Kinh Đại Bát Nhã]

Tiếp theo


[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]


[Mục lục tổng quát]