SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

HỘI THỨ I

Phẩm 68: TƯỚNG CỦA CÁC CÔNG ĐỨC
(QUYỂN 379 - 383)

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.

QUYỂN 379

QUYỂN 380

QUYỂN 381

QUYỂN 382

QUYỂN 383


QUYỂN 379

Phẩm 68: TƯỚNG CỦA CÁC CÔNG ĐỨC (1)

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, làm sao các pháp như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như sự biến hóa, hoàn toàn không thật có, đều lấy không tánh làm tự tánh, tự tướng đều là không mà có thể an lập là thiện, là chẳng phải thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi, như thế cho đến là quả Dự lưu, là chủ thể chứng quả Dự lưu, là quả Nhất lai, là chủ thể chứng quả Nhất lai, là quả Bất hoàn, là chủ thể chứng quả Bất hoàn, là quả A-la-hán, là chủ thể chứng quả A-lahán, là quả vị Độc giác, là chủ thể chứng quả vị Độc giác, là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, là chủ thể chứng quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, phàm phu ngu si không hiểu biết ở thế gian, thấy mộng, thấy người thấy mộng, nghe tiếng vang, thấy người nghe tiếng vang, thấy ảnh tượng, thấy người thấy ảnh tượng, thấy bóng sáng, thấy người thấy bóng sáng, thấy dợn nắng, thấy người thấy dợn nắng, thấy trò huyễn, thấy người thấy trò huyễn, thấy thành ảo, thấy người thấy thành ảo, thấy sự biến hóa, thấy người thấy sự biến hóa. Các phàm phu ngu si không hiểu biết ấy, thấy mộng, thấy người thấy mộng rồi, nghe tiếng vang, thấy người nghe tiếng vang rồi, thấy ảnh tượng, thấy người thấy ảnh tượng rồi, thấy bóng sáng, thấy người thấy bóng sáng rồi, thấy dợn nắng, thấy người thấy dợn nắng rồi, thấy trò huyễn, thấy người thấy trò huyễn rồi, thấy thành ảo, thấy người thấy thành ảo rồi, thấy sự biến hóa, thấy người thấy sự biến hóa rồi đều chấp trước điên đảo tạo ra việc làm thiện, việc làm bất thiện về thân, ngữ, ý, tạo ra việc làm phước, việc làm chẳng phải phước, việc làm bất động về thân, ngữ, ý. Do các việc làm ấy nên mãi qua lại nơi nẻo sinh tử, lưu chuyển vô cùng tận.

Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát hai pháp không là pháp không rốt ráo và pháp không không biên giới, an trú trong hai pháp không ấy vì các hữu tình kia thuyết giảng chánh pháp, nghĩa là nói như thế này: Các ngươi nên biết sắc là không, không có ngã, ngã sở, thọ, tưởng, hành, thức là không, không có ngã, ngã sở; nhãn xứ là không, không có ngã, ngã sở, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, không có ngã, ngã sở; sắc xứ là không, không có ngã, ngã sở, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, không có ngã, ngã sở; nhãn giới là không, không có ngã, ngã sở, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là không, không có ngã, ngã sở; sắc giới là không, không có ngã, ngã sở, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là không, không có ngã, ngã sở; nhãn thức giới là không, không có ngã, ngã sở, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là không, không có ngã, ngã sở; nhãn xúc là không, không có ngã, ngã sở, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là không, không có ngã, ngã sở; các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là không, không có ngã, ngã sở, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra là không, không có ngã, ngã sở; địa giới là không, không có ngã, ngã sở, thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, không có ngã, ngã sở; nhân duyên là không, không có ngã, ngã sở, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là không, không có ngã, ngã sở; pháp do các duyên này sinh ra là không, không có ngã, ngã sở; vô minh là không, không có ngã, ngã sở, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não là không, không có ngã, ngã sở; pháp hữu lậu là không, không có ngã, ngã sở, pháp vô lậu là không, không có ngã, ngã sở, pháp hữu vi là không, không có ngã, ngã sở, pháp vô vi, là không, không có ngã, ngã sở. Lại nói thế này, các ngươi nên biết: Sắc như mộng, hoàn toàn không có tự tánh, thọ, tưởng, hành, thức như mộng, hoàn toàn không có tự tánh; sắc như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, thọ, tưởng, hành, thức như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; nhãn xứ như mộng, hoàn toàn không có tự tánh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như mộng, hoàn toàn không có tự tánh; nhãn xứ như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; sắc xứ như mộng, hoàn toàn không có tự tánh, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như mộng, hoàn toàn không có tự tánh; sắc xứ như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; nhãn giới như mộng, hoàn toàn không có tự tánh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như mộng, hoàn toàn không có tự tánh; nhãn giới như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; sắc giới như mộng, hoàn toàn không có tự tánh, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như mộng, hoàn toàn không có tự tánh; sắc giới như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; nhãn thức giới như mộng, hoàn toàn không có tự tánh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như mộng, hoàn toàn không có tự tánh; nhãn thức giới như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; nhãn xúc như mộng, hoàn toàn không có tự tánh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như mộng, hoàn toàn không có tự tánh; nhãn xúc như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra như mộng, hoàn toàn không có tự tánh, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra như mộng, hoàn toàn không có tự tánh; các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; địa giới như mộng, hoàn toàn không có tự tánh, thủy, hỏa, phong, không, thức giới như mộng, hoàn toàn không có tự tánh; địa giới như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, thủy, hỏa, phong, không, thức giới như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; nhân duyên như mộng, hoàn toàn không có tự tánh, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như mộng, hoàn toàn không có tự tánh; nhân duyên như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; pháp từ duyên sinh ra như mộng, hoàn toàn không có tự tánh; pháp từ duyên sinh ra như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; vô minh như mộng, hoàn toàn không có tự tánh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não như mộng, hoàn toàn không có tự tánh; vô minh như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; pháp hữu lậu như mộng, hoàn toàn không có tự tánh, pháp vô lậu như mộng, hoàn toàn không có tự tánh; pháp hữu lậu như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, pháp vô lậu như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; pháp hữu vi như mộng, hoàn toàn không có tự tánh, pháp vô vi như mộng, hoàn toàn không có tự tánh; pháp hữu vi như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, pháp vô vi như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh.

Lại nói thế này, các ngươi nên biết: Trong đó, không có sắc, cũng không có thọ, tưởng, hành, thức; không có nhãn xứ, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; không có sắc xứ, cũng không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; không có nhãn giới, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; không có sắc giới, cũng không có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; không có nhãn thức giới, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; không có nhãn xúc, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, cũng không có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; không có địa giới, cũng không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới; không có nhân duyên, cũng không có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; không có các pháp do các duyên sinh ra; không có vô minh, cũng không có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; không có pháp hữu lậu, cũng không có pháp vô lậu; không có pháp hữu vi, cũng không có pháp vô vi; không có mộng, cũng không có người thấy mộng, không có tiếng vang, cũng không có người nghe tiếng vang, không có ảnh tượng, cũng không có người thấy ảnh tượng, không có bóng sáng, cũng không có người thấy bóng sáng, không có dợn nắng, thấy người thấy dợn nắng, không có trò huyễn, cũng không có người thấy trò huyễn, không có thành ảo, cũng không có người thấy thành ảo, không có việc biến hóa, cũng không có người thấy việc biến hóa. Lại nói thế này: Các ngươi nên biết tất cả pháp ấy đều không thật có, đều lấy không tánh làm tự tánh; vì nghiệp lực phân biệt hư vọng của các ngươi nên trong cái không có sắc, thấy có sắc, trong cái không có thọ, tưởng, hành, thức, thấy có thọ, tưởng, hành, thức; trong cái không có nhãn xứ, thấy có nhãn xứ, trong cái không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, thấy có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; trong cái không có sắc xứ, thấy có sắc xứ, trong cái không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thấy có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; trong cái không có nhãn giới, thấy có nhãn giới, trong cái không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, thấy có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; trong cái không có sắc giới, thấy có sắc giới, trong cái không có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thấy có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; trong cái không có nhãn thức giới, thấy có nhãn thức giới, trong cái không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, thấy có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; trong cái không có nhãn xúc, thấy có nhãn xúc, trong cái không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, thấy có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; trong cái không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, thấy có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, trong cái không có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, thấy có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; trong cái không có địa giới, thấy có địa giới, trong cái không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thấy có thủy, hỏa, phong, không, thức giới; trong cái không có nhân duyên, thấy có nhân duyên, trong cái không có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, thấy có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; trong cái không có các pháp từ duyên sinh ra, thấy có các pháp từ duyên sinh ra; trong cái không có vô minh, thấy có vô minh, trong cái không có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, thấy có hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não; trong cái không có pháp hữu lậu, thấy có pháp hữu lậu, trong cái không có pháp vô lậu, thấy có pháp vô lậu; trong cái không có pháp hữu vi, thấy có pháp hữu vi, trong cái không có pháp vô vi, thấy có pháp vô vi.

Lại nói thế này, các ngươi nên biết: Tánh của tất cả pháp như uẩn, giới, xứ... đều từ các duyên hòa hợp tạo nên, do chỗ gồm thâu, giữ gìn của các nghiệp, quả báo mà có sự dấy khởi điên đảo. Các ngươi đâu biết là với pháp hư vọng không thật mà khởi tưởng có thật!

Khi ấy, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mậtđa, dùng phương tiện thiện xảo, nếu các hữu tình có tham lam keo kiệt thì dùng phương tiện cứu vớt, khiến lìa tham lam keo kiệt, các hữu tình ấy lìa bỏ tham lam keo kiệt rồi thì chỉ dạy cho tu tập Bố thí ba-la-mật-đa. Các hữu tình ấy, do tu tập bố thí nên được tài lộc lớn, phú quý tự tại. Lại từ đó, dùng phương tiện cứu vớt chỉ dạy tu Tịnh giới ba-lamật-đa, vì do tịnh giới, các hữu tình ấy được sinh vào đường thiện, tôn quý tự tại. Lại từ đó, dùng phương tiện cứu vớt, chỉ dạy tu An nhẫn ba-la-mậtđa, các hữu tình ấy vì do tu tập an nhẫn, nên có thể mau đạt được Vô sinh pháp nhẫn. Lại từ đó, dùng phương tiện cứu vớt, chỉ dạy tu Tinh tấn ba-la-mậtđa, các hữu tình ấy vì do tinh tấn nên cho đến khi đạt quả vị Giác ngộ cao tột, đối với các pháp thiện không còn thoái chuyển. Lại từ đó, dùng phương tiện cứu vớt, chỉ dạy tu Tĩnh lự ba-la-mật-đa, các hữu tình ấy, vì do tĩnh lự nên được sinh vào thế giới thanh tịnh lìa dục (Sắc giới). An trú tự tại trong Sơ thiền; từ Sơ thiền, dùng phương tiện cứu vớt, lại khiến an trú trong đệ Nhị thiền; từ đệ Nhị thiền, dùng phương tiện cứu vớt, lại khiến an trú trong đệ Tam thiền; từ đệ Tam thiền, dùng phương tiện cứu vớt, lại khiến an trú trong đệ Tứ thiền; từ đệ Tứ thiền, dùng phương tiện cứu vớt, lại khiến an trú trong định Không vô biên xứ; từ định Không vô biên xứ, dùng phương tiện cứu vớt, lại khiến an trú trong định Thức vô biên xứ; từ định Thức vô biên xứ, dùng phương tiện cứu vớt, lại khiến an trú trong định Vô sở hữu xứ; từ định Vô sở hữu xứ, dùng phương tiện cứu vớt, lại khiến an trú trong định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Lại từ đó, dùng phương tiện cứu vớt, khiến an trú nơi ba thừa, hoặc khiến an trú nơi bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, hoặc khiến an trú nơi pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, hoặc khiến an trú nơi tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, hoặc khiến an trú nơi pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, hoặc khiến an trú nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, hoặc khiến an trú nơi Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc khiến an trú nơi pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc khiến an trú nơi chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; hoặc khiến an trú nơi bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; hoặc khiến an trú nơi năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc khiến an trú nơi mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc khiến an trú nơi pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc khiến an trú nơi trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.

Đại Bồ-tát ấy, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa với phương tiện thiện xảo, nếu các hữu tình tham đắm đối với pháp bố thí hữu vi và quả, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư. Nếu các hữu tình tham đắm đối với pháp tịnh giới hữu vi và quả, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư. Nếu các hữu tình tham đắm đối với pháp an nhẫn hữu vi và quả, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư. Nếu các hữu tình tham đắm đối với pháp tinh tấn hữu vi và quả, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư. Nếu các hữu tình tham đắm đối với pháp tĩnh lự hữu vi và quả, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư. Nếu các hữu tình tham đắm đối với pháp Bát-nhã hữu vi và quả, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư. Nếu các hữu tình tham đắm đối với bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo hữu vi thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư. Nếu các hữu tình tham đắm đối với pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư. Nếu các hữu tình tham đắm đối với tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư. Nếu các hữu tình tham đắm đối với pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tamma-địa hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư. Nếu các hữu tình tham đắm đối với bốn Thánh đế hữu vi không đẳng quán thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư.

Nếu các hữu tình tham đắm đối với bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư. Nếu các hữu tình tham đắm đối với mười địa Bồ-tát hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư. Nếu các hữu tình tham đắm đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư. Nếu các hữu tình tham đắm đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư. Nếu các hữu tình tham đắm đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư. Nếu các hữu tình tham đắm đối với trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trú nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư.

Đại Bồ-tát ấy, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa với phương tiện thiện xảo, thành tựu pháp chân vô lậu, vô sắc, vô kiến, vô đối, an trú trong đó. Nếu các hữu tình đáng đắc quả Dự lưu thì dùng các phương tiện cứu giúp khiến an trú nơi quả Dự lưu. Nếu các hữu tình đáng đắc quả Dự lưu thì dùng các phương tiện cứu giúp khiến an trú nơi quả Dự lưu. Nếu các hữu tình đáng đắc quả Nhất lai thì dùng các phương tiện cứu giúp khiến an trú nơi quả Nhất lai. Nếu các hữu tình đáng đắc quả Bất hoàn thì dùng các phương tiện cứu giúp khiến an trú nơi quả Bất hoàn. Nếu các hữu tình đáng đắc quả A-la-hán thì dùng các phương tiện cứu giúp khiến an trú nơi quả A-la-hán. Nếu các hữu tình đáng đắc quả vị Độc giác thì dùng các phương tiện cứu giúp khiến an trú nơi quả vị Độc giác. Nếu các hữu tình đáng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì dùng phương tiện cứu giúp, vì họ nói các nẻo tu tập Đại Bồ-đề, chỉ rõ, khuyên bảo, dẫn dắt, khen ngợi, khích lệ, chúc mừng, khiến an trú nơi quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, như thế các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát hai pháp không là rốt ráo và không biên giới, an trú trong hai pháp không ấy, tuy biết các pháp như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa, hoàn toàn chẳng phải thật có, đều lấy không tánh làm tự tánh, tự tướng đều không, nhưng có thể nêu bày là thiện, là chẳng phải thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi, là quả Dự lưu, là chủ thể chứng quả Dự lưu, là quả Nhất lai, là chủ thể chứng quả Nhất lai, là quả Bất hoàn, là chủ thể chứng quả Bất hoàn, là quả A-la-hán, là chủ thể chứng quả A-lahán, là quả vị Độc giác, là chủ thể chứng quả vị Độc giác, là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, là chủ thể chứng quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, đều không lẫn lộn.

Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát rất là hy hữu, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát hai pháp không là rốt ráo và không biên giới, an trú trong hai pháp không ấy, tuy biết các pháp như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như dợn nắng, như trò huyễn, như thành ảo, như việc biến hóa, hoàn toàn chẳng phải thật có, đều lấy không tánh làm tự tánh, tự tướng đều không, nhưng có thể nêu bày là thiện, là chẳng phải thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi... đều không lẫn lộn.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như ông đã nói! Các Đại Bồ-tát thật là hy hữu, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tuy biết các pháp đều là tánh không: rốt ráo, không biên giới nhưng có thể an lập thiện, chẳng phải thiện... chẳng hề lẫn lộn.

Này Thiện Hiện, các ông, nếu biết các Đại Bồtát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có được pháp rất là hy hữu, hàng Thanh văn, Độc giác đều chẳng có, chẳng thể suy lường được. Tất cả hàng Thanh văn, Độc giác các ông, đối với biện tài của các Đại Bồ-tát còn chẳng thể trả lời, huống chi là các hữu tình khác có thể đáp lại được.

QUYỂN 380

Phẩm 68: TƯỚNG CỦA CÁC CÔNG ĐỨC (2)

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, những gì gọi là pháp hết mực hy hữu của Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa mà hàng Thanh văn, Độc giác đều chẳng có?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe và hãy suy nghĩ chín chắn. Ta sẽ vì các ông phân biệt, giảng nói về pháp hết mực hy hữu của Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trú nơi các pháp do phước báo tạo ra như Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, năm phép thần thông vi diệu, ba mươi bảy thứ pháp phần Bồ-đề, pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, bốn sự hiểu biết thông suốt, tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, pháp Tam-ma-địa Không, Vô tướng, Vô nguyện... vô lượng công đức, đi đến mười phương thế giới, nếu các hữu tình, đáng dùng Bố thí đem lại lợi ích thì dùng Bố thí đem lại lợi ích cho họ; đáng dùng Tịnh giới đem lại lợi ích thì dùng Tịnh giới đem lại lợi ích cho họ; đáng dùng An nhẫn đem lại lợi ích thì dùng An nhẫn đem lại lợi ích cho họ; đáng dùng Tinh tấn đem lại lợi ích thì dùng Tinh tấn đem lại lợi ích cho họ; đáng dùng Tĩnh lự đem lại lợi ích thì dùng Tĩnh lự đem lại lợi ích cho họ; đáng dùng Bát-nhã đem lại lợi ích thì dùng Bát-nhã đem lại lợi ích cho họ; đáng dùng Sơ thiền đem lại lợi ích thì dùng Sơ thiền đem lại lợi ích cho họ; đáng dùng đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền đem lại lợi ích thì dùng đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền đem lại lợi ích cho họ; đáng dùng định Không vô biên xứ đem lại lợi ích thì dùng định Không vô biên xứ đem lại lợi ích cho họ; đáng dùng định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ đem lại lợi ích thì dùng định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ đem lại lợi ích cho họ; đáng dùng Từ vô lượng đem lại lợi ích thì dùng Từ vô lượng đem lại lợi ích cho họ; đáng dùng Bi, Hỷ, Xả vô lượng đem lại lợi ích thì dùng Bi, Hỷ, Xả vô lượng đem lại lợi ích cho họ; đáng dùng bốn Niệm trụ đem lại lợi ích thì dùng bốn Niệm trụ đem lại lợi ích cho họ; đáng dùng bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo đem lại lợi ích thì dùng bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo đem lại lợi ích cho họ; đáng dùng Tam-ma-địa Không đem lại lợi ích thì dùng Tam-ma-địa Không đem lại lợi ích cho họ; đáng dùng Tam-ma-địa Vô tướng, Vô nguyện đem lại lợi ích thì dùng Tam-ma-địa Vô tướng, Vô nguyện đem lại lợi ích cho họ; đáng dùng các pháp thiện khác đem lại lợi ích thì dùng các pháp thiện khác đem lại lợi ích cho họ.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trú nơi các pháp do phước báo tạo nên như Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, năm phép thần thông vi diệu, ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, bốn sự hiểu biết thông suốt, tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, Tam-ma-địa Không, Vô tướng, Vô nguyện... vô lượng công đức, dùng Bố thí... đem lại lợi ích cho hữu tình?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chu cấp cho các hữu tình những vật cần dùng: Cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần y phục cho y phục, cần xe cho xe, cần hương hoa cho hương hoa, cần cờ phướn, dù lọng quý cho cờ phướn, dù lọng quý, cần đồ nằm cho đồ nằm, cần đồ trang sức cho các đồ trang sức như chuỗi báu... cần nhà cửa cho nhà cửa, cần đèn sáng cho đèn sáng, cần nhạc hay cho nhạc hay, cần thuốc thang cho thuốc thang, tùy theo nhu cầu mà các loại vật dụng đều được cho hết, không để thiếu hụt. Cũng như dâng đồ cúng dường cho Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, dâng cúng cho các bậc Độc giác cũng như thế. Như dâng đồ cúng dường cho các bậc Độc giác, dâng cúng cho bậc A-la-hán cũng như thế. Như dâng đồ cúng dường cho bậc Ala-hán, dâng cúng cho các Bất hoàn cũng như thế. Như dâng đồ cúng dường cho Bất hoàn, dâng cúng cho Nhất lai cũng như thế. Như dâng đồ cúng dường cho Nhất lai, dâng cúng cho các Dự lưu cũng như thế. Như dâng đồ cúng dường cho Dự lưu, dâng cúng cho các hàng Chánh chí, Chánh hành cũng như thế. Như dâng đồ cúng dường cho Chánh chí, Chánh hành, dâng cúng cho người trì giới cũng như thế. Như dâng đồ cúng dường cho người trì giới, cấp cho người phạm giới, cấp cho các ngoại đạo cũng như thế. Như cấp các đồ cần dùng cho ngoại đạo, cấp cho các hạng người khác cũng như vậy. Như chu cấp đồ cần dùng cho loài người, chu cấp cho các loại phi nhân cũng như vậy. Như chu cấp các đồ cần dùng cho loài phi nhân, cấp cho các bàng sinh cũng như thế.

Đối với các hữu tình, tâm Bồ-tát luôn bình đẳng không có tưởng sai biệt mà hành bố thí. Trên từ chư Phật, dưới đến bàng sinh luôn bình đẳng, trong sự bình đẳng không chút phân biệt. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát thông tỏ tự tướng của các pháp và hữu tình đều là không, hoàn toàn không sai biệt nên không có tướng khác, không có sự phân biệt mà hành bố thí. Đại Bồ-tát ấy do không có tưởng khác, không có sự phân biệt mà hành bố thí, nên sẽ đắc quả không đổi khác, không phân biệt, nghĩa là thành tựu viên mãn được trí Nhất thiết tướng và vô lượng công đức khác của chư Phật.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát thấy người đi xin mà nghĩ thế này: Nếu là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là ruộng phước thì ta nên cung kính cúng dường; nếu là bàng sinh, chẳng phải ruộng phước thì chẳng nên cho các vật dụng cần dùng; nếu Đại Bồ-tát ấy khởi tâm như thế thì chẳng phải là pháp của Bồ-tát. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì các Đại Bồ-tát phát tâm Bồ-đề cầu đạt quả vị Giác ngộ cao tột, cần phải làm thanh tịnh tâm mình thì ruộng phước mới thanh tịnh. Thấy người đi xin, chẳng nên nghĩ rằng: “Hữu tình như thế, ta nên bố thí, làm việc lợi ích cho họ; còn hữu tình như thế, ta chẳng nên bố thí, chẳng làm lợi ích!” Nếu suy nghĩ như thế là trái với tâm Bồ-đề: Ta vì hữu tình sẽ làm nơi nương tựa cậy nhờ, làm bến bờ, nhà cửa để cứu giúp; thấy các người đi xin thì nên nghĩ: “Hữu tình này bị bần cùng cô độc, ta sẽ dùng bố thí đem lại lợi ích cho người ấy, người ấy do nhân duyên này cũng có thể chuyển hóa, ít muốn ưa đủ, lìa bỏ sự giết hại sinh mạng, lìa bỏ việc không cho mà lấy, lìa dục, tà hạnh, lìa nói hư dối, lìa nói ly gián, lìa nói thô ác, lìa nói hỗn tạp, cũng lìa tham dục, sân hận, tà kiến. Do nhân duyên này, được sinh vào dòng dõi lớn Sát-đế-lợi, hoặc dòng dõi lớn Bà-lamôn, hoặc dòng dõi lớn Trưởng giả, hoặc dòng dõi lớn Cư sĩ, hoặc sinh vào một chốn phú quý nào đó, đầy đủ của báu, tu các nghiệp thiện; hoặc do nhân duyên tạo được lợi ích của sự bố thí này, dần dần nương vào ba thừa mà được độ thoát, nghĩa là khiến hướng nhập ba cảnh giới Niết-bàn vô dư y của Thanh văn, Độc giác và Vô thượng thừa.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát có những kẻ oán địch khác, hoặc các hữu tình đi đến chỗ vị ấy muốn gây tổn hại, hoặc vì thiếu thốn mà tìm đến cầu xin, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng bao giờ phát khởi tâm phân biệt sai khác là kẻ này nên cho, kẻ kia không nên cho, chỉ luôn phát khởi tâm bình đẳng, tùy theo sự cầu xin đều cho hết. Vì sao? Vì Đại Bồtát ấy dốc đem lại lợi lạc cho khắp các hữu tình, mong đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột. Còn nếu phát khởi tâm phân biệt sai khác là kẻ này nên cho, kẻ kia chẳng nên cho, thì bị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chư Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn,

Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian cùng chê trách: Ai cần ông phát tâm Bồ-đề, thề nguyện đem lại lợi lạc cho khắp các hữu tình, người không nơi nương tựa làm nơi nương tựa, người không ai cứu hộ làm người cứu hộ, người không nhà cửa, làm chỗ nhà cửa, người không chỗ dừng chân, làm chỗ dừng chân, nhưng nay lại chọn lựa phân biệt là có cho, không cho!

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có người và phi nhân đi đến chỗ vị ấy cầu xin các bộ phận nơi cơ thể như tay, chân, lóng, đốt... thì Đại Bồ-tát ấy chẳng khởi hai tâm là cho hoặc không cho mà chỉ nghĩ thế này: “Tùy theo sự cầu xin, sẽ cho họ.” Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thường suy nghĩ: “Ta vì nhằm đem lại lợi lạc cho các hữu tình mà thọ thân này; các hữu tình đến xin nhất định sẽ cho, chẳng nên không cho.” Vì vậy, thấy người cầu xin liền khởi tâm: “Nay thân này của ta vốn là vì họ mà thọ sinh, họ không đến lấy ta còn phải tự đưa đi, huống là họ đến cầu xin mà ta không cho!” Nghĩ như thế rồi, vui mừng hết mực, tự cắt từng phần mà trao cho họ, lại tự mừng là nay đạt được lợi ích lớn.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa nên học như thế.

Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát thấy có người cầu xin, liền nghĩ thế này: Nay trong sự việc này, ai cho ai nhận, cho vật gì, do đâu mà cho, vì cái gì mà cho, tại sao mà cho? Tự tánh của các pháp như thế đều rốt ráo không, chẳng phải là trong pháp không ấy có cho, có lấy.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên học như thế! Các pháp đều không, nghĩa là hoặc do pháp không bên trong nên không, hoặc do pháp không bên ngoài nên không, hoặc do pháp không cả trong ngoài nên không, hoặc do pháp không không nên không, hoặc do pháp không lớn nên không, hoặc do pháp không thắng nghĩa nên không, hoặc do pháp không hữu vi nên không, hoặc do pháp không vô vi nên không, hoặc do pháp không rốt ráo nên không, hoặc do pháp không không biên giới nên không, hoặc do pháp không tản mạn nên không, hoặc do pháp không không đổi khác nên không, hoặc do pháp không bản tánh nên không, hoặc do pháp không tự tướng nên không, hoặc do pháp không cộng tướng nên không, hoặc do pháp không nơi tất cả pháp nên không, hoặc do pháp không chẳng thể nắm bắt được nên không, hoặc do pháp không không tánh nên không, hoặc do pháp không tự tánh nên không, hoặc do pháp không không tánh tự tánh nên không. Đại Bồ-tát ấy an trú trong không này mà hành bố thí, luôn không gián đoạn, thành tựu viên mãn nên khi dù bị người cắt xẻo các bộ phận trong ngoài, tâm vị ấy hoàn toàn không sân hận, phân biệt, chỉ nghĩ thế này: “Hữu tình và pháp, tất cả đều là không thì ai cắt xẻo ta, ai bị cắt xẻo, ai lại quán không?”

Lại nữa Thiện Hiện, Ta dùng Phật nhãn xem khắp vô lượng hằng hà sa thế giới trong mười phương, thấy các Đại Bồ-tát vì muốn đem lại lợi lạc cho các loài hữu tình nên nguyện nhập vào đại địa ngục; vào rồi thì phát khởi ba cách chỉ dẫn. Ba cách đó là gì? Một là dùng sự biến hóa thần diệu để chỉ dẫn, hai là dùng ký thuyết để chỉ dẫn, ba là dùng sự răn dạy để chỉ dẫn. Đại Bồ-tát ấy dùng sự biến hóa thần diệu để chỉ dẫn nhằm diệt trừ vô số các loại vật dụng tạo khổ nơi địa ngục như nước sôi, lửa, dao..., dùng ký thuyết để chỉ dẫn nhằm ghi nhớ tâm niệm của hữu tình để vì họ nói pháp, dùng sự răn dạy để chỉ dẫn, đối với họ phát khởi tâm đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, vì họ nói pháp, khiến các loại hữu tình ở trong địa ngục ấy, ngay nơi chỗ Bồ-tát sinh lòng tin thanh tịnh; do nhân duyên này, từ địa ngục ra, được sinh lên cõi trời, hoặc sinh vào cõi người, dần dần nương vào ba thừa, vượt khỏi vòng khổ não.

Lại nữa Thiện Hiện, Ta dùng Phật nhãn xem khắp vô lượng hằng hà sa thế giới trong mười phương, thấy các Đại Bồ-tát khi phụng sự, cúng dường chư Phật Thế Tôn, thân tâm hoan hỷ, chẳng phải chẳng hoan hỷ, thân tâm ưa thích, chẳng phải chẳng ưa thích, thân tâm cung kính, chẳng phải chẳng cung kính. Đại Bồ-tát ấy đối với chánh pháp mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã giảng nói, cung kính lắng nghe, thọ trì đọc tụng cho đến khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng bao giờ quên mất. Lại theo pháp đẽ nghe, thường vì hữu tình giảng giải rõ ràng, khiến họ đạt được lợi ích an lạc thù thắng, cho nên khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thường không biếng lười bỏ phế.

Lại nữa Thiện Hiện, Ta dùng Phật nhãn xem khắp vô lượng hằng hà sa thế giới trong mười phương, thấy các Đại Bồ-tát vì muốn đem lại lợi ích cho các hữu tình trong loài bàng sinh nên tự xả bỏ thân mạng. Đại Bồ-tát ấy thấy các bàng sinh bị lửa đói bức bách muốn tàn hại nhau, nên khởi tâm thương xót, tự cắt các bộ phận của thân, chặt các lóng đốt, ném khắp mười phương để chúng tự ý ăn nuốt. Các loài bàng sinh được ăn thịt nơi thân Bồtát này đều đối với Bồ-tát khởi tâm rất xấu hổ và rất thương kính. Do nhân duyên ấy, chúng thoát khỏi loài bàng sinh, được sinh lên cõi trời, hoặc sinh vào loài người, gặp Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nghe thuyết giảng chánh pháp, theo đúng lý tu hành, dần dần nương vào ba thừa mà được độ thoát, nghĩa là tùy theo đó mà chứng nhập ba cảnh giới Niết-bàn vô dư y của Thanh văn, Độc giác và Vô thượng thừa.

Này Thiện Hiện, như thế các Đại Bồ-tát thường vì thế gian mà làm việc khó làm, mang nhiều lợi ích, nghĩa là vì nhằm đem lại lợi lạc cho các hữu tình mà tự phát tâm Vô thượng Bồ-đề, cũng khiến cho người phát tâm chán lìa sinh tử, cầu quả Bồđề, tự thực hành vô số các pháp chánh hạnh như thật; cũng khiến người hành theo, dần dần nhập cảnh giới Niết-bàn của ba thừa.

Lại nữa Thiện Hiện, Ta dùng Phật nhãn xem khắp vô lượng hằng hà sa thế giới trong mười phương, thấy các Đại Bồ-tát vì muốn đem lại lợi ích cho các loài hữu tình nơi cõi ngạ quỷ, cho nên nguyện sinh vào trong cõi ấy, dùng phương tiện dứt trừ các khổ về đói khát. Các ngạ quỷ ấy, khi các khổ đã dứt, đối với Bồ-tát này, khởi tâm rất xấu hổ và thương kính; nhờ căn lành này nên thoát khỏi nẻo quỷ đói, được sinh lên cõi trời, hoặc sinh vào cõi người, thường gặp Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cung kính cúng dường, nghe thuyết giảng chánh pháp, dần dần tu hành chánh hạnh của ba thừa cho đến khi được nhập ba cảnh giới Niết-bàn vô dư y.

Này Thiện Hiện, như thế các Đại Bồ-tát đối với loài hữu tình an trú nơi tâm đại Bi, phát khởi vô biên phương tiện thiện xảo, cứu vớt khiến nhập Niết-bàn của ba thừa, rốt ráo an lạc.

Lại nữa Thiện Hiện, Ta dùng Phật nhãn xem khắp vô lượng hằng hà sa thế giới trong mười phương, thấy các Đại Bồ-tát, hoặc vì chúng trời Tứ đại vương tuyên thuyết chánh pháp, hoặc vì trời Ba mươi ba tuyên thuyết chánh pháp, hoặc vì trời Dạ-ma tuyên thuyết chánh pháp, hoặc vì trời Đổsử-đa tuyên thuyết chánh pháp, hoặc vì trời Lạc biến hóa tuyên thuyết chánh pháp, hoặc vì trời Tha hóa tự tại tuyên thuyết chánh pháp. Các chúng trời ấy, ở chỗ Bồ-tát, được nghe chánh pháp rồi, dần dần nương vào ba thừa siêng tu chánh hạnh, tùy theo con đường tu tập mà nhập vào ba cảnh giới Niết-bàn vô dư y.

Này Thiện Hiện, trong chúng trời ấy có các Thiên tử do đam mê năm dục lạc thượng diệu nơi cõi trời và cung điện báu mà họ đang thọ hưởng. Đại Bồ-tát ấy bèn thị hiện lửa nổi lên thiêu cháy các cung điện kia, khiến các Thiên tử sinh tâm sợ hãi nhàm chán, nhân đó vì họ mà giảng nói pháp thế này: “Này các Thiên tử, nên quán sát kỹ, các hành là vô thường, khổ, không, phi ngã chẳng thể bảo đảm tin cậy. Người có trí ai lại ưa thích tham đắm các thứ ấy!” Khi đó, các Thiên tử nghe pháp âm này, đối với năm dục đều sinh tâm nhàm chán xa lìa, tự quán thân mạng là hư dối vô thường, giống như cây chuối, ánh chớp, dợn nắng, quán các cung điện giống như tù ngục; quán như thế rồi, dần dần nương vào ba thừa, siêng tu chánh hạnh mà được giải thoát độ.

Lại nữa Thiện Hiện, Ta dùng Phật nhãn thanh tịnh không chướng ngại xem khắp vô lượng hằng hà sa thế giới trong mười phương, thấy các Đại Bồtát nhận biết các Phạm thiên tham đắm các kiến chấp, nên dùng phương tiện giáo hóa dẫn dắt, khiến họ xa lìa, bảo rằng: “Này các Thiên tiên, tại sao các ông ở trong tất cả pháp không, không tướng, hư vọng, không thật mà phát khởi các thứ ác kiến như thế? Nên mau bỏ đi! Hãy tin thọ chánh pháp khiến các ông đạt được phép cam lồ vô thượng.”

Này Thiện Hiện, như thế các Đại Bồ-tát an trú nơi tâm đại Bi, vì các hữu tình thuyết giảng chánh pháp.

Này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát có pháp hết mực hy hữu.

Lại nữa Thiện Hiện, Ta dùng Phật nhãn xem khắp vô lượng hằng hà sa thế giới trong mười phương, thấy các Đại Bồ-tát dùng bốn Nhiếp sự mà thu phục giáo hóa các hữu tình. Bốn pháp ấy là gì? Một là Bố thí, hai là Ái ngữ, ba là Lợi hành, bốn là Đồng sự.

Này Thiện Hiện, làm sao Đại Bồ-tát có thể dùng bố thí thu phục giáo hóa các hữu tình?

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát dùng hai loại bố thí mà thu phục giáo hóa các hữu tình? Hai loại ấy là gì? Một là tài thí, hai là pháp thí.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát thường dùng tài thí thu phục giáo hóa các hữu tình như thế nào?

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường dùng các thứ vàng bạc, ngọc báu, trân châu, ma-ni, san hô, phệ-lưuly, ngọc báu phả-chi-ca, kha bối, bích ngọc, đế thanh, đại thanh, thạch tàng, xử tàng, hồng liên... ban cho các hữu tình; hoặc dùng các thứ y phục, thức ăn uống, cung điện, lầu gác, phòng, nhà, đồ nằm, xe cộ, hương hoa, đèn sáng, nhạc hay, cờ phướn, lọng báu, chuỗi báu... cấp cho các hữu tình; hoặc đem thê thiếp, con trai, con gái, đồng bậc và người hầu cho các hữu tình, hoặc đem các loài bàng sinh như voi, ngựa, trâu, dê, lừa... cho các hữu tình; hoặc đem các thứ tài vật, kho tàng, thành ấp, xóm làng và cả ngôi vua cho các hữu tình; hoặc đem các bộ phận nơi thân thể như tay chân, lóng đốt, đầu mắt, tủy, não cho các hữu tình; Đại Bồ-tát ấy đem các thứ đồ vật đặt ở ngã tư đường, lên trên đài cao, loan báo thế này: “Tất cả hữu tình, có cần vật gì, tự do tới lấy, chớ sinh nghi ngờ, như lấy của mình chớ nghĩ gì khác.” Đại Bồ-tát ấy bố thí cho các hữu tình các vật theo nhu cầu rồi, lại khuyên họ quy y Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng, hoặc khuyên thọ trì năm giới của hàng Ô-ba-sách-ca, hoặc khuyên thọ trì tám giới cận trụ, hoặc khuyên thọ trì mười nẻo nghiệp thiện; hoặc khuyên tu hành Sơ thiền, hoặc khuyên tu hành đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền; hoặc khuyên tu hành Từ vô lượng, hoặc khuyên tu hành Bi, Hỷ, Xả vô lượng; hoặc khuyên tu hành định Vô biên xứ, hoặc khuyên tu hành định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ; hoặc khuyên tu hành tùy niệm Phật, hoặc khuyên tu hành tùy niệm Pháp, tùy niệm Tăng, tùy niệm Giới, tùy niệm Xả, tùy niệm Thiên; hoặc khuyên tu hành quán bất tịnh, hoặc khuyên tu hành niệm giữ hơi thở; hoặc khuyên tu hành tưởng vô thường, hoặc khuyên tu hành tưởng khổ vô thường, tưởng khổ vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng chán lìa ăn uống, tưởng tất cả thế gian chẳng thể ưa thích, tưởng về chết, tưởng đoạn, tưởng lìa, tưởng diệt; hoặc khuyên tu hành bốn Niệm trụ, hoặc khuyên tu hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; hoặc khuyên tu hành Tam-ma-địa Không, hoặc khuyên tu hành Tam-ma-địa Vô tướng, vô nguyện; hoặc khuyên tu hành pháp môn giải thoát Không, hoặc khuyên tu hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; hoặc khuyên tu hành tám Giải thoát, hoặc khuyên tu hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; hoặc khuyên tu hành Bố thí ba-la-mật-đa, hoặc khuyên tu hành Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã, phương tiện thiện xảo nguyện, lực, trí ba-la-mật-đa, hoặc khuyên an trú nơi Thánh đế khổ, hoặc khuyên an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc khuyên an trú nơi pháp không bên trong, hoặc khuyên an trú nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc khuyên an trú nơi chân như, hoặc khuyên an trú nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; hoặc khuyên tu hành tất cả pháp môn Đà-lani, hoặc khuyên tu hành tất cả pháp môn Tam-mađịa; hoặc khuyên tu hành bậc Cực hỷ, hoặc khuyên tu hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; hoặc khuyên tu hành năm loại mắt, hoặc khuyên tu hành sáu phép thần thông; hoặc khuyên tu hành mười lực của Như Lai, hoặc khuyên tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc khuyên tu hành đại Từ, hoặc khuyên tu hành đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; hoặc khuyên tu hành pháp không quên mất, hoặc khuyên tu hành tánh luôn luôn xả; hoặc khuyên tu hành trí Nhất thiết, hoặc khuyên tu hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; hoặc khuyên tu hành ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, hoặc khuyên tu hành tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; hoặc khuyên tu hành quả Dự lưu, hoặc khuyên tu hành quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; hoặc khuyên tu hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát, hoặc khuyên tu hành quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Thiện Hiện, như thế các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, với phương tiện thiện xảo, đối với các hữu tình thực hành tài thí rồi lại khéo an lập các loại hữu tình ấy khiến an trú trong pháp môn vô thượng, cho đến đạt được trí Nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có pháp hết mực hy hữu.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường dùng pháp thí thu phục, giáo hóa các loài hữu tình như thế nào?

Này Thiện Hiện, pháp thí của Đại Bồ-tát có hai thứ. Hai thứ ấy là gì? Một là pháp thí thế gian, hai là pháp thí xuất thế gian.

Này Thiện Hiện, thế nào gọi là pháp thí thế gian của Đại Bồ-tát?

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vì các hữu tình nêu giảng khai thị, phân biệt rõ ràng các pháp thế gian, đó là quán bất tịnh, hoặc niệm giữ hơi thở, hoặc bốn Tĩnh lự, hoặc bốn Phạm trụ, hoặc bốn Định vô sắc, hoặc pháp cùng loại phàm phu khác ở thế gian, như thế gọi là pháp thí thế gian.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy hành pháp thí thế gian rồi, dùng các loại phương tiện giáo hóa, dẫn dắt hữu tình, khiến họ xa lìa các pháp thế gian, dùng các thứ phương tiện giáo hóa dẫn dắt hữu tình khiến họ an trú nơi Thánh pháp và quả của Thánh pháp.

Này Thiện Hiện, thế nào là Thánh pháp và quả của Thánh pháp?

Này Thiện Hiện, Thánh pháp là bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, tám Giải thoát, chín Định thứ đệ, pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, mười địa Bồ-tát, năm loại mắt, sáu phép thần thông, mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng..., các pháp vô lậu.

Này Thiện Hiện, quả của Thánh pháp là quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán, quả vị Độc giác, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Lại nữa Thiện Hiện, Thánh pháp của Đại Bồtát là trí của quả Dự lưu, trí của quả Nhất lai, trí của quả Bất hoàn, trí của quả A-la-hán, trí của quả vị Độc giác, trí của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; trí của bốn Niệm trụ, trí của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; trí của pháp môn giải thoát Không, trí của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; trí của bốn Tĩnh lự, trí của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; trí của tám Giải thoát, trí của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; trí của Bố thí ba-la-mật-đa, trí của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; trí của tất cả pháp môn Đà-la-ni, trí của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; trí của Thánh đế khổ, trí của Thánh đế tập, diệt, đạo; trí của pháp không bên trong, trí của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; trí của chân như, trí của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, trí của mười địa Bồ-tát; trí của năm loại mắt, trí của sáu phép thần thông; trí nơi mười lực của Như Lai, trí của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; trí của pháp không quên mất, trí của tánh luôn luôn xả; trí của trí Nhất thiết, trí của trí Đạo tướng, trí của trí Nhất thiết tướng và tất cả trí của pháp thế gian và xuất thế gian khác; trí của pháp hữu lậu, vô lậu, trí của pháp hữu vi, vô vi, đó gọi là Thánh pháp. Quả của Thánh pháp là đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục; đó gọi là quả của Thánh pháp. Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát cũng có thể đắc trí Nhất thiết tướng chăng?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy! Đại Bồtát cũng có thể đắc trí Nhất thiết tướng thì cùng với Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có gì sai khác?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát gọi là trí Nhất thiết tướng tùy đắc. Còn tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thì gọi là trí Nhất thiết tướng dĩ đắc. Vì sao? Vì chẳng phải tâm của các Đại Bồ-tát cùng với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác bỗng dưng có sự sai khác. Đó là các chúng Đại Bồ-tát cùng với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều an trú nơi tánh không sai biệt của các pháp; đối với các pháp tướng, cầu Chánh biến tri, thì gọi là chúng Đại Bồ-tát; nếu đạt đến cứu cánh tức là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Khi trụ ở nhân vị, đối với tự tướng, cộng tướng của tất cả pháp đều soi sáng dứt mọi mờ tối, thanh tịnh đầy đủ thì gọi là chúng Đại Bồ-tát; nếu đạt được quả vị thì gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Cho nên Đại Bồ-tát cùng với Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuy đều gọi là đắc trí Nhất thiết tướng, nhưng có sự sai khác.

Này Thiện Hiện, đó gọi là pháp thí thế gian của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát do nương vào pháp thí thế gian như thế, lại thường tu hành pháp thí xuất thế gian. Đó là các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa, với phương tiện thiện xảo, trước chỉ dạy cho hữu tình pháp thiện thế gian, sau khiến họ xa lìa pháp thiện thế gian, an trú nơi Thánh pháp vô lậu xuất thế gian, cho đến khiến đắc trí Nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện, những gì gọi là Thánh pháp xuất thế gian mà các Đại Bồ-tát, vì các hữu tình nêu giảng, khai thị, phân biệt rõ ràng, gọi đó là pháp thí?

Này Thiện Hiện, tất cả pháp thiện khác với pháp phàm phu, nếu tu tập chân chánh thì giúp cho các hữu tình vượt khỏi thế gian, an trú ổn định, cho nên gọi là xuất thế, đó là bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, ba pháp môn giải thoát, tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, bốn trí Thánh đế, Ba-la-mật-đa, các trí không..., mười địa Bồ-tát, năm loại mắt, sáu phép thần thông, mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; các pháp thiện, vô lậu như thế tất cả đều gọi là Thánh pháp xuất thế gian.

Này Thiện Hiện, thế nào gọi là bốn Niệm trụ?

Này Thiện Hiện, đó là đối với nội thân, an trú quán theo thân; đối với ngoại thân, an trú quán theo thân, đối với nội ngoại thân, an trú quán theo thân, đầy đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm, trừ tham ái ở đời, an trú nơi thân, quán tập; an trú nơi thân, quán diệt, không có chỗ tựa, đối với các thế gian, không có sự chấp thọ, đó là thứ nhất. Đối với nội thọ, an trú quán theo thọ; đối với ngoại thọ, an trú quán theo thọ; đối với nội ngoại thọ, an trú quán theo thọ, đầy đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm, trừ tham ái ở đời; an trú nơi thọ quán tập; an trú nơi thọ quán diệt, không có chỗ tựa, đối với các thế gian, không có sự chấp thọ, đó là thứ hai. Đối với nội tâm, an trú quán theo tâm; đối với ngoại tâm, an trú quán theo tâm; đối với nội ngoại tâm, an trú quán theo tâm, đầy đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm, trừ tham ái ở đời; an trú nơi tâm quán tập; an trú nơi tâm quán diệt, không có chỗ tựa, đối với các thế gian, không có sự chấp thọ, đó là thứ ba. Đối với nội pháp, an trú quán theo pháp; đối với ngoại pháp, an trú quán theo pháp; đối với nội ngoại pháp, an trú quán theo pháp, đầy đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm, trừ tham ái ở đời; an trú nơi pháp quán tập; an trú nơi pháp quán diệt, không có chỗ tựa, đối với các thế gian, không có sự chấp thọ, đó là thứ tư.

Này Thiện Hiện, đó gọi là bốn Niệm trụ.

Này Thiện Hiện, thế nào là bốn Chánh đoạn?

Này Thiện Hiện, vì khiến cho pháp ác, bất thiện chưa sinh thì chẳng sinh, nên khởi tác ý muốn siêng năng tinh tấn cảnh tỉnh tâm, giữ tâm, đó là thứ nhất. Vì khiến cho pháp ác bất thiện đã sinh thì đoạn diệt, nên phát khởi ý muốn siêng năng tinh tấn cảnh tỉnh tâm, giữ tâm, đó là thứ hai. Vì khiến cho pháp thiện chưa sinh được sinh, nên phát khởi ý muốn siêng năng tinh tấn, cảnh tỉnh tâm, giữ tâm, đó là thứ ba. Vì khiến cho pháp thiện đã sinh luôn đứng vững chẳng mất, tu và tác chứng trí làm cho đầy đủ, tăng trưởng rộng lớn, nên pháp khởi ý muốn siêng năng tinh tấn cảnh tỉnh tâm, giữ tâm, đó là thứ tư.

Này Thiện Hiện, đó là bốn Chánh đoạn.

Này Thiện Hiện, thế nào là bốn Thần túc?

Này Thiện Hiện, thành tựu việc đoạn hành, dục Tam-ma-địa, tu tập thần túc, chán y chỉ, lìa y chỉ, diệt y chỉ, hướng về xả; đó là thứ nhất. Thành tựu việc đoạn hành, cần Tam-ma-địa, tu tập thần túc, chán y chỉ, lìa y chỉ, diệt y chỉ, hướng về xả; đó là thứ hai. Thành tựu việc đoạn hành, tâm Tam-ma- địa, tu tập thần túc, chán y chỉ, lìa y chỉ, diệt y chỉ, hướng về xả; đó là thứ ba. Thành tựu việc đoạn hành, quán Tam-ma-địa, tu tập thần túc, chán y chỉ, lìa y chỉ, diệt y chỉ, hướng về xả; đó là thứ tư.

Này Thiện Hiện, đó gọi là bốn Thần túc.

Này Thiện Hiện, những gì gọi là năm Căn?

Này Thiện Hiện, Tín căn, Tinh tấn căn, Niệm căn, Định căn, Tuệ căn.

Này Thiện Hiện, đó gọi là năm Căn.

Này Thiện Hiện, những gì gọi là năm Lực?

Này Thiện Hiện, Tín lực, Tinh tấn lực, Niệm lực, Định lực, Tuệ lực.

Này Thiện Hiện, đó gọi là năm Lực.

Này Thiện Hiện, những gì gọi là bảy giác chi?

Này Thiện Hiện, Niệm đẳng giác chi, Trạch pháp đẳng giác chi, Tinh tấn đẳng giác chi, Hỷ đẳng giác chi, Khinh an đẳng giác chi, Định đẳng giác chi và Xả đẳng giác chi.

Này Thiện Hiện, đó gọi là bảy chi Đẳng giác.

Này Thiện Hiện, những gì gọi là tám chi Thánh đạo?

Này Thiện Hiện, Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.

Này Thiện Hiện, đó gọi là tám chi Thánh đạo.

Này Thiện Hiện, những gì gọi là ba pháp môn giải thoát?

Này Thiện Hiện, pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, pháp môn giải thoát Vô nguyện.

Này Thiện Hiện, đó gọi là ba pháp môn giải thoát.

Này Thiện Hiện, nếu hành tướng là không, hành tướng là vô ngã, hành tướng là hư dối, hành tướng là không tự tánh, tâm đồng nhất với tánh của cảnh thì này Thiện Hiện, đó gọi là pháp môn giải thoát Không.

Này Thiện Hiện, thế nào gọi là pháp môn giải thoát Vô tướng?

Này Thiện Hiện, nếu hành tướng là diệt, hành tướng là tịch tĩnh, hành tướng là xa lìa, tâm đồng nhất với tánh cảnh thì này Thiện Hiện, đó gọi là pháp môn giải thoát Vô tướng.

Này Thiện Hiện, thế nào gọi là pháp môn giải thoát Vô nguyện?

Này Thiện Hiện, nếu hành tướng là khổ, hành tướng là vô thường, hành tướng là điên đảo, tâm đồng nhất với tánh cảnh thì này Thiện Hiện, đó gọi là pháp môn giải thoát Vô nguyện.

Này Thiện Hiện, thế nào gọi là tám Giải thoát? Này Thiện Hiện, quán các sắc có sắc đó là giải thoát thứ nhất; quán các sắc ở ngoài, trong, không có tưởng về sắc, đó là giải thoát thứ hai; tác chứng thân giải thoát thù thắng, thanh tịnh, đó là giải thoát thứ ba; siêu vượt tất cả tưởng về sắc, diệt tưởng hữu đối, chẳng tư duy các thứ tưởng, nhập định không vô biên, Không vô biên xứ, an trú trọn vẹn, đó là giải thoát thứ tư; siêu vượt tất cả Không vô biên xứ, nhập định vô biên thức, Thức vô biên xứ, an trú trọn vẹn, đó là giải thoát thứ năm; siêu vượt tất cả Thức vô biên xứ, nhập định vô thiểu sở hữu, Vô sở hữu xứ, an trú trọn vẹn, đó là giải thoát thứ sáu; siêu vượt tất cả Vô sở hữu xứ, nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trú trọn vẹn, đó là giải thoát thứ bảy; siêu vượt tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập định tưởng thọ diệt, an trú trọn vẹn, đó là giải thoát thứ tám.

Này Thiện Hiện, đó gọi là tám Giải thoát.

Này Thiện Hiện, thế nào gọi là chín Định thứ đệ?

Này Thiện Hiện, đó là có một loại lìa dục, pháp ác bất thiện, có tầm có tứ, ly sinh hỷ lạc, an trú trọn vẹn Sơ thiền, đó thứ nhất. Lại có một loại, tầm tứ tịch tĩnh, trong tâm bình đẳng thanh tịnh, tánh chuyên nhất, không tầm không tứ, định sinh hỷ lạc, an trú trọn vẹn đệ Nhị thiền, đó là thứ hai. Lại có một loại lìa hỷ, trụ xả, chánh niệm, chánh tri, thân thọ an vui, chỉ có các bậc Thánh thường nói nên xả, đầy đủ niệm lạc trụ, an trú trọn vẹn đệ Tam thiền, đó là thứ ba. Lại có một loại đoạn lạc đoạn khổ, mừng lo trước tan biến, chẳng khổ chẳng lạc, xả niệm thanh tịnh, an trú trọn vẹn đệ Tứ thiền, đó là thứ tư. Lại có một loại siêu vượt tất cả tưởng về sắc, diệt tưởng hữu đối, chẳng tư duy các loại tưởng, nhập định không vô biên, Không vô biên xứ, an trú trọn vẹn, đó là thứ năm. Lại có một loại siêu vượt tất cả Không vô biên xứ, nhập định vô biên thức, Thức vô biên xứ, an trú trọn vẹn, đó là thứ sáu. Lại có một loại siêu vượt tất cả Thức vô biên xứ, nhập định vô thiểu sở hữu, Vô sở hữu xứ, an trú trọn vẹn, đó là thứ bảy. Lại có một loại siêu vượt tất cả Vô sở hữu xứ, nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trú trọn vẹn, đó là thứ tám. Lại có một loại siêu vượt tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập định Tưởng thọ diệt, an trú trọn vẹn, đó là thứ chín.

Này Thiện Hiện, đó là chín Định thứ đệ.

Này Thiện Hiện, những gì gọi là bốn trí Thánh đế?

Này Thiện Hiện, Khổ trí, Tập trí, Diệt trí, Đạo trí.

Này Thiện Hiện, đó là bốn trí Thánh đế.

Này Thiện Hiện, những gì gọi là Ba-la-mật-đa?

Này Thiện Hiện, Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện, đó gọi là Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện, những gì gọi là Trí của các không?

Này Thiện Hiện, trí không bên trong, trí không bên ngoài, trí không cả trong ngoài, trí không không, trí không lớn, trí không thắng nghĩa, trí không hữu vi, trí không vô vi, trí không rốt ráo, trí không không biên giới, trí không tản mạn, trí không không đổi khác, trí không bản tánh, trí không tự tướng, trí không cộng tướng, trí không nơi tất cả pháp, trí không chẳng thể nắm bắt được, trí không không tánh, trí không tự tánh, trí không không tánh tự tánh hoặc trí chân như, trí pháp giới, trí pháp tánh, trí tánh không hư vọng, trí tánh chẳng đổi khác, trí tánh bình đẳng, trí tánh ly sinh, trí pháp định, trí pháp trụ, trí thật tế, trí cảnh giới hư không, trí cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện, đó gọi là các trí không...

Này Thiện Hiện, những gì là mười địa Bồ-tát?

Này Thiện Hiện, địa Cực hỷ, địa Ly cấu, địa Phát quang, địa Diệm tuệ, địa Cực nan thắng, địa Hiện tiền, địa Viễn hành, địa Bất động, địa Thiện tuệ, địa Pháp vân.

Này Thiện Hiện, đó gọi là mười địa Bồ-tát.

Này Thiện Hiện, những gì là năm loại mắt?

Này Thiện Hiện, mắt thịt, mắt trời, mắt tuệ của Thánh, mắt Pháp, mắt Phật, đó gọi là năm loại mắt. Này Thiện Hiện, đó là năm loại mắt.

Này Thiện Hiện, những gì là sáu phép thần thông?

Này Thiện Hiện, Thần cảnh trí chứng thông, Thiên nhãn trí chứng thông, Thiên nhĩ trí chứng thông, Tha tâm trí chứng thông, Túc trụ tùy niệm trí chứng thông, Lậu tận trí chứng thông.

Này Thiện Hiện, đó gọi là sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện, thế nào gọi là mười lực của Như Lai?

Này Thiện Hiện, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nếu là xứ thì biết như thật là xứ, chẳng phải xứ thì biết như thật là chẳng phải xứ, đó là thứ nhất. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với các nghiệp từ quá khứ, hiện tại, vị lai và các pháp thọ xứ, nhân quả báo của các hữu tình đều biết rõ như thật, đó là thứ hai. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với các thế gian chẳng phải một cõi, mà tất cả các cõi đều biết như thật, đó là thứ ba. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với các thế gian, chẳng phải một thắng giải mà là vô số các loại thắng giải đều biết như thật, đó là thứ tư. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với Bổ-đặc-già-là và các căn hơn kém của tất cả hữu tình đều biết như thật, đó là thứ năm. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với tất cả nẻo hành nơi khắp các cõi đều biết như thật, đó là thứ sáu. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với các căn lực, giác chi, đạo chi, tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh đều biết như thật, đó là thứ bảy. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng Thiên nhãn thanh tịnh, vượt hơn hẳn loài người, thấy các việc thiện, ác khi sinh, khi chết của các hữu tình: Hữu tình như thế do hành động ác của ba loại thân, ngữ, ý, do các tà kiến, do hủy báng Hiền thánh, nên đọa vào các đường ác; hữu tình như thế, do hành động tốt đẹp của ba loại thân, ngữ, ý, do các chánh kiến, do khen ngợi Hiền thánh, nên sinh vào các đường lành, sinh lên cõi trời. Lại dùng Thiên nhãn thanh tịnh vượt hơn người thường, thấy sắc đẹp, sắc xấu, khi sinh, khi chết của các hữu tình, từ chốn này lại sinh vào đường lành, đường dữ; đối với các hữu tình, theo sức mạnh của nghiệp mà sinh vào đường lành, đường dữ, đều biết như thật, đó là thứ tám. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với vô lượng các sự việc ở đời trước, thuộc quá khứ của các hữu tình, hoặc một đời, hoặc trăm đời, hoặc ngàn đời, hoặc trăm ngàn đời, hoặc một ức đời, hoặc trăm ức đời, hoặc ngàn ức đời, hoặc trăm ngàn ức triệu đời, hoặc một kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, hoặc một ức kiếp, hoặc trăm ức kiếp, hoặc ngàn ức kiếp, hoặc trăm ngàn ức triệu kiếp cho đến các việc làm, các lời nói, các hình tướng của đời trước đều biết rõ như thật, đó là thứ chín. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với các lậu đã được dứt sạch, vô lậu tâm giải thoát, vô lậu tuệ giải thoát, đều biết như thật; đối với sự dứt sạch lậu của mình, pháp giải thoát chân thật, tự chứng trí tuệ thông đạt đầy đủ an trú nơi sự nhận biết như thật: Sự sinh của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng còn thọ sinh đời sau nữa, đó là thứ mười.

Này Thiện Hiện, đó là mười lực của Như Lai.

QUYỂN 381

Phẩm 68: TƯỚNG CỦA CÁC CÔNG ĐỨC (3)

Này Thiện Hiện, thế nào gọi là bốn điều không sợ?

Này Thiện Hiện, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng: Ta là Chánh Đẳng Giác thì dù có Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm, hoặc ai khác trong thế gian dựa vào pháp được lập mà vấn nạn, hoặc khiến nhớ nghĩ cho rằng Phật đối với pháp ấy chẳng phải là Chánh đẳng giác, thì Ta đối với vấn nạn kia thấy rõ là không duyên cớ; vì đối với vấn nạn ấy thấy rõ là không duyên có nên được an ổn vững vàng, không sợ, không hãi, nên tự xưng Ta ở ngôi Đại tiên tôn quý, ở giữa đại chúng, chính thức gầm lên tiếng rống của sư tử, chuyển bánh xe Đại phạm mà tất cả Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm, hoặc ai khác trong thế gian quyết định không thể chuyển đúng như pháp, đó là thứ nhất.

Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng: Ta đã vĩnh viễn diệt tận các lậu thì dù có Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm, hoặc ai khác trong thế gian căn cứ vào pháp đã lập nêu vấn nạn, hoặc khiến nhớ nghĩ cho rằng Phật đối với lậu ấy chưa được diệt tận vĩnh viễn, thì Ta đối với vấn nạn kia, biết rõ không có duyên cớ; vì đối với vấn nạn ấy biết rõ không có duyên cớ, nên an ổn vững vàng, không sợ, không hãi, tự xưng Ta ở ngôi Đại tiên tôn quý, ở giữa đại chúng, chính thức gầm lên tiếng rống của sư tử, chuyển bánh xe Đại phạm mà tất cả Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm, hoặc ai khác trong thế gian quyết định không thể chuyển đúng như pháp, đó là thứ hai.

Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng: Ta vì các chúng đệ tử nói pháp có thể gây chướng ngại cho sự tu tập, nhưng không cho là khó khăn, không hề sợ hãi, đối với mọi nhiễm ô thì quyết là chướng ngại cho sự tu tập, dù có Sa-môn, hoặc Bàla-môn, hoặc Thiên, Ma, Phạm, hoặc ai khác trong thế gian, dựa vào pháp đã lập nên vấn nạn, hoặc khiến nhớ nghĩ cho rằng có pháp nhiễm này, chẳng thể làm chướng ngại cho sự tu tập, thì Ta đối với vấn nạn ấy, thấy rõ là không có duyên cớ; vì đối với vấn nạn đó thấy rõ là không có duyên cớ nên được an ổn vững vàng, không sợ, không hãi, nên tự xưng Ta ở ngôi Đại tiên tôn quý, ở giữa đại chúng, chính thức gầm lên tiếng rống của sư tử, chuyển bánh xe Đại phạm mà tất cả Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm, hoặc ai khác trong thế gian quyết định không thể chuyển đúng như pháp, đó là thứ ba.

Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng: Ta vì các chúng đệ tử nói về con đường giải thoát; chư Thánh tu tập quyết định giải thoát, quyết định thông đạt, dứt sạch hết các khổ, thoát khỏi vòng khổ não, dù có Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm, hoặc ai khác trong thế gian, căn cứ vào pháp đã lập nêu vấn nạn, hoặc khiến nhớ nghĩ cho rằng có tu tập đạo này, nhưng chẳng phải thật sự giải thoát, chẳng phải thật sự thông đạt, chẳng phải thật sự dứt hết khổ, chẳng phải thật sự thoát khỏi vòng khổ não, thì ta đối với vấn nạn ấy thấy rõ là không có duyên cớ; vì đối với vấn nạn đó thấy rõ là không có duyên cớ nên được an ổn vững vàng, không sợ, không hãi, tự xưng Ta ở ngôi Đại tiên tôn quý, ở giữa đại chúng, chính thức gầm lên tiếng rống của sư tử, chuyển bánh xe Đại phạm mà tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm, hoặc ai khác trong thế gian quyết định không thể chuyển đúng như pháp, đó là thứ tư.

Này Thiện Hiện, đó gọi là bốn điều không sợ.

Này Thiện Hiện, những gì là bốn sự hiểu biết thông suốt?

Này Thiện Hiện, hiểu biết thông suốt về nghĩa, hiểu biết thông suốt về pháp, hiểu biết thông suốt về ngôn từ, hiểu biết thông suốt về biện luận.

Này Thiện Hiện, đó gọi là bốn sự hiểu biết thông suốt.

Này Thiện Hiện, thế nào là hiểu biết thông suốt về nghĩa? Đó là trí duyên với nghĩa không chướng ngại.

Này Thiện Hiện, thế nào là hiểu biết thông suốt về pháp? Đó là trí duyên với pháp không chướng ngại.

Này Thiện Hiện, thế nào là hiểu biết thông suốt về ngôn từ? Đó là trí duyên với ngôn từ không chướng ngại.

Này Thiện Hiện, thế nào là hiểu biết thông suốt về biện luận? Đó là trí duyên với biện luận không chướng ngại.

Này Thiện Hiện, những gì là mười tám pháp Phật bất cộng?

Này Thiện Hiện, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không bao giờ lầm lẫn, đó là pháp Phật bất cộng thứ nhất. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không hề có thứ âm thanh vội vàng, thô bạo; đó là pháp Phật bất cộng thứ hai. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không hề quên mất niệm, đó là pháp Phật bất cộng thứ ba. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác luôn luôn định tâm, đó là pháp Phật bất cộng thứ tư. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không hề có các loại tưởng, đó là pháp Phật bất cộng thứ năm. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không có pháp nào là không chọn lựa, xả bỏ, đó là pháp Phật bất cộng thứ sáu. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, chí nguyện không hề thoái lui, đó là pháp Phật bất cộng thứ bảy. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác luôn tinh tấn không thoái chuyển, đó là pháp Phật bất cộng thứ tám. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác luôn nhớ nghĩ không quên, đó là pháp Phật bất cộng thứ chín. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Bát-nhã (trí tuệ) không thoái chuyển, đó là pháp Phật bất cộng thứ mười. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với giải thoát không thoái chuyển, đó là pháp Phật bất cộng thứ mười một. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, giải thoát tri kiến không thoái chuyển, đó là pháp Phật bất cộng thứ mười hai. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoặc biết, hoặc thấy về đời quá khứ không tham đắm, không bị ngăn ngại, đó là pháp Phật bất cộng thứ mười ba. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoặc biết hoặc thấy về đời hiện tại không tham vướng, không bị ngăn ngại, đó là pháp Phật bất cộng thứ mười bốn. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoặc biết hoặc thấy về đời vị lai không vướng mắc, không bị ngăn ngại, đó là pháp Phật bất cộng thứ mười lăm. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nơi tất cả mọi tạo tác của thân đều do trí dẫn dắt, theo trí mà chuyển, đó là pháp Phật bất cộng thứ mười sáu. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nơi tất cả ngữ nghiệp đều do trí dẫn dắt, theo trí mà chuyển, đó là pháp Phật bất cộng thứ mười bảy. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với tất cả ý nghiệp đều do trí dẫn dắt, theo trí mà chuyển, đó là pháp Phật bất cộng thứ mười tám.

Này Thiện Hiện, đó là mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện, những gì là ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác?

Này Thiện Hiện, nơi bàn chân của Thế Tôn có tướng bằng phẳng đầy đặn, đẹp đẽ, vững vàng, giống như đáy hộp, đất tuy cao thấp, tùy theo chỗ bước chân đạp xuống đều bằng phẳng, không có chỗ nào chẳng tiếp xúc, đó là tướng thứ nhất. Dưới bàn chân của Thế Tôn có các tướng xoáy tròn như bánh xe có ngàn nan hoa cái nào cũng tròn đầy, đó là tướng thứ hai. Tay chân của Thế Tôn đều mềm mại trông như tơ lụa, đẹp hơn tất cả, đó là tướng thứ ba. Tay chân của Thế Tôn, ở giữa mỗi ngón, giống như nhạn chúa, đều có màng màu vàng dính liền nhau, vằn như thêu hoa, đó là tướng thứ tư. Tay chân của Thế Tôn có các ngón tròn đầy đặn thon dài rất khả ái, đó là tướng thứ năm. Gót chân của Thế Tôn dài rộng tròn đầy tương xứng với mu bàn chân, hơn các hữu tình khác, đó là tướng thứ sáu. Mu bàn chân của Thế Tôn cao dày đầy đặn, mềm mại đẹp đẽ tương xứng với gót chân, đó là tướng thứ bảy. Hai đùi của Thế Tôn thon tròn dần như đùi nai chúa Y-nê-tà tiên, đó là tướng thứ tám. Đôi cánh tay của Thế Tôn dài thẳng tròn đều như vòi voi chúa, đứng thẳng chấm gối, đó là tướng thứ chín. Âm tướng ẩn tàng, giống như của ngựa quý, cũng như voi chúa, đó là tướng thứ mười. Lỗ chân lông của Thế Tôn mỗi lỗ mọc một sợi lông, mềm mại xanh biếc, xoay về bên phải, đó là tướng thứ mười một. Tóc lông của Thế Tôn, đều thẳng vươn lên, xoay về phía mặt, mềm mại xanh biếc, rất dễ mến, đó là tướng thứ mười hai. Da trên thân Thế Tôn, mịn màng trơn láng, bụi nước..., đều chẳng bám được, đó là tướng thứ mười ba. Da trên thân Thế Tôn màu chân kim chói sáng rực rỡ như đại bàng đẹp đẽ trang nghiêm bằng các thứ báu ai cũng ưa nhìn, đó là tướng thứ mười bốn. Hai chân, trong hai bàn tay, cổ và hai vai của Thế Tôn – bảy chỗ đều đặn, đó là tướng thứ mười lăm. Vai ót của Thế Tôn tròn đầy đẹp đẽ, đó là tướng thứ mười sáu. Hai nách Thế Tôn đều đầy đặn, đó là tướng thứ mười bảy. Dung nghi Thế Tôn trang nghiêm viên mãn, đó là tướng thứ mười tám. Thân tướng Thế Tôn cao lớn đoan nghiêm, đó là tướng thứ mười chín. Vóc dáng của Thế Tôn mức cao lớn cân đối, chung quanh đều tròn đầy như cây Nặc-cù-đà (Ni-câuluật), đó là tướng thứ hai mươi. Cằm ngực và nửa thân trên của Thế Tôn oai dung rộng lớn như sư tử chúa, đó là tướng thứ hai mươi mốt. Hào quang luôn tỏa chiếu của Thế Tôn một phía một tầm, đó là tướng thứ hai mươi hai. Tướng răng Thế Tôn bốn mươi chiếc bằng đều, sạch khít, chân sâu, trắng hơn ngọc kha tuyết, đó là tướng thứ hai mươi ba. Bốn răng cửa Thế Tôn trắng trong nhọn sắc, đó là tướng thứ hai mươi bốn. Thế Tôn thường được thượng vị trong các vị, vì mạch hầu thẳng nên có thể dẫn thượng vị có ở các mạch chi tiết trong thân, bệnh phong đờm, nhiệt chẳng thể xen vào; do bệnh kia chẳng xen tạp nên mạch lìa các chứng trầm phù, hoãn, gấp, tổn, hoại, ung, khúc..., có thể nuốt thẳng xuống họng, dịch vị lưu thông cho nên thân tâm sảng khoái thường được thượng vị, đó là tướng thứ hai mươi lăm. Tướng lưỡi của Thế Tôn mỏng sạch rộng dài, có thể che cả khuôn mặt, đến cả mé tai đuôi tóc, đó là tướng thứ hai mươi sáu. Phàm âm Thế Tôn phát lời êm ái, thanh nhã, lan rộng, tùy chúng nhiều ít, không ai mà chẳng nghe; tiếng ấy rền lớn giống như trống trời, phát lời uyển chuyển như tiếng chim Tần-già, đó là tướng thứ hai mươi bảy. Lông mi Thế Tôn giống như mi trâu chúa, hằng thẳng chẳng rối, đó là tướng thứ hai mươi tám. Trong mắt của Thế Tôn xanh biếc trong trắng, có vòng hồng xen lẫn, trong sáng phân minh, đó là tướng thứ hai mươi chín. Khuôn mặt Thế Tôn giống như mặt trăng tròn đầy tướng mày sáng sạch như cái cung Thiên đế, đó là tướng thứ ba mươi.

Giữa chặn mày Thế Tôn có tướng lông trắng mềm mại như tơ lụa uốn về phía phải; trong sáng trắng đẹp hơn ngọc kha tuyết, đó là tướng thứ ba mươi mốt. Trên đảnh Thế Tôn có cục thịt nổi cao tròn trịa giống như lọng trời, đó là tướng thứ ba mươi hai.

Này Thiện Hiện, đó là ba mươi hai tướng của Đại sĩ.

Này Thiện Hiện, những gì là tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác?

Này Thiện Hiện, móng tay của Thế Tôn hẹp dài mỏng mềm, sáng trong sạch đẹp như hoa đồng đỏ, đó là vẻ đẹp thứ nhất. Các ngón tay, chân của Thế Tôn tròn nhọn dài ngay thẳng mềm mại, chẳng thấy đốt lóng, đó là vẻ đẹp thứ hai. Tay chân Thế Tôn, ở giữa các ngón đều đầy khít, như nhau không khác, đó là vẻ đẹp thứ ba. Tay chân Thế Tôn tròn đầy như ý, mềm sạch sáng mịn, sắc như hoa sen, đó là vẻ đẹp thứ tư. Gân mạch của Thế Tôn được kết nối một cách chắc chắn, ẩn sâu chẳng thấy, đó là vẻ đẹp thứ năm. Hai mắt cá chân của Thế Tôn đều ẩn chẳng hiện, đó là vẻ đẹp thứ sáu. Thế Tôn bước đi thẳng tới thong thả như long tượng chúa, đó là vẻ đẹp thứ bảy. Thế Tôn bước đi, oai dung nghiêm chỉnh như sư tử chúa, đó là vẻ đẹp thứ tám. Thế Tôn bước đi thong thả bình an, chẳng dài chẳng ngắn giống như trâu chúa, đó là vẻ đẹp thứ chín. Thế Tôn bước đi, tới dừng đúng phép, giống như ngỗng chúa, đó là vẻ đẹp thứ mười. Thế Tôn ngó lại luôn quay sang hữu giống như long tượng chúa, toàn thân chuyển theo, đó là vẻ đẹp thứ mười một. Lóng đốt nơi Thế Tôn, thứ lớp tròn trịa, xếp đặt khéo léo, đó là vẻ đẹp thứ mười hai. Lóng xương của Thế Tôn giao kết không hở, giống như rồng cuộn, đó là vẻ đẹp thứ mười ba. Bánh xe đầu gối của Thế Tôn xếp đặt khéo léo, chắc chắn đầy đủ, đó là vẻ đẹp thứ mười bốn. Chỗ kín của Thế Tôn vân vẻ đẹp đẽ, oai thế đầy đủ, viên mãn thanh tịnh, đó là vẻ đẹp thứ mười lăm. Thân Thế Tôn nhuận, trơn, mềm mại, sáng láng sạch đẹp, bụi bặm chẳng dính, đó là vẻ đẹp thứ mười sáu. Dung mạo Thế Tôn đôn hậu nghiêm túc không sợ, thường chẳng khiếp nhược, đó là vẻ đẹp thứ mười bảy. Thân Thế Tôn chắc chắn dày nặng, tướng thiệt hòa nhau, đó là vẻ đẹp thứ mười tám. Thân Thế Tôn an định đầy đặn, chẳng từng lay động, viên mãn không hoại, đó là vẻ đẹp thứ mười chín. Thân tướng của Thế Tôn giống như chúa tiên, toàn thân đoan nghiêm, sáng sạch, không u ám, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi. Thân Thế Tôn có vòng sáng chung quanh, khi đi lại, thường tự chiếu sáng, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi mốt. Bụng của Thế Tôn vuông vắn không thiếu, mềm mại chẳng lộ, các tướng trang nghiêm, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi hai. Rún Thế Tôn sâu, xoắn về phía hữu, tròn đẹp, sạch sẽ, sáng láng, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi ba. Lỗ rốn của Thế Tôn dày, chẳng lõm chẳng lồi, chung quanh đẹp đẽ, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi bốn. Da Thế Tôn không có ghẻ ngứa, cũng không có các thứ bệnh ghẻ ruồi, bướu..., đó là vẻ đẹp thứ hai mươi lăm. Bàn tay Thế Tôn đầy đặn mềm mại, lòng bàn chân bằng phẳng, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi sáu. Vân tay của Thế Tôn sâu dài rõ thẳng, tươi nhuận, chẳng đứt đoạn, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi bảy. Sắc môi của Thế Tôn sáng nhuận đỏ tươi như quả Tần-bà, trên dưới tương xứng, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi tám. Diệu môn của Thế Tôn chẳng dài chẳng ngắn, chẳng lớn, chẳng nhỏ, vừa vặn, trang nghiêm, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi chín. Tướng lưỡi của Thế Tôn mềm mại rộng dài, màu như đồng đỏ, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi. Thế Tôn phát ra âm thanh oai lực rền vang, sâu xa, như voi chúa rống, rõ ràng, trong suốt, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi mốt. Âm vận của Thế Tôn êm dịu tròn đầy, như tiếng vang trong hang sâu, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi hai. Mũi của Thế Tôn cao, dài mà ngay thẳng, lỗ mũi không lộ, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi ba. Các răng của Thế Tôn đều đặn ngay ngắn trắng đẹp, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi bốn. Các răng cửa của Thế Tôn trong, trắng, sáng sạch, nhọn bén, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi lăm. Mắt của Thế Tôn sạch sẽ trong sáng, rõ ràng, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi sáu. Nhãn tướng của Thế Tôn dài rộng giống như cánh hoa sen xanh, rất khả ái, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi bảy. Mi mắt Thế Tôn trên dưới ngay ngắn, dày rậm đầy đặn, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi tám. Hai mày Thế Tôn dài, đầy đặn, nhỏ, mềm mại, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi chín. Đôi mày của Thế Tôn đẹp đẽ, thuận chiều, xanh biếc, màu lưu ly, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi. Đôi mày của Thế Tôn cao rõ, sáng nhuận, hình như vầng trăng đầu tháng, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi mốt. Tai Thế Tôn dày, rộng lớn, dài, trái tai tròn trịa, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi hai. Hai tai của Thế Tôn tươi đẹp bằng phẳng, không có khuyết tật, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi ba. Dung nghi của Thế Tôn có thể khiến người thấy đều sinh tâm kính mến không tổn, không giảm, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi bốn. Trán Thế Tôn rộng, tròn đầy, bằng phẳng, hình tướng đẹp đẽ, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi lăm. Thân Thế Tôn nửa trên viên mãn như sư tử chúa, oai nghiêm không ai sánh kịp, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi sáu. Tóc của Thế Tôn dài, xanh biếc, dày rậm đầy đặn, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi bảy. Tóc Thế Tôn thơm sạch nhỏ mềm, nhuận mướt, xoắn quanh, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi tám. Tóc Thế Tôn bằng phẳng, không rối, cũng chẳng dính cùm, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi chín. Tóc Thế Tôn bền chắc không dứt, vĩnh viễn không rụng, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi. Tóc Thế Tôn trơn mướt đẹp đẽ bụi bặm chẳng bám, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi mốt. Thân Thế Tôn vững vàng đầy đặn hơn thân Na-la-diên, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi hai. Thân thể của Thế Tôn dài lớn ngay ngắn, cân đối, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi ba. Các khiếu của Thế Tôn sạch sẽ tròn, đẹp, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi bốn. Thân chi của Thế Tôn với diệu lực thù thắng không ai sánh bằng, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi lăm. Thân tướng của Thế Tôn được mọi người ưa nhìn, thường không nhàm chánh, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi sáu. Khuôn mặt của Thế Tôn dài rộng đúng chỗ, trong trẻo sáng láng, như ánh trăng tròn mùa thu, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi bảy. Dung mạo của Thế Tôn thư thái sáng tỏ, mỉm cười trước khi nói, chỉ hướng thẳng không quay lui, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi tám. Diện mạo của Thế Tôn sáng láng, vui vẻ không có các khuyết tật như nhăn nheo, xanh đỏ... đó là vẻ đẹp thứ năm mươi chín. Da của Thế Tôn sạch sẽ không bẩn, thường không hôi hám, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi. Các lỗ chân lông trong thân Thế Tôn thường xuất ra mùi hương như ý vi diệu, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi mốt. Diệu môn của Thế Tôn thường tỏa ra mùi hương thù thắng, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi hai. Tướng đầu của Thế Tôn tròn trịa đẹp đẽ như quả Mạt-đạt-na, cũng như lọng trời, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi ba. Lông thân của Thế Tôn xanh biếc sáng sạch, như cổ chim công, vẻ đẹp như màu đồng đỏ, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi bốn. Pháp âm của Thế Tôn tùy theo chúng, lớn, nhỏ, chẳng tăng, chẳng giảm, đúng lý không sai, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi lăm. Tướng đảnh của Thế Tôn không thể thấy được, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi sáu. Tay chân của Thế Tôn mở ra hay co lại đều phân minh, trang nghiêm đẹp đẽ như màu đồng đỏ, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi bảy. Thế Tôn khi đi, chân cách đất chừng bốn ngón tay mà hiện in dấu, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi tám. Thế Tôn tự giữ vững, không cần người đỡ, thân không chao động, cũng chẳng nghiêng ngã, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi chín. Oai đức của Thế Tôn chấn động tất cả, kẻ tâm ác thấy thì vui mừng, người sợ sệt thấy thì an ổn, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi. Âm thanh của Thế Tôn chẳng cao, chẳng thấp, tùy ý chúng sinh, hòa vui ban lời, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi mốt. Thế Tôn thường tùy theo các loài hữu tình dùng âm thanh vừa ý, vì họ thuyết pháp, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi hai. Thế Tôn diễn thuyết chánh pháp bằng một âm, tùy theo loài hữu tình, khiến đều hiểu rõ, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi ba. Thế Tôn thuyết pháp đều dựa vào thứ lớp, chắc chắn có nhân duyên, lời nói đều thiện, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi bốn. Thế Tôn quán khắp các loài hữu tình, khen ngợi điều thiện, chê trách việc ác, mà không thương ghét, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi lăm. Thế Tôn làm việc gì trước quán xét, sau mới làm, đầy đủ khuôn phép, khiến biết hiện, tịnh, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi sáu. Tướng tốt của Thế Tôn, tất cả hữu tình không có thể thấy hết, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi bảy. Xương ót của Thế Tôn cứng chắc tròn đầy, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi tám.

Dung nhan của Thế Tôn thường trẻ chẳng già, ưa dạo nơi chốn cũ, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi chín. Tay chân và trước ngực của Thế Tôn đều có đức tướng cát tường xoay quanh, vân như thêu họa, sắc giống đá đỏ, đó là vẻ đẹp thứ tám mươi.

Này Thiện Hiện, đó gọi là tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc.

Này Thiện Hiện, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì thành tựu các tướng tốt như thế, nên ánh sáng nơi thân tùy ý có thể chiếu khắp thế giới ba lần ngàn, không có chỗ nào là không tới. Khi vừa khởi ý, liền có thể chiếu khắp vô lượng, vô biên, vô số thế giới. Nhưng vì thương xót các hữu tình nên thâu giữ hào quang thường chiếu mỗi bên chỉ một tầm. Nếu hào quang nơi thân ra thì chính ánh sáng của mặt trời, mặt trăng... đều lu mờ. Các loài hữu tình chẳng có thể phân biệt ngày đêm, nửa tháng, ngày, giờ, số năm, có làm sự việc gì cũng chẳng thành tựu được. Âm thanh của Phật tùy ý có thể biến khắp cả thế giới ba lần ngàn. Khi tác ý, liền có thể biến khắp vô lượng, vô biên, vô số thế giới. Nhưng vì nhằm đem lại lợi lạc cho các hữu tình, nên âm thanh ấy tùy theo số lượng người nghe mà chẳng tăng, chẳng giảm.

Này Thiện Hiện, những công đức thù thắng như thế, ta trước kia ở quả vị Bồ-tát khi tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa đã có thể hoàn thành, cho nên nay có đầy đủ tướng tốt trang nghiêm. Tất cả hữu tình thấy đều hoan hỷ, đều đạt được lợi ích an lạc thù thắng.

Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể dùng hai loại Bố thí là tài thí và pháp thí để thu phục, giáo hóa các hữu tình. Đó là pháp hết mực hy hữu!

Này Thiện Hiện, thế nào là Đại Bồ-tát dùng Ái ngữ mà thu phục, giáo hóa các hữu tình?

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng lời lẽ nhu hòa, vì các loài hữu tình trước hết giảng nói về Bố thí ba-la-mậtđa, dùng phương tiện thu phục; kế đến nói Tịnh giới ba-la-mật-đa, dùng phương tiện thu phục; tiếp theo nói An nhẫn ba-la-mật-đa, dùng phương tiện thu phục; rồi nói Tinh tấn ba-la-mật-đa, dùng phương tiện thu phục; lại nói Tĩnh lự ba-la-mật-đa, dùng phương tiện thu phục; sau nói Bát-nhã ba-lamật-đa, dùng phương tiện thu phục.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng lời lẽ nhu hòa nói nhiều về sáu phép Ba-la-mật-đa này để thu phục loài hữu tình. Vì sao? Vì do sáu phép Ba-la-mật-đa này có khả năng thâu tóm giữ gìn khắp các pháp thiện.

Này Thiện Hiện, thế nào là Đại Bồ-tát có thể dùng Lợi hành để thu phục giáo hóa các hữu tình?

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, ở trong thời gian vô tận, dùng đủ mọi phương tiện khuyên các hữu tình siêng năng tu tập Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và các loại pháp thiện thù thắng khác, thường không lười bỏ.

Này Thiện Hiện, thế nào là Đại Bồ-tát có thể dùng Đồng sự để thu phục giáo hóa các hữu tình?

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thể hiện thần thông thù thắng và diệu lực từ đại nguyện, hiện ở trong các cõi địa ngục, bàng sinh, quỷ giới, người, trời... cùng họ làm việc, dùng phương tiện nhiếp thọ, khiến đạt được lợi ích an lạc thù thắng.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát có thể dùng Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự như thế để thu phục giáo hóa các hữu tình. Đó là pháp hết mực hy hữu. Lại nữa Thiện Hiện, Ta dùng Phật nhãn xem khắp vô lượng hằng hà sa thế giới trong mười phương, thấy các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa, trao truyền, chỉ dạy các Bồ-tát khác, như thế này:

–Này thiện nam, ông nên khéo học, nêu dẫn, phát huy các chữ theo pháp môn Đà-la-ni, nghĩa là nên khéo học một chữ, hai chữ, ba chữ, bốn chữ, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ, chín chữ, mười chữ, như thế cho đến hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, bảy mươi, tám mươi, chín mươi, hoặc trăm, hoặc ngàn cho đến vô số, nêu dẫn tự tại; lại nên khéo học tất cả ngữ ngôn, đều nhập vào một chữ, hoặc nhập vào hai chữ, ba chữ, bốn chữ, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ, chín chữ, mười chữ, như thế cho đến hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, bảy mươi, tám mươi, chín mươi, trăm ngàn, cho đến vô số, nêu dẫn, phát huy tự tại. Lại khéo học nên ở trong một chữ, gồm thâu tất cả chữ, trong tất cả chữ gồm thâu một chữ, dẫn phát tự tại. Lại nên khéo học một chữ có thể gồm thâu bốn mươi hai chữ, bốn mươi hai chữ có thể gồm thâu một chữ.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy nên khéo học như thế này: bốn mươi hai chữ nhập vào một chữ, một chữ cũng nhập vào bốn mươi hai chữ. Học như vậy rồi, ở trong các chữ nêu dẫn, phát huy một cách thiện xảo; được như thế rồi, lại đối với không chữ, nêu dẫn thiện xảo. Như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với pháp thiện xảo, đối với chữ thiện xảo, dùng các pháp các chữ thiện xảo; ở trong không chữ cũng đạt được thiện xảo. Do thiện xảo nên có thể vì hữu tình nói pháp có chữ, nói pháp không chữ; vì pháp không chữ nói pháp có chữ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì lìa chữ, không chữ thì không khác Phật pháp; vượt qua tất cả các chữ gọi là Phật pháp đúng nghĩa. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tất cả pháp, tất cả hữu tình đều là rốt ráo không, là không không bờ bến.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp, tất cả hữu tình đều là rốt ráo không, là không không bờ bến, nên vượt khỏi các chữ, vậy tự tánh của tất cả pháp, của tất cả hữu tình hoàn toàn đều chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa, tu hành Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát tu hành bốn Tĩnh lự, tu hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc? Tại sao Đại Bồ-tát tu hành bốn Niệm trụ, tu hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo? Tại sao Đại Bồ-tát tu hành pháp môn giải thoát Không, tu hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện? Tại sao Đại Bồ-tát an trú nơi pháp không bên trong, an trú nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh? Tại sao Đại Bồ-tát an trú nơi chân như, an trú nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn? Tại sao Đại Bồ-tát an trú nơi Thánh đế khổ, an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo? Tại sao Đại Bồ-tát tu hành tám Giải thoát, tu hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ? Tại sao Đại Bồ-tát tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa? Tại sao Đại Bồ-tát tu hành bậc Cực hỷ, tu hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân? Tại sao Đại Bồ-tát tu hành năm loại mắt, tu hành sáu phép thần thông? Tại sao Đại Bồ-tát tu hành mười lực của Phật, tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng? Tại sao Đại Bồ-tát tu hành đại Từ, tu hành đại Bi, đại Hỷ, đại Xả? Tại sao Đại Bồtát tu hành pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả? Tại sao Đại Bồ-tát tu hành trí Nhất thiết, tu hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng? Tại sao Đại Bồ-tát tu hành ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tu hành tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc? Tại sao Đại Bồ-tát an trú nơi sáu phép thần thông phát sinh từ phước báo, rồi vì các hữu tình nêu giảng chánh pháp?

Bạch Thế Tôn, tất cả hữu tình đều chẳng thể nắm bắt được, sự nêu bày về hữu tình cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên sắc chẳng thể nắm bắt được, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên sắc xứ chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên nhãn giới chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên sắc giới chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên nhãn thức giới chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên nhãn xúc chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nắm bắt được, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên địa giới chẳng thể nắm bắt được, thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên nhân duyên chẳng thể nắm bắt được, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên tất cả pháp từ duyên sinh ra đều chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên vô minh chẳng thể nắm bắt được, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên Bố thí ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên bốn Tĩnh lự chẳng thể nắm bắt được, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên bốn Niệm trụ chẳng thể nắm bắt được, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên pháp môn giải thoát Không chẳng thể nắm bắt được, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên pháp không bên trong chẳng thể nắm bắt được, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên chân như chẳng thể nắm bắt được, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được, Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên tám Giải thoát chẳng thể nắm bắt được, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được, tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên bậc Cực hỷ chẳng thể nắm bắt được, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được, sáu phép thần thông cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên mười lực của Phật chẳng thể nắm bắt được, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên đại Từ chẳng thể nắm bắt được, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được, tánh luôn luôn xả cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên trí Nhất thiết chẳng thể nắm bắt được, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên quả Dự lưu chẳng thể nắm bắt được, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ chẳng thể nắm bắt được, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn, trong cái chẳng thể nắm bắt được, không có hữu tình, không có sự nêu bày về hữu tình; không có sắc, không có sự nêu bày về sắc; không có thọ, tưởng, hành, thức, không có sự nêu bày về thọ, tưởng, hành, thức; không có nhãn xứ, không có sự nêu bày về nhãn xứ; không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, không có sự nêu bày về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; không có sắc xứ, không có sự nêu bày về sắc xứ; không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, không có sự nêu bày về thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; không có nhãn giới, không có sự nêu bày về nhãn giới; không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, không có sự nêu bày về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; không có sắc giới, không có sự nêu bày về sắc giới; không có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, không có sự nêu bày về thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; không có nhãn thức giới, không có sự nêu bày về nhãn thức giới; không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, không có sự nêu bày về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; không có nhãn xúc, không có sự nêu bày về nhãn xúc; không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, không có sự nêu bày về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, không có sự nêu bày về các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; không có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, không có sự nêu bày về các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; không có địa giới, không có sự nêu bày về địa giới; không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới, không có sự nêu bày về thủy, hỏa, phong, không, thức giới; không có nhân duyên, không có sự nêu bày về nhân duyên; không có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, không có sự nêu bày về đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; không có tất cả pháp từ duyên sinh ra, không có sự nêu bày về tất cả pháp từ duyên sinh ra; không có vô minh, không có sự nêu bày về vô minh; không có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não, không có sự nêu bày về hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não; không có Bố thí ba-la-mật-đa, không có sự nêu bày về Bố thí ba-la-mật-đa; không có Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có sự nêu bày về Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; không có bốn Tĩnh lự, không có sự nêu bày về bốn Tĩnh lự; không có bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, không có sự nêu bày về bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; không có bốn Niệm trụ, không có sự nêu bày về bốn Niệm trụ; không có bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, không có sự nêu bày về bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; không có pháp môn giải thoát Không, không có sự nêu bày về pháp môn giải thoát Không; không có pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, không có sự nêu bày về pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; không có pháp không bên trong, không có sự nêu bày về pháp không bên trong; không có pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, không có sự nêu bày về pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; không có chân như, không có sự nêu bày về chân như; không có pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, không có sự nêu bày về pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; không có Thánh đế khổ, không có sự nêu bày về Thánh đế khổ; không có Thánh đế tập, diệt, đạo, không có sự nêu bày về Thánh đế tập, diệt, đạo; không có tám Giải thoát, không có sự nêu bày về tám Giải thoát; không có tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, không có sự nêu bày về tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; không có pháp môn Đà-la-ni, không có sự nêu bày về pháp môn Đà-la-ni; không có pháp môn Tam-ma-địa, không có sự nêu bày về pháp môn Tam-ma-địa; không có bậc Cực hỷ, không có sự nêu bày về bậc Cực hỷ; không có bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, không có sự nêu bày về bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân; không có năm loại mắt, không có sự nêu bày về năm loại mắt; không có sáu phép thần thông, không có sự nêu bày về sáu phép thần thông; không có mười lực của Phật, không có sự nêu bày về mười lực của Phật; không có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, không có sự nêu bày về bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; không có đại Từ, không có sự nêu bày về đại Từ; không có đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, không có sự nêu bày về đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; không có pháp không quên mất, không có sự nêu bày về pháp không quên mất; không có tánh luôn luôn xả, không có sự nêu bày về tánh luôn luôn xả; không có trí Nhất thiết, không có sự nêu bày về trí Nhất thiết; không có trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, không có sự nêu bày về trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; không có quả Dự lưu, không có sự nêu bày về quả Dự lưu; không có quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, không có sự nêu bày về quả Nhất lai cho đến quả vị Độc giác; không có tất cả hạnh Đại Bồ-tát, không có sự nêu bày về tất cả hạnh Đại Bồ-tát; không có quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, không có sự nêu bày về quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; không có ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, không có sự nêu bày về ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; không có tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, không có sự nêu bày về tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc.

Bạch Thế Tôn, tất cả hữu tình, pháp và sự nêu bày đã chẳng thể nắm bắt được, hoàn toàn không có sở hữu, thì tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì các hữu tình nêu giảng các pháp?

Bạch Thế Tôn, chớ cho là Đại Bồ-tát tự an trú nơi pháp bất chánh vì các hữu tình nói pháp bất chánh, khuyên các hữu tình an trú nơi pháp bất chánh, dùng pháp điên đảo an lập hữu tình. Vì sao? Bạch Thế Tôn, vì Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa hãy còn chẳng đắc Bồ-đề, huống là có pháp phần Bồ-đề có thể chứng đắc; hãy còn chẳng đắc Đại Bồ-tát huống là có pháp Đại Bồ-tát để có thể chứng đắc.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như ông đã nói! Tất cả hữu tình đều chẳng thể nắm bắt được, sự nêu bày về tất cả hữu tình, cũng chẳng thể nắm bắt được; tất cả pháp cũng chẳng thể nắm bắt được, sự nêu bày về tất cả pháp cũng chẳng thể nắm bắt được. Do chẳng thể nắm bắt được, hoàn toàn không sở hữu nên biết không bên trong, nên biết không bên ngoài, không cả trong ngoài, không không, không lớn, không thắng nghĩa, không hữu vi, không vô vi, không rốt ráo, không không biên giới, không tản mạn, không không đổi khác, không bản tánh, không tự tướng, không cộng tướng, không nơi tất cả pháp, không chẳng thể nắm bắt được, không không tánh, không tự tánh, không không tánh tự tánh; nên biết chân như không, nên biết pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn đều không; nên biết Thánh đế khổ không, nên biết Thánh đế tập, diệt, đạo không; nên biết sắc không, nên biết thọ, tưởng, hành, thức không; nên biết nhãn xứ không, nên biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không; nên biết sắc xứ không, nên biết thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không; nên biết nhãn giới không, nên biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không; nên biết sắc giới không, nên biết thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không; nên biết nhãn thức giới không, nên biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không; nên biết nhãn xúc không, nên biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không; nên biết các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không, nên biết các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra không; nên biết địa giới không, nên biết thủy, hỏa, phong, không, thức giới không; nên biết nhân duyên không, nên biết đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không; nên biết tất cả pháp từ duyên sinh ra không; nên biết vô minh không, nên biết hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não không; nên biết ngã không, nên biết hữu tình, dòng sinh mạng, khả năng sinh khởi, sự nuôi dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sinh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, khả năng thọ quả báo, khả năng khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy đều không; nên biết Bố thí ba-la-mật-đa không, nên biết Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa đều không; nên biết bốn Tĩnh lự không, nên biết bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc đều không; nên biết bốn Niệm trụ không, nên biết bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo đều không; nên biết pháp môn giải thoát Không không, nên biết pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện đều không; nên biết tám Giải thoát không, nên biết tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ đều không; nên biết tất cả pháp môn Đà-la-ni không, nên biết tất cả pháp môn Tam-ma-địa đều không; nên biết bậc Cực hỷ không, nên biết bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân đều không; nên biết năm loại mắt không, nên biết sáu phép thần thông không; nên biết mười lực của Phật không, nên biết bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng đều không; nên biết đại Từ không, nên biết đại Bi, đại Hỷ, đại Xả đều không; nên biết pháp không quên mất không, nên biết tánh luôn luôn xả không; nên biết trí Nhất thiết không, nên biết trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không; nên biết quả Dự lưu không, nên biết quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác đều không; nên biết tất cả hạnh Đại Bồ-tát không; nên biết quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật không; nên biết tất cả cõi Phật không; nên biết sự đem lại thành tựu đầy đủ cho hữu tình không; nên biết ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ không, nên biết tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc không.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thấy tất cả pháp đều không rồi, vì các hữu tình nêu giảng các pháp khiến lìa điên đảo; tuy vì hữu tình nêu giảng các pháp nhưng đối với hữu tình hoàn toàn không có sở đắc, đối với các tướng không chẳng tăng, chẳng giảm, không lấy, không bỏ. Do nhân duyên ấy, tuy thuyết các pháp nhưng không có đối tượng để thuyết.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy ở nơi tất cả pháp, khi quán như thế, chứng đắc trí không chướng ngại đối với tất cả pháp. Do trí này nên chẳng hủy hoại các pháp, không phân biệt thành hai, vì các hữu tình nêu giảng như thật, khiến họ lìa chấp trước, vọng tưởng, điên đảo, tùy theo căn cơ mà giúp họ hướng tới quả vị của ba thừa.

QUYỂN 382

Phẩm 68: TƯỚNG CỦA CÁC CÔNG ĐỨC (4)

Lại nữa Thiện Hiện, như có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa làm một Đức Phật; vị Phật ấy lại có thể hóa làm vô lượng trăm ngàn ức triệu chúng. Khi ấy, vị Hóa Phật kia giáo hóa số chúng đã hóa ra ấy, hoặc khiến tu hành Bố thí ba-la-mậtđa, hoặc khiến tu hành Tịnh giới ba-la-mật-đa, hoặc khiến tu hành An nhẫn ba-la-mật-đa, hoặc khiến tu hành Tinh tấn ba-la-mật-đa, hoặc khiến tu hành Tĩnh lự ba-la-mật-đa, hoặc khiến tu hành Bátnhã ba-la-mật-đa; hoặc khiến tu hành bốn Tĩnh lự, hoặc khiến tu hành bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; hoặc khiến tu hành bốn Niệm trụ, hoặc khiến tu hành bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; hoặc khiến tu hành pháp môn giải thoát Không, hoặc khiến tu hành pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; hoặc khiến an trú nơi pháp không bên trong, hoặc khiến an trú nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc khiến an trú nơi chân như, hoặc khiến an trú nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; hoặc khiến an trú nơi Thánh đế khổ, hoặc khiến an trú nơi Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc khiến tu hành tám Giải thoát, hoặc khiến tu hành tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; hoặc khiến tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc khiến tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc khiến tu hành bậc Cực hỷ, hoặc khiến tu hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; hoặc khiến tu hành năm loại mắt, hoặc khiến tu hành sáu phép thần thông; hoặc khiến tu hành mười lực của Phật, hoặc khiến tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc khiến tu hành đại Từ, hoặc khiến tu hành đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; hoặc khiến tu hành pháp không quên mất, hoặc khiến tu hành tánh luôn luôn xả; hoặc khiến tu hành trí Nhất thiết, hoặc khiến tu hành trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; hoặc khiến tu hành ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, hoặc khiến tu hành tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; hoặc khiến chứng đắc quả Dự lưu, hoặc khiến chứng đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, hoặc khiến chứng đắc thắng vị của Bồ-tát, hoặc khiến chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, thì này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Khi ấy vị Hóa Phật và chúng được hóa đối với các pháp có phân biệt, có hủy hoại chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không! Vì các người được biến hóa ấy không có sự phân biệt.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, do nhân duyên này nên biết, Đại Bồ-tát cũng lại như thế. Đại Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa vì các hữu tình, tùy theo căn cơ mà thuyết pháp, tuy chẳng phân biệt, hủy hoại pháp tướng, nhưng có thể an lập như thật các hữu tình, khiến họ an trú ở bậc thích hợp; tuy đối với hữu tình và tất cả pháp hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, nhưng khiến hữu tình giải thoát mọi chấp trước, vọng tưởng điên đảo, theo nẻo không buộc không mở làm phương tiện. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì bản tánh của sắc là không buộc không mở, bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc không mở; bản tánh của sắc là không buộc không mở thì chẳng phải là sắc; bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc không mở thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc cho đến thức đều rốt ráo thanh tịnh. Này Thiện Hiện, bản tánh của nhãn xứ không buộc không mở, bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không buộc không mở; bản tánh của nhãn xứ không buộc không mở thì chẳng phải là nhãn xứ, bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không buộc không mở thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ cho đến ý xứ đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của sắc xứ không buộc không mở, bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không buộc không mở; bản tánh của sắc xứ không buộc không mở thì chẳng phải là sắc xứ, bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không buộc không mở thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì sắc xứ cho đến pháp xứ đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của nhãn giới không buộc không mở, bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không buộc không mở; bản tánh của nhãn giới không buộc không mở thì chẳng phải là nhãn giới, bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không buộc không mở thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Vì sao? Vì nhãn giới cho đến ý giới đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của sắc giới không buộc không mở, bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không buộc không mở; bản tánh của sắc giới không buộc không mở thì chẳng phải là sắc giới, bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không buộc không mở thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Vì sao? Vì sắc giới cho đến pháp giới đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của nhãn thức giới không buộc không mở, bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không buộc không mở; bản tánh của nhãn thức giới không buộc không mở thì chẳng phải là nhãn thức giới, bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không buộc không mở thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Vì sao? Vì nhãn thức giới cho đến ý thức giới đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của nhãn xúc không buộc không mở, bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không buộc không mở; bản tánh của nhãn xúc không buộc không mở thì chẳng phải là nhãn xúc, bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không buộc không mở thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Vì sao? Vì nhãn xúc cho đến ý xúc đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không buộc không mở, bản tánh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng không buộc không mở; bản tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không buộc không mở thì chẳng phải là các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, bản tánh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng không buộc không mở thì chẳng phải là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của địa giới không buộc không mở, bản tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không buộc không mở; bản tánh của địa giới không buộc không mở thì chẳng phải là địa giới, bản tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không buộc không mở thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của nhân duyên không buộc không mở, bản tánh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không buộc không mở; bản tánh của nhân duyên không buộc không mở thì chẳng phải là nhân duyên, bản tánh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không buộc không mở thì chẳng phải là đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Vì sao? Vì nhân duyên cho đến tăng thượng duyên đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của pháp từ các duyên sinh ra không buộc không mở, bản tánh của pháp từ các duyên sinh ra không buộc không mở thì chẳng phải là pháp từ các duyên sinh ra. Vì sao? Vì pháp từ các duyên sinh ra đều rốt ráo thanh tịnh. Này Thiện Hiện, bản tánh của vô minh không buộc không mở, bản tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng không buộc không mở; bản tánh của vô minh không buộc không mở thì chẳng phải là vô minh, bản tánh của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng không buộc không mở thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não. Vì sao? Vì vô minh cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của Bố thí ba-la-mậtđa không buộc không mở, bản tánh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không buộc không mở; bản tánh của Bố thí ba-la-mật-đa không buộc không mở thì chẳng phải là Bố thí ba-la-mật-đa, bản tánh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không buộc không mở thì chẳng phải là Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của bốn Tĩnh lự không buộc không mở, bản tánh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng không buộc không mở; bản tánh của bốn Tĩnh lự không buộc không mở thì chẳng phải là bốn Tĩnh lự, bản tánh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng không buộc không mở thì chẳng phải là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Vì sao? Vì bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của bốn Niệm trụ không buộc không mở, bản tánh của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng không buộc không mở; bản tánh của bốn Niệm trụ không buộc không mở thì chẳng phải là bốn Niệm trụ, bản tánh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng không buộc không mở thì chẳng phải là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Vì sao? Vì bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của pháp môn giải thoát Không không buộc không mở, bản tánh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng không buộc không mở; bản tánh của pháp môn giải thoát Không không buộc không mở thì chẳng phải là pháp môn giải thoát Không, bản tánh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng không buộc không mở thì chẳng phải là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của pháp không bên trong không buộc không mở, bản tánh của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng không buộc không mở; bản tánh của pháp không bên trong không buộc không mở thì chẳng phải là pháp không bên trong, bản tánh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng không buộc không mở thì chẳng phải là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của Thánh đế khổ không buộc không mở, bản tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng không buộc không mở; bản tánh của Thánh đế khổ không buộc không mở thì chẳng phải là Thánh đế khổ, bản tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng không buộc không mở thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của tám Giải thoát không buộc không mở, bản tánh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng không buộc không mở; bản tánh của tám Giải thoát không buộc không mở thì chẳng phải là tám Giải thoát, bản tánh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng không buộc không mở thì chẳng phải là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Vì sao? Vì tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni không buộc không mở, bản tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng không buộc không mở; bản tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni không buộc không mở thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni, bản tánh của tất cả pháp môn Tam-mađịa cũng không buộc không mở thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của bậc Cực hỷ không buộc không mở, bản tánh của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng không buộc không mở; bản tánh của bậc Cực hỷ không buộc không mở thì chẳng phải là bậc Cực hỷ, bản tánh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân cũng không buộc không mở thì chẳng phải là bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân. Vì sao? Vì bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của năm loại mắt không buộc không mở, bản tánh của sáu phép thần thông cũng không buộc không mở; bản tánh của năm loại mắt không buộc không mở thì chẳng phải là năm loại mắt, bản tánh của sáu phép thần thông cũng không buộc không mở thì chẳng phải là sáu phép thần thông. Vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh nơi mười lực của Phật không buộc không mở, bản tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không buộc không mở; bản tánh nơi mười lực của Phật không buộc không mở thì chẳng phải là mười lực của Phật, bản tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không buộc không mở thì chẳng phải là bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của đại Từ không buộc không mở, bản tánh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả cũng không buộc không mở; bản tánh của đại Từ không buộc không mở thì chẳng phải là đại Từ, bản tánh của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả cũng không buộc không mở thì chẳng phải là đại Bi, đại Hỷ, đại Xả. Vì sao? Vì đại Từ cho đến đại Xả đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của pháp không quên mất không buộc không mở, bản tánh của tánh luôn luôn xả cũng không buộc không mở; bản tánh của pháp không quên mất không buộc không mở thì chẳng phải là pháp không quên mất, bản tánh của tánh luôn luôn xả cũng không buộc không mở thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của trí Nhất thiết không buộc không mở, bản tánh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng không buộc không mở; bản tánh của trí Nhất thiết không buộc không mở thì chẳng phải là trí Nhất thiết, bản tánh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng không buộc không mở thì chẳng phải là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Vì sao? Vì trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ không buộc không mở, bản tánh của tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng không buộc không mở; bản tánh của ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ không buộc không mở thì chẳng phải là ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, bản tánh của tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng không buộc không mở thì chẳng phải là tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc. Vì sao? Vì ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của quả Dự lưu không buộc không mở, bản tánh của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng không buộc không mở; bản tánh của quả Dự lưu không buộc không mở thì chẳng phải là quả Dự lưu, bản tánh của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng không buộc không mở thì chẳng phải là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác. Vì sao? Vì quả Dự lưu cho đến quả vị Độc giác đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát không buộc không mở, bản tánh của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không buộc không mở; bản tánh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát không buộc không mở thì chẳng phải là tất cả hạnh Đại Bồ-tát, bản tánh của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không buộc không mở thì chẳng phải là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của pháp thế gian không buộc không mở, bản tánh của pháp xuất thế gian cũng không buộc không mở; bản tánh của pháp thế gian không buộc không mở thì chẳng phải là pháp thế gian, bản tánh của pháp xuất thế gian cũng không buộc không mở thì chẳng phải là pháp xuất thế gian. Vì sao? Vì pháp thế gian, pháp xuất thế gian đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của pháp hữu lậu không buộc không mở, bản tánh của pháp vô lậu cũng không buộc không mở; bản tánh của pháp hữu lậu không buộc không mở thì chẳng phải là pháp hữu lậu, bản tánh của pháp vô lậu cũng không buộc không mở thì chẳng phải là pháp vô lậu. Vì sao? Vì pháp hữu lậu, pháp vô lậu đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, bản tánh của pháp hữu vi không buộc không mở, bản tánh của pháp vô vi cũng không buộc không mở; bản tánh của pháp hữu vi không buộc không mở thì chẳng phải là pháp hữu vi, bản tánh của pháp vô vi cũng không buộc không mở thì chẳng phải là pháp vô vi. Vì sao? Vì pháp hữu vi, pháp vô vi đều rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tuy vì hữu tình nêu giảng các pháp nhưng đối với hữu tình và các pháp tánh hoàn toàn không có sở đắc. Vì sao? Vì các hữu tình và tất cả pháp đều chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ-tát khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, lấy vô sở trụ làm phương tiện, nên an trú trong cái vô sở đắc của tất cả pháp, nghĩa là lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của sắc, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của thọ, tưởng, hành, thức; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của nhãn xứ, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của sắc xứ, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của nhãn giới, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của sắc giới, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của nhãn thức giới, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của nhãn xúc, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của địa giới, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của nhân duyên, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của các pháp từ các duyên sinh ra; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của vô minh, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của ngã, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của Bố thí ba-la-mật-đa, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của bốn Tĩnh lự, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của bốn Niệm trụ, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của pháp môn giải thoát Không, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của pháp không bên trong, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của Thánh đế khổ, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của Thánh đế tập, diệt, đạo; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của tám Giải thoát, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của tất cả pháp môn Đà-la-ni, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của bậc Cực hỷ, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của năm loại mắt, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của sáu phép thần thông; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của mười lực của Phật, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của đại Từ, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của pháp không quên mất, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của tánh luôn luôn xả; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của trí Nhất thiết, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của quả Dự lưu, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của pháp thế gian, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của pháp xuất thế gian; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của pháp hữu lậu, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của pháp vô lậu; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của pháp hữu vi, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trú nơi cái không của pháp vô vi.

Này Thiện Hiện, vì sắc vô sở trụ, thọ, tưởng, hành, thức cũng vô sở trụ; cái không của sắc vô sở trụ, cái không của thọ, tưởng, hành, thức cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì sắc không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, thọ, tưởng, hành, thức cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của sắc không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của thọ, tưởng, hành, thức cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp.

Này Thiện Hiện, nhãn xứ vô sở trụ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng vô sở trụ; cái không của nhãn xứ vô sở trụ, cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nhãn xứ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của nhãn xứ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, sắc xứ vô sở trụ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng vô sở trụ; cái không của sắc xứ vô sở trụ, cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì sắc xứ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của sắc xứ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, nhãn giới vô sở trụ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng vô sở trụ; cái không của nhãn giới vô sở trụ, cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nhãn giới không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của nhãn giới không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, sắc giới vô sở trụ, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng vô sở trụ; cái không của sắc giới vô sở trụ, cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì sắc giới không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của sắc giới không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, nhãn thức giới vô sở trụ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng vô sở trụ; cái không của nhãn thức giới vô sở trụ, cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nhãn thức giới không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của nhãn thức giới không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, nhãn xúc vô sở trụ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng vô sở trụ; cái không của nhãn xúc vô sở trụ, cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nhãn xúc không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của nhãn xúc không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra vô sở trụ, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng vô sở trụ; cái không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra vô sở trụ, cái không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, địa giới vô sở trụ, thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng vô sở trụ; cái không của địa giới vô sở trụ, cái không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì địa giới không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của địa giới không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, nhân duyên vô sở trụ, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng vô sở trụ; cái không của nhân duyên vô sở trụ, cái không của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì nhân duyên không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của nhân duyên không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, pháp từ các duyên sinh ra vô sở trụ, cái không của pháp từ các duyên sinh ra cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì pháp từ các duyên sinh ra không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của các pháp từ các duyên sinh ra cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, vô minh vô sở trụ, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng vô sở trụ; cái không của vô minh vô sở trụ, cái không của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì vô minh không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của vô minh không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, Bố thí ba-la-mật-đa vô sở trụ, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa cũng vô sở trụ; cái không của Bố thí bala-mật-đa vô sở trụ, cái không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Bố thí ba-lamật-đa không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của Bố thí ba-la-mật-đa không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, bốn Tĩnh lự vô sở trụ, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng vô sở trụ; cái không của bốn Tĩnh lự vô sở trụ, cái không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì bốn Tĩnh lự không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của bốn Tĩnh lự không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, bốn Niệm trụ vô sở trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng vô sở trụ; cái không của bốn Niệm trụ vô sở trụ, cái không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì bốn Niệm trụ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của bốn Niệm trụ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, pháp môn giải thoát Không vô sở trụ, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng vô sở trụ; cái không của pháp môn giải thoát Không vô sở trụ, cái không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì pháp môn giải thoát Không không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của pháp môn giải thoát Không không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, pháp không bên trong vô sở trụ, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng vô sở trụ; cái không của pháp không bên trong vô sở trụ, cái không của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì pháp không bên trong không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của pháp không bên trong không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, Thánh đế khổ vô sở trụ, Thánh đế tập, diệt, đạo cũng vô sở trụ; cái không của Thánh đế khổ vô sở trụ, cái không của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì Thánh đế khổ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, Thánh đế tập, diệt, đạo cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của Thánh đế khổ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, tám Giải thoát vô sở trụ, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng vô sở trụ; cái không của tám Giải thoát vô sở trụ, cái không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tám Giải thoát không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của tám Giải thoát không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, tất cả pháp môn Đà-la-ni vô sở trụ, tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng vô sở trụ; cái không của tất cả pháp môn Đà-la-ni vô sở trụ, cái không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của tất cả pháp môn Đà-la-ni không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của tất cả pháp môn Tamma-địa cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, bậc Cực hỷ vô sở trụ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng vô sở trụ; cái không của bậc Cực hỷ vô sở trụ, cái không của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì bậc Cực hỷ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của bậc Cực hỷ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, năm loại mắt vô sở trụ, sáu phép thần thông cũng vô sở trụ; cái không của năm loại mắt vô sở trụ, cái không của sáu phép thần thông cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì năm loại mắt không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, sáu phép thần thông cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của năm loại mắt không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của sáu phép thần thông cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, mười lực của Phật vô sở trụ, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng vô sở trụ; cái không nơi mười lực của Phật vô sở trụ, cái không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì mười lực của Phật không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không nơi mười lực của Phật không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, đại Từ vô sở trụ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả cũng vô sở trụ; cái không của đại Từ vô sở trụ, cái không của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì đại Từ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của đại Từ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của đại Bi, đại Hỷ, đại Xả cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, pháp không quên mất vô sở trụ, tánh luôn luôn xả cũng vô sở trụ; cái không của pháp không quên mất vô sở trụ, cái không của tánh luôn luôn xả cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì pháp không quên mất không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, tánh luôn luôn xả cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của pháp không quên mất không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của tánh luôn luôn xả cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, trí Nhất thiết vô sở trụ, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng vô sở trụ; cái không của trí Nhất thiết vô sở trụ, cái không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì trí Nhất thiết không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của trí Nhất thiết không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ vô sở trụ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng vô sở trụ; cái không của ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ vô sở trụ, cái không của tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, quả Dự lưu vô sở trụ, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng vô sở trụ; cái không của quả Dự lưu vô sở trụ, cái không của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì quả Dự lưu không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của quả Dự lưu không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán, quả vị Độc giác cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, tất cả hạnh Đại Bồ-tát vô sở trụ, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng vô sở trụ; cái không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát vô sở trụ, cái không của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, pháp thế gian vô sở trụ, pháp xuất thế gian cũng vô sở trụ; cái không của pháp thế gian vô sở trụ, cái không của pháp xuất thế gian cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì pháp thế gian không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, pháp xuất thế gian cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của pháp thế gian không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của pháp xuất thế gian cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, pháp hữu lậu vô sở trụ, pháp vô lậu cũng vô sở trụ; cái không của pháp hữu lậu vô sở trụ, cái không của pháp vô lậu cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì pháp hữu lậu không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, pháp vô lậu cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của pháp hữu lậu không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của pháp vô lậu cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, pháp hữu vi vô sở trụ, pháp vô vi cũng vô sở trụ; cái không của pháp hữu vi vô sở trụ, cái không của pháp vô vi cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì pháp hữu vi không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, pháp vô vi cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; cái không của pháp hữu vi không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, cái không của pháp vô vi cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; vì không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải là pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện, chẳng phải pháp không tánh trụ nơi pháp không tánh, chẳng phải pháp có tánh trụ nơi pháp có tánh; chẳng phải pháp không tánh trụ nơi pháp có tánh, chẳng phải pháp có tánh trụ nơi pháp không tánh; chẳng phải pháp tự tánh trụ nơi pháp tự tánh, chẳng phải pháp tha tánh trụ nơi pháp tha tánh; chẳng phải pháp tự tánh trụ nơi pháp tha tánh, chẳng phải pháp tha tánh trụ nơi pháp tự tánh. Vì sao? Vì tất cả pháp ấy đều chẳng thể nắm bắt được, pháp chẳng thể nắm bắt được thì nên trụ nơi nào!

Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các pháp không như thế tu khắp các pháp, cũng có thể nêu bày, chỉ dạy như thật cho hữu tình.

Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát có thể tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì đối với Phật, Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn và tất cả Thánh chúng đều không lầm lỗi. Vì sao? Vì chư Phật, Bồtát, Độc giác, Thanh văn, tất cả Thánh chúng ở nơi pháp tánh ấy đều có khả năng theo đấy mà giác ngộ; đã theo đấy mà giác ngộ rồi, vì các hữu tình nêu giảng thuận hợp; tuy vì các hữu tình tuyên thuyết các pháp nhưng đối với pháp tánh không chuyển, không vượt. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì thật tánh của các pháp tức là pháp giới, chân như, thật tế; pháp giới, chân như, thật tế như thế đều chẳng thể chuyển, chẳng thể vượt. Vì sao? Vì pháp giới, chân như, thật tế như thế đều không có tự tánh để có thể chuyển, vượt.

QUYỂN 383

Phẩm 68: TƯỚNG CỦA CÁC CÔNG ĐỨC (5)

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu pháp giới, chân như, thật tế không chuyển, vượt thì sắc cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Thọ, tưởng, hành, thức cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, nhãn xứ cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, sắc xứ cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, nhãn giới cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, sắc giới cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, nhãn thức giới cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, nhãn xúc cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, địa giới cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Thủy, hỏa, phong, không, thức giới cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, nhân duyên cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, pháp từ các duyên sinh ra cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, vô minh cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, Bố thí ba-la-mật-đa cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, bốn Tĩnh lự cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, bốn Niệm trụ cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, pháp môn giải thoát Không cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, pháp không bên trong cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, Thánh đế khổ cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Thánh đế tập, diệt, đạo cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, tám Giải thoát cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, tất cả pháp môn Đà-la-ni cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Tất cả pháp môn Tam-ma-địa cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, bậc Cực hỷ cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, năm loại mắt cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Sáu phép thần thông cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, mười lực của Phật cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng vô sở trụ; cái không nơi mười lực của Phật cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, đại Từ cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Đại Bi, đại Hỷ, đại Xả cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, pháp không quên mất cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Tánh luôn luôn xả cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, trí Nhất thiết cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, quả Dự lưu cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Các quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, tất cả hạnh Đại Bồ-tát cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, pháp thế gian cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Pháp xuất thế gian cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, pháp hữu lậu cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Pháp vô lậu cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn, pháp hữu vi cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng? Pháp vô vi cùng với pháp giới, chân như, thật tế có khác chăng?

Phật dạy:

–Không, Thiện Hiện! Sắc chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, nhãn xứ chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, sắc xứ chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, nhãn giới chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, sắc giới chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, nhãn thức giới chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, nhãn xúc chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, địa giới chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, nhân duyên chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, pháp từ các duyên sinh ra cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, vô minh chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, Bố thí ba-la-mật-đa chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, bốn Tĩnh lự chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, bốn Niệm trụ chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, pháp môn giải thoát Không chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, pháp không bên trong chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế. Này Thiện Hiện, Thánh đế khổ chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, tám Giải thoát chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, bậc Cực hỷ chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, năm loại mắt chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; sáu phép thần thông cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, mười lực của Phật chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, đại Từ chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; đại Bi, đại Hỷ, đại Xả cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, pháp không quên mất chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; tánh luôn luôn xả cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, trí Nhất thiết chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, quả Dự lưu chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán, quả vị Độc giác cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, pháp thế gian chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; pháp xuất thế gian cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, pháp hữu lậu chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; pháp vô lậu cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Này Thiện Hiện, pháp hữu vi chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế; pháp vô vi cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu sắc chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu nhãn xứ chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu sắc xứ chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu nhãn giới chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu sắc giới chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu nhãn thức giới chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu nhãn xúc chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu địa giới chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu nhân duyên chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu pháp từ các duyên sinh ra chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu vô minh chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu Bố thí ba-la-mật-đa chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu bốn Tĩnh lự chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu bốn Niệm trụ chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu pháp môn giải thoát Không chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu pháp không bên trong chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu Thánh đế khổ chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu tám Giải thoát chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu bậc Cực hỷ chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu năm loại mắt chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, sáu phép thần thông cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu mười lực của Phật chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu đại Từ chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu pháp không quên mất chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, tánh luôn luôn xả cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu trí Nhất thiết chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu quả Dự lưu chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu pháp thế gian chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, pháp xuất thế gian cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu pháp hữu lậu chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, pháp vô lậu cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế.

Bạch Thế Tôn, nếu pháp hữu vi chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, pháp vô vi cũng chẳng khác pháp giới, chân như, thật tế, thì tại sao Thế Tôn an lập hắc pháp nhận lấy quả báo xấu, đó là địa ngục, bàng sinh, quỷ giới; an lập bạch pháp nhận lấy quả báo tốt, đó là người, trời; an lập hắc bạch pháp nhận lấy quả báo xấu tốt, đó là một phần bàng sinh, quỷ giới, một phần người; an lập pháp chẳng phải hắc, chẳng phải bạch nhận lấy quả báo chẳng phải hắc, chẳng phải bạch, đó là quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán, quả vị Độc giác, hoặc cả quả vị Giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, dựa vào Thế tục đế mà an lập nhân quả sai biệt như thế, chẳng dựa vào thắng nghĩa; trong Thắng nghĩa đế chẳng thể nói có nhân quả sai biệt. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì trong Thắng nghĩa đế, tất cả pháp tánh chẳng thể phân biệt, không nêu giảng, không chỉ bày thì làm sao có nhân quả sai biệt?

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, sắc không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; thọ, tưởng, hành, thức cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, nhãn xứ không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, sắc xứ không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, nhãn giới không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, sắc giới không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, nhãn thức giới không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, nhãn xúc không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, địa giới không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, nhân duyên không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, pháp từ các duyên sinh ra không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, vô minh không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, Bố thí ba-la-mật-đa không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, bốn Tĩnh lự không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, bốn Niệm trụ không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, pháp môn giải thoát Không không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, pháp không bên trong không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, Thánh đế khổ không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, tám Giải thoát không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, tất cả pháp môn Đà-la-ni không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, bậc Cực hỷ không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, năm loại mắt không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; sáu phép thần thông cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, mười lực của Phật không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, đại Từ không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; đại Bi, đại Hỷ, đại Xả cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, pháp không quên mất không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tánh luôn luôn xả cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, trí Nhất thiết không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, quả Dự lưu không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, tất cả hạnh Đại Bồ-tát không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, pháp thế gian không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; pháp xuất thế gian cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, pháp hữu lậu không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; pháp vô lậu cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Này Thiện Hiện, trong Thắng nghĩa đế, pháp hữu vi không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; pháp vô vi cũng không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì đều là pháp không rốt ráo, không không biên giới.

Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu dựa vào Thế tục đế, an lập nhân quả sai biệt, chẳng dựa vào Thắng nghĩa đế thì tất cả phàm phu ngu si đều có quả Dự lưu, hoặc nên có quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán, quả vị Độc giác, hoặc nên có quả vị Giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Tất cả phàm phu ngu si có nhận biết như thật về Thế tục đế và Thắng nghĩa đế chăng? Nếu biết như thật thì họ nên có quả Dự lưu, hoặc có quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Nhưng các phàm phu ngu si chẳng nhận biết như thật về Thế tục đế và Thắng nghĩa đế, không có Thánh đạo, không tu Thánh đạo thì làm sao họ có Thánh quả sai biệt? Chỉ các bậc Thánh mới có khả năng nhận biết như thật về Thế tục đế và Thắng nghĩa đế, có Thánh đạo, có tu tập Thánh đạo. Vì vậy, có chứng đắc Thánh quả sai biệt.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu tu tập Thánh đạo thì chứng đắc Thánh quả chăng?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, không! Chẳng phải tu tập Thánh đạo có thể đắc Thánh quả, cũng chẳng tu tập Thánh đạo có thể đắc Thánh quả, chẳng phải lìa Thánh đạo có thể đắc Thánh quả, cũng chẳng phải trụ trong Thánh đạo có thể đắc Thánh quả. Vì sao? Này Thiện Hiện, vì trong Thắng nghĩa đế, đạo và đạo quả chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện, như thế Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tuy vì hữu tình an lập Thánh quả có các phẩm loại sai biệt, nhưng chẳng phân biệt Thánh quả ấy ở cảnh giới hữu vi hoặc ở cảnh giới vô vi mà nêu bày sai biệt.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu chẳng phân biệt Thánh quả như thế ở cảnh giới hữu vi hoặc cảnh giới vô vi mà nêu bày sự sai biệt, thì tại sao Thế Tôn nói đoạn ba kết gọi là quả Dự lưu; làm mỏng dục, tham, sân gọi là quả Nhất lai; đoạn sạch năm kết thuận hạ phần gọi là quả Bất hoàn; đoạn sạch năm kết thuận thượng phần gọi là quả A-la-hán; khiến cho pháp tập đã có đều thành pháp diệt gọi là quả vị Độc giác; đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí tương tục gọi là quả vị Giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn, làm sao con biết rõ nghĩa Phật đã giảng nói là chẳng phân biệt Thánh quả như thế ở cảnh giới hữu vi hoặc cảnh giới vô vi mà nêu bày có sai biệt?

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, theo ý ông thì sao? Các Thánh quả đã nói là quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, như thế Thánh quả là hữu vi hay là vô vi?

Thiện Hiện đáp:

–Thánh quả như thế đều là vô vi, chẳng phải là hữu vi.

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, trong pháp vô vi, có phân biệt chăng?

Thiện Hiện đáp:

–Bạch Thế Tôn, không! Bạch Thiện Thệ, không!

Phật dạy:

–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát cũng giống như thế, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tuy vì hữu tình thuyết giảng các pháp nhưng chẳng phân biệt tướng của các pháp đã thuyết giảng, đó là pháp không bên trong, hoặc là pháp không bên ngoài, hoặc pháp không cả trong ngoài, hoặc pháp không không, hoặc pháp không lớn, hoặc pháp không thắng nghĩa, hoặc pháp không hữu vi, hoặc pháp không vô vi, hoặc pháp không rốt ráo, hoặc pháp không không biên giới, hoặc pháp không tản mạn, hoặc pháp không không đổi khác, hoặc pháp không bản tánh, hoặc pháp không tự tướng, hoặc pháp không cộng tướng, hoặc pháp không nơi tất cả pháp, hoặc pháp không chẳng thể nắm bắt được, hoặc pháp không không tánh, hoặc pháp không tự tánh, hoặc pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đối với các pháp không có sự chấp trước, cũng luôn chỉ dạy cho người khác đối với các pháp không có sự chấp trước. Đó là đối với Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; hoặc đối với bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; hoặc đối với bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; hoặc đối với pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc đối với chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; hoặc đối với Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; hoặc đối với pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; hoặc đối với tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; hoặc đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc đối với mười địa Bồ-tát; hoặc đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc đối với trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng... đều không chấp trước. Vì không chấp trước nên đối với tất cả xứ đều được vô ngại. Như vị Hóa Phật mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hóa ra, tuy hành Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng chấp, chỉ vì hữu tình chỉ ra nẻo Niết-bàn; tuy hành bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng chấp, chỉ vì hữu tình chỉ ra nẻo Niết-bàn; tuy hành bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng chấp, chỉ vì hữu tình chỉ ra nẻo Niết-bàn; tuy hành pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng chấp, chỉ vì hữu tình chỉ ra nẻo Niết-bàn; tuy hành chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng chấp, chỉ vì hữu tình chỉ ra nẻo Niếtbàn; tuy hành Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng chấp, chỉ vì hữu tình chỉ ra nẻo Niết-bàn; tuy hành pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng chấp, chỉ vì hữu tình chỉ ra nẻo Niết-bàn; tuy hành tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng chấp, chỉ vì hữu tình chỉ ra nẻo Niết-bàn; tuy hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng chấp, chỉ vì hữu tình chỉ ra nẻo Niết-bàn; tuy hành mười địa Bồ-tát nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng chấp, chỉ vì hữu tình chỉ ra nẻo Niết-bàn; tuy hành năm loại mắt, sáu phép thần thông nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng chấp, chỉ vì hữu tình chỉ ra nẻo Niết-bàn; tuy hành mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng chấp, chỉ vì hữu tình chỉ ra nẻo Niết-bàn; tuy hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng chấp, chỉ vì hữu tình chỉ ra nẻo Niết-bàn; tuy hành trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng... nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng chấp, chỉ vì hữu tình chỉ ra nẻo Niết-bàn.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát cũng giống như thế, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả các pháp hoặc thế gian hoặc xuất thế gian, hoặc hữu lậu hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi đều không có chỗ trụ, cũng không bị chướng ngại. Vì sao? Vì hoàn toàn đạt đến tướng như thật của các pháp.


Trước

[Đầu trang][Mục lục Kinh Đại Bát Nhã]

Tiếp theo


[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]


[Mục lục tổng quát]