SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
HỘI THỨ II
Phẩm 69: Ví dụ cây
(QUYỂN 463)
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Bấy giờ Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Bát-nhã ba-la-mật-đa rất là sâu xa như thế, các Đại Bồ-tát có thể làm việc khó làm là không nắm bắt các hữu tình, cũng không nắm bắt sự tạo tác của các hữu tình nhưng vì hữu tình, họ cầu mong sớm chứng đắc trí Nhất thiết trí.
Thế Tôn, giống như có người muốn trồng cây ở hư không nơi không sắc, không thấy, không đối tượng, không nơi nương tựa thì rất khó, cũng vậy việc các Đại Bồ-tát không nắm bắt hữu tình và sự tạo tác của họ mà vì hữu tình, vị ấy cầu chứng đắc trí Nhất thiết trí thì là việc rất khó.
Phật bảo:
–Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, như lời ông nói! Bát-nhã ba-la-mật-đa rất sâu xa; các Đại Bồtát có thể làm việc khó làm là không nắm bắt hữu tình và sự tạo tác của họ mà vì hữu tình cầu mau chứng đắc trí Nhất thiết trí.
Thiện Hiện nên biết, tuy các Đại Bồ-tát không thấy có hữu tình thật cũng không thấy sự tạo tác của họ nhưng hữu tình ngu si điên đảo chấp là có thật, chìm đắm trong sinh tử, chịu khổ không dứt cho nên vị ấy cầu sớm chứng đắc trí Nhất thiết trí để cứu vớt họ, dùng phương tiện thiện xảo để cứu độ họ. Giống như có người trồng cây nơi đất tốt, tuy người ấy không biết người thọ dụng, gốc, thân, nhánh, lá, hoa, quả của cây này nhưng sau khi đã trồng cây người ấy tùy thời tưới nước, gia công chăm sóc, cây này dần dần lớn lên, gốc, thân, cành, lá, hoa, quả sum suê, nhiều người nhờ dùng sản phẩm của cây đó mà được lành bệnh, yên vui; cũng vậy, tuy không thấy có quả báo, hữu tình nhưng vì các hữu tình, các Đại Bồ-tát cầu mau chứng đắc trí Nhất thiết trí, lần lượt tu hành Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và vô số pháp phần Bồ-đề khác. Sau khi tu các pháp ấy đã viên mãn, họ liền chứng đắc trí Nhất thiết trí làm cho các hữu tình thọ dụng quả báo, nhánh lá, hoa quả đều được lợi ích.
Thiện Hiện nên biết, lợi ích cành, lá là các hữu tình dựa vào Bồ-tát này được thoát khỏi đường ác, lợi ích nơi hoa là nhờ dựa vào Bồ-tát này, các hữu tình được sinh vào dòng dõi lớn Sát-đế-lợi hoặc sinh vào dòng dõi lớn Bà-la-môn, hoặc sinh vào dòng dõi lớn Trưởng giả, hoặc sinh vào dòng dõi lớn Cư sĩ, hoặc sinh lên cõi trời Tứ Thiên vương cho đến hoặc sinh vào cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng; Lợi ích nơi quả là Đại Bồ-tát này tự chứng quả vị Giác ngộ cao tột làm cho các hữu tình hoặc trụ quả Dự lưu, hoặc trụ quả Nhất lai, hoặc trụ quả Bất hoàn hoặc trụ quả A-la-hán hoặc trụ Độc giác Bồ-đề hoặc trụ quả vị Giác ngộ cao tột. Các hữu tình này siêng tu các pháp lành, nương theo đạo ba thừa lần lượt chứng đắc Niết-bàn ba thừa. Như vậy gọi là lợi ích của quả báo.
Thiện Hiện, tuy làm việc lợi ích lớn như vậy nhưng các Đại Bồ-tát hoàn toàn không thấy thật có hữu tình nào đạt được Niết-bàn, chỉ thấy vọng tưởng và các khổ lặng dứt. Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa không nắm bắt hữu tình và sự tạo tác của họ nhưng vì trừ diệt ngã chấp điên đảo của họ nên Bồ-tát cầu mau chứng đắc trí Nhất thiết trí. Vì vậy, đó là việc khó làm.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch:
–Bạch Thế Tôn, nên biết các Đại Bồ-tát cũng như Phật. Vì sao vậy? Vì dựa vào các Đại Bồ-tát ta liền có thể vĩnh viễn đoạn trừ tất cả địa ngục, bàng sinh, quỷ giới và cũng có thể vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tai nạn, nghèo thiếu, thấp kém và các khổ ở ba cõi.
Phật bảo:
–Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, như lời ông nói! Nên biết các Đại Bồ-tát cũng như Phật. Nếu không có các Bồ-tát ở thế gian thì không có tất cả Như Lai ở ba đời cũng không có Độc giác và Thanh văn, cũng không thể vĩnh viễn đoạn trừ tất cả địa ngục, bàng sinh, quỷ giới và tai nạn, nghèo thiếu thấp kém cùng các khổ trong ba cõi. Vì thế, Thiện Hiện, việc ông nói các Đại Bồ-tát giống như Phật thật là đúng.
Lại nữa Thiện Hiện, nên biết các Đại Bồ-tát tức là Như Lai. Vì sao vậy? Thiện Hiện, nếu do chân như này tạo ra Như Lai tức là do chân như này tạo ra Độc giác, cũng do chân như này tạo ra Thanh văn, cũng do chân như này tạo ra Hiền thánh; cũng do chân như này tạo ra sắc, thọ, tưởng, hành, thức; cũng do chân như này tạo ra nhãn xứ cho đến ý xứ; cũng do chân như này tạo ra sắc xứ cho đến pháp xứ; cũng do chân như này tạo ra nhãn giới cho đến ý giới; cũng do chân như này tạo ra sắc giới cho đến pháp giới; cũng do chân như này tạo ra nhãn thức giới cho đến ý thức giới; cũng do chân như này tạo ra nhãn xúc cho đến ý xúc; cũng do chân như này tạo ra các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; cũng do chân như này tạo ra địa giới cho đến thức giới; cũng do chân như này tạo ra nhân duyên cho đến tăng thượng duyên; cũng do chân như này tạo ra vô minh cho đến lão tử; cũng do chân như này tạo ra Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mậtđa; cũng do chân như này tạo ra pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh; cũng do chân như này tạo ra Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; cũng do chân như này tạo ra bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; cũng do chân như này tạo ra bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cũng do chân như này tạo ra tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ; cũng do chân như này tạo ra ba pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện; cũng do chân như này tạo ra bậc Tịnh quán cho đến bậc Như Lai; cũng do chân như này tạo ra bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân; cũng do chân như này tạo ra tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tamma-địa; cũng do chân như này tạo ra năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng do chân như này tạo ra mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; cũng do chân như này tạo ra ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Phật; cũng do chân như này tạo ra pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng do chân như này tạo ra trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; cũng do chân như này tạo ra tất cả các hạnh của Đại Bồ-tát; cũng do chân như này tạo ra quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật; cũng do chân như này tạo ra trí Nhất thiết trí; cũng do chân như này tạo ra cảnh giới hữu vi; cũng do chân như này tạo ra cảnh giới vô vi; cũng do chân như này tạo ra tất cả các pháp; cũng do chân như này tạo ra tất cả hữu tình; cũng do chân như này tạo ra tất cả Đại Bồ-tát. Như vậy này Thiện Hiện, hoặc chân như của Như Lai, hoặc chân như của Độc giác, hoặc chân như của Thanh văn, hoặc chân như của tất cả Hiền thánh, hoặc chân như của tất cả các pháp như sắc..., hoặc chân như của tất cả hữu tình, hoặc chân như của tất cả Đại Bồ-tát, tất cả chân như này thật ra đều không khác nhau; do không khác nên gọi là chân như. Các Đại Bồ-tát tu học viên mãn đối với chân như này liền có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí. Do đã chứng đắc trí Nhất thiết trí nên họ được gọi là Như Lai. Do đó nên biết các Đại Bồ-tát tức là Như Lai vì tất cả các pháp, tất cả hữu tình đều lấy chân như làm định lượng. Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồtát nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Ai học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tức là học chân như của tất cả các pháp. Ai học chân như của tất cả pháp thì được tự tại đối với chân như tất cả pháp. Nếu được tự tại đối với chân như của tất cả pháp thì được trí phân biệt căn cơ hơn kém của tất cả hữu tình. Nếu đạt được trí phân biệt căn cơ hơn kém của tất cả hữu tình thì có thể biết hết sự hiểu biết sai khác của tất cả hữu tình, nếu có thể biết hết sự hiểu biết sai khác của tất cả hữu tình thì biết nghiệp và quả báo của tất cả hữu tình, nếu biết nghiệp và quả báo của tất cả hữu tình thì trí nguyện viên mãn, nếu trí nguyện viên mãn thì có thể tịnh tu diệu trí ba đời, nếu có thể tịnh tu diệu trí ba đời thì có thể viên mãn trí Nhất thiết trí. Nếu có thể viên mãn trí Nhất thiết trí thì có thể làm đúng theo hạnh Bồ-tát, nếu có thể làm đúng theo hạnh Bồ-tát thì có thể thường dùng tài thí, pháp thí làm lợi ích hữu tình; nếu có thể dùng tài thí, pháp thí làm lợi ích hữu tình thì có thể thật sự đem lại sự thành tựu cho hữu tình, nếu có thể thật sự đem lại sự thành tựu cho hữu tình thì có thể thật sự làm nghiêm tịnh cõi Phật, nếu có thể thật sự làm nghiêm tịnh cõi Phật thì có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí, nếu có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí thì có thể thật sự chuyển pháp luân vi diệu, nếu có thể thật sự chuyển pháp luân vi diệu thì có thể giúp hữu tình đứng vững nơi đạo ba thừa, nếu có thể giúp hữu tình đứng vững nơi đạo ba thừa thì có thể giúp cho hữu tình nhập vào cảnh giới Vô dư y Niết-bàn. Như vậy Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát thấy vô lượng công đức tự lợi lợi tha như vậy, muốn làm cho tâm đại Bồđề đã phát trở nên kiên cố không thoái chuyển thì nên siêng năng tu hành phương tiện thiện xảo Bátnhã ba-la-mật-đa.
Khi ấy, Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch:
–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát nào có thể phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa một cách đúng đắn thì thế gian Trời, Người, A-tố-lạc... đều nên cung kính lễ lạy.
Phật bảo:
–Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, như lời ông nói! Đại Bồ-tát nào phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa một cách đúng đắn thì thế gian, Trời, Người, A-tố-lạc... đều nên cung kính, lễ lạy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu vì làm lợi ích cho tất cả hữu tình, các Đại Bồ-tát vừa phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột thì được bao nhiêu phước đức?
Phật bảo:
–Thiện Hiện, giả sử tất cả hữu tình đầy khắp tiểu thiên thế giới đều đến địa vị Thanh văn, Độc giác thì theo ý ông phước đức của các hữu tình này có nhiều không?
Thiện Hiện đáp:
–Bạch Thế Tôn, rất nhiều, phước đức mà họ thu được là vô lượng, vô biên.
Phật bảo:
–Thiện Hiện, phước mà các hữu tình ấy thu được so với phước của một Đại Bồ-tát thu được nhờ mới phát tâm quả vị Giác ngộ cao tột để làm lợi ích tất cả hữu tình mà ông vừa hỏi thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn, như vậy cho đến không bằng một phần trăm ngàn, trăm ức, muôn ức. Vì sao vậy? Thanh văn, Độc giác đều dựa vào Đại Bồ-tát mà có, không phải Đại Bồ-tát dựa vào các Thanh văn, Độc giác mà có.
Lại nữa Thiện Hiện, hãy gác lại phước đức mà tất cả hữu tình đầy tiểu thiên thế giới hoặc trung thiên thế giới thu được nhờ đều đạt đến địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, giả sử tất cả hữu tình ở thế giới ba lần ngàn đều đạt đến địa vị Thanh văn, Độc giác thì theo ý ông phước đức các hữu tình này thu được có nhiều không?
Thiện Hiện đáp:
–Rất nhiều, thưa Thế Tôn! Phước đức mà họ thu được là vô lượng, vô biên.
Phật bảo:
–Này Thiện Hiện, phước mà các hữu tình ấy thu được so với phước của một Đại Bồ-tát thu được nhờ mới phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột để làm lợi ích tất cả hữu tình mà ông đã hỏi thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn như vậy cho đến không bằng một phần trăm ngàn, một phần trăm ức, muôn ức. Vì sao vậy? Vì Thanh văn, Độc giác đều dựa vào Đại Bồ-tát mà có, chẳng phải Đại Bồ-tát dựa vào Thanh văn, Độc giác mà có.
Lại nữa Thiện Hiện, hãy gác lại phước mà tất cả hữu tình đầy khắp thế giới ba lần ngàn có được nhờ đạt đến địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, giả sử tất cả hữu tình đầy khắp thế giới ba lần ngàn đều trụ ở bậc Tịnh quán thì theo ý ông phước đức của các hữu tình này có nhiều không?
Thiện Hiện đáp:
–Rất nhiều, thưa Thế Tôn! Phước đức người ấy thu được là vô lượng, vô biên.
Phật bảo:
–Này Thiện Hiện, lượng phước mà các hữu tình ấy thu được so với phước của một Đại Bồ-tát thu được nhờ mới phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột để làm lợi ích tất cả hữu tình mà ông đã hỏi thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn như vậy cho đến không bằng một phần trăm ngàn, trăm ức, muôn ức. Vì sao vậy? Thanh văn, Độc giác đều dựa vào Đại Bồ-tát mà có, chẳng phải Đại Bồ-tát dựa vào Thanh văn, Độc giác mà có.
Lại nữa Thiện Hiện, hãy gác lại phước đức mà tất cả hữu tình khắp thế giới ba lần ngàn có được nhờ đều trụ vào bậc Tịnh quán, giả sử tất cả hữu tình đầy khắp thế giới ba lần ngàn đều trụ vào bậc Chủng tánh, hoặc bậc Đệ bát, hoặc bậc Cụ kiến, hoặc bậc Bạc, hoặc bậc Ly dục, hoặc bậc Dĩ biện và giả sử tất cả hữu tình khắp thế giới ba lần ngàn đều trụ vào địa vị Độc giác thì theo ý ông phước đức các hữu tình này thu được có nhiều không?
Thiện Hiện đáp:
–Rất nhiều, thưa Thế Tôn! Phước mà họ thu được là vô lượng, vô biên.
Phật bảo:
–Thiện Hiện, lượng phước mà các hữu tình ấy thu được so với phước của một Đại Bồ-tát thu được nhờ mới phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột để làm lợi ích tất cả hữu tình mà ông đã hỏi thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn, như vậy cho đến không bằng một phần trăm ngàn, trăm ức, muôn ức. Vì sao vậy? Thanh văn, Độc giác đều dựa vào Đại Bồ-tát mà có, chẳng phải Đại Bồ-tát dựa vào Thanh văn mà có.
Lại nữa Thiện Hiện, giả sử tất cả hữu tình đầy khắp thế giới ba lần ngàn đều mới phát tâm để làm lợi ích tất cả hữu tình, lượng phước các Đại Bồ-tát này thu được so với lượng phước của một Đại Bồtát đã nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát thu được thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn như vậy cho đến không bằng một phần trăm ngàn, trăm ức, muôn ức.
Lại nữa Thiện Hiện, giả sử tất cả hữu tình đầy khắp thế giới ba lần ngàn đều nhập vào Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, lượng phước mà các Đại Bồ-tát này thu được so với phước mà một Đại Bồ-tát hành Bồ-đề hướng thu được thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn, như vậy cho đến không bằng một phần trăm ngàn, trăm ức, muôn ức.
Lại nữa Thiện Hiện, giả sử tất cả hữu tình đầy khắp thế giới ba lần ngàn đều hành Bồ-đề hướng, lượng phước mà các Đại Bồ-tát này thu được so với phước của một vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có được thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn, như vậy cho đến không bằng một phần trăm ngàn, trăm ức, muôn ức.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát mới phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột tư duy những gì?
Phật dạy:
–Thiện Hiện, Đại Bồ-tát này thường chỉ tư duy về trí Nhất thiết trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Trí Nhất thiết trí lấy gì làm tánh, lấy gì làm sở duyên, lấy gì làm tăng thượng, lấy gì làm hành tướng và lấy gì làm tướng?
Phật bảo:
–Thiện Hiện, trí Nhất thiết trí lấy không tánh làm tánh bởi vì nó không tướng, không nhân, không chỗ cảnh giác, không sinh không hiện. Còn vấn đề ông hỏi: “Trí Nhất thiết trí lấy gì làm sở duyên, lấy gì làm tăng thượng, lấy gì làm hành tướng và lấy gì làm tướng”, thì trả lời là: “Trí Nhất thiết trí lấy không tánh làm sở duyên, chánh niệm làm tăng thượng, tịch tĩnh làm hành tướng, pháp giới làm tướng.”
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Chỉ có trí Nhất thiết trí lấy không tánh làm tánh hay sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy không tánh làm tánh, nhãn xứ cho đến ý xứ cũng lấy không tánh làm tánh; sắc xứ cho đến pháp xứ cũng lấy không tánh làm tánh; nhãn giới cho đến ý giới cũng lấy không tánh làm tánh; sắc giới cho đến pháp giới cũng lấy không tánh làm tánh; nhãn thức giới cho đến ý thức giới cũng lấy không tánh làm tánh; nhãn xúc cho đến ý xúc cũng lấy không tánh làm tánh; các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng lấy không tánh làm tánh; địa giới cho đến thức giới cũng lấy không tánh làm tánh; nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng lấy không tánh làm tánh; vô minh cho đến lão tử cũng lấy không tánh làm tánh; Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lấy không tánh làm tánh; pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng lấy không tánh làm tánh; chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng lấy không tánh làm tánh; Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo cũng lấy không tánh làm tánh; bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo cũng lấy không tánh làm tánh; bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng lấy không tánh làm tánh; tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ cũng lấy không tánh làm tánh; ba pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện cũng lấy không tánh làm tánh; bậc Tịnh quán cho đến bậc Như Lai cũng lấy không tánh làm tánh; bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân cũng lấy không tánh làm tánh; tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng lấy không tánh làm tánh; năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng lấy không tánh làm tánh; mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng lấy không tánh làm tánh; ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ cũng lấy không tánh làm tánh; pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng lấy không tánh làm tánh; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng lấy không tánh làm tánh; quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề cũng lấy không tánh làm tánh, tất cả các hạnh của Đại Bồ-tát cũng lấy không tánh làm tánh; quả vị Giác ngộ cao tột của Phật cũng lấy không tánh làm tánh, cảnh giới hữu vi cũng lấy không tánh làm tánh; cảnh giới vô vi cũng lấy không tánh làm tánh.
Phật bảo:
–Thiện Hiện, chẳng phải chỉ có trí Nhất thiết trí lấy không tánh làm tánh mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy không tánh làm tánh như vậy cho đến cảnh giới hữu vi cảnh giới vô vi cũng lấy không tánh làm tánh.
Cụ thọ Thiện Hiện Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì sao trí Nhất thiết trí lấy không tánh làm tánh, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy không tánh làm tánh, như vậy cho đến cảnh giới hữu vi cảnh giới vô vi cũng lấy không tánh làm tánh?
Phật bảo:
–Thiện Hiện, tự tánh của trí Nhất thiết trí là không. Pháp nào có tự tánh là không thì pháp đó lấy không tánh làm tánh. Tự tánh của sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng là không, pháp nào có tự tánh không thì pháp đó lấy không tánh làm tánh như vậy cho đến tự tánh của cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi cũng là không, pháp nào có tự tánh không thì pháp ấy lấy không tánh làm tánh.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, tại sao tự tánh của trí Nhất thiết trí là không, tự tánh của sắc, thọ, tưởng, hành, thức là không như vậy cho đến tự tánh của cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi cũng là không?
Phật bảo:
–Thiện Hiện, trí Nhất thiết trí không có tự tánh hòa hợp, pháp nào không có tự tánh hòa hợp thì pháp ấy lấy không tánh làm tánh, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không có tánh hòa hợp, pháp nào không có tánh hòa hợp thì pháp ấy lấy không tánh làm tánh, như vậy cho đến cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi cũng không có tự tánh hòa hợp, pháp nào không có tự tánh hòa hợp thì pháp ấy lấy không tánh làm tánh. Thiện Hiện, vì lý do này, các Đại Bồ-tát nên biết, tất cả các pháp đều lấy không tánh làm tánh.
Lại nữa Thiện Hiện, tất cả pháp đều lấy Không, Vô tướng, Vô nguyện làm tự tánh, Thiện Hiện, vì lý do đó các Đại Bồ-tát nên biết tất cả các pháp đều lấy không tánh làm tánh.
Lại nữa Thiện Hiện, tất cả pháp đều lấy chân như, thật tế, pháp giới làm tự tánh, Thiện Hiện, vì lý do đó các Đại Bồ-tát nên biết tất cả pháp đều lấy không tánh làm tánh.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp đều không tánh thì các Đại Bồ-tát mới phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì để có thể thực hành Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì để có thể trụ vào pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì để có thể trụ vào chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì để có thể trụ vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì để có thể thực hành bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì để có thể thực hành bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì để có thể thực hành tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì để có thể thực hành ba pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì để có thể thực hành Đại Bồ-tát địa, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì để có thể thực hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì để có thể thực hành năm loại mắt, sáu phép thần thông, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì có thể thực hành mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì để có thể thực hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì để có thể thành tựu trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì để có thể thực hành tất cả các hạnh của Đại Bồ-tát, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì để có thể thực hành quả vị Giác ngộ cao tột của Phật, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật; phải thành tựu những phương tiện thiện xảo gì để có thể thực hành trí Nhất thiết trí, đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật?
Phật bảo:
–Thiện Hiện, Đại Bồ-tát này thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, tuy biết tất cả các pháp đều lấy không tánh làm tánh nhưng thường siêng năng đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, tuy thường siêng năng đem lại sự thành tựu cho hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật nhưng thường biết rõ tất cả hữu tình và các cõi Phật đều lấy không tánh làm tánh.
Thiện Hiện, tuy thực hành Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa học đạo Bồ-đề nhưng Đại Bồ-tát này biết Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa và đạo Bồ-đề đều lấy không tánh làm tánh, như vậy cho đến tuy thực hành trí Nhất thiết trí học đạo Bồ-đề nhưng vị ấy biết trí Nhất thiết trí và đạo Bồ-đề đều lấy không tánh làm tánh.
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát này tu hành Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa học đạo Bồ-đề như vậy, nói rộng cho đến tu hành trí Nhất thiết trí học đạo Bồ-đề như vầy, nếu chưa thành tựu mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng và vô lượng, vô biên Phật pháp khác thì đều gọi là học đạo Bồ-đề chưa được viên mãn; nếu học đạo này đã được viên mãn thì nhờ tương ưng với Bát-nhã trong một sát-na liền có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí. Khi ấy sự nối tiếp của tập khí phiền não vi tế đều vĩnh viễn không sinh nghĩa là dứt trừ sạch và được gọi là Phật. Vị ấy lại dùng Phật nhãn sáng suốt không chướng ngại quán sát khắp các pháp ở mười phương ba đời thì chẳng thể nắm bắt được pháp không huống gì là nắm bắt pháp có.
Như vậy này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nên thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, tin hiểu tất cả các pháp đều lấy không tánh làm tánh.
Thiện Hiện, đó gọi là Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, nghĩa là thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán tất cả pháp chẳng thể nắm bắt được không huống gì nắm bắt được có.
Thiện Hiện, lúc tu hành Bố thí ba-la-mật-đa đối với pháp bố thí, người bố thí, người nhận, vật bố thí, quả báo của bố thí và tâm Bồ-đề, Đại Bồ-tát này không thấy không huống gì là thấy có, như vậy cho đến lúc chứng đắc trí Nhất thiết trí, đối với trí Nhất thiết trí, hoặc người chứng, hoặc pháp được chứng, hoặc lý do chứng đắc, hoặc lúc chứng đắc, nơi chứng đắc vị ấy không thấy không huống gì là thấy có. Vì sao vậy?
Thiện Hiện, Đại Bồ-tát này thường nghĩ rằng: “Các pháp đều lấy không tánh làm tánh. Như vậy không tánh chẳng phải do Phật làm, chẳng phải do Bồ-tát làm, chẳng phải do Độc giác làm, chẳng phải do Thanh văn làm, chẳng phải do bất cứ ai làm, bởi vì tất cả các pháp đều không có người tạo tác do xa lìa người tạo tác.”
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, há chẳng phải các pháp và tánh các pháp xa lìa sao?
Phật bảo:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, các pháp và tánh các pháp là xa lìa.
Thiện Hiện lại hỏi:
–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp xa lìa pháp tánh thì vì sao pháp xa lìa có thể biết pháp xa lìa là có hoặc không. Bạch Thế Tôn, pháp có không thể biết pháp không, pháp không không thể biết pháp có, pháp có không thể biết pháp có, pháp không không thể biết pháp không. Bạch Thế Tôn, như vậy tất cả pháp đều lấy không biết làm tánh thì vì sao Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hiện bày đủ thứ ở trong các pháp như là sắc, thọ, tưởng, hành, thức hoặc có, hoặc không; nhãn xứ cho đến ý xứ hoặc có, hoặc không; sắc xứ cho đến pháp xứ hoặc có, hoặc không; nhãn giới cho đến ý giới hoặc có, hoặc không; sắc giới cho đến pháp giới hoặc có, hoặc không; nhãn thức giới cho đến ý thức giới hoặc có, hoặc không; nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc có, hoặc không; các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra hoặc có, hoặc không; địa giới cho đến thức giới hoặc có, hoặc không; nhân duyên cho đến tăng thượng duyên hoặc có, hoặc không; vô minh cho đến lão tử hoặc có, hoặc không; Bố thí ba-la-mậtđa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc có, hoặc không; pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc có, hoặc không; chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn hoặc có, hoặc không; Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo hoặc có, hoặc không; bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo hoặc có, hoặc không; bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc hoặc có, hoặc không; tám Giải thoát cho đến mười Biến xứ hoặc có, hoặc không; ba pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện hoặc có, hoặc không; bậc Tịnh quán cho đến bậc Như Lai hoặc có, hoặc không; bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân hoặc có, hoặc không; tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc có, hoặc không; năm loại mắt, sáu phép thần thông hoặc có, hoặc không; mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc có, hoặc không; ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Phật hoặc có, hoặc không; pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả hoặc có, hoặc không; trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng hoặc có, hoặc không; quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề hoặc có, hoặc không; tất cả các hạnh của Đại Bồ-tát hoặc có, hoặc không; quả vị Giác ngộ cao tột của Phật hoặc có, hoặc không; trí Nhất thiết trí hoặc có, hoặc không; cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi hoặc có, hoặc không?
Phật bảo:
–Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tùy theo thế tục nên hiển bày các pháp hoặc có, hoặc không không phải tùy theo thắng nghĩa.
Thiện Hiện lại hỏi:
–Bạch Thế Tôn, thế tục và thắng nghĩa có khác nhau không?
Phật bảo:
–Thiện Hiện, chẳng khác, không phải ngoài thế tục mà có thắng nghĩa. Vì sao vậy? Chân như của thế tục tức là thắng nghĩa. Các loài hữu tình điên đảo vọng chấp, không thấy, không biết đối với chân như này, để làm lợi ích cho họ, các Đại Bồtát tùy theo tướng thế tục hiển bày các pháp hoặc có, hoặc không, chẳng phải tùy theo thắng nghĩa.
Lại nữa Thiện Hiện, vô số hữu tình phát sinh ý tưởng thật có hoặc thật không đối với các pháp như uẩn... không biết rõ các pháp chẳng có, chẳng không, để làm lợi ích cho họ, các Đại Bồ-tát hiển bày uẩn... hoặc có, hoặc không giúp cho các hữu tình nhờ đó thấu rõ các pháp như uẩn... chẳng có chẳng không chứ chẳng phải muốn làm cho họ chấp tướng thật có không. Như vậy Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát nên siêng năng xa lìa việc chấp có và không để hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]