TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ HOA NGHIÊM(0274-0307)

SỐ 285 - KINH DẦN ĐỦ TẤT CẢ TRÍ ĐỨC

Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Trúc Pháp Hộ, người nước Nhục Chi.

MỤC LỤC

QUYỂN 1

Phẩm 1: TRỤ DUYỆT DỰ SƠ PHÁT Ý

Phẩm 2: TRỤ LY CẤU

QUYỂN 2

Phẩm 3: TRỤ HƯNG QUANG

Phẩm 4: TRỤ HUY DIỆU

QUYỂN 3

Phẩm 5: TRỤ NAN THẮNG

Phẩm 6: TRỤ MỤC KIẾN

QUYỂN 4

Phẩm 7: TRỤ HUYỀN DIỆU

Phẩm 8: TRỤ BẤT ĐỘNG

Phẩm 9: TRỤ THIỆN TAI Ý

QUYỂN 5

Phẩm 10: TRỤ PHÁP VŨ


QUYỂN 1

Phẩm 1: TRỤ DUYỆT DỰ SƠ PHÁT Ý

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật đi đến cung điện Như ý tạng châu diệu bảo của vua cõi trời Tha hóa tự tại thứ sáu, cùng chúng Đại Bồ-tát nhiều không đếm hết, từ các cõi Phật ở các phương khác đến đây tập họp như Bồ-tát Kim Cang Tạng.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng nương oai thần của Phật, dùng Tam-muội chánh thọ Đại tuệ quang, để định tâm ý, làm cho vô số cõi Phật trong mười phương, mỗi mỗi phương đều hiện vô số Như Lai, có vô số Bồ-tát hầu bên cạnh. Các Bồ-tát đều cùng một hiệu Kim Cang Tạng, cả trong mười phương cũng vậy, đều cùng một hiệu. Bấy giờ, các Đức Phật đều khen:

–Hay thay! Hay thay! Ông đã dùng Tam-muội chánh thọ Đại tuệ quang của Bồ-tát mà thiết lập vô số Như Lai, nhiều như số bụi trong mười ức cõi Phật nơi mười phương, tất cả đều đồng một hiệu là Chiếu Minh Như Lai Chí Chân, bản nguyện đạt đến là kiến lập cõi nước này; trí tuệ thanh tịnh của Nhân giả đạt đến cũng vậy. Lại nữa, các Bồ-tát này trụ trong địa Minh trí, ánh sáng pháp không thể nghĩ bàn, độ thoát rất nhiều chúng sinh; gìn giữ thâu tóm các công đức căn bản của tất cả chúng sinh; hiểu được sự thành tựu bản hạnh của chư Phật; thương xót chúng sinh, biết rõ các phương tiện quyền xảo, diễn thuyết giáo pháp hóa độ chúng sinh, mở rộng pháp tuệ, lưu truyền khắp mười phương, giảng giải nghĩa kinh, làm cho chúng sinh an trụ vững chắc. Ánh sáng trí tuệ ấy không ai hủy hoại được, tùy thời mà xây dựng làm cho chúng sinh an ổn; đi khắp thế gian nhưng không chìm đắm phong tục địa phương; làm cho thế gian trong sạch, trang nghiêm bằng gốc thiện, nhập vào cảnh giới trí, thánh đạo cao xa, khuyến khích các Bồ-tát biết hạnh thập trụ là không, như những người học tập việc xây dựng vậy! Việc thuyết giảng của Bồtát, xoay vần qua lại, giữ gìn pháp vô lậu, ánh sáng chiếu khắp, suy nghĩ việc lành, chuẩn bị việc đoạn tâm, hiểu rõ thời cơ, đầy đủ ánh sáng đại Từ. Đối với người chưa độ thoát đến cửa thánh đạo, thì làm cho họ được độ thoát nhưng không chấp trước, an trụ trong mật hạnh, chuyên tâm tinh tấn tu tập Đại thừa vô thượng. Trí tuệ biện tài đó không thể lường được; ánh sáng chiếu rọi, tiêu trừ tối tăm, vượt qua các hạnh, tuyên thuyết không cùng cực; trụ trong Phật địa, phát tâm Bồ-tát, luôn thương nhớ chúng sinh không bao giờ quên, đem nhập vào phương tiện quyền xảo của các Đức Phật, phá tan lưới kết phược, nương theo thánh chỉ Phật, tự tại giảng thuyết pháp môn, không ai không hiểu biết. Đức Như Lai ở đời cũng sẽ làm theo bản nguyện của ông, làm cho thanh tịnh hạnh nghiệp, để trang nghiêm vững chãi các pháp giới và cứu thoát chúng sinh ra khỏi mê hoặc, dùng Pháp thân để đạt thể thánh tuệ, đầy đủ chí nguyện căn bản của Phật; những việc làm của thân đó sẽ vượt thế tục, bỏ những việc vô ích của thế gian, nghiêm trang thanh tịnh, dùng pháp độ đời. Chư Phật, Thế Tôn đã vì sự kính trọng Đại sĩ Kim Cang Tạng mà không còn tiếc. Các Đức Phật đã hiện thân cũng tuyên thuyết thật nghĩa của biện tài vô hạn, phân biệt giảng thuyết trí tuệ thanh tịnh, luôn nhớ mãi không quên, là phải kiến lập hiển thị, tùy thời sẽ giảng thuyết, giải thích những nghi ngờ của chúng sinh, thâm nhập vào những niệm của chư Phật và nhân đó đạt mười Lực của bậc Chánh đẳng Chánh giác, đạt bốn Vô sở úy của Như Lai; không khiếp sợ, tuyên thuyết giáo pháp, phân biệt rõ Nhất thiết trí, vượt lên tất cả để thâm nhập và hiểu rõ đạo pháp, nhập vào thân, khẩu, ý hành của Như Lai. Vì sao? Vì tất cả đều do định này mà thành tựu và cũng do bản nguyện, công hạnh cao cả, tâm đó thanh tịnh, không bị ô nhiễm, nội tâm sáng suốt, oai nghi thanh tịnh tỏa chiếu, thâm nhập đạo tràng trí tuệ… Những sự tạo lập đó đều được dự trù đầy đủ và trọn vẹn; chí khí về đạo không thể lường xét, lòng tin thanh tịnh cao cả, thông đạt môn Tổng trì, không ai hủy hoại được; dùng ấn của môn trí tuệ pháp giới ấn chứng cho tất cả. Các Đức Phật Thế Tôn đã hiển hiện, đều đưa tay phải xoa đỉnh đầu Bồ-tát Kim Cang Tạng. Được chư Phật xoa đầu, Bồ-tát Kim Cang Tạng thêm nhiều công đức, thành tựu oai quang rực rỡ như Phật không khác. Lúc đó, Bồ-tát xuất định, nói với các Bồ-tát:

-Thưa các vị Tối thắng! Tôi đã hiểu rõ hạnh nguyện của Bồ-tát; đã phá tan lưới nghi, không còn gì nữa; không còn sinh ở đời, cũng không có tội lỗi; pháp giới rộng lớn cũng chẳng thấy xa hay gần, đi ở như hư không; vì vậy mà cứu độ tất cả chúng sinh trong mười phương. Sở dĩ có như vậy, thiện nam nên biết! Các Bồ-tát trong quá khứ và chư Phật thuở xa xưa, đã nhờ trí tuệ này mà giải thoát; chư Phật, Bồ-tát ở vị lai, hiện tại cũng như vậy. Các Phật tử! Trụ địa của Bồ-tát mà tôi vừa nói có nghĩa thế này: Các Bồ-tát học đạo, nhờ mười trụ nơi đạo này mà thành tựu Vô thượng Chánh giác. Chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều giảng nói: Trụ thứ nhất của Bồ-tát là Duyệt dự; thứ hai là Ly cấu; thứ ba là Hưng quang; thứ tư là Huy diệu; thứ năm là Nan thắng; thứ sáu là Mục kiến; thứ bảy là Huyền diệu; thứ tám là Bất động; thứ chín là Thiện tai ý; thứ mười là Mưa pháp. Đó là mười trụ nơi đạo của Bồ-tát. Tôi quán sát chư Phật ở quá khứ, hiện tại, vị lai trong mười phương, không ai không giảng thuyết về nghiệp của Mười trụ địa này. Vì sao? Các Phật tử! Vì mười trụ địa này, làm cho các Bồ-tát trong hiện tại, được gần gũi đạo thanh tịnh và các pháp môn vô vi; danh tiếng vang xa khắp cõi Phật trong mười phương; chúng sinh trong ba cõi đều được độ thoát; ánh sáng chiếu soi trời đất như ánh sáng mặt trời, chữa trị bệnh cho chúng sinh như thần y, chở chúng sinh như thuyền trưởng, soi rọi mười phương như trăng tròn, nuôi lớn chúng sinh như đất, an ổn chúng sinh như mưa mùa, bao trùm các pháp như hư không, đứng vững và thẳng như Tu-di; người giảng thuyết giáo pháp phải đứng vững trong mười trụ địa đạo này. Lại hiểu ở địa này, có vô số không thể tính kể các Bồtát an trụ, đã thâm nhập tuệ bậc Thánh.

Bồ-tát Kim Cang Tạng sau khi đưa ra nghĩa cốt yếu, tán thán hạnh nghiệp mười địa của Bồ-tát, rồi tự nhiên im lặng, không giảng nữa. Lúc này, đại chúng đang khao khát, muốn nghe danh hiệu mười trụ của Bồ-tát, muốn Bồ-tát phân biệt diễn giảng nữa, để người nghe được hiểu rõ thêm, tâm luôn hòa nhập đạo, dứt bỏ điên đảo, nên tất cả đều nghĩ: “Hiện nay, vì sao Bồ-tát Kim Cang Tạng chỉ đưa ra nghĩa cốt yếu, tuyên thuyết hạnh nghiệp mười trụ của Bồ-tát, khen ngợi danh hiệu, rồi lại im lặng, không diễn giảng nguồn gốc nữa?”

Khi ấy trong pháp hội, có Bồ-tát tên Nguyệt Giải Thoát từ xa đến trong hội, biết được tâm niệm của đại chúng, liền nói kệ khen ngợi và hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng về nghĩa cốt yếu của hạnh nghiệp này:

Tịnh niệm do nhân gì
Dùng tuệ khen công đức
Trí sáng giảng mười trụ
Không giải rõ nơi nhập
Các Bồ-tát dũng mãnh
Tâm nghi ngờ do dự
Cớ sao chỉ nêu tên
Chẳng nghe nghĩa các Địa?
Mọi người đều muốn nghe
Bậc Tối thắng không sợ
Giải nghĩa đạt bình đẳng
Thực hành trụ địa đạo
Để đại chúng được vui
Thanh tịnh trừ dua nịnh
An trụ hiểu địa đạo
Công đức tuệ đồng đều
Hết thảy đều cung kính
Lần lượt cùng mong nhờ
Cầu vi diệu không lỗi
Chí cam lồ vô thượng
Nhờ nghe Kim Cang Tạng
Trí tuệ lớn không sợ
Luôn làm cho chúng vui
Tuyên thuyết giáo Phật pháp
Chưa ai đề cập đến
Hiển thị hạnh Bồ-tát
Phân biệt như Địa đạo
Do thù thắng, tối thượng
Bỏ tâm tưởng khó thấy
Luôn trụ tâm xa lìa
Hành nhân từ thành tuệ
Mà nghe nẻo quay về.
Chỉ có như Kim Cang
Người hiểu Phật số một
Bỏ tâm chấp ngã, pháp
Mới nghe trí cao này
Như đến tận hư vô
Bỏ dục cũng như vậy
Tuệ vô lậu như đất
Phân biệt rất khó thấy
Đạo vô niệm như thế
Khó có được người tin
Trí Phật không thể nghĩ
Nên im lặng chẳng nói.

Bồ-tát Nguyệt Giải Thoát nói với Bồ-tát Kim Cang Tạng:

–Nhân giả hãy quán sát! Những người đến đây, tâm tánh, hạnh nghiệp đều thuần thục, thanh tịnh không nhơ uế, chí nguyện từ hòa, đều là những Bồtát đức hạnh chân chánh, chứa nhóm công đức, mỗi người đều dùng sáu độ Ba-la-mật để tự trang nghiêm, có bốn Tâm bình đẳng, đầy đủ bốn ân, tu tập phương tiện quyền xảo, công đức cao xa, danh tiếng đức độ vô lượng, đại Từ bi, muốn mở rộng đạo pháp, phân biệt giảng thuyết giáo pháp, cứu độ chúng sinh đang khổ đau ách nạn trong ba cõi, phá tan màn đen tối như ánh sáng mặt trời, phát sinh đạo pháp như ruộng tốt, thành bậc Chánh giác như hư không, nuôi dưỡng và mở rộng giáo pháp như dòng nước chảy, trừ những nghi ngờ như ánh mặt trời, trị ba độc như thần y, vượt biển sinh tử như thuyền trưởng. Vì vậy, thật lành thay bậc Nhân giả! Xin hãy tuyên thuyết việc học hành hiện tại, chỉ cách tu tập và chỗ quay về Địa đạo này, để làm cho đại chúng, từng người đều hiểu rõ như tối gặp sáng, tùy bệnh cho thuốc để không còn ai nghi ngờ!

Bấy giờ, Bồ-tát Đại sĩ Nguyệt Giải Thoát, muốn nêu lại nghĩa trên, chỉ bày nẻo quay về nên nói kệ thỉnh Bồ-tát Kim Cang Tạng:

Thành khẩn xin giảng thuyết
Pháp Tối thượng đặc biệt
Việc làm trong cõi người
Hạnh nghiệp của Bồ-tát
Xin giảng thuyết giáo nghĩa
Chỗ trụ của Địa đạo
Thánh tuệ rất thanh tịnh
Hạnh nghiệp thật cao xa
Người thanh tịnh bậc nhất
Ở trong đại chúng này
Trụ vững nơi chánh đạo
Chí tánh tin bền chắc
Chứa nhóm nhiều công đức
Thờ phụng vô số Phật
Ai nấy đều mong muốn
Được hiểu ngay mười trụ

Bồ-tát Kim Cang Tạng trả lời Bồ-tát Nguyệt Giải Thoát:

–Nhân giả hãy xem xét kỹ! Chúng hội này khắp bốn phía về đây tụ hội, làm sao biết được tâm niệm hèn kém hay hòa ái, thanh tịnh không tỳ vết mà bỏ được nghi ngờ? Đối với pháp giải thoát, thà họ giữ cung cách tự cao chứ không dựa vào người khác, không ngưỡng vọng ai hay sao! Không nghe lời dạy của người khác, tới lui chẳng an, mắc bệnh lâu dài không thể trị được, nhốt chặt trong lưới, chưa bao giờ ra khỏi hào sâu, đủ sáu mươi hai nghi ngờ, bốn điên đảo, Năm ngăn che, ở trong rừng lửa, nhà rắn, mười hai vòng xích, ở trong nhà mười lớp, ba hầm, ba cửa phóng túng trong ba dòng, dạo chơi nơi đồng trống, chưa bao giờ hướng tới cửa Phật. Dù có nghe pháp này, họ cũng đứng yên chẳng chịu tiến lên; hoặc có người nghe Trụ địa đạo không thể nghĩ bàn này, thì sinh nhiều tâm khác, nghi ngờ không vững tin; do mê loạn, nên suốt đêm không an, vĩnh viễn mất hết nghĩa lợi, bỏ gốc lấy ngọn. Vì thế tôi im lặng không nói. Vì thương xót đại chúng mà phải trụ trong vô ngôn, phải vui với niềm vui vô sở lạc. Bồ-tát Kim Cang Tạng nói kệ rằng:

Thấy chăng chúng hội này
Trí tuệ tịnh không nhơ
Khéo giảng thuyết chánh đạo
Căn thông lợi sâu xa
Nhưng chẳng nương tựa đâu
Đứng vững như dãy núi
Chí tánh không sân hận
Bình đẳng như nước chảy
Tu tập những hạnh gì?
Trí tuệ không sánh được
Luôn thích được hiểu rõ
Tin tưởng cầu trí tuệ
Vừa nghe, sợ nghi ngờ
Sẽ đọa vào đường ác
Vì thương xót chúng sinh
Không thuyết tuệ Địa này.

Bồ-tát Nguyệt Giải Thoát lại nói với Bồ-tát Kim Cang Tạng:

-Xin Nhân giả thương xót, nương oai thần của Phật mà tuyên thuyết yếu chỉ của Như Lai để cảm hóa mười phương, khiến bỏ tà theo chánh, tiêu trừ trần cấu, rửa sạch nhơ uế, phá tan lưới ba cõi, thông đạt tuệ không cùng tận; xin hãy suy xét giảng thuyết, để cho những hình tượng không thể nghĩ bàn ấy khiến đại chúng được nuôi lớn, sẽ tin nhận không nghi ngờ. Vì sao? Nhân giả biết cho! Vì nếu Nhân giả giảng giáo nghĩa này, họ sẽ đạt được Đạo pháp; tất cả các Bồ-tát đều niệm Phật, hiểu được nghĩa kinh, ủng hộ thờ phụng, thực hành tuệ Địa đạo, ai cũng được nương nhờ và được an ổn. Vì sao? Vì hạnh nghiệp này đưa đến sự bình đẳng. Đạo pháp của chư Phật, giống như lời Nhân giả diễn thuyết, xin hãy giảng giải. Văn tự kinh sớ, tất cả đều bắt nguồn từ tâm ý, nương tựa vào chí khí nhân duyên mà có. Kinh sách vốn không có văn tự để diễn giảng. Văn tự diễn giảng bắt nguồn từ sự trống rỗng của tâm, từ hư vô của giảng thuyết. Thưa Nhân giả! Như vậy, trụ là nguồn gốc đứng đầu của Phật pháp, nhờ thực hành mà thành tựu, nương nơi Đạo địa mà tự nhiên đạt được trí. Vì vậy, xin Nhân giả giảng thuyết, vì thương xót chúng sinh. Như Lai Chí Chân, Chánh Đẳng Chánh Giác sẽ dùng đạo lực hỗ trợ Nhân giả, Nhân giả nên phân biệt để tạo ra văn tự như vậy, làm cho chúng sinh tự nguyện bày tỏ, ủng hộ chánh pháp để được tồn tại lâu dài, không còn trói buộc. Bồ-tát Nguyệt Giải Thoát lại nói kệ rằng:

Lành thay! Nói thanh tịnh
Hiểu vào Nhất thiết trí
Dạo khắp các pháp yếu
Giác ngộ thành Thánh tuệ
Chư Phật ở mười phương
An trụ đạo tối thắng
Vào cảnh giới bằng tuệ
Thương yêu hết mọi loài
Lập tuệ thân cận này
Thực hành cho rốt ráo
Chư Phật không pháp ấy
Chỉ do vô lượng nghiệp
Như sách ý tập họp
Tâm là nguyên nhân chánh
Ai trụ cảnh như thế
Thông hiểu, đạt Phật đạo.

Lúc đó, các Bồ-tát đều phát tâm hỗ trợ khuyến khích nhau, muốn cho tuyên thuyết, đều phát thệ nguyện: Tất cả sẽ chịu nhọc để chứa nhóm vô số công đức giống như hư không; muốn cứu giúp nguy ách nên không ngại kiếp số; dạo đi trong sinh tử, tâm chẳng hề lo sợ; muốn cứu giúp tất cả nhưng tâm không chìm đắm; hạnh nghiệp trong sạch như hoa sen trong bùn, không bị vướng khổ của ba cõi; chỉ vì thương xót, muốn nhổ sạch gốc phiền não, vĩnh viễn chặt đứt cây ba cõi. Lúc này, các Bồ-tát đồng khen ngợi khuyến khích Bồ-tát Kim Cang Tạng, nên nói kệ rằng:

Tối thắng đặc biệt chí sâu xa
Đầy đủ biện tài, vô lượng tâm
Hòa nhã giảng thuyết giáo Phật pháp.
Chí chân vi diệu không ai bằng.
Tâm ý bền vững, hằng thanh tịnh
Chẳng bỏ công huân tập mười Lực
Phân biệt rõ ràng rồi lập hạnh
Cúi xin thuyết giảng pháp vô thượng.
Tâm niệm sáng sạch như minh châu
Ý lặng để soi dứt trần cấu
Đại chúng ở đây bỏ nghi ngờ
Vui thích được nghe lời Nhân giả giảng
Khao khát giáo pháp như tìm nước
Đói chờ lòng thương, bệnh chờ thuốc
Thức ăn ngon ngọt đã có sẵn
Vui mừng hưởng được vị cam lồ
Cúi xin thương xót mở rộng chí
Thuyết pháp thù thắng trừ bụi nhơ
Tịch tĩnh chánh trụ chẳng bỏ không
Giảng hạnh Bồ-tát không hoạn nạn.

Bấy giờ, ở chỗ Đức Thế Tôn còn có Bồ-tát tên là Lực Thế và có các Bồ-tát đạt thánh trí sáng suốt. Từ giữa hai chân mày, Đức Phật phóng hào quang sáng rực, soi khắp các cõi Phật trong mười phương, tiêu trừ các cõi ác, chấm dứt khổ đau, chẳng còn mệt nhọc, tất cả đều được an ổn. Ánh sáng ấy soi đến các đạo tràng của chư Như Lai, cõi nước của các Đức Phật trong mười phương, giảng thuyết giáo pháp, nơi nào cũng có; ánh sáng chiếu đến vô số cảnh giới của chư Phật; ánh sáng ấy trở lại nhiễu Phật ba vòng, trụ trong hư không, tạo thành ánh sáng lớn đỏ rực, kết thành tấm màn. Lại có các Đức Phật ra đời, oai thần rực rỡ, cũng từ giữa hai chân mày luân phiên phóng ra ánh sáng như vậy. Trong các Bồ-tát, có Bồ-tát Lực Thế, mà ánh sáng của Bồ-tát có đủ những oai thần biến hóa, chiếu đến cảnh giới Nhẫn, soi rọi bậc Năng nhân, đại chúng trong đạo tràng và tòa Sư tử Kim Cang Tạng, rồi trụ trong hư không, kết thành tấm màn sáng rực. Lông trắng giữa chân mày của Phật Năng Nhân sáng rực, chiếu ánh sáng rất xa và rộng, soi tỏ đến chỗ tối tăm; đại chúng trong các đạo tràng, các cảnh giới của Phật trong mười phương đều được nương nhờ ánh sáng này. Ánh sáng hiển thị những nhà ở của Đại sĩ, của Bồ-tát hiện tại, những cõi nước của các Đức Phật mười phương, hiện những giáo pháp của Như Lai đang nói. Ánh sáng ấy, lại chiếu sáng cảnh giới Nhẫn, chiếu sáng đạo tràng chúng hội Bồ-tát của thế giới Năng nhân, lại chiếu sáng khắp tòa Sư tử cao rộng và thân của Bồ-tát Kim Cang Tạng; ánh sáng ấy rực rỡ kết thành tấm màn như châu báu, có các Đức Phật ngồi đó, từ miệng phát ra liên tục những âm thanh khen ngợi:

Ví dụ không gì sánh
So lường tựa hư không
Mười Lực: Cảnh giới quý
Công huân không thể lường
Thù thắng và tối thượng
Khắp cõi là trên hết
Tạo lập nghiệp bậc nhất
Pháp của Thích Sư tử
Diễn thuyết an trụ chúng
Nhờ từ ân Đạo sư
Pháp vương vua loài người
Phóng hào quang sáng rực
Tuyên thuyết trí tuệ Phật
Nhập nguồn gốc diệu hạnh
Nhờ mười Lực chiếu cố
Phân biệt hóa độ chúng
Đã được sống an ổn
Nghe giảng thuyết pháp này
Thật pháp là tối thượng
Chí tánh đó vắng lặng
Tất cả không nhơ uế
Đầy đủ các bản nguyện
Nhờ mười Lực tối thắng
Chí cầu đạo cao tột
Nước biển có thể cạn
Dãy số có thể đếm
Người muốn thọ pháp này
Không thể nghe được hết
Chí niệm có thể lìa
Trừ hết những nghi ngờ
Vì thương xót hết thảy
Dùng kinh điển soi rọi
Vì vậy bậc biện tài
Nương đường tắt trụ tuệ
Lấy đó mà phụng hành
Đi đứng nhờ bản nghiệp
Để hạnh nhập cảnh giới
Đạt đến thánh trí Phật
Thương tất cả chúng sinh
Mà diễn giải pháp này.

Lúc đó, Bồ-tát Kim Cang Tạng quán sát khắp mười phương, muốn cho đại chúng vui vẻ, khát ngưỡng giáo pháp, phát tâm Từ bi rộng lớn không cùng nên dùng kệ khen rằng:

Đạo pháp của Thánh giả
Rất vi diệu sâu xa
Dùng vô niệm trừ niệm
Lắng trong thật khó hiểu
Thánh minh đạt Huyền diệu
Trí tuệ hiểu hạnh nghiệp
Tự nhiên nghiệp yên tịnh
Nhu hòa không tranh loạn
Pháp tự nhiên không tịch
Lặng yên dứt đau khổ
Đi ở đến giải thoát
Đạt bình đẳng diệt độ
Nghĩa vô cùng vô hạn
Ngôn từ càng vượt qua
Phải ra khỏi ba cõi
Hành nghiệp như hư không
Các hạnh của Chư Phật
Thật vắng lặng êm đềm
Tất cả các hạnh nghiệp
Đường tắt khó hiểu được
Các hạnh nhiều như đất
Chí tánh cũng như vậy
Rất khó để giảng thuyết
Làm sao phân biệt hết
Trừ bỏ tâm ý đi
Vĩnh viễn không chấp thủ
Các hạnh của Chư Phật
Trí tuệ dứt vọng niệm
Lại cũng không chỗ hành
Không vào chốn suy tàn
Nhờ tuệ nghiệp đạt đạo
Tâm đó không vọng tưởng
Ví như có con chim
Bay lại trong hư không
Không cần dùng ngôn ngữ
Huống gì muốn thấy khắp
An trụ tuệ tự nhiên
Hành đạo trụ như thế
Biết không thể phân biệt
Những hạnh niệm của tâm
Vào được những nơi nào
Đều dùng Tuệ thù thắng
Luôn thương yêu từ ái
Chí nguyện đều rộng khắp
Dần đầy đủ các hạnh.
Tâm cũng không tưởng niệm
Giống như bản tánh tâm
Trí tuệ đã sáng rõ
Nhưng những hạnh nghiệp này
Sâu xa khó giải được.
Chí tánh mình vốn không
Không thể hiểu rốt cùng
Huống chi là tuyên thuyết
An trụ những sở niệm
Tất cả đều cung kính
Lắng nghe pháp Huyền diệu
Để nhập tuệ chánh chân
Như trụ khi hành đạo
Dù trải trăm ngàn kiếp
Không thể đến tận cùng
Ai nấy đều mừng lo
Và lắng tâm thành kính
Nghe thật lý nhiệm mầu
Không chán, chẳng đổi lòng
Không hề có tạp loạn
Giống như thành biển lớn
Nay sẽ nói đầy đủ
Đạo hạnh của chư Phật
Lại sẽ phải giảng thuyết
Pháp âm rất đặc thù
Chỉ dẫn bằng thí dụ
Văn tự đều chánh chân
Sự giảng thuyết phân biệt
Thật khó mà hiểu được
Việc an trụ hạnh nghiệp
Cũng khó lường như vậy.
Nay đã được thâm nhập
Ngã, pháp đều tự nhiên
Tất cả đều vui mừng
Lắng tâm nghe chánh pháp.

Bấy giờ, Đại sĩ Kim Cang Tạng bảo các Bồ-tát trong chúng hội:

–Phật tử hãy suy xét! Chúng sinh thường tích lũy cái gốc của phước đức; hành nghiệp chánh chân không hề hư dối, thường giúp đỡ nhau; gặp Phật ra đời thì siêng năng cúng dường, cùng nhau tu tập pháp thanh bạch; luôn học hỏi thọ trì lời dạy của Thiện tri thức để trừ bỏ những buồn lo; chí tánh rộng lớn, vững tin pháp vi diệu, định ý bình đẳng, để có được tâm từ bi ngay trong hiện tại; tâm luôn khát ngưỡng trí tuệ của Phật, giáo hóa chúng sinh đều phát tâm đạo, để đạt được Nhất thiết trí vi diệu tốt đẹp; đủ mười loại sức mạnh có thế lực đi lại khắp nơi, không lo sợ; tâm bình thản, đạt chánh pháp của Phật, bảo vệ và cứu giúp hết thảy chúng sinh, tu tâm Từ bi thanh tịnh, hiểu biết tất cả trong mười phương từ trí sáng đến các pháp môn đều như hiện ra trước mắt, kể cả các cõi Phật vô vi thanh tịnh. Cùng lúc, có thể hiểu được mọi việc trong ba đời, chuyển bánh xe pháp lớn, trị bệnh cho chúng sinh. Bồ-tát Đại sĩ vừa phát tâm thương yêu chúng sinh, thực hành tâm Từ bi không cùng là trên hết, trí tuệ hiểu biết cao xa, chuyên cần học hỏi phương tiện quyền xảo, ý tánh nhu hòa gần gũi đạo pháp.

Mười Lực của Như Lai thật khó giới hạn, đo lường phải khéo suy nghĩ tuyển lựa, trù tính, vì hết thảy nhân lực, Phật lực là tối thượng, sự thuyết giảng các pháp môn sẽ không bị chướng ngại. Phải dùng trí tuệ hòa thuận tự tại, để biết rõ sự hưng thịnh của các Đức Phật đều từ tự tại mà được; đó cũng là hạnh tối thắng để tạo ra đạo pháp và pháp giới. Phải phát tâm rộng lớn như hư không, hiểu rõ sự phát tâm Bồ-tát ở đời sau; phải phát đạo tâm để vượt qua địa phàm phu. Phải được Bồ-tát địa thì mới sinh vào dòng Như Lai cho nên có hiệu là “Không từ đâu sinh”, không tội lỗi. Thường xoay chuyển trong đường thế tục; qua lại cõi đời mà thực hành độ đời, nhờ vậy mà trụ được trong đạo pháp của Bồ-tát. Đã trụ được đạo pháp của Bồ-tát, là tùy thuận được giáo pháp ba đời của các Đức Phật, giúp tâm hiểu sâu thật nghĩa của đạo. Bồ-tát trụ địa Duyệt dự đạo là như vậy. Phật tử nên biết! Hiện giờ đã được trụ trong đạo của Bồ-tát, hạnh nghiệp không lay chuyển, vào rồi không ra lại nữa. Do trụ trong địa Duyệt dự của Bồ-tát nên tâm luôn hoan hỷ, làm cho mọi người được thấy cũng vui mừng theo; luôn cung kính cúng dường vật dụng làm cho những người nhận lãnh được đều sung sướng; dạy dỗ cho mọi người thêm lòng ái kính, cùng nhau tu tập vui chơi, không cố chấp, không kể là gần xa, luôn giữ tâm hòa nhã nhân từ, không làm tổn hại, chí vui vẻ, tâm không nhớ việc oán giận, sắc mặt vui tươi không chút sân hận. Đó là địa Duyệt dự của Bồ-tát, trụ trong đạo giáo, lại được chư Phật nghĩ đến. Thứ nhất của Duyệt dự là suy nghĩ về Phật pháp, mới phát tâm trụ địa Duyệt dự là nghĩ đến bản nghiệp của Bồ-tát Đại sĩ, nghĩ đến hạnh nguyện của Bồ-tát, nghĩ đến sáu Ba-la-mật thanh tịnh không cùng tận, nghĩ đến đặc thù cần khai mở của Bồ-tát, là nghĩ đến đạo vi diệu không gì sánh cùng, là nghĩ đến việc đem đạo nghĩa làm lợi ích cho chúng sinh, là tâm phải siêng năng hiểu pháp sâu xa, nghĩ đến giáo pháp của Như Lai là chí chân, nghĩ đến việc dùng pháp ấy để giáo hóa chúng sinh; mới phát tâm trụ Duyệt dự là nghĩ đến tịnh nghiệp tinh tấn, nhập trí tuệ Như Lai của Bồ-tát, luôn suy xét kịp thời những sự chỉ dạy, là được độ thoát. Nên nói đến cảnh giới mà chúng sinh ngưỡng mộ, ước mong sẽ thâm nhập sự bình đẳng của chư Phật, để được ra khỏi nơi ngu si, gần gũi đạo tràng, dứt trừ khổ đau trong đường ác. Luôn coi trọng việc giáo hóa chúng sinh, để được gặp Như Lai chí chân, thành tựu được đầy đủ cảnh giới Như Lai, thấy được hạnh nghiệp bình đẳng trong các định của Bồ-tát; đó là Duyệt dự. Dứt trừ hẳn tất cả lo sợ, lông tóc áo quần không dựng ngược, là Duyệt dự. Vì sao? Phật tử! Các Bồ-tát học trụ đại Duyệt dự, là phải được ở trong địa của đạo Bồtát. Nhờ sống trong địa của đạo Bồ-tát, nên vĩnh viễn không còn lo sợ, không còn bị tai nạn, sống an vui không sợ tuổi thọ, không sợ thế tục, không sự cõi ác, vào đâu cũng không bị người ganh ghét làm hại, vĩnh viễn dứt trừ mọi nỗi kinh sợ. Vì sao? Vì không còn tư tưởng nhân ngã; ngay thân mình không còn tham tiếc huống gì lại tham mến những xấu tốt do nghiệp tạo ra! Không sợ chết, không mong cầu may rủi, chỉ thương xót chúng sinh đã tạo nghiệp không cùng, phải cứu chúng sinh đói khổ tham lam không biết đạo; đó là không sợ thế tục, để thành tựu sự sáng suốt của đạo; không lo cho thân mình, cũng không sợ bị mất thân; không tưởng nhân ngã, không sợ sẽ bị chết; dù phải bỏ thân này, vẫn luôn hành hạnh Bồ-tát; không rời chư Phật nên không sợ cõi ác; quán sát thế gian, tâm đạo là không gì sánh bằng; chí tánh nhân từ hòa ái thì không ai hơn được. Vì vậy, vào đâu, cũng không e ngại, không lo sợ luôn luôn bình tĩnh. Phật tử nên biết! Bồ-tát Đại sĩ phải đầy đủ tâm từ, không làm tổn hại, căn bản là tâm phải luôn thanh tịnh, luôn siêng năng tinh tấn làm nhiều điều có ích, tích lũy cái gốc phước đức. Đức Phật có dạy: Nhờ vững tâm tin, oai thần đầy đủ, nên được vui vẻ, đem thanh tịnh đến những kẻ không tin; dùng tâm tin sâu sắc mà thực hành tâm Từ bi rộng lớn, làm cho tâm không chán sợ nạn sinh tử, cho đến hỗ thẹn cũng làm cho trang nghiêm; dù ở đâu, tâm luôn nhu hòa nhẫn nhục, luôn đem vật thực cúng dường Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác; ngày đêm tinh tấn siêng năng tu tập, không chán việc tụng đọc giảng thuyết, tích lũy công đức, học tập theo bạn lành, vui bằng niềm vui của pháp, luôn cầu học rộng không lười mỏi, nghe pháp thì tư duy; đã tư duy nên không đắm trước, không mong cầu cơm áo, bỏ lợi dưỡng không tham tiếc, trừ hẳn tâm ân ái; chỉ mong cầu Tam bảo, không phút giây nào bỏ chánh hạnh, siêng tu mến thích địa Nhất thiết trí, mười Lực của Như Lai, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của Như Lai, luôn thực hành không cùng sáu Ba-la-mật, trừ bỏ hư ngụy, không dua nịnh, làm và nói hợp nhau, ý nghĩ không trái lời nói, đi đến đâu đều tùy thuận mà nói năng hành động, không làm hư hạt giống Phật, luôn nhớ giới cấm của Bồ-tát, tâm Nhất thiết trí không hề dao động; ví như Thái sơn không thể nghiêng đổ; không tham vui thú thế gian, phải mong vượt nghiệp thế tục, phải biết giáo hóa những điều chưa nghe; phải học đạo pháp không hề chán mỏi, tâm luôn chuyên cần, cầu việc thù thắng. Như vậy là Phật tử đã thanh tịnh được nghiệp thanh tịnh đạo pháp Bồ-tát, được trụ vững trong địa Duyệt dự. Đức Thế Tôn có dạy: Người an trụ nơi địa Duyệt dự là người thành tựu đạo rộng lớn không cùng, vững chắc của Bồ-tát, là cảnh giới mẫu không giới hạn để khoác áo giáp thệ nguyện rộng lớn. Lại có mười pháp. Mười pháp đó là gì? Tuyên thuyết rộng rãi không cùng tận, âm thanh hòa nhã vang xa không thiếu chỗ nào, không sao ví dụ được; cúng dường tất cả báu vật kỳ lạ cho chư Phật, tin sâu vào nghiệp vi diệu thanh tịnh, pháp giới bình thản, chí nguyện quay về chỗ trống không, thông suốt tất cả cho đến tận vị lai, tất cả đều không vọng tưởng, không mong cầu bất cứ điều gì; làm cho Phật đạo hưng thịnh, không nghĩ đến niềm vui, việc phụng sự cúng dường không cùng; chí khí đặt ở nguyện lớn, nhớ nghĩ đến giáo pháp mà các Đức Phật giảng dạy, giữ gìn con mắt pháp; hộ trì hạnh nghiệp của chư Phật Bồ-tát, không trái lời dạy, tất cả bình đẳng giác ngộ những lời giáo huấn. Đầy đủ các Pháp trên, thì được sinh lên cõi trời Đâu-suất, từ cõi trời sinh xuống nhân gian vào ở trong thai mẹ; khỏi bụng mẹ đi bảy bước, đưa tay, tự ca ngợi là bậc tối cao trong ba cõi, Đế Thích, Phạm thiên cúi lạy, các rồng phun nước tắm, học rộng hiểu nhiều, du ngoạn gặp những cảnh (già, bệnh, chết), bỏ nhà vào núi tu đạo, thành Phật hàng phục ma, Đế Thích, Phạm thiên thỉnh cầu, chuyển bánh xe pháp lớn, hiện Niết-bàn lớn, cúng dường xá-lợi, tuyên thuyết hóa độ, chỉ rõ thật nghĩa của kinh pháp, cùng lúc đạt Bất thoái chuyển pháp giới rộng lớn không thể lường được, ở trong chỗ trống không mà thông suốt đến cả vị lai; đối với tất cả niệm mà vô tưởng niệm; từ vô số kiếp, đã từng thành Phật, vững tin không mỏi mệt, cùng nhau qua lại hòa đồng; tuyên thuyết âm nghĩa đối với hạnh nguyện sâu rộng; đối với tất cả hành nguyện của Bồ-tát phát hoằng thệ không số lượng, không cùng tận, thọ trì gìn giữ các Ba-la-mật; sống trong đạo thanh tịnh, suy xét âm vang các chủng loại có tướng không tướng; gặp gỡ xa lìa, hữu vi, vô vi; bậc thầy đầu tiên của các Bồ-tát; trụ trong đạo Chân diệu ấy sẽ được giảng thuyết từng câu từng chương các Bala-mật; sẽ được chỉ dạy tu hành để siêng năng tu hạnh chân chánh để không còn chỗ sinh ra; hình thành sự phát tâm để có thể thành tựu đầy đủ các pháp; hiểu hết đầy đủ cảnh giới của chúng sinh: có sắc tướng hay không có sắc tướng, có tưởng, không tưởng; loài sống dưới nước hay trên mặt đất, cùng tất cả các loài thọ hình trong ba cõi, sáu nẻo, có nơi ở, có hình dáng, không có hình dáng, tất cả đều được phân biệt để giáo hóa, làm cho chúng thâm nhập Phật pháp, đoạn trừ chỗ sinh ra ở hết thảy hữu vi; kiến lập và thành tựu được Nhất thiết trí. Đó chính là pháp giới rộng lớn nhưng lại ở trong cõi trống không. Tâm có thể hiểu rõ nguồn gốc đời sau, chúng sinh sẽ sống bằng vọng tưởng bởi nghiệp hữu vi, càng tin sâu không mệt mỏi. Diễn thuyết âm vang cho đến hạnh nghiệp thệ nguyện không cùng, cảnh giới chúng sinh đó, tất cả đều hiểu rõ. Đạo đời đều rõ, không chỗ nào là không thông. Thật khó nói hết cảnh giới rộng, hẹp, thô, tế, lớn, nhỏ đo lường được hay không đo lường được của chư Phật. Đưa tất cả cái mênh mông sâu xa đó vào chỗ bình đẳng. Đã vào bình đẳng rồi, tất hiểu rõ các nguồn gốc, lưới trói buộc như cửa có then cài. Nhập trong mười phương, dùng trí tuệ quán sát khắp nơi, hiểu rõ nguồn gốc trống không của pháp giới, biết rõ việc nhập vào thệ nguyện rộng lớn không cùng; lại xem hết thảy các cõi nước là một cõi nước và ngược lại xem một cõi nước là tất cả cõi nước tất cả đều ở trong sự bình đẳng, thanh tịnh, không nhơ uế, có ánh sáng chiếu soi vô số cõi Phật, trang nghiêm các cõi nước, để không còn chút bụi nhơ. Phân biệt rõ chỗ rốt ráo của văn tự; đạo pháp Thánh tuệ rất khó giới hạn và đo lường được; nguyện của chúng sinh thì nhiều, phải hiện ra cảnh giới vi diệu của chư Phật, rồi tùy thuận vào sự phát triển bản hạnh của chúng sinh mà hiện hóa; quán sát pháp giới rộng lớn như hư không, không bờ mé, xét đến tận gốc của vọng niệm, hội họp tính toán không dừng nghỉ, không tin, không tùy thuận vào nghiệp tà hạnh, tu tập thanh tịnh, mặc áo giáp tạo thệ nguyện rộng lớn, để giáo hóa những kẻ chưa được nghe, làm cho các Bồ-tát nhập vào tánh hòa nhã tịch tĩnh; chí thành thực hiện việc tích lũy công đức; trước hết dùng duyên tinh tấn khuyến khích, giáo hóa cho các Bồ-tát; chưa từng bỏ hạnh nghiệp của Bồ-tát, thứ đến là hiểu ý bày ra sự hưng thịnh của Phật pháp, tự phát tâm suy xét giáo pháp Như Lai để không trái nghịch, đạt được thần thông, đi khắp các cõi nước; Thánh tuệ đó rộng lớn khó lường, thực hành hạnh nghiệp Bồ-tát, đi khắp pháp giới rộng lớn không bờ mé đến tận vị lai; tính đếm được số Phật và đại chúng; số lượng hạnh nghiệp ấy không hủy hoại được, thể nhập thánh trí ngôn hạnh phát triển rõ ràng, thệ nguyện rộng lớn không cùng để hành đạo Bồ-tát, tâm được biến chuyển theo bánh xe pháp bất thoái, thân, khẩu, ý không hư dối; thích được gặp Phật để nghe giáo pháp kinh điển, rồi tuyên thuyết cho thánh chúng, giảng rõ trí nghiệp, thích phát Duyệt dự để tiêu trừ được khổ nhọc, đạt chí tánh chân thật, như lương y chữa bệnh cho chúng sinh; độ cho hết thảy chúng sinh tu hạnh Bồ-tát, vì thế nên nói pháp giới rộng lớn như hư không, không bờ mé. Cho đến vị lai, biết rõ hạnh nghiệp, thiện ác của chúng sinh trong vô số kiếp, thành tựu đạo Vô thượng Chánh chân ở các cõi Phật, thành bậc Tối chánh giác, nhập vào tất cả các lỗ chân lông vi tế trên cơ thể; dù ở đâu, đều ngồi dưới gốc cây Phật, chuyển bánh xe pháp, thị hiện đại diệt độ, tu cảnh giới lớn, tuyên thuyết hạnh nghiệp trí tuệ của Phật; tùy ở nơi cảnh giới của chúng sinh, tùy hạnh nghiệp căn bản của chúng sinh mà hiện thân Phật, khai hóa vô số, trừ nghiệp nhơ uế, đạt thành Phật đạo, tất cả chúng sinh đều hạ mình cung kính tùy thuận; âm vang vừa phát ra đã làm vui lòng tánh chúng sinh; thị hiện cảnh Niết-bàn mà không hủy mười Lực, dùng tâm sáng suốt tuyên thuyết ban bố những pháp tạng, đầy đủ oai thần pháp tuệ, hạnh nghiệp sáu thần thông, đi khắp cảnh giới của chư Phật ở mười phương, nên nói pháp giới rộng lớn không bờ mé như hư không; thấu suốt vô số kiếp vị lai, sẽ thành Phật đạo, mặc giáp thần thông, thệ nguyện rộng lớn. Này Phật tử! Đó là mười nguyện của Bồ-tát. Nhờ gần gũi đầy đủ mười nguyện, làm cho vô số chúng Bồ-tát dược khen ngợi, luôn nghĩ đến Duyệt dự trụ trong địa Bồ-tát, tùy thời cơ để khai hóa.

Đức Phật lại dạy: Người học đạo Bồ-tát, nên thành tựu được nguyện này. Lại có mười việc không thể nói hết được. Mười việc đó là gì? Đó là cảnh giới chúng sinh không thể nói hết; cảnh giới chư Phật không thể cùng tận; cảnh giới hư không, không thể lường; suy nghĩ về cảnh giới pháp không thể trình bày; cảnh giới vô vi không có giới hạn; cảnh giới chư Phật không thể tìm đến chỗ rốt ráo; cảnh giới Như Lai không bờ mé; tâm của nhân duyên không có giới hạn; nguồn gốc của tuệ hạnh không thể có được bến bờ; cảnh giới có thể tiến thoái của chư Phật, pháp tuệ luân chuyển không thể nói hết được. Đó là mười việc. Cảnh giới chúng sinh không thể rốt ráo để thành tựu nguyện rộng lớn, mười sự việc này không thể tìm đến chỗ cùng tận. Các cảnh giới hư không, pháp giới vô vi, Phật Như Lai, tuệ hành của tâm, pháp chuyển của thế giới, sự thành đạt tuệ tấn, nguyện rộng lớn ấy cũng cùng tận đến chỗ không cùng tận. Cảnh giới chúng sinh cũng không thể cùng tận, vì không thể cùng tận cái gốc của công đức, nên được rốt ráo thành tựu đạo tuệ; vì cái gốc công đức cực tận, nên mặc áo giáp thệ nguyện rộng lớn không bị hao tổn. Tâm vi diệu, luôn hòa nhã, nhân từ, luôn thành kính, vững tin, chất trực. Nhờ vững tin pháp giáo hóa của Như Lai, nhập vào thệ nguyện hiểu biết bình đẳng; lại tin ưa các pháp Ba-la-mật không cùng; tin được nhập vào nghiệp thù thắng Địa của đạo, tin mười loại lực khai hóa được mười phương, tin bốn Vô sở úy, bốn Sự; độc hành trong ba cõi mà không cần bảo vệ; tin thật nghĩa siêu tuyệt của mười tám pháp Bất cộng của Phật, không gì sánh bằng; tin Phật pháp không thể nghĩ bàn; tin cảnh giới Như Lai không cùng tột; tuyên thuyết Phật pháp không bao giờ hết; tin nhập được vào đạo nghiệp Vô thượng của Như Lai; tin các hạnh Bồ-tát là bình đẳng không thiên lệch; trụ ở Như Lai, tuyên thuyết giáo pháp; suy nghĩ về đạo pháp Như Lai sâu xa, vi diệu, cao tột, tịch tĩnh không giới hạn, mênh mông khó lường, trống không thanh tịnh không ngằn mé, không tướng, tịch diệt, không đắm trước, rộng lớn không cùng tột, như đi vào chỗ vô biên không cùng; đó là những cái khó của Phật pháp, ai có thể lường được! Hàng phàm phu, điên đảo, tà vạy, không thể sửa đổi, chỉ nghĩ đến sự tối tăm, tìm cầu việc vô ích; tâm ý không thích, dạo chơi trong trần lao, tìm cầu trong lưới ân ái, trói buộc trong sự dua nịnh, tâm hạnh hư dối, tham lam, keo kiệt, ganh ghét nhau, thích qua lại trong sinh tử, ôm giữ ba độc, bụi nhơ tham, sân, si luân chuyển không cùng, ngọn lửa sân hận tổn hại trong tâm luôn cháy bùng, ở trong nghiệp điên đảo tạo ra những tai họa và tội lỗi, các lậu vô minh, ân ái luôn có ở trong tâm, trói buộc ý thức, làm trôi lăn trong ách khổ não của ba cõi, đổi thay xuôi ngược trong đó không bao giờ ngừng, rồi cùng với danh sắc đều do tướng sinh ra, đã có danh sắc thì tăng trưởng sự sinh khởi; nên có sáu nhập như làng xóm của các xứ. Vì có sáu nhập lưu chuyển hòa hợp thành xúc, nên phát sinh thọ, nuôi lớn nên thành ái. Thích thành tựu ái nên đưa đến sinh. Vì có sinh, nên có già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não; tâm luôn buồn bậc mới tạo thành tai họa lớn. Xét chúng sinh, đều do đây mà có thân năm ấm khổ não. Nếu bỏ ngã sở, tự suy xét thân mình do vô minh mà có; ví như cây cỏ, ngói, gạch, tường, vách, có hình dáng nhưng thật không danh tự. Như vậy, phải giải thoát năm ấm danh sắc ở thân, để không còn sáu mươi hai tà kiến nghi hoặc, nhân đó mà thành tựu tâm thương rộng lớn vô hạn, chúng ta phải thực hành, bảo vệ hạnh nguyện này, chí luôn đặt vững trong Đạo địa an ổn, đạt được Thánh tuệ đại Từ. Bồ-tát phải có đủ từ tâm như vậy. Vì thế, Phật tử phải chí thành nhân từ, hòa nhã, thuận theo chân chánh. Lúc mới phát tâm, phải bỏ sự mong cầu lợi dưỡng đã tham tiếc từ lâu, tu nghiệp rộng lớn, tâm luôn thích bố thí những vật mình có như: Châu báu, kho tàng vàng bạc, lưu ly, thủy tinh, châu minh nguyệt, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, ngọc quý anh lạc, ngọc dao quý lạ, voi ngựa, xe cộ, nô bộc hầu hạ, quyến thuộc xa gần; tất cả đem cho khắp mà không hề tham tiếc, còn có thể đem cho cả đất nước, thành ấp, xóm làng, hoa vườn, ao đầm, quả quý, vợ con nam nữ và cả những thứ quý nhất của mình như: Đầu, mắt, xương, thịt, tủy, não, tay chân… đem hết mọi thứ có đó, không chút mến tiếc, vui vẻ bố thí, cúng dường cho người nghèo thiếu, để nhập vào đạo lớn sáng suốt vô cùng của Phật. Đó gọi là được trụ trong Đạo Địa thứ nhất. Thành tựu hạnh bố thí lớn lao, chí tánh như vậy, thực hành từ bi, ban an vui cho nhân nghĩa để cứu khổ; vào trong dòng đời cứu độ những kẻ ưa cầu lợi lộc, cùng tùy thuận theo chúng sinh, chưa hề có tâm chán ghét, tâm không mệt mỏi; siêng năng học kinh pháp vi diệu, thông đạt các kinh, hiểu rõ nghiệp quả tiến thoái đều do mình, hiểu thật nghĩa pháp tạng; tùy thuận tâm ý của mọi tầng lớp thượng trung hạ, theo căn tánh lớn nhỏ mà hiểu mọi việc đời. Vì hiểu việc đời, nên thực hành hợp thời, nhân đó mà bảo hộ được mình. Nên mặc áo hổ thẹn để tự mình huân tu giới đức, làm cho tâm nhu hòa nhẫn nhục, tinh tấn không lỗi lầm, trí tuệ nhất tâm, siêng năng tinh tấn vì mình vì người mà thành tựu hạnh hổ thẹn. Nhờ vậy việc xuất gia, tu hành tâm không dao động, không ai lay chuyển được, mà tâm lực lại thêm mạnh mẽ. Nhờ tâm lực mạnh mẽ, lại cúng dường Như Lai được thọ trì giáo Phật pháp; nên việc tu tập Đạo địa được nghiêm tịnh, hiển bày sự hưng thịnh chánh pháp, tin tưởng sâu xa, đem từ bi cho chúng sinh. Đầy đủ những pháp này, mới trụ được trong địa Duyệt dự của Bồtát, được vô số chư Phật soi xét hộ niệm, trải qua vô số trăm ngàn ức kiếp không giới hạn, được chư Phật đến bảo vệ, hiện tiền được tinh tấn nguyện lực; được gặp Như Lai là Bậc Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác. Đem tâm nhu hòa mà thờ phụng, tích lũy hạnh nghiệp kiên cố của Bồ-tát, kịp thời đến cứu hộ chúng sinh đang bị nguy ách, đó là căn bản của công đức. Nhờ công đức đó hỗ trợ mà phát sinh đạo Chánh chân Vô thượng, cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sinh, mong chúng sinh thành tựu. Muốn giáo hóa chúng sinh, nên cho thức uống ăn, trước hết trừ cơn đói khát, nghĩ đến bốn ân, sau là vui vẻ, đủ sức mạnh để cung phụng bậc Tối thượng, tôn kính bậc chánh trung, thương xót và tùy thuận kẻ dưới; ban bố trí tuệ và yêu thương, bình đẳng lợi ích cho người, trừ hết các tội lỗi, không còn tai ương, không gieo họa hoạn. Nhờ có cúng dường Phật, giáo hóa chúng sinh, nên thành đạt sự rốt ráo và trụ trong Địa này, dùng căn bản phước đức bảo hộ cho Nhất thiết trí, dần dần đạt được trí sáng như sắc vàng thân Phật, giống như vàng ròng đã tôi luyện, lại nung trong lửa nên sắc của nó càng ánh lên. Bồ-tát cũng thế, cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sinh, công lực càng mạnh, nghiêm tịnh Phật pháp, trụ trong Đạo địa, dùng phước đức để phát thệ nguyện, đến khi căn bản được tiến thoái tự do.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Các Phật tử, hãy lắng nghe! Bồ-tát mới trụ trong địa nên phát tâm cần cầu để quán sát được hành tung, hỏi rõ được nguồn gốc. Chư Phật Bồtát vì bảo vệ bạn lành, không chán chánh hạnh để thành tựu đạo pháp nên trụ trong sự bố thí, do đó có tên gọi là Trụ Địa thứ nhất.

Lại hỏi:

–Làm sao đạt được hạnh nghiệp của Trụ Địa thứ hai?

Chư Phật, Bồ-tát, Thánh hiền, minh sư, thực hành pháp không chán, để thành tựu việc trụ nơi đạo. Nói tóm lại, nếu hỏi nguồn gốc của Địa thứ hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín và mười mà thực hành để thành tựu, thì chư Phật, Bồ-tát, Thánh hiền, minh sư, thực hành pháp không chán, để thành tựu Đạo địa. Giá trị của Đạo địa là phải quán sát nghiệp đạo, phụng hành căn bản phước đức; ở trong Đạo địa, hiểu rõ phương tiện, phân biệt được hết thảy Đạo địa thanh tịnh, thâm nhập thù thắng, ngày càng tinh tấn, đạt Thánh tuệ, đến chỗ không thoái chuyển. Nhờ thế, Bồ-tát trụ trong sự thanh tịnh, hiểu rõ vô lượng Thánh tuệ của Như Lai, đạt được phương tiện tùy thời cơ. Đó là đạo Địa thứ nhất của Bồ-tát, không còn xoay chuyển luân hồi. Cứ thế, tiến triển thành tựu mười trụ, không còn rơi vào hàng Thanh văn, Duyên giác; trụ trong trí tuệ sáng suốt, dần dần gần với trí sáng vô cùng của Phật. Này Phật tử! Ví như có người thầy sáng suốt, bảo vệ, chỉ đường cho những thương buôn, đi qua con đường nguy hiểm, an ổn vào thành thị của một nước. Việc chỉ người đi con đường tắt, tất biết con đường tắt đó tốt xấu, lành dữ, khó dễ, nơi nào an ổn, chỗ nào hiểm nạn, rồi lại tìm con đường khác mà đi, làm cho mọi người cỡi xe cộ, voi ngựa đi qua mà không bị ngã. Trụ Địa thứ nhất cũng như vậy. Giống như người đi vào thành, biết và phân biệt được nơi an ổn một cách chắc chắn. Cũng vậy, người trụ trong Địa thứ nhất thì đạt được trí tuệ, được giàu có, không bị nghèo thiếu, giáo hóa mọi người bình đẳng, đưa chúng sinh đến thành lớn, không bị nhơ uế nhiễm ô, tự an ổn và an ổn cho mọi người. Cũng thế, Phật tử! Bồ-tát như người dẫn đường sáng suốt, vì đã được trụ trong đạo Địa thứ nhất, nên hiểu rõ mọi nơi, tu sửa nghiêm tịnh hết thảy các đạo địa, đạt đến mười Trụ, hiểu rõ các đạo Địa của Bồ-tát, nhập trí tuệ của Như Lai, gom giữ vô số hạnh nghiệp phước đức không cùng của Bồ-tát, đủ các thánh tuệ, việc cần làm đã làm xong, vì đại chúng mà làm bậc Đạo sư, đem sự thông đạt để khai hóa hợp cơ, vượt qua sinh tử, tránh được đại nạn, không nghèo khổ đói khát, ở nơi hoang vắng; nhập Nhất thiết trí, thành tựu pháp rộng lớn. Vì thế, Phật tử! Bồ-tát Đại sĩ phải dùng tâm không mỏi mệt, siêng năng tu tập, đạt đạo địa thù thắng trang nghiêm thanh tịnh. Này Phật tử! Đó gọi là trụ địa Duyệt dự thứ nhất của Bồ-tát Đại sĩ vào cửa đạo nói pháp bình đẳng. Bồ-tát trụ Địa này, đi khắp thiên hạ, các cõi nước, các xứ sở, được người giàu có ủng hộ đạo pháp; đem tuệ lớn bố thí cho chúng sinh, dùng công đức lành tiêu trừ tham lam ganh ghét, trừ sạch trần cấu, tuyên thuyết pháp thí vô cùng; dùng phước đức cho người thiếu thốn; thực hành thật nghĩa bốn ân, lấy trí tuệ và nhân ái ban cho, cứu giúp cho tất cả, làm cho chúng sinh, tâm không rời bỏ Phật Pháp Tăng; xét hạnh nghiệp của Bồ-tát, phải đặt tâm nơi mười trụ địa rộng lớn khôn cùng của hạnh Bồ-tát; suy nghĩ về mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của Phật, cho đến đầy đủ Nhất thiết trí. Nhờ hết thảy phước đức mà đạt được tướng tốt tôn quý, tối thượng, khó lường, khó sánh, giảng thuyết đạo pháp, chỉ dạy cho mọi người thành tựu Nhất thiết trí, thoát khỏi nguy ách, phát tâm siêng năng tinh tấn tu tập, tùy thuận giáo hóa tất cả, không thích sự nghiệp tài lợi của thế tục; xuất gia học đạo chân chánh, phụng hành giáo Phật pháp; trong khoảnh khắc đã đạt vô số Tam-muội; gặp vô số chư Phật, thấy vô số thế giới, vượt qua vô số cõi nước, soi sáng các cảnh giới, khai hóa chúng sinh, nhớ được các kiếp số quá khứ, vị lai, tuyển chọn các pháp môn, thị hiện các thân hình, hiện vô số Bồ-tát, quyến thuộc vây quanh. Nhờ sức kiến lập mà Bồ-tát nhập nguyện thù thắng, trước mắt là hiện hóa các việc lành, tuyên thuyết pháp Bố thí, thông suốt mọi việc trong vô số kiếp.

Lúc đó, Bồ-tát Đại sĩ Kim Cang Tạng, suy xét kỹ nơi quy tụ thật nghĩa của Trụ địa Bồ-tát, nên nói kệ rằng:

Tích lũy pháp thanh bạch
Trồng cội gốc phước đức
Cúi đầu về với Phật
Nguyện hành nghiệp nhân từ
Thâm nhập tín giải thoát
Thanh tịnh, nguồn gốc thiện.
Ngự tâm không hạn lượng
Thánh tuệ tối thắng này
Phật: Bậc Nhất thiết trí
Tịnh lực hiện khắp nơi
Thành tựu pháp Thế Tôn
Lợi ích cho chúng sinh
Thực hành đại Từ bi
Chuyển xe pháp thù thắng
Như Lai rộng phước lành
Phát khởi tâm tôn kính
Cùng lúc hiểu biết được
Suy xét nghiệp Niết-bàn
Giác ngộ các chúng sinh
Tùy thời bày thật nghĩa
Tập họp các công đức
Là thầy dẫn đường chúng
Tâm đó nhập được khắp
Bình đẳng như hư không
Trí tuệ oai thần lớn
Thương yêu tạo hạnh lành
Chí tánh luôn tin tưởng
Sức thanh tịnh khôn lường
Thấy biết không chướng ngại
Cứu độ ngoài chúng sinh
Tạo hạnh nghiệp bình đẳng
Suy xét đều an trụ
Vừa sinh tâm cao quý
Tuệ Như Lai tự nhiên
Lực, hạnh đều thông suốt
Rốt ráo đạo Phật pháp
Sinh dòng tộc mười Lực
Không còn các tội lỗi
Thù thắng sáng chánh chân
Đạt đến đạo Vô thượng
Đó là tâm hòa đồng
Khởi bày địa bình đẳng
Vững chãi như ngọn núi
Tánh hạnh tại cõi nước
Luôn luôn được vui vẻ
Ý chí vững tin tu
Đem an lạc mọi nơi
Lành thay ý nghĩa hay
Quyết xa mọi lo sợ
Không còn những sân hận
Hợp thời trừ ô trược
Cẩn thận nuôi pháp lành
Thích cứu giúp chúng sinh
Thánh tuệ không ai bằng
Tâm ý luôn hớn hở
Trừ bỏ nơi không tốt
Dẹp hết năm lo sợ
Nhờ đó đại đạo Địa
Cho đến lúc mạng chung
Xa lánh các nẻo ác
Bỏ hội họp đáng sợ
Tâm luôn được an ổn
Vì sao không lo sợ?
Vì không có ngã sở
Nếu trừ bỏ lo sợ
Tinh tấn hành Từ bi
Tín tu và cung kính
Trừ bỏ tâm ham giàu
Suốt cả ngày lẫn đêm
Tu tập các công đức
Để lập pháp thành tín
Không bị dục ô nhiễm
Tâm nghe được kinh pháp
Khéo tu sẽ không chán
Trừ hẳn lợi ái dục
Luôn ham thích Phật pháp
Chí ưa sức tịnh tuệ
Tu trì theo Phật pháp
Nguyện cứu độ không cùng
Xả bỏ nghiệp dua nịnh.
Lời nói hợp việc làm
Không hề nói hư dối
Tối thắng không nhơ uế
Siêng học đến Phật đạo
Vứt bỏ việc thế tục
Không ham lợi thế gian
Không trái pháp thanh bạch
Siêng tu hạnh tối thắng
Tinh tấn huân tập nghĩa
Chỉ thích pháp như vậy
Đạo sư đã thệ nguyện
Muốn thấy bậc Tối thắng
Để phụng trì giáo pháp
Nên không còn ganh ghét
Tùy thuận thệ nguyện lớn
Thân hành luôn tốt đẹp
Nghiêm tịnh các cõi Phật
Khai hóa những chúng sinh
Biến khắp các cõi Phật
Cùng chư Phật đi khắp
Phật dùng một danh xưng
Ấy là không hư dối.
Tất cả đều có thể
Hiểu thật nghĩa Tối thượng
Thệ nguyện đó vô lượng
Đạo lợi được an ổn
Rộng lớn khó giới hạn
Kịp đến không gì lo
Chúng sinh như hư không
Các pháp do duyên sinh
Tối thắng trong thế tục
Phơi bày địa trí tuệ
Cảnh giới của tâm mình
Quyết nhập nơi Thánh tuệ
Đạt được ba loại trí
Để khai hóa chúng sinh
Rốt ráo thệ nguyện lớn
Giúp tôi thành nguyện này
Thông suốt được như thế
Hạnh đó cũng Từ bi
Nghĩ vậy Tạng pháp lành
Tâm nhu hòa mềm dịu
Tin sâu công đức Phật
Xét nguồn gốc chúng sinh
Duyên hành, luôn thương xót
Nên phát ra đại Từ
Ta sẽ luôn nuôi dưỡng
An lập cho mọi người
Vì thế nên bố thí
Ban cho đủ mọi thứ
Đất nước và xóm làng
Báu vật cùng voi ngựa
Đầu, mắt, tay và chân
Hoặc cho cả thân thể
Bố thí cho tất cả
Không hề có lo sợ
Tâm luôn thích giáo pháp
Không bao giờ chán xa
Thông hiểu phép thế gian
Tùy phong tục dạy bảo
Trí tuệ vượt ba cõi
Chí hổ thẹn vững chãi
Cúng dường vật quý báu
Cung kính bậc Trưởng thượng
Chư Thánh giả hành như vậy
Ngày đêm siêng không bỏ
Khơi sáng các công đức
Như vàng ròng trong lửa
Nhờ siêng năng tu tập
Mười Trụ địa Bồ-tát
Thích hạnh nghiệp vô vi
Giáo hóa các hữu vi
Ví như có Đạo sư
Thương xót những thương buôn
Hỏi thăm đường an ổn
Nên dắt dẫn chúng đi
Bồ-tát cũng như vậy
Phát tâm Trụ thứ nhất
Dần tiến đến mười trụ
Đạt đạo không chướng ngại
Vì trụ thật nghĩa này
Thông suốt đủ công đức
Từ tâm không tổn hại
Giáo hóa bằng chánh pháp
Sống giữa đời, biết thời
Khai ngộ ủng hộ nhau
Dạy chúng sinh bố thí
Ham thích Thánh tuệ Phật
Lúc phát tâm thánh trí
Bỏ ngôi vua, đất nước
Thâm nhập giáo Phật pháp
Ra vào siêng tu tập
Liền đạt được Tam-muội
Gặp vô số Đức Phật
Cảm động các cõi Phật
Phóng quang đến nghe kinh
Hóa độ vô số chúng
Khiến vào cửa đạo pháp
Trải qua trăm ngàn kiếp
Tùy thời mà hiện thân
Cùng các nghiệp tối thắng
Đánh thức chúng mê ngủ
Như chư Phật quá khứ
Đánh thức chúng u mê
Đó là Trụ thứ nhất
Sự tuyên thuyết tối thắng
Thương xót các chúng sinh
Và vô số Bồ-tát.

Các Bồ-tát được nghe đạo nghiệp này, đều mến thích hạnh tôn quý, tâm hoàn toàn vui vẻ và cảm thấy an ổn; từ chỗ ngồi, đứng dậy, cúi đầu nghênh đón rồi bay lên hư không, rải các hoa trời, nói lời tốt đẹp khen ngợi:

–Hay thay, Bồ-tát Kim Cang Tạng! Nhân giả là bậc Thánh hùng mạnh, không lo sợ, hiểu rõ Đạo trụ, hành pháp Bồ-tát, đại chúng đều vui mừng, nghe nguồn gốc giải thoát; xin Nhân giả nói Trụ thứ hai của đạo Vô thượng, thực hành như thế nào, phụng trì như thế nào? Xin bậc Đại trí tuyên thuyết để người nghe được an ổn, tinh tấn tiến đến chỗ không cùng mà khai hóa cho chúng sinh.

Phẩm 2: TRỤ LY CẤU

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Các Phật tử! Là các Bồ-tát Đại sĩ, đã hiểu được cảnh giới ban đầu của Trụ thứ nhất thì hãy vui thích Trụ thứ hai, hãy dốc tâm tin sâu, thừa hành tu tập mười việc. Mười việc đó là gì? 1. Chí tánh nhân hòa không thô lậu. 2. Tu nghiệp chân chánh không suy nghĩ sai lệch. 3. Thực hành chất phác ngay thẳng, quyết không đua nịnh. 4. Tâm luôn điều phục nhân từ, không giận dữ. 5. Đạo hạnh vắng lặng, không tán loạn. 6. Ý tánh chân thật, không hư dối. 7. Hạnh ngay thật không tạp loạn. 8. Tới lui bình thản không tham đắm. 9. Làm điều tốt đẹp không làm việc thấp hèn. 10. Ý rộng rãi không hẹp hòi. Đó là mười việc Bồ-tát nên dốc tâm tin sâu thực hành để thành tựu được Trụ thứ nhất; rồi mới tiến đến Trụ thứ hai.

Bồ-tát Kim Cang Tạng lại bảo:

–Này các Phật tử! Bồ-tát trụ địa Ly cấu thứ hai thì phải trừ bỏ sát sinh, không cầm dao gậy, tâm biết hổ thẹn, thương yêu chúng sinh, luôn đem tâm từ bi cứu độ chúng sinh, không vọng tưởng, không nghĩ đến việc giết hại, không cầu phương tiện của người, không hại người, quên mình giải cứu hoạn nạn cho người, không có hai tâm, huống gì phạm phải.

Lại không trộm cướp, luôn thích bố thí, không tham của cải của người; của cải của mình chỉ biết đủ, không ham nhiều; không sinh tâm ganh ghét khi thấy người khác có quyền lợi và sự nghiệp giàu có được mọi người tôn kính; không lén lấy bất cứ vậy gì, dù là cỏ cây lúa gạo; luôn nghĩ đến bố thí để cứu giúp người thiếu thốn, bớt phần của mình đem cho người nghèo khổ; phải đem đến sự an vui cho mọi người, dù là loài côn trùng nhỏ nhất, sống ở dưới nước hay trên cạn.

Bỏ tà hạnh dâm dục không muốn làm theo, bằng tâm biết đủ với vợ con mình, không yêu thích vợ người; tâm không nghĩ đến, không can phạm đến việc nhà người khác; giữ hạnh thanh bạch, không làm ô uế, xem họ không khác gì như mẹ, chị, em, con, trong sạch tươi sáng không nhơ; không có hai tâm, huống gì sắc đó mà phạm sao?

Không nói dối, không ham thích việc nói dối, nói năng chân thật, lời lẽ đúng đắn, nói đúng lý, nói hợp thời, không dối trá; cho đến trong giấc mộng cũng không nên nói lời phi pháp huống gì ban ngày! Không nói lời sắc dục thì tâm ấy nghĩ làm gì? Luôn nói đến kinh điển và chánh Phật pháp, không nói lời thế tục, xa những việc làm vô ích. Không nói hai lưỡi, không làm cho người này người kia đấu đánh nhau, không làm cho cả hai hiểu lầm nhau, người nào chưa hiểu rõ gây gỗ nhau, thì khuyên họ không xâm phạm người khác; không đem lời nói xấu của người này, nói cho người kia nghe và ngược lại; hòa giải sự tranh tụng, làm cho họ không oán giận, dùng pháp tu phước đức làm cho họ không gây ra tội lỗi; giảng kinh pháp rõ ràng thứ lớp; không mắng chửi, không nói lời thô ác, không tổn thương tâm người. Người đời nói năng không nhân từ, làm hại đến kẻ khác, mình là người ở giữa, không lo sợ, luôn thực hành nhân từ hòa ái, không đến với người bằng tâm làm hại, không làm cho người khác ôm ấp họa hoạn sầu khổ thiêu đốt, nói năng bằng tâm dịu dàng từ hòa, làm cho người khác nghe an ổn, trong tâm vui vẻ ước muốn được gặp; người xa kẻ gần, đều vui mừng, muốn gặp, rồi truyền tụng nhau; lại suy nghĩ về lời nói, không nói từ khó hiểu, không nói thêu dệt, không trau chuốt ngôn từ, không nói giúp lời xâm phạm đến người để bảo vệ thân khẩu, dứt khoát không nói đùa để người hiểu lầm, huống gì vì lợi dưỡng tài vật dâng hiến người trên, mà nói hư dối! Dù chết cũng không nói lời phi nghĩa, nói năng đúng việc làm; thân miệng phải tương xứng, không mất sự sáng suốt, không trái lời Phật dạy; không ganh ghét tham lam keo kiệt. Tâm không mong cầu có đủ những của báu, những đức cao, dòng quý như người khác; cũng không ngu si tham lợi vô nghĩa; thấy người giàu sang quý phái đáng kính không ganh ghét; tâm giữ đạo nghĩa như cá sống trong nước, không bỏ việc phải, không sân hận; luôn giữ tâm Từ bi, hòa nhã, an ổn, dịu dàng; luôn nghĩ đến việc cứu giúp cho tất cả, bảo hộ cho tất cả. Giả sử họ sân hận, chán ghét, không kềm chế được, bị nhơ uế hãm hại, thiêu đốt, thì tìm cách giúp họ dứt trừ tận gốc không cho phát triển; giữ tâm nhân từ, hòa ái, bình thản; sợ nó như sợ rắn độc thú dữ, thì tâm ác sẽ chấm dứt; sẽ thành tựu nhân từ hòa ái. Phải bỏ tà kiến, thực hành chánh kiến, không rơi vào học thuyết ngoại đạo, bỏ những việc tham lam hư ngụy tà thuật; trọn ngày gặp điều lành, không lo đến thời tiết, không nghĩ đến địa vị quốc vương, dù gặp được vua cũng không cho là quý, không dua nịnh, trong ngoài hợp nhau, tâm tánh từ hòa, phụng sự Phật Pháp Tăng không để mất Tam bảo, thương chúng sinh trong ba cõi, luôn mong độ thoát cho họ. Đó là mười việc lành. Phải luôn giữ gìn mười đức lành này, tâm suy xét và phụng hành như vậy. Nếu thấy chúng sinh tạo nghiệp ác tất sẽ đọa cõi ác, thì đem mười việc lành khai hóa chúng. Lại nữa, là hàng cầu học, chẳng những tự mình sống chánh kiến, phụng hành Đấng Chí Chân mà còn dạy người nhập vào trong hạnh Chí chân. Vì sao? Vì tự bản thân không tu đức mà muốn dạy người tu thì không thể được. Phải phân biệt phụng hành mười việc lành, không rơi vào ba cõi ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh mà sinh vào loài người, hoặc sinh lên cõi trời Đao-lợi. Người thực hành mười việc lành, sẽ thành tựu trí tuệ lớn, suy xét nghĩa lý, lo sợ ba cõi, phát khởi tâm Từ bi, không làm gì tổn hại, nghe theo lời của người khác, đạt được Thanh văn rồi trong thời gian ấy chí thanh tịnh, không muốn gặp người, không nhận ở người, tự mình hiểu rõ, mong thành Chánh giác, lập hạnh Từ bi, không làm gì tổn hại ý chí đạt đến giải thoát, suy xét mười hai nhân duyên, rõ hết nguồn gốc, đạt quả Duyên giác, tâm rộng rãi tối thượng, không thể giới hạn đo lường, thương xót chúng sinh, tìm phương tiện quyền xảo, lập thệ nguyện vững chắc, mặc áo giáp pháp rộng lớn, bình thản không dấu vết, cứu độ tất cả các loài chúng sinh, không bỏ ba cõi, thành tựu trí tuệ Phật không chướng ngại, làm cơ sở cho Bồ-tát thực hành đạo địa thanh tịnh, thành tựu được hạnh nghiệp không cùng, rồi dần dần đạt đến tối thượng, rốt ráo mọi việc, đạt mười Lực, cho đến mười tám pháp Bất cộng của Phật, đã nghe thì cố gắng học, học rồi thì tinh tấn tu tập, quán sát kỹ mười việc ác và những việc không lành, đều đưa đến quả báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vì vậy, nếu chúng ta sát sinh thì thì sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, dù sinh trong cõi người, cũng phải chịu hai quả báo xấu. Hai quả báo xấu là gì? Ở nơi sinh ra tuổi thọ ít, bệnh tật nhiều, bị chết yểu; gia đình buồn khổ rất là đáng thương. Nếu thích trộm cướp cũng đọa vào ba quả báo khổ. Nếu sinh vào cõi người, cũng phải chịu hai quả báo xấu. Hai quả báo xấu là gì? Chịu nghiệp đói, bị giặc cướp sạch không còn gì. Làm cho người khác buồn khổ, xâm phạm vợ người cũng bị ba quả báo khổ. Lại cũng có hai quả báo: Bà con không ngay thẳng thường đấu đánh nhau. Dối trá cũng sẽ đọa vào ba đường ác, cũng có hai quả báo ác: Bị nhiều người phỉ báng, nói năng không ai nghe. Nói hai lưỡi cũng sẽ đọa vào ba đường ác, cũng có hai quả báo xấu: Bà con ly tán, sinh vào dòng hạ tiện, kết bạn với kẻ thấp hèn. Nói lời ác cũng sẽ đọa vào ba đường khổ, cũng có hai quả báo: Nghe lời khó nghe và bị mắng nhiếc. Nói thêu dệt cũng sẽ đọa vào ba đường khổ, cũng có hai quả báo: Làm hại người khác, gặp việc gì không tự quyết định. Tham tiếc cũng sẽ đọa vào ba đường ác, cũng có hai quả báo: Sản nghiệp nghèo nàn, nhiều bệnh tật. Ganh ghét cũng sẽ đọa vào ba đường ác, cũng có hai quả báo: Sống trong cõi người thì rơi vào tà kiến, không biết đủ. Sân hận ganh ghét cũng sẽ đọa vào ba đường ác, cũng có hai quả báo: Tự hại mình và hại người. Tà kiến ganh ghét cũng sẽ đọa vào ba đường khổ, nếu sinh trong cõi người thì cũng có hai quả báo: Rơi vào trong sáu mươi hai tà kiến, sống dua nịnh, nhiều tai họa đưa đến khổ ấm, nên tạo ra nguồn gốc bất thiện. Giả sử, nếu bỏ được mười việc ác, làm mười việc lành, khuyên bảo người sống trong mười việc lành, tăng thêm tâm nhân từ, luôn có tâm thương yêu, cứu giúp, điều hòa, bố thí, ủng hộ, phụng sự thầy, kính Chư Phật, tâm luôn tự nghĩ: Chúng sinh bị tà kiến trói buộc, tâm ý điên đảo, chí niệm phản nghịch, làm việc hư dối; ta nên làm cho họ sống trong đạo chân thật, tu hành đúng đắn, nói và làm tương ưng, tạo lập sự an ổn. Chúng sinh hủy hoại, tranh tụng, phỉ báng lẫn nhau, luôn sân hận, gây họa cho nhau; ta nên phát tâm từ bi rộng lớn vô thượng, lập hạnh kiên cố làm cho họ không còn chấp trước hai bên! Chúng sinh không sợ nạn trói buộc, hay ghen ghét sự nghiệp người khác, làm việc sai quấy, không thuận gốc đạo; ta phải làm cho chúng sinh được thanh tịnh thân, khẩu, ý. Chúng sinh mê muội tạo tội phước, ngu si bị ba chướng ngại che lấp, vương trong lưới phiền não, hay tự hành hạ mình; ta phải dùng phương tiện khéo léo, cần cầu vững chắc, diệt trừ hoạn nạn, tạo lập cảnh sống an ổn cho chúng sinh. Chúng sinh sống trong ách ngu si, bị vô minh trói buộc, ở trong sáu chỗ tối tăm, tạo nghiệp đen tối; ta nên khai hóa, sửa trị để không còn chướng ngại, dùng mắt tuệ thanh tịnh, làm cho tất cả sống đúng với pháp tự tại, nhờ được tự tại nên không mong nhờ vào người khác. Chúng sinh dính mắc trong chỗ khổ nạn sinh tử: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trôi nổi trong sáu mươi hai tà kiến nghi lầm, bị nhốt trong lưới ngu si, mê hoặc trong đường tà, đi trong nẻo tối tăm, không gần được Thánh hiền, chẳng ai cứu hộ, những nẻo đến, thì không giải thoát được nghiệp, có kiếp làm giặc cướp, ma quỷ ở trong tâm, tâm Phật thì xa lìa, ta nên nuôi dưỡng, tìm cách đưa họ qua đồng trống sinh tử được an ổn, hiện tại được sống trong thành Nhất thiết trí, không còn lo sợ gì! Chúng sinh ở trong rừng lửa dữ của ba cõi: Dục, Sắc, Vô sắc; trôi nổi trong ba vực sâu, chìm đắm trong dòng sinh tử, đọa trong sông ân ái, bị giam giữ trong đại nạn, ở mãi trong ngu si, tâm nghĩ tham dâm, chí suy nghĩ tổn hại, làm việc cướp giật, chỉ chấp thân này. Ví như ở trên bờ biển, bị quỷ dâm dục mê hoặc, buông thả chạy theo những dục vọng, tự đề cao mình, hay thay tâm đổi dạ, chưa giải thoát tưởng đã giải thoát, đi vào chỗ suy tàn hư hoại, xa phước đức; ta nên giáo hóa để chúng tập tu những phước lớn căn bản, dùng đạo lực mà cứu giúp, để chúng sinh được diệt độ, bỏ hết mọi tai ách lo sợ. Nhân đó làm cho chúng sinh được sống trong Nhất thiết trí. Chúng sinh bị tham ái trói buộc, vô số khổ đau, áo não buồn lo, yêu mến đủ chỗ, thương ghét trói buộc, gặp gỡ rồi xa lìa lưu luyến nhau; ở trong ba cõi bị vô minh che lấp; ta nên khai mở, chỉ cho con đường chánh, đưa đến chỗ không chướng ngại, thoát nạn ba cõi, làm cho chúng sinh sống trong đạo Vô vi. Chúng sinh đều nương vào ngã, ngã sở, năm ấm, các nhập không thể thay đổi được; ở trong bốn điên đảo; nương nhờ trong nhà sáu suy, bị giặc cướp đánh đập, chịu vô số khổ đau; ta nên giáo hóa khiến trừ bỏ ách nạn, đưa chúng sinh đến chỗ vô vi. Chúng sinh luôn tạo nghiệp thấp hèn, thiếu trí tuệ, tâm không tôn quý Nhất thiết trí, không đúng theo đạo lý trời người, chí luôn ở trong nỗi lo sợ các nạn sinh tử, ưa Thanh văn, Duyên giác; ta nên giáo hóa, làm cho họ có được tâm rộng lớn vi diệu. Đó là chỗ thâm nhập của Bồ-tát. Với giới lực này, Bồ-tát khuyến khích và giáo hóa kẻ nghèo thiếu, luôn mở tâm từ bi, dùng phương tiện khéo léo, trụ trong địa Vô cấu của Bồ-tát. Nhờ đó được gặp vô số trăm ngàn Đức Phật, để cúng dường y phục, cơm, nước, thuốc men, giường nệm, đem đến sự an ổn nơi thân; nương tựa vào Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng, theo đó mà làm, không làm trái lại. Dù trải qua vô số trăm ngàn kiếp thọ thân, nhưng cũng không tạo nghiệp tham lam, ganh ghét, phạm giới, nhơ uế, vô ích, thích thú việc bố thí, phụng trì tịnh giới. Ví như có người vừa sinh ra, thân hình xinh đẹp, nhưng bị rơi vào đất nhơ, phải đem tắm rửa sạch sẽ. Bồ-tát cũng thế, trụ địa Bồ-tát Ly cấu này, trải qua vô số trăm ngàn vạn kiếp, thọ thân hình nhưng không tạo nghiệp tham lam, ganh ghét, phạm giới, nhơ uế, vô ích; mà thực hành bốn ấn, đem yêu thương nhân ái ban bố, bình đẳng lợi người và lợi cho tất cả, cứu độ tất cả chúng sinh, dứt trừ nguy ách, tu mười Ba-la-mật rộng lớn, siêng năng tu tập Giới ba-la-mật, đầy đủ không thiếu. Lại nữa, Này thiện nam! Như vậy, Bồ-tát được trụ ở Địa thứ nhất. Địa thứ hai là Ly cấu, Bồ-tát trụ ở đây, sẽ được làm vua Chuyển luân, cai trị bằng chánh pháp, tự nhiên có đủ bảy báu. Giả sử có chúng sinh nào tạo nghiệp ác và phạm mười giới, thì phải dùng phương tiện, khéo léo an lập họ, làm cho họ thực hành mười nghiệp lành, thích đem phước và tuệ bố thí cho mọi người, tạo đức nhân ái. Đó là thật nghĩa của việc làm có ích, đem lại nhiều lợi, nhất quyết không bỏ; luôn niệm Phật, thích chánh pháp, ý chí theo chúng Tăng. Nghiệp của Bồ-tát, hạnh của Bồtát là tu sáu Ba-la-mật rộng lớn, tìm cội nguồn mười trụ, suy xét mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, thực hành đầy đủ Phật pháp, luôn nghĩ Nhất thiết trí, nên dùng phương tiện nào để giáo hóa chúng sinh, đạt đến chỗ chí tôn tối thượng, siêu việt, thù thắng; đạt ở bậc Vô thượng, rồi làm thầy của chúng sinh, khuyến hóa, nuôi dưỡng, dạy dỗ và bảo vệ để tất cả đạt Nhất thiết trí; Phát tâm trong khoanh khắc đầu tiên là bỏ việc thế tục, ái dục tối tăm, tùy thuận giáo pháp của Như Lai, xuất gia làm Sa-môn, siêng năng tu tập, sớm đạt trăm nghìn Tam-muội, gặp vô số Phật. Vừa gặp Phật, đã xây dựng đạo, làm chấn động trăm ngàn cõi nước, nguyện sinh về cõi đó, vượt qua các cõi trang nghiêm thanh tịnh, không giới hạn vô số thế giới, để khai hóa, độ thoát cho vô lượng chúng sinh, thâm nhập Túc mạng trí, trải qua nhiều kiếp số luôn tìm cầu vô số các cửa đạo pháp, thấy được hình tượng của chúng sinh ở mười phương, quán sát vô số chúng Bồ-tát, từ lúc tu học đã thề nguyện giữ gìn chí nguyện thù thắng. Dù trải qua trăm ngàn vô số kiếp, cũng không nói hết được. Giảng trụ thứ hai xong, Bồ-tát Kim Cang Tạng Đại sĩ nói kệ rằng:

Đại chúng tâm chất phác
Tu sửa tánh ý mình
Chí khí đã chân thật
Nhu thuận lại điều hòa
Đã bỏ hết tham dục
Mong cầu đạo Tối thượng
Hạnh nghiệp rất rộng lớn
Dựa ở nghiệp thứ hai
Giữ đức Trụ địa này
Tích lũy các công đức
Xa lánh việc sát sinh
Không nghĩ việc giết hại
Trừ bỏ tâm tham ganh
Không xâm phạm vợ người
Thành thật, không hai lưỡi
Chẳng nói ác, thêu dệt
Dứt trừ sự tham, sân
Luôn tu tâm từ bi
Nhập hạnh nghiệp chánh kiến
Không nịnh, hành chất phác.
Không tham ái ngạo mạn
Sửa tánh là quan trọng.
Hộ trì giáo Phật pháp
Phải sống không buông thả
Khổ đau của địa ngục
Hay của loài súc sinh
Dùng ánh sáng Phật pháp
Trừ diệt khổ ngạ quỷ
Bỏ hết mọi việc ác
Và tâm ý xấu xa
Cắt đứt sự tổn hại
Tâm trí tin kinh pháp
Tự răn ngừa tâm ý
Sinh đến chỗ tốt lành
Hoặc cõi trời Đao-lợi
Vắng lặng luôn an ổn
Giống như bậc Duyên giác
Thanh văn và Chánh giác
Đều từ mười việc này
Và bạch pháp sinh ra
Thấy vậy nên quán sát
Luôn sống không buông thả
Giữ vững các giới cấm
Lại khuyên dạy người khác
Làm lớn tâm yêu thương
Chí tánh: Mặt trời hiền
Quán chúng sinh khổ não
Mà phát tâm thương tưởng
Vì tâm không tỏ ngộ
Rơi vào các tà kiến
Sân hận và độc hại
Tâm luôn thích đấu tranh
Không chán xa thân thuộc
Tham đắm trong cảnh giới
Ta sẽ độ thoát chúng
Vượt qua khỏi ba ách
Kẻ tâm tính ngu si
Luôn ở trong tăm tối
Rơi vào đường nguy hiểm
Ở trong lưới tà kiến
Xoay vần trong sinh tử
Hãy tìm phương cứu độ
Cứu thoát sáu hữu tình
Chân chánh hiểu năm ấm
Tiêu trừ các trần lao
Vượt qua bốn kết sử
Dứt sạch khổ ba cõi
Thiêu đốt tâm làm hại
Lìa hẳn thân tham đắm
Vọng tưởng ngã, ngã sở
Ta vì những hạng ấy
Mà tu hành độ thoát
Để tâm cao hơn hết
Tuệ vô thượng của Phật
Dắt dẫn thành thật tu
Bỏ tâm tưởng yếu kém
Lập chí nguyện rộng lớn
Đạo tuệ của Như Lai
Phải siêng năng vững chãi
Để đạt được Phật đạo
Trụ công huân vắng lặng
Tích lũy mọi phước đức
Gặp vô số Đức Phật
Nguyện cúng dường tất cả
Hiểu rõ pháp thanh bạch
Trải qua trăm ngàn kiếp
Thân không bị chướng ngại
Tâm, miệng cũng như vậy
Phật tử trụ địa này
Tùy thời chuyển pháp luân
Khai hóa các chúng sinh
Thực hành mười nghiệp lành
Những việc đã tích lũy
Là hạnh nghiệp trong sạch
Cứu hộ các chúng sinh
Làm giàu thêm mười Lực
Nhân đó phát tâm ý
Bỏ nước, bỏ sản nghiệp
Xuất gia làm Sa-môn
Tu tập hạnh dũng mãnh
Đã thông suốt tinh tấn
Đạt Tam-muội cao quý
Gặp vô số Đức Phật
Tùy thời như cõi Phật
Do vậy không thể kể
Hết những việc thay đổi
Vừa thấy các cảnh giới
Đều trụ trong Đạo địa
Đã trụ vào nguyện ấy
Đạt diệu tuệ tối tôn
Làm nhiều việc biến hóa
Để giác ngộ chúng sinh
Đó là trụ thứ hai
Lời chư Phật giảng dạy
Thương xót các chúng sinh
Bồ-tát là Tối thượng.

Nghe được cảnh giới thứ hai là pháp chân chánh cao tột, không thể nghĩ bàn của Bồ-tát; các Phật tử vui mừng, cung kính, trụ trong hư không, làm mưa hoa trời, đồng thanh ca ngợi:

–Lành thay! Phước đức của Bồ-tát như núi chúa! Đã phân tách, giảng rõ nguồn gốc giới cấm, đã bày tỏ tâm thương xót chúng sinh; thì xin Bồtát diễn thuyết hạnh thứ ba. Lời Bồ-tát giảng chí thành, không sai khác. Hạnh Bồ-tát thật là vô thượng, làm cho khắp chúng sinh đều được an ổn. Với hạnh nguyện giảng thuyết diệu hạnh thứ nhất, đại chúng đều tuân thuận, trời người đều cung kính. Trụ địa Ly cấu thứ hai của Bồ-tát là phải trừ bỏ ái dục, siêng năng tu tập, xây dựng pháp tuệ lớn như là: Thực hành bố thí, giữ giới, thành bậc Thánh giả; nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm vắng lặng, khéo tu trí tuệ, tâm từ thù thắng, thương yêu hành đạo, giúp đỡ, giảng thuyết hạnh thanh tịnh ví như trăng sáng. Bồ-tát Kim Cang Tạng giảng diễn Trụ thứ ba, ai nấy đều vui vẻ, phát tâm hành đạo.

QUYỂN 2

Phẩm 3: TRỤ HƯNG QUANG

Bồ-tát Kim Cang Tạng bảo:

–Phật tử! Bồ-tát Đại sĩ đã thông suốt trụ Địa thứ hai, liền được nhập Trụ thứ ba, phải suy xét thực hành mười việc. Mười việc đó là gì? 1. Chí tánh thanh tịnh. 2. Tánh hạnh có ích, sáng suốt thông đạt. 3. Trừ bỏ ý tham vinh hoa phú quý. 4. Tâm không tỳ vết, nhơ uế. 5. Chí niệm quyết không thoái chuyển. 6. Tâm kiên cố, không khiếp sợ. 7. Suy nghĩ cao rộng không cùng. 8. Tánh hạnh nhanh lẹ không chậm lụt. 9. Hạnh vi diệu cao cả. 10. Tâm rộng lớn không hẹp hòi. Giả sử Bồ-tát Trụ Địa thứ ba, là phải quán vạn vật: vô thường, khổ, không, bất tịnh, không thể tin tưởng, sẽ hư hoại, không tồn tại lâu, vừa sinh đã diệt, quá khứ không có chỗ thành, vị lai chưa đến, hiện tại không trụ, là phải quán sát mọi vật có được đều sẽ hoại diệt. Nếu đã nhập vào địa Vô sở hữu thì tất cả đều là khổ đau, đầy dẫy sự nguy ách, hoạn nạn, sát hại, bị trói trong nghiệp yêu ghét, sầu khổ nhiều, đều bị vô thường, bị lửa tham, sân, si thiêu đốt, do nhân duyên đó mà không có chỗ để nương tựa. Phải xét tất cả đều như huyễn, tất cả vạn vật đều rất đáng sợ, không có sự cứu hộ, tâm luôn thay đổi, trái với trí tuệ căn bản. Phải thấy trí tuệ của Như Lai là không thể nghĩ bàn, không thể hạn lượng, không thể khen ngợi chuyển tải hết được, rất là cao xa, không tạp loạn, cũng không nguy ách; đó là pháp vô vi luôn tồn tại và là vô sở úy thứ nhất, là không còn thoái chuyển; là đem lại nhiều lợi ích, bình đẳng thấy biết. Đã thấy được vô số Thánh tuệ của Như Lai và thấy các ách nạn, thì càng thương xót chúng sinh, càng phải thực hành mười việc. Mười việc đó là gì? 1. Luôn nghĩ cách cứu kẻ cô độc khốn khổ. 2. Thường giáo hóa người nghèo khổ để họ được sống trong đạo pháp. 3. Dập tắt ngọn lửa tham, sân, si đang hừng hực cháy. 4. Tâm xoay vần trong sinh tử nhưng không mê loạn. 5. Luôn luôn muốn dứt trừ nhơ uế của trần lao, giác ngộ cho người chưa giác ngộ. 6. Tâm sáng suốt tự tại. 7. Không dạy kẻ bỏ pháp lành được vui trong đại pháp. 8. Đưa những người quên Phật pháp được vào chánh đạo. 9. Đưa những kẻ đang mê muội, trôi trong dòng sinh tử trở về nguồn cội. 10. Đem đến sự không lo sợ cho những kẻ lạc đường, bị sợ hãi. Đã quán sát vô số nguy ách của chúng sinh và tai họa trong ba cõi; thì phải siêng năng tu tập, để cứu giúp tất cả chúng sinh, độ họ được giải thoát thanh tịnh; được qua khỏi hết thảy. Giáo hóa khai ngộ, chỉ dạy khiến cho họ được diệt độ. Đã được như vậy rồi, tức đạt đến chỗ vô vi, hòa nhập vào muôn loài mà từ đó cứu độ hết thảy chúng sinh. Sự giáo hóa như vậy làm đầy đủ thêm Nhất thiết trí và Thánh tuệ của Như Lai, thêm siêng năng tu tập, ủng hộ chúng sinh. Lại suy nghĩ xem, phải tìm nhân duyên, phương tiện gì để độ vô số loài chúng sinh đang ở trong ách nạn của trần lao khổ não, đang bị thiêu đốt, để làm cho chúng sinh được an ổn mãi, không còn bị trở lại. Trụ ở Ba môn giải thoát vô ngại, thiết lập giáo pháp để khai ngộ, giáo hóa người, dùng trí tuệ của Ba môn giải thoát không chướng ngại mà không làm gì khác để hiểu rõ tất cả pháp, biết không có sự hành hóa, giác ngộ cái gốc Chân đế, dẫn dắt chúng sinh thực hành hạnh “Vô sở hành”. Nhờ trí tuệ sáng suốt đó, mà không còn phải quán sát, lắng nghe, dựa vào giáo nghĩa của kẻ khác, chỉ cần học Phật pháp. Tâm lại luôn nghĩ: Làm sao đầy đủ tất cả nguồn gốc của Phật pháp? Chỉ có học nhiều, phân biệt nghĩa lý, dùng tuệ quán sát, gia tăng lợi ích tu hành, cần cầu Chánh pháp, chuyên cần tinh tấn thừa hành, ngày đêm suy xét pháp, muốn được nghe thọ, không hề chán ghét, thích chánh pháp không bỏ phế, phát sinh pháp vi diệu, cần cầu pháp chỉ dẫn, phát chí nguyện về pháp đều do pháp; pháp lưu chuyển, pháp quay về, cứu hộ pháp để bảo vệ pháp và thực hành pháp. Khéo biết cầu đạo pháp, không thích báu vật vô giá của thế gian, không dùng kho tàng có đầy đủ châu báu để được tự tại, phát tâm bố thí không nghĩ đó là khó khăn; chỉ vì giáo pháp, không được mến tiếc, phải cho hết những vật sở hữu trong ngoài, phải cho hết trí tuệ có được, cho hết bà con, ruộng đất, tài vật, nô bộc, kho tàng, châu báu, anh lạc, vợ con, trai gái, đầu, mắt, chân, tay, tai, mũi, xương, thịt, thân thể, cơm áo và mạng sống. Nhờ Phật pháp, nên không mến tiếc coi đó là sự ban ân. Nhờ kinh pháp, nên đem những vật quý trọng nhất như ngọc sáng Như ý, trân bảo vô giá mà ban cho. Lúc bố thí, còn khiêm nhường nhã nhặn, đem cho mà không hề hối tiếc, thân tâm không buồn; người thọ nhận nhờ đó được độ thoát. Vui vẻ khi nghe những pháp chưa nghe, còn hơn được châu báu trong tam thiên đại thiên thế giới. Thà nghe một bài kệ chứ không ham ngôi vị Phạm vương, Đế Thích; tu tập hạnh nghiệp vô số trăm ngàn kiếp, giả sử có người đến bảo: “Ngươi tu tập hạnh nghiệp bình Đẳng chánh giác, tịnh hạnh Bồ-tát, mà muốn nghe chánh pháp rộng lớn này, thì phải nhảy vào lửa, chịu bao nhiêu là tai nạn khổ sở”; nếu tự thân đã vượt qua lửa lớn, lại phải gặp nhiều khốn ách, rồi mới thành Phật đạo, thì nghĩ: “Ta đem thân cầu đạo pháp, thà được yêu thích một câu pháp, chứ không cần thân này! Dù phải nhảy vào ngọn lửa lớn đang thiêu đốt tam thiên thế giới cho tới khắp trời Phạm thiên, thì vì cầu pháp, ta vẫn nguyện vào đó, huống gì ngọn lửa nhỏ kia! Dù thân này rơi vào hết thảy các địa ngục, khốn khổ không an, ta vẫn cần cầu kinh pháp, sá gì gặp những phiền não của thế gian!” Nhờ những phương tiện ấy mà cầu kinh pháp. Nhờ được nghe pháp, quán sát đúng pháp, hết tâm thông đạt, tự điều phục tâm, luôn nghĩ đến đạo Vô thượng, biết rõ tâm ý, thông qua kinh điển mà thực hành pháp yếu, ham thích Phật đạo, hoàn toàn không khoe khoan, lời nói thanh tịnh. Quán sát như vậy, trụ trong địa Bồ-tát, sẽ dứt hết tình dục, tiêu diệt các điều ác và các pháp ác, chỉ thực hành nghiệp lành, vui vẻ an ổn, thành tựu Thiền thứ nhất. Lại trừ vọng niệm, trong tâm vắng lặng, tâm chuyên nhất, không còn tư tưởng, tùy thời mà thuận hành, vui vẻ an ổn, thành tựu Thiền thứ hai. Xa lìa sở thích, tu hạnh bình tĩnh, tâm tịch mịch, thân ý vui vẻ tự nhiên giống như lời dạy của Thánh chúng, quán sát tâm đó, an ổn, đó là thực hành Thiền thứ ba. Bỏ khoái lạc khổ não; dứt sạch gốc không khổ không vui, luôn chuyên cần tinh tấn, quyết giữ tâm thanh tịnh, đó là thực hành Thiền thứ tư. Vượt qua được mọi sắc tưởng, đã vượt qua sắc tưởng thì đạt đến chỗ vô tưởng, nhập vào chỗ không còn danh hiệu; bấy giờ, suy xét bao nhiêu là danh tưởng, giữ lấy mà tu tập tưởng hư không trong vô lượng hư không; đã vượt được các tưởng hư không vô lượng, nhờ đó mà tu hành tưởng của thức tuệ vô lượng; vượt tưởng hư không mà không đắm trước, tu vô sở hữu; đã vượt qua hết thảy nghiệp vô sở hữu, nhờ đó mà tu tập vô tưởng nhưng không rời tưởng, không vui thích gì nữa, chỉ phát tâm, phụng thờ đạo pháp, nhờ đó tu tập cho tâm từ rộng lớn vô bờ bến, không thể hạn lượng; không oán không giận, chỉ muốn cứu hộ chúng sinh; chí hướng rộng lớn, vui vẻ chỉ dạy; thương yêu khắp mười phương, vui lòng thực hành bảo vệ chúng sinh. Bồ-tát cũng vậy, tâm rộng lớn để cứu giúp không cùng, không oán hận, muốn độ thoát chúng sinh, cứu hộ trong mười phương, đủ bốn Tâm bình đẳng, mọi loài đều mong nhờ sự an ổn. Lại tu tập, thành tựu các sự biến hóa, đầy đủ oai thần thị hiện, chấn động trời đất, biến một thân thành vô số thân, hợp vô số thân thành một thân, vượt thấu hư không, thông qua tường vách, vào ra núi Thái, núi Tu-di, núi Thiết vi mà không bị chướng ngại, như đi trong hư không; ngồi trong hư không giống như chim bay; đi trên đất như vào trong nước; đi trên nước như đi trên đất; thân phóng ra lửa như đuốc lớn; nhìn thấu mặt trời, mặt trăng, thần túc vời vợi, oai thần không cùng, đi khắp bốn cõi, trừ sạch tối tăm, đưa tay nắm cung điện, mặt trời, mặt trăng, thân vượt đến cõi Phạm Thiên, tai thanh tịnh nghe xa hơn cả cõi trời người. Lại còn biết rõ tâm niệm của chúng sinh; những tâm niệm đó có dục hay không dục, có sân hay không sân, có si hay không si, có phiền não hay không phiền não, nhỏ hẹp hay rộng lớn, có nhiều hay ít, có xuất ly hay không xuất ly, có quan trọng hay không quan trọng, tâm có loạn hay chánh, tâm định hay không định, tâm giải thoát hay không giải thoát, tâm tối thượng hay không tối thượng; tất cả đều được thấy biết tận gốc ngọn. Cứ thế mà phân biệt được tất cả tâm niệm của chúng sinh: Thiện, ác, họa, phước, đạo, tục, thật, giả; đều thông đạt tất cả. Lại biết được chỗ ở của vô số kiếp trước: Một đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời, đều biết hết được các việc của đời trước trong vô số kiếp mà không sao kể hết được; biết được kiếp hoại, kiếp thành và vô số trăm ngàn sự thành bại của trời đất. Biết mình từng ở những nước nào, họ tên gì, dạo chơi ăn uống, mạng sống dài ngắn, y phục tốt xấu, những chuyện vui khổ, chết ở kia, sinh ở đây và ngược lại. Chết rồi lại sinh, sinh rồi lại chết, chuyện sinh tử cứ thế mà xoay vòng. Đem so sánh với các loài, thì sự hiểu biết về những đổi thay đời trước là không cùng. Vậy là đã đạt được thanh tịnh, đúng là Thiên nhãn thanh tịnh. Dùng Thiên nhãn đó để thấy được sự quy tụ sinh tử, thiện ác của chúng sinh, biết kẻ sang, hèn, cao, thấp; do hậu quả tương xứng. Lại có chúng sinh, thân khẩu, ý đều hành thiện, không phỉ báng Hiền thánh, tu tập chánh kiến, khi bỏ thân, được sinh lên cõi trời. Lại có chúng sinh, thân khẩu ý đều làm ác, phỉ báng Thánh hiền, sống trong tà kiến, khi xả thân, bị đọa vào địa ngục. Dùng Thiên nhãn thanh tịnh thấy khắp hết cõi trời người và các loài côn trùng với những thiện ác họa phước đang diễn ra trong các nẻo. Lại nhất tâm chánh thọ Tam-muội; nếu sau đó xuất định, không dùng đến phước đức này, có sinh ở đâu cũng đều được đầy đủ đạo phẩm của Bồ-tát, vì nguyện cứu độ nên mới hiện sự thọ sinh, trụ trong địa Hưng quang của Bồ-tát; gặp vô số trăm ngàn ức Phật trong mười phương, phụng sự, cúng dường y phục, thức ăn uống, thuốc men, giường chiếu; quy y chư Phật, nghe giảng pháp, nghe rồi thọ trì; tùy căn cơ mà thọ nhận, chưa từng xa pháp, không bỏ lời Phật dạy; quán sát hết thảy chúng sinh, thương yêu như thân mình, như bà con thân tộc; muốn mở dây trói, đoạn trừ tà kiến, dục vọng có trong vô số trăm ngàn ức kiếp; tâm không hề nghĩ đến nhưng lại có thái độ tiêu trừ tà kiến, sân hận, ngu si. Như người thợ chăm chú dũa ngọc để làm thành những vòng xuyến, trâm, nhẫn anh lạc, ngọc khá đẹp đẽ. Bồ-tát cũng thế, trụ ở địa Hưng quang tức đã không dùng lời để dứt trừ kiến chấp và tham, sân, si. Với các gốc của phước đức, ngày càng phải làm cho cao tột, thanh bạch; dần dần làm cho đầy đủ nguồn gốc tâm nhân hòa, nhẫn nhục, thuận hành giới cấm không sai phạm, tâm không sân hận, không ôm ấp sự oán thù, chí tánh không đua nịnh, luôn thư thái không hoảng hốt; mọi việc làm đều thành tựu rốt ráo, không làm điều dua nịnh hư dối; tánh không chứa nhận những giả dối trống không; tu hạnh thanh tịnh sâu xa, nhớ đến bốn ân, tuyên thuyết điều yêu kính, làm việc lợi ích, chí thành thâm hậu, tu đủ mười Ba-la-mật, nhẫn nhục tinh tấn thực hành không cùng Ba-la-mật, lại khuyến hóa các Bồ-tát phải cẩn thận, thanh tịnh. Đó là pháp trụ Hưng quang thứ ba của Bồ-tát Đại sĩ. Bồ-tát trụ Địa này, các căn thông đạt. Nếu làm vua thì có đủ phương tiện quyền xảo để tạo việc có ích; nếu làm việc bố thí thì thực hành với tâm kính ái, tu hạnh lợi ích trên hết, nhất tâm niệm Phật không bỏ, bao trùm khắp nơi, luôn nghĩ đến nghiệp Nhất thiết trí. Phải dùng nhiều hạnh đưa chúng sinh đến chỗ tôn quý, thông đạt tất cả, vì chúng sinh mà làm bậc Đạo sư, vừa mới phát tâm ý thì siêng năng không cho ngừng nghỉ để cùng lúc có thể thông đạt trăm ngàn Tam-muội.

Bấy giờ, Đại sĩ Kim Cang Tạng, muốn nói rõ nghĩa về chỗ quy hướng của hạnh này, nói kệ rằng:

Người ý tánh thanh tịnh
Đủ đức tâm thông đạt
Tiêu trừ họa tham dục
Thành nghiệp không thoái chuyển
Phát tâm ý kiên cố
Mạnh mẽ và tinh tấn
Ý chí thật rộng lớn
Nên nhập Trụ thứ ba
Người trụ ở địa này
Chính là trụ Quang diệu
Thuyết khổ, không, vô thường
Pháp bất tịnh hủy hoại
Không tồn tại lâu dài
Như tiếng vang hư vô
Xét chúng là hữu vi
Không đến cũng chẳng đi
Do đó mang bệnh hoạn
Sầu khổ và khóc than
Luôn phải chịu buồn đau
Trói buộc trong ân ái
Khổ hoạn không nghĩ hết
Ba ngọn lửa hừng hực
Vì những nghiệp hữu vi
Phát sinh vô số nạn
Nếu chán ghét ba cõi
Tâm không hề tham mến
Mong cầu trí tuệ Phật
Không thay đổi ý chí
Độ thoát vô số ức
Thật không thể nghĩ bàn
Thấy chúng đều diệt độ
Đạt Thánh tuệ tối thắng
Đã được gặp chư Phật
Không còn các ách nạn
Cứu giúp và giải thoát
Kẻ không nơi tựa nương
Kẻ nghèo kém đạo pháp
Bị ba lửa thiêu đốt
Phải chịu bao khổ não
Trăm thứ trói buộc tâm
Ham thích các trần lao
Chí vô minh thấp hèn
Trôi trong dòng sinh tử
Lo sợ mong giải thoát
Ta nên bảo hộ chúng
Vững mạnh và siêng năng
Chí vui thích Thánh tuệ
Đưa đến đạo giải thoát
Không còn những chướng ngại
Thành tựu tuệ Như Lai
Tuệ ấy thật sáng suốt
Niềm vui người an trụ
Chỉ nghe trí tuệ ấy
Thành tựu tuệ Bồ-tát
Vừa được nghe thuyết pháp
Liền siêng năng phụng hành
Ngày đêm thường thọ trì
Không còn nghiệp nhân duyên
Pháp thật nghĩa an lạc
Cứu độ rất rộng sâu
Là ngọc quý minh nguyệt
Được thân thuộc yêu thương
Cõi nước rất rộng lớn
Giàu có và phồn thịnh
Vợ con, trai và gái
Thân quyến cùng tôi tớ
Nhờ học các kinh điển
Bố thí không tham tiếc
Đầu mắt hoặc tay chân
Thịt xương cả thân mình
Mắt thấy, miệng giảng nói
Cho máu như sông chảy
Bố thí cả tủy não
Cho những kẻ đồ tể
Không xem đó là khó
Không nghe pháp là họa
Giả sử có người đến
Nói những lời như vầy:
Muốn nghe thuyết an trụ
Pháp vi diệu giải thoát
Hãy nhảy vào ngọn lửa
Đang bốc cháy hừng hực.
Nghe rồi suy xét kỹ
Huân tập nghĩa từng câu
Nghe một câu pháp nghĩa
Đầu đội núi Tu-di
Giả sử ba ngàn cõi
Đang bị lửa thiêu đốt
Ta nghe pháp lợi ích
Ý đạt chỗ Huyền diệu
Nghe lời nói như vậy
Mặc cho mọi khổ não
Dù phải đến chỗ chết
Cầu đạo tuệ sáng suốt
Dù gặp nhiều hoạn nạn
Chịu khổ không buồn lo
Huống gì khổ thân người?
Bao nhiêu tai ách đó
Ta một tâm ngưỡng mộ
Chỉ muốn cầu nghe pháp
Được nghe pháp nhiều lần
Tùy thời mà suy xét
Bốn Thiền, bốn Đẳng tâm
Định Tam-muội Duyệt dự
Nương vào năm thần thông
Dần đầy đủ hạnh nghiệp
Nhờ thế được tự tại
Không sinh vào nơi cũ
An trụ trong phước đức
Tùy thuận vô số Phật
Luôn phụng hành cúng dường
Thọ trì các kinh điển
Hiểu rõ bỏ tà trụ
Phát khởi hạnh thanh tịnh
Ví như vàng không tạp
Được gọi là vàng ròng
Trụ công đức thanh tịnh
Được sinh trời Đao-lợi
Thực hành hạnh tôn quý
Xoay chuyển cõi ma thiên
Ma thiên có ngàn hội
Công đức có ngàn câu
Vì trụ ý không khác
Chỉ cầu công đức Phật
Phật tử đã trụ đây Ân cần và tinh tấn
Đạt Tam-muội thiền định
Trăm ngàn vô số ức
Gặp được các Đức Phật
Đầy đủ những tướng tốt
Lợi ích càng vi diệu
Công đức không thể lường
Đây là Trụ thứ ba
Thân an trụ, tự thuyết
Thương xót các thế gian
Bậc Bồ-tát vô thượng.
Khi ấy trời người nghe hạnh lớn
Trụ địa vi diệu và cao xa
Đại chúng nhờ ân vui khôn xiết
Đem các hoa trời cúng Như Lai
Ngồi nơi gốc cây trì y cụ
Ca ngợi xưng tụng kinh điển này
Ma nữ khả kính, đẹp hiền dịu
Trổi nhạc khen ngợi pháp nhiệm mầu
Chư Thiên Tự tại vui khôn tả
Dùng báu minh nguyệt để cúng dường
Nói: Chúng ta nhờ có Phật!
Phát sinh phước đức, vượt bờ kia
Pháp thắng tối thượng vì cớ gì
Chỉ khen hạnh Bồ-tát cao tột?
Nay ta được nghe Địa vi diệu
Trong trăm ngàn kiếp khó được nghe
Thương chư Thiên, tuyên thuyết giảng giải
Hạnh nguyện Phật tử phải thù thắng
Nghe lời êm dịu, chúng hội Thánh
Phụng hành tinh tấn không tâm khác
Như mặt trăng trừ tối
Đã được an ổn rồi
Đạt đến Trụ thứ tư
Diễn giảng kinh Tối thượng.

Phẩm 4: TRỤ HUY DIỆU

Bồ-tát Kim Cang Tạng lại nói:

Các Phật tử, hãy lắng nghe! Bồ-tát Đại sĩ đã thanh tịnh Trụ Địa thứ ba, liền tiến lên an trụ Địa thứ tư, vượt qua và thâm nhập vào Mười minh diệu. Mười pháp ấy là gì? 1. Đi trong cảnh giới chúng sinh. 2. Đi khắp pháp giới. 3. Quán khắp tam thiên đại thiên thế giới. 4. Quán cõi hư không là vô tận. 5. Tỉnh giác nguồn thần thức. 6. Sống trong cõi dục. 7. Qua lại trong cõi sắc. 8. Giáo hóa ở cõi vô sắc. 9. Tâm chí đặt ở đạo giải thoát tối thượng. 10. Tánh rộng rãi, tâm dịu dàng. Đó là mười việc của Bồ-tát Đại sĩ. Lại có mười pháp để thấy được ánh sáng pháp, từ Trụ thứ ba nhập vào Trụ thứ tư. Phật tử! Hạnh nghiệp của Bồ-tát thực hành ở Trụ thứ tư là Huy diệu. Đạt trụ này, sẽ bảo hộ được hạt giống Phật, nội pháp đầy đủ, giáo hóa bằng mười tuệ. Mười tuệ đó là gì? 1. Là tâm tánh hạnh đạt được không xoay chuyển. 2. Là tin sâu Tam bảo không ai hoại được, dù đi đến nơi nào cũng đạt đến chỗ rốt ráo. 3. Là siêng tu hạnh nghiệp thanh tịnh Huyền diệu. 4. Là tự nhiên liễu ngộ đạo hạnh cao quý. 5. Là phân biệt mọi việc thành bại của thế gian đều do duyên sinh. 6. Là hiểu rõ tất cả mọi sự thọ sinh đều theo tội phước mà thành. 7. Là diễn giải nguồn gốc sinh tử, Niết-bàn. 8. Là hiểu rõ cội rễ của cõi chúng sinh. 9. Là ý thông quá khứ, vị lai. 10. Là phân tích giảng thuyết hạnh không cùng tận, nhờ đó thành tựu hạt giống Như Lai. Đó là mười việc.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

-Phật tử hãy lắng nghe! Nếu có Bồ-tát trụ Địa thứ tư, tự quán sát trong thân để thực hành sự vắng lặng; tự chế ngự ý, không ôm giữ pháp thế tục. Lại quán sát kỹ cả trong ngoài, cũng không chỗ khởi lên, cũng không có chỗ để hoại; quán sự đau đớn bên trong, xét cả tâm pháp, cả gốc pháp, chỗ thực hành của pháp; quán xét cả pháp trong ngoài, mà thực hành sự vắng lặng; tự chế ngự ý, không nhớ pháp thế tục và các pháp ác, không để phát sinh những pháp ác chưa sinh, siêng năng nhiếp phục tâm, thành tựu các phương tiện, để dứt trừ hẳn pháp ác. Siêng năng, vui thích tìm ra những phương tiện để phát sinh những pháp thiện chưa sinh; luôn làm lành không để mất, làm cho phước đức ngày càng rộng lớn; siêng tu đạo địa, thực hành đầy đủ, nhiếp phục tâm không biết mệt mỏi, trừ hẳn uế trược; xem sự tu hành là hơn hết, định tâm bỏ tham, suy nghĩ và thực hành thần túc, thành tựu sự vắng lặng, tâm ý rốt ráo không dục vọng; cho đến khi Diệt tận vẫn luôn tu phước; siêng năng thiền định, dự trù đầy đủ cho hạnh nghiệp, cắt bỏ để tâm được định, được an trụ ở các hạnh, đoạn thức định, để thực hành thần túc, thành tựu sự vắng lặng, nên tâm ý rốt ráo không còn dục vọng; cho đến khi Diệt tận vẫn luôn tu phước. Niệm hành tín căn, tinh tấn cần cù, niệm căn, định căn và tuệ căn đều thành tựu tĩnh lặng, không còn các ham muốn, trừ hết các trần. Niệm hành khuyến đức, tín đức, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực, đều thành tựu tĩnh lặng, không muốn diệt tận. Niệm định, giác ý, khuyến khích đức, tu pháp giác ý, tinh tấn giác ý, hoan hỷ giác ý, vững tin giác ý, quán hộ giác ý, đều thành tựu tĩnh lặng, khiến cho vô dục, trừ hết các trần. Niệm hành khuyến đức, chánh kiến, chánh niệm, chánh ngôn, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh ý, chánh định, thành tựu tĩnh lặng, khiến cho vô dục, trừ hết các trần, quán sát khắp các đức, mắt thấy nơi ở của tất cả chúng sinh, vì họ mà giảng thuyết về bổn nguyện đời trước, có tâm thương yêu không cùng, phát tâm từ lớn, làm cho chúng sinh sớm đạt Nhất thiết trí, mau rốt ráo được sự thanh tịnh cõi Phật, đầy đủ Mười Lực, Bốn vô úy của chư Phật, đủ các tướng tốt, lời lẽ âm thanh của bậc Tối thượng, tất cả đều đầy đủ; cầu học pháp nhiệm mầu, như pháp môn giải thoát của Phật, mà thực hành phương tiện quyền xảo không cùng. Lại nữa, Phật tử hãy lắng nghe! Bồ-tát nếu trụ địa Huy diệu này, phải quán sát biết là do tập khí từ trước: Tham tự thân, dựa vào ngã sở mà chấp có con người; dựa vào hình dáng, thọ mạng, các ấm, các đại, sự tham sống trong cõi người, nổi chìm lên xuống, chọn lựa nghi ngờ, thật quá mệt nhọc; nương cây tài nghiệp cho là của ta, cho là thật có, thì nên đoạn trừ hết tất cả, những sự nương tựa đắm trước cũng đều dứt bỏ; phải suy nghĩ những việc như vậy là đáng chê bai. Phải chịu đựng khổ đau mà siêng tu lập chí, khéo điều khiển được trí tuệ, đi khắp mọi nơi, xem Đạo là quý báu, thực hành hoằng dương giáo pháp, làm cho tâm thấm nhuần sự mềm dịu, bao dung nhân từ, hòa nhã thương yêu, không chán ghét, để luôn cầu tâm tối thượng, mến thích tâm trí tuệ thù thắng, cùng bảo vệ giáo hóa nuôi lớn tâm chúng sinh, tôn kính thầy bạn để tùy thuận tâm ứng khí, nhiếp tâm phụng hành theo pháp đã nghe, đạt tuệ Huyền diệu, thích thú việc đã làm nhân từ hiền dịu, ở nơi an ổn, bình tĩnh hiền hòa, chí tánh ngay thật, thực hành không mong thọ nhận, không tự đại, không kiêu ngạo; thọ trì giáo pháp, đem mạng quy thuận không làm trái. Thực hành được những điều ấy thì sự tu hành, thọ trì tĩnh lặng là Đạo địa tối thắng, trụ pháp thanh tịnh, siêng năng suy xét, cùng chúng hội tu tập, sự tu hành tiến triển, không thoái lui; siêng năng không ngừng, không mỏi mệt, không lười biếng, không còn trong vòng luân hồi, việc thờ phụng, việc tu hành không lường, hành hạnh cao xa không lường, siêng năng tối thượng, không ai sánh bằng, tất cả là để bảo hộ chúng sinh, không dám hủy phạm.

Bồ-tát này tâm tánh thanh tịnh, chí khí hiền hòa, thành tựu được đức tin cho các cõi, nuôi lớn gốc công đức, trừ hẳn tham lam, ganh tị, kiêu mạn buông lung, bỏ nghi ngờ, thân cận nơi cao quý, được đầy đủ pháp môn giải thoát không chướng ngại, nhờ cùng chúng hội tu pháp môn không chán nản, lười biếng, sớm được gần gũi Như Lai, thuận tâm Phật, không so lường được. Bồ-tát trụ địa Huy diệu này, gặp được vô số trăm ngàn ức Phật, cúng dường thức ăn, y phục, thuốc men, giường chiếu, phụng trì pháp đã nói, tỏ bày sự thọ nhập hạnh tôn quý, đến chỗ chư Phật xuất gia tu đạo, hành hạnh Sa-môn, lợi ích tăng trưởng, siêng tu tập, tâm tánh nhân hòa, tin hiểu và thực hành thanh tịnh, trải qua vô số trăm ngàn ức kiếp, không bỏ phế đức hạnh, mà ngày càng làm cho tăng trưởng tốt tươi cao đẹp. Ví như thợ ngọc gia công làm ra các vật báu đẹp, như vòng xuyến, hoa trâm, vật trang sức bằng ngọc. Bồ-tát Đại sĩ cũng vậy, trụ ở địa Huy diệu, thì gốc của phước đức ngày càng tăng trưởng, hơn cả các Bồ-tát ở trong các trụ dưới. Phật tử, giống như ngọc Như ý rực sáng và trong suốt, ánh sáng của nó sẽ che lấp các thứ ánh sáng ở bên cạnh làm cho không hiện rõ; cũng vậy, Bồ-tát trụ địa ở địa Huy diệu thì không ai sánh bằng, công đức của Bồtát ở những trụ địa dưới không hiện ra được; ma chướng trần lao đều bị tiêu diệt hết. Này Phật tử! Bồ-tát Đại sĩ trụ ở địa Huy diệu thứ tư này, sống trong bình thản hòa nhã, nếu ở cõi trời sẽ làm Thiên vương, khai hóa chúng sinh, với những kẻ tham chấp thân, chỉ bày sự tạo nghiệp bố thí, trí tuệ, nhân ái, làm lợi ích cho mọi loài, cứu giúp hết thảy chúng sinh, luôn nghĩ đến chư Phật, không bao giờ quên bỏ, cho đến khi được đầy đủ đạo Nhất thiết trí, làm sao để thành bậc tối tôn trong chúng sinh, đầy đủ hết thảy sự không cùng của Thánh tuệ, để cứu độ, dẫn dắt, đem lợi ích cho chúng sinh, vừa phát tâm ân cần tinh tấn thì được liền trăm ngàn ức Tam-muội định, được trăm ngàn Bồ-tát làm quyến thuộc vây quanh, nhờ lực Bồ-tát nên đạt được sở nguyện, sở nguyện được thù thắng, nên biến hóa tự tại, thành tựu vô số oai thần công đức, trải qua trăm ngàn ức kiếp, cũng không thể tính được.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn phân biệt lại cho rõ chỗ quy hướng của thật nghĩa, nên nói kệ rằng:

Tu, đạt được ánh sáng
Đến trụ Địa thứ ba
Chúng sinh ở thế gian
Qua lại không tránh khỏi
Trụ Địa thứ ba này
Bình đẳng như hư không
Chí tánh tin sâu xa
Hạnh thanh tịnh không phạm
Vừa đạt đến Quang diệu
Trụ oai lực lớn lao
Nuôi lớn hạt giống Phật
Chí thành mà qua lại
Trụ Phật không nghi ngờ
Pháp, Thánh chúng, cũng vậy
Lập hạnh nguyện thanh bạch
Để thấy khắp các loài
An vui ở trong đời
Do quả báo từ trước
Mà rơi vào sinh tử
Cõi nước và chúng sinh
Dù pháp là vô thỉ
Dấy lên không cùng tận
Thực hành luôn cẩn thận
Quy y đấng Thế Tôn
Tích lũy pháp như vậy
Thương xót các chúng sinh
Tự thân tuân hạnh đạo
Tâm pháp trừ bệnh tật
Hạnh trong ngoài tương ưng
Suy nghĩ ý chân chánh
Siêng năng tu tập pháp
Trừ bỏ vật sở hữu
Dứt sạch các pháp ác
Nuôi lớn các pháp lành
Trừ hết mọi lỗi lầm
Tu hạnh nghiệp thứ tư
Thực hành bốn Thần túc
Năm căn và năm lực
Bảy giác ý vi diệu
Tám con đường chân chánh
Thương xót các chúng sinh
Muốn thân tộc tĩnh lặng
Thực hành thệ nguyện lớn
Đều vì hạnh từ bi
Chí nguyện Nhất thiết trí
Trang nghiêm các cõi Phật
Oai lực thù thắng nhất
Tâm suy xét kinh pháp
Dũng mãnh không lo sợ
Giáo hóa bằng Phật pháp
Tha thiết và cần cầu
Thích tiếng Phật vi diệu
Là đạo báu sâu xa
Là nơi đến giải thoát
Tích đức để suy xét
Phương tiện thiện xảo lớn
Đã bỏ thân tham chấp
Dứt sáu hai tà kiến
Lìa hẳn tâm nương nhờ
Và chẳng chấp có mạng
Không năm ấm, bốn đại
Các loại khác cũng thế
Đã trụ Địa thứ tư
Là trừ hết chướng ngại
Dứt bỏ hết cao ngạo
An trụ không kiêu căng
Không tham cầu khoái lạc
Nơi sinh ra tội khổ
Trừ sạch những nhơ uế
Tánh hạnh rất thanh tịnh
Siêng năng tu các đức
Tu thiện, không tham thân
Tâm tư luôn mềm dịu
Sở hạnh không buông thả
Tâm nhân hòa, ngay thật
Từ bi và hiền hòa
Mong cầu nghĩa tối thượng
Không bao giờ chán xa
Vui thích trí tuệ Thánh
Tu nghiệp vì chúng sinh
Cung kính bậc sư trưởng
Xa lìa cầu ái dục
Làm người sống lễ nghĩa
Không nịnh, thuận dạy thân
Không kiêu không đắm ái
Tâm tánh luôn vui vẻ
Siêng năng không đổi thay
Phụng sự bậc tối tôn
Đã an lập hạnh nguyện
Trụ vi diệu thứ ba
Nội tánh phải có thể
Trị tâm làm thanh tịnh
Ai thấy cũng tin vui
Tăng trưởng pháp thanh bạch
Bỏ nhơ uế ô trược
Và tất cả si mê
Bồ-tát trụ Địa này
Thù thắng không đắm trước
Nuôi dưỡng các chúng sinh
Trải qua vô số kiếp
Xuất gia làm Sa-môn
Chuyên cần nghe thọ pháp
Thành đạo không gì bằng
Vàng ròng thành anh lạc
An trụ trong thật nghĩa
Đức trí tánh thấm hòa
Khéo làm đủ trí tuệ
Tu hàng nghiệp thanh tịnh
Trải qua trăm ngàn kiếp
Chúng ma không quay lại
Phụng hành pháp vi diệu
Như làm bạn với ma
Đã an trụ thật nghĩa
Cúng dường bậc Tối thượng
Thành tựu đạo vắng lặng
Pháp cao cả rộng lớn
Thấy sáu hai tà kiến
Của tất cả chúng sinh
Nhờ phụng hành trí tuệ
Thù thắng và tối thượng
Siêng năng tu và học
Trăm ngàn bậc Trung Tôn
Gặp Phật không nghĩ khác
An hòa nghiệp rộng lớn
Mong đến nhà Thánh tuệ
Tôn quý hạnh huân công
Đó là Trụ thứ tư
Hạnh: Thanh tịnh vi diệu
Danh đức hợp nghĩa tuệ
An trụ đúng giáo pháp.

Bấy giờ, đại chúng nghe được trụ Địa thứ tư, vì là những người tối thắng, hiểu biết các pháp nên vui vẻ vô cùng, vui sướng trụ trong hư không, rải hoa trời cúng dường, khen ngợi:

-Lành thay! Phật tử, tuyên dương pháp rộng lớn, quỷ ma cũng suy tôn. Rồi cùng chư Thiên ở trong hư không, vui mừng cúng dường Đức Phật làm mưa hoa rải cúng các hoa đẹp mềm dịu, đem lại sự an trụ, các căn bình thản, dùng đàn sắt, đàn không hầu trổi nhạc rất hay; chư Thiên tập họp và mong muốn được phụng sự Thế Tôn. Thấy hình tượng tối thắng và sự tạo lập đạo tràng, tất cả đều cất tiếng nói như vầy:

-Nét mặt hoàn hảo, tánh hạnh cao cả, từ lâu hành đạo nay mới được như nguyện; đã lâu không gặp được bậc tôn quý của cõi trời người. Chư Thiên đến nơi thấy Đấng Năng Nhân trước mặt mà từ lâu chưa được thấy, làm kinh động cả biển lớn, đem ánh sáng lớn thanh tịnh chiếu thật xa, thật lâu, chúng sinh từ xưa đến nay mới được gặp để được an ổn. Từ xưa đến nay, hễ nghe được âm vang từ bi, ai nấy dù cách biệt xa xôi không đến được chỗ Thánh giả để được cứu độ và huân tập các công đức không cùng, nhưng cũng trừ bỏ được cống cao, đạt được sự vắng lặng tối thượng, biết tôn kính và cúng dường đại Sa-môn; thế gian cúng dường sẽ được lên đến cõi trời. Người được cúng dường thì an ổn vô hạn trong các nẻo, người cúng dường thì dứt hết các khổ não và đạt Thánh tuệ của Phật, coi sự hộ trì thanh tịnh như hư không, không chìm đắm trong thế gian, như hoa sen trong nước, vững chãi như núi Tu-di, tâm luôn vui vẻ phụng thờ bậc Tối thắng.

Nói xong, mọi người đều vui vẻ, hàng phục được vô số tà ma, vui mừng chiêm ngưỡng bậc đức độ như vậy. Lúc này, ai nấy đều lặng yên, như được ban thuyết tài báu lớn, như mặt trăng trừ tối, dũng mãnh không sợ, khen ngợi Trụ thứ tư, xin Bậc Tối Thắng giảng thuyết Trụ thứ năm.

QUYỂN 3

Phẩm 5: TRỤ NAN THẮNG

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Này các Phật tử! Bồ-tát Đại sĩ đã tu tập thành tựu Trụ thứ tư, đã ở Trụ thứ tư, tiến lên Trụ thứ năm, thì phải thực hành mười ý mới thông đạt được. Mười ý đó là gì? Nghĩ về pháp của chư Phật đời quá khứ, cũng nghĩ về pháp của chư Phật đời vị lai và tưởng nhớ pháp của chư Phật đời hiện tại; tu tập giới thanh tịnh; tâm sáng suốt, diệt trừ sáu mươi hai tà kiến; hiểu rõ việc cầu đạo; thực hành hạnh thanh tịnh; tu hạnh Thánh tuệ; phân biệt rõ sự vi diệu của pháp ba mươi bảy phẩm Bồ-đề thanh tịnh; đó là mười việc.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Lại có Bồ-tát Đại sĩ đã đạt Trụ thứ năm, sau mới thành tựu hạnh nghiệp tu thiện, thực hành ba mươi bảy phẩm pháp, tâm ý thanh tịnh, đạo nghiệp càng thù thắng, thệ nguyện rộng lớn. Nhờ nguyện lực mà gần gũi Như Lai, thương yêu chúng sinh, không bao giờ quên bỏ, tích lũy công đức, tu tập thánh tuệ, tinh tấn ân cần không biếng nhác, có phương tiện quyền xảo, học những gì chưa đạt được, luôn vui vẻ, trụ nơi sáng suốt, rất thích sự kiến lập thật nghĩa của Như Lai, đem tâm ý mình thâm nhập vào oai lực của Phật, tâm niệm chuyên nhất không thoái chuyển, xét đoán và hiểu rõ bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Tận, Đạo; để có thể thành tựu rốt ráo danh đức, phân biệt Thánh đế, thấu đạt nguồn gốc giới hạn, hiểu rõ các tướng. Thánh đế chánh chân thì không có phương tiện, phải tùy thuận mà tuyên thuyết. Hiểu đúng chánh chân, phân biệt đế, ấy là hành Thánh đế; phân biệt được việc đã được là đã Thọ Thánh đế. Lại còn phải thực hành, hiểu rõ mọi việc Thánh đế Chánh nghiệp, tiếp đến mới tuyên thuyết hành Đạo thánh đế, diễn giải thật nghĩa Tận vô sinh đế, hiểu rõ sự thâm nhập vào nghiệp Trí đạo đế, từ đó nhập được khắp các trụ của Bồ-tát, dần dần được thành tựu biện tài, đạt tuệ lớn của Như Lai, trừ bỏ kết sử phiền não; tuyên thuyết Thánh đế, giáo hóa chúng sinh, khiến cho mọi người đều được vui vẻ; hiểu biết đúng thời, thông đạt Thánh đế, có thể nhập đạo nghĩa của một nhân, rồi dần dần hiểu rõ và thông đạt nguồn gốc Thánh đế chân chánh; đã hiểu được tướng của mình thì hiểu rõ các tướng Thánh đế, đã biết được chỗ quay về của chí tánh thì thông đạt được năm ấm và các loại triền cái; đặc biệt là từ Thánh đế thọ sinh, vượt qua được những hoạn nạn từ phiền não của thân, để hiểu rõ Khổ thánh đế. Trải qua đủ các thứ phiền não trói chặt, sau cùng mới hiểu được nguồn gốc của Tập đế. Diệt trừ hẳn tất cả phiền não thiêu đốt, về sau mới hiểu được Tận đế. Ban đầu không có hai lời, diễn giảng phải đúng như nghĩa, sau hiểu được Thánh tuệ của đạo đế. Tất cả đều hiểu rõ, cho đến khi đạt được tuệ của Như Lai, về sau hiểu đúng Tập thánh đế. Tuệ lực sáng suốt, tin chắc không mất, sự hiểu biết thì bất tận, khiến các khổ không còn. Nhờ phân biệt lý đế, nên đủ phương tiện hàng phục nguồn gốc sinh tử, từ đó hiểu rõ tất cả sự thọ sinh, đều từ pháp này; hiểu rõ ngu si giả dối, đều là không chân chánh. Đã hiểu tận nguồn gốc thì càng thương chúng sinh, gần gũi kẻ đáng thương, còn ở đời thì phát tâm từ vô tận. Khi đã đạt được đạo tài tuệ lực này, thì bảo hộ chúng sinh, ưa thích trí tuệ của Phật, quán sát các nẻo sinh tử của chúng sinh: từ xưa đến nay đều bắt nguồn từ vô minh, từ trong ba cõi ân ái, từ sự trôi lăn trong dòng sinh tử, từ sự đắm trước do các phiền não che lấp, từ đó dần dần làm tăng thêm khổ ấm. Nếu hiểu rõ không có chúng sinh: không ngã, không nhân, không thọ mạng và xa lìa được nhân ngã, thì sẽ hiểu được việc của quá khứ; vị lai và hiện tại cũng thế. Chỉ vì nghiệp ham thích trống không ngu si mà đi mãi trong sinh tử không bờ mé, không dừng lại được, không ai cứu được, do vậy mà sự hiểu biết không có, thầy bạn cũng không. Dù có thầy bạn, cũng không thọ lãnh được lời dạy dỗ. Đó chính là kẻ phàm phu, ngu si, vô trí, bị vô số những phiền não che khuất và trói buộc, không sao nói hết. Chỉ khi tự diệt hết các ngã đến tận chỗ phải tận thì không còn thọ thân, cũng không còn nơi thọ sinh. Nếu không tin Phật đạo, thì càng thêm nhiều khổ não hoạn nạn, càng bị trôi nổi trong sinh tử, không bỏ được các phiền não, chẳng chán bốn đại, chẳng diệt cống cao, nhận chịu bao nhiêu là bệnh tà kiến, không phân biệt tham, sân, chẳng trừ được vô minh, ở sâu trong nhà ngu tối, không dứt hoạn nạn của ao ái dục, không cầu hạnh nghiệp mười Lực của Đạo sư, đi trên con đường của ma, mãi mãi chìm nổi trong biển sinh tử, không có tư tưởng tốt lành, mất đi sự tự tại. Khổ hoạn này, thật không sao nói hết, vĩnh viễn không ai cứu hộ, không nơi trở về, chẳng người giúp đỡ, không lợi ích, đơn độc không bè bạn. Hãy tu hành, tu các nghiệp lành, tích lũy công đức, đời đời tự khắc phục; nhờ đó tu tập được trí tuệ, hiểu được tất cả chúng sinh vốn rốt ráo và thanh tịnh, nên thành tựu mười Lực, thông hiểu tuệ vô vi, sáng suốt và cao cả. Đã hiểu được trí tuệ giải thoát, thành tựu được đạo nghiệp thì tích lũy được công đức, tu tập hạnh nghiệp đều vì cứu hộ chúng sinh, thương xót phàm phu, đem an ổn cho khắp chúng sinh, rũ lòng thương đến tất cả, mong độ thoát chúng sinh mà không có tâm gây hại, không phỉ báng, quyết hóa độ chúng sinh, làm cho ai nấy đều vui vẻ, làm thầy dắt dẫn chúng sinh để họ được diệt độ. Nhờ siêng năng tu tập, nên an trụ vào địa Nan thắng thứ năm. Từ đó đạt tự tại, tâm không quên sót, thông đạt nghiệp lành các cõi, ý chí kiên cường, khéo léo phân biệt trí tuệ, hiểu rõ thứ tự kinh điển, bàn luận các sách vở, ý luôn biết hổ thẹn, bảo vệ mình và người, ý chí dũng mãnh, giữ gìn giới cấm không phạm phải, ý luôn trong sáng để diễn giảng khắp nơi nơi, luôn thực hành chân chánh để thâm nhập khắp Thánh chúng, không tín ngưỡng đạo khác, đến gần với trí tuệ để thông đạt nghĩa lý; tùy thời mà thuyết giảng, được hạnh thần thông, dùng phương tiện cật vấn mà hiển bày giáo hóa, tu tập quyền biến, tùy phong tục mà dẫn dắt, tích lũy công đức, không cho là đủ, mong cầu đạo tuệ chưa từng lười bỏ, phụng hành tâm từ rộng lớn, tu tập lòng thương, tâm siêng năng cầu đạo nghiệp, không thoái lui ở chỗ nhàn hạ, tinh tấn ân cần, thực hành mười Lực và tuệ Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, luôn làm lành, suy xét, thâm nhập, để trang nghiêm cõi Phật, thực hành các hạnh, tích lũy tu tập những tướng tốt, siêng năng tu tập, chí cầu sự thanh tịnh trang nghiêm của Như Lai, thân, khẩu, ý hành đều tu tập nghiệp rộng lớn; tôn kính phụng hành giới pháp, tùy thuận các Bồ-tát, tôn trọng Pháp sư, không gây ách hại. Dùng phương tiện quyền biến của Bồ-tát mà đi lại trong thế gian; ngày đêm chuyên tâm trừ bỏ loạn niệm, luôn dùng đạo pháp giáo hóa chúng sinh, luôn tu hành như thế, dùng hạnh nghiệp bố thí, khuyên dạy chúng sinh, yêu kính lời nói lợi ích, đem lợi lớn, bình đẳng cứu giúp chúng sinh. Lại hiện ra các loại sắc thân hình thể để tuyên thuyết giáo pháp; từ đó thực hành nghiệp lớn của Như Lai Bồ-tát, khai hóa chúng sinh, thấy rõ sự nhơ uế của sinh tử, tán dương công huân Thánh tuệ của chư Phật; thực hành được như vậy là nhờ dùng đại thần túc cảm động biến hóa. Lại dùng lời nghị luận quyền biến dắt dẫn, giáo hóa chúng sinh; đã siêng năng giáo hóa như thế, thì thâm nhập vào trí tuệ của Phật, tánh luôn hành đạo, không bao giờ thoái chuyển; tu tập các công đức, cần cầu pháp thù thắng chân chánh, thương yêu chúng sinh, đi lại khắp nơi trong thế gian, trước tác và chú giải kinh điển, trao truyền cho đại chúng, cẩn thận giữ gìn sự giao phó, dùng như loại thuốc để chữa trị các chứng bệnh của thân tứ đại như lạnh nóng, gầy yếu, bị quỷ thần hại, bị trúng độc, bị bệnh cuồng loạn, hoặc các bệnh khác bức bách, tùy bệnh mà phối hợp các kỹ thuật để chữa trị, đi khắp nơi tuyên truyền, đem đến niềm vui cho mọi người. Quốc gia, xóm làng, quận huyện, sông hồ, ao suối, đều mọc những cây trái quý làm thuốc, hiện ra các vật báu: vàng bạc, ngọc Minh nguyệt, ngọc quý, thủy tinh, lưu ly và các loại báu Minh nguyệt; xóm làng, thành ấp, nhà cửa ruộng vườn, động đất, khi ngủ mê, nằm mộng quái lạ, đều nhập ở tất cả các hình tượng ấy, sự ứng hóa các tướng, đều được chữa trị hết; cẩn thận tuân hành nghiệp tài trở thành sự vật, thần thông thì vô sắc, không buông thả, thực hành bốn Đẳng tâm tạo ra sự chuyên cần tinh tấn để không gây nguy hại đến tâm thương xót đối với chúng sinh; nhờ tu tập, nên luôn được an ổn. Dùng hạnh này mà thương xót thế gian, dần dần tạo cho chúng sinh đứng vững trong chánh pháp của chư Phật. Bồ-tát ở địa Nan thắng, luôn cúng dường phụng sự vô số trăm ngàn ức Phật; dâng y phục, thức ăn, thuốc men, giường chiếu, ở chỗ các Như Lai; xả bỏ gia đình, xuất gia làm Sa-môn, theo chư Phật, nghe thọ kinh điển, trở thành Pháp sư. Lại tiếp tục nghe kỹ dần dần đạt pháp Tổng trì, ở trong vô số trăm ngàn ức kiếp, tu tập phát triển cội gốc công đức, đến chỗ rốt ráo thanh tịnh. Này Phật tử! ví như báu vật xa cừ để gần nhau thì càng thêm sáng tỏ. Bồ-tát cũng thế, trụ ở địa khai sĩ Nan Thắng này, dùng cội gốc đức ấy tu tập trí tuệ quyền biến, đạo nghĩa sẽ được cao cả. Lại thêm tu tạo công đức bằng pháp Đại thừa, mà không cần bè bạn. Phật tử! Ví như trong xóm làng, có ngọc dạ quang, soi sáng khắp ruộng vườn, nhờ gió thổi mây bay di chuyển nhẹ nhàng trong cung điện của chư Thiên; Bồ-tát cũng thế, đã trụ ở địa Nan thắng, thì dùng công đức, trí tuệ quyền biến, tâm hành thâm nhập được khắp nơi; luôn ở thế gian nhưng không ai làm cho loạn động. Đó là hạnh nghiệp của Bồ-tát Đại sĩ trụ ở Địa thứ năm. Bồ-tát trụ ở địa này, có thể làm nhiều điều an lạc, hoặc làm Thiên vương hàng phục các học thuyết tà vạy; có thể tạo lập cho mọi người yêu kính bố thí, đem lại nhiều lợi ích bình đẳng, biết tâm niệm của chúng sinh; tâm chưa từng rời xa việc tu hành pháp của chư Phật. Lại luôn nghĩ nhớ, suy xét tất cả trí nghiệp của các Thánh chúng, để tìm ra phương tiện cứu độ chúng sinh đạt cho được sự rộng lớn không cùng của nhà Đạo; vừa phát tâm tinh tấn, thì nhất thời đạt được ngàn ức vô số Tammuội không thể tính được, có vô số trăm ngàn, các Bồ-tát làm quyến thuộc vây quanh, luận thuyết kinh pháp và đều được độ thoát; lập nguyện lực, thành tựu sự biến hóa thù thắng của Bồ-tát, không thể tính lường được công đức ấy. Cho dù phải trải qua trăm ngàn ức kiếp, cũng không ai hiểu rõ sự huân tập công đức của Bồ-tát.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại sĩ Kim Cang Tạng, muốn nói lại cho rõ hạnh nghiệp của kinh điển này, nên nói kệ rằng:

Trụ Huy diệu thứ tư
Rất thanh tịnh như vậy
Tâm ý đã bình đẳng
Suy xét việc ba đời
Thực hành các giới cấm
Tu đạo đức thanh tịnh
Vừa xa lìa kết phược
Chuyển nhập Trụ thứ năm
Ý niệm về các căn
Nghe rồi không hồi chuyển
Nhờ có bốn định ý
Thích dắt dẫn sách, câu
Đã vượt qua năm Lực
Không có gì hoại được
Đầy đủ sức dũng mãnh
Được trụ Địa thứ năm
Mặc pháp phục hổ thẹn
Thanh tịnh hương cấm giới
Đeo vòng hoa giác ngộ
Huân tập bằng thiền định
Tuân phục nghiệp trí tuệ
Hành đạo tự nghiêm dung
Tổng trì là vườn tược
Hành định ý bình đẳng
Đi bằng bốn Thần túc
Ý tịnh là cửa ngỏ
Mắt từ bi thương yêu
Thấy Thánh tuệ thù thắng
Giữ gìn không ngã sở
Ý hàng phục trần lao
Liền nhập Trụ thứ năm
Trụ Sư tử cõi người
Nhập Trụ thứ năm này
Là đạo địa đặc biệt
Dùng đạo nghiệp thanh tịnh
Tu hành tiến dần lên
Nếu thanh tịnh chí tánh
Luôn cần cầu tối thắng
Thương chúng sinh hoạn nạn
Suy xét lìa ý niệm
Tích lũy các công đức
Trí tuệ cũng tôn trọng
Phát khởi vô số hạnh
Soi sáng hành đạo địa
Đứng vững nơi chư Phật
Niệm thánh ý, vô mạn
Tự nhiên liễu ngộ được
Không bỏ bốn Thánh đế
Thông suốt chân thật đế
Cùng nuôi dưỡng căn lành
Phân biệt được chân chánh
Dần vượt qua các Đế
Trừ diệt ý chấp trước
Thực hành các Đạo đế
Tâm bình đẳng sáng suốt
Dắt dẫn không chướng ngại
Dùng tâm chân vi diệu
Tu tập các Thánh đế
Tu trí tuệ giải thoát
Không phiền não ngăn che
Đã tu các công đức
Hành trí tuệ sâu xa
Vượt qua các nhân duyên
Cứu tất cả chúng sinh
Luôn giữ ý chân thật
Thành tựu các Đế này
Tự thông hiểu nghĩa lý
Đạt bản tịnh không khó
Từ bi không chỗ đắc
Đó là mới an trụ
Nghĩ chúng sinh hoạn nạn
Cầu đạo tuệ thánh chúng
Quán sát các nguồn gốc
Đều từ đó sinh ra
Do vô minh ngu si
Nhốt trong giống ân ái
Chúng sinh tham giữ ấm
Nên thành thân khổ não!
Đã không còn ta, người
Xét chúng như cỏ cây
Từ trần lao mà có
Luôn qua lại các cõi
Như xe lăn không ngừng
Các khổ hoạn phiền não
Ôi thôi, quên hết rồi!
Chúng sinh thật đáng thương!
Bị ngu si thiêu đốt
Trôi mãi trong sinh tử
Năm ấm giống con bò
Bị các ghẻ tà kiến
Lửa thiêu đốt tâm kia
Chí khí luôn tối tăm
Rơi vào sông ái dục
Mới tìm cầu nẻo sáng
Ở tại sông đau khổ
Mới cầu bậc Đạo sư
Vì thấy khó như vậy
Nên tu, không buông lung
Các nghiệp đã tu hành
Đều dùng độ chúng sinh
Chí mạnh, tánh an ổn
Ở đâu cũng thế lực
Dũng mãnh, biết hổ thẹn
Hiểu rõ, thành trí tuệ
Chứa đức, không nhàm chán
Hạnh Thánh Tôn như vậy
Không bỏ mất pháp thiện
Ý chí rất mạnh mẽ
Là ruộng phước tối thắng
Giảng nói tưởng Giác ý
Hành hóa không biết đủ
Tinh tấn, thương chúng sinh
Muốn giáo hóa chúng sinh
Hiện thân làm thợ mộc
Hoặc họa sĩ, khắc ấn
Biết trị bệnh cho người
Ai bị quỷ quấy nhiễu
Đều chữa trị khỏi bệnh
Kiến lập yếu nghĩa Kinh
Được an lạc, Từ bi
Hợp lại rồi ban phát.
Giả sử có đùa giỡn
Sông suối hoặc vườn tược
Ao hồ, cây, hoa trái
Kiến lập vô số nghiệp
Vì an ổn chúng sinh
Hiện vô lượng sắc tượng
Vô số báu quý giá
Nhặt lấy làm động đất
Thấy ánh mặt trời, trăng
Đủ các tướng chúng sinh
Đi lại khắp mọi nơi
Vô sắc tài thù thắng
Thần thông không thể lường
Tu tập và thương xót
An ổn cho chúng sinh
Đó là nghiệp trí tuệ
Địa Nan thắng kỳ diệu
Cúng dường vô số Phật
Nghe thọ các kinh pháp
Tu tập tâm nhân từ
Hiển bày hạnh thanh bạch
Như xa cừ, vàng ròng
Mài dũa thành sáng đẹp
Xây nhà bằng báu vật
Đi lại trong cung điện
Như gió thổi phía trước
Không ai không ủng hộ
Thực hành pháp thế tục
Đều là vì chúng sinh
Giao du với bạn tốt
Như hoa sen trong nước
Ở nơi pháp thuật ấy
Xây dựng ngôi tôn quý
Từ bỏ các tà thuyết
Hiểu tu việc vui vẻ
Thực hành các đức lành
Đều từ tuệ thù thắng
Cứu giúp loài chúng sinh
Nhờ đó đạt mười Lực
Uy lực được tôn trọng
Tinh tấn là trên hết
Thấy vô số trăm ngàn
An trụ Thiện Trung Thiên
Đạt Tam-muội kỳ diệu
Quán sát vô số cõi
Vì hạnh nguyện sai khác
Vượt qua công huân này
Là trụ Địa thứ năm
Bao nhiêu pháp thuật ấy
Giáo hóa những tà thuật
Soi sáng rõ chúng sinh.

Khi nghe giảng thuyết về các hạnh của Bồ-tát, các Phật tử từ đất vọt lên, trụ trong hư không, vui vẻ rải hoa ngọc báu minh nguyệt, y phục bằng anh lạc, sáng suốt, thanh tịnh, cúng dường Phật, vui mừng khen ngợi: -Hay thay! Tất cả minh thần ở mọi nơi trong hư không và vô số trăm ngàn chúng đều vui vẻ, cúng dường đủ các loại báu đặc biệt tốt đẹp trong đời, các thứ hương hoa, hương xoa và các loại cờ, phướn lọng bằng lụa báu, quyến thuộc các ma, các con cõi trời Tự tại và các chư Thiên cũng đều đến, trụ ở trên cao, đi lại trong hư không, rải các hoa báu, tâm rất vui mừng được cúng dường đấng Tối Thắng, ghi nhớ vô số pháp và khen ngợi: “Hay thay!”, vô số trăm ngàn đệ tử thần túc của Phật đều tập họp, cùng trụ trong hư không, trổi các loại nhạc âm thanh rất hòa nhã, lại có các kỹ nữ ca hát. Tiếng vang của Phật nhân hòa, trừ hết trần lao ác độc, vắng lặng thanh tịnh, tiêu trừ các pháp tướng, giống hư hư không, không còn vọng niệm, đi lại thanh tịnh, thành tựu an trụ, không đắm thế tục, quyết không buông lung, gốc Không bình đẳng nhưng đều chân chánh, pháp không tưởng niệm. Ai hiểu rõ các pháp đều không thành không gốc, không còn nghiệp sở hữu, cũng không còn chỗ suy xét, phải thương xót chúng sinh, siêng năng tu tập mà cứu độ.

Phật tử, các Pháp vương tử, tu hạnh bố thí đều bỏ tướng chấp trước, giới đức bền vững, tâm tánh bình thản, vì chúng sinh mà nhẫn nhục, trao pháp tuệ vô tận và lực tinh tấn, làm cho các pháp vắng lặng nhập vào cửa Thiền định, trừ sạch các trần lao, quán sát vạn vật, tin hiểu chúng là trống không, thành tựu lực Thánh tuệ, bảo hộ tất cả. Người này đức hạnh cao cả, đã trừ sạch nhơ uế, tiếng tốt vang xa, âm thanh thuyết giảng tự nhiên, hòa nhã dịu dàng. Lúc bậc Thánh giả tối thắng im lặng, chư Thiên và ngọc nữ trong phút chốc đã trở về cõi trời. Bồ-tát Kim Cang Tạng vui mừng, chí khí dũng mãnh, sự hóa độ được viên mãn, để thành Trụ thứ năm, đạt đến chỗ rốt ráo không ai phế bỏ.

Phẩm 6: TRỤ MỤC KIẾN

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

-Các Phật tử hãy lắng nghe! Bồ-tát Đại sĩ đã tu tập thành tựu Trụ thứ năm, vượt lên nhập Trụ thứ sáu thì phải thực hành mười pháp. Mười pháp đó là gì? Biết các pháp đều không có tưởng, đều bình đẳng; các tướng bình thản không có hình loại; không nơi thọ sinh, siêu tuyệt không ai bằng, không nơi phát khởi nên nói là bình đẳng. Các pháp rất thanh tịnh, đều định chân chánh, đều không buông lung, không giong ruổi, không hợp thì chẳng ứng, không phải hai, không phải một, vắng lặng bình thản, không ai sánh bằng; giống như ảnh mộng huyễn, như tiếng vang trong núi, như trăng dưới nước, các hiện tượng đều như huyễn hóa; thực hành đạo nghiệp không có hai ý. Đó là mười pháp. Từ Địa thứ năm đạt Địa thứ sáu, thực hành những hạnh đó rồi, tự quán sát tất cả các pháp, suy lường xét nét thật kỹ để không lầm lẫn, đạt trụ tự nhiên Mục kiến thứ sáu. Vì thành tựu trụ này, nên đạt thông lợi pháp nhẫn Nhu thuận, không bị mê hoặc, nhưng chưa đạt tới chỗ pháp Vô sinh nhẫn, dần dần từng chút mới tự nhiên vào được khắp mọi nơi của tất cả các pháp, rồi tiến lên đến đại Từ là cao tột hơn hết; hiểu rõ đại Từ, đủ đại Bi, hiểu rõ năm nẻo, cõi đời, không tan, hợp. Quán sát được như vậy, gọi là Trụ thứ sáu. Lại biết được tập nghiệp ở thế tục đều dựa vào nhân ngã mà sinh ra. Vì biết việc dâm dục ở cõi đời là không thật có; kẻ ngu si chấp trước nhân ngã, kẻ vô trí nhân đó cũng thành ngu tối, ham thích nơi thọ sinh, tích tụ tạo nghiệp bất thiện, tâm chí luôn buông thả, đem lại bao nhiêu là tà hạnh, tội phước tăng giảm, vạn vật thì vô thường, từ đó sinh ra bao điều vô ích. Phải hiểu rõ hạnh này để khéo tự mình tu tập tâm, tiêu trừ các lậu, chí chân vốn không, đức lành sẽ từ đó phát ra: Phải qua lại, dạo khắp trong cõi báo ứng sinh tử, coi hành nghiệp là ruộng, thần thức là hạt giống, vô minh là gốc, còn nếu là ngu tối, thì coi ái là sự thấm nhuần, chí tánh thì cống cao tự đại, nuôi lớn tà kiến và lưới kết sử, đó là nguyên nhân tự sinh danh sắc. Danh sắc lớn dần thành các căn. Các căn đã thành, thì phát sinh hàng ngàn các loại phiền não; phiền não đã phát khởi, khiến bệnh tật xảy ra; từ bệnh tật đó mà có mừng vui, tức thọ lãnh lợi ích; do nhận những lợi ích mà thành hữu, niệm cũng từ đó mà thành; do niệm đã thành nên phát sinh năm ấm; hình thể của năm ấm, tiến đến năm loài, từng chút từng chút chìm đắm trong sinh; sự đắm trước sinh khi đã đầy đủ, thì phát sinh mọi khổ đau: Kêu gào, khóc than, âu lo, mọi phiền não thiêu đốt. Các nghiệp bất thiện, vốn không có hình tướng, không thể hiểu được, không thể phân biệt nhầm lẫn, tất cả đều tự nhiên. Vì ít huân tập những điều vô ích nên đạt được pháp này; có hiểu rõ nghĩa này thì không còn tham mến. Bồ-tát cũng vậy, thích Nhu thuận, quán sát mười hai duyên, tự suy xét kỹ gọi là chí thành, để hiểu được sự sinh này cuối cùng không có tuệ. Nghiệp vô minh vốn là thanh tịnh, thành tựu báo ứng, từ sự thực hành mà thành. Thần thức ở đời trước, bạn của thần thức là bốn ấm thọ. Từ đó có sự mê hoặc danh sắc, có lòng thương ở lục nhập, có cảnh giới cho các căn. Thần thức vừa hình thành là có các lậu làm bạn, thành các bệnh khổ. Ân ái càng nhiều thì thọ càng lớn. Vì giữ gìn cái đã nhận nên thành lậu nghiệp. Từ nghiệp tạo ra và làm lớn thân ấm. Từ sinh đến già suy, thân ấm sẽ hư hoại, đưa đến chết, đó là điều rất ngu tối, thật đáng kinh sợ! Từ những nguy hại này tạo thành lưới trói buộc, đến khi có lời lẽ thì sinh ra năm căn, khổ phát khởi từ ý căn, từ đó có ưu sầu, buồn khổ nhiều tạo thành thọ hữu; đó là nhân duyên nên sinh vào nơi khổ vậy. Phải tự suy xét hạnh nghiệp đã tạo ra, vì mọi tạo tác đều dựa vào đó. Vì biết tạo tác là phải có tác giả, nhưng xét sự tạo tác ấy lại không có tạo tác, từ đầu đến cuối không có tướng, cũng không nắm bắt được; lại suy xét đến ba cõi, cũng đều do tâm; xét chúng cũng từ mười hai nhân duyên sinh khởi. Như Lai chí chân đã thông hiểu chỗ quay về của năm nẻo, hết thảy chỉ một tâm, một loài, đồng thời thành tựu. Vì sao? Vì đều do các căn. Tâm sinh tham dục đều do thức. Sự ngu si sinh tử đều từ vô minh. Tâm là bạn của danh sắc tạo ra mê hoặc. Từ danh sắc có sáu nhập, rồi làm bạn với đau khổ. Từ đau khổ có yêu thích; vì không bỏ thọ nên ái, sinh ra các tai nạn; do các duyên hợp mà có sở hữu, từ chấp thủ mà có sinh, trói buộc nhau đưa đến già chết. Từ trong thần thức đã có hữu, đã phân biệt biết rõ danh sắc duyên nhau và danh sắc ấy đều có chỗ quy hướng. Sáu căn nhập sáu cảnh nên thấy được cảnh giới và có thể nhập vào chỗ lặng yên. Nhưng do duyên tích tập mà có ý niệm sinh ra thọ. Thọ tạo ra nghiệp thiện ác, tốt xấu. Theo duyên ân ái mà những việc tham dâm, vui khổ cảnh trần lao mới có. Cũng theo duyên ái mà bị trói buộc trong ngục. Rồi từ hữu đưa đến sự thọ sinh khác.

Hiện tại sinh ra cũng không biết từ đâu đến, chỉ biết sinh ra nhân duyên, từ sinh đã có năm ấm, rồi duyên cho đến già. Khi đã già suy thì các căn chín mùi nên có chết. Từ khi bắt đầu cho đến chết, có mười hai việc. Nơi bắt đầu phát sinh lại là thân năm ấm hư hoại, nhưng không đoạn được, chưa bao giờ chấm dứt. Từ vô minh có hành, danh sắc, sáu nhập, dần dần có ái, thọ, hữu, sinh, già, bệnh chết ưu bi khổ não. Vì duyên của vô minh không có đoạn dứt, nên không hiểu thấu đó là hữu dư; vô minh bị diệt trừ thì các hành cũng diệt. Vì có vô minh nên có hữu dư. Vì vô minh mà thọ nhiều ân ái, nên thêm nhiều trần lao, không bao giờ đoạn dứt. Đã tạo nghiệp phải thọ báo ứng. Báo ứng xoay chuyển qua lại, không thể nhổ được gốc, không trừ hết các tai ương, cho nên khổ đau khác sinh ra, không bao giờ ngừng nghỉ. Vì vô minh, nên bị trói buộc lưu chuyển trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Hãy đoạn trừ ba chuyển. Ba chuyển không có ngã. Phải đoạn bỏ nhân ngã thì vô minh mới diệt, nghiệp tự nó cũng không còn nơi chốn; ví như nhà cỏ, hoặc ở đó để được thanh tịnh, hoặc sẽ có phiền não đau khổ, vô minh là vậy, đều từ đó mà có hình. Xưa vốn không có đau khổ, chỉ vì duyên thức mà có thọ. Đó là nghiệp trong hiện tại. Từ ái mà có hữu đó mà nguồn gốc của thọ mạng trong vị lai. Từ đó ngược lên tất không còn chỗ thọ sinh do vô minh đưa đến. Vô minh diệt thì các hành diệt, gọi là đoạn dứt. Có ba khổ hoạn và mười hai báo ứng từ nhân duyên sinh. Từ vô minh đến lục nhập có thể diệt thì các hành đều diệt. Nhân đã không còn thì các hành cũng như vậy; ngoài hai việc trói buộc là khổ và thọ, còn có khổ khác như biệt ly. Vô minh diệt thì các hành diệt, ba khổ được đoạn trừ hẳn. Từ vô minh có hành, từ nhân duyên tạo tác mà có hành nghiệp, đó là hữu dư. Vô minh diệt thì các hành sẽ diệt, đó là hữu dư. Vì tất cả các hành đều là hữu dư nên có vô minh hành. Hãy dùng phương tiện quyền xảo mở dây trói lớn. Vì là hữu dư nên có luân chuyển. Hãy quán sát kỹ trở lại về sự diệt tận của mười hai duyên khởi. Từ hữu dần dần có chấp trước. Hãy bảo vệ thân, khẩu, ý. Nhờ đó tự tạo duyên, đạt cho được sự cúng dường, để không còn nghiệp sinh, không còn luân chuyển trong ba cõi, không quay lại để thọ lấy nghiệp cũ, không còn chịu ba khổ, tu hành theo sự báo ứng của các duyên khởi như vậy. Giả như có người mang vác nặng mà được bỏ xuống vậy. Sự quán sát là không cùng tận, còn vô sở hữu thì tận; sự quán sát đó là do duyên này; duyên vừa sinh khởi là biết sẽ có việc khác xảy ra, tất cả đều biết rõ. Vốn không nhân không ngã, không thọ mạng, tự nhiên, trống không, vắng lặng, điềm nhiên. Có tạo tác, phải có quả báo. Đạt pháp môn Không giải thoát, tâm tánh luôn nhớ pháp này; như vậy chỗ ở hiện tại sẽ chấm dứt, không còn hữu dư. Chuyên tâm suy xét pháp môn Vô tướng giải thoát, để biết cho rõ mà không còn ham thích; chỉ có tâm từ bi lớn mới truyền dạy giáo hóa cái gốc cũ của chúng sinh. Đó là tâm ôm giữ pháp môn Vô nguyện giải thoát; phải luôn phụng hành. Ba pháp môn giải thoát này, sẽ trừ được hành của ngã và thấy được tướng tạo tác, bỏ được sự đắm trước các tướng có, không, nuôi lớn thêm tâm từ về ba pháp môn ở trên, tinh tấn, giáo hóa phàm phu và những người chưa thành đạo, làm cho họ được thông đạt. Nhờ thành tựu liền đạt được pháp hội, chuyển thông pháp hội, không còn tới lui, đầy đủ sự hòa đồng, hòa hợp nhân ái, thành tựu bất thoái. Nhờ thấy như vậy, nên trừ được các bệnh này mà chúng tập họp lại sẽ đưa đến hoạn nạn, giống như nước sông, chảy mãi không ngừng. Tâm phải tự nghĩ không còn nghiệp nào khác là phải quyết tu tập vắng lặng để khai hóa chúng sinh. Là đệ tử Phật, nếu thực hành được như vậy thì dù ở trong vô số tai ương, độc ác của cõi đời vẫn tự tại mở lối đưa đường. Nếu quán sát nó vốn thanh tịnh, không khởi, không diệt, phải dắt dẫn để thực hành tâm từ, tùy thuận giáo hóa chúng sinh, hành trí Bala-mật rộng lớn, hoặc pháp môn Tuệ vô ngại, dần dần chí tu thành thục, học hỏi thông suốt, hợp với đạo sáng, thành tựu đại nghiệp chánh đạo, lợi ích đúng thời, sống đúng đạo nghĩa, không hợp cùng tà nghiệp. Nhân đó lại quán sát tịch diệt tự nhiên, cũng không trụ vào sự đầy đủ của đạo phẩm ấy, mà tìm cách gần để tự hiểu rõ trụ địa Mục kiến, khiến cho được nhập vào hư không, xét rõ được định ý. Định ý đó là nhập hư không tự nhiên, hư không định, cứu cánh không định, đệ nhất hư không định, là vô cực hư không định ý, là hội họp hư không định ý, là sự phụng hành hư không định ý, là chân vô niệm hư không định ý, là đẳng sát hư không định ý, là ly nghiệp vô vật hư không định ý. So sánh như thế liền đạt được vạn pháp môn Tammuội hiển hiện tự nhiên, vô tướng, vô nguyện cũng vậy. Lại chuyên cần tinh tấn tu tập, gần với các trụ của Bồ-tát, thì tâm sung mãn, tánh vững chắc, tâm ý rõ ràng, tánh hạnh chân chánh, tánh sâu xa, ý không lay chuyển, không ngừng nghỉ, rộng lớn, tâm tư vô hạn, ý ưa thích tuệ, tu tập kết hợp, trí tuệ quyền biến, đầy đủ tánh Bồ-tát, dần được thuần hòa, ở mãi trong đạo Như Lai, không còn thoái chuyển, giáo hóa tất cả tà thuyết học thuật, tùy thuận tuệ địa, không đọa trong địa đệ tử Duyên giác, tinh chuyên tăng trưởng, thấy Phật tuệ không gì sánh bằng, bỏ việc trần lao, đạt chí bền vững, trụ tuệ Bồ-tát, tu tập phụng hành thành thục không có tướng, vô nguyện, kế thừa giáo pháp, tùy thuận tuyên thuyết, đủ trí tuệ quyền biến, không hủy phá pháp hành đạo phẩm. Bồ-tát trụ địa Mục kiến thì càng tăng trưởng trí Ba-la-mật, lợi ích cũng khác nhiều; hiện tại thành tựu thông lợi ứng đạo, mau đạt được nhẫn thứ ba là Nhu thuận. Đó là tùy thuận mà chuyển đạo pháp. Bồ-tát trụ địa Mục kiến này, thấy vô số trăm ngàn chư Phật, tìm cách để cúng dường, đem tâm phụng sự y phục, thức ăn, thuốc men, giường chiếu, xuất gia làm Sa-môn, ở chỗ chư Phật để tu tập, nghe thọ kinh điển, nghe rồi dùng trí tuệ mà phụng hành, siêng tu thông đạt, cầu cho hiểu được nghĩa mà thực hành, dần dần tu tập được pháp tạng của Như Lai, đạt pháp minh lớn, trải qua vô số kiếp, thành tựu được cái gốc công đức hiển hiện sự toại nguyện. Phật tử! Ví như ngọc báu lưu ly, nếu tẩy rửa trong sạch thì phát ánh sáng rực rỡ. Cũng thế, Bồ-tát trụ ở địa Mục kiến này, phước đức ngày càng tăng trưởng, hiển lộ, thực hành quyền biến. Nhờ công đức đó làm căn bản, tăng dần đến chỗ vắng lặng nên đi lại không cần bạn đồng hành. Phật tử! Ví như ánh trăng sáng chiếu tâm chúng sinh, làm cho ai nấy đều bình thản; như cung điện một mình chế ngự bốn ngọn gió lớn, mà không càn gì cả! Cũng thế, Bồ-tát trụ địa Mục kiến, công đức ngày càng thêm lớn, soi rọi trừ sạch trần lao cho vô số chúng sinh, tẩy sạch tỳ vết của ái dục, thống lãnh bốn ma, đơn độc không bè bạn. Phật tử! Bồ-tát muốn tiến gần để đạt được trụ địa Mục kiến thứ sáu này, thì phải tập trung dẫn dắt, sự tu hành phải có khả năng biến hóa, hoặc làm Thiên vương, thấy rõ và hàng phục được bốn đại, một mình đi trong ba cõi, không bè bạn; Thanh văn, Duyên giác không dám cật vấn; luôn thực hành công đức bố thí ái kính, đem lợi ích bình đẳng giáo hóa chúng sinh, không bỏ Phật đạo, để luôn được đầy đủ; luôn nghĩ về Nhất thiết trí có phải là chí nguyện cao tột số một của chúng sinh, để có uy lực mạnh mẽ mà dắt dẫn khai hóa, thành tựu được trí rộng lớn ấy. Vừa phát tâm so sánh như vậy, siêng năng không ngừng; trong chốc lát đã đạt trăm ngàn các định Tam-muội, khai hóa vô số chúng Bồ-tát, thấy được nguyện lực của Bồ-tát quyến thuộc rất đặc biệt, rất cảm động, không sao tính đếm được; đã tu tập ở vô số ức kiếp, không sao ví dụ được.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại sĩ Kim Cang Tạng muốn diễn giải rõ chỗ quy hướng của thật nghĩa, nên nói kệ rằng:

Chính vì được đầy đủ
Đạo địa Trụ thứ năm
Pháp là điềm ứng tốt
Vô tướng không chỗ sinh
Thanh tịnh không phát khởi
Là vì không buông thả
Phụng hành ý Thánh tuệ
Liền nhập Trụ thứ sáu
Các pháp vốn vắng lặng
Tịch tĩnh không niệm tưởng
Tự nhiên như huyễn hóa
Giải thoát khỏi sinh tử
Đạt được nhẫn Nhu thuận
Pháp vốn không tán loạn
Trí tuệ càng thù thắng
Siêng tu sáu trụ địa
Thông đạt trụ Nhu thuận
Thâm nhập tuệ lực sáng
Quán sát tất cả cõi
Từ tập nhân có quả
Do ngu si mờ tối
Mà có vật, người, ta
Muốn độ thoát chúng sinh
Nên siêng năng tu tập
Từ nhân duyên giảng trạch
Gốc ngọn đều trống không
Hạnh nghiệp và báo ứng
Hòa hợp hay tranh loạn
Nếu đã có tạo tác
Thì phải chịu quả báo
Phân biệt gần gũi chúng
Như ong hút mật hoa
Giả sử dùng tuệ quán
Gốc ngọn là tối sáng
Tư tưởng duyên tội phước
Chịu quả vì ngu si
Do có tư tưởng này
Danh sắc đồng thời theo
Vì thế có hoạn nạn
Thành tựu khổ năm ấm
Do tâm ngã sở này
Rơi vào trong ba cõi
Lại nữa mười hai xứ
Đều từ một tâm sinh
Từ tham dâm mà có
Tâm cũng hành theo đó
Sự chấm dứt cũng vậy
Từ tâm lầm lẫn này
Vì vô minh ngu si
Tạo ra mười hai khổ
Chính vì thân ngu tối
Luôn tạo ra vọng tưởng
Cứ thế dần đi đến
Già, bệnh, thân hoại diệt
Tất cả các hoạn nạn
Dứt, khi vô minh dứt
Do duyên vô minh này
Nên không đoạn trừ hết
Tư tưởng nếu tiêu diệt
Nhân duyên sẽ đoạn trừ
Ân ái tạo ngu si
Làm nhân cho khổ não
Tai họa khổ đau này
Là cái hại chấp giữ
Từ ngu si đưa đến
Nên có khổ sinh tử
Do xúc nên sinh thọ
Từ khổ càng khổ thêm
Lại thọ bao nhiêu thân
Khổ đau càng thêm lớn
Đoạn trừ hết khổ não
Thì không còn nhân ngã
Vốn không có khổ đau
Cũng chẳng có vọng niệm
Chính vì thần thức này
Qua lại trong hiện tại
Ái hành ở vị lai
Nên thành tựu khổ não
Những gì cần tiêu diệt
Vì nhân duyên ngu si
Quán sát trừ đoạn hết
Thì sẽ được giác ngộ
Nhờ chán xa hoạn nạn
Diệt trừ các nhân duyên
Từ những nhân duyên này
Đoạn trừ các duyên sinh
Như quán kẻ nghèo hèn
Tự nhiên và trống không
Nhu hòa và ngu tối
Nương theo nghiệp ý ấy
Đến lúc trừ hết si
Mới đoạn được các duyên
Nhân duyên sâu xa đó
Biết chúng rỗng vô tướng
Quán sát có mười việc
Hiểu chúng không phân biệt
Suy tính đến các cõi
Tội phước ở vị lai
Ba loại tài nghiệp này
Từ xưa dần tăng trưởng
Phân tích ba khổ hành
Nơi sinh khởi, diệt tận
Trừ sạch không sở hữu
Nhu thuận hiểu nhân duyên
Nhân duyên sinh như vậy
Bình đẳng nhập thông đạt
Như huyễn hóa hiện khởi
Nghiệp ái dục như vậy
Như cảnh thấy trong mộng
Các hình ảnh cũng vậy
Kẻ ngu mê si dại
Tự nhiên như sóng nắng
Hiểu rõ hành như thế
Trí hiểu là trống không
Các duyên làm lo sợ
Biết nó tướng không bền
Nhờ hiểu được như thế
Nên không chí mong cầu
Chỉ một nguyện từ mẫn
Thương yêu các chúng sinh
Chí nguyện thật rộng lớn
Thực hành pháp giải thoát
Tâm lại càng thương yêu
Luôn nghĩ công đức Phật
Siêng tu lo chúng sinh
Quán sát nguồn gốc chúng
Tình cảm không hoạn nạn
Đủ vô lượng công huân
Hành đủ Không Tam-muội
Biết thấu trăm ngàn kiếp
Kẻ dũng mãnh như vậy
Bậc Nhu thuận pháp nhẫn
Trí tuệ hợp vô vi
Giải thoát là báu vật
Tánh rộng lớn như vậy
Cúng dường bậc Thánh giả
Vắng lặng trừ rối loạn
Mạng chí thuận tối thắng
Thành tựu rõ định ý
Lại càng thêm thanh tịnh
Như lưu ly vàng ròng
Mài dũa càng sáng rỡ
Soi chiếu tâm chúng sinh
Như mặt trăng sáng tỏ
Gió qua lại bốn xứ
Một mình không ai bằng
Vượt đường tắt ma nghiệp
Thù thắng sáng vi diệu
Tiêu diệt các trần lao
Đốt cháy những khổ não
Làm bậc thầy cao thượng
Tuyên thuyết trụ tuệ này
Giáo hóa lập ý đạo
Diệt trừ tâm phóng túng
Phụng trì trí tuệ thánh
Diễn giảng các kinh pháp
Kẻ dũng đã vượt khởi
Thanh văn không theo kịp
Vừa phát tâm tinh tấn
Đã được an trụ nghiệp
Đời trước đã đạt được
Trăm ngàn ức Tam-muội
Nháy mắt gặp vô số
Chư Phật trong mười phương
Đức soi sáng thế gian
Như trăng rằm mùa thu
Xinh đẹp rất sáng tỏ
Thanh văn chẳng theo kịp
Dũng mãnh tự diễn giảng
Trụ Địa thứ sáu này.

Lúc ấy, chư Thiên nghe pháp, tâm bình thản, trụ trong hư không, rải đủ các loại hương hoa trân bảo, khen ngợi tán thán, dùng đủ lời vi diệu nhu hòa, thanh tịnh, đầy đủ công đức đáng kính, khen: “Lành thay!” Tư duy về lợi ích tối thượng, tích lũy công đức, đạt tuệ tự tại, hạnh thù thắng cao vời vợi giống như hoa sen, vì thương yêu chúng sinh mà thọ hạnh nghiệp siêu tuyệt, không thể so lường. Chư Thiên hiện thần, trụ trong hư không, làm mưa hoa rải đủ các loại hoa thơm, tiêu trừ trần cấu, ưu sầu, thô tế; nói lời hay lạ âm vang bay xa, làm thông đạt lợi ích thứ nhất của sự thanh tịnh tối thượng: “Chúng ta đã nghe đạo địa thông suốt”. Rồi họ lại trổi nhạc hay, các ngọc nữ của cõi trời tâm vui mừng khôn tả; ở trước chư Thiên, phụng thánh chỉ của Phật, mở hết các cửa, trừ sạch tối tăm, tâm sáng như mặt trời, phụng hành pháp tối tôn. Lúc ấy, ở thế giới này có vô số phàm phu và Thánh hiền, đều vượt khỏi cõi thế, hiển thị phong thái vi diệu nhất, từ xa thấy được thân yên lặng điềm đạm mà hiện hình giống thân nhưng không phải thân. Đang tư quy về với chánh pháp, tiêu diệt những điều đã định, khiến không còn vọng tưởng; tiếng hay, mắt sáng, vượt vô số cõi Phật, cúng dường chư Phật, phụng sự các Đạo sư, tự quán sát thân mình, nghĩ nhớ tối thắng, bỏ ô uế, đạt tuệ tự tại, khai hóa chúng sinh, không còn tưởng nhân ngã, phụng hành tinh tấn, hợp với hạnh nghiệp. Các chư Thiên ngọc nữ đều thích thật nghĩa của vắng lặng; quán sát Đấng Nhân Trung Tôn, ai nấy đều vui mừng, thưa với Thế Tôn, nhờ cúng dường Phật để thăng đạt được tự tại, xin giảng thuyết, đặc biệt giải nói chánh pháp, công huân thù thắng sẽ như biển để mong được hiển bày ở trụ thứ bảy.

QUYỂN 4

Phẩm 7: TRỤ HUYỀN DIỆU

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Các Phật tử! Bồ-tát Đại sĩ an trụ Địa đạo thứ sáu; nhập Địa thứ bảy, thực hành trí quyền biến thiện xảo phải có mười việc để tu đạo Huyền diệu. Mười việc đó là gì? Đó là thực hành không, vô tướng, Vô nguyện, tuân phụng chân đế, thành tựu nhẫn lực, từ bi thương xót chúng sinh; phụng hành Phật pháp, thích cúng dường Như Lai, tin sâu không trái nghịch, tâm giữ đạo tuệ, tùy thuận nghĩa không; tích lũy công huân, phước đức không cùng tận; tin hiểu ba cõi trống không, ở trong ba đời giáo hóa chúng sinh, trừ sạch ô uế, bình thản, dập tắt ngọn lửa trần lao hừng hực, trừ hết tham, sân, si của chúng sinh; hiểu mọi sở hữu như huyễn hóa, như ảnh, mộng, bóng, tiếng vang, như sóng nắng, như trăng dưới nước, mà không có hai, các việc tội phước không bao giờ cũ kỹ, thối nát; nghĩ đất nước như hư không, dắt dẫn chúng sinh trang nghiêm cõi nước; Pháp thân thanh tịnh, giữ thật nghĩa, thâm nhập danh hiệu của tất cả Đức Phật, đầy đủ sắc thân trang nghiêm bằng các tướng tốt, không đắm trước, xa lìa những ảnh hưởng của âm thanh, tin lời Như Lai vốn vắng lặng thanh tịnh, hiểu tiếng nói của chúng sinh, dắt dẫn lợi ích trang nghiêm, trong khoảnh khắc hiểu rõ ba đời, thâm nhập hạnh nghiệp của chư Phật Thế Tôn, lại có thể phân biệt, biết các kiếp số, phân tích lý tánh hạnh nghiệp của chúng sinh, đó là mười việc. Tu tập đạo đặc biệt thù thắng, để từ Địa thứ sáu lên đến Địa Huyền diệu thứ bảy, Bồ-tát Đại sĩ này phải tu phương tiện thiện xảo trí Ba-la-mật rộng lớn thì nhờ đó mới nhập được Địa đạo thứ bảy. Người trụ Địa thứ bảy, giáo hóa vô số các loài chúng sinh, dùng pháp vô hạn lượng của chư Phật, giảng dạy vô số chúng sinh khổ não; thâm nhập cảnh giới không thể tính kể của chư Phật, làm trang nghiêm thanh tịnh vô số cõi Phật; thâm nhập vào những lời dạy ở kinh tạng không thể nghĩ bàn; nhập Thánh tuệ nghiệp đạo chánh giác không thể so lường của chư Phật; nhập vô số kiếp, vô số hạnh ở quá khứ, hiện tại, vị lai của chư Phật mà không thể so lường được; khuyến hóa vô lượng các loài chúng sinh, làm cho họ đạt tín hạnh sâu xa; nhập vô số sắc thân của chư Phật với sự thị hiện bao nhiêu là hình loại; hiểu căn tánh của vô số chúng sinh; nhập hết thảy âm thanh giảng thuyết vui vẻ của chư Phật mà không thể so lường được; nhập vô số những tâm hành, những suy nghĩ của chúng sinh; nhập vào nhà đại tuệ chánh trí của chư Phật và Thánh giả; nhập hạnh tùy thời, giáo hóa chúng Thanh văn tin pháp của chư Phật; thích những điều tốt đẹp mà chư Phật tuyên thuyết, nhập vào giáo pháp dắt dẫn tu tập để giáo hóa vô số Duyên giác làm cho họ thành tựu; nhập pháp môn Thánh tuệ sâu xa mà chư Phật giảng thuyết; nhập vô số hạnh của Bồ-tát; giảng thuyết vô số đạo nghiệp Đại thừa của chư Phật. Đó gọi là trụ địa Huyền diệu bình đẳng chánh giác, không thể xưng kể, mà chư Phật gọi hạnh nghiệp đó thù thắng không thể nêu ra, không thể hạn lượng. Cứ thế trải qua vô số ức trăm ngàn kiếp, có thể tích lũy Phật pháp được như vậy, thì chúng ta tự coi mình kiến lập được đạo này. Không tham tài nghiệp, không tưởng chẳng tưởng, đầy đủ các hạnh. Quán sát kỹ như thế, duyên tuệ thần thông, tu hành tinh tấn, nhập được đạo hạnh, trí tuệ khéo quyền biến khéo trụ nơi Thánh đạo, hạnh nghiệp vững chắc không lúc nào an nhàn, luôn phụng hành đạo giáo, chưa từng lười bỏ, luôn được toại ý, hạnh nghiệp cao tột, ngồi đứng, nằm ngủ, đi lại, nói năng, mặc nhiên không chướng ngại, luôn hợp oai nghi, không quên sót, không bỏ đạo hạnh; vừa phát tâm chỉ trong một niệm đã đầy đủ mười Ba-la-mật của Bồ-tát, tích lũy những công đức đã huân tập. Vì sao? Vì Bồ-tát Đại sĩ phụng sự tu hành đều từ sự phát tâm. Khởi lên tâm từ lớn, làm vị đứng đầu, hợp tụ Phật pháp, khuyến hóa bằng tuệ Như Lai, dùng cái gốc của phước đức ban bố cho chúng sinh, đưa họ đến với đạo; đó là Thí ba-la-mật rộng lớn.

Đốt sạch trần lao là Giới ba-la-mật. Dùng trí tuệ thương yêu vô tận, biết nguồn gốc của chúng sinh, là Nhẫn ba-la-mật. Siêng năng thực hành căn bản công đức, luôn nghĩ nhớ đến việc cứu độ hết thảy chúng sinh, dùng phương tiện để thực hành, đó là Tinh tấn ba-la-mật rộng lớn. Không bỏ đạo, luôn hướng đến Nhất thiết trí, đó là Thiền định Ba-lamật. Hiểu rõ căn bản các hạnh nghiệp là thanh tịnh tự nhiên, không từ đâu sinh để đạt Pháp nhẫn, đó là Trí ba-la-mật. Dắt dẫn làm lợi ích bằng vô số Thánh tuệ, đem lợi cho mười phương, đó là Phương tiện ba-la-mật. Tu hành diệu trí cao thượng, tuyên thuyết đạo nghiệp, đó là Nguyện bala-mật. Trừ diệt tất cả học thuyết ngoại đạo, điều phục chúng ma, đó là Lực ba-la-mật. Thẩm xét kỹ lưỡng, vượt qua tất cả các pháp, bỏ việc phi nghĩa, đó là Tuệ Ba-la-mật. Vì đầy đủ mười pháp Ba-lamật này, nên có thể tuyên thuyết hết hạnh nghiệp bốn ân, sung mãn pháp ba mươi bảy phẩm đạo Bồđề, đạt ba cửa giải thoát, tâm luôn bình đẳng, chỉ trong khoảnh khắc của một niệm, dần dần được đầy đủ sự thành lập như vậy.

Lúc ấy, Bồ-tát tên là Giải Thoát Nguyệt Trí Cứu Sướng hỏi Bồ-tát Đại sĩ Kim Cang Tạng:

–Hạnh nghiệp đó của Bồ-tát là gì? Những ai đã đủ đạo Địa thứ bảy, muốn thành tựu tất cả đạo hạnh của Bồ-tát thì phải tinh tấn học đến mười trụ sao?

Đáp:

–Này Phật tử! Tất cả các Bồ-tát, Bồ-tát nào hành đạo, đều phải đủ mười đạo địa, mới được cứu thoát, huống gì Bồ-tát chỉ trụ Địa thứ bảy! Vì sao? Này Phật tử! Bồ-tát đã đầy đủ đạo địa, sẽ nhập tuệ thần thông, sẽ đủ các đạo phẩm, lại thành tựu hết thảy mười trụ. Mà đã đủ mười trụ thì sẽ được giải thoát lực. Chỉ một lần phát tâm là đã đủ bảy địa này. Vì sao? Vì Phật tử! Bồ-tát trụ nơi đạo này đã đầy đủ các hạnh trí tuệ thần thông. Phật tử! Lại có người, từ lúc phát tâm đến trụ Địa thứ nhất, phát vô số lời nguyện, dần dần đạt được đầy đủ đạo phẩm, tâm thích Địa thứ hai; rồi đến hạnh nghiệp rộng lớn ở Địa thứ ba; tùy thuận hạnh nghiệp đạt Địa Quang diệu thứ tư; địa Ánh sáng thứ năm là tùy hành thế tục; nhập pháp thâm diệu của Địa thứ sáu, giáo hóa bằng Phật pháp. Vì sap? Vì Bồ-tát thành tựu trụ thứ bảy, liền nhập được tuệ thần thông ở Địa thứ tám, đầy đủ thông suốt địa Vô gia nghiệp. Phật tử! Ví như có hai thế giới: Một là nhơ uế, hai là trong sạch; ranh giới vốn bình đẳng đều thanh tịnh như nhau, đường đi bình đẳng như nhau; song giữa hai cõi không thể qua lại được. Nếu dùng thần thông lớn, chí lực nguyện lực, thì mới qua được. Này Phật tử! Ở đây cũng thế, Bồ-tát nên dùng hạnh khai sĩ thanh tịnh, siêng năng thì mới thông suốt được, không thể xem thường. Chỉ có mười Lực thần thông trí tuệ hoằng thệ quyền biến rộng lớn, mới cụ bị đầy đủ được.

Lại hỏi: Vì sao trụ ở Địa thứ bảy, lại thích gần gũi hạnh thế tục? Làm sao quán được hạnh nghiệp của Bồ-tát?

Đáp: Phật tử! Từ lúc mới phát tâm trụ địa Bồtát, cho đến mười trụ; thì đã tiêu trừ hết thảy các nghiệp họa phước trần lao, phải khuyến trợ nguồn đạo, nên phải quán sát. Phật tử! Ví như cùng một đạo, hiểu biết có thể khác nhau, mà thật nghĩa thì không trái ngược, nên gọi là Địa thứ bảy. Lại nữa Phật tử! Như Chuyển luân thánh vương cỡi voi báu lớn, đi khắp bốn cõi, biết rõ việc đúng sai, cùng ở trong các hoạn nạn, khổ não, nghèo túng, sống lẫn lộn trong chốn trần lao; nhưng không bị ô nhiễm, cũng chẳng thể phạm tội; thành người có oai đức, bỏ dòng dõi ở cõi người, sẽ được sinh lên cõi Phạm Thiên; lên được cung điện của Phạm Thiên, nhìn thấy khắp cả ngàn cõi; ở khắp cõi Phạm thiên ánh sáng hiển hiện rực rỡ, không nhập vào cõi người nữa. Phật tử! Ở đây cũng thế, Bồ-tát từ lúc phát tâm, trụ địa Bồ-tát, hành Ba-la-mật rộng lớn, biết rõ hạnh nghiệp của chúng sinh, nhưng không bị trần lao đó làm cho ô nhiễm; lên nhà hành đạo, không làm gì sai phạm, nên gọi là Địa thứ bảy. Giả sử có thể bỏ tất cả hạnh, từ Địa thứ bảy đến trụ Địa thứ tám, cũng phải đi xe Bồ-tát thực hành thanh tịnh, mới hiểu rõ tất cả hạnh nghiệp của chúng sinh; không đắm trần lao, không nhiễm ô uế, không hề sai phạm, vượt qua được hết, để nhập pháp Huyền diệu. Vì thế, này Phật tử! Bồ-tát đã đạt Địa thứ bảy, nếu có ở trong chỗ dâm dục cũng không dâm dục; ngược lại trụ ở trong chỗ dục ấy mà hành pháp thanh tịnh, thì không thể nói đó là có trần lao, hay không có trần lao! Tuy tu tập ở trong dục, nhưng không còn trần lao, chỉ nguyện đạt trí tuệ của Như Lai. Nếu chưa đủ sở nguyện, thì không thể nói là lìa trần lao. Đã trụ địa này, thì trí tánh thanh tịnh, thân hành trong sạch rốt ráo, thanh khiết; lời nói, ý nghĩ, hành động trước sau đều thanh tịnh, luôn nghĩ đến việc độ thoát chúng sinh, những kẻ bày mưu phỉ báng Như Lai trí nhân, có hành tướng hay không hành tướng, đều bình đẳng dùng lời giáo hóa giác ngộ họ, khiến cho tất cả đều thuận tùng, không ai chống trái, không còn ham thích kỹ thuật của thế tục. Giống như Bồ-tát trụ Địa thứ năm; không thích thế gian, luôn làm thầy bạn, đem đến nhiều niềm vui, không thích những thứ khác, chỉ thích pháp chí nhân, trụ trong tam thiên đại thiên thế giới của Như Lai Chí Nhân Chánh Đẳng Chánh Giác, rồi đạt đạo hạnh của Bồ-tát ở trụ thứ tám, không ai sánh bằng. Thực hành trí tánh, luôn giữ nhân hòa, thường tinh tấn giúp ý thiền định, chuyên tu ba môn giải thoát thần thông, chuyên cần phụng hành đạo pháp, không mong cầu điều kỳ lạ, hướng tới sự thành tựu Địa thứ tám của Bồ-tát. Đã trụ địa này, thì tất cả tâm ý sinh ra phải được hướng dẫn từ quyền xảo của trí tuệ, để cho việc tu hành đạo phẩm được trọn vẹn. Vì đạt đủ đạo nghiệp của bảy trụ địa, nên thành tựu Tammuội chánh thọ khéo chọn lựa của Bồ-tát; kế đến là định thiện niệm nghĩa, định Ý thắng, định Phân biệt nghĩa, định Thẩm tuyên pháp, định Thiện trụ bản, định Tuệ thông môn, định Tu pháp giới, định Nhược can nghĩa tạng và định Sinh tử vô. Bồ-tát đạt Tam-muội chánh thọ là đã có đầy đủ trăm vạn định ý, đạo địa thanh tịnh. Nhờ chánh thọ và định ý mà đạt được tuệ quyền biến thanh tịnh, lại nhập vào sức từ bi rộng lớn, vượt địa Thanh văn, Duyên giác, gần môn trí tuệ hạnh. Vì trụ địa này, nên tùy thuận được vô số hạnh nghiệp của thân, nói làm tương hợp, lời nói tâm niệm cũng không thể hạn lượng, biết đúng thanh tịnh, sáng rỡ cao vời, vô sinh pháp nhẫn từ đó có được.

Lại hỏi:

–Từ lúc mới phát tâm đạt được Địa thứ nhất, thân, khẩu, ý không vượt địa Thanh văn, Duyên giác sao?

Đáp:

–Vì tâm siêng tu tập rộng lớn, nên đến Trụ thứ bảy, mới có thể thành tựu hạnh tự tại mà không ai sánh bằng. Ví như có người sinh vào nhà vua, làm vương tử, có đức hạnh thù thắng, lại được các đại thần phụng kính, bản thân không có những hành động phóng túng. Khi lớn lên nhờ có thân lực hơn các quan thần để có thể nghĩ đến ngôi vua. Bồ-tát cũng thế, từ khi mới phát tâm thì đã vượt hơn địa Thanh văn, Duyên giác, tâm tánh nhu hòa, rộng lớn không cùng, đó là Bồ-tát trụ Địa thứ bảy, đã đạt tuệ tự tại; Bồ-tát nhập bảy trụ địa, thật là sâu xa cũng thật là vắng lặng, đạt đến vô hành, thân, khẩu, ý cũng đạt được nghiệp đạo, không còn tiến lên để mong cầu thật nghĩa, không mong cầu, không xả bỏ. Những gì là mong cầu xả bỏ? Đó là Đại đạo.

Lại hỏi:

–Vì sao gọi là Bồ-tát trụ Đạo địa? Là Bồ-tát tịch diệt thành tựu hạnh chánh chân?

Đáp:

–Đã đạt Trụ thứ sáu, thực hành pháp này thì đạt trụ Địa thứ bảy của Bồ-tát. Cùng lúc phát sinh thì tâm có vô số những suy nghĩ về sự đạt được tịch diệt, sự thành tựu chánh hạnh; không cho là chứng đối với sự diệt tận, vì vậy nên hạnh nghiệp thân, khẩu, ý không sao nghĩ bàn được, chỉ tùy vào việc làm mà gọi như vậy. Nếu có Bồ-tát đi qua các cõi mà không chấp sự chứng. Này Phật tử! Giống như có người đi thuyền lớn vào trong biển lớn, thuyền trưởng có phương tiện, biết chỗ thích nghi của dòng nước, nên vào biển nhưng không gặp tai nạn. Bồ-tát cũng thế, lập hạnh đạt được Trụ thứ bảy, đi con thuyền đạo pháp rộng lớn để cứu độ, dạo qua các cõi, nhưng không chấp sự chứng. Nhờ đạt uy lực Thánh tuệ như vậy, nương sức Tam-muội, thành tựu các hạnh, giác ngộ ý đạo, dùng sức trí tuệ quyền biến rộng lớn, hiện cửa sinh tử, đi đến diệt độ, tâm tánh tự tại, đã hiện thân cùng quyến thuộc, qua lại xoay vần ở trong nơi ngu muội ồn ào, nhưng lại luôn chuyên cần tinh tấn, nên đạt đến chỗ vắng lặng. Vì bản nguyện, nên sinh trong ba cõi, nhưng không bị thế tục làm ô nhiễm; ra vào lui tới vắng lặng bình thản; dùng ánh sáng quyền xảo, rọi chiếu khắp nơi, đạt được Phật tuệ, bỏ địa Thanh văn, Duyên giác, đạt tạng giới của Phật, vượt qua bốn ma và cảnh giới ma hiện tại, đi lại trong loài ma, làm việc ma để hóa độ, ở ngay trong chín mươi sáu học thuyết, sáu mươi hai tà kiến, mà khai hóa ngoại đạo, để cho chúng bỏ tà thuyết, không trái Phật đạo. Tất cả các việc của thế gian trong hiện tại, đều dùng pháp lợi ích bình đẳng để độ thoát thế gian. Ở trong các cõi Thiên, Long, Quỷ thần, Kiềnđạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Mahầu-lặc, Nhân phi nhân, Thích, Phạm, Tứ Thiên vương… thì tùy theo tập tục của chúng mà trang nghiêm pháp phục thanh tịnh diệu hảo, tâm quyết không bỏ pháp lạc. Với trí tuệ như vậy sẽ thông suốt đầy đủ các đạo địa của Bồ-tát, trụ vào chỗ sâu xa của các pháp cao vời vợi, Huyền diệu khó đạt, lại cúng dường vô số ức triệu trăm ngàn Đức Phật bậc Thánh giả, dâng cúng các y phục, thức ăn, thuốc men, giường chiếu, cung phụng mọi thứ cần dùng, cúi đầu đảnh lễ các Đức Như Lai, nhận thọ trì giáo pháp của chư Phật, vượt pháp của chúng Thanh văn, Duyên giác, đơn độc không bạn, hỏi nói đúng thời.

Bồ-tát này lại nhiếp phục chúng sinh, bằng pháp nhẫn thanh tịnh, để dần dần được sáng tỏ; Bồtát này cũng trải qua vô số trăm ngàn kiếp khéo tu tập phước đức, càng ngày càng được nuôi lớn rất trong sạch. Phật tử! Ví như có hạt trân châu ở trong đống châu báu, nó sáng rực mà các báu vật khác không thể sánh bằng. Bồ-tát cũng thế, trụ nơi đạo nghiệp diệu pháp khó đạt này, dùng phước đức căn bản để thành tựu trí tuệ Ba-la-mật quyền biến rộng lớn, được hiển hiện sự thành tựu đạo Vô thượng; Thanh văn, Duyên giác không sánh kịp. Này Phật tử! Giống như ánh sáng của mặt trời, mặt trăng làm rực rỡ các cung điện, lầu đài, nó chiếu khắp mọi nơi và còn làm khô sạch những bùn nhơ trên mặt đất; không gì ngăn che được ánh sáng mặt trời, mặt trăng, không ai là không được lợi ích từ mặt trời, mặt trăng. Bồ-tát khai sĩ trụ nơi đạo nghiệp Huyền diệu khó đạt này cũng vậy, với công đức căn bản, chuyển đổi hết cho những ai không thể đạt được, tất cả Thanh văn, Duyên giác, đều được giáo hóa, khiến tâm cảm thấy hổ thẹn, ra sức trừ các trần lao, làm cho tâm tánh trong sạch. Này Phật tử! Đó là Bồ-tát Đại sĩ trụ nơi đạo thứ bảy Huyền diệu khó đạt.

Các Bồ-tát Đại sĩ, nếu thành tựu Trụ thứ bảy, thì được lợi ích tự tại; nếu làm thiên vương, thì tùy lúc mà trí tuệ được tạo lập và phát triển; thực hiện hạnh nghiệp tinh tấn; nếu thực hành bố thí, thì yêu kính nhân từ, khuyên răn điều lợi ích, bình đẳng nhân ái về lợi nghĩa; tâm thường nghĩ đến Phật, chưa từng quên bỏ, cho đến khi tuệ được mở ra, thông suốt, hiểu biết hết thảy. Lúc mới phát tâm, không nghĩ khi nào thành Phật, thành bậc Tối chánh giác, chỉ mong ở chỗ chúng sinh mà thành bậc Thánh tối cao, dần dần làm việc lợi ích cho chúng sinh đến chỗ Nhất thiết trí. Vừa mới phát tâm, so sánh như vậy, thì tinh tấn vượt cao hẳn lên, trong cùng một khoảnh khắc, đạt được trăm ngàn ức triệu Tam-muội Chánh thọ, đạt được trăm ngàn ức triệu Bồ-tát quyến thuộc vây quanh, dùng sức thệ nguyện phụng thờ các Bồ-tát, hiển hiện ra những thù thắng đặc biệt, những biến hóa thần thông ấy, không thể nào tính đếm được, dù có trải qua trăm ngàn ức triệu kiếp, việc tu hành thật nghĩa công đức cũng không thể đo lường giới hạn được. Bồ-tát Kim Cang Tạng thuyết xong pháp này, muốn làm cho rõ nghĩa, bèn nói kệ rằng:

Thánh tuệ của Huyền diệu
Tùy nghĩa trong từng câu
Tâm đạt Trụ thứ sáu
Thân thực hành kỹ lưỡng
Khuyên tu hành đạo giáo
Trí tuệ nên quyền xảo
Khéo đạt bậc Nhân Tôn
Ở đạo Địa thứ bảy
Không, Vô tướng, Vô nguyện
Chí hạnh biết thương yêu
Hoặc thực hành cúng dường
Đạo pháp của chư Phật
Hiểu biết được Thánh tuệ
Sức mong mỏi không chán
Nhập địa Đạo thứ bảy
Mà trụ trong ba cõi
Trong loạn lớn, vắng lặng
Tiêu diệt các mê lầm
Đốt sạch trần lao khổ
Như ảnh hình huyễn hóa
Như những việc trong mộng
Đã nhập Trụ thứ bảy
Hiện rõ nghiệp yêu thương
Nghiêm tịnh khắp cõi Phật
Tánh thế gian không tưởng
Có đủ tướng tối thắng
Xả bỏ pháp dao động
Để được diệu âm vang
Tư duy tuệ; vốn không
Tối thắng như đạo lợi
Nên tu hành pháp này
Đạt đến chỗ tỏ bày
Thông đạt địa thù thắng
Là niềm vui chúng sinh
Đã trụ ở Địa này
Chúng sinh hạnh không lường
Xét chọn pháp an trụ
Xem kỹ, không giới hạn
Nếu có vô số nước
Chúng sinh tưởng mỗi khác
Chí tánh lại tin sâu
Tâm hành theo như pháp
Nói giáo pháp ba thừa
Đạo lợi là vô lượng
Chúng ta phải tinh tấn
Đọc tụng giáo hóa chúng
Tâm tuệ đúng như vậy
Đạt đến đạo vi diệu
Oai nghi có bốn việc
Trí tuệ với quyền xảo
Tâm niệm thảy đều nhanh
Công lao đạt được đạo
Tất cả đồng đủ vậy
Hành mười Ba-la-mật
Tâm ý phải phát nguyện
Bố thí khuyên chúng sinh
Trì giới diệt trần lao
Luôn nghĩ đến nhẫn nhục
Tinh tấn siêng tu học
Hạnh nghiệp tăng trưởng nhanh
Đạo không thể lay động
Lập ý: Tuệ và đức
Nhẫn không từ đâu sinh
Bỏ nhơ, bậc Thánh tuệ
Nguyện, khuyến trợ quyền xảo
Quyết không còn nghi ngờ
Thế lực có đầy đủ
Làm Thánh minh cứu độ
Công đức đạo là vậy
Tùy lúc mà trao hết
Đầu tiên hành như vậy
Danh hiển sẽ đủ đầy
Phá bỏ nhơ trong tâm
Dứt hẳn nguồn tranh cãi
Hành bốn Vô lượng tâm
Tạo lập nghiệp thứ năm
Không khởi, không phân biệt
Thứ sáu đã trưởng thành
Thì đạt Trụ thứ bảy
Công huân đó đã thành
Hạnh nghiệp được dẫn dắt
Thệ nguyện không thể tính
Sử dụng sao cho đầy
Thọ nghiệp Thánh tuệ đó
Sẽ đạt Trụ thứ tám
Hết thảy đều trong sạch
Hạnh huyền diệu khó đạt
Tuệ: Dù vô tận số
Như vào nước thứ hai
Phải vượt chỗ trung gian
Tu hành pháp Thất trụ
Vô trước như đỉnh lửa
Nếu trụ ở nghĩa đạo
Dũng mãnh vượt qua hết
Được vào Trụ thứ tám
Là đạt địa Thánh tuệ
Vượt cảnh giới tâm niệm
Trụ ở Trí tuệ nghiệp
Thường quán nơi Phạm thiên
Không dựa người thế gian
Hạnh Thánh hiền như vậy
Không nhiễm, giống hoa sen
Trụ đó, bấy nhiêu phẩm
Vượt, độ các khổ đau
Không hành theo trần lao
Cũng không chỗ tận diệt
Đến khi trụ được đạo
Trần lao không làm nhơ
Tối thắng không nguồn gốc
Dùng trí tuệ diệt sạch
Những sản phẩm ở đời
Do thợ giỏi làm ra
Rõ đạt được hết thảy
Trụ Thế Tôn, giáo hóa
Một tâm vì thần thông
Ra sức nhận, thực hành
Những gì được chỉ dẫn
Tăng tiến định Tam-muội
Vượt khỏi chúng Thanh văn
Hạnh Duyên giác cũng vậy
Trụ nghiệp Thứ bảy này
Tu hạnh của Bồ-tát
Thực hành gốc tâm tánh
Thành tựu các Thánh tử
Như nuôi lớn sức đạo
Siêng năng tu hành đạo
Nhập vi diệu sâu xa
Tâm hướng về diệt tận
Cũng chẳng tạo thủ chứng
Ví như vào biển lớn
Đứng ở trước con thuyền
Nhìn thấy hết mặt nước
Không tăng cũng không giảm
Siêng năng thọ, thực hành
Trí quyền biến thù thắng
Tất cả loài chúng sinh
Không lường được tạng đức
Cúng dường vô số Phật
Càng thanh tịnh đạo nghiệp
Như tất cả anh lạc
Vô số châu báu quý
Hiền minh trụ hạnh này
Ánh sáng trí thù thắng
Làm khô dòng ái dục
Như mặt trời rực chiếu
Đã nhập Trụ địa này
Tự tại làm Thánh vương
Tu đạo nghĩa tối thắng
Tuyên thuyết quả báo tuệ
Trong một lúc phát tâm
Mạnh mẽ sức tinh tấn
Thấy vô số trăm ngàn
Na-do-tha Đức Phật
Khéo tu tập thân mình
Nhìn thấy khắp mười phương
Làm tăng thêm chí nguyện
Công huân thật khôn lường
Đó là Trụ thứ bảy
Nghiêm tịnh, tuệ quyền biến.

Nghe địa vị tôn quý, thần diệu, cao tột của Bồtát; vô số trời rồng, nhân dân đều vui vẻ, đem những vật như hoa hương, cờ phướn, tạp hương, trân bảo, y phục, các lọng quý không thể đếm hết để cúng dường; mưa đầy anh lạc. Chư Thiên ở trên, nói tiếng vi diệu, dịu êm hòa thành âm thanh mỹ miều ca tụng khen ngợi cúng dường Thế Tôn và các Phật tử; khen ngợi Đấng Năng Nhân, là Bậc Thánh Vô thượng; đã giúp thấy Đấng Tối Tôn Chí Thánh, thấy cảnh giới Phật, thương yêu chúng sinh, tiếng vang như mưa sấm, âm nhạc nổi lên với vô số âm thanh; có cõi nước, quốc vương cúng dường vô số trăm ngàn Đức Phật và cõi Phật; cõi đó không có người đồng hành. Sự giàu có, cao tột, sức oai thần đều có thể biến hóa, nhập vào trong một lỗ chân lông. Chư Phật tuyên thuyết pháp lìa cấu không cùng như diễn một sợi lông chẳng có gì khó. Đất nước, xứ sở, bốn thành, bao nhiêu chủng loại, sông suối biển lớn, ngàn ức núi Thiết vi và Tu-di đều tự nhiên hiện ra không gì ngăn chận được, tất cả đều nhập trong một lỗ chân lông, tự do ở trong đó. Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh cùng với trời, người, A-tu-luân, tội phước có sai biệt cũng đều đến được cảnh giới chư Phật, đi qua các cõi nước, ở các quận, huyện, tự nhiên hiện thành bậc tôn kính, chuyển pháp vi diệu, giảng thuyết lời êm dịu, âm thanh làm an trụ tâm niệm chúng sinh khiến họ theo đó mà tu hành. Hết thảy chúng sinh, dù thân hình có sai biệt, thì Bồ-tát cũng hóa ra bao nhiêu hình thể, cũng có thân hình sai khác của chúng sinh ở khắp cõi trời người làm cho tất cả đều theo Phật pháp, tiêu trừ vọng tưởng, trần cấu ô uế, tăng trưởng đức và nghĩ đến đạo, cõi Phật rộng lớn, thần túc của chư Phật luôn biến hóa như thế, tất cả người đời không thể xưng kể được. Đạo tuệ của chư Phật vô cùng như thế, âm thanh phát ra đều là vi diệu hòa nhã, ưa thích.

Bấy giờ, đại chúng đã đến đây, đều im lặng vui vẻ, cùng quán sát, cung kính bậc Thánh thù thắng, dùng trí của đại chúng, lặng lẽ suy xét, giống như sau nguyệt thực, ánh sáng chiếu trở lại; họ chỉ muốn nghe Trụ thứ tám mà hành giả đã nhập, xin Bồ-tát giảng thuyết cho.

Phẩm 8: TRỤ BẤT ĐỘNG

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Hãy lắng nghe, Bồ-tát Đại sĩ đã thông suốt, thành tựu Trụ thứ bảy, mà dùng chí ngưỡng mộ kỹ lưỡng cầu trí tuệ quyền biến thanh tịnh, cẩn thận theo đó mà thực hành, thích bố thí, phát nguyện rộng lớn, nương tựa và thừa hành ý chỉ kiến lập của Như Lai, nhờ phước đức đời trước, nên có được thế lực của mười Lực và bốn Vô sở úy của Như Lai, nghĩ đến mười tám pháp Bất cộng của Đấng Chánh Giác và pháp của chư Phật, chí tánh nhân hòa, suy nghĩ sâu xa thanh tịnh, công Thánh giả tuệ, oai đức càng tăng, phát tâm Từ bi, thương khắp cõi chúng sinh, không phế bỏ niềm vui chánh pháp, thông đạt và thâm nhập tất cả pháp, đạt đến chỗ vô sinh, không có tướng, không có sự hợp thành, không mất tuệ minh, không có chỗ cùng tột, cũng không có chỗ diệt, tự nhiên như chẳng có, bình đẳng nhập vào bản thể, dần dần được độ thoát; trừ hết các vọng tưởng, tạp niệm; thâu giữ chí tánh vốn tịnh, nhờ đó vượt khỏi lo sợ, hợp thời đạt được pháp nhẫn đó, là trụ ở địa không thể lay động, giúp Bồ-tát đạt đến hạnh sâu xa huyền diệu khó biết của Bồ-tát mà không ai hoại được. Nó tiêu trừ tất cả vọng tưởng, thâu giữ các suy nghĩ, đạt được sự rốt ráo, không so lường, không sánh bằng. Tất cả chúng Thanh văn, Duyên giác không thể theo kịp sự tịch tĩnh ấy, vì đã thuần thục nên tự nhiên hiện ra vậy. Phật tử! Ví như Tỳkheo có thần túc, ý niệm tự tại, dần dần đạt Tammuội chánh thọ tịch diệt, trừ tất cả vọng tưởng, ham muốn. Bồ-tát cũng thế vừa đạt Trụ địa này, bỏ ngay nghiệp thế tục, đạt pháp chí chân không còn tài sản, bỏ được khoái lạc của thân, khẩu, ý, trụ nơi vắng lặng. Phật tử! Giả sử như nằm mộng thấy đạt công đức lớn, thì tự biết là nhờ sự tinh tấn rộng lớn vượt qua nên được giác ngộ, từ đó mà tu tập phương tiện, ngày đêm suy nghĩ để trừ những ham thích. Cũng thế, Bồ-tát Đại sĩ với tinh tấn rộng lớn, vừa đạt được, đã trụ địa của Bồ-tát, đúng là Bất động; chứa nhóm các pháp, tu hạnh không hai; lại bình đẳng tu tập, không gần gũi ai. Phật tử! Ví như có người sinh lên cõi trời Phạm Thiên, trụ ở cung điện của Phạm thiên, không đắm trong dục lạc, cũng chẳng có phiền não. Như vậy, Bồ-tát trụ nơi đạo địa này; tâm du hành khắp nơi để thực hành các hạnh, tuy ở trong hạnh ấy nhưng không phải hạnh ấy, không bị ô nhiễm, được việc làm của Bồtát đã làm ở tại hạnh Nê-hoàn nhưng không xem đó là hạnh, huống gì là hạnh thế tục! Vì sức bản nguyện, Bồ-tát Đại sĩ nhập địa này, được Như Lai Chí Chân Chánh Giác là bậc Thánh giả rộng lớn đem môn pháp điển và pháp Như Lai, tạo lập Thánh tuệ rồi nói: “Hay thay! Thiện nam, đó là pháp nhẫn thứ nhất của các Bồ-tát quay về với Phật pháp. Lại nữa, thiện nam! Mười loại Lực, bốn Vô sở úy của Phật, ngôi vị cao tột của Phật pháp, ông chưa có được, hãy siêng năng ngưỡng mộ tìm cầu, cẩn thận chớ làm trái mất. Đạo tu pháp môn nhẫn này đều là vì chúng sinh. Lại nữa, thiện nam! Con người đều có thể đạt tịnh hạnh nhưng vì phàm phu đều không trong sạch vắng lặng, lại quen với vô số trần lao, bị các vọng tưởng gây nguy hại. Lại nữa, thiện nam! Chúng sinh dù có nghĩ đến bản nguyện từ đời trước, nhưng suy nghĩ đó thường ở chỗ tối tăm, nên phải cầu đạo, phụng hành các môn tuệ tịch tĩnh không thể nghĩ bàn, nhất quyết không lười bỏ. Lại nữa, thiện nam! Các pháp vốn từ pháp phát ra, hưng thịnh thành Như Lai, dùng để an lập Như Lai, trụ trong pháp giới của Như Lai Chí Chân, không có hạnh nào khác. Tất cả Thanh văn, Duyên giác không thể đạt đến pháp không tướng này. Lại nữa, thiện nam! Hãy quán sát, thân ta không thể hạn lượng được, trí tuệ không thể luận bàn được, cõi nước không thể lường, sáng suốt không thể lường; vì thế, hành giả thực hành từ bi đều dựa vào sự hiển hiện mà phát sinh nghiệp. Lại nữa, thiện nam! Có thể nói một cách chắc chắn, sự sáng suốt là tất cả các pháp không có chỗ để tưởng niệm, nên mới là sự sáng suốt. Lại nữa, thiện nam! Pháp sáng đó là hạnh nghiệp không ngằn mé mà Như Lai đã hành trì, quyến thuộc thì không đáy, sự thâm nhập của những người ấy đều từ hạnh phát ra đưa đến mà cao tột như vậy. Lại nữa, thiện nam! Có thể quán sát vô số chúng sinh, trong vô lượng cõi Phật ở mười phương, kinh điển phân biệt thì không sao tính kể được, vì hòa nhập tất cả, nói và làm hợp nhất. Phật tử! Như vậy, Phật là đấng Thiên Trung Thiên, nếu so sánh với hàng Bồ-tát thì không thể so lường được về sự dắt dẫn đạo pháp, nhất là dùng để khai hóa chúng sinh. Bồ-tát nào phân biệt giảng thuyết vô lượng Thánh tuệ, thì thành tựu đầy đủ hạnh nghiệp, dắt dẫn chúng sinh. Các Phật tử! Ta giao phó cho các ông. Giả sử chư Phật vì giáo hóa các Bồ-tát này mà vào trong nhà chúng sinh, hướng dẫn pháp môn lợi ích, nhờ đó đưa chúng sinh đến nơi diệt độ, làm cho chúng sinh tự nhiên được thanh thản. Chư Phật Thế Tôn khuyến dạy, pháp của Bồ-tát với vô lượng tuệ nghiệp, nên cùng lúc mà dắt dẫn lợi ích cho chúng sinh; đó là Thánh nghiệp được coi là đứng đầu. Từ lúc mới phát tâm, cho đến trụ cảnh giới thứ bảy xong, các phương tiện được nhóm họp, nên công đức nhiều gấp trăm, gấp ngàn, gấp vạn ức mà không thể so sánh, ví dụ được. Vì sao? Vì đời trước đích thân dắt dẫn chúng sinh, đạt nghiệp đạo lợi để đạt trụ địa này, khuyến hóa chỉ dạy các hạnh bình đẳng của Bồ-tát, phân biệt việc làm của thân, thành tựu hạnh lực, giảng dạy tuyên thuyết vô lượng âm thanh các pháp môn, tu tuệ vô lượng, dắt dẫn vô số, dù thọ sinh ở đâu cũng đều trang nghiêm thanh tịnh các cõi Phật, khai hóa vô lượng các loài chúng sinh, cúng dường phụng sự vô lượng Phật, hiểu rõ vô số pháp môn, oai lực thần thông không thể hạn lượng, khai hóa phân biệt những ách nạn của chúng sinh, độ cho vô số chúng sinh đi đến đạo tràng, đi khỏi chỗ ở mà không thể lường được, hộ cho thân, khẩu, ý, tích lũy được tất cả hạnh giải thoát của Bồ-tát mà cũng không thể lường. Phật tử! Ví như thuyền lớn muốn vào biển lớn được an ổn không điên đảo để từ từ tiến tới chỗ có vô số trân bảo quý lạ, thì vừa vào biển lớn, phải xem gió mà căng buồm. Nếu được xuôi gió, thì trong một ngày sẽ vượt qua biển lớn, được vô số tài vật trân bảo, tiêu dùng vô số năm cũng không hết. Cũng thế, Bồ-tát tích lũy vô số công đức rộng lớn, tu tập Đại thừa, đạt hạnh Bồtát, đạt biển pháp tuệ; trong chốc lát, đạt vô số Thánh tài, nhập Nhất thiết trí, của báu thế tục đã chứa nhóm trong đời trước thì không thể sánh được, dù phải suy xét tính đếm trong trăm ngàn vạn ức kiếp cũng không ví dụ hết được. Lại nữa! Phật tử! Bồ-tát đã an lập đạo Địa thứ tám, tu tập trí Bala-mật quyền biến rộng lớn, thuyết pháp khai hóa, không cần tài sản. Bồ-tát hiểu và tu Nhất thiết trí, sẽ biết hết sự tạo thành các cõi Phật trong mười phương, cũng phân biệt được sự hư hoại của cõi Phật, có thể thấy biết sự hư hoại của các cõi, hoặc sự tạo thành của các cõi, vì duyên do nào mà các cõi có sự hư hoại, vì duyên nào mà các cõi tạo thành, tất cả đều thấy biết hết. Khi thế giới thành thì phân biệt được địa chủng ít, nhiều, lớn, nhỏ, hữu hạn, vô hạn; thủy, hỏa, phong chủng cũng thế, đều có thể biết được ít, nhiều, hữu hạn, vô hạn, phân biệt nơi dừng của vi trần; tùy thời hiểu biết số hạn, có bao nhiêu thế giới, bao nhiêu chủng loại, phân biệt và biết được hết vô số vi trần khó biết. Bao nhiêu loại vi trần tự nhiên hợp thành, bao nhiêu số vi trần có trong các cõi Phật cũng đều biết hết; biết được vô số chúng sinh, vô số hình dạng, đất, nước, thân cao, thấp, lớn, nhỏ; biết được nhân nào sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, tùy hành nghiệp nhiều ít. Biết được hết số vi trần tụ lại, biết chỗ A-tu-luân hành, chỗ ở của trời người. Các nơi hội tụ giáo hóa, sự hợp tan của cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc cũng đều biết được hết. Mọi sự lớn, nhỏ, nhiều, ít, hữu hạn vô hạn cũng đều biết hết, đi lại trong ba cõi, để hiểu nghĩa lấy, bỏ mà khai hóa chúng sinh, khiến cho họ được thành tựu, biết được các thân phương tiện, thân hình tượng, nơi chỗ ở của chúng sinh; biết rất rõ nơi thọ sinh, nơi chư Phật đi qua, cũng như sự thọ sinh, nơi cư trú của các loài chúng sinh; thân tích chứa hạnh nghiệp, tùy theo hạnh nghiệp đó của thân mà xây dựng cõi nước cho thân mình, tùy vào đó mà lập thân, ý đó là không cùng tận. Thân mình đã lập là thân vô thân, bao gồm thân mình, thân đất nước, thân tội phước. Lại lấy thân tội phước làm thân mình, thân ý không cùng tận. Thân là thân không thì thân mình không cùng tận, thân các loài chúng sinh, thân đất nước, thân theo duyên báo ứng, thân Thanh văn, thân Duyên giác, thân Bồ-tát, thân Thánh tuệ Như Lai, Pháp thân tùy thời mà kiến lập; hiểu rõ mà thọ lập những thân ấy. Các thân hiển hiện như vậy, tất hiểu rõ thân tội phước, thân báo ứng, thân trần lao, thân sắc, thân đất nước, nhiều, ít, lớn, nhỏ, ô uế, trong sạch, rộng lớn vô lượng, nhỏ hẹp, bằng phẳng, bình đẳng dắt dẫn, giảng thuyết báo ứng, tất cả đều biết rõ; biết thân hành tội phước tất sẽ có báo ứng; cũng hiểu được sự hội họp, ly tán, tập thành, chia biệt; biết rõ được hạnh nghiệp tan hợp và nẻo quay về của hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Thánh thể Như Lai, thành Tối chánh giác, sự thệ nguyện của thân, sự diệt độ của thân, sự thọ sắc tướng xinh đẹp của thân, sự trang nghiêm của thân cho đến thân hành giả, thân khả ý, thân tự đại, thân khiêm nhường, thân công đức, thân Thánh tuệ, thân báo ứng, thân cẩn thận hành nghiệp Thánh tuệ, sự quay về độ thoát của thân hết thảy đều biết rõ. Pháp thân bình đẳng, thân là thân không, không thể hạn lượng, hết thảy đều hòa nhập, không hề phân biệt có thân hay không thân, tất cả đều sáng rõ. Thân đó nếu đạt được hạnh nghiệp như vậy thì thọ mạng tự tại, tâm nhờ đó tự vượt qua mọi việc làm không khó khăn, việc mình không làm còn câu chấp, tùy ý thọ sinh và được toại nguyện, do tin sâu sắc vào ân đức thần túc, hành theo Thánh tuệ và duyên theo pháp nên đạt như vậy. Nhờ mười việc tự tại của Bồ-tát, vừa đạt tự tại, thì thành tựu được vô lượng trí sáng của Thánh chúng rộng lớn, không thể suy xét; các bậc Thánh khác không thể sánh bằng, nhờ thâm nhập như vậy nên vĩnh viễn rốt ráo, thân không thọ sinh, luân chuyển hạnh nghiệp. Không còn thọ sinh nhưng hạnh nghiệp vẫn chuyển. Trí tuệ là điều đầu tiên để chuyển hạnh nghiệp của thân và tuệ cũng là điều đầu tiên để chuyển hạnh nghiệp của khẩu. Tóm lại, Trí ba-la-mật là lò ánh sáng lớn, đứng đầu của tâm từ bi, nó giúp phân biệt để biết rõ phương tiện quyền xảo, không bỏ nguyện, được oai thần của chư Phật Như Lai, an lập không hề dừng nghỉ. Trí tuệ ấy, ứng hợp với tất cả chúng sinh, đi vào các cõi Phật rộng lớn vô biên, tuyên thuyết về sự tụ tán của thật nghĩa. Lại nữa, Phật tử! Bồ-tát tỉnh giác, thường tu hạnh bình đẳng mà đạt được địa đạo, không thể lay động; tích lũy tất cả kinh pháp của chư Phật, hạnh nghiệp thân, khẩu, ý dần tăng trưởng. Nhờ trụ ở địa này, oai lực chí tánh được an trụ, tiêu trừ được tất cả trần lao, mang tâm hòa ái, oai lực mạnh mẽ, đứng đầu; dùng oai lực từ bi mà hóa độ chúng sinh, làm mọi việc đều vì chúng sinh, không quên bỏ chúng sinh, lại làm thêm nhiều việc, dùng lực đại Từ bảo hộ tất cả các loài chúng sinh, thâu tóm oai lực, đạt được kiên trụ, không bỏ chúng sinh. Với sức thệ nguyện, chắc chắn được an trụ trong tất cả Phật pháp, chọn lựa phân biệt khéo léo để tạo lập, dùng sức thần thông, trụ lâu trong đời, thực hành bản nguyện là cứu độ chúng sinh, giữ vững nguyện lực, tu tập tất cả đạo nghiệp của Bồ-tát mà không hề quên bỏ, đủ sức cứu độ rộng lớn, hạnh vững chãi, cùng tu tập tất cả kinh điển của Phật, an trụ trong sức kiến lập của Như Lai, thành tựu Nhất thiết mẫn trí của Đẳng Chánh Giác. Vì nhập hạnh này, oai lực như vậy nên hiển hiện được tất cả pháp thần biến không cùng, qua lại được tất cả các cõi.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Các Bồ-tát trụ nghiệp ở đại trí tuệ này mà không thể lay động thì gọi là Vô lữ (không bạn bè) cũng gọi là địa Bất thoái chuyển. Trí tuệ không xoay chuyển lại nên gọi là khó, làm những gì mà tất cả chúng sinh không thể đạt được thì gọi là Đồng chân địa; vì không thọ sinh nên gọi là Sở sinh địa; ý nguyện mà tự tại nên gọi là Thành cụ địa; không còn sự tạo tác nên gọi là Địa của cứu cánh; tích lũy trí tuệ chân thật tức là Vô vi địa; tu tập chí nguyện nên gọi Kiến lập địa, vượt vô tạo tác nên gọi là Vô tài nghiệp; tiêu trừ các khổ do hạnh nghiệp đời trước và hàng phục tà vạy. Phật tử! Bồtát Đại sĩ nhờ dự vào dòng dõi Phật, thừa hưởng oai lực công đức huân tập của Phật chiếu sáng nên quay về cảnh giới nghiệp của Phật và oai nghi của Như Lai và luôn được Như Lai kiến lập, được vào cung trời Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên vương, lực sĩ Kim Cang luôn theo hộ vệ, dần đạt được định lực, thân vô hạn lượng, hàng phục những nguy ách, tháo gỡ vô số phiền não trói buộc. Đó đều là do sức lìa bỏ vĩnh viễn hạnh nghiệp của thân, đầy đủ oai nghi, sức thần thông lớn, hạnh nghiệp của quả báo đều tự tại, đạt vô số Tam-muội, được vô lượng sự thọ ký, tùy ý tự tại, không gì làm trở ngại. Đã được thuần thục, rồi giác ngộ và độ cho chúng sinh, chỉ dạy nghĩa lý, để chúng sinh đạt hạnh này, vào được đạo tràng, được trí hạnh vô cùng rộng lớn. Do thực hành nghiệp thần thông đại tuệ nên thường phóng ra ánh sáng trí tuệ của Thánh giả để giảng dạy kinh điển mà không bị cảnh giới làm chướng ngại. Khi giảng thuyết, phải biết phân biệt tùy theo cảnh giới mười phương, thị hiện tất cả hạnh nghiệp công đức đã huân tập, phát tâm tự tại, suy xét kỹ về tánh, hiểu rõ quá khứ, vị lai, hiện tại; xoay chuyển tất cả ma quân vào con đường của Thánh tuệ, đi trong cảnh giới của Như Lai, ở bất cứ cõi nước nào cũng đều lập giảng đường, phụng hành hạnh Bồ-tát, nhờ đó thêm siêng năng, không thể làm thoái chuyển được, do đó nên gọi là nhập Địa không động.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Bồ-tát đã đạt được vào Địa vô động chuyển, thường ở chỗ không bờ mé, luôn được gặp vô số chư Phật không thể tính đếm, không hề xa cách, hạnh nghiệp rốt ráo, thành tựu định Tammuội, được tăng sức oai nghi; gặp Phật, cúng dường, phụng sự, đem thân quay về đảnh lễ không bao giờ quên bỏ. Dù ở đâu, trong mỗi mỗi kiếp, mỗi mỗi thế giới, hễ thấy giảng đường nào có các Đức Phật, thì cúng dường hết thảy vô số trăm ngàn ức triệu Đức Phật ấy, cung cấp mọi vật an ổn, cúi đầu lễ lạy. Nhờ lạy Như Lai, hiểu rõ thế giới là nguồn gốc, ngưỡng mộ tuân theo đạo sáng, nên sự lãnh thọ giáo pháp lại càng gia tăng hơn. Đến lúc Phật diệt độ, thực hành không còn ai so sánh, sự cao xa siêu tuyệt, khác với mọi người sự thọ hiểu thế giới phải trao đổi, phải tạo ra vô số trăm ngàn ức sự tích tụ phước nghiệp, siêng năng chuyển biến để làm cho ngày thêm tỏ rạng. Phật tử! Ví như ngọc Minh nguyệt ở cõi Diêm-phù-lợi, giá trị của nó thì tất cả vật trang sức trong cõi Diêm-phù-đề không thể sánh bằng, tất cả những báu vật anh lạc của mọi người trang sức, cũng không sánh bằng. Cũng thế, Phật tử! Bồ-tát trụ địa Bất động chuyển này, với công đức căn bản, tạo thành ánh sáng lớn mà tất cả Thanh văn, Duyên giác không sao sánh kịp, kể cả hạnh nghiệp của Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy. Vì nhập trụ địa này, nương vào trí tuệ rộng lớn mà tiêu trừ tất cả trần lao của chúng sinh, phân biệt được pháp môn vi diệu của Thánh tuệ. Phật tử! Ví như Thiên chủ Phạm Thiên, thực hành tâm Từ thì ánh sáng chiếu khắp cả ngàn cõi. Bồ-tát Đại sĩ cũng thế, trụ ở địa Vô động chuyển thì ánh sáng chiếu đầy khắp vô số trăm ngàn cõi Phật, vô lượng cõi chúng sinh, nên trừ trần cấu độc hại của tâm. Phật tử! Bồ-tát trụ địa Bất động chuyển này, tuyên thuyết pháp bình đẳng chân chánh. Công đức của Bồ-tát trụ ở Địa thứ tám này, dù trải qua vô số kiếp, cũng không thể nói cho hết được. Trước đây, Bồ-tát an trụ ở Phạm Thiên, Đại phạm Thiên vương, chủ ngàn cõi, Thanh văn, Duyên giác; hạnh nghiệp đó của Bồ-tát chân chánh không ai sánh bằng, đã đạt đến chỗ không cùng, phân biệt cảnh giới, tu hạnh không gì bằng, nghe pháp, tạo duyên và nghiệp phương tiện, bố thí, ái kính, bình đẳng, lợi người, cứu giúp tất cả, luôn niệm Phật không quên, đầy đủ các hạnh, đạt Nhất thiết trí, luôn suy xét đạo lớn, tu hạnh nghiệp gì lại được chúng sinh tôn kính? Tất cả đều thù thắng, tùy thuận chư Thánh giả, bảo hộ mười phương, phát tâm tuân hành những hạnh như vậy, siêng năng tu tập, trong khoảnh khắc thành tựu đầy đủ vô số Tam-muội chánh thọ, trong trăm ngàn cõi ở mười phương, có vô số Bồ-tát trong vô lượng cõi ở mười phương làm quyến thuộc. Do thế lực phát nguyện thù thắng, nên cảm động tất cả, trí tuệ sáng suốt không sao nói hết được. Suy xét như vậy, trải qua trăm ngàn ức kiếp, công đức huân tập tột cùng, không sao ví dụ được.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng, muốn phân biệt rõ nghĩa trên, bèn nói kệ rằng:

Đã đạt Địa thứ bảy
Trí sáng, hạnh khéo léo
Xét kỹ hộ đạo nghiệp
Lập chí nguyện vô cực
Chứa nhóm các công đức
An trụ trong cõi người
Ý vui với Thánh tuệ
Nhập trụ Địa thứ tám
Tạo đức tuệ Thánh giả
Siêng năng hành Từ bi
Tâm ấy không hạn lượng
Ý niệm như hư không
Nghe giáo pháp hiểu được
Nhập thế lực Thánh giả
Đạt pháp Vô sinh nhẫn
Tịch tịnh thuận vi diệu
Đã nhận, không dấy khởi
Không sinh, không có tướng
Không diệt, chẳng tan rã
Cũng không chỗ rốt ráo
Các xứ sở tự nhiên
Không gốc, xả các niệm
Đã lìa tâm, ý, tánh
Tư duy, như hư không
Sử dụng nhẫn như vậy
Hành hóa không buông lung
Tu pháp yếu, chấn động
Đạt đến hạnh tịch nhiên
Chúng sinh không thể hiểu
Do ở hạnh nghiệp nhàn
Nắm giữ cả tâm, tưởng
Hiểu rõ các ý niệm
Kiến lập ý như vậy
Tâm không còn tư duy
Như Tỳ-kheo vắng lặng
Không còn sự chấp thủ
Sự tưởng, niệm của tâm
Như mộng, thấy giác ngộ
Nếu Phạm Thiên trọn vẹn
Cõi Dục cũng như vậy
An trụ gốc, lập nguyện
Luôn khuyến hóa chúng sinh
Đó là Nhẫn bậc nhất
Đạt đến A-duy-nhan
Tuệ chúng ta thâm sâu
Có thế lực, hiểu pháp
Do không còn ngã sở
Tinh tấn siêng tu hành
Giữ gìn, sự tĩnh lặng
Tiêu hết thảy lưới ái
Dập tắt lửa thiêu đốt
Lửa phiền não thế tục
Tự biết nguyện đời trước
Luôn thương xót chúng sinh
Dùng tuệ để tạo lập
Để độ thoát mọi loài
Thường tôn trọng pháp này
Trụ bản thể, vô tưởng
Phật biết tất cả trụ
Vượt Thanh văn, Duyên giác
Thế lực của thế gian
Không bằng mười Lực này
Trí tuệ không hạn lượng
Ba cõi không chướng ngại
Không gì sánh bằng được
Trời người đều cung kính
Tu tập và giáo hóa
Hành vô số tuệ môn
Thành tựu pháp tối thắng
Nhập cảnh giới giải thoát.
Đời trước hành Phật đạo
Nếu Lúc đó, tùy thuận
Thì đạt được hiền minh
Nhập Thánh địa thù thắng
Chỉ trong một khoảnh khắc
Đi khắp mười phương cõi.
Nhờ quay về trí tuệ
Nên được các thần thông
Ví như nước biển lớn
Do thần khí chư Thiên
Tâm tham đã trừ hết
Lập được đạo nghiệp tuệ
Chọn lựa các cõi nước
Hiểu rõ và phân biệt
Có bốn loại cảnh giới
Bỏ được các tham lợi
Vi tế hay thô động
Nhập thức hiểu thật nghĩa
Tất cả các trần cấu
Đầy trong ba ngàn cõi
Phân biệt gốc chúng sinh
Do tứ đại có thân
Và cũng vì tham lạc
Có sáu cõi như vậy
Hiểu cảnh giới trí tuệ
Không thể xưng lường được
Dùng tuệ phân tâm ý
Cho đến hết thảy tâm
Thân mình phải hành đủ
Rồi dắt dẫn chúng sinh
Tất cả ba ngàn cõi
Với vô số hình sắc
Nhìn thấy được như vậy
Đời đời luôn an nhiên
Như mặt trời đi quanh
Xoay ở trong không trung
Những lâu đài nhà cửa
Đều được soi sáng rỡ
Nguồn gốc vốn không tuệ
Ở pháp giới không động
Mọi loài, tánh thanh tịnh
Ánh sáng đạo chiếu khắp
Như bản tánh chúng sinh
Thân ấy dù ở đâu
Cũng hiện bày chúng sinh
Soi rọi trời, thế gian
Bản thân được tự tại
Hạnh Vô tánh thù thắng
Thị hiện thân an trụ
Các tướng tốt trang nghiêm
Cõi chúng sinh cũng vậy
Từ tội, phước thọ thân
Bao nhiêu chúng tánh Thánh
Thành thể tuệ của pháp
Thân thể là rỗng rang
Nhận lấy nghiệp bình đẳng
Hiện thần thông, biến hóa
Trừ cấu uế muôn loài
Tự tại với mười lực
Do tuệ, rộng vô cùng
Đạt Thánh, gặp tuệ sáng
Khởi hòa thuận, thương xót
Mọi lời dạy tối thắng
Dùng pháp, sinh Đạo nghiệp
Cẩn thận, giữ ba nghiệp
Không động, như Tu-di
Oai lực các Chúng Hựu
Nhu thuận, không sân giận
Bậc này không lay chuyển
Các ma không thể phá
Điều Phật đã kiến lập
Thích, Phạm đều cung kính
Thần Kim Cang lực sĩ
Dùng oai lực hộ trì
Ở nơi chỗ đất ấy
Đức độ không thể lường
Trong trăm ngàn ức kiếp
Không thể giới hạn được
Cúi đầu lạy chư Phật
Vô số na-do-tha
Thành tựu đạo Tối thượng
Trang phục như vương giả
Đạt đến đạo địa này
Các Bồ-tát tụ tập
Được làm Đại phạm thiên
Công đức thật vô lượng
Tuyên thuyết nghiệp ba thừa
Không một ai sánh được
Từ tâm là thanh tịnh
Trí sáng trừ trần lao
Chỉ vừa mới phát tâm
Đến trăm ngàn cõi Phật
Đạt nguồn gốc thiền định
Như bụi trần các cõi
Dũng mãnh nhìn mười phương
Hóa độ các chúng sinh
Hạnh nguyện cũng như vậy
Trang nghiêm quý vô cùng
Đây là nói tóm lược
Thứ tám thắng tự tại
Dù đủ trăm ngàn kiếp
Cũng không thể nói hết.

Lúc nói Trụ thứ tám, làm chấn động cả trăm ức cõi Phật, tạo lập những oai lực thần thông của Phật không thể nghĩ bàn; công đức cao vời không thể hạn lượng; phóng ra ánh sáng lớn, thị hiện các loại thân hình, chiếu khắp các loại thân hình, chiếu khắp các cõi làm an ổn chúng sinh; vô số chư Bồtát trụ trong hư không đều đến cúng dường, dâng cúng Phật các phẩm vật quý hơn cõi trời, Huyền diệu đặc thù, chư Thiên đại thần, cùng quyến thuộc và mọi người ở trời Tự tại đều vui vẻ, cúng dường Đấng Chí Tôn vô số vật phẩm, phụng sự biển phước đức. Vô số trăm ngàn ngọc nữ vui mừng khôn xiết, các căn thư thái, trổi nhạc hay, đánh vang trống trời để cúng dường Thánh giả; dùng các loại âm nhạc này làm vui Thánh giả, phát trăm ngàn âm thanh, tiếng vang hòa nhã, mến khen sự thanh bạch, làm dứt sự chán ghét, trừ các trần cấu, bỏ hạnh thế tục, thực hành hạnh Chí chân vững chãi, vì chúng sinh nên đi khắp mười phương, hiển đại thần thông, thực hành điều tối thượng, chí như hư không, tâm cũng như vậy; là bậc tôn quý cao thượng của trời người, hiểu rõ cảnh giới Huyền diệu, công đức không cùng, mười phương nghiêm tịnh, phụng sự Phật pháp. Các bậc Thánh đều dùng đạo chỉ dạy sự huân tập công đức không thể hạn lượng của chư Phật, chỉ bày thực hành Thánh tuệ, không thích để lại những dấu vết; ở trong một cõi không dao động nhưng đi khắp các cõi, không bị trần cấu nhiễm ô, thương yêu chúng sinh là hơn hết, trừ sạch hết thảy những ảnh hưởng tạo nên những vọng tưởng, dùng đủ các ngôn ngữ thuyết giảng. Nếu chúng sinh ngu hèn, tâm ý thấp kém mà nghe được giáo pháp thì đều tự quy y, còn nếu chỉ nghe được tiếng thì hiển hiện Thánh tuệ, tùy bản hạnh mà khai hóa. Chúng sinh nào có các căn thông lợi, tâm thích nhân duyên, chí không tham chấp sự an vui thì dạy thật nghĩa của trí sáng, lìa trần cấu. Chúng sinh nào có tâm Từ bi, có tâm nhân từ thì chư Phật ở đó thường thị hiện chánh hạnh. Chúng sinh nào chí khí cao tột, tâm ưa thích pháp, thì thị hiện vô số thân Phật, dựa vào đó mà hóa độ; ví như nhà ảo thuật, đi khắp mọi nơi thị hiện đủ các thân hình. Này Phật tử! Trí tuệ nếu thích chuyển hóa cũng vậy; hiện đủ các hạnh, lìa các sở hữu, cùng với vô số trăm ngàn loại âm thanh tuyên thuyết lời nhân từ nhu nhuyến, hòa nhã; trời, người, ngọc nữ đều quy phục, đều được sự tịch tĩnh an lạc; mọi người đều vui vẻ, an trụ và ca tụng công đức cao vời không thể nói hay bàn bạc được. Nói đạo Địa thứ tám của Bồ-tát xong, ai nấy đều phụng hành chánh pháp để thông đạt đến Đại thừa.

Phẩm 9: TRỤ THIỆN TAI Ý

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Hãy lắng nghe! Bồ-tát Đại sĩ, hạnh trí tuệ Phật vô số như vậy, lại tăng trưởng dần đến chỗ vắng lặng, ý chí ở nơi môn giải thoát, trí tuệ của Như Lai, làm tăng trưởng chí đức, lại dùng tâm từ có thể tu hành được những bí mật Như Lai; nhờ đó thâm nhập được đạo tuệ lớn lao mà không thể nghĩ bàn hay phân biệt; cho đến khi đạt Tam-muội chánh thọ Tổng trì trong sạch cần thiết, xả bỏ những nghiệp nhơ uế, đem lại lợi ích cho tất cả, làm thành tựu đại thần thông rộng lớn cao xa; phân biệt được các cõi để giáo hóa chúng sinh; đi lại một mình, đủ mười Lực, Vô úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, không ai sánh bằng, tu tập gốc đạo Như Lai chí chân, chuyển pháp luân, giáo hóa chúng sinh trong các cõi, lập hạnh Từ bi, an trụ nguyện lớn, không bỏ chúng sinh trong mười phương, nhập đạo Địa thứ chín của Bồ-tát. Trụ địa này, nếu thấy những hạnh không vững, tâm còn thiện ác thì phải suy xét để biết rõ, cúng dường kinh điển, phụng sự đấng Chí Chân; lại phải biết rõ pháp hữu lậu, vô lậu, tùy thuận pháp thế tục, để lấy pháp đó độ thế gian. Việc tu hành suy xét không thể nghĩ bàn, thừa phụng rốt ráo pháp không liễu nghĩa; tùy thuận pháp của Thanh văn, Duyên giác, phụng hành các Bồ-tát, kính trọng đạo pháp, thệ nguyện tùy thời, đạt được đạo địa của Như Lai, cũng tùy lúc hành pháp hữu vi nhưng chí khí ở nơi pháp vô vi, suy xét hiểu biết thật rõ ràng. Với trí sáng, hiểu rõ nơi quay về cũng như hiểu rõ tâm hạnh của chúng sinh, những gì nên giữ nên bỏ, như trần lao ô nhiễm, sự thọ lãnh phước họa, sự giữ gìn hạnh nghiệp các căn, sự giữ vững tâm tin; hiểu rõ nẻo quay về của tâm tánh, nơi tạo nghiệp, nơi thọ sinh dừng ở; hiểu rõ ba tụ, nơi nghiệp đưa đến; suy xét hiểu rõ như vậy để quán sát tâm chúng sinh, biết được những việc đúng sai, bao nhiêu là loại tâm. Tâm ấy, chỉ trong khoảnh khắc mà có thể tới, lui, tụ, tán. Tâm ấy, không có thân, tâm không thể hạn lượng. Tất cả sự phát khởi hưng thịnh đều từ tâm; tâm ấy có trần lao hay không; tâm có trói buộc, cởi mở đều như huyễn hóa. Hiểu rõ nơi dừng ở nhân duyên tiến thoái và những trần lao của tâm, sự huyền diệu bay xa chữa trị cho chúng sinh ở đời sau không còn nghiệp duyên trói buộc; đi hay ở, tâm hội họp biệt ly, thọ sinh ở một nơi hay đi khắp trong hiện tại, tới lui qua lại, phân biệt vô minh ân ái trong ba cõi; thấy được các đau khổ đều do ngu si lớn, vô số tội lỗi quyết dứt trừ tất cả, hiểu biết rõ ràng Ba tạng là báu vật, thâm nhập suy xét tám vạn bốn ngàn trần lao, chưa rõ nghĩa tội phước là thiện hay bất thiện; chỉ cho biết vô minh là kẻ làm cho tâm tán loạn, không còn tạo nghiệp, suy xét về Đấng Chúng Hựu, biết có báo ứng; biết chứa nhóm lợi ích, tạo ra hạnh nghiệp thì quả báo không mất; sự quả báo, không quả báo, đen tối, sáng sạch, trắng đen… đều là ngôn từ, hạnh nghiệp quả báo thì có hạn lượng, nhưng ruộng đất phước tội thì không thể hạn lượng. Bậc Hiền Thánh ra đời, làm việc tội phước ở hiện tại, chứa nhóm nghiệp ở vị lai đều vượt qua hết; hiểu rõ hay chưa rõ nơi quy thú, cũng phân biệt và hiểu rõ phương tiện tùy thời, để biết được tám vạn bốn ngàn tội lỗi, biết nguyên nhân và kết quả; hiểu rõ nguồn gốc các căn Nhu thuận, yếu kém, vừa phải. Nói tóm lại, tùy hạnh nghiệp đời trước của chúng sinh: Hủy hoại, không hủy hoại, hạnh vi diệu vừa phải, hạnh thấp kém, các loại trần lao, không có tài nghiệp đều từ tâm quyết định. Đối với kẻ không hiểu thì khai hóa nguồn gốc, do lưới căn nên phân biệt thoái chuyển, chấp giữ vọng tưởng về các tướng sang hèn, tới lui qua lại, tiến thoái không ngừng; hiểu rõ ba đời, đi mãi không cùng, một mình không bè bạn, luôn bình đẳng với mọi loài, biết rõ tám vạn bốn ngàn căn tánh. Nói tóm lại, hiểu được tâm tin cao thấp vừa, các căn thông đạt đều tùy thuận vào tám vạn bốn ngàn căn tánh; ôm giữ tâm tin thì biết rõ được hạnh nghiệp của chúng sinh, biết cảnh giới cao thấp vừa, tùy theo tám vạn bốn ngàn căn tánh; tâm thượng trung hạ của chúng sinh, của các loài bốn đại với tánh hạnh thiện ác; hiểu rõ nơi quy thú của các căn và tánh hạnh của tâm ấy, tâm ý của bạn bè, bọn đảng; tâm ấy hội họp, biệt ly, đi mãi không ngừng; hoặc có tự đại hay không tự đại, ý ấy điều thuận không chán ghét cũng không lười bỏ; nên một tâm tùy thuận vào pháp môn giải thoát thần thông Tam-muội chánh thọ, không hội họp trói buộc trong ba cõi, nguyện đạt được thật tâm, không tạo các hạnh nghiệp ác; tu tập thâm nhập giáo pháp vô ngôn, không dựa vào bạn đảng, không tạo sản nghiệp, không thay đổi, không bạn bè; tu tập giáo pháp, suy xét kỹ lưỡng biết đúng hạnh của chúng sinh, có bao nhiêu hạnh nghiệp thọ sinh, hạnh ấy sẽ thọ sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tuluân, trời, người, nhân dân, sắc, vô sắc, tưởng, vô tưởng thảy đều biết rõ. Hiểu rõ quả báo của tội, phước đều do ân ái, tình dục, vô minh, ngu tối làm nhân; tinh thần chủng loại luân hồi sinh tử, danh sắc làm bạn. Vì không đạo nghiệp, sinh tử, ngu si, gần gũi ân ái, nên có tham dục, tham cầu ái tình. Không tham vinh hoa, lạc thú của chúng sinh thì luôn biết đúng ba cõi, không bị tổn thương; suy xét kỹ lưỡng biết rõ nơi ở, nơi sẽ đến và dừng. Từ hạnh của chúng sinh và tội phước mà tu tập trần lao; thiện ác chưa rõ, nguồn gốc tạo tác, mà phải luân chuyển không cùng, lại trôi lăn theo bản nghiệp, chưa thể thoát ra thật khó đoạn trừ! Muốn độ những kẻ tham lam, ganh ghét, chưa trừ sạch trần lao; thì tâm phải thông đạt mới có thể vượt qua, đối với việc làm đó phải đạt đến vô sở hữu; suy xét kỹ càng để biết rõ hạnh của chúng sinh; có hiểu biết hay không hiểu biết; chí ở tà nghiệp thì chạy theo nghiệp tà kiến ngu si; ở nơi chánh kiến thì an định nơi chánh nghiệp, trừ được mọi lo sợ, không gì là không rốt ráo. Lại còn có nạn năm nghịch, nên phải hiểu rõ hạnh nghiệp năm căn, thông đạt chánh chân. Vì bỏ được lo sợ và những việc không rốt ráo, nên hiểu rõ tà vạy đã diệt, chân chánh tịch diệt, làm cho những nghiệp ác thành nghiệp tịnh. Chính vì không chỗ nương tựa mà rơi vào tà nghiệp, luân hồi thoái chuyển. Phải dắt dẫn bằng chánh đạo Vô thượng của Hiền Thánh mà tuyên thuyết cho kẻ không hiểu rõ, không tùy thời tụ tán ôm giữ tà nghiệp. Phật tử! Nếu quay về với tuệ của Bồ-tát Đại sĩ này thì được an trụ địa Thiện tai ý của Bồtát. Đã an trụ địa này, thì hiểu rõ được tất cả hạnh nghiệp của chúng sinh, tùy các loại bản hạnh mà giải thoát và khai hóa cho chúng sinh; nên hiểu rõ chúng sinh, để tùy thời dạy dỗ, biết cách khuyên dạy Thanh văn, Duyên giác, hóa độ các Bồ-tát, giảng thuyết Như Lai địa, tùy chúng sinh đó mà thuyết pháp, dắt dẫn lợi ích độ thoát; với tánh hạnh đó, tùy bản căn sẽ được giải thoát mà thuyết pháp; với nhân hạnh nghiệp thì phải hiểu rõ nguồn gốc mà khai hóa, dùng các giáo pháp tu tập như pháp môn suy xét giải thoát, pháp môn nhân giải thoát mà thuyết pháp. Trụ địa này, sẽ thấy được sự hưng long của Đại pháp sư, ủng hộ được vô số pháp tạng của Như Lai, đến được chỗ Pháp sư học hỏi thâm nhập, hiểu rõ Thánh tuệ, phụng hành tuyên thuyết, đủ bốn Biện tài, phân biệt đủ hạnh nghiệp của Bồtát, theo pháp để thường tu tập, không bị sự hủy hoại. Bồ-tát Đại sĩ có bốn biện tài phân biệt đạt không thoái chuyển. Bốn Biện tài đó là gì? 1. Phân biệt pháp. 2. Hiểu thật nghĩa. 3. Tùy thuận thứ lớp. 4. Hiểu rõ biện tài. Phân biệt pháp là biết giảng thuyết tướng tự nhiên của các pháp. Hiểu thật nghĩa là thông đạt chỗ quy thú của các pháp. Tùy thuận thứ lớp là giảng thuyết không lầm lẫn, phân tích trí tuệ sâu xa của các pháp. Hiểu rõ biện tài là không có gì trói buộc được, biết các pháp không gián đoạn, phân biệt giảng rõ các pháp. Hiểu rõ pháp là pháp tự nhiên, thân tự nhiên. Hiểu thật nghĩa là phân biệt sự sáng suốt đều từ kinh điển. Tùy thuận thứ lớp là thông đạt tất cả pháp, có thể giảng thuyết được, không làm cho gián đoạn. Phân biệt biện tài là đúng như giáo pháp, không có chỗ mong cầu, diễn giảng không ngằn mé. Thông hiểu pháp là thông đạt pháp hiện tại, tuyên thuyết chỗ quy thú. Hiểu thật nghĩa là biết cái lý báo ứng của pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, không có sự hủy hoại. Phân biệt biện tài là nhất nhất giảng thuyết mà không có hai tâm, không ngằn mé, phóng ra ánh sáng pháp. Thông hiểu pháp là có thể biết các pháp, phân tích được mọi việc. Hiểu thật nghĩa là phân biệt các nghĩa, ai nấy đều nương nhờ. Tùy thuận thứ lớp là tùy thuận lời lẽ xa gần của chúng sinh mà thuyết pháp. Phân biệt biện tài là quán sát sự vận hành của các tâm tánh nhân đó mà diễn giảng kinh pháp. Thông hiểu pháp là hiểu biết phương tiện, thông rõ pháp tuệ, không hủy hoại các pháp lành. Hiểu thật nghĩa là biết pháp vốn không, an trụ tuệ không hai, vì vậy mà hiểu rõ nguồn gốc, thông tỏ hết thảy. Tùy thuận thứ lớp, diễn thuyết hạnh nghiệp, Thánh tuệ là của cải, không sao phá được. Phân biệt biện tài là thông tỏ các nghĩa lý, tùy lúc hiểu rõ gốc ngọn. Thông hiểu pháp là biết rõ nguồn gốc các pháp là một, nếu mất nguồn gốc thì trôi lăn trong sinh tử không cùng. Hiểu thật nghĩa là vượt qua năm ấm, bốn đại, mười tám giới, sáu nhập, phương tiện giải thoát, hiểu rõ mười hai nhân duyên đều không đầu mối. Tùy thuận thứ lớp là giảng thuyết nguồn gốc của chúng sinh, xoay vần trong năm thú, chí tánh hòa nhã, âm thanh nhu nhuyến, ai nghe cũng đều lãnh thọ. Phân biệt biện tài là diễn giảng pháp quan trọng, trí sáng tăng chuyển không cùng tận, ánh sáng ấy chiếu khắp, trừ sự tối tăm, ai nấy đều nhờ ánh sáng đó. Hiểu các pháp là chỉ dạy một phẩm có vô số Bồ-tát Đại sĩ, phát tâm từ rộng lớn, lập tâm bi không cùng, khai phát Đại thừa. Hiểu thật nghĩa là phân biệt các thừa, vượt qua giới hạn, mở rộng hạnh nghiệp, thản nhiên không bè bạn, độc lập giữa mọi người. Tùy thuận thứ lớp là giảng thuyết tất cả các thừa, bậc học thượng, trung, hạ không hủy hoại được, dần dần dắt dẫn nhập vào đạo lớn. Phân biệt biện tài là tu Nhất thừa không bờ mé, tuyên thuyết chánh pháp, chiếu soi nguy ách khổ não của ba cõi, trừ bỏ ấm cái, đạt đến Tam-muội. Thông hiểu pháp là thực hành hạnh nghiệp Thánh tuệ của Bồ-tát, chỉ dẫn tu hành các pháp, đạo sáng siêu vượt, vời vợi vô lượng. Phân biệt biện tài là diễn giảng gốc ngọn của mười trụ xứ định; chỉ dạy cho kẻ học được toại nguyện, không mất chí hạnh, vượt qua được thế tục, thông đạt tất cả. Tùy thuận thứ lớp là tuyên nói giới cấm, tùy theo sự mong cầu mà uyển chuyển dắt dạy, không bị hủy hoại. Phân biệt biện tài là giảng thuyết tất cả hạnh là không cùng tận, diễn giảng bản nghiệp chí thành chân chánh, không dừng ở thừa Thanh văn, Duyên giác. Thông hiểu pháp là tâm thông đạt tự nhiên, tất cả Như Lai đều là một Phật, đều dùng vô số oai lực hiểu rõ thật nghĩa, nhờ đó mà chuyển pháp luân, đạt Nhất thiết trí để có sự độ thoát. Hiểu thật nghĩa là biết rõ bao nhiêu chủng loại, an trụ chánh chân, trong khoảnh khắc phân biệt nơi sẽ hướng về, tuyên thuyết tất cả những đúng sai của đạo, tục. Tùy thuận thứ lớp là như Đấng Chánh Giác, phân tích ngôn từ, xem nguồn gốc của nó, hạnh thượng trung hạ, tâm sâu cạn mà dắt dẫn hóa độ. Phân biệt biện tài là diễn giảng kỹ từng câu chữ nghĩa, trí tuệ không cùng của kinh pháp, không làm cho đoạn dứt; phải cho no đủ. Thông hiểu pháp là thỉnh cầu Như Lai, tuyên thuyết chỉ dạy hết thảy mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, tu tập tâm từ mà chuyển bánh xe pháp, thông đạt hết thảy tuệ nhẫn không cùng tận. Hiểu thật nghĩa là biết được tám vạn bốn ngàn các phẩm hạnh của chúng sinh, theo chí tánh đó mà quán sát nguồn gốc, theo như sự tin ưa mà giảng pháp Như Lai để giải trừ những phiền não. Tùy thuận thứ lớp là đối với tất cả hạnh nghiệp không bị sự hủy hoại, rống tiếng sư tử, nói lời của Như Lai, âm thanh của tám bộ, nghe khắp mười phương, thấy rõ tất cả. Phân biệt biện tài là thông đạt trí tuệ oai thần sáng suốt của Như Lai, diệt trừ trần cầu tối tăm, dùng sức hành đạo của mình, theo sự tin ưa ấy mà khai hóa, làm cho ai nấy đều toại nguyện.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Bồ-tát an trụ Địa thứ chín, phước đức cao vợi, biện tài như vậy, dần dần đạt được tạng pháp vô cực của Như Lai, làm bậc đại Pháp sư, tạo lập pháp khí, làm vua các pháp, thông đạt thật nghĩa Huyền diệu Tổng trì, cứu độ ba cõi, là pháp chủ Tổng trì. Nói tóm lại, dùng thần thông Thánh tuệ để cứu độ, dùng Tổng trì sáng suốt soi rọi mười phương; dùng Tổng trì thiện ý để nhiếp tất cả ý; Tổng trì như đất, đi lại như hư không, oai thần khó đạt, pháp môn giải thoát vô cực là trọng yếu của Tổng trì Đế chủ, Tổng trì Sở hướng, Tổng trì Sở du vô lượng hồi hướng, tới lui qua lại đều khắp, đạt nhiều loại Tổng trì phương tiện. Đầy đủ tất cả như vậy, đạt vô số trăm ngàn Tổng trì, ân thanh tùy thích, thông đạt tất cả các pháp, phân biệt không sao lường được; giảng thuyết kinh điển không ai diễn được. Cứ thế, Tổng trì tất cả pháp môn chánh đạo mà không thể hạn lượng được; nghe pháp của vô số chư Phật Thế Tôn hiện thân thuyết giảng, nghe rồi thì không quên; giảng thuyết lại được những gì đã nghe; ở chỗ của các Như Lai, đều học hỏi, lãnh thọ, đọc tụng vô số trăm ngàn ức Tổng trì. Ví như pháp của mỗi Đức Như Lai khai hóa thì không có ngằn mé, là Vô thượng Chí chân; pháp của các Như Lai cũng vậy không khác. Nên cúi đầu đảnh lễ để được thêm tinh tấn đối với vô số bậc Chí chân Chánh đẳng giác mà nghe nhận pháp môn, bậc Thanh văn, Duyên giác không thể diễn giải được; học rộng nghe nhiều giúp lãnh thọ các môn Tổng trì như vậy, rồi đạt đến biện tài mà kiến lập. Pháp và Thánh chúng cao xa vời vợi; nếu khi họp hội đầy cả Tam thiên đại thiên thế giới, thì tùy tâm chúng sinh mà ứng hóa thuyết pháp, nơi nào có pháp tòa thì ngồi tòa thuyết pháp, thực hành Thánh chỉ Như Lai; đạt được đại Nhất sinh bổ xứ thứ mười, ở đâu cũng đều được tự do tự tại, cao quý không ai bằng, ánh sáng soi khắp mọi nơi. Ngồi nơi pháp tòa, trong khoảnh khắc vừa mới phát tâm, chỉ dùng một mà đã có bao nhiêu là âm thanh diễn thuyết cho khắp hội chúng; và trong chốc lát, ánh sáng từ miệng phóng ra tất cả âm thanh diễn thuyết ban bố giáo hóa, làm cho thông hiểu tất cả; chiếu soi tam thiên đại thiên thế giới và các cõi sắc, cõi vô sắc; để diễn nói pháp âm. Lúc ấy, chúng sinh ở trong tam thiên đại thiên thế giới đều đến hỏi nghĩa lý và được giảng thuyết chỉ bày tất cả mọi việc, không quanh co, không giảng trùng lặp, làm cho ai nấy đều thông hiểu; trong khoảnh khắc, các Bồ-tát lúc này cũng đều lãnh thọ lời dạy, dùng một lời mà dạy dỗ được khắp nơi. Nói tóm lại, khắp cả hai, ba, bốn, năm, mười, hai mươi, năm mươi đại thiên thế giới; cho đến cả trăm Tam thiên đại thiên thế giới, vô số đại thiên thế giới; khi phóng quang làm việc pháp, kiến lập Thánh chỉ oai thần của Như Lai, thì thường tùy thời, vì chúng sinh mà làm việc Phật, sự phát triển an lập rồi dần dần tăng trưởng; Thánh tuệ được lãnh thọ như ánh sáng chấn động, làm cho tinh tấn tu tập. Mỗi ánh sáng đều từ lỗ chân lông phóng ra, soi chiếu vô số thế giới của chư Phật đầy khắp cõi trần; thấy vô số cõi Phật không sao đếm được; thấy đại chúng tu tập ở đạo tràng, nghe Đức Phật giảng giáo pháp. Mỗi Như Lai đều vì vô số loài chúng sinh, mà giải trừ phiền não. Mỗi chúng sinh với đủ loại tâm tánh, không sao nói hết, tâm tánh mỗi mỗi đều khác nhưng dùng đạo pháp thì dẫn dắt khai hóa được. Sự độ thoát của mỗi Đức Như Lai là thế. Tất cả các Đức Như Lai, cũng vậy không khác. Ví như một lỗ chân lông, tất cả các lỗ khác cũng vậy; khi diễn nói pháp âm khai rộng chí tánh, suy xét sự thích nghi các nơi, để dắt dẫn kẻ chưa hiểu biết, tất cả Đức Như Lai trong một khoảnh khắc hiện thân thì cũng đều lãnh thọ pháp môn từ một âm thanh, rồi tùy sở thích, thuận theo sự khen ngợi của chúng sinh trong đạo tràng, muốn nghe pháp ấy mà nhận được đầy đủ. Đối với việc ấy chúng ta cũng phải như vậy. Trí tuệ sáng suốt, biện tài thông triệt, hạnh nghiệp trong sạch, vui lòng chúng sinh, trong khoảnh khắc, thân đó sẽ đi khắp các cõi. Chúng sinh nhờ đạt đạo địa Bồ-tát này mà ngày đêm tăng trưởng, ý niệm không thay đổi, nhập hạnh Phật đạo, đạt được pháp bình đẳng của Như Lai, thành tựu pháp môn giải thoát thâm diệu của Bồ-tát. Nhờ nhập trí tuệ này, nên thường thấy chư Phật, không hề rời xa, kiếp nào cũng thấy vô số trăm ngàn ức chư Phật, cúng dường phụng sự, học hỏi Như Lai, lãnh thọ giáo pháp đã giảng, nắm giữ kinh điển, rồi tuyên thuyết, gốc công đức ấy ngày thêm nhiều, vượt quá không ai sánh. Phật tử! Ví như thợ bạc, tạo thành các chuỗi ngọc trang sức, để dâng lên Chuyển luân thánh vương, trang sức ở cổ sáng rực; làm tăng ngọc nữ báu không ai bằng. Ban đêm ở trên lầu cao chiếu khắp bốn cõi thành, ngọc của chúng sinh bị che khuất không hiện được, chỉ riêng ngọc này là sáng soi. Cũng thế, Phật tử! Bồ-tát đạt hạnh Thiện tai ý khai sĩ này thì phước đức càng tăng thêm, càng nhiều, không ai sánh bằng, vượt qua hàng Thanh văn, Duyên giác, vượt cả Bồ-tát mới phát tâm từ Sơ địa đến Địa thứ tám. Ánh sáng phước đức của vị này, tiêu diệt tâm trần lao của chúng sinh và soi sáng tất cả, từ ân đức đó, bỏ ác làm thiện, bỏ tục vào đạo. Phật tử! Ví như ánh sáng của Đại phạm thiên soi khắp ba ngàn cõi nước, không nơi nào mà không chiếu đến, mọi loài đều được sáng soi. Cũng thế, Bồ-tát trụ ở địa Thiện tai này, dùng hết thảy ánh sáng công sức soi rọi chúng sinh để thấu đạt cao xa; dùng đạo pháp sáng soi, bỏ tục vào đạo. Phật tử! Đó là hạnh nghiệp rộng lớn Huyền diệu bình đẳng của trụ Thiện tai ý thứ chín. Dù trải qua vô số kiếp cũng không thể nói hết phước đức của Bồ-tát này. Bồtát Đại sĩ an trụ ở Địa này, hoặc làm Phạm Thiên, hoặc làm Đại phạm vương, tự tại trong ba ngàn cõi, tạo lập pháp Thanh văn, Duyên giác và các hạnh Bồ-tát, giảng thuyết không cùng, chói sáng không gì sánh, chỉ vẽ rõ ngọn gốc chí tánh của chúng sinh. Đó là đạo nghiệp bố thí cho người, ái kính nhân hòa, lợi ích cho người; khuyên bảo cúng dường tài vật. Dùng bốn ân đó mà cứu độ tất cả. Thường xuyên tích lũy công đức và luôn niệm Phật, để tâm không xa rời, cho đến khi được đầy đủ sự thành tựu Nhất thiết trí, suy niệm ấy cũng không quên mất; suy nghĩ cách làm bậc Tối Tôn của chúng sinh, đem Thánh đạo đến khắp để dắt dẫn kẻ chưa hiểu biết, vừa phát tâm siêng năng tinh tấn tu tập theo sắc tượng như vậy, liền đạt được vô số, vô lượng Tam-muội chánh thọ như số bụi trong trăm ngàn cõi Phật; thấy các Bồ-tát cũng như số bụi trần trong trăm ngàn cõi Phật tập trung làm quyến thuộc. Tất cả đều nhờ nguyện lực diệu đạo đưa đến. Sở nguyện của các Bồ-tát đặc biệt thù thắng, cảm động biến hóa không thể nói hết. Dù trải qua vô số trăm ngàn kiếp cũng không thể nghĩ bàn được.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn nêu lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Lực này không thể lường
Phụng hành pháp của Phật
Tuệ vi diệu thứ nhất
Chúng sinh khó hiểu được
Chính mình nghe thọ trì
Tạng bí mật của Phật
Bởi vì các chúng sinh
Nên nhập Địa thứ chín
Nhờ đó đạt Tổng trì
Tam-muội rất tối tôn
Rộng lớn nghiệp thần thông
Biến khắp tất cả cõi
Hiểu rõ sức Thánh tuệ
Tối thắng hiện mọi nơi
Chí nguyện tâm từ mẫn
Chánh trụ Địa thứ chín
Nhờ thông đạt Địa này
Thù thắng giữ tạng pháp
Pháp giải thoát chân diệu
Nghĩa đức không phân biệt
Đang hành hạnh hữu lậu
Thân Hiền thánh cõi đời
Tâm này không thể lường
Tối tôn hiểu thật nghĩa
Phân biệt rõ các pháp
Tư duy đến rốt ráo
Thành tựu việc ba thừa
So lường mọi tạo tác
Hữu vi hay vô vi
Hiểu rõ việc nên làm
Làm hết cả hai việc
Thuận đời mà hòa nhập
Vì thâm nhập tuệ này
Ý vi diệu thù thắng
Thâu nhận tâm chúng sinh
Suy tìm nguồn gốc chúng
Tâm giống như bức họa
Rời xa nhưng luân chuyển
Thần thức thật khôn lường
Sáng soi thâm nhập hết
Các pháp trần lao kia
Kết bạn khó chữa trị
Trói buộc phải thọ sinh
Xoay vần gần tai họa
Tạo tác bao nhiêu việc
Thâm nhập phân biệt nghiệp
Bình đẳng không quả báo
Nhân duyên đã tiêu diệt
Thâm nhập thấu rõ căn
Cao thấp và vừa phải
Trừ diệt các quá khứ
Thông suốt nghĩa vị lai
Vững tin vô ương số
Thanh tịnh không thanh tịnh
Thông suốt tám vạn hạnh
Và bốn ngàn việc làm
Thâm nhập các chủng loại
Thành tà kiến trần lao
Vì thế bị rong ruổi
Vô cùng không thể dứt
Tâm bị sự trói buộc
Dắt dẫn cùng nhau đi
Suy xét tâm ý này
Trói buộc không dừng dứt
Chí tánh như đường thẳng
Trói buộc như che trăng
Không còn nơi an trụ
Cũng chẳng chốn dừng chân
Vì thế khó giáo hóa
Cõi người không trở lại
Dùng kim cang chặt đứt
Đạo ấy vẫn không khác
Phần bộ tùy theo nghiệp
Sinh ở trong sáu nẻo
Dục tình là ái nhuận
Vô minh: Ruộng tội phước
Thần thức là thấp nhất
Tạo hành là danh sắc
Ở trong ba cảnh giới
Đi lại không cùng tận
Lên đến các cõi trời
Tâm chạy theo trần lao
Qua lại khắp tất cả
Nên phải bị sinh tử
Chúng sinh tạo ba nghiệp
Vì thế phải qua lại
Những ngọn lửa tà kiến
Đi theo vết thần thức
Tất cả những hạnh ấy
Đều do trụ địa này
Từ tâm tánh chúng sinh
Theo đó hiểu các căn
Vì chúng giảng kinh pháp
Phân biệt rõ các việc
Phân tích nghĩa lý này
Biện tài khéo quyền biến
Nếu ai đến được chỗ
Pháp sư đã an trụ
Nói năng không chấp trước
Như ngọn núi Tu-di
Như nước mưa thấm ướt
Cam lộ thấm khắp nơi
Căn lực của Giác ý
Tràn đầy như biển lớn
Hiểu rõ thật nghĩa tuệ
Hiểu pháp cũng như vậy
Tất cả đều chấm dứt
Đạt được các biện tài
Được vô số sáng suốt
Một vạn môn Tổng trì
Cầm giữ pháp giải thoát
Như mưa trong biển lớn
Cứ thế đạt Tổng trì
Và Tam-muội thanh tịnh
Đồng thời thấy vô số
Trăm ngàn ức Đức Phật
Nhờ nghe được Pháp bảo
Lại thường xuyên tuyên thuyết
Lời rõ ràng thông suốt
Tiếng tự nhiên vi diệu
Trong khoảnh khắc phát tâm
Biết tam thiên thế giới
Chúng hội của phàm phu
Có bao nhiêu tâm niệm
Làm vui lòng tất cả
Theo căn tánh của chúng
Sự thâm nhập đều vậy
Như biển lớn bốn phương
Phước đức còn hơn đây
Tổng nhiếp đạt tinh tấn
Suy xét thật khó lường
Như cát của sông Hằng
An trụ và thuyết pháp
Độ chúng sinh phàm phu
Người nghe đều thọ trì
Như gieo giống trong đất
Giả sử các chúng sinh
Đang ở trong mười phương
Có ái khiến cho họ
Đều ngồi vào một chỗ
Thông đạt hết tất cả
Tánh hành niệm như vậy
Chỉ dùng một âm thanh
Ai cũng được no đủ
Bậc trung tôn an trụ
Pháp vương tối thượng này
Đi khắp các cõi nước
Thành đệ tử Thế Tôn
Ngày đêm luôn an trụ
Thù thắng hợp chí nguyện
Trụ nơi tịch vi diệu
Pháp giải thoát dũng mãnh
Luôn phụng sự cúng dường
Lạy vô số Đức Phật.
Thành tựu đạo cao vợi
Trang nghiêm như Chuyển luân
Sáng soi trừ trần cấu
Thọ pháp phóng hào quang
Như ánh sáng Phạm thiên
Chiếu tam thiên cảnh giới
Công đức trụ địa này
Soi vô số Phạm thiên
Phật phân biệt giảng thuyết
Tạo lập ra ba thừa
Những ai siêng tu tập
Thương xót các chúng sinh
Nhập vào Nhất thiết trí
Đạt hạnh Thánh giả tuệ
Cõi nước không thể lường
Cho đến thành Vương xá
Dùng oai lực suy xét
Tam-muội khắp mười phương
Thấy mười phương chư Phật
Thế Tôn lời nhu nhuyến
Phát thệ nguyện vi diệu
Tâm không thể đo lường
Đó là Trụ thứ chín
Thật vi diệu khó hiểu
An trụ rồi tự diễn
Đó là hạnh Đại thừa.

Vô số chư Thiên cõi trời Tịnh cư đến nghe chánh pháp vô thượng, trụ trong hư không, tâm vui mừng khôn xiết, cung kính khiêm nhường, an trụ vâng lời. Vô số Bồ-tát ở trong hư không, vui mừng rải các hoa thơm, làm vui lòng tất cả, đốt sạch hết nhơ uế trần lao của chúng sinh. Tự tại Thiên vương vui mừng, trụ ở trên cao cùng vô số chúng, hoan hỷ dâng cúng áo đẹp của trời, trân báu của cõi Phạm Thiên, nhất tâm quy y; vô số ngọc nữ xinh đẹp, trổi nhạc đảnh lễ. Tất cả đều phát ra âm thanh hình tượng như vậy. Các hàng Phật tử quyến thuộc ngồi khắp cả cõi Phật. Ánh sáng ấy rực rỡ, chiếu soi khắp nơi, các thân đều nhu nhuyến, khắp các cõi đều được soi sáng. Ánh sáng từ mỗi lỗ chân lông của Đấng Như Lai Chí Chân thật là rực rỡ, diệt trừ hết trần cấu của chúng sinh; số bụi ở các cõi nước còn có thể đếm được nhưng số chúng hội này không thể đếm được. Ngay lúc đó, tất cả đều được thấy các tướng vi diệu của thân Phật, thấy các Chuyển luân vương đi đến các nước khác, làm việc tối thượng, tốt đẹp, cao vợi; thấy các đấng Thánh hiền, đại thần tôn quý của cõi trời và người, từ cõi Đâu-suất giáng hạ vào thai mẹ rồi đản sinh, tuy ở trong thai, nhưng hiện ở vô số cõi nước, vừa sinh ra thì hiện thành cõi Phật. Bản nguyện của đấng Đạo sư là vì chúng sinh mà xuất gia, để thành tựu Phật đạo, làm bậc Tối chánh giác, chuyển bánh xe pháp, thị hiện vô số cõi Phật; ví như nhà ảo thuật, học các chú thuật, tùy thuận thọ mạng, hiện ra vô số phép thuật. Đức Thế Tôn cũng vậy, tu học trí tuệ, vì chúng sinh mà xuất gia, ở chỗ trống rỗng, tịch tĩnh không tướng, các pháp bình đẳng ví như hư không. Giáo pháp, giới luật của Phật rất lợi ích, nhưng vốn là không, chỉ thị hiện sự thù thắng. Sự đi ở của Phật và các hạnh an trụ đều là tự nhiên; vì thương yêu chúng sinh mà giảng thuyết thành kinh điển, thấy tất cả các pháp đều là tướng bình đẳng; tướng của các tướng thì vô tướng là thứ nhất. Dùng Thánh tuệ hiển rõ thật nghĩa của các pháp, bỏ được ác tướng và các hành nghiệp của hữu tưởng, vô tưởng. Hiểu rõ các hành, thành bậc tôn quý của mọi người, tuyên thuyết vô số ức âm thanh nhân hòa; nếu tại thế thì hàng phục các người nữ của trời ma, biết được chúng hội chí chân tịch tĩnh như vầng trăng chiếu khắp thiên hạ.

Bồ-tát Kim Cang Tạng giảng các hạnh nghiệp, các Phật tử tu tập hạnh Đại thừa, thực hành huân tập mười việc hạnh nghiệp, thấy điềm lành, tâm vui mừng khôn xiết. Các bậc Thánh tuệ thượng nhân cũng đều vui vẻ ca ngợi.

QUYỂN 5

Phẩm 10: TRỤ PHÁP VŨ

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt:

–Này Phật tử! Ý Thánh tuệ của Bồ-tát Đại sĩ thật là cao cả khôn lường. Với hạnh nghiệp nghiêm tịnh như vậy, khi tới đạo Địa thứ chín, thì Bồ-tát đã đầy đủ pháp thanh tịnh sáng suốt không ngằn mé, chứa nhóm công đức, đời đời tự nghĩ việc tạo lợi ích cho chúng sinh; tìm đủ cách cứu giúp ba cõi, khéo léo thâu nhận, tuệ đức vô cùng, tâm Từ vô lượng, hạnh sâu rộng lớn lưu bố khắp nơi; phân biệt hiểu rõ thế giới vô biên; vào trong cõi chúng sinh, qua lại trong sự vắng lặng, trước sau như một, khai hóa đạo nghiệp tối thượng của Như Lai, niệm về sự tư duy, về Lực, về Vô sở úy; kinh điển của Phật trống rỗng vô lượng, hết thảy các mẫn tuệ; thành tựu đầy đủ bậc Nhất sinh bổ xứ là như vậy. Lại nữa, Phật tử! Nhập thánh nghiệp của Bồ-tát như vậy là gần hạnh Nhất sinh bổ xứ. Vừa trụ được hạnh này thì đạt Tam-muội hiệu là Vô cấu; Bồ-tát tuyên thuyết pháp giới và những đạo tràng của Bồtát tên là Trang nghiêm tịnh, là Cự hải tạng. Lại có tên là Hải ấn, là Quảng như hư không, là Nhất thiết pháp tự nhiên, là chúng sinh tâm hành… đủ các loại như vậy; gần đạt tới trăm ngàn a-tăng-kỳ chánh định pháp. Vừa đạt định ý này, dùng chánh thọ lại đạt được Tam-muội Thiện đức, thực hành các phương tiện, nhờ nhân duyên ấy và định ý này cho đến khi thông đạt Nhất thiết mẫn trí, mà có sự đặc thù. Đó mới là gần Tam-muội của Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ. Nhờ đạt gần được Tam-muội này mà mười ba ngàn cõi ở mười phương tự nhiên phát sinh vô số trân bảo kỳ lạ, hoa sen thanh tịnh đầy khắp trong nhà, báu lớn tự nhiên tràn đầy, vượt qua hết thảy các cõi pháp giới; phụng hành đạo nghĩa, chánh pháp chí chân, đầy đủ cội gốc đức, độ thoát chúng sinh, thành tựu rốt ráo sự mầu nhiệm tự nhiên. Lại nữa, ở pháp giới ấy việc tu tập thanh tịnh, phô diễn ánh sáng của bậc Thánh. Cọng sen to lớn bằng ngọc minh nguyệt lưu ly gộp lại vượt các cõi trời. Lá và hoa bằng vô số trân bảo chiênđàn, mã não, vàng ròng. Ánh sáng rực rỡ, không sao so lường được. Hoa sen rực rỡ ấy, đều do các trân bảo hợp thành, bay lên hư không, trải dài như tấm màn trân báu che khắp, ví như số bụi đầy trong tam thiên đại thiên thế giới ở mười phương, không thể kể được. Trăm ngàn hoa sen đầy khắp trong hư không ở mười phương, hương thơm xông thấm khắp thân hình Bồ-tát Đại sĩ đã đầy đủ Nhất thiết trí. Người an trụ định Tam-muội Nhất sinh bổ xứ, sẽ được ngòi trên hoa sen to này; an tọa ở đây xong, lại biến hóa vô số hoa sen, không sao đếm được, các Bồ-tát quyến thuộc vây quanh, ngồi trên những hoa sen đó. Mỗi Bồ-tát đều đạt trăm ngàn vạn Tammuội, dùng chánh thọ, quán sát các Bồ-tát. Nhờ chánh thọ ấy mà vô số cõi Phật không cùng tận, ở mười phương đều tự nhiên thanh tịnh. Các Đức Như Lai dùng giáo pháp soi rọi đạo tràng. Vì sao? Vì Bồ-tát ngồi trên hoa sen lớn này, ở dưới chân, phóng ra vô số ánh sáng, chiếu khắp mười phương, đến tận ngục A-tỳ vô gián, diệt khổ não hoạn nạn cho chúng sinh. Hai đầu gối cũng phóng ra ánh sáng như vậy chiếu đến các loại ngạ quỷ, súc sinh để chấm dứt khổ đau. Hai bên hông cũng phóng ra ánh sáng, chiếu đến cõi người, khắp mười phương đều được nương nhờ ánh sáng. Hai tâm bàn tay cũng phóng ra ánh sáng, chiếu đến cung điện cõi trời, A-tu-luân. Hai vai, khuỷu tay cũng phóng ra hai loại ánh sáng, chiếu đến các Thanh văn. Não và lưng cũng phóng ra ánh sáng, chiếu đến tâm các Duyên giác mười phương. Mặt, miệng cũng phóng ra ánh sáng vi diệu, chiếu đến các Bồ-tát ở Địa thứ chín. Bạch hào giữa chặng mày cũng phóng ra ánh sáng rực rỡ, chiếu soi tất cả cung ma ở mười phương, làm tan hết bóng tối. Dùng thân của Bồtát Nhất sinh bổ xứ, bay lên hư không, chiếu soi vô số trăm ngàn cõi Phật, vô số các Đức Như Lai, vô số chúng hội đạo tràng, rồi nhiễu quanh Phật mười vòng; trụ trong hư không, giăng thành tấm màn ngọc sáng lớn tên là Đại quang, rực rỡ dâng cúng Như Lai, tăng thêm công đức. Nhờ sự cúng dường ấy, mà từ lúc phát tâm cho đến trụ được Địa thứ chín, tùy thuận phụng sự Như Lai, tùy thời vắng lặng gấp trăm ngàn lần, không sao ví dụ được. Tấm màn ngọc sáng lớn đó, rực rỡ cao vợi, chiếu đến tất cả các cảnh giới ở mười phương; rải đủ các loài hoa, hương hoa, tạp hương, trù hương, y phục, cờ phướn, lọng báu, tơ lụa, trải trân báu minh nguyệt khắp các cõi ở mười phương, làm đấng Vô thượng Chánh chân với đầy đủ căn lành phước đức, làm mưa rải các hoa lớn, mà mỗi giọt mưa lại có bao nhiêu là vật để cúng dường hội chúng ở đạo tràng, cúng dường phụng hành các Đức Như Lai ở mười phương. Chúng sinh nào thấy được, đều phát đạo tâm Vô thượng Chánh chân. Rải các loại hoa vi diệu như thế, ánh sáng ấy lại bao quanh các Đức Phật và hội chúng ở đạo tràng mười vòng, rồi nhập vào tâm bàn chân Phật. Ánh sáng hoa ấy bỗng nhiên tỏa sáng các Như Lai và Bồ-tát, khiến được thấy các Bồ-tát lập hạnh như vậy, đạt địa Nhất sinh bổ xứ, các Bồ-tát ở mười phương, các Bồ-tát trụ Địa thứ chín, đều đến đông đủ không thể tính kể. Các Bồ-tát ấy và quyến thuộc tu hạnh cúng dường; quán sát thấy các Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, dùng Tam-muội chánh thọ trang nghiêm, đứng đầu, gọi đó là Thủ huyễn, vững chắc như kim cang, hàng phục được ma oán. Mỗi ánh sáng ấy phóng vô số trăm ngàn ánh sáng khác, chiếu khắp các cõi Phật ở mười phương, hiển hiện thần biến. Ánh sáng đó tự nhiên biến mất, nhập vào Thủ huyễn trang nghiêm, đứng đầu hàng Bồ-tát. Ánh sáng đó mất chưa lâu, thì các Bồ-tát nhờ oai thần uy lực soi sáng lại càng rực rỡ. Phật tử! Lúc ấy, lại có ánh sáng lớn, tên Nhất thiết tuệ thần thông thánh quan, từ hào tướng giữa mày của Đấng Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác phóng ra vô số những tia sáng, cùng các ánh sáng quyến thuộc chiếu sáng vô số cõi ở mười phương, nhiễu quanh các cõi Phật mười vòng, rồi hiển hiện các Đức Như Lai, với những thần túc cảm động biến hóa và dạy bảo vô số trăm ngàn ức Bồ-tát. Các cõi Phật chấn động sáu cách, tiêu diệt tất cả các nẻo ác, che lấp cung điện của ma. Chư Phật nơi mười phương, đều tự nhiên hiển hiện, hiện ra các chúng hội đạo tràng của các Đấng Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác, oai thần nghiêm tịnh, pháp giới bình đẳng, biến khắp hư không, chiếu khắp cả các cõi ở mười phương, ánh sáng xoay quanh rồi bay lên hư không, vây quanh từ bên phải tất cả Bồ-tát, thể hiện sự nghiêm tịnh lớn. Các ánh sáng đó biến mất, tự nhiên từ trên cao nhập vào đỉnh đầu của Bồ-tát. Ánh sáng đó biến mất, các Bồ-tát từ trước đây chưa đắc định, nay nương theo oai quang của Phật, liền được trăm vạn Tam-muội. Ánh sáng đó cùng lúc chiếu trên các Bồ-tát, như tất cả các Đức Như Lai, không có gì khác. Ánh sáng biến mất, các Bồ-tát thành bậc Nhất sinh bổ xứ, đó gọi là cảnh giới Chí chân của Như Lai, có đầy đủ mười Lực, bình đẳng chánh giác, bình đẳng như hư không. Phật tử! Ví như thái tử thứ nhất của Chuyển luân thánh vương, được hoàng hậu tôn quý, hoài thai sinh ra đầy đủ tướng xứng đáng làm Thánh vương. Lúc ấy, Chuyển luân vương ngồi tòa vàng ròng trên mình voi báu, nước bốn biển được lấy đem về để trong bình tắm bằng vàng, trang trí lọng báu, cờ phướn, trổi kỹ nhạc và lấy nước đó rưới lên đầu và thân thể thái tử. Rưới xong là thành Thánh đỉnh cái vương. Chuyển luân vương ấy đủ mười nghiệp lành vì thế gọi Thần đế là Chuyển luân thánh vương. Phật tử! Bồ-tát Đại sĩ cũng vậy, thành tựu trí tuệ lớn, là Bồ-tát phải thực hành đầy đủ vô số trăm ngàn khổ hạnh, công đức trí tuệ ngày càng tăng trưởng thì mới an trụ trong đạo địa Mưa pháp. Bồ-tát trụ địa Mưa pháp, hiểu thấu cõi dục, xét nó từ hữu tạo ra sắc giới, vô sắc giới, cõi chúng sinh, cõi vô thức, cõi hữu vi vô vi, cõi hư không. Tu tập trong pháp giới, hiểu rõ Niếtbàn, biết rõ từ hữu, hiểu rõ các tà kiến, vọng chấp, trần lao, năm thú; tu tập sinh diệt; các hạnh Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát; mười Lực, bốn Vô sở úy của Như Lai; sắc thân, Pháp thân, Nhất thiết trí, thành đấng Tối chánh giác, chuyển bánh xe pháp, thị hiện sự diệt độ. Thường dùng pháp bình đẳng, thâm nhập tất cả pháp, phân biệt vượt qua, hiểu rõ tập khí, xét nó từ đó phát sinh; vì nhập trí tuệ này nên ý càng tăng trưởng, làm cho chúng sinh, nhưng kẻ không có nghiệp lớn mà suy xét kỹ, lại được độ thoát khỏi nguồn gốc trần lao; không kiêu mạn ở trong pháp thế tục; không lo sợ, dù ở trong đạo pháp; cũng không tự đại, không bỏ tâm từ lớn, dù đạt pháp Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Như Lai; cũng không tự đại, không có sự thêm bớt trong vui vẻ sân hận; đạt được bậc Chí chân, cũng phải luôn xét kỹ kinh điển sự nghiệp của Phật đã kiến tạo. Lúc ở cõi trần, tùy thời mà lập nguyện, tu các hạnh cúng dường tư duy nhiều kiếp, kiến lập Thánh tuệ, suy xét để thông đạt tất cả. Các Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Giác ấy, sự thể nhập là huyền diệu, là biết trí tuệ cao xa, sinh tử xoay vần, hiểu rõ sự mầu nhiệm. Lúc thị hiện thọ sinh, bỏ nước, bỏ ngôi vua, thành bậc Tối chánh giác, biến hóa chỉ dạy độ thoát, hiểu rõ tuệ vi diệu; chuyển được bánh xe pháp, tuổi thọ dài ngắn, sự tạo lập cho đến khi diệt độ của tâm, pháp tạo ra nhiều ít, đều từ tuệ vi diệu. Lại hiểu rõ các pháp bình đẳng chánh giác, tạng xứ Phật pháp, nơi ở của thân, khẩu, ý, hữu thời vô thời, hạnh nghiệp bí mật, Bồ-tát lãnh thọ, ban ân, cứu độ chúng sinh. Có chúng sinh bị ngu muội che đậy, các sự mê mờ làm tăm tối, các bộ phận chính của căn tánh phải chấp giữ mà tạo nghiệp. Có chúng sinh, hiểu rõ hạnh của chánh giác, nên đủ oai thần thánh tạng, hiểu biết trong kiếp số này ra vào nhiều ít. Một kiếp, trăm kiếp, vạn kiếp, vô số kiếp cũng đều biết rõ. Làm cho vô số kiếp nhập trong một kiếp. Biết cả số vô số không thể tính đếm và biết cả số hạng của kiếp số nhàn tĩnh. Kiếp số nhàn tĩnh, có kiếp không kiếp cũng không niệm; có kiếp có niệm; niệm có hay không thảy đều biết; thành Chánh giác, Vô chánh giác, Tối chánh giác đều biết rõ, biết quá khứ, hiện tại, vị lai; biết mọi việc trong quá khứ, hiện tại, vị lai; biết hết quá khứ, hiện tại, vị lai kiếp số dài ngắn và các việc bình đẳng; thấu đạt hết tất cả các kiếp, năm tháng, xa gần, trời đất thành bại, không thể xưng kể cũng đều biết rõ hết. Các Đức Như Lai đều cảm ứng đến những việc rất nhỏ như nắm lấy sợi lông. Lại có các cõi nước thân hình nhiều như vi trần, trí tuệ Chánh giác Tối thắng; thân tâm của chúng sinh, trí tuệ là do giác ngộ, tất cả đều nhập vào trí tuệ chánh giác tối thắng, hiện ra rốt ráo; trí tuệ nhu thuận xuất hiện, biết cái nghĩ bàn được, cái không nghĩ bàn được, cảnh giới của chư Phật, sự hiểu biết của Thanh văn, Duyên giác, sự thông đạt của Bồ-tát và đạo minh Thánh tuệ của Như Lai chưa hiểu đạt được cũng đều biết hết. Phật tử! Trí tuệ của các bậc Chánh Đẳng Chánh Giác rộng lớn khôn cùng. Bồtát an trụ đạo địa khôn lường này sẽ nhập tuệ vô cùng. Này Phật tử! Bồ-tát vì nhập đạo địa như vậy nên được nhập vào pháp, sự tạo lập giải thoát không thể nghĩ bàn của Bồ-tát có tên là pháp môn không che đậy, pháp môn Thanh tịnh cảnh giới, pháp môn Chiếu khắp; lại có hiệu Như Lai tạng, tạng không thể chống cự, tạng thâm nhập ba đời, pháp giới tạng lại có hiệu là Đạo tràng giải thoát ánh sáng thấu đạt, là nhập khắp pháp môn vô dư của Bồ-tát. Đó là mười pháp môn giải thoát mà Bồtát kiến tạo, cho đến trăm ngàn a-tăng-kỳ pháp môn như vậy mà không thể xưng kể. Bồ-tát nào trụ nơi đạo Địa thứ mười, sẽ đạt được Tam-muội như vậy, cho đến trăm ngàn môn Tổng trì thần thông vô hạn. Dùng trí tuệ này hiểu biết thâm nhập khắp mọi nơi không hạn lượng, suy nghĩ phương tiện chuẩn bị đầy đủ phước đức, cùng lúc lãnh thọ đạo nghĩa mà vô lượng chư Phật trong mười phương đã thuyết giảng; phóng ra ánh sáng Thánh pháp không thể lường, làm sáng rỡ pháp điển, làm mưa pháp thấm ướt, để được thọ trì. Phật tử! Ví như khi các con rồng làm mưa, những chỗ khác không thể chứa được, chỉ có biển lớn mới chứa được. Cũng thế, Phật tử! Nếu thâm nhập tạng bí mật của Như Lai, cũng lãnh thọ mưa pháp lớn, các chúng sinh khác không thể lãnh thọ, sẽ có duyên báo ứng, giữ gìn được các hạnh, Bồ-tát với hạnh nghiệp ở Địa thứ chín cũng không thể thọ trì. Bồ-tát trụ Địa thứ mười tức thấm nhuần đạo địa Mưa pháp, hiểu rõ và nắm giữ được tất cả tâm ý của chúng sinh. Phật tử! Ví như trong biển lớn có mây mưa lớn, tên là Thắng đế vô cực trùm khắp Nhị thừa, cùng lúc làm mưa cam lồ, khắp các cõi nước, làm cho khắp nơi châu thành lớn nhỏ trên dưới đều thấm nhuần. Vì sao? Vì biển lớn ấy, không thể đo lường được. Phật tử! Bồ-tát cũng thế, trụ đại Mưa pháp, giữ gìn mưa pháp của Như Lai, giáo hóa Nhị thừa, cho đến trí tuệ vô hạn của các Đức Như Lai, dù trải qua vô số kiếp cũng không thể bàn luận, không thể nêu, không thể đo lường được. Nó vô cùng vô tận, siêu vượt không thể đo đạt được, không thể ví dụ được. Các Đức Như Lai cùng lúc phóng ra ánh sáng lớn, làm mưa pháp thánh, thấm ướt khắp mười phương. Ai có thể tính đếm được số hạt mưa ấy? Lại hỏi: Lẽ nào thể tính đếm được hạnh của Bồ-tát ở trong các cõi Phật luận bàn mưa pháp nhiều ít sao? Có thể hiểu được chút ít sao? Đáp: Không thể nào tính kể ví dụ, đo lường được. Phật tử! Ví như không thể tính đếm được số chúng sinh nhiều như bụi trần trong vô số trăm ngàn cõi Phật ở mười phương. Số lượng kia cũng vậy, như bụi trần, không thể giảm ít. Mỗi chúng sinh, nếu có thể nghe và đạt được Tổng trì, đều là thị giả đứng đầu của Phật, là đệ tử lớn, rất tôn quý, học rộng, giống như Tỳ-kheo Đại Minh đứng đầu ở hội Đức Như Lai Kim Cang Thượng Liên Hoa Chí chân, học rộng nghe nhiều, đủ phương tiện, uy lực mạnh mẽ. Giả như tất cả chúng sinh ở khắp mười phương đều có trí tuệ như vị này; với công đức trí tuệ cao vời khôn lường, ai nấy đều thọ trì tất cả pháp môn. Phật tử! Ý ông thế nào? Chúng sinh học rộng này có nhiều không?

Đáp:

–Vô hạn.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Ta ân cần chỉ dạy, phó chúc cho các ông. Bồtát được trụ địa Mưa pháp này tức trụ địa Đạo Bồtát, cùng lúc lãnh thọ thân Như Lai, ban mưa Pháp khắp pháp giới, diễn nói đạo pháp ba đời vi diệu của Như Lai. Ánh sáng pháp này giống như trước. Vị ấy học rộng, đủ phương tiện gấp trăm ngàn vạn ức lần, không thể ví dụ được. Một Đức Như Lai trong cõi mười phương là vậy, vô số Đức Như Lai đầy khắp thế giới như bụi trần cũng vậy. Các Phật tử! Có vô số Đức Như Lai không thể kể được, đồng thời phát ra ánh sáng rực rỡ của đại Mưa pháp, pháp ấy thấm ướt khắp cả mà không thể so sánh, không thể ví dụ. Lại nữa Phật tử! Bồ-tát trụ địa Mưa pháp này, ở cõi trời Đâu-suất cho đến khi đạt đại diệt độ, đều là do thệ nguyện của Như Lai, oai thần uy lực, phát tâm Từ bi lớn, thuyết pháp không cùng, phóng ra ánh sáng pháp, nổi sấm thánh kinh, nương sáu thần thông, có trí ba đạt và bốn Vô sở úy, chiếu soi cùng cực, diệt trừ u tối trần cấu; dùng ánh sáng công đức trí tuệ lớn phá tan lưới nghi, tùy các loại thân hình mà thị hiện thân hình, diễn nói pháp lớn, không bỏ chúng hội, trừ các ấm cái, dập tắt lửa hừng trong mười phương như đã nói ở trước. Thế giới chư Phật như số bụi trong các cõi trần, trụ trong vô số trăm ngàn cõi Phật mà làm mưa cam lồ lớn, rồi tùy tâm tánh, hạnh nghiệp chúng sinh, mà tiêu diệt trần cấu, dập tắt lửa hừng. Nhờ nước pháp này mà ai nấy cũng đều vĩnh viễn an ổn. Lại nữa Phật tử! Bồ-tát trụ đạo địa này, diễn nói mưa pháp lớn, từ cõi khác đến cõi trời Đâu-suất diệt độ, kiến lập các hạnh nghiệp của Như Lai, rồi tùy tâm chúng sinh mà khai hóa, như bụi trần trong vô số trăm ngàn cõi Phật. Từ cõi trời Đâu-suất giáng hạ sinh, đến lúc diệt độ, tạo lập các hạnh nghiệp của Như Lai rồi tùy tâm chúng sinh mà hóa độ, đạt tuệ tự tại, đạt đến sự biến hóa của đại thần thông thánh minh, vừa phát tâm, biến được cõi nước nhỏ thành rộng lớn, làm cho nước lớn thành nhỏ; biến cõi nhơ uế thành thanh tịnh, cõi thanh tịnh thành nhơ uế. Tất cả cõi khác cũng như vậy. Vừa phát tâm, dùng một hạt bụi biến thành một cõi Phật; tạo ra ở tất cả cõi, đều có núi Thiết vi, Đại thiết vi, các hào khe suối, một, hai, ba cho đến mười, năm mươi, trăm, vô số cõi Phật được tạo lập, lại nhập vào một hạt bụi. Dù ở trong một hạt bụi nhưng không rộng hẹp, thêm bớt. Thị hiện các việc như vậy. Vừa phát tâm, hiển hiện nghiêm tịnh một cõi Phật, cho đến vô số cõi. Trong một niệm, hiện ra thân hình, biến khắp mười phương, đủ khắp các loài chúng sinh, ở một cõi nước, ở một cõi Phật cũng vậy; cho đến vô số cõi Phật cũng không thể kể được. Nhập vô số cõi Phật trong mười phương vào trong một sợi lông mà không làm tổn hại. Vừa phát tâm liền hiện nhập hết thảy cõi Phật vào một sợi lông, hiển hiện thật nghiêm tịnh. Vừa phát tâm, đồng lúc đã biến hóa ra nhiều ít như số bụi trần đầy trong vô số cõi Phật. Biến hóa hiện ra thân, có vô số tay, dùng tay siêng năng cúng dường chư Phật nơi mười phương. Mỗi mỗi bàn tay, thị hiện vô số hoa, như cát trong sông, đựng trong vạt áo, để cúng dường các đấng Thế Tôn; dùng các loại hương hoa để trang sức như tạp hương, hương cây, y phục, chăn, cờ phướn, lọng báu, làm tất cả các việc trang sức nghiêm tịnh như vậy. Mỗi mỗi thân, biến hóa ra nhiều đầu. Mỗi đầu hóa ra bao nhiêu là lưỡi, thăm hỏi các Đức Thế Tôn trong mười phương. Vừa phát tâm, đã đi khắp mười phương, trong một niệm, làm cho vô số chúng sinh không thể kể được, đều thành bậc Tối chánh giác, cho đến khi tạo được nghiệp thanh tịnh để đạt được diệt độ. Trong ba đời, tạo ra vô số thân, dùng thân mình hiện ra vô số Phật, vô hạn các cõi Phật, tạo lập sự thanh tịnh, lại làm cho thân mình ở khắp các cõi Phật, tan hoại hợp thành, làm cho thân mình có đủ khắp mọi nơi. Biến các cõi Phật vào trong một lỗ chân lông có vô số chúng sinh. Vừa phát tâm, biến hiện cõi Phật không cùng thành biển lớn, trong đó tạo ra các hoa sen; hoa sen ấy sáng sạch, chiếu soi vô số cõi Phật. Cũng ở trong đó, lại hóa hiện các cõi Phật, hết thảy đều mẫn huệ vời vợi. Thân đó có khắp trong cõi Phật nơi mười phương, chiếu khắp cả mặt trời, mặt trăng, tạo ra vô số pháp môn sáng tịnh, làm cho khắp nơi đều thấy vô số thế giới được tạo lập nhưng không làm cho chúng sinh sợ, cho đến lúc mười phương hư hoại; hiển hiện việc hư hoại ấy là biến ra tai họa gió, lửa, nước; vừa phát tâm là chỉ dạy chúng sinh chí nguyện như mình, biến hóa sắc thân, trang nghiêm chí tánh; biến thân mình thành thân Như Lai; biến thân Như Lai thành thân mình, dùng thân Như Lai tạo thành thân mình để ở trong cõi Phật, tạo lập thân Phật ở trong cõi mình. Phật tử! Hãy lắng nghe! Bồ-tát nào trụ trong hạnh nghiệp của đạo địa Mưa pháp thì hiện được sự biến hóa này và vô số trăm ngàn thần biến khác.

Lúc ấy, các Bồ-tát, Thiên, Long, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hầu-lặc, Đế Thích, Phạm thiên, Tứ Thiên vương, đại Thần Diệu Thiên vương, Tịnh cư Thiên vương đang ở trong đạo tràng, đều nghĩ: “Bồ-tát có thần túc biến hóa, vô số công đức cao vợi, đi lại thản nhiên như vậy, còn oai thần của Như Lai Chí Chân hiện hóa ra sao?”

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng, dùng oai lực Tam-muội tự nhiên ở các cõi Phật và chánh thọ an định tâm ý, làm cho các Bồ-tát, Thiên, Long, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hầu-lặc, Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên vương, đại Thần Diệu Thiên vương, Tịnh Cư Thiên vương tự hiện thân mình vào thân Kim cang tạng, lại làm cho tất cả thấy tam thiên đại thiên thế giới cũng ở trong thân mình. Ở đó, tạo nghiệp thanh tịnh nhưng cũng không thể chiếm khắp thân, trải qua ức kiếp tu hạnh tinh tấn, ở dưới cây Bồ-đề của Phật. Cây ấy rộng ba mươi vạn dặm, nếu có trăm, hoặc ba ngàn ức cõi cao xa cây cũng trùm khắp. Ở đạo tràng, dưới cây Bồ-đề cao lớn như vậy, có tòa Sư tử; lại có vị Bồ-tát tên Chư Thần Thông, sẽ thành Đấng Như Lai, hiệu là Ý Vương cũng đến đại thọ nơi đạo tràng. Lúc ấy, chúng hội đều trông thấy từ xa, thấy Bồ-tát thật là trang nghiêm, khen ngợi oai đức nhưng không sao rốt ráo được. Hiện thần biến xong, Bồ-tát Kim Cang Tạng đưa chúng hội về chỗ cũ. Lúc ấy, hội chúng đều ngạc nhiên, im lặng không nói, thấy các Bồ-tát đều tịch tịnh an trụ.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng:

–Phật tử, thật là hy hữu! Tam-muội định này, oai quang như vậy, cảnh giới vi diệu. Định của Bồtát này tên gì?

Đáp:

–Tên là Nhất thiết Phật độ tự nhiên thân oai.

Lại hỏi:

–Tam-muội này dùng hạnh gì để đến cảnh giới nghiêm tịnh?

Đáp:

–Đủ tất cả hạnh. Thiện nam! Bồ-tát nào khéo tu định này, thì hình tượng giống loài ví như cát trong sông, bụi trong tam thiên đại thiên thế giới; các Bồ-tát ở trong tam thiên đại thiên thế giới, tự hiện thân mình, lại đạt đạo địa Mưa pháp. Bồ-tát nào trụ nơi đạo địa này, thì đạt được trăm ngàn định ý; số lượng của sự hiện thân và sự phụng hành không sao kể được, không thể đo lường được. Ngay các Bồ-tát trụ ở địa Thiện tai diệu ý cũng không thể biết được thân, khẩu, ý nghiệp của vị này, dù dùng sức thần túc không thể biết được, xét Tam-muội trong ba đời mà Bồ-tát nhập cảnh giới thánh tuệ, pháp biến hóa, pháp tạo tác, không thể lường biết được, ngay cả việc thường làm như cất chân lên đặt chân xuống cũng không ai biết được. Kể cả Bồ-tát hành nghiệp tinh tấn, hạnh trụ đạo địa Thiện tai diệu ý của Bồ-tát cũng không thể biết được. Phật tử! Đạo địa Mưa pháp của Bồ-tát này khi nói là bình đẳng nhưng kỳ thực nghĩa của nó rộng lớn, không thể hạn lượng, chỉ biết diễn thuyết đó là pháp chánh chân, không thể nghĩ bàn, phải nói lời đúng như thật. Dù trải qua trăm ngàn kiếp cũng không thể ví dụ được.

Lại hỏi:

–Phật tử! Hạnh nghiệp và cảnh giới Huyền diệu của Như Lai ra sao mà làm cho các Bồ-tát lập hạnh nghiệp cảnh giới thần biến vô biên như vậy?

Đáp:

–Phật tử! Ví như có người, thị hiện thân hình khắp bốn cõi, cầm trượng lớn như bốn cõi; hoặc như hai, ba cõi, tay cầm cây gậy lớn đập vào đá to và nói: “Ta đập đá này nát như số bụi trong vô số cõi Phật ở mười phương”. Có ai biết được số bụi này không? Nếu ai biết được số bụi này, thì gọi là đã thành tựu đạo địa bình đẳng. Thành tựu đạo địa Mưa pháp của Bồ-tát thật là vô lượng, vượt qua thí dụ, nhưng trí tuệ của Như Lai thì không thể ví dụ được, vì để được trở hành bậc Chí chân Chánh giác thì phải tu tập các pháp Bồ-tát.

Lại nữa, Phật tử! Ví như có người nắm hết đất trong bốn cõi, tưởng nhiều nhưng đó chỉ là số ít không đáng kể. Cũng thế, Phật tử! Ta nay chỉ giảng nói, ca tụng một ít đạo địa của Bồ-tát Mưa pháp, dù trải qua vô số kiếp để khen ngợi công đức cũng không thể hết được, huống gì đạo địa của Như Lai. Nay đây, trước Đức Như Lai, ta ân cần giao phó. Nói tóm lại, Phật tử! Giả sử làm cho chúng sinh nhiều như số bụi trong vô số cõi Phật ở mỗi mỗi phương, đều đạt đạo địa như vậy, thì ở đó Bồ-tát phải nhiều như rừng mía, tre, gai, cỏ; phải trải qua vô số kiếp thành tựu hạnh Bồ-tát, đầy đủ các Thánh giả tuệ của Bồ-tát. Trí của Như Lai đối với Bồ-tát này, gấp cả trăm, cả ngàn, cả ức lần, không thể ví dụ được.

Phật tử! Bồ-tát nhập Thánh tuệ của Như Lai Chí Chân, thì thân, khẩu, ý nghiệp hợp nhau không hai. Đó là Bồ-tát không bỏ sức Tam-muội, được gặp các Đức Phật, cúng dường và phụng sự. Ở trong mỗi kiếp, cung phụng chư Phật, không thể kể xiết, cúng dường tất cả, không thể thiếu thốn, lãnh thọ đạo pháp, quy y chư Phật, tạo lập giáo pháp, hạnh nghiệp tăng thêm không gì sánh bằng, học biết pháp giới, không sao kể được, dù trải qua trăm ngàn ức kiếp.

Phật tử! Ví như thợ vàng, dùng vật báu của trời xỏ xâu làm thành chuỗi anh lạc lớn; những hạt châu quý giá ấy trang sức nơi cổ của Tự tại Thiên vương thì không ai sánh bằng; cho dù những trân bảo kỳ dị quý hiếm có trong cõi trời, người cũng không trang nghiêm và tốt đẹp được như vậy. Cũng thế, Phật tử! Bồ-tát đạt được Trụ thứ mười là vì tịnh tu tuệ hạnh, siêu việt không ai bằng, ngay cả Bồ-tát đạt Địa thứ chín cũng không sánh bằng. Bồ-tát trụ địa này, ánh sáng rực rỡ thành tựu Nhất thiết mẫn tuệ, hạnh ấy không ai sánh được. Với Thánh khí ấy, cứu giúp được tất cả, giống như ánh sáng đại thần vi diệu của Thiên vương, vượt qua tất cả chỗ thọ sinh của chư thiên, soi chiếu các hành động của tâm tánh chúng sinh. Cũng thế, Bồ-tát đạt đạo địa Mưa pháp thứ mười, có ánh sáng Thánh tuệ mà tất cả Thanh văn, Duyên giác Bồ-tát khác, không sánh kịp, dù Bồ-tát trụ Địa thứ chín, cũng không sánh kịp. Lập hạnh như vậy, đạt được Nhất thiết mẫn tuệ, làm lợi ích cho chúng sinh, thâm nhập những đạo nghĩa. Lại nữa, Bồ-tát đó vì nhập Thánh tuệ của chư Phật Thế Tôn như vậy nên thông đạt tuệ không cùng của ba đời. Cảnh giới Thánh tuệ biến khắp tất cả các cõi Phật, soi rọi tất cả cõi Phật mới kiến lập, biết hết các pháp và các cõi chúng sinh, luôn dùng pháp bình đẳng, đạt Nhất thiết trí, nghe và thông hiểu tất cả âm thanh chúng sinh.

Phật tử! Bồ-tát Đại sĩ này, gọi là Bồ-tát Mưa pháp, trụ thứ mười. Bồ-tát trụ địa này, giả sử được làm đại thiên thần diệu hoặc làm Thiên vương thì sẽ giảng pháp, độ cho vô số Thanh văn, Duyên giác Bồ-tát; hỏi biết pháp giới thì không ai bằng. Tu các hạnh như bố thí, ái kính, lợi ích thật nghĩa, thường không lìa niệm Phật, cho đến không lìa niệm đầy đủ Nhất thiết chủng trí, thường suy nghĩ về cách làm bậc Tối thượng trong chúng sinh, có trí rộng lớn trong đạo, phát tâm hình sắc như vậy, ân cần tinh tấn trong khoảnh khắc đạt vô số trăm ngàn Tam-muội chánh thọ, như số bụi trần trong các cõi Phật, không sao kể hết. Có vô số Bồ-tát trong các cõi Phật, cũng như số bụi trên làm quyến thuộc vây quanh; theo chí nguyện ấy uy lực của Bồ-tát đặc biệt thù thắng; hoằng thệ rất rộng lớn, thần thông biến hóa đầy đủ, khen ngợi công đức không thể kể hết; hạnh nghiệp nghiêm tịnh, vui vẻ vững tin. Nếu có thị hiện thân để thực hành thì dùng nhãn thông để thấy và hiểu rõ hạnh nghiệp, âm thanh chủng tánh trong trăm ngàn ức kiếp.

Lại nữa, Phật tử! Bồ-tát thập trụ, nhập Nhất thiết trí và dần thành tựu pháp môn. Ví như từ ao lớn A-nậu-đạt, có bốn dòng sông chảy tràn đầy bốn cõi, ngày thêm tăng trưởng không cùng tận, chảy ra biển lớn, nhưng biển lớn không tràn ngập. Cũng thế, Bồ-tát bản nguyện, chí khí vững chãi, ban đủ nghĩa bốn ân cho chúng sinh, rồi khai hóa chúng sinh, công đức đó không thể cùng tận, ngày càng tăng trưởng, đạt Nhất thiết trí, hạnh nghiệp vô biên không bến bờ.

Lại nữa, Phật tử! Bồ-tát thập trụ, nhờ đó mà đạt Phật tuệ. Ví như mười núi lớn, nương mặt đất đứng vững. Mười núi đó là: 1. Tuyết sơn. 2. Hương huân. 3. Kha-đà-lợi. 4. Tật-đố. 5. Chấp-trì-thuẫn. 6. Mã nhĩ. 7. Thuẫn-trì. 8. Thiết vi. 9. Anh-ý. 10. Đại thiết vi tu-di sơn vương. Như Tuyết sơn, có vô số cỏ thuốc dùng làm nhà cửa, trị bệnh chúng sinh. Cũng thế, Bồ-tát trụ địa Duyệt dự, tạo lập hạnh nghiệp, hiểu rõ tất cả hạnh thế gian, dùng lời nói truyền tụng kinh điển thần chú, học kỹ thuật thế tục, hóa độ vô cùng. Như núi Hương huân, tỏa ra các mùi thơm tràn khắp mọi nhà, không sao lường được. Cũng thế, Bồ-tát trụ địa Ly cấu, dùng giới làm nhà cửa, hương giới tỏa xa, giữ gìn pháp cấm, không sao hạn lượng được, cùng nuôi dưỡng nghĩa giới. Như núi Kha-đà-lợi, các báu vật rất trong sạch dùng làm nhà cửa sinh ra vô số hoa, hoa ấy thọ nhận khắp các loài hoa khác. Cũng thế, Bồ-tát trụ địa Hưng quang, làm nhà ở trong đời, tu pháp Thiền định giải thoát Tam-muội chánh thọ vô hạn, học hỏi tất cả các định ý. Như núi Tật-đố, thành làm toàn bằng báu vật trong sạch, đó là nhà của người đạt năm thần thông, là nơi ở của vô số tiên nhân. Cũng thế, Bồ-tát trụ địa Vi diệu; làm nhà cửa giảng thuyết đạo pháp, với vô số pháp môn, học hỏi các tuệ. Như núi lớn Chấp-trì-thuẫn với báu chân tịnh, là nhà của quỷ thần có đủ thần thông, có vô số các loài quỷ. Cũng thế, Bồ-tát trụ địa Nan thắng có đầy đủ các thần túc, biến hóa giảng thuyết vô hạn, thần thông vô hạn. Như núi lớn Mã nhĩ toàn bằng báu vật, dùng làm nhà cửa, có đủ loại trái, thọ nhận vô số báu. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi đạo địa Mục kiến của Bồ-tát làm nhà cửa, tuyên thuyết độ thoát hết thảy hàng Thanh văn, tùy thời giảng thuyết đạt đạo quả không cùng. Như núi lớn Thuẫn-trì, là nơi ở của rồng thần lớn, đủ các loại rồng không hạn lượng được. Cũng thế, Bồ-tát trụ địa Huyền diệu tuyên thuyết giáo pháp. (Văn ví dụ bị thiếu). Cũng thế, Bồ-tát trụ đạo địa Vô động khai sĩ là nơi ở tự tại của Bồ-tát, đi lại một mình, học hỏi lãnh thọ khắp các cảnh giới ở mười phương. Như núi Anh-lý toàn bằng trân bảo, là nơi ở của vô số A-tu-nhân và đại thần. Cũng thế, Bồ-tát trụ địa Thiện-tai-ý lấy sự thành tựu chúng sinh làm nhà, hiện ra thân Phật không bến bờ, làm cho chúng sinh mười phương đều đến lãnh thọ, rốt ráo tuệ hạnh, học hỏi ngọn gốc nghiệp vô thỉ của chúng sinh, luân chuyển không cùng tận. Như ngọn núi Tu-di, dùng toàn trân bảo, làm chỗ ở của các chư Thiên thần túc và vô số A-tu-luân. Cũng thế, Bồtát trụ đạo địa khai sĩ Mưa pháp sẽ được mười Lực, bốn Vô sở úy của Như Lai, hiện ra vô số thân Phật. Phật tử! Như mười núi báu bao quanh biển lớn; cũng thế, Bồ-tát trụ trí bình đẳng của mười Địa là để sáng suốt phụng hành Nhất thiết trí. Ví như biển lớn, thành tựu được mười việc mà không ai làm được. Mười việc đó là gì? 1. Dần dần được đầy đủ. 2. Không chứa tử thi. 3. Tiếp nhận nhiều cửa sông. 4. Thuần một vị. 5. Vô số trân bảo. 6. Màu sắc càng xa càng đậm. 7. Rộng lớn không bờ mé. 8. Nhận các thân lớn. 9. Nước không vượt bờ. 10. Nhận tất cả nước mưa mà không tràn. Cũng thế, Bồ-tát thực hành mười nghiệp tất không ai sánh bằng. Mười việc đó là gì? Từ lúc hành địa Duyệt dự, giữ thệ nguyện giáo hóa chúng sinh. Địa Ly cấu thì không ở chung với kẻ phạm giới. Địa Hưng quang hàng phục việc sát sinh của thế gian. Địa Huy diệu, vững tin Phật đạo, không ai hoại được, luôn tu các hạnh bình đẳng. Địa Nan thắng, đủ thần thông quyền biến, không thể hạn lượng, hóa độ thế tục tùy vào sở thích của chúng sinh. Địa Mục kiến, dùng nhân duyên sâu xa quán sát chúng sinh. Địa Huyền diệu, hiểu đúng đắn, các hành không trái. Địa Vô động, tu tập vô số hạnh nghiêm tịnh của Như Lai. Địa Thiện tai ý, hiểu sâu pháp môn giải thoát. Phật tử! Ví như châu Minh nguyệt lớn, vượt hơn mười loại trân bảo khác, nơi nào cũng đều được sáng soi; gặp thợ mài ngọc, khéo phối hợp mài dũa sẽ sáng đẹp và luôn trong suốt rồi dùng dây chắc thật xâu trân bảo làm thành dây lưu ly, trang sức ở đầu các phướn cờ cao, sẽ phóng ra ánh sáng chiếu khắp xa gần. Các bậc vua chúa, vì nhân dân mà giữ gìn trân bảo này, để được sáng soi. Cũng thế, Bồ-tát, phát khởi Nhất thiết trí thì tâm thông suốt, vào mười bậc Thánh hiền, biết đủ, thích ở nơi vắng, hiểu đúng việc tu đức, nhất tâm giải thoát Tam-muội chánh thọ; hiểu đúng việc tu tập ba pháp thanh tịnh, tu tập các việc đạo nghiệp chánh pháp; khéo tu thuần tịnh, thần thông quyền biến, phân biệt hiểu rõ mười hai nhân duyên và các phẩm hạnh; dùng trí tuệ quyền biến nắm giữ cờ thánh mà được tự tại, từ đó phóng ra ánh sáng, dùng trí tuệ quán hạnh chúng sinh, đạt đến vị Nhất sinh bổ xứ, thành tựu đạo Tối chánh giác, lại làm cho chúng sinh đều an trụ trong mười Địa. Đó mới gọi là Nhất thiết trí, là tu tập tích lũy hạnh Bồ-tát, là một phần của pháp môn tu tập công đức, đạt Nhất thiết mẫn tuệ. Chúng sinh nào không có công đức thì hoàn toàn không được nghe đạo nghiệp lớn này.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt lại hỏi:

–Thanh văn nào đạt được pháp này thì nhờ chứa nhóm những công đức gì?

Đáp:

–Đó là công đức phước, tức là thời xưa, từng phụng hành, tùy thuận Nhất thiết trí, nhưng vì không tùy thuận Thánh tuệ chiếu soi hoặc chiếu soi không xa, không hành đại Từ bi, đi khắp các nơi để ban ân bảo hộ. Nhờ đó đạt được các pháp sáng, hiện rõ công huân tập, làm cho công đức được tích lũy. Vì sao? Vì hiểu được pháp. Lại nữa, Phật tử! Nếu không phải là Bồ-tát, thì không thể nghe được pháp môn này, cũng không vững tin, thọ trì, đọc tụng; huống gì tu tập, siêng năng, phụng hành, hàng phục để thành tựu? Vì thế Phật tử! Người nhập Nhất thiết trí phải đủ công đức mới thọ trì pháp này. Ai nghe được pháp môn này, tin tưởng, suy xét phụng hành, siêng năng tu tập; thì nhờ oai thần của Phật ở vô số cõi Phật trong mười phương thế giới sẽ chấn động sáu cách, rền vang tiếng sấm, nương thánh chỉ Phật, nuôi dưỡng ân đức kinh điển, mưa các loại hoa trời, tỏa các hương thơm, trang sức cho cõi trời, y phục, trân bảo, anh lạc, tràng phan âm nhạc của trời không ai trổi mà tự vang, đàn cầm sắt và tiêu, không hầu tự nhiên phát ra tiếng hay hơn các vật của cõi trời. Nhờ Nhất thiết trí, nên được gần địa vô vi, cúng dường vật vi diệu. Pháp này âm vang khắp các cõi trên dưới trong mười phương, lên đến cung trời Tha hóa tự tại, Tự tại Thiên vương và các cung điện cõi trời.

Nương oai thần của Phật mà vô số Bồ-tát ở khắp mười phương mười ức cõi Phật đều đến đại hội này, khen ngợi:

–Lành thay! Lành thay! Hỡi người con Phật! Nhân giả có thể giảng thuyết pháp yếu của đạo địa Bồ-tát. Chúng tôi đều cùng một hiệu Kim Cang Tạng, từ thế giới Kim cang thủ đến đây. Đức Phật cõi ấy hiệu là Kim cang tạng. Tất cả các Đức Phật đều luân chuyển kinh điển chủ yếu và thánh chỉ của Phật ở các hội chúng, ở trong chương cú, nghĩa lý vi diệu, hình tượng thật nghĩa cũng đều y như vậy, tất cả phải thực hành để được lợi ích… không sai không khác, không dựa vào cái khác. Chúng tôi nương oai thần của Phật, đến chúng hội đây để chứng minh. Như chúng tôi đến cõi Phật này, mười phương vô lượng cảnh giới cũng vậy; ở mỗi cõi Phật, có khắp bốn phương, lên đến cung trời Tha hóa tự tại, Tự tại Thiên vương, cung Thiên vương, với châu Minh nguyệt tàng trữ khắp cung điện, vô số Bồ-tát đầy khắp trong mười phương ức cõi Phật cũng đến đây.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng quán sát các Bồ-tát ở mười phương, các bộ chúng, nhìn khắp pháp giới, học hỏi phát khởi tâm Nhất thiết trí; quán sát hạnh lực thanh tịnh của các Bồ-tát, nhập Nhất thiết trí; giảng thuyết đạo hạnh, tiêu trừ trần cấu, dùng trí dắt dẫn, thị hiện thần thông biến hóa, các công đức hạnh nghiệp không thể nghĩ bàn của Bồ-tát, tuyên thuyết đạo này, nương thánh chỉ Phật, nói kệ rằng:

Tịch mịch không mong cầu
Định tĩnh tâm chuyên tinh
Trống rỗng như hư không
Bằng phẳng như đồng hoang
Lìa tai họa, trừ cấu
An trụ nơi đạo tuệ
Nghe đức hạnh thù thắng
Các Bồ-tát chí tôn
Ngàn bộ chúng đức lành
Tâm hành vô số kiếp
Cúng dường đến Thánh giả
Trăm ngàn ức Như Lai
Tối thắng nhờ tự tại
Phụng kính không thể lường
Thương xót các chúng sinh
Phát khởi tâm Bồ-tát
Siêng năng suy xét pháp
Nhẫn nhục thêm nhân hòa
Hổ thẹn là trên hết
Công huân tuệ tối tôn
Tâm ý không nhơ uế
Tuệ tánh Phật sáng suốt
Sức thù thắng bình đẳng
Khuyên phát tâm Bồ-tát
Ba đời giúp đại chúng
Cúng dường là số một
Rộng lớn như hư không
Tất cả cõi thanh tịnh
Bình đẳng tùy thuận hết
Pháp thật nghĩa của Phật
Độ thoát lợi chúng sinh
Đến đạo tràng hàng phục
Đạt đạo địa thù thắng
Phát tâm không gì bằng
Vui vẻ vì Ly cấu
Tiêu trừ các pháp ác
Uy lực hạnh vi diệu
Nên thành pháp thanh tịnh
Phụng hành tâm Từ bi
Tiến dần nhập Thượng đạo
Giữ giới làm giàu đức
Từ tâm thương chúng sinh
Bỏ cấu, sạch không còn
Tức thành chí thanh tịnh
Xét tất cả thế gian
Bị ba lửa thiêu đốt
Chí rộng lớn, thứ ba
Siêu vượt lợi chúng sinh
Khổ não, không nhân ngã
Đầy tật bệnh đớn đau
Dứt trừ khổ ba cõi
Dập tắt ngọn lửa hừng
Ham thích công đức Phật
Tu sửa tỳ vết ố
Tuệ rộng lớn chiếu soi
Vượt hơn các ánh sáng
Tâm ý hạnh thanh tịnh
Nên đạt trí Thánh đạo
Khéo an trụ cúng dường
Trăm ngàn ức Đức Phật
Phụng sự đấng tối tôn
Tâm tịnh đủ công đức
Hàng phục tất cả chúng
Siêu vượt khó ai hơn
Thánh tuệ là quyền biến
Ý tu tập Thánh tuệ
Tạo nghiệp không thể lường
Hàng phục lợi chúng sinh
Cúng dường khắp mười phương
Dùng đạo độ chúng sinh
Thân cận không tạo tác
Được nhập Địa thứ sáu
Chúng sinh khó hiểu được
Tới lui trong thế gian
Dụng thân không hoạn nạn
Thọ, biết pháp hữu vi
Các pháp vốn sạch không
Từ mười hai duyên sinh
Sự thấp kém, vi diệu!
Được nhập Địa thứ bảy
Trí tuệ và quyền biến
Đạt tâm tịnh sáng suốt
Vượt xa khó ai tin
Trí lớn khó ví dụ
Vốn vắng lặng trong sạch
Tâm chí rất nhanh lẹ
Bình đẳng trước khổ vui
Vượt qua mọi lay động
Tạo bao nhiêu tội phước
Đủ các loại Thánh tuệ
Tối thắng trong cõi người
An trụ nơi tịch nhiên
Đạt được mười tự tại
Qua lại cõi chúng sinh
Để đưa các chúng sinh
Vào đạo ý giới lành
Đạt vi diệu thứ nhất
Trải qua tất cả cõi
Cứu độ các chúng sinh
Giải trừ mọi trần cấu
Đều phụng hành luật pháp
Đủ phước đức công huân
Hạnh nghiệp như hoa báu
Tuyên thuyết tuệ tối thượng
Thọ lãnh mọi hạnh nghiệp
Đời trước, hạnh thanh bạch
Đạt đến Trụ thứ chín
Được Thánh tuệ, công đức
Đủ các lực bố thí
Thích thánh pháp tối thượng
Vì gần công huân tuệ
Nên đạt được Phật đạo
Có được mười, trăm, ngàn
Tam-muội vô vi này
Được sáng suốt rộng lớn
Đi ở A-duy-nhan
Cảnh giới thật bao la
Tam-muội vô cùng tận
Dường như đạt rốt ráo
Thân cận Nhất thiết tuệ
Hoa sen lớn uy nghiêm
Và bao nhiêu trân bảo
Thân cao lớn uy nghiêm
An tọa trên hoa sen
Quyến thuộc thật tối thắng
Trụ yên mà suy xét
Đủ vô số phước đức
Và vô lượng ánh sáng
Tiêu diệt họa khổ não
Trong cõi nước mười phương
Sau làm người đứng đầu
Tỏa sáng trăm ngàn nơi
Là Bậc Nhân Trung Tôn
Vượt qua mười phương cõi.
An trụ trong hư không
Hóa thành tấm màn lớn
Lãnh thọ các hạnh Phật
Tùy thuận cúng dường Phật
Lúc đó, thấy chư Phật
Hiểu tất cả pháp mầu
Phật tử A-duy-nhan
Đạt được pháp Tối thượng
Phật tử đi khắp nơi
Để cúng dường chư Phật
Vị A-duy-nhan này
Phóng ánh sáng tối tôn
Giữa chặng mày của Phật
Đạt thành Nhất thiết trí
Ánh sáng phóng rất xa
Nhập vào trên đỉnh đầu
Thuyết vô lượng tịch diệt
Chấn động khắp các cõi
Các khổ não trong ngục
Tức thời được tiêu diệt
Giống như ta quay về
Tất cả pháp của Phật
Lại như vua tối tôn
Và thái tử cao quý
Ta cũng được như vậy
Rốt ráo Nhất thiết tuệ
Cứ thế dần đạt được
Đạo địa Mưa pháp này
Đấng Chí nhân trụ đó
Tuệ hạnh không thể lường
Chúng sinh đều khen ngợi
Đạt chánh giác thành Phật
Cõi sắc, cõi vô sắc
Cõi dục đều ca tụng
Chúng sinh các cõi nước
Khắp pháp giới ngợi khen
Hữu vi và vô vi
Cùng các cõi không thân
Tất cả đều phân biệt
Học hỏi bằng pháp mầu
Cứ thế càng tăng trưởng
Thắng nghiệp không kiêu mạn
Tạo lập hạnh như vậy
Tuệ vi diệu của Phật
Tạng bí mật Như Lai
Thông hiểu vô số kiếp
Như số cát, chân lông
Vào khắp các cảnh giới
Sinh trong cõi thế gian
Xuất gia hiểu thánh đạo
Vào trong núi Thiết vi
Thành tựu mà thị hiện
Hóa độ tất cả cõi
Vào pháp môn tịch diệt
Chí tánh đó đạt được
Nhập vào đạo thâm sâu
Chí lớn trụ vào đó
Diễn nói mưa pháp thù thắng
Quay vòng khắp tất cả
Nắm giữ tâm ý mình
Mưa thấm các chúng sinh
Như gió mang hơi nước
Mưa pháp của chư Phật
Cũng thấm nhuần như vậy
Dùng một pháp an trụ
Tiếng lớn vang khắp nơi
Vô số loại chúng sinh
Ở cõi Phật nơi mười phương
Nghe pháp và phụng trì
Tất cả là Thanh văn
Đủ vô số hạnh nghiệp
Là Bồ-tát học rộng
Hạnh tuệ đến uy lực
Đều nhờ hạnh từ xưa
Chỉ trong một khoảnh khắc
Đi khắp ức cõi Phật
Mưa tưới nước cam lộ
Vui diệt các trần lao
Mà tạo tánh nhân hòa
Mưa pháp của chư Phật
Dùng sáu thông an trụ
Siêu vượt đến cung trời
Cảnh giới Bậc Nhân Trung
Thị hiện khắp mười phương
Dần dần thay đổi khác
Vô số trăm ngàn kiếp
Dùng thánh minh an lập
Chỉ nhấc một bước chân
Đã đến Địa thứ chín
Chỗ trụ không đổi dời
Tổng trì công huân tuệ
Huống gì sợ chúng sinh
Chúng sinh trong ba cõi
Thành Thanh văn, Duyên giác
Tối thắng an trụ này
Lại thị hiện khắp cả
Ba cõi không ngăn ngại
Tuệ hiểu rõ pháp giới
Đi khắp tất cả cõi
Pháp chúng sinh không thừa
Đủ công huân chư Phật
Lại nương tựa Thế Tôn
Thánh đạt trụ nơi đây
Tu tập phụng sự Phật
Đi khắp các pháp giới
Tất cả cõi mười phương
Hiện các việc cúng dường
Phụng kính bao nhiêu vật
Thành tựu các công đức
Như trang nghiêm áo trời
Hiền thánh trụ ở đây
Dùng tuệ quang soi rọi
Tiêu diệt các tối tăm
Làm mất sáng chánh pháp
Minh tự tại tối thắng
Trừ hết loạn thế gian
Các Phật tử như vậy
Sáng soi từ trần lao
An trụ trong ba đời
Làm Đấng Tối Thượng Tôn
Dùng biện giải giảng đạo
Tuyên thuyết nghiệp ba thừa
Chỉ trong một khoảnh khắc
Đạt vô số Tam-muội
Ở khắp mười phương cõi
Thấy vô số Như Lai
Tạm tuyên thuyết đạo địa
Các Phật tử như vậy
Trải qua trăm ngàn kiếp
Khen ngợi đức không cùng
Dứt lìa sạch trần cấu
Địa này bình đẳng giác
Nương tựa giống như hoa
Như thái sơn tựa đất
Các Phật tử bậc nhất
Gặp oán không sân hận
Như tuyết phủ đỉnh núi
Mà có thuốc cho người
Thông hiểu đủ giới hạnh
Như xông ướp hoa thơm
Lại ví như hoa sen
Từ trong ao mọc ra
Pháp bảo không loạn động
Được ánh sáng Thánh trí
Tiên nhân ở trong núi
Vui vẻ với chính mình
Hương quỷ thần không tới
Đạt được năm thần thông
Giảng thuyết sáu quả báo
Như trân bảo, mã não
Bảy giác chi thù thắng
Như rồng mang điềm lành
Đạt đến tám tự tại
Như núi Thiết vi lớn
An nhập Trụ thứ chín
Bậc vi diệu Tối thượng
Mười công đức của Phật
Tựa Tu-di sáng soi
Đầy đủ nguyện thứ nhất
Hương giữ giới xưa ban
Hành công huân thứ ba
Rồi thực hành thứ tư
Thứ năm là Thanh tịnh
Hạnh thứ sáu Huyền diệu
Bảy, Ý không chỗ đắm
Giảng tám vô ương số
Lãnh thọ thánh thứ chín
Tâm cầu tuệ vi diệu
Qua lại trong chúng sinh
Nhưng an nhập Thánh tuệ
Mười việc của thân Phật
Nhờ Tổng trì các pháp
Hạnh rộng như biển lớn
Tâm Bồ-tát không sân
Đủ mười hạnh thông đạt
Vốn nhờ sự phát tâm
Tu mười hai trí hạnh
Nhất tâm định thứ ba
Thanh tịnh Địa thứ tư
Chiếu sáng Địa thứ năm
Thứ sáu trừ khổ não
Liền đạt Trụ thứ bảy
Tự nhiên giữ chánh pháp
Trụ thứ tám hòa nhã
Thứ chín nhận các hạnh
Ánh sáng tuệ chiếu xa
Thứ mười A duy-nhan
Hiểu rõ tối thù thắng
Công huân báo thanh tịnh
Từ xưa hành như vậy
Đếm biết hết tất cả
Mười phương cõi hư hoại
Nhờ nhất tâm thấy được
Hiểu rõ tâm chúng sinh
Nếu dùng một sợi lông
Đo lường hết hư không
Trải qua trăm ngàn kiếp
Không hết công đức Phật.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Sở dĩ gọi là Đại Quang Minh định ý là vì đạo tuệ đầy đủ, thành bậc Nhất sinh bổ xứ, hoàn tất Phật đạo, mọi người đều nhờ ân, ví như mặt trời sáng, thiên hạ đều tôn ngưỡng. Chư Phật nơi mười phương từ đây mà có, từ đây mà thành.

Đức Phật bảo các Bồ-tát:

-Lành thay! Lành thay! Bồ-tát Kim Cang Tạng đã giảng thuyết Hạnh Nghiệp Thập Trụ, mà các Bồ-tát phải thực hành, từ lúc mới phát tâm đến địa vị Nhất sinh bổ xứ.

Ví như vào ngày rằm, thì mặt trăng mọc tròn và sáng rực rỡ giữa các ngôi sao. Cũng thế, Bồ-tát dần dần đầy đủ các hạnh, năm giới, mười nghiệp lành, bốn Đẳng, bốn Ân, sáu Ba-la-mật, đại Từ đại Bi, phương tiện quyền biến, đạt thành Phật quả làm thấm nhuần chúng sinh.

Ví như trồng cây thì ra rễ, thân cành, nhánh, lá, hoa, trái, mọi người ăn để trừ đói khát. Cũng thế, Bồ-tát từ lúc phát tâm đến khi thành Phật đạo, ai nấy đều nhờ ân cứu giúp, nên mới đạt đạo.

Ví như các loài cây, trái, cỏ, thuốc; chúng đều từ đất mọc ra. Cũng thế, Bồ-tát hành mười trụ này, đến thành Phật sẽ độ thoát mười phương.

Ví như biển lớn, sản sinh các trân bảo, lợi ích khắp thiên hạ, Kinh này cũng thế, thành tựu mười đạo Địa của Bồ-tát cho đến thành Phật, đức lớn hơn hư không, như mặt trời, mặt trăng chiếu sáng bốn cõi, thiên hạ đều tôn ngưỡng. Bồ-tát hành những hạnh nghiệp này, sẽ thành Phật, chúng sinh đều nhờ ân, trừ vô số nạn sinh, già, bệnh, chết để bay thẳng đến đạo tràng.

Ví như lương y, chữa bệnh cho mọi người, ai nấy đều lành bệnh. Kinh này cũng vậy, tiêu trừ bệnh tham, sân, si của chúng sinh, để đạt được Chánh chân. Như Chuyển luân vương giáo hóa bốn cõi, ai nấy đều tùy thuận mệnh lệnh, cũng thế, Bồtát dùng bốn Đẳng, bốn ân giáo hóa phân biệt nhân ngã, những kẻ nương bốn đại được đến chỗ không lo sợ, bốn việc không cần giữ, vĩnh viễn trừ hết tâm bệnh.

Ví như núi Tu-di, ở giữa bốn phương. Kinh này cũng thế là kinh đứng đầu trong các kinh, đạo đức rộng lớn, chí khí chân chánh, bình đẳng, thông hiểu không thân cho đến đạo Vô thượng Chánh chân, độ thoát tất cả những hoạn nạn từ sinh già bệnh chết đã có xưa nay. Chư Phật ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều từ đây sinh ra, là biển sâu của các kinh, là cung điện của đạo đức, chứa các hạnh nghiệp của Bồ-tát, là nhà đạo mà người trong ba cõi tụ hội; là nguồn gốc cầu phước, làm cho bệnh tham, sân, si bỗng nhiên được tiêu mất.

Ví như hư không dung chứa được tất cả loài hữu tình, sinh ra lớn lên và là nhân của tất cả, cũng thế, kinh này là nơi các Bồ-tát, chư Phật thời quá khứ, hiện tại, vị lai từ đó sinh ra, đủ trí tuệ quyền biến, khai hóa chúng Thanh văn, Duyên giác để được độ thoát chúng sinh trong ba cõi đều được cứu tế, thoát khỏi ba khổ nạn, mở dây trói, phát đạo tâm, thâm nhập tạng pháp sâu xa, Pháp thân không cùng, khai hóa mười phương. Dù đem bảy báu có đầy trong vô số hằng hà sa cõi Phật mà cúng dường chư Phật nơi mười phương, cũng không bằng thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, chỉ dạy và học tập kinh này. Kinh này báo được ân đức của chư Phật ở quá khứ, hiện tại, vị lai. Kinh này là cõi của chư Phật, là nguồn gốc phước để thành đạo quả mười phương. Hư không còn có thể lường, biển lớn trong mười phương còn có thể biết, phước đức học được từ kinh này là không thể hạn lượng.

Bồ-tát Kim Cang Tạng thuyết pháp như vậy, Như Lai vui vẻ, hết thảy các Bồ-tát, Thiên, Long, Thần, Kiền-đạt-hòa, A-tu-luân, Đế Thích, Phạm thiên, Tứ Thiên vương, Đại thần diệu thiên, Tịnh cư thiên, Tha hóa tự tại; Thiên cung thứ sáu đang du hành ở bảo điện Minh nguyệt, từ lúc mới phát tâm tu địa Duyệt dự thứ nhất đến Địa thứ hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười thành Đấng Tối Chánh Giác; hết thảy chúng hội đều vui vẻ khi nghe lời giảng của Bồ-tát Kim Cang Tạng.

-oOo-

(Ngày 21, tháng 11 năm Nguyên Khang thứ bảy, Sa-môn Pháp Hộ ở chùa Thị Tây Trường An đã dịch từ chữ Phạm ra tiếng Tấn, làm cho chúng sinh trong mười phương đều nhờ ân, đạt đến chỗ vô hình, cứu độ chúng sinh, ai nấy đều vui vẻ cứu thoát. Nay giải thích mười trụ này từ tiếng Phạm ra tiếng Tấn. Trụ thứ I, tiếng Phạm là Mâu-đề-đà, tiếng Tấn dịch là Duyệt dự. Thứ II, tiếng Phạm là Duy-ma-la, tiếng Tấn là Ly cấu. Thứ III: tiếng Phạm là Bạt-ca-la, tiếng Tấn là Hưng quang. Thứ IV; tiếng Phạm là A-chí-mô, tiếng Tấn là Huy diệu. Thứ V; tiếng Phạm là Đầu-xà-da, tiếng Tấn là Nan thắng. Thứ VI; tiếng Phạm là A-tỳ mâu-khư, tiếng Phạm là Mục kiến. Thứ VII; tiếng Phạm là Đầuma-la-ca, tiếng Tấn là Huyền diệu. Thứ VIII; tiếng Phạm là A-dà-la, tiếng Tấn là Vô Động. Thứ IX; tiếng Phạm là Diểu-đầu-ma-đề, tiếng Tấn là Thiện tai ý. Thứ X; tiếng Phạm là Đàm-ma-di-ca, tiếng Tấn là Pháp Vũ.)


[Đầu trang][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10]


[Mục lục bộ Hoa Nghiêm][274][275][276][277][278.1][278.2][279.1][279.2][280][281][282][283][284][285][286][287][288][289][290][291][292][293.1][293.2][294][295][296][297][298][299][300][301][302][303][304][305][306][307]


[Mục lục tổng quát]