SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

HỘI THỨ I

Phẩm 67: NGHĨA PHÁP THUẦN NHẤT
(QUYỂN 378 - 379)

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.

QUYỂN 378

QUYỂN 379


QUYỂN 378

Phẩm 67: NGHĨA PHÁP THUẦN NHẤT (1)

Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, làm sao ở trong tất cả pháp thuần nhất là không tướng, tự tướng không, có thể tu tập viên mãn Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa? Làm sao ở trong tất cả pháp vô lậu, vô sai biệt mà nêu bày các pháp sai biệt và có thể hiểu rõ như thế? Làm sao ở trong Bát-nhã ba-la-mật-đa, gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; gồm thâu, giữ gìn tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; gồm thâu, giữ gìn tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; gồm thâu, giữ gìn tất cả bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; gồm thâu, giữ gìn tất cả tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni; gồm thâu, giữ gìn tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông; gồm thâu, giữ gìn tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; gồm thâu, giữ gìn tất cả trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp thế, xuất thế gian? Làm sao ở trong tất cả pháp tướng khác là một tướng, không tướng ấy, nêu bày vô số loại pháp tướng sai biệt? Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trú trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như sự biến hóa, mà tu hành Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhận biết như thật về năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như sự biến hóa, thảy đều không tướng. Vì sao? Vì các loại mộng, tiếng vang, ảnh tượng, bóng sáng, dợn nắng, trò huyễn, thành ảo, sự biến hóa đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh là pháp không có tướng. Nếu pháp không có tướng là pháp một tướng, gọi là không tướng.

Này Thiện Hiện, do nhân duyên này nên biết tất cả sự bố thí là không tướng: Người cho không tướng, người nhận không tướng, vật cho không tướng. Nếu biết như vậy mà hành bố thí thì có thể thành tựu viên mãn việc tu hành Bố thí ba-la-mậtđa; nếu có thể thành tựu viên mãn việc tu hành Bố thí ba-la-mật-đa thì chẳng xa lìa Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; an trú nơi Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế thì có thể làm viên mãn bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cũng có thể làm viên mãn bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; cũng có thể làm viên mãn pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; cũng có thể làm viên mãn pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng có thể làm viên mãn chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; cũng có thể làm viên mãn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; cũng có thể làm viên mãn tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; cũng có thể làm viên mãn năm trăm pháp môn Tam-ma-địa, năm trăm pháp môn Đà-la-ni; cũng có thể làm viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng có thể làm viên mãn mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng có thể làm viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng có thể làm viên mãn trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Đại Bồ-tát ấy an trú trong các Thánh pháp vô lậu từ phước báo sinh ra như thế, dùng diệu lực của thần thông đi đến hằng hà sa thế giới của chư Phật khắp mười phương, dùng các loại y phục, thức ăn uống, đồ nằm, thuốc thang, hương hoa, cờ phướn, lọng báu, đèn sáng, nhạc hay các thứ vật dụng thượng diệu khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn, đem lại lợi ích an lạc cho các hữu tình; đối với người nên dùng Bố thí làm lợi ích, liền dùng bố thí mà làm lợi ích cho họ; nên dùng Tịnh giới làm lợi ích, liền dùng tịnh giới mà làm lợi ích cho họ; nên dùng An nhẫn làm lợi ích, liền dùng an nhẫn mà làm lợi ích cho họ; nên dùng Tinh tấn làm lợi ích, liền dùng tinh tấn mà làm lợi ích cho họ; nên dùng Tĩnh lự làm lợi ích, liền dùng tĩnh lự mà làm lợi ích cho họ; nên dùng Bát-nhã làm lợi ích, liền dùng Bát-nhã mà làm lợi ích cho họ; nên dùng các thứ pháp thiện khác làm lợi ích, liền dùng các thứ pháp thiện khác mà làm lợi ích cho họ; nên dùng tất cả pháp thiện thù thắng làm lợi ích, liền dùng tất cả pháp thiện thù thắng mà làm lợi ích cho họ. Đại Bồ-tát ấy thành tựu vô lượng pháp thiện như thế, tuy chịu sinh tử nhưng chẳng bị tội lỗi nơi sinh tử làm nhiễm ô; vì muốn đem lại lợi lạc cho các hữu tình nên thu giữ phú quý tự tại ấy nên có thể làm các việc lợi lạc cho hữu tình, dùng bốn Nhiếp pháp mà nhiếp phục họ. Đại Bồ-tát ấy biết rõ tất cả pháp đều không có tướng, nên tuy biết quả Dự lưu mà chẳng trụ nơi quả Dự lưu, tuy biết quả Nhất lai mà chẳng trụ nơi quả Nhất lai, tuy biết quả Bất hoàn mà chẳng trụ nơi quả Nhất lai, tuy biết quả A-la-hán mà chẳng trụ nơi quả A-la-hán, tuy biết quả vị Độc giác mà chẳng trụ nơi quả vị Độc giác. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy rõ biết như thật về tất cả pháp rồi, vì muốn chứng đắc trí Nhất thiết tướng nên chẳng cùng theo con đường của tất cả Thanh văn, Độc giác.

Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát nhận biết tất cả pháp đều không có tướng, nên rõ biết như thật về Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng đều không có tướng, rõ biết như thật về các pháp Phật khác cũng đều không có tướng. Do nhân duyên ấy có thể thành tựu viên mãn hết tất cả Phật pháp.

Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa, an trú trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa mà thành tựu viên mãn Tịnh giới ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy rõ biết như thật là năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa rồi, thì có thể làm viên mãn Tịnh giới ba-la-mật-đa vô tướng; tịnh giới như thế không thiếu sót, không gián đoạn, không tỳ vết, không uế trược, không có sự chấp giữ, xứng đáng thọ nhận sự cúng dường, được người trí khen ngợi là thọ trì hoàn hảo, cứu cánh hoàn hảo, là Thánh vô lậu, thuộc về đạo xuất thế gian; an trú nơi giới này có thể khéo thọ trì, như thọ trì giới đã thiết lập, giới đắc tự nhiên, giới luật nghi, giới hữu biểu, giới vô biểu, giới hiện hành, giới bất hiện hành, giới oai nghi, giới chẳng phải oai nghi. Đại Bồ-tát ấy tuy thành tựu đầy đủ các giới như thế nhưng không chấp giữ, chẳng nghĩ thế này: Ta do giới ấy sẽ được sinh vào dòng dõi lớn Sát-đế-lợi phú quý tự tại, hoặc sẽ được sinh vào dòng dõi lớn Bà-la-môn phú quý tự tại, dòng dõi lớn Trưởng giả phú quý tự tại, dòng dõi lớn Cư sĩ phú quý tự tại; chẳng nghĩ thế này: Ta do giới ấy sẽ được làm tiểu vương, hoặc làm đại vương, làm luân vương phú quý tự tại; chẳng nghĩ thế này: Ta do giới ấy sẽ được sinh vào chúng trời Tứ đại vương, hoặc sinh vào cõi trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, phú quý tự tại; chẳng nghĩ thế này: Ta do giới ấy sẽ được sinh vào cõi trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm, phú quý tự tại; chẳng nghĩ thế này: Ta do giới ấy sẽ được sinh vào cõi trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, phú quý tự tại; chẳng nghĩ thế này: Ta do giới ấy sẽ được sinh vào cõi trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, phú quý tự tại; chẳng nghĩ thế này: Ta do giới ấy sẽ được sinh vào cõi trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả, phú quý tự tại; chẳng nghĩ thế này: Ta do giới ấy sẽ được sinh vào cõi trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh, phú quý tự tại; chẳng nghĩ thế này: Ta do giới ấy sẽ được sinh vào cõi Không vô biên xứ, cõi Thức vô biên xứ, cõi Vô sở hữu xứ, cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ phú quý tự tại; chẳng nghĩ thế này: Ta do giới ấy sẽ đắc quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, hoặc đắc quả vị Độc giác, hoặc nhập Chánh tánh ly sinh của Bồtát, hoặc đắc Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát, hoặc chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì các pháp ấy đều không tướng hoặc đồng một tướng, gọi là không tướng; pháp không tướng chẳng đắc không tướng, pháp có tướng chẳng đắc có tướng, pháp không tướng chẳng đắc có tướng, pháp có tướng chẳng đắc không tướng; do nhân duyên ấy nên hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, có thể mau chóng thành tựu viên mãn Tịnh giới ba-la-mật-đa vô tướng, chứng nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát; đã nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, lại đắc Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát; đã đắc Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát thì tu hành trí Đạo tướng, hướng đến trí Nhất thiết tướng, đắc năm thần thông từ phước báo, lại đắc năm trăm pháp môn Tam-ma-địa, cũng đắc năm trăm pháp môn Đà-la-ni, an trú ở trong đó; lại có thể chứng đắc bốn sự hiểu biết thông suốt, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật. Đại Bồ-tát ấy vì nhằm hóa độ hữu tình, nên tuy hiện lưu chuyển theo sinh tử trong các cõi, nhưng chẳng bị các chướng của phiền não, nghiệp báo ấy làm nhiễm ô. Ví như người biến hóa, tuy hiện ra các việc đi đứng nằm ngồi, nhưng không có các việc đi lại chân thật; tuy hiện ra các thứ làm lợi ích cho hữu tình, nhưng đối với hữu tình và sự nêu bày ấy hoàn toàn không có sở đắc. Như có Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiệu là Tô-phiếnđa chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sinh khiến thoát khỏi sinh tử, chứng đắc Niết-bàn, nhưng không có hữu tình nào có thể thọ nhận sự thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột tiếp theo. Khi ấy Đức Như Lai kia, hóa ra một vị Hóa Phật khiến ở lâu trên đời, rồi tự xả tuổi thọ của mình nhập cảnh giới Niết-bàn vô dư y. Thân của Hóa Phật kia, trụ một kiếp, rồi thọ ký quả vị giác ngộ cho một Bồ-tát, sau đấy mới nhập Niết-bàn. Hóa thân của Phật kia tuy làm các việc lợi ích cho hữu tình, nhưng không có sở đắc, đó là chẳng đắc sắc, chẳng đắc thọ, tưởng, hành, thức; chẳng đắc nhãn xứ, chẳng đắc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng đắc sắc xứ, chẳng đắc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng đắc nhãn giới, chẳng đắc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng đắc sắc giới, chẳng đắc thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng đắc nhãn thức giới, chẳng đắc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng đắc nhãn xúc, chẳng đắc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng đắc các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng đắc các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, chẳng đắc tất cả pháp hữu lậu, vô lậu và hữu tình. Đại Bồtát ấy cũng lại như vậy, tuy có làm việc nhưng không có sở đắc.

Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, thành tựu viên mãn Tịnh giới ba-la-mật-đa; do Tịnh giới ba-la-mật-đa này được viên mãn, nên có thể gồm thâu, giữ gìn tất cả Phật pháp.

Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trú trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như sự biến hóa, thành tựu viên mãn An nhẫn ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy rõ biết rõ như thật năm thủ uẩn ấy như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như sự biến hóa rồi nên có thể thành tựu viên mãn An nhẫn ba-la-mật-đa vô tướng.

Này Thiện Hiện, làm sao Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết rõ như thật năm thủ uẩn ấy như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như sự biến hóa rồi, có thể thành tựu viên mãn An nhẫn ba-la-mật-đa vô tướng?

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy biết rõ như thật năm thủ uẩn ấy không có thật tướng, nên tu hai loại nhẫn, mới có thể thành tựu viên mãn An nhẫn bala-mật-đa vô tướng. Hai loại đó là gì? Một là an thọ nhẫn, hai là quán sát nhẫn. An thọ nhẫn là các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa nơi tòa Bồ-đề nhiệm mầu, trong khoảng ấy, giả sử tất cả loài hữu tình tranh nhau đến chê bai, dùng lời thô ác mắng nhiếc, lăng nhục; lại dùng ngói, đá, dao gậy làm hại... nhưng Đại Bồ-tát ấy vì đã tu tập đủ pháp An nhẫn ba-la-mật-đa nên cho đến chẳng sinh một niệm sân hận; cũng lại chẳng khởi tâm trả thù, chỉ nghĩ thế này: Các hữu tình ấy thật đáng thương, làm tăng thêm phiền não, dấy động tâm ý họ chẳng được tự tại nên đối với ta họ đã phát khởi nghiệp ác như thế. Ta nay chẳng nên giận dữ họ; lại nghĩ thế này, do ta thu giữ các uẩn oan gia nên khiến cho hữu tình ấy đối với ta dấy khởi nghiệp ác như thế, chỉ nên tự trách, chẳng nên giận họ. Bồtát khi quán sát kỹ như vậy thì đối với hữu tình ấy sinh lòng thương xót sâu xa; các sự việc như thế gọi là an thọ nhẫn. Quán sát nhẫn là Đại Bồ-tát nghĩ thế này, các hành như huyễn, chẳng thật, chẳng được tự tại, cũng như hư không, không có ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, khả năng sinh khởi, sự nuôi dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng thọ quả báo, sự hiểu biết, sự nhận thức đều chẳng thể nắm bắt được, chỉ là chỗ dấy khởi của phân biệt hư vọng, thế thì ai chê trách ta, ai mắng nhiếc ta, ai lăng nhục ta, ai dùng các thứ ngói, đá, dao, gậy gia hại ta, ai thọ nhận sự mắng nhiếc gia hại ấy? Đều là tự tâm phân biệt hư vọng. Ta nay chẳng nên dấy khởi sự chấp trước, các pháp như thế do tự tánh không thắng nghĩa không nên hoàn toàn không có sở hữu. Bồ-tát khi quán sát kỹ như thế, biết rõ như thật các hành tĩnh lặng, đối với tất cả pháp chẳng sinh tưởng khác; các việc như thế gọi là quán sát nhẫn. Đại Bồ-tát ấy vì tu tập hai thứ nhẫn như thế nên có thể thành tựu viên mãn An nhẫn ba-la-mậtđa vô tướng; do có thể thành tựu viên mãn An nhẫn ba-la-mật-đa vô tướng, nên liền đạt được Vô sinh pháp nhẫn.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào gọi là Vô sinh pháp nhẫn? Pháp ấy đoạn trừ những gì? Lại là trí gì?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, do từ diệu lực này cho đến một phần nhỏ pháp ác bất thiện cũng chẳng sinh được, nên gọi là Vô sinh pháp nhẫn. Pháp này khiến cho ngã và ngã sở, các phiền não, mạn... hoàn toàn vắng lặng; nhẫn thọ như thật về các pháp như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như sự biến hóa. Nhẫn này gọi là trí; đắc trí này nên gọi là đạt được Vô sinh pháp nhẫn.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Vô sinh pháp nhẫn của Thanh văn, Độc giác cùng với Vô sinh pháp nhẫn của Đại Bồ-tát có sự sai biệt như thế nào?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, các bậc Dự lưu, hoặc trí, hoặc đoạn cũng gọi là nhẫn của Đại Bồ-tát; các bậc Nhất lai, hoặc trí, hoặc đoạn cũng gọi là nhẫn của Đại Bồ-tát; các bậc Bất hoàn, hoặc trí, hoặc đoạn cũng gọi là nhẫn của Đại Bồ-tát; các bậc A-la-hán hoặc trí, hoặc đoạn cũng gọi là nhẫn của Đại Bồtát; tất cả bậc Độc giác hoặc trí, hoặc đoạn cũng gọi là nhẫn của Đại Bồ-tát. Lại có nhẫn của Đại Bồ-tát gọi là Nhẫn về các pháp rốt ráo chẳng sinh, đó là sự sai biệt.

Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát vì thành tựu pháp nhẫn thù thắng như thế nên vượt hẳn tất cả Thanh văn, Độc giác.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy an trú trong vô sinh từ phước báo thù thắng như thế, hành theo con đường tu tập của Bồ-tát, có thể làm viên mãn trí Đạo tướng, nên thường chẳng xa lìa bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; cũng chẳng xa lìa pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; cũng chẳng xa lìa thần thông đạt được từ phước báo, nên từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật. Đại Bồ-tát ấy do đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật được viên mãn nên chỉ trong khoảng một sát-na thì tương ưng với diệu tuệ, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, có thể mau chóng thành tựu viên mãn An nhẫn ba-la-mật-đa vô tướng; vì thành tựu viên mãn An nhẫn ba-la-mật-đa vô tướng nên có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí, tất cả Phật Pháp đều được viên mãn.

Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trú trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như sự biến hóa; biết rõ như thật năm thủ uẩn ấy như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như sự biến hóa, không có thật tướng rồi, thân tâm phát khởi tinh tấn dũng mãnh. Đại Bồ-tát ấy vì thân tâm dấy khởi tinh tấn dũng mãnh nên nhanh chóng phát huy thần thông thù thắng; do thần thông này nên đi đến các thế giới khắp mười phương cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật, Thế Tôn; ở chỗ chư Phật, vun trồng các cội đức, đem lại lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình; cũng có thể làm nghiêm tịnh cõi Phật. Đại Bồtát ấy do dốc sức tinh tấn, tạo sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, tùy theo căn cơ của họ dùng phương tiện an lập nơi pháp của ba thừa, thảy đều rốt ráo.

Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, do dốc sức tinh tấn nên có thể mau chóng thành tựu viên mãn Tinh tấn ba-lamật-đa vô tướng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì dốc tâm phát khởi tinh tấn dũng mãnh nên phát huy chi đạo vô lậu của chư Thánh với đối tượng được thu giữ là tinh tấn, làm viên mãn Tinh tấn ba-la-mật-đa, trong đó, có thể gồm thâu, giữ gìn đầy đủ các pháp thiện, đó là bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, năm loại mắt, sáu phép thần thông, pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni, bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Đại Bồ-tát ấy an trú trong các pháp ấy, có thể làm viên mãn trí Nhất thiết tướng; do trí Nhất thiết tướng được viên mãn, nên vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí tương tục; do vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí tương tục nên các tướng của bậc Đại sĩ và vẻ đẹp phụ thuộc thành tựu viên mãn. Do các tướng và vẻ đẹp phụ thuộc thành tựu viên mãn nên chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, phóng hào quang lớn tỏa chiếu khắp thế giới ba lần ngàn, khiến các thế giới hiện đủ sáu thứ chấn động, chuyển bánh xe chánh pháp gồm đủ mười hai tướng. Do đó, các loại hữu tình trong thế giới ba lần ngàn, nhờ hào quang chiếu đến nhìn thấy biến động này, được nghe âm thanh của chánh pháp nên đối với ba thừa đạt được không thoái chuyển. Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thành tựu viên mãn Tinh tấn ba-la-mật-đa, an trú nơi Tinh tấn ba-la-mật-đa, có thể hoàn thành nhiều việc lợi ích cho mình và người, có thể mau chóng thành tựu viên mãn tất cả Phật Pháp, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trú trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như sự biến hóa, thành tựu viên mãn Tĩnh lự ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện, làm sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, rõ biết như thật năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như sự biến hóa, không có thật tướng rồi, nhập Sơ thiền và an trú trọn vẹn; nhập đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền, an trú trọn vẹn; nhập Từ vô lượng, an trú trọn vẹn; nhập Bi, Hỷ, Xả vô lượng, an trú trọn vẹn; nhập định Không vô biên xứ, an trú trọn vẹn; nhập định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trú trọn vẹn; tu Tam-ma-địa Không, tu Tam-ma-địa Vô tướng, vô nguyện, tu Tam-ma-địa Như điển, tu Tam-ma-địa Thánh chánh, Tam-ma-địa Kim cang dụ; an trú trong Tam-ma-địa Kim cang dụ, trừ Tam-ma-địa của Như Lai ra, tất cả các Tam-ma-địa khác, hoặc cùng với Tam-ma-địa của Thanh văn, hoặc cùng với Tam-ma-địa của Độc giác, hoặc vô lượng Tamma-địa khác, tất cả như thế đều có thể thân chứng và an trú trọn vẹn; nhưng đối với các Tam-ma-địa như Tĩnh lự, Vô lượng, Định vô sắc... chẳng sinh tham đắm cũng chẳng tham đắm nơi quả đạt được của chúng. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy rõ biết như thật các Tam-ma-địa Tĩnh lự, Vô lượng, Định vô sắc... và tất cả pháp đều không có thật tướng, đều lấy không tánh làm tự tánh, chẳng lẽ lấy pháp không tướng tham đắm pháp không tướng, cũng chẳng lẽ dùng không tánh làm pháp tự tánh, tham đắm không tánh làm pháp tự tánh. Do chẳng tham đắm Tam-ma-địa, nên Đại Bồ-tát ấy chẳng bao giờ tùy thuận diệu lực của các Tam-ma-địa, Tĩnh lự, Vô lượng, Định vô sắc... mà sinh vào cõi Sắc, Vô sắc. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả cảnh giới hoàn toàn không có sở đắc; đối với người nhập định, nơi chốn nhập định, nhân duyên nhập, cũng không có sở đắc. Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp, vì không có sở đắc nên có thể mau chóng thành tựu viên mãn Tĩnh lự ba-la-mật-đa vô tướng. Nhờ Tĩnh lự ba-la-mật-đa này mà vượt qua các bậc Thanh văn và Độc giác.

Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát ấy do đâu mà thành tựu viên mãn Tĩnh lự ba-la-mật-đa vô tướng, vượt hơn các bậc Thanh văn và Độc giác?

Phật dạy:

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy vì khéo học pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, nên Đại Bồtát ấy ở trong các pháp không có, chẳng đắc tất cả các pháp, an trú trong ấy nhưng chẳng đắc quả Dự lưu, chẳng đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, chẳng đắc tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng đắc quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Vì các tánh không đó cũng đều là không, nên Đại Bồ-tát ấy do an trú nơi pháp không này mà vượt hơn các bậc Thanh văn, Độc giác, chứng nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát lấy gì làm sinh, lấy gì làm ly sinh?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát dùng tất cả cái hữu sở đắc làm sinh và dùng tất cả cái vô sở đắc làm ly sinh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát lấy gì làm hữu sở đắc, lấy gì làm vô sở đắc?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát dùng tất cả pháp làm hữu sở đắc, đó là Đại Bồ-tát lấy sắc làm hữu sở đắc, lấy thọ, tưởng, hành, thức làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy nhãn xứ làm hữu sở đắc, lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy sắc xứ làm hữu sở đắc, lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy nhãn giới làm hữu sở đắc, lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy sắc giới làm hữu sở đắc, lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy nhãn thức giới làm hữu sở đắc, lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy nhãn xúc làm hữu sở đắc, lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra làm hữu sở đắc, lấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy địa giới làm hữu sở đắc, lấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy nhân duyên làm hữu sở đắc, lấy đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy vô minh làm hữu sở đắc, lấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não làm hữu sở đắc. Đại Bồtát lấy Bố thí ba-la-mật-đa làm hữu sở đắc, lấy Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy pháp không bên trong làm hữu sở đắc, lấy pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy bốn Niệm trụ làm hữu sở đắc, lấy bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy pháp môn giải thoát Không làm hữu sở đắc, lấy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy Thánh đế khổ làm hữu sở đắc, lấy Thánh đế tập, diệt, đạo làm hữu sở đắc. Đại Bồtát lấy bốn Tĩnh lự làm hữu sở đắc, lấy bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy tám Giải thoát làm hữu sở đắc, lấy tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa làm hữu sở đắc, lấy tất cả pháp môn Đà-la-ni làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy bậc Cực hỷ làm hữu sở đắc, lấy bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy năm loại mắt làm hữu sở đắc, lấy sáu phép thần thông làm hữu sở đắc. Đại Bồtát lấy mười lực của Phật làm hữu sở đắc, lấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy pháp không quên mất làm hữu sở đắc, lấy tánh luôn luôn xả làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy trí Nhất thiết làm hữu sở đắc, lấy trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy quả Dự lưu làm hữu sở đắc, lấy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy tất cả hạnh Đại Bồ-tát làm hữu sở đắc, lấy quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật làm hữu sở đắc. Đại Bồ-tát lấy các hữu sở đắc như thế làm sinh.

Này Thiện Hiện, còn vô sở đắc là Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp như thế đều không hành, không đắc, không nói, không chỉ (chỉ rõ), đó là Đại Bồtát đối với sắc không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với thọ, tưởng, hành, thức không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của sắc cho đến tự tánh của thức đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với nhãn xứ không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của nhãn xứ cho đến tự tánh của ý xứ đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với sắc xứ không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của sắc xứ cho đến tự tánh của pháp xứ đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với nhãn giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của nhãn giới cho đến tự tánh của ý giới đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với sắc giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của sắc giới cho đến tự tánh của pháp giới đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với nhãn thức giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của nhãn thức giới cho đến tự tánh của ý thức giới đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với nhãn xúc không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của nhãn xúc cho đến tự tánh của ý xúc đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ.

QUYỂN 379

Phẩm 67: NGHĨA PHÁP THUẦN NHẤT (2)

Đại Bồ-tát đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cho đến tự tánh của các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với địa giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của địa giới cho đến tự tánh của thức giới đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với nhân duyên không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của nhân duyên cho đến tự tánh của tăng thượng duyên đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với vô minh không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của vô minh cho đến tự tánh của lão tử, sầu bi khổ ưu não đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với Bố thí ba-la-mật-đa không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của Bố thí ba-la-mật-đa cho đến tự tánh của Bát-nhã ba-la-mật-đa đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với pháp không bên trong không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của pháp không bên trong cho đến tự tánh của pháp không không tánh tự tánh đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với bốn Niệm trụ không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của bốn Niệm trụ cho đến tự tánh của tám chi Thánh đạo đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với pháp môn giải thoát Không không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của pháp môn giải thoát Không cho đến tự tánh của pháp môn giải thoát Vô nguyện đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồtát đối với Thánh đế khổ không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với Thánh đế tập, diệt, đạo không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của Thánh đế khổ cho đến tự tánh của Thánh đế đạo đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với bốn Tĩnh lự không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của bốn Tĩnh lự cho đến tự tánh của bốn Định vô sắc đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với tám Giải thoát không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của tám Giải thoát cho đến tự tánh của mười Biến xứ đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa Không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với bậc Cực hỷ không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của bậc Cực hỷ cho đến tự tánh của bậc Pháp vân đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với năm loại mắt không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với sáu phép thần thông không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của năm loại mắt, tự tánh của sáu phép thần thông đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với mười lực của Phật không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh nơi mười lực của Phật cho đến tự tánh của mười tám pháp Phật bất cộng đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với pháp không quên mất không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với tánh luôn luôn xả không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của pháp không quên mất, tự tánh của tánh luôn luôn xả đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với trí Nhất thiết không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của trí Nhất thiết cho đến tự tánh của trí Nhất thiết tướng đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với quả Dự lưu không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của quả Dự lưu cho đến tự tánh của quả vị Độc giác đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, tự tánh của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ.

Đại Bồ-tát lấy sự không hành, không đắc, không nói, không chỉ như thế làm vô sở đắc, chính cái vô sở đắc ấy gọi là ly sinh.

Này Thiện Hiện, đó gọi là sinh và ly sinh của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát chứng nhập Chánh tánh ly sinh rồi, thành tựu viên mãn tất cả tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí. Đại Bồ-tát ấy còn chẳng theo diệu lực của định mà sinh, huống là theo nghiệp lực của phiền não như tham...! Đại Bồ-tát ấy nếu an trú trong ấy mà tạo tác các nghiệp và do sự dẫn dắt của nghiệp mà sinh bốn Tĩnh lự, lưu chuyển trong các cõi là điều không có. Đại Bồtát ấy tuy an trú trong các nhóm hành như huyễn, làm các điều lợi ích như thật cho các hữu tình, nhưng chẳng đắc huyễn và các hữu tình. Đại Bồtát ấy khi đối với các việc vô sở đắc như thế, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, hóa độ vô lượng chúng sinh.

Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, có thể mau chóng thành tựu viên mãn Tĩnh lự ba-la-mật-đa vô tướng, do Tĩnh lự ba-la-mật-đa mau viên mãn này, nên chóng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng sinh; pháp luân như thế gọi là vô sở đắc, cũng gọi là Không, Vô tướng, Vô nguyện, có khả năng đem lại lợi ích hơn hết cho các hữu tình.

Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trú trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như sự biến hóa, thành tựu viên mãn Bátnhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy rõ biết như thật tất cả pháp đều như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như sự biến hóa rồi, có thể thành tựu viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa vô tướng.

Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát rõ biết như thật tất cả pháp đều như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như sự biến hóa?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, chẳng thấy mộng, chẳng thấy người thấy mộng, chẳng nghe tiếng vang, chẳng thấy người nghe tiếng vang, chẳng thấy ảnh tượng, chẳng thấy người thấy ảnh tượng, chẳng thấy bóng sáng, chẳng thấy người thấy bóng sáng, chẳng thấy dợn nắng, chẳng thấy người thấy dợn nắng, chẳng thấy trò huyễn, chẳng thấy người thấy trò huyễn, chẳng thấy thành ảo, chẳng thấy người thấy thành ảo, chẳng thấy việc biến hóa, chẳng thấy người thấy việc biến hóa. Vì sao? Vì mộng và người thấy mộng, tiếng vang và người nghe tiếng vang, ảnh tượng và người thấy ảnh tượng, bóng sáng và người thấy bóng sáng, dợn nắng và người thấy dợn nắng, trò huyễn và người thấy trò huyễn, thành ảo và người thấy thành ảo, việc biến hóa và người thấy việc biến hóa đều là sự chấp trước điên đảo của phàm phu ngu si. Các bậc A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát và chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều chẳng thấy mộng cũng chẳng thấy người thấy mộng, đều chẳng nghe tiếng vang cũng chẳng thấy người nghe tiếng vang, đều chẳng thấy ảnh tượng cũng chẳng thấy người thấy ảnh tượng, đều chẳng thấy bóng sáng cũng chẳng thấy người thấy bóng sáng, đều chẳng thấy dợn nắng cũng chẳng thấy người thấy dợn nắng, đều chẳng thấy trò huyễn cũng chẳng thấy người thấy trò huyễn, đều chẳng thấy thành ảo cũng chẳng thấy người thấy thành ảo, đều chẳng thấy việc biến hóa cũng chẳng thấy người thấy việc biến hóa. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều lấy không tánh làm tự tánh, chẳng phải thành, chẳng phải thật, vô tướng, vô vi, chẳng phải thật có tánh và Niết-bàn... Nếu tất cả pháp đều lấy không tánh làm tự tánh, chẳng phải thành, chẳng phải thật, vô tướng, vô vi, chẳng phải thật có tánh và Niết-bàn... thì tại sao Đại Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp lại khởi tưởng có tánh, tưởng thành, tưởng thật, tưởng có, tưởng cho là thật có tánh, tưởng chẳng phải là tịch diệt? Nếu dấy khởi các tưởng ấy thì đó là điều không hề có. Vì sao? Vì nếu tất cả pháp có một chút tự tánh, có thành, có thật, có tướng, có tạo tác, có thật tánh, chẳng phải tịch diệt mà có thể nắm bắt được thì đối tượng tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa lẽ ra chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Như thế, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa, chẳng chấp trước sắc, chẳng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; chẳng chấp trước nhãn xứ, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng chấp trước sắc xứ, chẳng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng chấp trước nhãn giới, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng chấp trước sắc giới, chẳng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng chấp trước nhãn thức giới, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng chấp trước nhãn xúc, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng chấp trước các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; chẳng chấp trước địa giới, chẳng chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng chấp trước nhân duyên, chẳng chấp trước đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; chẳng chấp trước các pháp do duyên sinh ra; chẳng chấp trước vô minh, chẳng chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; chẳng chấp trước Dục giới, chẳng chấp trước Sắc giới, Vô sắc giới; chẳng chấp trước bốn Tĩnh lự, chẳng chấp trước bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chẳng chấp trước bốn Niệm trụ, chẳng chấp trước bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chẳng chấp trước pháp môn giải thoát Không, chẳng chấp trước pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chẳng chấp trước Thánh đế khổ, chẳng chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng chấp trước Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng chấp trước pháp không bên trong, chẳng chấp trước pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng chấp trước chân như, chẳng chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; chẳng chấp trước tám Giải thoát, chẳng chấp trước tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; chẳng chấp trước pháp môn Tam-ma-địa, chẳng chấp trước pháp môn Đà-la-ni; chẳng chấp trước bậc Cực hỷ, chẳng chấp trước bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chẳng chấp trước năm loại mắt, chẳng chấp trước sáu phép thần thông; chẳng chấp trước mười lực của Phật, chẳng chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng chấp trước pháp không quên mất, chẳng chấp trước tánh luôn luôn xả; chẳng chấp trước trí Nhất thiết, chẳng chấp trước trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; chẳng chấp trước quả Dự lưu, chẳng chấp trước quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; chẳng chấp trước tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng chấp trước quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng hề chấp trước nên có thể tu tập viên mãn Sơ địa ở đấy chẳng hề sinh tham đắm. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy chẳng đắc Sơ địa thì làm sao ở trong ấy khởi tham đắm! Do chẳng tham đắm nên có thể tu tập viên mãn từ địa Thứ hai đến địa Thứ mười, nhưng ở trong đó cũng chẳng sinh tham đắm. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy chẳng đắc địa Thứ hai cho đến địa Thứ mười thì làm sao ở trong đó khởi tham đắm?

Đại Bồ-tát ấy tuy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng chẳng đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa; do chẳng đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa nên cũng chẳng đắc tất cả pháp; tuy quán Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm thâu, giữ gìn tất cả pháp, nhưng đối với pháp ấy hoàn toàn không có sở đắc. Vì sao? Vì các pháp như thế cùng với Bát-nhã ba-la-mật-đa này là không hai, không khác. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp là chẳng thể phân biệt, được nêu bày là chân như, là pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, vì diệu nghĩa của pháp là thuần nhất không sai biệt vậy.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu tánh của tất cả pháp là thuần nhất không sai biệt thì tại sao có thể nói là thiện, là chẳng phải thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi, gồm đủ vô lượng pháp môn như thế?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Trong thật tánh của tất cả pháp có pháp nào có thể nói là thiện, là chẳng phải thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi, như thế, cho đến là quả Dự lưu, là quả Nhất lai, là quả Bất hoàn, là quả A-la-hán, là quả vị Độc giác, là các hạnh Đại Bồ-tát, là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, do nhân duyên này nên biết, tất cả pháp là thuần nhất không sai biệt, không tướng, không sinh, không diệt, không ngăn ngại, không nêu bày, không chỉ rõ. Thiện Hiện nên biết, Ta khi xưa tu hành theo con đường của Bồ-tát, đối với tự tánh của các pháp, hoàn toàn không có sở đắc, đó là hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức; hoặc nhãn xứ, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; hoặc sắc xứ, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; hoặc nhãn giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; hoặc sắc giới, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; hoặc nhãn thức giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; hoặc nhãn xúc, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, hoặc các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; hoặc địa giới, hoặc thủy, hỏa, phong, không, thức giới; hoặc nhân duyên, hoặc đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; hoặc pháp do duyên sinh ra; hoặc vô minh, hoặc hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; hoặc Dục giới, hoặc Sắc, Vô sắc giới; hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, như thế cho đến hoặc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, hoặc các hạnh Đại Bồ-tát, hoặc quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, đối với tự tánh của các pháp như thế đều không có sở đắc.

Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, từ lúc mới phát tâm cho đến khi an tọa nơi tòa Bồ-đề nhiệm mầu, sắp chứng quả vị Giác ngộ cao tột, thường nên khéo nhận biết về tự tánh của các pháp. Nếu thường khéo nhận biết tự tánh của các pháp thì có khả năng khéo tạo sự thanh tịnh cho nẻo tu tập Đại Bồ-đề, cũng có khả năng làm viên mãn các hạnh Đại Bồ-tát, đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, an trú nơi pháp ấy thì mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, dùng pháp của ba thừa với các phương tiện để điều phục các loài hữu tình, khiến mau được giải thoát khởi ba cõi.

Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên học Bát-nhã ba-la-mậtđa, có khả năng mau chóng viên mãn tất cả Phật pháp.


Trước

[Đầu trang][Mục lục Kinh Đại Bát Nhã]

Tiếp theo


[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]


[Mục lục tổng quát]