TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ HOA NGHIÊM(0274-0307)

SỐ 292 - KINH ĐỘ THẾ PHẨM

Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ.

MỤC LỤC

QUYỂN 1

QUYỂN 2

QUYỂN 3

QUYỂN 4

QUYỂN 5

QUYỂN 6


QUYỂN 1

Nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật ở trên tòa Sư tử Liên hoa tạng tại giảng đường Phổ quang của đạo tràng Pháp nhàn thuộc nước Ma-kiệt. Đức Phật đã thấu tỏ về chân đế, không còn nhị hành, đã vượt qua pháp vô tưởng. Sự đi ở của Đức Phật đều đạt đến bình đẳng, tất cả chư Phật đi ở, tới lui không hề ngăn ngại, cũng không hề bị che chướng. Pháp của chư Phật không hề thoái chuyển, sự hành dụng không một ai có thể sánh kịp, phụng kính chỗ thấy không thể nghĩ bàn. Thị hiện bình đẳng khắp ba đời, thân ấy hiển hiện trùm khắp thế giới, phân minh các pháp, tuệ hết do dự, đầy đủ các pháp, ngồi nơi gốc Bồ-đề, thông suốt kinh điển, dứt nghi Chánh giác, không nghĩ đến thân. Tất cả Bồ-tát ở đây chí nguyện đến đạo tuệ và có hạnh Phật không hai, lấy việc cứu độ qua bờ bên kia là việc bậc nhất, thành tựu cửa giải thoát mà Như Lai kiến lập. Cõi nước của chư Phật không có hạn lượng, chỗ hành bình đẳng, pháp, cảnh tu tập rộng lớn như không, mười phương cõi nước không thể tính đếm trăm ngàn ức na-do-tha vi trần số chư Bồ-tát ở đây cũng là như vậy. Các Bồ-tát Đại sĩ này đều là những vị Nhất sinh bổ xứ, vị lai sẽ thành đạo Vô thượng Chánh giác. Mỗi một vị đều ở cõi Phật nơi mười phương khác nhau, đều đến cõi này tham dự pháp hội. Tất cả đều là những bậc Khai sĩ, đều mở mắt tuệ và cửa công đức vô lượng, khai hóa tất cả chúng sinh các cõi, thuận theo luật mà dẫn đạo bằng phương tiện quyền xảo, biết rõ tùy thời. Trú pháp Bồ-tát trong các lầu gác, giảng đường của tất cả thế giới, vượt lên trên tuệ định mà quán cõi diệt độ. Vâng kính đạo tuệ, trừ bỏ tất cả ngôn từ, hành ấm và chỗ đáng trừ bỏ. Các vị biết rõ nhân duyên thích ứng thích ứng thu giữ hóa độ chúng sinh vào vô lượng đạo. Vào trong ấy nhưng chỗ làm, họa phước và báo ứng của tất cả chúng sinh đều không thể hủy hoại. Phân biệt đúng thời, chỗ dùng quán sát luôn vô sở đắc, biết rõ chí tánh của chúng sinh các cõi, thấu rõ các căn, thức tỉnh kẻ cần thức tỉnh, tùy theo nhân duyên, tùy bệnh cho thuốc. Quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật ban tuyên nghĩa lý chương cú thì luôn lãnh thọ phụng hành. Bồ-tát đã nhận sự thọ ký ấy rồi thì luôn hành bình đẳng, sáng rõ chánh tà, chỗ sẽ quay về là vào trong đời này mà độ đời với vô lượng pháp, tự vào chỗ chánh chân, đều đã quán rõ và thông giải hữu vi cùng vô vi không có hai. Quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật đều vào đạo tràng của tất cả Như Lai, một thời ngự đạo, đạt bình đẳng giải, thành Tối chánh giác. Các vị đều thị hiện tâm nhàn, tâm an, đã rõ Phật đạo, không lìa bỏ chúng sinh phát tâm. Vào tâm một chúng sinh thì có thể vào khắp chỗ biết, chỗ thích của tất cả chúng sinh. Tự ở trong trí tuệ ấy mà thân Bồ-tát không hề lay chuyển, đạt đến phổ trí và các tâm thông tuệ. Trú nơi quả vị ấy mà không hề thoái chuyển, nẻo hành hóa của Bồ-tát tinh tấn không hề chán mệt, tới lui khắp cùng là Tuệ không chỗ hành. Vì tất cả mọi người mà ở tại sinh tử trong vô số kiếp, biết rõ và kiến lập khó tính kiếp số, khó mà thấy gặp. Chư Bồ-tát đích thực rất khó gặp, thường chuyển pháp chưa từng chán mệt, khai hóa chúng sinh làm cho họ nhập vào luật giáo. Quá khứ, hiện tại, vị lai, chư Như Lai nghiêm tịnh cõi ấy, tác thành chúng sinh, đầy đủ bản hạnh, thệ nguyện đã tròn, công hạnh thù thắng. Chư Bồ-tát và các Học sĩ khác như vậy đều có thể tham vấn mười phương chư Phật với kiếp số vô hạn và tán thán vô cùng. Nguyên sơ của họ không có bờ mé, siêu vượt các chúng. Các vị ấy là: Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Phổ Nhân, Bồ-tát Phổ Hóa, Bồ-tát Phổ Trí, Bồ-tát Phổ Nhãn, Bồ-tát Phổ Quang, Bồ-tát Phổ Quán, Bồ-tát Phổ Minh, Bồ-tát Phổ Anh, Bồ-tát Phổ Giác. Các vị như vậy nhiều như số vi trần không thể tính đếm trăm ngàn ức na-do-tha cõi nước chư Phật. Bồ-tát Phổ Hiền có chí nguyện thù thắng, thệ nguyện ấy đã thành tựu. Mỗi khi chư Phật xuất thế thì Bồ-tát đều đến thỉnh cầu, biết rõ tùy thời và đều nắm giữ pháp nhãn giáo hóa của chư Phật, không để cho sự giáo hóa của tất cả Như Lai bị đoạn mất. Chư Phật ra đời thì liền được thọ ký danh hiệu, cõi nước, thành Tối chánh giác. Đã được vắng lặng rồi thì trụ nơi pháp luân, thị hiện làm Phật, không dính mắc vào cõi Phật, nghiêm trị tất cả thế giới hung ác, uế trược khó trị, diệt trừ các họa phước ngăn ngại của chúng Bồ-tát, nhập vào pháp giới chánh đế không bị ngăn ngại. Lúc đó, Bồ-tát Phổ Hiền liền dùng Chánh thọ Tam-muội Phật tạng vào khắp chỗ du hóa của mười phương chư Phật, không một chỗ nào không khắp biến; pháp, cảnh, giảng đường không một chỗ nào mà không thấu triệt. Cõi hư không ấy đều không bờ mé, mười phương cõi nước đều chấn động sáu cách. Ánh sáng lớn ấy không đâu là không tỏa chiếu, vang lên âm thanh lớn không đâu mà không nghe thấu. Bồ-tát Phổ Hiền từ trong Tam-muội thấy chư Bồ-tát đều đến pháp hội nên rất vui mừng hân hoan. Bồ-tát Phổ Trí thấy chư Bồ-tát đến vân tập cũng sinh vui mừng và đến trước Bồ-tát Phổ Hiền mà hỏi:

–Lành thay, Phật tử! Nay chư Bồ-tát mười phương vân tập đến vì khát ngưỡng kinh điển và ngưỡng nhờ Đại sĩ, như tối được sáng. Xin Đại sĩ vì họ mà giảng thuyết về hạnh Bồ-tát từ đầu đến cuối, làm cho họ không còn nghi ngờ, người cuối cùng cũng đều được khai thị, như bệnh được thuốc, như mù được sáng.Vì sao gọi chỗ nương tựa của Bồ-tát gọi là vô sở trước? Sao gọi là Bồ-tát chưa từng có tưởng? Sao gọi là hành? Sao gọi là bạn lành? Sao gọi là tinh tấn? Sao gọi là Khuyến tín? Sao gọi là hóa độ chúng sinh? Sao gọi là cấm giới? Sao gọi là thọ ký? Sao gọi là Bồ-tát không cầu tướng ngắn ngủi? Sao gọi là nhập Như Lai? Sao gọi là được vào tánh hạnh chúng sinh? Sao gọi là được vào các thế giới? Sao gọi là nhập vào kiếp số các niệm không chỗ nào mà không thấu đạt? Sao gọi là là diễn thuyết thông việc ba đời? Sao gọi là được nhập vào ba xứ? Sao gọi là chỗ phát tâm không chán mệt, không thiếu sót? Sao gọi là Bồ-tát biện biệt phân minh? Sao gọi là Bồ-tát đạt đến Tổng trì? Sao gọi là Bồ-tát tuyên diễn Phật đạo?

Bồ-tát Phổ Hiền vì nhân duyên thỉnh hỏi của Bổ-tát Phổ trí và muốn làm cho những người vân tập đến đều được hiểu rõ nên khen ngợi:

–Lành thay các hội Bồ-tát! Hãy cùng lắng nghe!

Bồ-tát có mười Pháp sự có chỗ nương tựa mà không vướng mắc. Những gì là mười?

1. Nương vào tâm Bồ-tát khiến cho không trái mất.

2. Nương vào bạn lành thường tu tinh chuyên.

3. Nương vào gốc đức mà trồng phước lạc.

4. Có thể phụng hành sự tùy thuận hóa độ vô biên.

5. Nương vào tất cả pháp vì không chỗ về.

6. Nương vào các thệ nguyện mà gần gũi đạo.

7. Chuyên hành các hạnh, huân tập đầy đủ.

8. Gần gũi các Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ.

9. Theo về các tâm Phật với sự hoan hỷ.

10. Phụng sự các Như Lai và tán thán như cha mình.

Đó là mười Pháp sự của Bồ-tát có chỗ nương tựa làm vô sở trước (không chỗ chấp trước), Bồ-tát mà trú ở đó thì mau chóng đạt đến chỗ nương tựa vô cực, đó là đại tuệ vô thượng của Như Lai.

Bồ-tát nói kệ tụng:

Nương mà không chỗ nương
Tự về với chư Phật
Rõ pháp, không chỗ trông
Cho đến chỗ đại nguyện
Thấy chư Phật hoan hỷ
Nương đó mà vâng kính
Nương nhờ chư Như Lai
Vì đủ đầy đạo hạnh.

Bồ-tát có mười việc chưa từng có tưởng.

Những gì là mười?

1. Nghĩ đến các gốc đức như nghĩ đến mình không khác.

2. Thân tích lũy điều thiện để ban rải cho chúng sinh.

3. Tất cả công đức giáo huấn dùng làm đạo tưởng.

4. Rõ thấu chúng sinh lấy làm đạo phẩm tưởng.

5. Nguyện cứu độ tất cả như cứu mình là nguyện tưởng.

6. Đều dùng các pháp thí.

7. Quán tất cả pháp như là pháp Phật.

8. Làm tất cả hạnh như hành thân tưởng.

9. Tất cả ngôn từ ở nơi chốn hành hóa không chỗ vọng tưởng.

10. Nhìn thấy chư Phật tưởng như cha mẹ và đối với chúng sinh không có hai tưởng.

Này Tộc tánh tử! Chúng chư Bồ-tát chưa từng có tưởng, Bồ-tát trú ở đây thì mau chóng thành tựu vô thượng, đạt đến các gốc đức. Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Vì tất cả tích đức
Nghĩ chúng sinh như mình
Quán sát khắp chúng sinh
Như pháp khí của đạo
Các chúng sinh lập nguyện
Bình đẳng không khác mình
Quy mạng nơi đạo pháp
Khiến đạt, không sinh theo.

Bồ-tát có mười việc hành dụng. Những gì là mười?

1. Giảng thuyết, phân biệt về đối tượng hành của chúng sinh.

2. Cầu tất cả chốn hành các pháp.

3. Học rộng giới cấm theo đấy phụng hành.

4. Tích lũy nhiều gốc đức của các pháp.

5. Nhất tâm chuyên tinh, phụng hành Tammuội.

6. Biết rõ Thánh tuệ chỗ phải quay về.

7. Ân cần vâng theo lời dạy chư Phật không hề trái mất.

8. Đi đến các cõi vì muốn trang nghiêm cõi nước.

9. Noi theo Thiện tri thức và luôn luôn cung kính.

10. Phụng Như Lai hạnh, kính như sư tử.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Tất cả có chốn hành
Phải khai hóa chúng sinh
Siêng cầu nơi các pháp
Mà phụng trì giới cấm
Tích lũy các gốc đức
Một tâm về định ý
Biết rõ tuệ Thánh minh
Chỗ hành tịnh cõi nước.

Bồ-tát có mười việc về bạn lành. Những gì là mười?

1. Kiến lập đạo ý.

2. Thường tu gốc đức.

3. Nhập Độ vô cực (Ba-la-mật).

4. Ban tuyên đạo pháp.

5. Khai hóa chúng sinh.

6. Phân biệt biện tài.

7. Khen ngợi chúng sinh.

8. Trừ các vọng tưởng.

9. Ở chỗ không buồn chán.

10. Lập hạnh Phổ hiền, vào tuệ chư Phật tức là bạn lành.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Tâm kiến lập nơi đạo
Siêng năng tu gốc đức
Vào các Độ vô cực
Ban tuyên các kinh điển
Khai hóa độ chúng sinh
Biện tài dứt các nghi
Xưng tán khắp muôn loài
Trừ sạch các tưởng nghĩ.

Bồ-tát có mười việc làm tinh tấn. Những gì là mười?

1. Giảng thuyết khắp cùng cõi chúng sinh.

2. Biết rõ chỗ hướng về của kinh điển.

3. Nghiêm tịnh tất cả thế giới chư Phật.

4. Luôn phụng hành các giới của Bồ-tát.

5. Thường nhẫn chịu tất cả các hoạn nạn.

6. Đoạn dứt những đau khổ nung nấu nơi ba đường dữ.

7. Hàng phục tất cả chúng ma và quyến thuộc của chúng.

8. Không làm cho chúng sinh mang tâm sân hận.

9. Luôn tuân theo mười phương chư Phật Thế Tôn.

10. Thường gặp chư Phật thì quy mạng và thọ giáo.

Này Tộc tánh tử! Đó là mười việc mà Bồ-tát hành tinh tấn.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Quy mạng nơi chư Phật
Nghiêm tịnh các cõi Phật
Phụng tu hạnh Bồ-tát
Chịu tất cả khổ não
Đoạn khổ nạn ba đường
Hàng phục ma, quyến thuộc
Làm vui lòng chúng sinh
Thường gặp chư Như Lai.

Bồ-tát có mười việc khuyến tin. Những gì là mười?

1. Thường kiến lập đạo ý và cũng khuyên người khác phát đạo tâm.

2. Từ hòa bậc nhất, không có tranh chấp, cũng giáo hóa cho người khác được an vui, trừ sạch pháp ngu mê.

3. Cũng giáo hóa người khác dứt bỏ sách vở tà vạy, khiến trú Phật đạo.

4. Chí cầu gốc đức và cũng khuyên người khác chí cầu gốc thiện.

5. Về nơi các Độ vô cực cũng khuyên người khác cầu Ba-la-mật.

6. Đã hiện tánh Phật thì cũng khuyến dụ người khác chí cầu Phật tánh.

7. Thân đã vào pháp không sở hữu và khuyến tiến người khác vào không pháp.

8. Khen ngợi trí tuệ chư Phật, không bao giờ hủy báng và cũng chỉ bày người khác không hủy báng chánh pháp.

9. Đầy đủ phổ trí, các nguyện thuần đủ và cũng dẫn dắt người khác thành tựu các thông tuệ.

10. Thệ-đạo rốt ráo, dùng để làm nghiêm tịnh trí tuệ vô tận của Như Lai Chí Chân và cũng sẽ kiến lập tất cả chúng sinh vào đạo Như Lai.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Đã kiến lập ở đạo

Cũng hóa độ tha nhân
Tâm không điều tranh tụng
Hòa vui người sân hận
Trừ bỏ các ngu tối
Khai hóa các đường tà
Thường cầu các gốc đức
Dẫn dụ trú nghĩa đạo.

Bồ-tát có mười việc khai hóa chúng sinh.

Những gì là mười?

1. Bồ-tát bố thí sự khuyến tấn chúng sinh.

2. Dung nhan hòa ái mà khuyến tấn thọ.

3. Ban tuyên kinh đạo khiến họ tỏ bày.

4. Khuyến tấn phân minh không khác với mình.

5. Chỗ bố thí vô lượng, phát khởi cõi người.

6. Hiển bày hạnh Phật, Bồ-tát để dẫn dắt các loài chúng sinh.

7. Chỉ dạy cho thế gian vì thế gian như lửa thiêu đốt và giáo huấn pháp đạo Vô thượng cho chúng sinh.

8. Thần túc biến hóa, cảm động vô số.

9. Biết rõ vô số phương tiện quyền xảo.

10. Tùy theo tập tục độ thoát muôn loài.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Bồ-tát hành bố thí
Dùng hóa độ chúng sinh
Dung nghi thường hòa vui
Khuyến dụ kẻ bất cập
Thấy đời như lửa đốt
Hiển bày đại đạo Phật
Thần túc hiện biến hóa
Vô số quyền phương tiện.

Cấm giới của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Không bỏ tâm đạo.

2. Dứt bỏ ý niệm Thanh văn, Duyên giác.

3. Quán sát tất cả chúng sinh bằng hạnh Từ bi.

4. Khai hóa chúng sinh khiến trụ Phật pháp.

5. Phụng tu chỗ Bồ-tát cần phải học.

6. Rõ tất cả pháp đều không thủ đắc.

7. Kẻ tạo gốc đức thì khuyến trợ họ đến với đạo.

8. Chưa từng chấp trước vào thân chư Phật.

9. Có thể nhẫn chịu các pháp cũng không chỗ dựa.

10. Giữ gìn các căn để hành trì giới cấm. Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Thường hòa với đạo tâm
Xả Thanh văn, Duyên giác
Thương xót khắp chúng sinh
Khuyến vào nơi Phật pháp
Học hạnh chư Bồ-tát
Rõ pháp vô sở hữu
Tất cả hành công đức
Khuyến giúp nơi Phật đạo

Bồ-tát có mười việc thọ ký và chỗ thấy về thọ ký đều tự biết cả. Những gì là mười?

1. Phát tâm từ hòa, đạo ý tự nhiên.

2. Không chán bỏ hạnh Bồ-tát.

3. Xả bỏ tất cả các vọng tưởng.

4. Có thể vâng tu pháp của chư Phật.

5. Thuần tin nơi chỗ chư Như Lai tuyên thuyết.

6. Quán thông và thành tựu gốc đức.

7. Hóa độ tất cả khiến trú Phật đạo.

8. Bình đẳng và tôn kính thân hữu không có hai tâm.

9. Thấy chư thiện hữu như thấy chư Phật.

10. Bản nguyện thuở xưa hộ trì Phật đạo.

Đó là mười pháp hành trì được thọ ký.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Bình đẳng kính thiện hữu
Lợi lạc từ đó thành
Nguyện xưa hộ trì pháp
Phát đạo ý lắng trong
Không chán hạnh Bồ-tát
Dứt bỏ các vọng tưởng
Khiến trú ở pháp Phật
Thuần tin Như Lai dạy.

Bồ-tát có mười việc không cầu sự hạn hẹp. Đó là:

1. Nhập vào thệ nguyện đời trước.

2. Tùy thời nhập hạnh, dẫn dắt huân tập tùy theo nhân duyên của chúng sinh.

3. Chẳng mất chánh nghĩa, đều được thông nhập.

4. Thành tựu đầy đủ các Độ vô cực.

5. Tùy theo phương tiện ấy mà có thể hội nhập.

6. Thuận theo sở nguyện.

7. Tùy theo sở thích của chúng sinh mà khai hóa họ.

8. Trang nghiêm cõi nước, khuyến nhập vào đạo.

9. Thần thông biến hóa làm cho họ theo sự giáo hóa ấy.

10. Vì khắp chúng sinh mà thị hiện.

Đó là mười việc không cầu sự hạn hẹp của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Đi vào nguyện đời trước
Chỗ hành tùy nhân duyên
Tuân hành theo thứ lớp
Thuận các Độ vô cực
Do đắc thành tựu lớn
Tùy chúng sinh tín lạc
Làm trang nghiêm cõi Phật
Dùng thần túc biến hóa

Bồ-tát có mười việc vào với Như Lai, chỗ mà tất cả chư Phật trong ba đời đều từ đó thành tựu.

Những gì là mười?

1. Đi vào đạo giáo bình đẳng vô lượng.

2. Chuyển bánh xe pháp vô hạn.

3. Tuyên thuyết yếu nghĩa của trí tuệ vô lượng.

4. Thuận theo âm thanh thông suốt không bờ mé.

5. Khai hóa chúng sinh vô số lượng.

6. Hiển bày vô số thần thông biến hóa.

7. Tùy thời biến khắp vô số thân hình.

8. Đi vào các định, Tam-muội không thể ví dụ.

9. Khai ngộ sáng chiếu không thể đo lường.

10. Thị hiện lực vô úy, hiển bày vô hạn khiến vào diệt độ.

Đó là mười việc thể nhập Như Lai của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Quá, hiện, và vị lai
Tất cả chư Như Lai
Vào đạo giáo vô lượng
Chuyển Pháp luân vô hạn
Thuận đạo pháp không bờ
Thuyết tuệ trường không đáy
Khai hóa vô số người
Thần túc khó nghĩ bàn.

Bồ-tát có mười việc đi vào tánh hạnh của chúng sinh. Những gì là mười?

1. Vào nơi bản hạnh và chỗ hiểu của chúng sinh.

2. Tùy thời khai độ, thọ thân đương lai.

3. Hiện bày khắp chúng sinh.

4. Việc làm hiện tại vào khắp chúng sinh.

5. Khéo hành gốc ngọn, tùy thời cứu giúp chốn hành phi pháp.

6. Diễn bày đạo pháp cho chúng sinh.

7. Chỗ nhập tâm tánh, biết rõ tất cả.

8. Phân minh tất cả chỗ về nguồn cội.

9. Tùy chỗ yêu thích, nêu rõ các ngăn ngại.

10. Thuyết pháp để trừ bỏ vô số phiền não ái dục của chúng sinh.

Đó là mười việc vào tánh hạnh của chúng sinh.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Hiểu rõ hạnh đời trước
Cũng biết rõ đời sau
Phân minh việc hiện tại
Chốn hành của chúng sinh
Vào nơi chỗ đức hạnh
Không đức hạnh cũng vào
Tâm ấy trùm khắp cả
Khiến các căn thành tựu.

Bồ-tát có mười việc thể nhập thế giới. Những gì là mười?

1. Thường biết dừng đủ ở tại thế gian.

2. Tu hành thanh tịnh không bị nhiễm ô.

3. Ở trong đời tâm ít mong cầu.

4. Diễn bày vô lượng hương thơm cho chúng sinh mê lầm.

5. Vào các phương tục như vào một bụi trần.

6. Hiển bày khắp nơi vô lượng nghĩa vi diệu.

7. Cũng hiển bày rộng khắp nơi vô lượng thế giới.

8. Độ thoát nỗi lo của thân tứ đại.

9. Cung kính tự về với đạo chư Phật.

10. Cũng đi vào nơi chốn vô đạo trong thiên hạ.

Đó là mười việc hội nhập thế giới của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Ở đời biết dừng đủ
Nẻo hành thường thanh tịnh
Chỗ vào thường ít cầu
Vào khắp vô lượng nghiệp
Vào vô số thế giới
Hiểu rõ hạnh vi diệu
Lớn nhỏ đều thấu đạt
Hội nhập mọi sở hữu.

Bồ-tát có mười việc vào kiếp số các niệm không gì là không thấu đạt. Những gì là mười?

1. Biết kiếp quá khứ.

2. Xét rõ vị lai.

3. Biết việc hiện tại.

4. Biết đời hữu hạn.

5. Biết các ngăn ngại vô hạn.

6. Đi vào các nẻo hữu hạn và vô hạn.

7. Rõ các việc về kiếp hữu số và vô số.

8. Ở nơi hữu số khiến nhập vô vi.

9. Khiến các vô niệm thông nhập hữu niệm.

10. Thông các hữu niệm khiến vào vô niệm.

Đó là mười việc biết rõ kiếp số của các niệm không gì là không thông đạt của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Nhập vào niệm quá khứ
Đương lai cũng như vậy
Cất bước ở hiện tại
Mà đều biết rõ cả
Hành hóa vô lượng kiếp
Hữu số hoặc vô số
Vô niệm và hữu niệm
Tất cả tưởng, vô tưởng.

Bồ-tát có mười việc thuyết nêu thông suốt về ba đời mà không có hai lời. Những gì là mười?

1. Dùng quá khứ mà giảng nói.

2. Thuở xưa đã qua, sớm nói về đương lai.

3. Đương lai xa vời diễn nói hiện tại.

4. Đương lai chưa đến, nói về quá khứ.

5. Còn chưa muốn đến, giảng nói hiện tại.

6. Cũng giảng nói đương lai chưa đến.

7. Truyền đạt ở hiện tại bỗng thành quá khứ.

8. Biết rõ hiện tại tức là đương lai.

9. Chỗ thấy của mắt, giảng nói bình đẳng.

10. Hiện rõ ba đời đều thấu rõ trong một lúc.

Đó là mười việc thuyết nêu thông suốt về ba đời.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Thường nói việc quá khứ
Nêu xưa đến như thế
Quá khứ là hiện tại
Cũng thông việc đương lai
Quá khứ nay hiện tại
Chưa đến diễn đương lai
Hiện, lai làm quá khứ
Mắt thấy nay đương lai.

Bồ-tát có mười việc đi vào ba xứ. Những gì là mười?

1. Vào các hữu số.

2. Đến vô sở niệm.

3. Đến chỗ sở đắc.

4. Hướng đến các cõi mà dạy dỗ.

5. Đến các tưởng xứ.

6. Về các phương tục.

7. Không nhiều ngôn ngữ.

8. Thấu đạt không cùng tận.

9. Khen ngợi vắng lặng.

10. Thích sự an nhiên.

Đó là mười việc nhập vào ba xứ của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Đi vào các nẻo niệm
Trao truyền có sở đắc
Tại phương tục, các tưởng
Chốn niệm không cùng tận
Nói rộng việc tịch nhiên
Cũng vào nơi an tĩnh
Diệt trừ các ác sự
Như vậy thành tựu đạo.

Bồ-tát có mười việc của sự phát tâm không chán và không thiếu sót. Những gì là mười?

1. Cúng dường chư Phật, ở nơi các sắc mà không mệt mỏi.

2. Kính thuận tất cả các thiện hữu.

3. Cầu các kinh điển, không lấy làm khó.

4. Rộng nghe nhiều kinh, thọ nhận không ai theo kịp.

5. Luôn phát tâm ban tuyên kinh đạo.

6. Khai hóa chúng sinh, dùng pháp luật chỉ bày.

7. Phát khởi tất cả, khiến đến Phật đạo.

8. Trú nơi một thế giới, ở vô số kiếp tu hạnh Bồ-tát.

9. Hành hóa khắp các cõi Phật không chỗ nào là không cùng khắp.

10. Chưa từng hoài nghi các kinh điền Phật, có chỗ tham vấn thì tuyên thuyết rộng khắp.

Đó là mười việc phát tâm không chán, không thiếu sót.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Cúng dường các thân Phật
Không lấy làm chán đủ
Cung thuận các thiện hữu
Ngưỡng cầu các kinh điển
Chốn cầu không mệt mỏi
Thấy những người phát tâm
Vì họ giáo huấn đạo
Khai hóa các Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc phân minh các biện giải. Những gì là mười?

1. Phân biệt chỗ vào tuệ biện giải của chúng sinh.

2. Biết rõ các căn, sẽ được quay về.

3. Rõ sự báo ứng của các tội phước.

4. Nhìn thấy chỗ sinh ra ở bất cứ nơi nào.

5. Đều biết những chỗ có không của thế gian.

6. Nhìn thấy chỗ du hóa của chư Phật.

7. Hiểu rõ nghĩa lý sâu cạn của kinh pháp.

8. Rõ thông sự mất còn của pháp giới.

9. Thấu đạt việc ba đời

10. Cũng có thể phân biệt chốn nẻo hành hóa, ngôn ngữ âm thanh không thể tính đếm.

Đó là mười việc về sự phân biệt các biện giải của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Rõ chỗ biết chúng sinh
Chỗ về của các căn
Tùy chỗ lập tội, phước
Thấy được chỗ sinh khởi
Phân biệt các thế giới
Cũng biết rõ pháp phẩm
Quán thông tuệ Phật pháp
Gốc ngọn của ba đời.

Bồ-tát có mười việc đạt đến Tổng trì. Những gì là mười?

1. Chỗ nghe sâu rộng thì liền phụng trì, ngưỡng cầu kinh điển không hề quên mất.

2. Cầm đuốc pháp sáng để tuyên thuyết và giáo hóa, đều từ phương tiện mà biết rõ kinh điển.

3. Rõ pháp tự nhiên, đạt ánh sáng pháp, đến với Phật đạo không thể nghĩ bàn.

4. Nắm các định ý, hiện đang nghe Phật, mở bày trước mắt, liền phụng hành pháp.

5. Đi vào âm thanh nơi đạo tràng, tùy theo phương tục mà diễn xuất ngôn từ, không hề cùng tận.

6. Nghĩ đến việc nơi ba đời chư Phật là pháp không thể nghĩ bàn.

7. Tùy thời giảng nói, mang nhiều biện tài về tất cả chỗ then chốt nơi kinh điển của chư Phật.

8. Tai nghe nhiều nghĩa lý không thể suy lường.

9. Chỗ hưng Thánh tuệ có thể nghe giữ thông suốt các pháp chư Phật.

10. Kiến lập mười lực vô úy của Như Lai.

Đó là mười pháp đạt đến Tổng trì của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Rộng nghe liền nắm giữ
Không quên tất cả pháp
Hiểu rõ tùy thời nói
Thông các pháp tự nhiên
Dùng pháp đại quang minh
Trí hiện khó nghĩ bàn
Hiện tại đắc Tam-muội
Nghe kinh điển trước mắt.

Bồ-tát có mười việc ban tuyên Phật pháp.

Những gì là mười?

1. Hiểu rõ nghĩa đạo.

2. Chí lập đại nguyện.

3. Phân biệt rõ về chỗ về của tội, phước.

4. Thường trú Chánh giác.

5. Không tâm tự cao.

6. Thông đạt pháp giới.

7. Định ý biết rõ.

8. Thấu rõ bản tâm.

9. Biết rõ bản tịnh.

10. Tùy gốc mà giác ngộ khiến thành tựu Phật đạo.

Đó là mười việc Bồ-tát ban tuyên Phật đạo.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Hiểu rõ về Phật đạo
Nguyện nhận biết tội phước
Chỗ lập nơi chư Phật
Rõ pháp không tự đại
Phân biệt tâm vốn tịnh
Chỗ về của định ý
Gốc tịnh cũng tự nhiên
Tùy gốc mà giác ngộ.

Lúc Phật thuyết xong phần này, tam thiên thế giới đều chấn động. Ánh sáng lớn ấy chiếu khắp mười phương, chư Thiên, long, thần đều đến rải hoa, dùng các âm nhạc cúng Phật tạo sự vui vẻ. Họ đều hoan hỷ cùng khánh chúc: “Lành thay! Chúng ta nhờ công đức thuần thục từ đời trước mà được dự pháp hội này, quen hiểu nghĩa sâu mầu và đạo tuệ vô cực. Những tốt lành ấy là gì? Thế Tôn Năng Nhân khai thị pháp tạng, ân từ ban bố khắp mười phương, chữa lành mù tối, chuyển hóa năm ấm, sáu suy (trần), ba độc, năm cái, mười hai nhân duyên, sáu mươi hai tà kiến. Dùng năm việc để chỉ bày: Giới, định, tuệ, giải thoát tri kiến, ngũ nhãn, lục thông. Lấy sáu Độ vô cực: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ để thành tựu Phật đạo. Ban tuyên và khai thị mười hai bộ kinh, khai hóa sáu mươi hai thứ tà kiến nghi khiến họ phát đạo ý, chư Phật tán thán, Bồ-tát hoan hỷ. Lúc ấy, Bồ-tát Phổ Trí lại hỏi Bồ-tát Phổ Hiền: Sao gọi là phát tâm Bồ-tát? Sao gọi là hành pháp? Sao gọi là đại Bi? Sao gọi là duyên phát đạo tâm và dùng đạo duyên ấy mà hưng khởi ý? Sao gọi là gặp thiện hữu phát tâm kính thuận? Sao gọi là Bồ-tát đạt đến thanh tịnh? Sao gọi là Độ vô cực? Sao gọi là Phật tuệ? Sao gọi là chỗ kinh qua? Sao gọi là Bồ-tát lực? Sao gọi là bình đẳng? Sao gọi là sinh giác tánh? Sao gọi là thuyết pháp? Vì sao mà phụng hành? Sao là biện tài? Sao gọi là vô số? Sao gọi là hành tâm bình đẳng? Sao gọi là hành tuệ?

Sao gọi là Bồ-tát không tự đại?

Bồ-tát Phổ Hiền đáp:

–Lành thay! Chỗ hỏi của Phật tử thật là hay và thâm diệu! Hãy lắng nghe, lắng nghe! Nay tôi vì Bồ-tát và chúng hội mà giảng nói.

Lúc ấy, Bồ-tát Phổ Trí cùng đại chúng lắng nghe và lãnh thọ lời giảng của Bồ-tát Phổ Hiền.

Bồ-tát Phổ Hiền nói:

–Có mười việc phát tâm của Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Lúc phát tâm thường mang tâm đại Từ bi, hộ trì tất cả chúng sinh.

2. Chốn hành từ bi quán sát hết thảy phiền não, khổ nạn của chúng sinh như thương thân mình.

3. Tất cả sở hữu đều có thể bố thí, nghĩ đến Nhất thiết trí, tâm là đứng đầu. Nghĩ đến Nhất thiết trí nên có thể phát tâm không hủy hoại nghĩa Thánh.

4. Hưng khởi với tâm nghiêm tịnh, học điều then chốt của giới cấm Bồ-tát, tâm tâm kiên cố như kim cang.

5. Dứt sạch chỗ cấu trược của tất cả các pháp.

6. Chốn sinh khởi ý đó giống như sông biển.

7. Có thể làm chủ tất cả các pháp thanh tịnh.

8. Chí ấy kiên cố như núi Tu-di, tức có thể nhẫn chịu tất cả âm thanh ngôn từ thiện ác.

9. Chỗ phát tâm ấy kiến lập sự an lạc dài lâu, ban cho chúng sinh tín tâm chân thành mà tâm vẫn luôn độc hành

10. Trí Độ vô cực hiểu rõ các pháp rồi tùy theo phương tiện mà hộ trì. Đó là mười việc phát tâm của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Hưng phát tâm đại Bi
Đem giúp khắp chúng sinh
Thấy ở trong khổ não
Thương xót như thân mình
Tư duy Nhất thiết trí
Được chí nguyện trang nghiêm
Tâm ấy như kim cương
Trí tuệ như sông biển.

Bồ-tát có mười việc hành pháp Phổ Hiền. Đó là:

1. Ở trong kiếp đương lai đều cùng tất cả hành tập đại nguyện, phụng kính những người chưa đến.

2. Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác ở nơi sắc pháp mà khai hóa chúng sinh lập hạnh Bồ-tát.

3. Tích lũy các gốc đức với thệ nguyện Phổ Hiền.

4. Đều có thể vào trọn các Độ vô cực.

5. Tâm nguyện hòa nhã, tròn đủ hạnh Bồ-tát.

6. Tuân tu các pháp vì muốn trang nghiêm cõi nước.

7. Thế giới chư Phật các nghĩa bình đẳng.

8. Thọ sinh tất cả mười phương cõi Phật.

9. Hiểu rõ phương tiện, cầu các kinh điển.

10. Hiện tại an lạc ở các cõi Phật và thành tựu Chánh đạo Vô thượng.

Đó là mười việc hành pháp của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Đều biết kiếp đương lai
Phụng kính chư Như Lai
Bồ-tát cùng chúng sinh
Thệ nguyện hạnh Phổ hiền
Tích lũy nhiều gốc đức
Vào các Độ vô cực
Trang nghiêm các cõi Phật
Chóng thành Vô thượng giác.

Bồ-tát có mười việc thường hành đại Bi. Những gì là mười?

1. Quán khắp chúng sinh cô độc, không có thiện chủng vô lậu nên vì họ mà hưng khởi đại Bi.

2. Quán thấy kẻ vô đạo thì dùng đại Bi hóa độ.

3. Thấy những kẻ nghèo cùng, khổ nạn thì khiến họ trồng gốc đức.

4. Thức tỉnh những kẻ mê ngủ lâu ngày tỉnh dậy.

5. Thấy cõi chúng sinh không có phương tiện thì tùy lúc mà hóa độ họ.

6. Vì những kẻ tham dục, ràng buộc mà khuyến giúp.

7. Nhìn thấy chúng sinh gặp ách nạn thì thương xót và cứu tế.

8. Thấy bệnh lâu ngày thì dùng thuốc từ bi mà chữa lành.

9. Nếu người nào rời bỏ pháp thiện thì tỏ bày nghĩa đạo cho họ.

10. Nếu thấy chúng sinh đánh mất pháp Phật thì thương xót họ trong sự hoan hỷ.

Đó là mười việc đại Bi của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Tại thế hành đại Bi
Quán sát khắp chúng sinh
Gặp tật ách lâu ngày
Do đoạn các gốc đức
Nên khởi bi vô tận
Kiến lập nơi pháp Phật
Bồ-tát hành đại Từ
Để khai hóa chúng sinh.

Bồ-tát có mười duyên phát đạo tâm. Những gì là mười?

1. Dạy dỗ chúng sinh khiến thuận theo luật đạo mà phát đạo tâm.

2. Muốn trừ tất cả các khổ não, hoạn nạn.

3. Kiến lập sự an lạc lâu dài cho chúng sinh.

4. Thấy chúng sinh ở nơi vô minh thì giúp họ phát đạo tâm.

5. Thích khuyến chúng sinh khiến vào Phật tuệ.

6. Thuận theo Chánh giác, phụng kính tất cả chư Phật tối thắng.

7. Đều muốn được gặp Như Lai Chánh chân.

8. Cũng lại muốn thấy uy dung tướng tốt của chư Phật.

9. Cũng lại vui thích vào nơi Phật đạo nên phát đại tâm.

10. Cũng lại kính ái mười Lực, Vô úy.

Đó là mười duyên sự phát đạo tâm.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Thấy chỗ diệt chúng sinh
Vì phiền não trói buộc
Muốn họ an lạc lâu
Nên phát tâm Bồ-tát
Chúng sinh nào vô trí
Dùng Phật tuệ khuyến bày
Khiến vâng tướng ba cõi
Thường gặp chư Như Lai.

Bồ-tát gặp thiện hữu phát tâm kính trọng. Bồ-tát sơ phát đạo tâm chân chánh thì với thiện hữu luôn khiêm tốn và cung thuận. Muốn được thành tựu Nhất thiết trí của Phật thì nên tìm bạn lành, nhờ họ mà vọng ý được khuất phục.

Có mười việc gặp thiện hữu mà phát đạo tâm.

Những gì là mười?

1. Phụng kính và tự quay về với bạn lành.

2. Tâm không ái dục.

3. Có thể phụng hành như chỗ nghe biết.

4. Tâm vui thích những điều đó.

5. Chí không vết nhơ.

6. Tâm thường nhất tâm.

7. Dùng các gốc đức để hợp làm một việc.

8. Hoài bão một nguyện.

9. Phát tâm về với Thế Tôn.

10. Chí ấy bình đẳng, nẻo hành đầy đủ.

Đó là mười việc gặp thiện hữu phát tâm cung thuận của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Thường mang tâm cung kính
Phụng hành như chỗ nghe
Hoan hỷ không vết nhơ
Ý ấy thường chuyên nhất
Hợp lại các gốc đức
Tự quay về Thế Tôn
Thường quý hạnh bình đẳng
Mới thành tựu tâm đạo.

Bồ-tát có mười việc thanh tịnh. Những gì là mười?

1. Tịnh như hư không, rốt ráo không mất.

2. Tịnh nơi các sắc tùy gốc chúng sinh mà khai hóa họ.

3. Tịnh các âm thanh, diễn bày vô lượng nghĩa.

4. Ngôn từ âm hưởng của biện tài thanh tịnh.

5. Phân biệt rõ vô lượng chỗ thuyết pháp của Phật.

6. Trí tuệ ấy thanh tịnh, trừ bỏ sự vô trí.

7. Hiểu rõ chỗ hành đời trước của chúng sinh mà khai hóa họ.

8. Tịnh các báo ứng, trừ sạch tất cả sự che chướng, ngăn ngại.

9. Sở nguyện sáng rõ, thấu biết chỗ sinh Nhất phẩm của chư Phật.

10. Sự hành dụng sáng rỡ ấy xuất sinh nơi hạnh nguyện Phổ hiền.

Đó là mười việc được thanh tịnh.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Bồ-tát thanh tịnh đủ
Công đức như hư không
Tùy căn tánh chúng sinh
Mà mở đạo vô thượng
Tịnh ngôn từ biện tài
Phân biệt rõ pháp tướng
Trí ấy không ngăn ngại
Cứu cánh ở Nhất thừa.

Bồ-tát có mười việc đạt đến Độ vô cực. Những gì là mười?

1. Hành Độ vô cực thì tất cả sở hữu đều có thể bố thí.

2. Giới Độ vô cực thì đầy đủ giới cấm.

3. Nhẫn Độ vô cực thì có thể hành từ hòa, đạt được tịnh lực của Phật.

4. Tinh tấn Độ vô cực thì chỗ hành khuyến tu không hề thoái chuyển.

5. Thiền Độ vô cực thì làm cho ý thuần định.

6. Trí Độ vô cực thì quán tất cả pháp vốn là chân lý tự nhiên.

7. Tuệ Độ vô cực thì đi vào mười lực của Phật.

8. Nguyện Độ vô cực thì đầy đủ hạnh Phổ hiền.

9. Thần thông Độ vô cực thì biến hóa vô lượng, không một chỗ nào không biến khắp.

10. Pháp Độ vô cực thì bình đẳng điều phục tất cả gốc ngọn các pháp.

Đó là mười Độ vô cực của Bồ-tát. Bồ-tát an trú ở đó thì về với đại tuệ vô cực vô thượng Chánh chân của Như Lai và tròn đủ sáu Độ. Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Bố thí Độ vô cực
Ban rải hết sở hữu
Trì giới Độ vô cực
Thanh tịnh các hạnh Phật
Nhẫn nhục Độ vô cực
Từ hòa không sân hận
Tinh tấn Độ vô cực
Siêng tu không thoái chuyển
Nhất tâm Độ vô cực
Chánh định không loạn tâm
Trí tuệ Độ vô cực
Thấy các pháp như nhiên
Thần thông Độ vô cực
Vào khắp đạo lực Phật
Sở nguyện hành bình đẳng
Thần túc dẫn các pháp.

Có mười việc về Phật tuệ của Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Hiểu rõ tất cả mười phương thế giới, chủng loại chúng sinh không thể nghĩ bàn.

2. Biết rõ các tông, hiểu rõ các pháp không mất thời tiết.

3. Hoặc dùng vô số loại hình, hoặc dùng nhất phẩm để làm cho chúng sinh thấu biết các pháp giới.

4. Thường ban tuyên tuệ, hiểu rõ tất cả gốc ngọn hư không.

5. Bậc nhất Phật tuệ thông suốt rốt ráo.

6. Mười phương thế giới, các việc quá khứ đều có thể biết rõ.

7. Mười phương cõi Phật, các việc vị lai đều có thể thấy rõ.

8. Mười phương cõi Phật, những việc hiện tại vào khắp để giáo hóa.

9. Làm sáng tất cả các hạnh Như Lai.

10. Đều vào tất cả tuệ, biết rõ quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật đều đồng một hạnh.

Đó là mười việc tạo tuệ nghĩa của Bồ-tát. Bồ-tát trú ở đây thì ánh đại quang minh tự tại chiếu sáng, đủ đầy sở nguyện, tin pháp chư Phật tức dùng một tuệ mà biết rõ pháp Phật.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Thường biết mười phương cõi
Chúng sinh không kể xiết
Thảy khiến vào Phật tuệ
Tạo nên vô số niệm
Phân biệt rõ các pháp
Bình đẳng như hư không
Phật tuệ là bậc nhất
Thường thấu việc ba đời.

Có mười việc về sự kinh qua của Bồ-tát.

Những gì là mười?

1. Đều rõ các pháp vốn là Đệ nhất nghĩa.

2. Tất cả kinh điển đều phân minh tường tận.

3. Hiểu rõ các tuệ đều là một tướng.

4. Phân biệt tâm niệm hành tuệ vô vi, vô số của chúng sinh.

5. Thấy các chúng sinh đều cùng một đẳng cấp.

6. Biết rõ chốn hành nơi phiền não của chúng sinh.

7. Chí tánh mỗi người đều bị ràng buộc ở hành nghiệp thì đều biết rõ chỗ hành thiện ác của chúng sinh.

8. Hiểu rõ nẻo hành theo chí nguyện của tất cả Bồ-tát.

9. An vui mà chẳng tự đại nơi mười lực của Như Lai.

10. Kiến lập rốt ráo mà đến Chánh giác.

Đó là mười việc kinh qua của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Biết các pháp là một
Vì hiểu rõ giới hạn
Các tuệ hợp một tướng
Tâm chúng sinh vô số
Thấy rõ khắp muôn dân
Hành phiền não mê tối
Các kết sử ràng buộc
Không được trí rộng lớn.

Bồ-tát có mười sự tạo diệu lực. Những gì là mười?

1. Tất cả các pháp đều vào chốn an nhiên.

2. Kinh điển các cõi đều như chỗ hóa độ.

3. Các nghĩa như huyễn, nói về các pháp số đều là pháp Phật.

4. Các chỗ kinh điển đều không dựa chấp.

5. Tất cả sở hữu đều quay về ba cửa giải thoát.

6. Gặp các thiện hữu thì tôn trọng cung kính.

7. Tâm huân tập các năng lực bằng các gốc đức.

8. Vào nơi cung điện vua Vô thượng tuệ đạo.

9. Chưa từng phỉ báng trí tuệ thâm diệu, tin vui tất cả trí tâm chư Phật.

10. Rốt ráo không thoái chuyển năng lực phương tiện quyền xảo.

Đó là mười Lực của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Tất cả pháp an nhiên
Đều như lực huyễn hóa
Các pháp là pháp Phật
Về ba cửa giải thoát
Cung kính các thiện hữu
Thường tích các gốc đức
Vào nhà tuệ vô thượng
Thuần tin sâu pháp Phật.

Bồ-tát bình đẳng có mười việc. Những gì là mười?

1. Tâm bình đẳng với chúng sinh.

2. Cũng bình đẳng với các pháp.

3. Quán khắp các cõi Phật.

4. Tánh hạnh không hai.

5. Vì các gốc đức.

6. Bình đẳng với chư Bồ-tát.

7. Sở nguyện không khác.

8. Các Độ vô cực cũng không sai biệt.

9. Tất cả cả các hạnh đều cùng một dạng.

10. Mười phương chư Phật đều là một Phật.

Đó là mười sự bình đẳng.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Tâm chúng sinh bình đẳng
Quán khắp các kinh điển
Các cõi nước bình đẳng
Tánh hạnh không có hai
Đều hợp các gốc đức
Bồ-tát thường hành từ
Sở nguyện không số lượng
Đủ các Độ vô cực.

Bồ-tát có mười việc phát khởi giác Thánh.

Những gì là mười?

1. Tất cả các pháp chỉ có một âm thanh.

2. Các pháp như huyễn đều trở về vắng lặng.

3. Nghĩa kinh điển như ảnh.

4. Sự thấy của mắt đều do duyên hợp.

5. Các nghĩa nghiệp thanh tịnh.

6. Tất cả các pháp đều nhờ văn tự.

7. Các sự nghiệp đều do bản tịnh.

8. Đạo tuệ vô tưởng.

9. Rốt ráo tận nguồn gốc.

10. Vạn hữu các cõi đều từ pháp giới.

Đó là mười việc phát sinh giác Thánh.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Các pháp đều vắng lặng
Cũng như huyễn như hóa
Như ảnh, như tiếng vang
Đều do nhân duyên sinh
Tịnh gốc ngọn các pháp
Tất cả không chỗ sinh
Đều vì bản tế ấy
Vô tướng làm chân đế.

Bồ-tát thuyết pháp có mười việc. Những gì là mười?

1. Diễn nói pháp thâm diệu.

2. Chỗ thuyết nghĩa lý tùy thời được vào.

3. Giảng vô số việc.

4. Thường diễn nêu nhiều việc của thông tuệ.

5. Cũng phân biệt rõ các Độ vô cực.

6. Tuyên thị mười lực của Như Lai.

7. Giải nghĩa ba đời.

8. Thường nói pháp không thoái chuyển của Bồ-tát.

9. Rộng nói về công đức của chư Phật.

10. Ban tuyên về sự xuất gia bình đẳng của Bồ-tát, chư Phật Như Lai.

Đó là mười việc thuyết pháp của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Giảng thuyết pháp thâm diệu
Đều khiến vào nghĩa đạo
Diễn trí tuệ vô ngần
Rộng nói Nhất thiết trí
Nêu các Độ vô cực
Hiện bày mười lực Phật
Ba đời không ngăn ngại
Bồ-tát không thoái chuyển.

Có mười hạnh mà Bồ-tát phụng hành. Những gì là mười?

1. Tích lũy các gốc đức.

2. Nghe chư Như Lai giảng thuyết kinh điển thì liền có thể thọ trì.

3. Nắm tất cả sự hiện hữu, nêu ví dụ mà tuyên thuyết.

4. Dẫn dắt tất cả phụng hành pháp ngôn.

5. Hoài bão về cửa tuệ nghĩa Tổng trì.

6. Đều có thể đoạn trừ hồ nghi, chấp trước.

7. Dùng đầy đủ các hạnh Bồ-tát.

8. Biện tài bình đẳng của tất cả Như Lai.

9. Thuyết pháp khai hóa, diễn xuất ánh sáng.

10. Lời nói đều nhận được sự an lạc của chư Phật kiến lập nên khiến đạt đến Vô thượng Chánh chân.

Đó là mười hạnh phụng hành của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Tích lũy các gốc đức
Ngợi khen pháp Như Lai
Quán các pháp bình đẳng
Phụng tuyên cửa đạo tuệ
Xả bỏ các nghi chấp
Đầy đủ hạnh Bồ-tát
Các pháp là thế gian
Đều khiến vào nhà đạo.

Bồ-tát có mười việc phân biệt biện tài. Những gì là mười?

1. Chỗ diễn các pháp vĩnh viễn không nhớ nghĩ.

2. Phân minh các kinh đều là không chốn hành.

3. Biện tài các nghĩa vô sở trước.

4. Rõ các pháp vốn không.

5. Ban tuyên vô lượng tất cả các pháp, ấy là chỗ kiến lập của Phật.

6. Tất cả sở hữu đều không có chỗ nương tựa.

7. Đều có thể phân biệt rõ chương cú các pháp.

8. Thuyết thông nghĩa chân đế của kinh điển.

9. Thường hành bình đẳng, thương xót chúng sinh.

10. Thuyết pháp khế hợp khiến mọi người vừa tâm.

Đó là mười việc phân biệt biện tài của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Giảng kinh không tưởng nghĩ
Tất cả hành vô tưởng
Không chấp nơi các pháp
Thấu rõ đều là không
Biện tài không hạn lượng
Các pháp Phật kiến lập
Tất cả không chỗ dựa
Rõ tất cả vốn không.

Bồ-tát có mười việc được tự tại. Những gì là mười?

1. Khai hóa chúng sinh.

2. Chiếu sáng các pháp.

3. Tu các gốc đức.

4. Hành tuệ vô cực.

5. Không chấp cảnh giới.

6. Tạo lập gốc thiện, khuyến giúp Phật đạo.

7. Chốn hành tinh tấn không hề thoái chuyển.

8. Hàng phục chúng ma, những chỗ mê hoặc.

9. Biết rõ tâm đạo nơi tất cả Phật đạo.

10. Ở nơi tà kiến mà thành Chánh giác.

Đó là mười việc được tự tại. Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Rõ, mở bày chúng sinh
Các pháp được sáng soi
Phụng hành các gốc đức
Tuệ vô cực tự tại
Tâm đều không dính mắc
Tinh tấn không biếng trễ
Hàng phục khắp chúng ma
Do mình được tâm đạo.

Bồ-tát có mười việc thi hành vô số. Những gì là mười?

1. Khai hóa tất cả khổ nạn của thế gian.

2. Gốc ngọn của chúng sinh không thể tính đếm.

3. Không thể suy lường việc của kinh điển.

4. Tất cả chỗ làm không bờ mé.

5. Bờ cõi của các pháp không thể cùng tận.

6. Không thể sánh cùng gốc của công đức.

7. Tất cả các pháp ác đều không thể giảng nói.

8. Chí nguyện cũng không bờ mé.

9. Chỗ về các hạnh không thể ví dụ.

10. Tất cả Bồ-tát độc hành khó ai sánh bước, tất cả chư Phật độc tôn không hai.

Đó là mười sự hành vô số của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Thế gian khó nói hết
Chúng sinh vô số lượng
Các pháp không bờ mé
Chỗ tạo tác vô hạn
Gốc đức không thể sánh
Các pháp không xứ sở
Khó sánh cùng Bồ-tát
Chư Phật không ai bằng.

Bồ-tát có mười việc hành tâm bình đẳng.

Những gì là mười?

1. Tích đức với tâm bình đẳng.

2. Chí nguyện đồng đẳng.

3. Thân ý chúng sinh cũng không có hai.

4. Vào khắp chúng sinh, hướng cho tội, phước có nẻo về.

5. Đi khắp các pháp.

6. Thấy các cõi Phật, tịnh uế bình đẳng.

7. Khuyến hóa chúng sinh khiến vào thuần tín.

8. Tâm bình đẳng với các hạnh và các vọng tưởng.

9. Đều vào mười Lực vô úy của Phật.

10. Đều từ trí tuệ bình đẳng của Như Lai.

Đó là mười tâm bình đẳng của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Tích đức tâm bình đẳng
Hưng khởi tất cả nguyện
Tâm chúng sinh bình đẳng
Tội phước không khác biệt
Vào khắp các kinh điển
Quán nước Phật bình đẳng
Thương xót khắp chúng sinh
Khiến vào hạnh không hai.

Bồ-tát có mười việc hành tuệ. Những gì là mười?

1. Hiểu rõ chúng sinh sẽ về trí tuệ giải thoát.

2. Vào khắp các cõi, vô số cõi nước.

3. Người chưa vào thì được vào.

4. Đi vào lưới tham, trừ khử cấu uế.

5. Đi vào các cõi, biết chỗ tăng giảm.

6. Hiểu rõ các pháp mỗi một có khác.

7. Hoặc dùng nhất phẩm, có thể biến khắp âm thanh các cõi.

8. Rõ các tưởng thế gian, chỗ trú điên đảo và mỗi mỗi sự khác nhau của chỗ tư niệm.

9. Dùng ngôn từ vào khắp tất cả nêu bày các pháp.

10. Oai lực của Như Lai kiến lập pháp giới và tất cả chúng sinh ở tại ba đời. Chư Phật vào đó dạy dỗ cho họ không còn mê mờ và đều khiến họ vào đạo.

Đó là mười hành tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Tin hiểu cõi chúng sinh
Vào khắp các cõi Phật
Đều đến cả mười phương
Bình đẳng quán thế giới
Các pháp không số lượng
Thân vào không cùng tận
Chỗ biến hóa Như Lai
Hóa độ khắp ba đời.

Bồ-tát có mười việc không tự đại. Những gì là mười?

1. Không khinh mạn người, loài vật, côn trùng…

2. Thân tâm khiêm tốn, không khi dễ người.

3. Không vì cõi nước của mình mà tự ngã mạn.

4. Nếu được cung kính không tâm tự đại.

5. Không dùng lời hay mà tự khen ngợi.

6. Hành nguyện đầy đủ, không dùng để tô điểm.

7. Khai hóa chúng sinh, lìa sự mệt mỏi.

8. Thành tựu Chánh giác, tâm thường từ bi.

9. Giảng thuyết kinh điển, không rộng nói đến bản thân.

10. Có chỗ kiến lập mà không tư đại.

Đó là mười việc không tự đại của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Không khinh mạn chúng sinh
Được cõi nước chẳng vui
Được phụng kính chẳng mừng
Rời các danh xưng hão
Không tham, các sở nguyện
Khai hóa mọi chúng sinh
Được thành Tối chánh giác
Ban tuyên tuệ đại đạo.

Lúc nói giảng nói pháp này xong, các hàng Trời, Rồng, Thần, chúng sinh thế gian, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hầu-lặc… không ai mà không hoan hỷ và phát tâm đạo. Các loài: Sư tử, cọp, chó sói, gấu, nai, cá ba ba, thuồng luồng, các loài trùng nhỏ… đều sinh tâm Từ, không có hại nhau. Chúng nghe giảng nói pháp nên mỗi một đều phát đạo tâm. Chư Thiên rải hoa rơi xuống như mưa, xông đốt các danh hương có khói tỏa như mây trôi, đàn sáo nhạc khí không đánh mà tự hòa vang. Lúc ấy, chúng hội thảy đều hoan hỷ phụng hành.

QUYỂN 2

Bồ-tát Phổ Trí lại hỏi Bồ-tát Phổ Hiền:

–Sao gọi là kiến lập? Sao gọi là tín lạc? Sao gọi là vào sâu? Sao gọi là nương tựa? Sao gọi là dũng mãnh? Sao gọi là đoạn dứt các nghi? Sao gọi là không thể nghĩ bàn? Sao gọi là giải thoát chân đế? Sao gọi là báo ứng? Sao gọi là định ý? Sao gọi là sở hữu? Sao gọi là cửa giải thoát? Sao gọi là thần thông? Sao gọi là thông đạt? Sao gọi là giải thoát? Sao gọi là vườn nuôi dưỡng? Sao gọi là cung điện? Sao gọi là dạo chơi? Sao gọi là trang nghiêm? Sao gọi là tâm bất động? Sao gọi là tánh không chỗ xả? Sao gọi là tuệ quán? Sao gọi là giảng pháp? Sao gọi là nguyện thanh tịnh? Sao gọi là ấn? Sao gọi là ánh sáng tuệ? Sao gọi là hành vô sắc? Sao gọi là không tâm pháp? Sao gọi là tâm như núi? Sao gọi là tâm như biển?

Bồ-tát Phổ Hiền đáp:

–Lành thay! Đại sĩ nêu hỏi thật có ý nghĩa.

Bồ-tát có mười sự kiến lập. Những gì là mười?

1. Thường chí nguyện nơi Phật.

2. Hằng nghĩ về kinh pháp.

3. Khuyến hóa chúng sinh khiến trú Phật đạo.

4. Giúp cho sự nghiệp chúng sinh được an ổn.

5. Tu lập chánh hạnh.

6. Thuận vui thệ nguyện.

7. Thường nghĩ đến oai nghi.

8. Chỗ đi tùy thời.

9. Ban tuyên gốc thiện.

10. Kiến lập tuệ nghĩa.

Đó là mười việc kiến lập của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Nhất tâm thường niệm Phật
Chuyên tinh nghĩ kinh điển
Khiến chúng sinh vào đạo
Chỉ bày tạo sự nghiệp
Khen, giúp tu chánh hạnh
Không để thoái thất nguyện
Oai nghi, giới hạnh đủ
Gốc thiện thành Thánh tuệ.

Bồ-tát tín lạc có mười việc. Những gì là mười?

1. Tâm Bồ-tát tự phát khởi: “Trong đời vị lai nếu có Đấng Như Lai Chánh Chân nào xuất hiện ở đời thì ta đều sẽ được gặp, gặp chư Phật rồi thì liền cúng dường phụng sự, chí cầu vô thượng, đảnh lễ, quy y các bậc Chánh giác này.

2. Ta sẽ được các vị này dạy dỗ, vì được dạy dỗ nên được trở về Bồ-tát địa. Như các Bồ-tát đã từng cung kính, phụng giáo, tâm luôn tôn kính và luôn tu hành như chỗ nghe biết”.

3. Lúc đó, Bồ-tát lại nghĩ: Ta không bao giờ lìa xa chư Phật Thế Tôn và các bậc Khai sĩ. Trừ sạch khổ nạn rong ruổi của sinh tử, tu hạnh Bồ-tát trong vô lượng kiếp.

4. Bồ-tát lại nghĩ: Lúc xưa ta chưa phát tâm vô thượng, chưa làm bậc Pháp khí, sợ nghĩa thâm diệu và sợ tiếng xấu hủy báng của chúng sinh, lại sợ hãi các đường ác trong sinh tử. Vì ta sớm xa lìa những sự sợ hãi ấy nên vĩnh viễn không còn tương ưng ở đó, vì xa lìa những việc này nên sinh ra chỗ nào cũng không lìa tâm đạo, không sợ không hãi, cũng chẳng lo lắng, vĩnh viễn không còn các nạn, thường xa lìa trần cấu, diệt sạch uế trược, vào ra một mình, hàng phục chúng ma, diệt bỏ ngoại đạo.

5. Bồ-tát lại nghĩ: Ta sẽ khuyến hóa cõi chúng sinh làm theo luật giáo, chí cầu đạo tâm Vô thượng Chánh chân, tu hạnh Bồ-tát. Lúc được gặp Phật thành đạo thì tùy theo đạo giáo vi diệu của các Bậc Tôn Thánh ta sẽ đảnh lễ, phụng kính, quy y và vui mừng vô lượng. Sau khi Đức Phật diệt độ, ta sẽ vì chúng sinh mà hưng lập vô lượng chùa chiền, cúng dường tháp miếu, phụng tuyên Phật pháp, hoằng truyền kinh điển, làm cho nghĩa vô thượng mãi mãi được trường tồn.

6. Bồ-tát cũng nghĩ: “Ta sẽ trang nghiêm vô lượng thế giới làm cho các cõi Phật thanh tịnh thuận hợp, mỗi một khác biệt nhưng đều bình đẳng và thanh tịnh. Ta sẽ làm vô số cõi Phật phát tâm cảm ứng và diễn xuất đại ánh sáng chiếu khắp mười phương, thần túc biến hóa không chỗ nào không biến khắp”.

7. Bồ-tát lại nghĩ: Khi ta thành Phật rồi thì sẽ đoạn sạch các hồ nghi cho chúng sinh giáo hóa chí tánh của họ thường được thanh tịnh, nhu hòa, tâm chí vắng lặng, tiêu diệt phiền não ái dục, bít lấp cửa ác, mở cửa an ổn, trừ khử u tối, hưng khởi ánh sáng lớn, bỏ hết nghiệp ma, đạt đến điều lành vô thượng. Đó là công đức khai thị khắp chúng sinh.

8. Bồ-tát lại nghĩ: “Ta ở chỗ nào cũng thường gặp chư Phật, lúc ở chỗ nguy ách cũng vẫn nghĩ đến việc phụng kính và đều được như thệ nguyện. Được gặp bậc Chánh giác thì chẳng hề xa cách. Diện kiến lúc Như Lai thuyết pháp.

9. Vì Như Lai rất khó gặp, trong vô lượng kiếp mới xuất hiện một lần. Giống như loài hoa Linh thụy ngàn năm mới có một lần. Ném bỏ tất cả sự chấp trước không nên có, tâm ý chất trực không hề quanh co.

10. Bồ-tát lại nghĩ: Lúc ta thành tựu đạo Vô thượng Chánh chân, làm Tối chánh giác thì biến khắp các cõi Phật thi hành Phật sự. Vì chúng sinh mà hiện thân với mỗi một. Gióng trống đại pháp, mưa pháp cam lồ, bố thí pháp vô lượng, thanh tịnh vô úy, làm sư tử gầm vang, lập nguyện vô cực, trú nơi pháp giới ban tuyên kinh đạo. Dẫu một kiếp cũng không nhàn nghỉ, thân không chán mệt, ngôn từ vô cực, tâm không lười mỏi.

Đó là mười việc tín lạc của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Nghiêm tịnh các cõi Phật
Khuyến đạo khắp chúng sinh
Chỉ bày pháp thâm diệu
Khiến phát đạo vô thượng
Thường nguyện thấy chư Phật
Phụng sự tự quy y
Nghe nhận chỗ thuyết pháp
Nhất tâm mà phụng hành.
Nhằm đoạn ba đường ác
Khai mở cửa an lạc
Vì chúng sinh ngu tối
Hiển bày đại ánh sáng
Ban rải pháp thí kinh
Tiêu diệt các trần cấu
Làm Đại sư tử hống
Tuôn mưa pháp cam lồ.

Bồ-tát có mười pháp vào sâu. Những gì là mười?

1. Đều vào việc quá khứ của các thế giới, đi vào chí tánh thâm diệu của pháp Phật.

2. Về với Phật sự vị lai của các cõi Phật, ở tại một cõi Phật có số lượng Chánh giác không khác.

3. Tuy ở trong các cõi Phật hiện tại vắng lặng nhưng mọi chỗ nói, chỗ làm của thế gian, phương tục vào việc làm nghiêm tịnh cõi nước thì họ đều quan tâm đến.

4. Vào sâu các pháp, ở tại thiên hạ mà giáo hóa vô số.

5. Lại có thể biết rõ tội phước không đồng của tất cả chúng sinh.

6. Nói về chỗ hành hóa không đồng của chư Bồ-tát. Lại nữa, kiến giải của chư Bồ-tát đều biết rõ chỗ quá khứ của chư Như Lai.

7. Bồ-tát đều biết chỗ giáo hóa nhanh chậm của chư Phật Thế Tôn.

8. Bồ-tát lại biết chư Phật Chánh giác và quyến thuộc Thánh chúng ở hiện tại các cõi đang thuyết pháp và giáo hóa chúng sinh. Pháp giới hư không, mười phương Như Lai không có bờ mé.

9. Lại biết rõ pháp thế gian, pháp Thanh văn và Duyên giác thừa.

10. Bồ-tát vào nơi pháp này mà không chỗ vọng cầu, giảng thuyết vô số chỗ nẻo nhập pháp giới mà cũng không chỗ nhập, cũng không pháp tưởng. Tùy theo các pháp mà dạy dỗ, khai hóa chúng sinh.

Đó là mười việc vào sâu pháp Phật.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Biết ở đời quá khứ
Vị lai cùng hiện tại
Tùy phương tục thị hiện
Thanh tịnh các cõi Phật
Phân biệt tội phước người
Chốn hành các Bồ-tát.
Hiện tại các cõi Phật
Chư Bồ-tát vân tập
Biết số lượng chúng sinh
Thuyết pháp như hư không
Biết rõ pháp Thanh văn
Duyên giác và Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc chỗ nương tựa, vì sự chỗ nương tựa mà Bồ-tát ấy tu hạnh Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Thường phụng kính chư Phật, ngày ngày quy y.

2. Khai hóa chúng sinh.

3. Gặp các thiện hữu thì nương nhờ vào họ.

4. Thường vui thích tích lũy các gốc đức.

5. Đều vì làm nghiêm tịnh các cõi nước Phật.

6. Thường thương xót tất cả không rời bỏ chúng sinh.

7. Vào khắp các Độ vô cực.

8. Muốn đạt đầy đủ các nguyện Bồ-tát.

9. Chỗ tu vô lượng, quay về tâm đạo.

10. Biết rõ chư Phật, thành tựu Chánh giác.

Đó là mười việc Bồ-tát nương tựa để thành tựu đạo hạnh.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Thuần kính khắp chư Phật
Chỗ nương hạnh Bồ-tát
Khai hóa mọi chúng sinh
Kính thuận các thiện hữu
Tích lũy các gốc đức
Nghiêm tịnh các cõi Phật
Vào các Độ vô cực
Đầy đủ nguyện Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc dũng mãnh. Những gì là mười?

1. Tiêu trừ tất cả các tội ngăn che.

2. Chư Phật Thế Tôn thị hiện sự diệt độ thì phụng trì chánh giáo.

3. Dùng tâm dũng mãnh hàng phục chúng ma.

4. Biết rõ vô thường, không tiếc thân mạng.

5. Dùng duyên chánh pháp để chuyển hóa ngoại đạo.

6. Dùng tâm nhu hòa làm cho chúng sinh hoan hỷ.

7. Mang tâm phấn chấn, tất cả chúng hội thấy được khiến mọi người cũng đều hân hoan.

8. Điều hóa tất cả Thiên, long, Quỷ thần, Kiềnđạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Mahầu-lặc… đều lãnh thọ nhân duyên ấy.

9. Phụng tu Nhu thuận, nương pháp thâm diệu. 10. Thường xả Thanh văn và Duyên giác thừa, ở trong vô lượng kiếp hành hạnh Bồ-tát mà không mệt mỏi.

Đó là mười tâm dũng mãnh của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Trừ bỏ các tội chướng
Thừa sự Phật diệt độ
Hàng phục chúng quân ma
Không tiếc thân mạng mình
Thường hóa các ngoại đạo
Hoan hỷ với chúng sinh
Quỷ thần đều thọ giáo
Thường hành hạnh Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc đoạn trừ các hồ nghi, không còn do dự. Những gì là mười?

1. Bồ-tát phát tâm và tự nghĩ: “Ta sẽ dùng bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ để cứu giúp tất cả chúng sinh. Ta dùng từ bi vui giúp và dẫn dắt họ, tuy làm việc đó mà không hề hồ nghi. Nếu ai muốn làm cho ta thoái lui thì không thể được”.

2. Bồ-tát lại nghĩ: “Ta thấy khắp các bậc Chánh giác ở mười phương và các vị Phật vị lai sẽ có được tuệ vô thượng và ta cúng dường họ mà tâm không do dự, giống như đuôi trâu vừa cong vừa cứng”.

3. Bồ-tát lại nghĩ: “Ta dùng vô số ánh sáng chiếu hết các cõi Phật, nghe các nẻo hành của chư Bồ-tát vị lai trong vô tận số kiếp mà tâm không nhàm chán”.

4. Khai hóa vô số chúng sinh mà không cho là khó. Pháp giới rộng khắp không thể hạn lượng, giống như hư không không có bờ mé. Việc độ chúng sinh vô lượng cũng như vậy, không hề lấy làm chán mệt.

5. Bồ-tát lại nghĩ: “Ta tu hạnh Bồ-tát, đầy đủ các nguyện, thành tựu các thông tuệ và Nhất thiết trí”.

6. Bồ-tát lại nghĩ: “Lúc ta hành Bồ-tát đạo thì đều đạt đến ánh sáng đạo pháp và sự thông tuệ vô cực của Phật”.

7. Thường vui dùng và xem tất cả các pháp đều là pháp Phật.

8. Biết rõ tất cả chỗ niệm khởi của chúng sinh, hiểu rõ những phạm trù vô số và vô tận số, các pháp hữu vi cùng vô vi.

9. Thành tựu Bình đẳng giác, thấu đạt các pháp đều là việc độ đời, trừ các tưởng điên đảo. Tuy có uế trược cũng đều xem như thanh tịnh.

10. Bồ-tát hiểu rõ tất cả pháp Phật, thành Tối chánh giác, không có các tưởng điên đảo, cái thấy mê lầm và một mảy may chấp trước. Tuy ở hữu vi có các lậu nhưng đạt đến vô vi, bỏ các lợi dưỡng thì có thể đi vào vô số cõi.

Đó là mười việc đoạn hồ nghi của Bồ-tát Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Niệm Thí, Giới, Nhẫn, Tấn
Thiền định, tu Trí tuệ
Hành Từ, Bi, Hỷ, Xả
Thấy chư Phật phụng kính
Quang minh chiếu sáng đủ
Vô lượng kiếp vị lai
Tâm không có biếng trễ
Thành Phật Nhất thiết trí
Các pháp đều pháp Phật
Cũng đều độ thế pháp
Bỏ uế trược điên đảo
Được Tối chánh giác Phật.

Bồ-tát có mười việc không thể nghĩ bàn. Những gì là mười?

1. Sự tu gốc đức không thể nghĩ bàn, tất cả sở nguyện không thể suy lường.

2. Quán sát các pháp đều như huyễn hóa, nhờ phát đạo tâm nương vào các nghiệp thiện không hề trái mất.

3. Tu hạnh Bồ-tát, vĩnh viễn không còn vọng tưởng.

4. Tu nghĩa thâm yếu vào khắp các pháp, không thủ chứng diệt độ. Đạo tuệ chưa tròn thì chưa xả bỏ.

5. Tu hạnh Bồ-tát, thị hiện vào thai mà sinh ra.

6. Siêng tu phạm hạnh, đến cây Bồ-đề, hàng phục chúng ma, đạt thành Chánh giác chuyển pháp luân, thị hiện diệt độ, kiến lập và hiển bày các Phật sự, không xả đại Bi, hộ trì chúng sinh không trái bản nguyện.

7. Lại nữa, Bồ-tát ấy lúc mới phát tâm đã kiến lập và thị hiện mười lực Như Lai, ở tại pháp giới khai hóa chúng sinh chưa từng ngừng nghỉ.

8. Lại nữa, các Bồ-tát ấy dùng vô tưởng để vào các tưởng; lại dùng hữu tưởng đi vào vô tưởng, không hề tưởng nghĩ mà nói các việc tưởng nghĩ; lại dùng các niệm mà nói việc vô niệm; dùng vô sở hữu đi vào sở hữu; lại dùng các sở hữu nhập vào vô sở hữu; dạy dỗ sự không tạo tác mà đi vào sự tạo tác; giáo hóa chỗ tạo tác mà đi vào chỗ không tạo tác; ở nơi vô sở đắc mà nói có sở đắc; ở chỗ có sở đắc mà nói vô sở đắc và biết rõ các pháp đều vô sở hữu.

9. Lại nữa, Bồ-tát ấy tâm bình đẳng nơi đạo, đạo cũng vì bình đẳng mà có. Biết rõ tâm đạo, chúng sinh không có hai khác, tâm không điên đảo, chốn tư niệm không mất, chỗ thấy bình đẳng, không theo tà nghi.

10. Lại nữa, Bồ-tát ấy trong lúc phát tâm, tâm ấy vốn vắng lặng, định ý chánh thọ. Ở nơi bản tế mà không khởi chứng đắc, dùng vô lậu, hữu lậu mà vĩnh viễn chẳng diệt. Bố thí các gốc đức, hiểu rõ các pháp, vì người mà nói tất cả sự vô lậu. Các lậu đã hết thì vì người mà tuyên thuyết, có thể dùng pháp Phật mà đi vào pháp thế tục. Tuy ở trong ấy mà không vướng mắc nơi pháp thế tục, không niệm tục. Quán tất cả pháp đều nhập Pháp thân mà cũng chẳng có chỗ nhập. Hiểu rõ các pháp không có hai khác, cũng không chốn hành.

Đó là mười sự không thể nghĩ bàn của Bồ-tát. Bồ-tát trú ở đây thì mau chóng thành tựu đạo Vô thượng Chánh chân.

Bồ-tát có mười việc giải nói chân đế. Những gì là mười?

1. Tùy thời mà chân thành diễn nói tất cả pháp Phật.

2. Xả bỏ pháp ác chẳng mất sự tiết chế. Dùng thần túc biến hóa của chư Bồ-tát mà tuyên dạy chánh pháp.

3. Có thể dùng phương tiện, tùy theo chúng sinh mà vào nơi tội phước của họ. Tuyên dương chúng sinh mà trừ khử tất cả phiền não ái dục. Vì có thể thấu rõ nghĩa chúng sinh.

4. Dùng pháp môn vô vi tiêu trừ các chướng ngại, tu tập nhàn tịnh.

5. Lại nữa, Bồ-tát ấy dùng vô sở trú giống như hư không. Mỗi một chỗ vào chẳng dùng giới cấm.

Trời đất thành hoại không hề nghi ngại. Ở các thế giới không bị chìm ngập, ở nơi cảnh giới các pháp không bị che chướng.

6. Chỗ vào các phương diện đều đem đến lợi ích vi diệu. Sinh ra, xuất gia, đạt đến Như Lai Chánh chân, rốt cùng thị hiện diệt độ.

7. Bồ-tát lại đi vào pháp giới của chư Phật, thấy khắp sự hành dụng tiến, dừng của chư Phật.

8. Bồ-tát đều thấy chúng sinh ở nơi Niết-bàn, không chỗ tạo tác, nguyện chẳng rơi rớt và sẽ hội tụ đầy đủ các trí thông tuệ.

9. Lại có Bồ-tát thấy tất cả pháp không chỗ nương tựa, không rời thiện hữu, chỗ phải thân gần mà không ỷ lại.

10. Như Lai tinh chuyên không hề có pháp biếng trễ. Nhìn bạn và thù đều với thái độ bình đẳng. Tích lũy gốc đức, khuyến giúp và hợp nhất khiến họ được đồng đẳng, tán dương sự thành tựu khiến họ không thấy có hai.

Đó là mười việc tùy thời giải nói của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười tuệ phân biệt. Những gì là mười?

1. Hiểu rõ tất cả các cõi Phật.

2. Vào thấu nguồn gốc suy thịnh của chúng sinh.

3. Biết rõ tâm hành hiện hữu của chúng sinh.

4. Bày rõ các căn suy thịnh của chúng sinh.

5. Lại biết tất cả hành quả, báo ứng.

6. Tùy thời vào khắp mà phân biệt nghĩa Thanh văn.

7. Và cũng như vậy đối với chúng Duyên giác.

8. Dùng phương tiện từ pháp thế tục mà phân biệt, tu hạnh Bồ-tát.

9. Tất cả đều thuận nhập vào pháp Phật.

10. Hiểu tuệ phương tiện.

Đó là mười tuệ phân biệt của Bồ-tát. Bồ-tát trụ ở đó thì mau chóng thành tựu đạo Vô thượng Chánh chân.

Có mười việc về Tam-muội của Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Là đều biết khắp tất cả sở hữu trong mười phương thế giới.

2. Có thể dùng định ý, các pháp Tam-muội làm vắng lặng thân chúng sinh.

3. Định, Tam-muội ấy thấy khắp mười phương Phật.

4. Có thể kiến lập tất cả các niệm, tùy thời định ý.

5. Tam-muội ấy có thể động chuyển vô số thân, cũng có thể khởi lập từ Tam-muội.

6. Vào khắp Tam-muội chánh thọ của chư Phật Như Lai Chánh giác mà khai ngộ chúng sinh.

7. Trí tuệ ấy rất rộng lớn, biết rõ Tam-muội tùy thời của chư Bồ-tát.

8. Mỗi lúc phát tâm thì đi vào tuệ nhất tâm.

9. Dùng vô vi tâm khai mở trí tuệ thanh tịnh.

10. Có thể rộng tu trí tuệ Bồ-tát, không bỏ thuần tín. Dùng nguyện nơi đại tuệ biết rõ Tammuội.

Đó là mười việc về Tam-muội của Bồ-tát.

Có mười việc về những gì sở hữu của Bồ-tát?

Những gì là mười?

1. Sở hữu tất cả những gì của chúng sinh.

2. Với cõi nước của các Bồ-tát cũng vậy.

3. Quán khắp chúng sinh biết rõ vốn không.

4. Lúc gặp kiếp hỏa tai thì trời đất đều hư vong.

5. Hoặc gặp kiếp thủy tai, lúc trời đất hư vong rồi thì liền hợp thành trở lại.

6. Chư Phật Chánh giác cũng đều vô sở hữu.

7. Vô vàn chủng hạnh đều không xứ sở.

8. Thân Như Lai có công huân vô lượng.

9. Chỗ nói nghĩa lý, gốc ngọn của tất cả các pháp đều giống nhau.

10. Nếu có thể cúng dường chư Phật Chánh giác thì chỗ về đều không.

Đó là mười việc nêu bày về những gì sở hữu của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Sở hữu gì chúng sinh
Cõi nước, không xứ sở
Quán sát các tướng hảo
Kiếp thiêu trời đất hoại
Hợp lại cũng như vậy
Phật thân vô số hình
Như Lai không thể bàn
Nói pháp vô số loại.

Cửa giải thoát của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Thân ấy biến khắp tất cả thế giới.

2. Hiện khắp mười phương với vô vàn loại hình, vô số sắc tượng.

3. Dùng các pháp giới mà thể nhập một cõi Phật.

4. Kiến lập tất cả các loài chúng sinh để trang nghiêm Phật.

5. Thân hình biến khắp vô số cõi Phật trong mười phương.

6. Tự nhiên biết rõ khắp tất cả các cõi.

7. Một khi phát tâm thì khắp các cõi Phật đều hiện ra chư Phật.

8. Tại mỗi cõi nước thì đều khiến cho chư Phật nhập vào một thân.

9. Đều làm cho thần túc chư Phật cảm ứng và lấy làm hoan hỷ.

10. Thể nhập nhất tâm.

Đó là mười việc về cửa giải thoát của Bồ-tát.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Thân biến khắp cõi Phật
Hiện vô số loại hình
Các pháp vào một cõi
Kiến lập các thế giới
Khắp đời hiện thân Phật
Tự biết cùng khắp cả
Nhập các pháp một thể
Mở tâm vào hết thảy.

Thần thông của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Biết rõ những việc đã trải qua trong quá khứ.

2. Hiểu rõ phương tiện vào ra, lui tới.

3. Thiên nhĩ biết phân biệt mà không chỗ ngăn ngại, đều thông rõ các chỗ quay về của ngôn từ.

4. Có thể biết được tâm chỗ niệm hành của người khác và các loài chúng sinh.

5. Với vô số sự việc sai khác thì dùng Thiên nhãn vô vi quán sát khắp những chỗ đã trải qua.

6. Dùng đại thần thông biến hóa mà cảm ứng và khai hóa các loài chúng sinh không thể nghĩ bàn. Từ bản tính ấy mà thị hiện ra khiến họ được vào khuôn phép.

7. Thấy được vô số thế giới của chư Phật và các thân thị hiện cùng khắp.

8. Lúc phát tâm có thể du hóa khắp mười phương vô lượng cõi Phật, cũng có thể kiến lập và làm trang nghiêm vô số cảnh giới.

9. Các Bồ-tát cũng có thể thị hiện đầy đủ thân hình mà không ôm tâm tự đại.

10. Hiển bày thông tuệ ở vô số nước, chứng đạo quả Vô thượng Chánh chân làm bậc Tối chánh giác, tâm khó nghĩ bàn. Vì chí tánh gốc ngọc của chúng sinh mà thị hiện sự chỉ dạy.

Đó là mười nghĩa thần thông của Bồ-tát. Bồ-tát an trụ vào đấy thì đạt được chỗ thần thông Vô thượng Chánh chân của Như Lai. Chỗ biến hóa của chư Phật luôn phương tiện tùy hướng, luôn hiện khắp mười phương giáo hóa chúng sinh thì liền thành tựu hạnh ấy, các nghĩa tròn đủ.

Bồ-tát thông đạt có mười việc. Những gì là mười?

1. Có thể tùy thời giáo hóa chúng sinh. Phân biệt tội phước, sự trải qua và vô số sự bất đồng của các loài chúng sinh, khiến họ được xuất gia, tâm thức được vắng lặng lúc vào chỗ ngăn ngại. Việc làm điên đảo và vô vàn sự bất đồng của mỗi mỗi chúng sinh thì Bồ-tát đều làm cho tiêu diệt cả và đạt đến như Thánh tuệ đầy đủ Kim cang bất hoại.

2. Có thể kiến lập được âm thanh cùng khắp không thể nghĩ bàn. Dạy nơi các cõi Phật, hiểu rõ phương tiện và tất cả sự trụ chấp vào việc huân tập bốn Đẳng tâm.

3. Đều đi vào khắp pháp giới, rõ chỗ sinh ra và cũng biết rõ pháp vốn không từ đâu sinh. Các vị ấy đều đã trừ khử hết các tưởng về ốm đau, xứ sở, cảnh giới.

4. Lại nữa, Bồ-tát ấy không quán các pháp cũng chẳng phải không quán các pháp. Lấy các pháp vô tưởng làm thanh tịnh, cũng không có sự thanh tịnh. Rõ vô số sự hiện hữu, hiểu biết và tinh tấn tuyên thuyết kinh đạo ở vô số kiếp. Dùng sự bình đẳng mà về nơi đạo Vô thượng Chánh chân, thường trú nơi pháp giới.

5. Lại nữa, Bồ-tát ấy hiểu rõ chúng sinh vốn diệt độ, không dụng việc nhà, cũng không tạo tác. Biết việc sinh ra là theo điên đảo, thấu đạt được nghĩa lý nhân duyên báo ứng ấy. Biết được việc dùng nhân duyên phương tiện gì để phụng kính chỗ hành gốc ngọn, xứ sở sinh diệt, phân biệt và khai hóa các loài chúng sinh.

6. Khai mở sự bế tắc về đạo lý giải thoát, biết rõ sự điên đảo, không còn các lầm lỗi, cũng biết rõ nguồn gốc của trần dục sân hận. Cũng phân biệt được các nghiệp sinh tử vô vi. Lại còn biết rõ sự trái ngược mà vốn không trái ngược. Biết rằng có thể nương tựa vào nơi không thể nương tựa.

7. Các vị cũng cứu xét sáng rõ chỗ đi đến, biết được chỗ đi đến, chỗ trở về và chỗ thoái chuyển của họ. Biết chỗ chí quyết và nơi quy hướng của họ, cũng biết được sự hư hoại sắp hoàn thành.

8. Biết rõ căn tánh và sự khai hóa chúng sinh, chỗ được khai hóa thì khiến họ được vào khuôn phép. Không hề mê chấp vào vô số phương tiện dạy dỗ chúng sinh mà bỏ quên hạnh Bồ-tát. Vì sao? Này Phật tử! Muốn biết về Bồ-tát thì phải phát tâm đạo Vô thượng Chánh chân. Vì sao? Vì tâm đạo ấy muốn khai hóa chúng sinh, đã khai hóa chúng sinh thì làm cho họ theo luật giáo mà thân tâm không hề chán mệt. Đó là Bồ-tát biết rõ mười hai nhân duyên khởi, vì tất cả mà làm nên không hề có tính tranh chấp.

9. Lại nữa, Bồ-tát ấy chưa từng ỷ lại và khởi tâm ỷ lại vào Đức Phật; cũng không chấp trước pháp, lại không khởi tâm tham nơi khác; cũng không chấp trước cõi Phật và không sinh tâm nương vào cõi Phật; cũng không chấp trước vào cõi người, lại không khởi tâm thích thú chúng sinh; cũng không hề thấy có chúng sinh và không hề khởi tâm thấy có chúng sinh.

10. Bồ-tát ấy luôn hưng khởi các hạnh, đầy đủ sở nguyện, tu từ bi vô cực, không tưởng thấy Phật, biết niệm Như Lai, chỗ tuyên thuyết pháp thì được ngồi tòa Như Lai; trồng các gốc đức, không hề lo nghĩ; tâm thích Chánh giác, không vì sự chán mệt, cũng không vì phép tắc. Cúng dường Như Lai, tâm càng tinh tấn, tạo cảm ứng và lập uy thần ở các thế giới Phật không thể nghĩ bàn. Kiến lập tư duy Đệ nhất pháp giới, biện giải về vô số lời dạy của kinh pháp. Biết mọi chúng hội có thể của thế giới chúng sinh hữu vi; cũng biết được sự hạn chế của chúng sinh nhiều hay ít; biết rõ gốc ngọn của cái khổ từ đâu sinh khởi; cũng có thể biết rõ sự tận diệt của vạn vật đều là gốc khổ. Nếu có Bồ-tát vì có thể thấy được điều này thì sự tu hành của họ cũng như hình ảnh tiếng vang, bỏ các việc ác, bỏ gốc ác thì liền tự phát tâm cứu độ chúng sinh. Chỗ hành dụng ấy đều không chỗ hành, đó gọi là hạnh Bồ-tát học theo chư Phật, tâm luôn kiên cố như núi Tu-di. Biết bỏ tất cả các tưởng điên đảo, kiến lập phổ trí và các cửa thông tuệ, đạt thành Chánh Giác, vào nơi tuệ đường vô cực vô hạn. Tuệ đường tức là đạo Vô thượng Chánh chân, cứu vớt chúng sinh đang trôi dạt trong ba cõi về nơi nguồn cội.

Đó là mười việc thông đạt của Bồ-tát. Bồ-tát trụ ở đó thì đạt thành đại tuệ vô thượng của Như Lai.

Có mười việc về sự giải thoát của Bồ-tát.

Những gì là mười?

1. Độ tận nguồn cội phiền não ái dục.

2. Giải thoát khỏi con đường tà kiến, bất chánh.

3. Cứu độ cái nạn che chướng của năm ấm.

4. Cứu vớt các nhập của hình thể tứ đại.

5. Vượt lên các thừa Thanh văn và Duyên giác, nhờ đó mà chứng được Vô sinh pháp nhẫn.

6. Phát khởi tất cả cõi nước chúng sinh và các pháp phương tiện.

7. Liền được siêu việt các hạnh Bồ-tát không thể kể xiết, khen ngợi tất cả hạnh Bồ-tát.

8. Dùng sự không vọng tưởng để vào địa Như Lai.

9. Dùng Thánh tuệ biết khắp ba đời.

10. Thần thông cứu độ bình đẳng rộng khắp.

Đó là mười việc giải thoát của Bồ-tát. Bồ-tát trụ ở nơi đó thì khai hóa mọi chúng sinh và khiến cho họ đạt đến vô thượng.

Bồ-tát lại nói kệ tụng:

Cứu độ phiền não dục
Tà kiến nơi năm ấm
Các chủng loại bốn đại
Khổ nạn của tham thân
Vượt Thanh văn, Duyên giác
Đạt Vô sinh pháp nhẫn
Khen ngợi cõi chúng sinh
Vô lượng hạnh Bồ-tát
Chỗ tu của Khai sĩ
Nhập vào địa Như Lai
Siêu vượt các vọng tưởng
Thần thông mở ba cõi.

Vườn nuôi dưỡng của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Thị hiện vui nơi sinh tử mà chưa từng chán mệt.

2. Thích giáo hóa chúng sinh, tính không chấp trước.

3. Ở nơi tất cả các tưởng mà nhận lãnh đại hạnh.

4. Thường thích nghiêm tịnh thế giới chư Phật.

5. Thường trú ở xứ sở của mình mà chí nguyện tại cung điện thể nữ của chúng ma, có thể giáo hóa các cung điện và lầu gác ấy.

6. Kính vâng chỗ thuyết pháp như chỗ nghe pháp, tư duy nghĩa lý, quán sát nẻo về nơi lục thông vô cực.

7. Thâu giữ bốn ân, ba mươi bảy phẩm pháp đạo tuệ là vườn ruộng của Bồ-tát, là cha của chính mình.

8. Chỗ có thể du hóa là mười Lực của Như Lai, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng. Tóm lại, tất cả Phật pháp là vườn của Bồ-tát, mà chưa từng tưởng nghĩ đến pháp nào cả.

9. Tất cả sự thị hiện biến hóa và chỗ kiến lập pháp lạc của tất cả Bồ-tát là vườn ruộng của Bồ-tát.

10. Bồ-tát chuyển bánh xe pháp, chẳng hề khởi tâm tự đại mà luôn cẩn trọng hành dụng không chỗ trái mất. Tất cả sự phát tâm đều không rời Chánh giác, hiện hữu khắp chúng sinh là vườn của Bồ-tát. Nhưng Pháp thân của Bồ-tát đều hiện hữu khắp mười phương thế giới chư Phật và sở hành của họ giống như hư không.

Đó là mười việc về mảnh vườn của Bồ-tát.

Cung điện của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Vui với cung điện Bồ-tát mà tâm không bị mê hoặc. Đã khéo tích lũy mười điều thiện và công đức tuệ nghiệp, đó là cung điện của Bồ-tát.

2. Khai hóa các loài chúng sinh nơi cõi Dục, tu bốn phạm hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả. Bồ-tát nhờ đó mà dạy bảo các loài chúng sinh nơi cõi Sắc và được vãng sinh đến cung điện của chư Thiên cõi Tịnh cư.

3. Do đó Bồ-tát tiêu diệt được tất cả các trần lao uế trược, đến được cõi trời Vô dục sắc.

4. Đến cung điện ấy, các Bồ-tát dạy bảo về đại nạn của sự không thanh tịnh nơi chúng sinh, làm cho họ đều lùi bỏ.

5. Hoặc có lúc Bồ-tát thị hiện sinh vào cảnh giới uế tạp. Vì Bồ-tát thích thọ sinh ở nơi ấy để cứu độ tất cả chúng sinh tham dục.

6. Bồ-tát hiện nơi hậu cung có thể nữ, trai gái và đời trước đã cùng họ tạo lập phước hạnh để cùng vui với họ, do đó mà giáo hóa khắp bốn phương, bốn cõi, các Đế Thích, Phạm thiên, Tứ Thiên vương.

7. Bồ-tát do đây mà khuyến hóa sự hung nguy, kể cả những thường nhân cũng đều khiến họ xả bỏ loạn ý và ở nơi tất cả hành nghiệp Bồ-tát.

8. Bồ-tát vì tư niệm về sự giáo hóa dài lâu nên tự do theo đuổi, thể hiện thần thông diệu dụng. Bồ-tát thường dùng tuệ để khai hóa đưa đến cửa giải thoát nhất tâm Tam-muội chánh thọ mà được niềm pháp lạc.

9. Bồ-tát dùng pháp điển của chư Phật với Nhất thiết trí Vô thượng Chánh chân mà đoạn trừ các ngăn ngại, bố thí tất cả pháp mà luôn tự tại, được làm quốc chủ, được tôn quý, hào phú cũng do nơi mình.

10. Bồ-tát ưa thích mười Lực của Như Lai, lấy đó làm chỗ ở.

Đó là mười cung điện của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười sự du quán. Những gì là mười? 1. Ý tự ưa thích, quán các chương cú, mỗi dấu chân đi thì ý chí quán sát, phương tiện quyền biến.

2. Tại trú xứ ấy Bồ-tát thường ở dưới chân chư Phật, nghe pháp thọ trì.

3. Ý vui với mười phương, tâm hiện bày cùng khắp, cung kính chư Bồ-tát.

4. Thần túc biến hóa hiện ra vô lượng pháp, giáo hóa thân ý mê hoặc của chúng sinh. Phụng trì định lực, vào một cửa Tam-muội thì được vào khắp các cửa Thiền định Tam-muội.

5. Ở nơi các môn Tổng trì và tất cả chỗ nghe biết thì liền có thể thọ trì, chưa từng quên mất.

6. Đem chỗ cốt lõi của pháp Tổng trì đó vì chúng sinh mà diễn thuyết, làm cho họ được hoan hỷ.

7. Bồ-tát vui nơi biện tài, vì một chương cú mà ngợi khen bằng lời đẹp.

8. Ở trong vô số kiếp, đàm ngôn thuyết sự không hề dứt lời.

9. Vì mọi chúng sinh cầu Tối chánh giác, thị hiện vô số thân hình, vô lượng phẩm vật.

10. Luôn chuyển pháp luân, giáo hóa ngoại đạo khiến họ tham học pháp đạo.

Đó là mười sự du quán của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười sự nghiêm tịnh. Những gì là mười?

1. Oai lực của chư Bồ-tát tươi sáng nên có thể một mình bước đi thanh tịnh, vô úy, không hề lầm lỗi.

2. Nghĩa lý sáng rõ, chỗ diễn ý lời, đàm thuyết mọi việc trong vô số kiếp thì không thể nào phế bỏ.

3. Pháp thanh tịnh ấy có thể diễn tám vạn bốn ngàn pháp tạng.

4. Kinh ngôn thanh tịnh, không quên một nghĩa.

5. Tất cả Bồ-tát theo sở nguyện vi diệu, không hề bỏ thệ nguyện, hạnh của Bồ-tát thanh khiết.

6. Tuyên dương Hiền thánh, lời dạy chánh chân.

7. Trang nghiêm cõi nước, dùng một âm thanh nói khắp mười phương mà như nói trong một cõi.

8. Đạo tràng thanh tịnh của mình biến khắp các cõi Phật, hưng khởi mây đạo, mưa pháp cam lồ, kiến lập chánh giáo và trừ bỏ tất cả vọng tưởng hữu vi.

9. Theo hạnh trang nghiêm, thanh tịnh không kiêu mạn, dùng một thể mà hiện vô số thân.

10. Giáo hóa tất cả chúng sinh, tinh tấn không mệt, ngày đêm cầu các thông tuệ mẫn tiệp, thị hiện vô số lực vô úy.

Đó là mười việc thanh tịnh của Bồ-tát. Bồ-tát trú ở đó thì được sự thanh tịnh khắp cùng của chư Phật.

Bồ-tát có mười việc về tâm bất động. Những gì là mười?

1. Tất cả sở hữu đem bố thí mà không hề luyến tiếc. Sự bố thí ấy đều vì sự thanh tịnh mà tâm không hề bị lay động.

2. Bồ-tát tư duy sáng rõ pháp thâm diệu của chư Phật; Quy y, thừa sự và phụng kính chư Phật. 3. Thương xót chúng sinh, tinh tấn vô lượng, chưa từng sân hận. Từ loài người cho đến loài vật, các Bồ-tát không hề quên độ thoát một chúng sinh nào.

4. Cầu pháp của chư Phật chưa hề nhàm mỏi.

5. Tất cả chúng sinh nhiều không thể kể, hành hạnh Bồ-tát trong vô số kiếp, chẳng gần chẳng xa, vì hạnh Bồ-tát chưa từng thoái chuyển, không đóng không mở.

6. Lại nữa, Bồ-tát ấy đời trước đã sinh tín tâm, có sự tu hành thanh tịnh vô lượng. Sự thanh tịnh ấy xa rời mọi nẻo tươi sáng và cấu bẩn.

7. Phụng kính chư Phật, ân cần tu hành, trừ bỏ tham thân, không điều thích thú nhưng vì đồng loại mà đến với niềm vui lớn, sảng khoái vô cực, thuần tín vì đạo.

8. Nương về Nhất thiết trí, ứng hợp với chương cú ấy, thành tựu rốt ráo giáo nghĩa Bồ-tát.

9. Tu hành và giáo hóa ở chỗ nghe và tâm tin của chúng sinh, không có sự hủy báng.

10. Đối với sự biến hóa của nghiệp báo phiền não thì tâm Bồ-tát luôn bất động.

Đó là mười việc về tâm bất động của Bồ-tát. Bồ-tát an trú ở đây thì liền thấu đạt các thông tuệ mẫn tiệp.

Bồ-tát có mười việc không xả bỏ. Những gì là mười?

1. Không xả sự đạt thành đạo Tối chánh giác đạo của chư Phật.

2. Không bỏ sự giáo hóa chúng sinh khiến họ vào nơi pháp luật.

3. Không thể quên mất và bỏ sự giáo huấn theo lời dạy của chư Phật.

4. Quy y và nương nhờ theo Thiện tri thức mà không hề xa lìa.

5. Đến khắp các cõi Phật, quỳ gối, đảnh lễ Như Lai Chánh chân, không hề bỏ mất oai nghi.

6. Thường cầu tất cả pháp công đức, không bỏ Đại thừa, gieo trồng Phật pháp nơi đời, tịnh tu phạm hạnh.

7. Phụng trì giới cấm không hề hủy phạm.

8. Theo chư Bồ-tát siêng tu đạo nghiệp, không vì biếng nhác mà bỏ mất.

9. Thích cầu nghĩa lý nơi lời dạy của chư Phật, tùy thời thọ trì, tham học không quên, tu tập theo hạnh nguyện của Bồ-tát.

10. Không bỏ sự tư duy của thông tuệ về việc giáo huấn của chư Phật.

Đó là mười điều mà tâm Bồ-tát không hề quên bỏ.

Có mười việc quán tuệ của Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Quán tất cả các pháp, phân minh nghĩa lý chương cú, tùy thời diễn thuyết.

2. Quán gốc đức khắp ba đời, vì chúng sinh thuyết pháp.

3. Thấy chỗ hành nơi bản tế của chư Bồ-tát mà khai hóa họ.

4. Quán các pháp môn, thấu rõ nguồn cội.

5. Quán thấy sự kiến lập của chư Phật.

6. Quán các Tổng trì để ban rải pháp môn, hiển bày diệu dụng ở đó để khiến chúng sinh trở về.

7. Cũng dùng trí sáng quán khắp thế gian.

8. Thấy khắp các pháp giới, thuận tuệ mà vào.

9. Trí tuệ khó bàn biết rõ mười phương.

10. Thấy trí tuệ chư Phật, rõ khắp nơi thế giới Thánh minh vô lượng.

Đó là mười quán tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát giảng pháp có mười việc. Những gì là mười?

1. Tuyên thuyết các pháp đều từ duyên khởi gọi là Nhất thiết nghĩa, làm cho tất cả đều quay về.

2. Dùng trí hạnh đã tích tập để diễn thuyết về các sự sở hữu đều như huyễn hóa.

3. Lại nói các pháp tất cả vốn không.

4. Luận bàn các kinh luôn ở trong sự rộng lớn của trung đạo, không có bờ mé.

5. Tất cả các sự nghiệp, sở hữu đều không hề chấp trước.

6. Lại thuyết về các pháp bền chắc bất hoại như kim cương và tất cả các nghĩa mà Như Lai tuyên thuyết.

7. Lại nói về các sự an nhiên tịch tĩnh.

8. Lại diễn thuyết về các pháp vốn không chỗ sinh.

9. Giảng tất cả pháp vốn bình đẳng từ một gốc thanh tịnh.

10. Nói về sự không hòa hợp tạo thành.

Đó là mười việc giảng thuyết của Bồ-tát.

Bồ-tát thanh tịnh có mười việc. Những gì là mười?

1. Tâm tánh vốn tịnh, không có nhiễm ô.

2. Trừ bỏ các kết sử, hồ nghi, do dự nên Bồ-tát luôn trong sáng.

3. Bỏ các sự chìm đắm và sáu mươi hai tà kiến.

4. Chỗ hành hóa về oai nghi, tu tập lễ tiết, vui thích phổ trí và các thông tuệ minh mẫn.

5. Các chỗ biện biệt thanh tịnh vời vợi, dũng mãnh sáng soi.

6. Tu hạnh Bồ-tát theo bốn Vô sở úy.

7. Tất cả chỗ đi ở đều không có dấu vết.

8. Khuyến chư Bồ-tát nguyện hành tu tập, nẻo dụng không nhiễm ô.

9. Trăm tướng công huân, ba mươi hai việc của bậc Đại sĩ đều chí cầu nơi đạo Vô thượng Chánh chân.

10. Về nơi pháp thanh tịnh, trang nghiêm tất cả công đức của gốc tịnh.

Đó là mười việc thanh tịnh của Bồ-tát. Bồ-tát trú ở đây thì đắc thành sự thanh tịnh vô thượng của chư Phật.

Có mười việc về pháp ấn của Bồ-tát. Bồ-tát Đại sĩ do pháp ấn mà đầy đủ tuệ Bồ-tát, mau chóng thành tựu đạo Vô thượng Chánh chân, làm bậc Tối chánh giác. Những gì là mười?

1. Bồ-tát biết rõ vạn vật đều là khổ, khổ càng thêm khổ, phiền não lại càng phiền não, ái biệt ly khổ, oán tằng hội khổ… tuy gặp các nạn này nhưng vẫn siêng cầu Phật pháp, tâm không dao động, cũng không trái bỏ.

2. Hạnh Bồ-tát không hề sợ hãi, chẳng tâm lo lắng, không xả bản nguyện cũng chẳng bỏ đại trí. Thông đạt tất cả và tâm chẳng hề trái với chỗ cốt yếu của Phật đạo. Phàm phu mê hoặc quyến luyến với trần lao, ái dục của mình. Tu gốc bất thiện, mắng chửi, hủy nhục và khinh chê Bồ-tát, nói lời thô ác, thậm chí còn ném gạch quăng đá, lại dùng dao gậy xâm tổn. Bồ-tát gặp các sự việc như vậy nên chí cầu Phật đạo, chưa từng chán bỏ. Hạnh của Bồ-tát thường hành nhẫn nhục, nhiều tâm nhân hòa, làm theo lời dạy của kinh điển, cũng siêng năng, nhẫn nhục, đầy đủ chánh hạnh.

3. Lại nữa, Bồ-tát ấn ban tuyên pháp thâm diệu của chư Phật. Ở nơi Nhất thiết trí thì khiến mọi người nhập vào trí tuệ của mình. Chỗ sinh ra đều đầy đủ, giáo hóa mọi người khiến họ đều thích pháp.

4. Lại nữa, Bồ-tát ấy quán về bản thể tuệ, đạt đến tính từ hòa, hưng khởi phổ trí: Ta sẽ thành Phật đạo Vô thượng Chánh chân, làm bậc Tối chánh giác. Quán sát chúng sinh, theo dõi khắp cùng các khổ nạn trong năm đường là: Ưu, não, sầu, lo, khiến họ phát tâm đạo, hân hoan cùng tột, thêm tâm thuần tín. Vui mừng như thế thì sự tinh tấn càng vững bền.

5. Lại nữa, Bồ-tát ấy đi vào trí tuệ không ngằn mé của Như Lai, không ra ngoài cảnh giới của Như Lai Thánh minh không thể nghĩ bàn. Nghe chư Phật Thế Tôn tuyên thuyết kinh đạo cũng không bờ mé. Phật trí vô hạn, ở nơi các văn tự không tăng không giảm. Phân biệt các nghĩa, không trái với sự chỉ dạy của Phật.

6. Lại nữa, Bồ-tát ấy ưa thích pháp đạo Vô thượng Chánh chân, ưa thích nghĩa sâu xa, đạt đến trí tuệ vi diệu vô cực. Vì sùng mộ đạo Vô thượng nên hưng khởi nhiều điều như vậy, ân cần, cẩn mật chưa từng trái xa. Tất cả chúng ma và quyến thuộc của nó, các kẻ Dị học, ngoại đạo thù địch không dám đương đầu, chưa từng xả bỏ tất cả tâm trí và nẻo hành hóa của Bồ-tát. Lợi ích như vậy chưa từng giảm sút.

7. Lại nữa, Bồ-tát ấy lúc hành đạo chưa từng hoảng sợ, không tiếc thân mạng, phát tâm thông tuệ, tu Nhất thiết trí lấy đó làm đầu. Họ đều được ánh sáng của chư Phật chiếu sáng, không bỏ đạo nghĩa, không xa thiện hữu.

8. Lại nữa Bồ-tát ấy thấy thiện nam, tín nữ nào cầu học Đại thừa, siêng năng tu hành, sùng mộ Phật pháp, kiến lập gốc đức, thọ Nhất thiết trí chưa từng xa rời.

9. Lại nữa, chỗ đi lại của Bồ-tát ấy tâm luôn bình đẳng với chúng sinh. Cũng với trí tuệ bình đẳng vì các chúng sinh mà ban tuyên kinh điển, đạt đến đạo Vô thượng Chánh chân. Chí hướng Bồ-tát không hề thoái chuyển và luôn hưng khởi đại Từ bi tâm.

10. Lại nữa, Bồ-tát ấy xem chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều là một. Họ đem các gốc đức phụng thờ chư Phật, quán các mẫn tuệ mà chưa từng đoạn dứt.

Đó là mười ấn chứng của Bồ-tát. Bồ-tát dùng ấn chứng này thì mau chóng thành tựu ấn pháp Chánh giác vô thượng.

Tuệ quang của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Bồ-tát Đại sĩ nhất định sẽ mau chóng thành tựu đạo Vô thượng Chánh chân.

2. Dùng Phật đạo chiếu khắp tất cả.

3. Thường gặp chư Phật Bình Đẳng Chánh Giác.

4. Biết rõ chỗ sinh và tử của chúng sinh.

5. Hiểu rõ tất cả pháp phẩm kinh điển.

6. Phát tâm Bồ-tát, thường huân tập theo thiện hữu.

7. Phân biệt chỗ tích lũy được các gốc đức, trí rõ ấn pháp.

8. Thường gặp chư Phật, hiểu rõ sự khai hóa các loài chúng sinh.

9. Lập địa Như Lai, tuyên dương pháp môn Phật đạo không thể nghĩ bàn.

10. Hiểu rõ chư Phật về sự tùy thời kiến lập đầy đủ rộng khắp các Độ vô cực.

Đó là mười tuệ ánh sáng của Bồ-tát.

Có mười hành vô lượng nơi tất cả chúng sinh, hàng Thanh văn, Duyên giác của Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Ở đây Bồ-tát tu bản tế hạnh, không thủ các nguyện, không cầu chứng quả.

2. Lại nữa, Bồ-tát ấy trồng các gốc đức, phát tâm khuyến giúp tất cả pháp giới, không chấp các pháp.

3. Lại nữa, Bồ-tát ấy lúc hành đạo, quán các chốn hành như huyễn hóa, các pháp vắng lặng, tâm không mê mờ. Chư Phật cũng vậy.

4. Lại nữa, Bồ-tát ấy trừ khử sự chấp trước, vọng tưởng của chúng sinh. Ở trong vô số kiếp, tu hạnh Bồ-tát, đầy đủ đại nguyện, không khởi biếng nhác.

5. Lại nữa, Bồ-tát ấy phụng hành các pháp mà không hề dính mắc. Các pháp thị hiện cũng đều vắng lặng, cũng không diệt độ mà đều có đầy đủ Nhất thiết trí giáo.

6. Lại nữa, Bồ-tát ấy biết rõ các vọng tưởng cùng nguyện vô tưởng, tuyên dương chốn hành chân đế từ đầu đến cuối ở trong vô số kiếp.

7. Lại nữa, Bồ-tát ấy hiểu tất cả các pháp đều không sở hữu. Tuy hiểu rõ cái không ấy cũng vốn không mà không xả bỏ đạo hạnh, cầu các pháp Phật.

8. Lại nữa, Bồ-tát ấy lúc phát tâm thì liền vào khắp ba cõi, cũng đều hiểu rõ đầy đủ nghĩa lý ba đời. Chỗ thấu đạt của tâm Bồ-tát ấy ở nơi trung đạo rộng lớn, không một chỗ nào mà không thông đạt.

9. Lại nữa, Bồ-tát ấy dùng một thân người ở vô số kiếp nơi sinh tử mà hành đạo Bồ-tát kiến lập chí nguyện ở nơi Nhất thiết trí. Ví như vì một người mà nhẫn chịu các lao nhọc và vì mọi chúng sinh mà cũng nhẫn chịu như vậy. Kiến lập đại đạo rốt cùng không hề chán mệt, chỉ vì các đều thấy được sự chán khổ ở vị lai.

10. Lại nữa, Bồ-tát ấy đầy đủ hạnh Bồ-tát mà chẳng chịu mau chóng thủ chứng đạo quả Vô thượng Chánh chân. Chỉ vì tất cả chúng sinh mà các vị đi khắp nơi chốn để khai hóa, tạo lợi lạc cho vô số các loài khiến họ sống trong Phật đạo.

Đó là mười hạnh vô lượng của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc tâm chẳng khiếp nhược mà phát tâm đạo. Những gì là mười?

1. Bồ-tát tự nghĩ: “Tất cả các ma và chúng Thiên ma lúc gặp ta sẽ bị hàng phục, tâm ta không hề khiếp nhược. Ta sẽ dùng chánh pháp để hàng phục ngoại đạo. Hóa thân ta sẽ khiến các cảnh giới của chúng sinh hoan hỷ, tâm không khiếp nhược, đầy đủ tất cả các Độ vô cực, hoàn mãn pháp giới.

2. Vì các chúng sinh mà tích lũy, huân tập đầy đủ các phẩm công đức, đạo Vô thượng Chánh chân ấy là đại tinh tấn. Tuy khó biện biệt nhưng đó cũng là đại nghiệp.

3. Hạnh Bồ-tát không hề khiếp nhược, khai hóa tất cả cảnh giới chúng sinh, tùy thuận chúng sinh khiến họ theo quy cũ, vì tôn sùng sự khuyên dạy.

4. Mười phương thế giới vô số chủng loại có hình mạo và sự ăn mặc đều khác nhau. Bồ-tát vào trong đó tùy thuận sở thích của họ, ở trong đó mà thành Tối chánh giác.

5. Lại nữa, Bồ-tát ấy tâm tự nghĩ: Chỗ ta từng học, tu hạnh Bồ-tát thì đều từ bản thân mình mà ra. Nếu có người đến cầu xin tay chân, mắt mũi, thịt xương, tủy não, vợ con, trai gái, voi ngựa, xe cộ, quốc ấp, thành quách, quyến thuộc, tôi tớ… thì đều có thể đem cho hết, không trái ý người. Thấy mọi người đến có điều cầu xin thì phát tâm tùy thuận theo chỗ ưa thích của họ mà không khởi tâm chán ghét. Bồ-tát ấy muốn an tất cả chúng sinh nên ôm tâm thương xót. Bồ-tát đã bố thí thì không vọng cầu mà lấy đại Bi làm đầu, quay về từ bi vô cực, không hề hoảng sợ.

6. Lại nữa, Bồ-tát này huân tu hạnh ấy thì pháp Phật ở ba cõi, chúng sinh, cõi Phật, các thế giới chúng sinh, cảnh giới hư không, âm thanh các pháp đều là vắng lặng, quy hướng diệt độ. Trong khoảng một niệm thì các pháp dần dần tỏ rõ sự tương ưng bình đẳng, phân minh biết rõ, thành Tối chánh giác.

7. Tất cả đều là sự thị hiện, ví dụ, khuyến trợ thần thông, tu hành chứng đắc, không một niệm nào không nghĩ đến việc không phân biệt, điều tiết có độ lượng, khiến họ không chấp giữ nơi tài nghiệp, không tạo nhân duyên, không hề phân biệt cũng chẳng phải không phân biệt. Dùng vô số pháp mà việc làm không lầm lỗi; dùng trí tuệ không hai mà hiểu rõ cái hai; dùng tuệ vô tưởng mà hiểu rõ cái hữu tưởng; dùng tuệ vô niệm mà tỏ rõ các niệm; dùng bao nhiêu tuệ thì tỏ rõ bấy nhiêu; dùng vô hạn trí để tỏ rõ một số điều hữu hạn; dùng độ thế trí để tỏ rõ thế tục và tất cả chỗ hành; dùng Thánh trí để khai hóa phương tục và sự tối tăm bế tắc. Trí vô quá khứ có thể phân biệt các đời quá khứ, trở về với cõi vô nhân thì có thể biết rõ cảnh giới của chúng sinh, siêu vượt sự chấp trước. Du hành tạo tác, huân tập các hạnh, biết rõ tất cả các tuệ cứu cánh. Tỏ bày các sự thông suốt và các sự không thông suốt. Dùng tuệ thuần thục giải trừ phiền não, cấu uế trí phân biệt bản tế vô tận và khai hóa sự hữu tận, tỏ rõ pháp giới là trí bậc nhất.

8. Thân ấy hiện khắp mười phương thế giới, vào nơi âm thanh ngôn giáo vô lượng, từ sự vô lượng ấy mà tuyên dạy.

9. Một tuệ tự nhiên vào chỗ vô tự nhiên, một hạnh Thánh minh mà bày rõ chỗ tu, hiện vô số hạnh, tất cả các pháp đều không thể thủ đắc, hiểu rõ nghĩa này thì đến chỗ vô cực, thị hiện biến hóa.

10. Thị hiện biến hóa thành Tối chánh giác, đến chỗ đại tuệ, hiển Đại thần thông. Nghĩa là dùng phổ trí cảm ứng và hưng khởi hành dụng hóa độ quần sinh không hề khiếp nhược.

Đó là mười việc không khiếp nhược của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc tâm như núi lớn. Những gì là mười?

1. Đó là lúc Bồ-tát thường tu tinh tấn, chuyên chí tư duy về các thông mẫn tuệ.

2. Lại nữa, Bồ-tát ấy quán sát tất cả các pháp vốn thanh tịnh như hư không, nhưng cũng hiểu rõ các pháp đều do điên đảo mà có. Trong vô số kiếp tu hành hạnh Bồ-tát, phát khởi tâm ấy nên hưng thịnh tất cả bạch pháp.

3. Bồ-tát hưng khởi, Bồ-tát biết rõ vô lượng tuệ nghĩa của Như Lai để có thể phụng hành các pháp thanh tịnh.

4. Bồ-tát hưng phát kinh đạo chư Phật, thanh tịnh bình đẳng, thuận với bạn lành. Vì chỗ phát tâm không tâm nghi kết, tôn kính kinh điển, tâm không nghĩ khác về pháp của hành nghiệp khác chỉ cung kính, khiêm tốn và tùy thuận.

5. Tất cả sở hữu bố thí không tiếc, thân gần đạo pháp. Bồ-tát thương xót tất cả chúng sinh mà chẳng chịu nhiều ưu sầu khổ não. Giả sử có gặp việc nguy hiểm đến tánh mạng, bị hủy báng, nhục mạ, gậy gộc đánh đập thì đều có thể nhẫn chịu mà không mang tâm lo lắng, định tâm không loạn, không khởi sân hận, từ bi vô lượng thương xót muôn loài.

6. Bồ-tát mặc áo giáp đại công đức mà không hề thoái chuyển, đạo ý không bỏ, càng thêm ân cần hưng khởi từ bi vô lượng. Sự lợi ích của tâm Từ bi ấy là rộng lớn. Vì sao? Này Phật tử! Ông phải nên biết! Chỗ về nơi tất cả các pháp của Bồ-tát đều do nhân duyên sinh ra, đầy đủ sự gia trì của Như Lai Chánh chân. Biết rõ các pháp, nhẫn nhục từ hòa, đó là ngôi vị cao ngời của Bồ-tát.

7. Bồ-tát Đại sĩ tu đại công đức, oai thần lồng lộng. Nếu ở cõi trời thì có ngôi vị tôn quý với chư Thiên, nếu ở cõi người cũng có ngôi vị cao quý nhất. Các vị luôn có dáng vẻ đoan nghiêm, oai lực bậc nhất, quyến thuộc hùng mạnh, chỗ mong muốn tự tại. Nếu là Đế vương thì ở trong dòng họ tôn quý vô cực, công huân vô hạn, trí tuệ rộng lớn, không thích ái dục, không dùng của cải, quyến thuộc tự đại lấy làm an ổn, chí thích đạo pháp, mến mộ đạo pháp, lấy pháp làm nhà. Vì pháp mà được hộ trì, tự quy y pháp, vì pháp mà được độ. Thường cầu nghĩa pháp, lấy pháp làm vui, tư duy kinh điển, do đó mà được an cư, không theo lời ma. Vì sao? Nếu có Bồ-tát lúc phát tâm hiền dứt trừ sạch ý tưởng về chúng sinh, ta người, ma giới, khiến trú nơi Phật cảnh.

8. Bồ-tát ấy tinh tấn như vậy trong vô số kiếp tu hạnh Bồ-tát tự biết như vậy: “Ngày nay ta tu học đạo Vô thượng Chánh chân, không hoảng sợ, cũng chẳng lo lắng tu hạnh Bồ-tát, có hạnh ấy rồi nay ta sẽ thành đạo Tối chánh giác. Nhưng tại vô số kiếp ở trong vị lai, tu hạnh Bồ-tát thì tự thấy biết điều đó. Ta lại thấy kẻ ngoại đạo khó hóa độ, khó trị liệu, không có tâm phục thiện, chẳng biết báo ân. Muốn giáo hóa những kẻ này nên ta phải mặc áo giáp công, đi trong chúng sinh mà được tự tại. Thấy bọn hung ác mà chẳng sinh tâm chán nản, chẳng ghét kẻ ác và trần dục mà thoái lui vậy”.

9. Lại nữa, Bồ-tát ấy không chấp trụ vào cõi người mà phát đạo tâm: “Ta dùng hạnh này, tập hợp Bồ-tát, chỉ làm một mình không cần người khác, ở trong kiếp vị lai phụng hành pháp Khai sĩ. Dùng hạnh của mình với đầy đủ pháp chư Phật, hưng tâm gần gũi đại đạo vô thượng. Bồ-tát chỉ nguyện muốn khai hóa chúng sinh, do thích hóa độ chúng sinh nên tin hạnh Bồ-tát, tự làm thanh tịnh chí tánh, cũng có thể trở lại làm thanh tịnh tánh hạnh của tha nhân. Hiểu rõ các cảnh giới, cũng lại phân biệt được cảnh giới của tha nhân. Quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật đều hợp làm một cõi.

10. Lại nữa Bồ-tát ấy không thấy các pháp, cũng chẳng thấy các hạnh Bồ-tát, chẳng quán các nghĩa đầy đủ của bậc Khai sĩ; cũng chẳng thấy nghĩa lý giáo hóa chúng sinh; cũng chẳng chấp trước vào việc phụng sự pháp của chư Phật; cũng chẳng thấy sẽ thành, đã thành, nay thành đạo Vô thượng Chánh chân; cũng chẳng thấy ban tuyên kinh đạo không được nói, cũng không thể giảng dạy. Bồ-tát Đại sĩ theo đại đạo mà không hề thoái lui. Vì sao? Này Phật tử! Ông nên biết: Bồ-tát đời này vì cầu các pháp thành Tối chánh giác mà hành tất cả pháp, không theo kiến chấp điên đảo, càng thêm tinh tấn, tuân hành công đức, chốn hành thanh tịnh, đầy đủ trí tuệ. Mỗi khi phát tâm thì công đức ngày càng tăng trưởng, không hoảng sợ, cũng chẳng lo lắng. Vì đó mà mau chóng thành tựu đạo Vô thượng Chánh chân.

Đó là việc tâm như núi lớn của Bồ-tát.

Có mười việc tuệ như sông biển, thể nhập đạo Vô thượng của Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Vào nơi vô lượng cảnh giới của chúng sinh. Này Phật tử! Bồ-tát ấy dạo khắp mười phương thế giới của chư Phật, dùng đại cung điện nhập vào Thánh thất, huân tập đến chỗ không tư tưởng.

2. Lại nữa, Bồ-tát ấy tu trị vô lượng tâm giới, dạo ở hư không mà không hề ngăn ngại. Mười phương vắng lặng như nước như lưới, bình đẳng cùng khắp.

3. Bồ-tát ấy lại khéo nhập pháp giới, dạo cõi vô vi, chỗ nhập không cùng, chẳng kể hữu thường, chỗ nhập không bờ, không tạo không diệt, hiểu rõ chỗ nhập, không nơi nào mà chẳng đến.

4. Lại nữa, Bồ-tát ấy tích lũy gốc đức, tự về với các Đức Phật Thế Tôn quá khứ, hiện tại, vị lai. Bồ-tát Pháp sư, Thanh văn, Duyên giác, các kẻ phàm phu cũng ở chỗ ấy mà tạo công đức. Họ lại khuyên mọi người dùng gốc đức ấy mà thành tựu Tối chánh giác của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật đã thành, đang thành và sẽ thành; ban tuyên kinh đạo đã nói, đang nói và sẽ nói. Các loài chúng sinh đó lãnh thọ các pháp đã thành tựu đạo, ý muốn hướng đạo mới về với đạo, giáo hóa chúng sinh. Các gốc đức này hợp với các điều thiện ấy khuyến giúp tất cả chẳng cầu báo đáp, ngay trong đời này không tâm chán mệt.

5. Lại nữa, Bồ-tát ấy khi phát tâm, nhập vào đời quá khứ, dạo trong vô lượng kiếp. Ở trong mỗi một kiếp thấy trăm ngàn vô số ngần ấy chư Phật không thể tính đếm, chẳng thể nghĩ bàn, trăm ngàn ức kiếp, chỗ thấu triệt ấy chẳng thể ví dụ. Họ vào đời Phật hưng thịnh, siêu vượt các ví dụ, quán thấy đạo tràng chúng hội của chư Phật, vì chư Bồ-tát, Thanh văn mà thuyết pháp. Khai hóa chúng sinh với sự kiến lập, thọ mạng ngắn dài mà không trụ chấp. Như ở trong một kiếp khai hóa mọi người thì tất cả các kiếp về sự khai hóa ấy không thể hạn lượng. Nếu ở kiếp này, lúc đời không có Phật thì Bồ-tát biết: “Ở trong kiếp ấy, phải nên tu lập gốc đức đại đạo, không thể khuyến khai đạo giáo”. Nhưng giảng thuyết là vì thấy gốc đức thuần thục của chư Phật quá khứ, vị lai. Nhập vào vô lượng kiếp, quá khứ kiếp mà quán sát nghĩa lý ấy không thấy chán đủ.

6. Lại nữa, Bồ-tát ấy vào trong vị lai, tư duy quán sát về vô lượng kiếp trong vị lai: Ở trong kiếp nào sẽ thành Chánh Giác? Thời nào không có Phật? Ở kiếp nào Phật sẽ ra đời? Số Như Lai Chánh chân là bao nhiêu? Danh hiệu là thế nào?

Thị hiện cõi Phật nào? Danh hiệu thế giới ấy là gì? Khai hóa, độ thoát chúng sinh nào? Thọ mạng ngắn dài. Các Bồ-tát đã thấy trước vô lượng kiếp không thể tính đếm mà chẳng hề mệt mỏi.

7. Lại nữa, Bồ-tát ấy nhập vào hiện tại, quán mười phương giới, ban tuyên về các cõi nước Phật không bờ cõi, phân biệt các phương diện, số lượng, xa gần… Tư duy chư Phật, quán sát gốc ngọn, thành tựu đạo Vô thượng Chánh chân, đến gốc cây Phật, tìm thấy rơm cỏ trải xuống mà ngồi, hàng phục ma quân. Đi vào thành ấp, lên đến cõi trời, rộng giảng nói kinh nghĩa. Chuyển bánh xe pháp, dạy dỗ chúng sinh, hiện làm Phật sự thành Tối chánh giác; các Đế Thích, Phạm thiên đều hộ trì. Sau khi xả báo thân thì diệt độ nơi Niết-bàn vô dư. Lưu hành kinh điển, hộ trì chánh pháp, làm hưng thịnh giáo pháp và sự hóa độ; trang nghiêm chùa chiền, cúng dường Phật tượng, sửa sang tháp miếu, niệm các cõi Phật.

8. Mỗi khi phát tâm thì nhập vào mười phương, vô số cõi Phật, quán khắp chúng sinh. Thường gặp chư Phật, nghe giảng nói kinh pháp, phúng tụng thọ trì, hằng hữu trong tâm, chọn lựa chí hạnh và tới lui đều lợi lạc. Biến khắp mười phương đều về với Phật, không quên pháp Phật. Vì sao? Vì thấy được các pháp đều như mộng ảo. Vì thế, nếu cúng dường Như Lai thì mọi nơi chốn sinh ra đều ở bên Phật, thường thấy thân Phật, phụng kính Như Lai, chẳng tham thân mình, không chấp thân Phật, không dựa vào đạo tràng, chúng hội khắp pháp giới, cũng không cầu vọng nghe thuyết kinh điển, luôn gặp chư Phật mà chẳng lấy làm chán. Đi khắp cõi Phật ấy, thấy mười phương Phật cũng là như thế không chỗ vọng cầu.

9. Lại nữa, các Bồ-tát ấy ở trong vô số kiếp cúng dường phụng sự chư Phật Thế Tôn, ở mỗi một kiếp, phụng sự và quy y vô số Như Lai. Từ vô thỉ đến kiếp hiện tại cũng đều do ba đời cúng dường mà không chán bỏ. Bồ-tát, Thanh văn, quyến thuộc các thừa cúng dường Như Lai cho đến diệt độ. Sau khi diệt độ phụng kính xá lợi đến chỗ vô cực. Bố thí của cải làm cho tất cả thế giới chúng sinh được no đủ, tâm ban phát xả bỏ không thể nghĩ bàn, cũng không cầu báo đáp, chẳng thấy kẻ nhận và có chỗ lấy. Do tâm thương xót nên bố thí cho tất cả chúng sinh. Phụng sự chư Phật, bố thí chúng sinh mà chẳng hề biếng trễ. Cứ như vậy với số kiếp không cùng tận mà quy y chư Phật, khai hóa chúng sinh, phụng trì giáo pháp, ban tuyên kinh đạo, khuyến tấn chúng sinh khiến họ phát tâm đạo Vô thượng Chánh chân.

10. Lại nữa, này Phật tử! Ông nên biết! Các Bồ-tát thay nhau thành tựu sự chỉ dạy giới cấm là phụng trì đạo pháp thanh tịnh, khai hóa chúng sinh vâng theo quy củ Bồ-tát bình đẳng, từ chỗ sở sinh ấy mà tập hợp các môn Tổng trì của Bồ-tát. Thường kính chư Phật, Đại thánh vô cực, cầu các Pháp sư mà cung kính đảnh lễ, tham học, đọc tụng chưa từng lười biếng. Sở học rốt ráo, thu giữ chúng sinh; vì muôn loài mà ban tuyên kinh đạo. Hóa độ vô số chúng sinh phát tâm nơi đạo Vô thượng Chánh chân, vào quả vị Không thoái chuyển, thanh tịnh nơi pháp Phật. Tâm niệm phổ trí và các nghĩa thông tuệ, vâng tu pháp Phật, các hạnh đầy đủ ở nơi vô số kiếp.

Đó là mười việc tâm như biển của Bồ-tát thành Tối chánh giác.

QUYỂN 3

Bấy giờ, Bồ-tát Phổ Trí hỏi Bồ-tát Phổ Hiền:

–Sao gọi là nẻo hành hóa tạo tác của Bồ-tát như ban đêm có ánh sáng? Vì sao gọi tâm Bồ-tát như kim cương, chí Đại thừa như áo giáp? Sao gọi là Đại thừa? Sao gọi là thông suốt sự đại tinh tấn? Sao gọi là niềm tin không hoại? Sao gọi là thọ kí? Sao gọi là khuyến gốc đức? Sao gọi là nhập Thánh? Sao gọi là Bồ-tát phát tâm, bên trong tâm ấy rộng lớn không lường? Sao gọi là Bồ-tát tạng? Sao gọi là theo hộ trì? Sao gọi là tự tại? Sao gọi là cảm ứng? Sao gọi là các biến hóa? Sao gọi là nghiêm tịnh cõi nước? Sao gọi là kinh pháp tùy thời? Sao gọi là nguyện biến? Sao gọi là biến hóa? Sao gọi là tuệ biến hóa? Sao gọi là thần thông biến hóa? Sao gọi là thần túc biến động? Sao gọi là các lực biến động? Sao gọi là pháp lạc? Sao gọi là cảnh giới? Sao gọi là mười Lực? Sao gọi là Vô úy? Sao gọi là pháp Bất cộng của chư Phật? Sao gọi là nghiệp? Sao gọi là thân Bồ-tát?

Bồ-tát Phổ Hiền đáp:

–Lành thay, lành thay! Việc hỏi này thật có ý nghĩa! Vì để khai hóa cho tất cả và ban phát cho vị lai, việc hỏi của ông hôm nay như mặt trời soi khắp thiên hạ, như đêm tối có trăng sáng, như vào biển cả nhặt ngọc sáng, như thầy thuốc chế dược liệu, như đói tìm ăn, như khát có uống. Hỡi những người đến pháp hội, hãy lắng nghe, hãy lắng nghe!

Chúng hội đều thưa:

–Xin thọ giáo.

Bồ-tát Phổ Hiền dạy:

–Bồ-tát có mười việc như đêm tối có ánh sáng. Những gì là mười?

1. Tâm lượng của Bồ-tát ấy biến khắp vô số cõi Phật, tâm như hư không; gặp chư Như Lai thì liền đảnh lễ, quy y, chỗ bước đi của Bồ-tát lúc đó, cũng như đầu đêm sắp thành Chánh giác.

2. Lại nữa, Bồ-tát ấy theo vô lượng Phật, được nghe kinh điển, đọc tụng thọ trì, chuyên tâm tư duy, kiến giải rộng lớn và ngày càng tăng thêm sự chuyển hóa. Tâm Bồ-tát ấy biến khắp mười phương không có ngằn mé.

3. Lại nữa, Bồ-tát ấy đối với cõi Phật này thì chưa từng biến mất. Sinh ra ở cõi khác mà vẫn thị hiện thân ấy, thường biết Phật pháp, chưa từng quên bỏ.

4. Lại nữa, Bồ-tát ấy dùng một pháp hành mà rõ tất cả pháp. Vì mọi người, dần dần ban tuyên kinh đạo, dùng tất cả nghĩa mà đi vào một nghĩa.

5. Lại nữa, Bồ-tát ấy dứt sạch mọi phiền não, cũng có thể cởi bỏ mọi ái dục, cũng có thể biết dục nhiều, dục ít. Tu hạnh Bồ-tát, việc làm kiên cố, không ở nơi bản tế mà tạo tà chứng. Xem các Độ vô cực là tối bậc nhất. Bồ-tát ấy ở nơi bản tế mà hiểu rõ chân đế và phương tiện thiện quyền xảo, đầy đủ bản nguyện, chỗ hành rốt ráo, thân không mệt mỏi.

6. Lại nữa, Bồ-tát ấy tâm vào các tưởng, không xứ trú chẳng phải không xứ mà giả thuyết việc xứ phi xứ, cũng không chốn hành. Nẻo hành ấy cũng không có chỗ tư niệm mà khai hóa chúng sinh.

7. Lại nữa, Bồ-tát ấy dùng một sự tự nhiên mà kiến giải tất cả các pháp không có tự nhiên, cũng chẳng nhiều, chẳng ít, chẳng tính chẳng lường, vô sắc vô tướng còn không có một huống nữa là nhiều.

8. Bồ-tát ấy hiểu rõ pháp chư Phật, pháp Bồ-tát, pháp Duyên giác, pháp Thanh văn, pháp phàm phu, pháp thiện ác là pháp thế gian, pháp độ thế, pháp tội, pháp vô tội, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi.

9. Bồ-tát ấy cũng như chư Phật Thế Tôn đắc đạo mà chẳng đắc đạo, vì thực không có pháp chúng sinh, không bỏ sở nguyện, khai hóa chúng sinh, hiểu rõ các pháp. Vì sao? Vì Bồ-tát đều biết tha nhân, thấu rõ tâm niệm, nhân duyên, việc làm của trăm họ. Lại cũng biết rõ nên trao truyền, dạy dỗ, khiến cho mọi người đều đến diệt độ, sở nguyện đủ đầy.

10. Lại nữa, Bồ-tát ấy lại hiểu rõ việc có thể nhìn thấy tâm niệm chúng sinh, biết rõ chỗ về và phương tiện quyền biến tùy thời mà hiện; thuyết pháp dạy luật, không rời chân chánh, không theo điên đảo. Bồ-tát hiểu rõ các pháp nên đều trú bình đẳng ở ba đời, vốn chẳng bất động, đứng nơi bản tế không thấy chúng sinh đã được khai hóa, không khai hóa cũng chẳng phải không khai hóa; không theo luật giáo cũng không hành dụng, phân biệt chỗ về, pháp không thủ đắc, sinh đó diệt đó. Chỗ thệ nguyện ấy không hề hư vọng, ở nơi tất cả pháp vĩnh viễn không còn chấp trước. Lại nữa, Bồ-tát ấy gặp vô số chư Phật Thế Tôn, mỗi một Như Lai diễn thuyết kinh điển thì liền nghe nhận và thọ trì vô số nẻo hành hóa, tên gọi khác nhau, chỗ tư niệm bất đồng. Ở nơi các kiếp ấy Bồ-tát đều biết rõ mỗi một gốc ngọn các kiếp đến vô số kiếp, mà luôn được nghe pháp và nhớ biết không hề quên mất, cũng không mê lầm. Bồ-tát nghe các Đức Như Lai không thể nghĩ bàn thì liền một tâm thọ trì. Nẻo hành trì của họ có nguyện lực siêu vượt, khai hóa chúng sinh khiến đều thành tựu đạo Tối chánh giác Vô thượng Chánh chân, sở nguyện đạt thành, hiểu rõ pháp giới.

Đó là mười việc vâng tu và du hành như đêm có ánh sáng của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc tâm như kim cương, chí Đại thừa như áo giáp. Những gì là mười?

1. Bồ-tát phát tâm chẳng trụ ở đây, cũng không bờ cõi, rõ tất cả pháp, với việc trong ba đời không một gì mà không thông đạt. Đó là tâm như kim cương mặc áo giáp đại đức.

2. Mỗi một lỗ chân lông không thể tính đếm mà Bồ-tát có thể trang nghiêm tất cả, huống nữa là đối với tất cả pháp giới chúng sinh. Bồ-tát mặc áo giáp công đức, miệng tự nói: “Ta sẽ giáo hóa, dẫn dắt tất cả chúng sinh đến nơi đạo Vô thượng Chánh chân”.

3. Lại nữa, thế giới chư Phật không bờ mé, không thể lường tính; các Bồ-tát phát nguyện: “Ta sẽ tịnh trị đạo pháp Vô thượng Chánh chân ở nơi các cõi Phật, cho nên làm thanh tịnh các cõi Phật”. 4. Lại nữa các chúng sinh không bờ đáy, không số lượng; nếu có Bồ-tát khuyến trồng gốc đức rộng lớn như vậy thì chiếu soi tất cả chúng sinh đến vô thượng Đại thừa. Chư Phật Thế Tôn không có hạn lượng, việc trồng gốc đức của chư Bồ-tát cũng là như vậy, thường gặp chư Phật, khuyến chúng sinh bố thí mà có thể đạt được đạo Vô thượng Chánh chân, làm Tối chánh giác. Nếu có

Bồ-tát được gặp chư Phật, nghe thuyết kinh điển, tâm được hoan hỷ không cậy nơi ta người, không dựa Như Lai, không gần cũng không xa với Như Lai, không có cũng chẳng không, không chấp sở hữu, cũng không có sở hữu, không có thân tướng, không có vẻ đẹp nơi sắc tướng. Biết rõ thể của Như Lai thì không sinh khởi cũng chẳng phải không sinh khởi, không hình tướng cũng chẳng phải không hình tướng, không xứ sở cũng không phải không xứ sở, không khởi thân Như Lai cũng không chỗ hủy hoại; dùng thân Như Lai thể nhập vô sở hữu, ở nơi chỗ hành mà không chốn hành. Vì sao? Vì đều nhận lãnh tất cả pháp số như nhiên.

5. Lại nữa, chư Bồ-tát luôn luôn thương xót chúng sinh; bị chặt đầu, tay chân, xẻ tai mũi, móc hai mắt, bị mắng chửi, hủy báng, bị đả thương bằng gạch đá, cây gậy, chê trách trêu chọc… mà Bồ-tát đều có thể nhẫn chịu, không hề khởi nóng giận, cũng không ôm thù hận, mặt chẳng biến sắc. Các vị tu Hạnh Bồ-tát trong vô số kiếp mà chưa từng dấy tâm xả bỏ tất cả chúng sinh.

6. Lại nữa, Bồ-tát đối với tất cả các pháp luôn thấy bất nhị. Dùng các kiến giải này nên không hề sân hận, siêng giúp chúng sinh, nhẫn chịu tất cả khổ não hoạn nạn, thân gặp sự đau đớn, tổn hại cũng đều nhẫn chịu. Các việc sắp đến không có bờ mé mà cũng không ngăn ngại, trú ở tín lạc. Như vậy mà nói thì Bồ-tát phát tâm từ hôm nay cho đến vị lai, rốt ráo pháp giới, trú ở hư không giới, Bồ-tát đều ở nơi mỗi một thế giới chư Phật, khai hóa chúng sinh. Như đã hành dụng ở một thế giới thì mười phương cõi Phật cũng lại như vậy.

7. Độ khắp pháp giới, tận hư không giới mà đầy đủ sự không sở hữu, chẳng hoảng sợ, cũng chẳng lo lắng, làm việc như vậy khắp cả ba đời. Vì sao? Bồ-tát Đại sĩ vì dùng tất cả chỗ có thể đi đến mà phụng trì hạnh Bồ-tát, nương vào tâm Bồ-tát, tin chắc vào đạo Vô thượng Chánh chân; chí tánh thanh tịnh, tích lũy gốc đức, đầy đủ thệ nguyện mà được tự tại ở nơi Phật đạo. Theo sở nguyện ấy cũng được tự chủ nên muốn thành Chánh giác thì liền được thành như ý, sở hành vô lượng mà luôn rốt ráo. Đoạn trừ tất cả không còn mảy may các thọ, năm ấm. Chốn hành ấy mà ỷ lại vào chư Phật thì không thành Chánh giác. Vì sao? Vì sở nguyện đầy đủ, hạnh Bồ-tát tròn đầy mà khai hóa chúng sinh, hộ trì các cõi Phật.

8. Lại nữa, Bồ-tát ấy không thủ đắc nơi chư Phật, không thủ đắc nơi đạo, cũng không thủ đắc các xứ sở của Bồ-tát và tất cả xứ sở của chúng sinh; cũng chẳng thủ đắc tâm ý, các hạnh; cũng chẳng thủ đắc tất cả chúng sinh hữu vi, vô vi trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Chốn hành hóa của Bồ-tát an nhiên như vậy mà thâm diệu lồng lộng, tịch định sáng trong và đều vô sở đắc. Hành ấy bất nhị, không sự tranh tụng, thanh tịnh giải thoát, tự nhiên như vậy, diệt độ như vậy. Tu như bản tế, tâm không hư vọng, đã lập thệ nguyện thì không hề biếng nhác.

9. Tâm Nhất thiết trí, các hạnh Bồ-tát khai hóa chúng sinh; các Độ vô cực dạy chúng sinh tuân theo luật đạo, phụng kính chư Phật, thuyết pháp giải nghĩa. Trang nghiêm thế giới với sự tinh tấn chưa từng lười nhác. Vì sao? Các việc như vậy và sự đạt đến của đại nguyện thì đều biết rõ tất cả các pháp và pháp tướng như vậy.

10. Nuôi lớn Từ bi, công đức vô lượng, hiểu rõ tuệ nghĩa, thương xót chúng sinh, thường hiểu tất cả danh tự các pháp. Phàm phu ngu tối không hiểu rõ điều này nên không thể biết rõ các pháp như nhiên thì ta sẽ khai ngộ khiến họ đạt được sự hiểu biết đó. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đều không hành vắng lặng, do đó chư Phật vì họ mà thuyết giảng kinh điển, dấy lên tình thương vô cực, không hề bỏ tâm Từ mà khai hóa họ. Cớ sao chúng ta lại chán ghét đại Bi mà bỏ chúng sinh? Giả như chẳng được thành Phật, kinh điển không đủ, đại nguyện không thành mà bố thí chúng sinh bằng pháp thí vô thượng thì từ gốc sơ phát tâm đã lập thệ nguyện chân thành để làm thanh tịnh chúng sinh. Giá như không thể học đại nguyện chánh yếu, phát tâm vào đạo thì đó là dối trá chư Phật. Phải vì tất cả mà phát tâm đạo, trồng các gốc đức để khuyến giúp họ vào chỗ trí tuệ thâm diệu. Vào khắp tất cả nơi chốn chúng sinh mà tâm luôn bình đẳng, do vậy mà đại nguyện được tròn đủ.

Đó là mười việc tâm như kim cương, mặc áo giáp Đại thừa của Bồ-tát. Bồ-tát trú ở đây thì mau chóng thành tựu thần thông Như Lai vô cực bền chắc như kim cương.

Bồ-tát đại tinh tấn có mười việc. Những gì là mười?

1. Ta phải phụng kính, cúng dường, quy y chư Phật, tích lũy và huân tu các gốc đức của chư Phật. 2. Ta vì các Như Lai sau khi nhập Bát-niết-bàn mà trang nghiêm chùa chiền, cúng dường các loại hương hoa, danh hương, bột hương, tạp hương, hương xoa, y phục, cờ phướn, lọng báu… ta sẽ nắm giữ chánh pháp để hộ trì, dạy dỗ và khai hóa tất cả chúng sinh, khiến họ phát đạo tâm Vô thượng Chánh chân, không hề trái luật đạo. Trang nghiêm tất cả cõi nước của chư Phật và an ổn cõi giới vô thượng.

3. Lại nữa, tâm Bồ-tát tự nghĩ: “Ở các kiếp vị lai, trong mỗi một thế giới, có một người cùng tất cả người chưa được độ thì không thể bỏ sót. Ta vì những người ấy nên tu hạnh Bồ-tát.

4. Cũng lại như vậy, họ hưng khởi đại Bi, kiến lập chúng sinh nơi chánh đạo Phật, trải qua vô số khổ nạn mà chưa từng có phút chốc biếng nhác, thường tu Phật pháp. Đó là chư Phật Thế Tôn ở trong vô số kiếp hiện tại và vị lai.

5. Người ấy cúng dường mỗi một Như Lai như cúng dường một Đức Phật, phụng thờ chư Như Lai đều bình đẳng không sai khác.

6. Sau khi chư Như Lai diệt độ trong vô số kiếp thì cúng dường xá lợi, tất cả cờ phướn, lọng báu, chuông linh. Vì mỗi một Đức Phật trong vô cõi nước mà hưng lập miếu tự, tu đắp hình tượng; chỗ tôn tạo hình tướng biến khắp tất cả cõi nước không thể nghĩ bàn. Ngày đêm tinh tấn, không hề xả bỏ dù một giây phút.

7. Họ vì Phật pháp tạng mà phụng thờ chư Phật, khai hóa chúng sinh, phụng tuyên giáo pháp, tu theo chánh pháp thì dần dần gần gũi với đại đạo.

8. Do các gốc đức mà Bồ-tát đắc thành đạo Vô thượng Chánh chân, làm Tối chánh giác. Vâng theo sự bình đẳng của tất cả Như Lai mà về nơi cõi Phật. Thành Chánh giác rồi thì ở trong vô số kiếp mà ban tuyên kinh đạo, biến khắp cõi Phật; chư Phật biến hóa, hiển bày thần thông không thể nghĩ bàn, Bồ-tát chẳng lấy làm chán mệt; thân, khẩu, ý của Bồ-tát ấy cũng không kể lao nhọc.

9. Lúc phát tâm, Bồ-tát ấy hướng thẳng đến pháp môn, tùy thời phụng kính chư Phật, hành chí nguyện lớn, hóa độ chúng sinh, lấy đại Bi làm đầu. Về nơi đại Từ, lễ pháp vô tướng, trú nơi giáo nghĩa thành tín, các pháp tròn đủ lấy làm chỗ chứng đắc, tất cả không mệt, chỗ tạo hành nghiệp không có tranh chấp.

10. Quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật thể nhập một nghĩa, hướng vào pháp giới, dung thông với cái không, siêu việt pháp vô tướng, không hành mà chẳng phải không hành khiến cho tất cả đến chỗ rốt ráo mà chưa từng chán sợ. Pháp của chư Phật đến sở nguyện vô cực, thi hành Phật sự, khuyến hóa chúng sinh.

Đó là mười việc đại cần mẫn của Bồ-tát. Bồ-tát trú ở đó thì thành tựu đạo tuệ vô thượng của Như Lai.

Bồ-tát có mười việc thông suốt đại tinh tấn. Những gì là mười?

1. Phụng kính tất cả Như Lai Chánh chân và tự quy y.

2. Mời gọi các chúng sinh, tùy thời theo hộ.

3. Hướng cầu Phật pháp, cốt ở tinh chuyên.

4. Tích lũy gốc đức không lấy làm mệt.

5. Hưng long Thánh điển khiến lưu truyền khắp.

6. Đầy đủ tất cả đại nguyện vô cực.

7. Chí mộ ân cần các Hạnh Bồ-tát.

8. Thường gặp thiện hữu, luôn theo học hỏi.

9. Đến khắp mười phương gặp chư Như Lai.

10. Nghe thuyết kinh điển, vào đạo tràng Phật. Đó là mười việc thông suốt đại tinh tấn của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười niềm tin bất hoại. Những gì là mười?

1. Tin mười phương Phật không có hai tâm.

2. Ưa thích pháp Phật chưa từng trái bỏ.

3. Ưa thích Thánh chúng không sinh tâm khác.

4. Vui thích Bồ-tát tâm không hoài nghi.

5. Thường kết hợp cùng các thiện hữu.

6. Thương xót chúng sinh, không bỏ muôn loài.

7. Phụng hành tất cả nguyện các Bồ-tát.

8. Phụng hành đầy đủ các hạnh Khai sĩ.

9. Phụng kính, đảnh lễ, quy y chư Phật, khai hóa chúng sinh, đều độ thoát họ.

10. Bồ-tát hành dụng bằng phương tiện thiện quyền không bỏ thuần tín.

Đó là mười niềm tin bất hoại của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc thọ ký. Những gì là mười?

1. Vui thích hạnh thuần tín, thọ ký cho tánh hạnh của mình.

2. Tâm đạo tu tập, mang lại gốc đức.

3. Hạnh ấy rộng lớn, thọ ký phương đẳng, thọ ký trước mắt, thọ ký bí mật.

4. Tâm được tự tại.

5. Đạt đến giác ngộ bình đẳng.

6. Chứng đắc pháp nhẫn, sau đó thọ ký.

7. Khai hóa chúng sinh.

8. Thọ ký gốc ngọn.

9. Trừ sạch hết tất cả vọng tưởng.

10. Thị hiện tất cả chốn hành, công đức của Bồ-tát rồi mới thọ ký.

Đó là mười việc thọ ký của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc khuyến trợ gốc đức. Những gì là mười?

1. Đem gốc đức này đồng nhất với chí nguyện.

2. Ở nơi sinh trưởng, thường đồng sự cùng bạn lành, cùng nhau như thế chẳng hề đổi khác.

3. Dùng gốc đức này, đồng tâm sinh sống cùng bạn lành chẳng hề thay đổi.

4. Chỗ thường sinh sống đầy đủ các nguyện; cùng với thầy giỏi dùng gốc thiện ấy.

5. Nơi chỗ sinh sống có chí đồng, đạo hợp với chư Bồ-tát.

6. Nhờ hạnh phước ấy mà chỗ ở đời đời đều cùng chung với bậc minh trí.

7. Chỗ ở hiện tại một tâm chuyên nhất không rời Thánh đạt; nơi chỗ đi ở thường bình đẳng thanh tịnh và đồng tâm với người trí.

8. Chỗ ở đời đời đức hạnh nương nhờ cùng với bạn lành.

9. Ở đời vị lai, cùng minh sư hội ngộ, thể nhập một sự bình đẳng.

10. Dùng nguồn đức này cùng với thầy lành hưng khởi nghĩa lý không hai.

Đó là mười việc khuyến trợ gốc đức của Bồ- tát.

Bồ-tát vào tâm Thánh có mười việc. Những gì là mười?

1. Hành bố thí rộng, thể nhập trí tuệ.

2. Ưa thích tất cả đạo pháp của chư Phật.

3. Thể nhập nghĩa trung đạo vô lượng của chư Như Lai.

4. Dùng văn tuệ giải quyết các nghi kết, biết rõ nghĩa lý.

5. Nhập vào Thánh tuệ, phân biệt rõ tất cả lời dạy từ kim khẩu của Như Lai Chánh chân.

6. Thuần tín Phật pháp, hiện các sở hữu, năng lực còn mỏng ít thì chư Phật dấy lên vô lượng gốc đức.

7. Ưa thích Như Lai, kiến giải đủ đầy nghĩa lý sáng tỏ của Như Lai, đầy đủ tất cả hành tuệ của Bồ-tát không thể nghĩ bàn.

8. Khi phát tâm Bồ-tát thể nhập các cõi Phật nhiều vô hạn, không hề ngăn ngại.

9. Rõ được một niệm tuệ thì sáng rõ tất cả việc đạo của chư Phật.

10. Vào các pháp giới, nghe Phật thuyết pháp thì đều có thể phụng trì, vào trọn chừng ấy âm thanh Như Lai.

Đó là mười việc thể nhập tuệ của Bồ-tát.

Có mười việc phát tâm quảng đại vô lượng của Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Lúc phát tâm thì tâm chí bên trong ấy rất rộng lớn, tư niệm đến vô lượng Phật.

2. Phát tâm vô hạn vào nơi chúng sinh.

3. Nhập vào pháp giới, đi trong chúng sinh.

4. Biết rõ không hai.

5. Quán sát các pháp bình đẳng như hư không, thấu rõ khắp hạnh Bồ-tát.

6. Tư duy về tội phước ở ba đời.

7. Vào chỗ không thể nghĩ bàn của tất cả chư Phật.

8. Quán các cõi Phật đều là thanh tịnh.

9. Vào khắp tất cả đạo tràng chư Phật.

10. Cũng đều quán sát và đi vào âm hưởng ngôn từ của chư Như Lai.

Đó là mười việc Bồ-tát vào khắp bên trong sự phát tâm quảng đại vô lượng.

Bồ-tát có mười việc tàng chứa. Những gì là mười?

1. Tàng chứa tất cả pháp tu tinh tấn.

2. Hiểu rõ các pháp đều không chỗ sinh.

3. Soi tỏ và phụng trì chỗ cốt yếu kinh điển của chư Phật.

4. Ban tuyên biện tài gốc ngọn các pháp.

5. Hiểu rõ tùy thời, các nghĩa vô lượng đều không thủ đắc.

6. Mắt thấy khắp sự biến hóa của thần thông chư Phật.

7. Dùng phương tiện điều phục tạo bình đẳng nơi các pháp.

8. Thường gặp chư Phật chưa từng xa cách.

9. Biết rõ và khéo quyền biến về các tưởng huyễn khó nghĩ bàn.

10. Thường gặp chư Phật và chúng Bồ-tát, đạt đến pháp tạng hân hoan vui sướng.

Đó là mười việc tàng chứa của Bồ-tát.

Có mười việc cần theo hộ trì của Bồ-tát.

Những gì là mười?

1. Không hề bài báng pháp đạo chư Phật.

2. Tâm Bồ-tát luôn tin chắc vào lời dạy của Đại thánh và theo hộ trì, chưa từng biến đổi.

3. Nhập vào chúng Bồ-tát và thường mang tâm cung kính.

4. Thường gặp các bạn lành, chan hòa với chí tánh của họ.

5. Không huân tập theo hành niệm của tất cả Thanh văn và Duyên giác.

6. Theo hộ những công hạnh hành dụng của Bồ-tát mà chưa từng thoái chuyển.

7. Thương xót chúng sinh mà chưa từng tổn hại.

8. Cứu xét thấu suốt tất cả gốc đức.

9. Hàng phục chúng ma, khước từ ngoại địch.

10. Đầy đủ tất cả các Độ vô cực.

Đó là mười việc cần theo hộ trì của Bồ-tát.

Có mười việc về sự tự tại của Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Thọ mạng của Bồ-tát ấy trong vô số kiếp mà không cùng tận.

2. Tâm ấy tự đi vào chỗ hưng khởi của định lực, vào nơi Thánh tuệ không thể suy lường.

3. Hành nghiệp của Bồ-tát tự tại, đi vào các cõi Phật, trang nghiêm vô lượng, muốn hiển bày và kiến lập nghĩa lý của đạo tràng.

4. Bồ-tát tự tại nơi công hạnh, thị hiện tùy lúc về sự báo ứng của thế gian.

5. Tự du hành vào chỗ sinh ra, hiện khắp mười phương cõi nước chư Phật, ý vui tự tại.

6. Thấy khắp tất cả thế giới chư Phật, thấy sở nguyện và sở thích tự tại của chư Như Lai.

7. Ở nơi cõi Phật nào thành Tối chánh giác thì thần túc tự hiện bày diệu dụng và có thể thị hiện oai thần biến hóa.

8. Tự tại nơi pháp, hưng hiển cùng khắp.

9. Chỉ bày vô số pháp môn bên trong.

10. Tự tại nơi tuệ, nơi mười Lực của Như Lai, bốn Vô sở úy nên hiện khắp đạo tràng của chư Phật.

Đó là mười việc tự tại của Bồ-tát. Bồ-tát an trú ở đấy thì đều có thể đầy đủ các Độ vô cực.

Có mười việc về sự cảm ứng của Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Chúng sinh biến hóa tùy theo tính tội phước nên Bồ-tát nghiêm trị cõi nước mỗi một không đồng.

2. Kinh pháp quyền biến.

3. Tùy thời giáo hóa.

4. Chỗ ở của thân ấy hiện ra tại chỗ.

5. Sở nguyện tự tại.

6. Tạo lập nghĩa đạo.

7. Chốn hành tự tại, chỗ vào biến khắp.

8. Hành dụng theo Thánh tuệ để chỉ bày tất cả thần thông biến hóa, không một ai mà không độ thoát.

9. Thần túc biến hóa không đâu là không cảm ứng.

10. Tu tập oai đức đạt đến mười lực của Như Lai.

Đó là mười việc cảm ứng của Bồ-tát.

Bồ-tát biến hóa chúng sinh có mười việc. Những gì là mười?

1. Diễn nói cho chúng sinh đều vô sở hữu vì tất cả muôn loài do tưởng mà tạo lập.

2. Vì các chúng sinh tùy thời thuyết pháp.

3. Giáo hóa muôn người bỏ các tự đại.

4. Hộ giúp từng bước cho tất cả mọi người khiến họ được an ổn, không có sự nhiễu hại nhau.

5. Thị hiện khắp cùng tất cả thế giới mà kiến lập chúng sinh.

6. Ở cõi chúng sinh hiển hiện Đế Thích, Phạm thiên cùng Tứ Thiên vương.

7. Đi vào muôn loài, tùy thời hiện thân hình tướng, sắc mạo Thanh văn và Duyên giác.

8. Cũng lại hiện thân hiển bày hạnh Bồ-tát.

9. Biết rõ cảnh giới sở tại của các chúng sinh, không đâu mà không thấu đạt.

10. Giác ngộ và biến khắp tất cả đạo lực, sắc thân, tướng tốt và vô số sự trang nghiêm.

Đó là mười việc về sự biến hóa nơi chúng sinh của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc nghiêm tịnh cõi nước. Những gì là mười?

1. Tất cả cõi Phật là một cõi Phật, tạo sự biến nhập khiến tất cả cõi Phật vào một lỗ chân lông.

2. Chỗ vào vô tận tất cả cõi Phật.

3. Tất cả cảnh Phật khai thông một nghĩa.

4. Bồ-tát hiển hiện một hạnh của mình mà thấy tận thân mình vào khắp cõi Phật.

5. Tất cả chúng sinh ở các cõi Phật không thể lay động, cũng không hoảng sợ.

6. Lại nữa, làm trang nghiêm tất cả cõi Phật thì hiện ra một nước Phật.

7. Một cõi Phật nghiêm tịnh thì biến khắp các cõi Phật nghiêm tịnh.

8. Tất cả cõi Phật tức là một chúng hội đạo tràng của Như Lai.

9. Một thân Như Lai biến khắp cõi chúng sinh, khiến mọi chúng sinh vào nơi sự vi diệu, vô cực lồng lộng, thâm diệu rộng khắp, trừ tà quy chánh, bình đẳng với tha nhân và điều phục các phương diện.

10. Các Bồ-tát đều có thể thị hiện lưới báo ứng trùm khắp trọn vẹn.

Đó là mười việc nghiêm tịnh của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc giảng nói kinh pháp tùy thời. Những gì là mười?

1. Chế ngự tất cả pháp, khiến vào một pháp, tức là dùng một pháp hóa ra tất cả pháp, giáo hóa tâm tánh chúng sinh, khiến họ không còn tranh chấp.

2. Bồ-tát khiến tất cả pháp đều thuận nhập Bátnhã ba-la-mật, giáo hóa tất cả qua bờ bên kia.

3. Tất cả các pháp vào nơi chúng sinh thì xả bỏ tất cả pháp tưởng, khiến tất cả pháp vào nơi một nghĩa. Diễn dạy vô số kiếp không thể cùng tận.

4. Dùng tất cả pháp thể nhập vào trăm ngàn vô số pháp môn.

5. Thấy tâm chúng sinh nên đều thuyết giảng đầu đuôi gốc ngọn.

6. Lại nữa, tất cả pháp phổ môn luân tự đều hiểu rõ tùy thời.

7. Tất cả các pháp vào một pháp môn không chỗ tranh chấp, giảng nói vô số kiếp nghĩa cũng không thể hết.

8. Vào đạo chư Phật dùng tất cả pháp giáo hóa chúng sinh.

9. Tất cả pháp Phật hiện ra vô số chánh giáo Phật đạo.

10. Tất cả các pháp đều vào bản tế, vô lượng duyên khởi đan xen, hiện vô số kiếp dứt trừ tổn hại chúng sinh.

Đó là mười việc tùy thời.

Bồ-tát có mười việc biến hóa thân. Những gì là mười?

1. Kiến lập chúng sinh vào nơi thân mình mà được giải thoát.

2. Cũng dùng thân mình nghĩ đến thân chúng sinh mà kiến lập cho họ.

3. Tất cả thân Phật vào nơi một thân Phật, dùng một thân Phật vào các thân Phật mà thị hiện.

4. Kiến lập thân mình ở tất cả cõi Phật, vì chúng sinh mà thị hiện biến hóa.

5. Lãnh hết ba đời biến khắp một Pháp thân.

6. Một thân định ý mà tu Tam-muội, hiện vô số thân, tức dùng một thân.

7. Hiện vô số thân Bồ-tát, rõ đạo Chánh giác.

8. Dùng thân chúng sinh hợp làm một thân.

9. Dùng thân một người hiện khắp các thân.

10. Dùng thân chúng sinh, hiển nhập Pháp thân, cũng dùng Pháp thân thị hiện thân chúng sinh.

Đó là mười việc biến hóa thân của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc kiến lập sở nguyện. Những gì là mười?

1. Lấy nguyện chư Bồ-tát làm sở nguyện của mình.

2. Lấy Chánh giác chư Phật làm sở nguyện đạo lực của mình.

3. Tùy căn tánh chúng sinh mà hiển bày hạnh Bồ-tát, thuần thục nơi đó khiến họ thành đạo Vô thượng Chánh chân, làm Tối chánh giác.

4. Trừ sạch ý niệm tham cầu trong vô lượng kiếp.

5. Ra khỏi thức thân, kiến lập tuệ thân. Sở nguyện tự tại mà hiện các thân.

6. Bỏ hình tướng của mình mà thị hiện thân đầy đủ, thân đầy đủ ấy khai hóa chúng sinh khuyến tấn các nguyện.

7. Dùng thân Bồ-tát hiện bày khắp tất cả niệm, số kiếp các hành mà chẳng đoạn dứt.

8. Dấu tích công đức còn lưu lại là việc hành Tối chánh giác. Vì nguyện lực hiện hữu khắp vô số cõi Phật.

9. Thị hiện thân ấy với hình tướng. Diễn thuyết một câu pháp mà hiện bày khắp tất cả pháp giới vô biên, hưng khởi mây đại pháp và mưa cam lồ.

10. Dùng tuệ giải soi thấu pháp chân đế, dùng tiếng sấm vang khiến chúng sinh no đủ, thành tựu nguyện vô cực và đủ đầy pháp lạc.

Đó là sự kiến lập sở nguyện của Bồ-tát.

Bồ-tát hóa hiện lại có mười việc. Những gì là mười?

1. Tuân tu pháp giới là để thị hiện.

2. Tại cõi chúng sinh vui hành Phật sự mà thị hiện khắp các ma cung.

3. Bồ-tát hành cõi vô vi mà đoạn dứt hành sinh tử.

4. Hành trì Nhất thiết trí mà chẳng xả sự khởi dụng của Bồ-tát.

5. Lại nữa, Bồ-tát luôn vắng lặng, an nhiên, chỉ bày chúng sinh, khẩn thiết tu học, chẳng hề loạn động, không tinh tấn cũng không biếng trễ, không đôi không chiếc, không nói không tưởng, không có sở hữu, không có dấy khởi, hình như hư không.

6. Bồ-tát như vậy mà lại thị hiện ở các tưởng điên đảo của chúng sinh, khởi các chốn hành, chẳng cùng trần tục, tịnh tu công hạnh.

7. Cũng đều thị hiện các chỗ hành hóa.

8. Hiểu rõ chúng sinh, biết rõ vốn không có chúng sinh và chúng sinh hiện tại mà khai hóa họ.

9. Tu trí ba đạt thần thông của thiền giải thoát.

10. Hiện tại sống ở mười phương cõi nước Phật, thành tựu hạnh Như Lai, đầy đủ sự nghiêm tịnh của Phật, hiển bày các thừa Thanh văn và Duyên giác, hành oai nghi, lễ tiết vô niệm.

Đó là mười việc hóa biến của Bồ-tát.

Có mười việc dùng tuệ biến hóa của Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Ban tuyên đạo tuệ, biện tài vô tận, thành tựu các môn Tổng trì.

2. Diễn thuyết vô lượng ánh sáng, biện tài khéo giải.

3. Giảng thuyết khắp nơi, thâu phục căn tánh chúng sinh và dùng Thánh tuệ biến hóa mà độ thoát họ.

4. Dùng tâm vô vi quán thấy ý tha nhân, tức dùng nhất tâm thấy biết chí tánh của chúng sinh và chỗ hành tâm niệm.

5. Biết rõ chí tánh, sự ràng buộc, các bệnh trần lao của cõi chúng sinh mà tùy bệnh cho thuốc, khiến bệnh chóng thuyên giảm.

6. Trong một lúc mà sáng rõ, thấu đạt đầy đủ mười lực của Như Lai có thể vào chỗ hành ba đời của chúng sinh.

7. Kiếp số có hạn, vô hạn thì đều thị hiện và khai hóa họ.

8. Tâm ấy rỗng lặng không hề ngăn ngại, thành

Tối chánh giác độ khắp chúng sinh.

9. Dùng trí tuệ của một hóa thân mà luôn tự tại, quán sát chúng sinh biết rõ chỗ tạo nghiệp thiện ác, tội phước của họ.

10. Dùng một âm thanh, thông suốt tất cả âm hưởng nơi muôn loài.

Đó là mười việc về tuệ biến hóa của Bồ-tát.

Có mười việc thần thông biến của Bồ-tát.

Những gì là mười?

1. Dùng một thân biến hiện tất cả cõi Phật.

2. Một hội Như Lai đều có thể cùng tuyên giảng các đạo tràng chư Phật, Bồ-tát.

3. Dùng một tâm hạnh mà khai hóa tất cả các đạo hạnh tu tập.

Dùng một âm thanh mà nói khắp mười phương thế giới của chư Phật, khiến cho tất cả tâm niệm chúng sinh đều được nghe biết.

4. Dùng một tâm định mà điều có thể thấy được chốn hành, thiện ác, họa phước của chúng sinh trong vô số kiếp của đời trước để độ thoát họ.

5. Dùng thần thông trang nghiêm tất cả cõi nước chư Phật.

6. Cũng dùng thần thông rõ thấy ba đời bình đẳng không sai biệt, biết tất cả chỗ kiến lập hạnh của chư Phật, Bồ-tát.

7. Diễn thuyết ánh sáng mà soi sáng họ.

8. Cũng dùng thần thông thấy biết tất cả chư Thiên long. thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Calưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Đế Thích, Phạm thiên, Tứ Thiên vương, Thanh văn, Duyên giác, chư hạnh Bồ-tát, mười Lực Như Lai.

9. Gốc đức của Bồ-tát, không đâu mà không hộ trì. Bồ-tát bình đẳng, làm vắng lặng các âm hưởng, tức dùng bình đẳng thu phục chúng sinh.

Đó là mười việc thần thông biến của Bồ-tát.

Có mười việc về thần túc biến hóa của Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Đem vô số thế giới vào nơi một vị trần, lại dùng một vi trần mà biến khắp các pháp giới, đó là thần túc biến.

2. Hiện một cõi Phật, khiến tất cả nước biển vào trong một lỗ chân lông.

3. Các pháp giới rộng lớn nhập vào các cõi Phật, khiến các chúng sinh không bị nhiễu hại.

4. Đem vô lượng thế giới nhập nơi thân mình.

5. Dùng thần thông tuệ hiện khắp chỗ hành trì và đem các Thiết vi sơn, Đại thiết vi sơn không thể nghĩ bàn vào trong một lỗ chân lông.

6. Dạo quán các cõi Phật khiến khắp chúng sinh chẳng phải lo sợ.

7. Dùng vô số kiếp thị hiện làm một kiếp, hoặc một ngày, hoặc dùng một kiếp hiện vô số kiếp. Tiến thoái hợp thành, hiển bày sự hóa độ chúng sinh không chỗ nhiễu hại.

8. Hiện các thế giới bị thủy tai, hoặc gặp thủy hỏa tai biến để khiến chúng sinh quán biết sự vô thường; thần túc biến hiện mà không nhiễu hại tất cả thế giới.

9. Không, thủy, hỏa, phong hợp thành tai biến thì biến hóa chúng thành tất cả tài sản, sự nghiệp, cung điện, nhà cửa đủ đầy sung mãn. Tức dùng thần thông hóa hiện ra vô số chúng sinh không thể nghĩ bàn. Đem các cõi Phật đặt vào tâm bàn tay phải, dời đến đặt vào vô lượng thế giới Phật mà không hề hao tổn.

10. Thị hiện các cõi Phật tự nhiên như hư không để khai thị chúng sinh.

Đó là mười thần túc biến của Bồ-tát.

Các lực biến hóa của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Lực cảm động chúng sinh mà khai hóa họ, chưa từng trái bỏ.

2. Cảm động các cõi nước, dùng vô số việc trang nghiêm, thị hiện nơi ấy.

3. Pháp lực biến hóa có các thân mà nhập vào nơi vô thân.

4. Lực biến hóa với các kiếp số không dứt.

5. Sự biến hóa của Phật lực làm tỉnh ngộ kẻ ngủ say.

6. Sự cảm hóa của hành lực thu giữ lấy tất cả các hạnh của chúng sinh.

7. Lực giáo hóa của Như Lai có thể cứu độ mọi cảnh giới chúng sinh.

8. Sức giáo hóa của tự tại làm cho các pháp đạt đến tự nhiên, thành Tối chánh giác.

9. Lực Nhất thiết trí thì dùng các tuệ thông Thánh trọn vẹn để đạt đến đạo bình đẳng.

10. Lực biến hóa của đại Bi thì không bỏ chúng sinh.

Đó là mười lực biến hóa để hóa độ chúng sinh của Bồ-tát. Bồ-tát nếu có mười Lực biến động này thì không bị ngăn ngại, mau chóng thành tựu đạo Vô thượng Chánh chân làm bậc Tối chánh giác. Lúc phát tâm thì đắc Phật đạo, sở hành không mất. Vì sao? Vì tuyên dương đại thệ nguyện nên Bồ-tát thành tựu vô lượng pháp môn, hiện khắp các gốc đức.

Có mười pháp lạc của Bồ-tát. Những gì là mười? Bồ-tát dùng thân chúng sinh kiến lập quốc thể, phân biệt chỗ hướng về của muôn người, đó là pháp lạc thứ nhất. Lại nữa, Bồ-tát dùng thân tứ đại kiến lập chúng sinh, không làm cho đất nước bị hao tổn, đó là pháp lạc thứ hai. Bồ-tát tùy thời biến hiện thân Phật Chánh giác, hiện thân Thanh văn, Duyên giác thì thị hiện việc phi thường của Như Lai, đó là pháp lạc thứ ba. Bồ-tát ấy thị hiện thân Thanh văn, Duyên giác, thân Phật, lồng lộng, vi diệu, không chấp vào ba phẩm pháp huấn, đó là pháp lạc thứ tư. Lại nữa, Bồ-tát ấy thị hiện thân hành dụng, thân Tối chánh giác; không chấp trụ vào thân hành dụng và cũng không đoạn lìa, đó là pháp lạc thứ năm. Bồ-tát ấy thị hiện nẻo hành thân đạo Chánh giác, không chấp dựa vào Chánh giác, đó là pháp lạc thứ sáu. Bồ-tát ấy hiện cõi Niết-bàn, nương vào sinh tử mà không chấp trước ở Niếtbàn, đó là pháp lạc thứ bảy. Bồ-tát ấy thường hiện nơi sinh tử và lại hiện sự diệt độ, không ở nơi Niếtbàn mà vĩnh viễn diệt độ, đó là pháp lạc thứ tám. Bồ-tát ấy dùng định vĩnh hằng, thị hiện khắp các hành, qua lại khắp vòng, đi đứng, kinh hành mà không xả Tam-muội, đó là pháp lạc thứ chín. Lại nữa, Bồ-tát ấy nghe thuyết chánh pháp từ một Như Lai mà không thấy thân biến mất, hộ trì định Tammuội và mỗi một Phật sự đều phân biệt rõ ở đạo tràng Như Lai. Các thân từ trú xứ ấy không chỗ hoại diệt, không loạn Tam-muội. Theo chư Như Lai nghe thuyết pháp, vừa nghe xong thì tin nhận phụng hành Tam-muội chánh thọ, không đoạn mất tâm tôn kính nơi chỗ cốt yếu của kinh điển và chẳng thấy thân diệt cùng chư Như Lai. Mỗi một Tam-muội đều điều phục các hạnh môn, vào vô số định, vì vậy Tam-muội Bồ-tát trong kiếp tận hoại chưa từng dứt hết pháp môn định ý, đó là pháp lạc thứ mười. Đó là mười pháp lạc của Bồ-tát. Bồ-tát trú ở đấy thì đạt thành tuệ lạc Như Lai vô thượng. Có mười việc về cảnh giới Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Bồ-tát vì các chúng sinh mà thị hiện nhập vào vô lượng môn, tất cả thế giới, có vô số sự trang nghiêm để khai dẫn chúng sinh.

2. Điều phục cõi chúng sinh mà không hề tự đại, giảng thuyết những chỗ tạm bày.

3. Như Lai Chánh chân vào trong thân Bồ-tát, dùng thân Bồ-tát nhập vào thân Như Lai.

4. Dùng cõi hư không, dẫn vào các cõi Phật, dùng các cõi Phật dẫn vào cõi hư không.

5. Dùng gốc sinh tử thị hiện nguồn Niết-bàn, dùng nguồn cội Niết-bàn hiện gốc sinh tử.

6. Dùng tiếng một người mà giảng nói các pháp Phật, khiến mỗi mỗi đều vào cảnh giới ấy.

7. Dùng vô lượng môn mà hiện nơi một thân, tức dùng một thân mà kiến lập vô số thân.

8. Lại dùng một thân biến hiện khắp các pháp giới.

9. Chúng sinh phát tâm thì dùng một trí.

10. Điều ngự vô lượng môn, thành tựu Tối chánh giác.

Đó là mười việc mà Bồ-tát trú ở đấy thì được vào nơi đại tuệ vô thượng của Như Lai.

Bồ-tát có mười Lực. Những gì là mười?

1. Lực chí tánh phụng hành, không đồng với trần cảnh nơi thế gian.

2. Lực tu thanh tịnh, an hòa, không chấp nơi pháp Phật.

3. Lực tùy thời thị hiện khắp xứ sở, phương tiện của Bồ-tát.

4. Dùng lực Thánh tuệ thì biết tâm niệm, chốn hành của muôn loài.

5. Lực thệ nguyện, có thể thông đủ lực nơi chốn hành của bản nguyện viên mãn.

6. Lực tu các thừa thì không đoạn bản tế, hiển hiện tất cả thừa mà không xả Đại thừa.

7. Các lực biến hóa của tất cả chư Phật thì thanh tịnh mười phương cõi, mỗi mỗi đều hiển bày chỗ hộ trì hành dụng.

8. Lực nghĩa đạo làm phát khởi tâm chúng sinh, không rời Chánh giác.

9. Lực chuyển pháp luân tuyên bày một pháp. Âm thanh không một chỗ nào mà không có đầy đủ, không có cái rộng khắp ấy thì ấy mới là âm thanh rộng khắp.

10. Lực điều phục tất cả tâm niệm chúng sinh. Đó là mười Lực, Bồ-tát an trú ở đây thì đạt thành mười lực phổ trí vô thượng.

Có mười việc về sự vô úy của Bồ-tát. Những gì là mười? Bồ-tát đều nhận tất cả, được nắm giữ các âm thanh, huống gì là Bồ-tát mà không nghĩ: “Ta ở phương Đông, Nam, Tây, Bắc đi đến đây, có người đến hỏi trăm ngàn tập yếu vô cực mà họ không thể nhận lãnh được lời đáp về đại pháp thì Bồ-tát đều biết rõ và không thấy có sự bất cập. Bồ-tát dùng đại vô úy và pháp Độ vô cực để độ tất cả chúng sinh. Những người đến hỏi tùy ý muốn nghe những chỗ cần hỏi thì Bồ-tát dũng mãnh giảng thuyết không hề lười nhác, đó là vô úy thứ nhất. Ở nơi văn tự ngôn từ mà diễn thuyết lần lượt như nước chảy. Nhờ oai thần của Như Lai, biện tài vô ngại, theo chốn Độ vô cực, Bồ-tát ấy chẳng nghĩ: “Những người đến từ phương Đông, Tây, Nam, Bắc mà không nhận được lời dạy bảo là điều chưa từng có, Bồ-tát không thấy có sự bất cập mà luôn dũng mãnh vô úy. Tất cả chúng sinh tùy ý muốn hỏi thì Bồ-tát tự tại, chẳng hề lo ngại chán sợ, đó là vô úy thứ hai. Một mình dạo vào pháp không mà Bồ-tát chưa từng khởi tâm nghi ngờ. Nói đến chỗ làm của mình thì đã chuyển hóa, nói về thọ mạng của con người thì đã lìa năm ấm, các nhập, sáu mươi hai nghi tà kiến. Tâm ấy rộng lớn, bình đẳng như hư không, nên dùng sự vô niệm này mà không thấy có sự quấy nhiễu nơi thân, khẩu, ý. Bồ-tát không có cái thấy bất cập này. Vì sao? Vì các Chánh sĩ ấy đã lìa tướng ngã, nhân, không hiện các tướng, cất bước đại phương tiện, dũng mãnh, bền chắc, đó là vô úy thứ ba. Bồ-tát ấy đứng trên chỗ Phật kiến lập, trú nơi Phật lực mà vẫn ở nơi oai nghi, lễ tiết của Như Lai, không hề vọng tưởng và chẳng nghĩ: “Mọi người sẽ không tìm sở trường, sở đoản và oai nghi chưa đủ của mình thì chưa từng có điều này; không thấy sự bất cập mà dũng mãnh cất bước, ban tuyên kinh đạo ở nơi đại chúng, thân, khẩu, ý luôn thanh tịnh, đó là sự vô úy thứ bốn. Lại nữa, Bồ-tát ấy phải nghĩ đến sự tẩy trừ hạnh ác, tu học thanh tịnh và từ hòa chăng? Cũng chẳng có ý niệm này, hoặc có người tìm chỗ khuyết điểm ở thân, khẩu, ý của mình thì Bồ-tát lại dùng đại dũng mãnh vì chúng sinh mà giảng thuyết kinh đạo, đó là vô úy thứ năm. Bồ-tát ấy luôn được sự hộ trì của thần Kim cang cầm chày Kim cang, chư Thiên, Long, Thần, A-tu-luân thấy được liền quy y; Đế Thích, Phạm thiên, Tứ Thiên vương cũng đều thờ phụng và chư Phật cũng đều gia hộ. Cho nên Bồ-tát ấy không có khởi ý là sợ chúng ma, thiên ma, các ngoại đạo dị học. Vì sự mê hoặc của các tà không thể nhiễu loạn và không bao giờ thấy được người ấy. Bồ-tát phải dùng đại dũng mãnh và chốn Độ vô cực để khuyến phát tâm đầy đủ các hạnh Bồ-tát, đó là sự vô úy thứ sáu. Bồ-tát lại được tuệ niệm của Phật, chưa từng quên mất, các căn thường định; luôn vì chúng sinh thuyết pháp, diễn bày Thánh điển để họ hiểu nghĩa Phật đạo. Chỗ giảng nói pháp đó của Bồ-tát cũng như sự giảng nói từ kim khẩu của Phật, không bị ngăn ngại, mà Bồ-tát chẳng dấy lên ý nghĩ thấy sở đoản của họ và luôn phụng hành lời dạy của Như Lai, đó là sự vô úy thứ bảy. Bồ-tát sáng rõ trí tuệ phương tiện, sáu Độ vô cực, tiến thoái một mình mà chỉ dạy cho chúng sinh, không hề câu nệ. Dùng nguyện Phật đạo và Thánh tánh vô cực mà phát khởi đại Bi vô tận, thương xót chúng sinh. Giả sử sinh ra ở chốn phiền não xấu, ác, thế giới uế trược thì có thể bao dung hết với tâm hoan hỷ và việc lớn đi cùng là dạy dỗ chúng sinh. Không khởi niệm là sẽ không có kẻ hủy báng tịnh hạnh trong sạch của Phật đạo, đoạn tuyệt định ý và cửa giải thoát chánh thọ, Tổng trì, biện tài; cũng không hề thấy có. Vì sao? Vì Bồ-tát Đại sĩ ở nơi tất cả các pháp được tự tại thì không thể đình chỉ đạo hạnh tu tập. Bồ-tát ấy ở nơi mười phương không hề phạm lỗi mà luôn theo sự đại dũng mãnh, ở nơi cõi Phật trừ bỏ các ác và luôn giữ chánh niệm, đó là sự vô úy thứ tám. Bồ-tát không xả Nhất thiết trí tâm, khéo trú nơi nghĩa đạo, ưa thích Đại thừa. Dùng sức kiến lập của các thông tuệ, vì các Thanh văn, Duyên giác thị hiện các oai nghi, lễ tiết không thể bì kịp. Bồ-tát không khởi niệm: “Ta sẽ không lầm lạc vào đạo Thanh văn, Duyên giác, dùng đại tinh tấn hiển bày tất cả thừa, các Độ vô cực, chỉ thích Đại thừa và chốn hành tròn đủ”. Đó là sự vô úy thứ chín. Bồ-tát khéo tích tập các pháp thanh tịnh, tập họp các gốc đức, đầy đủ thần thông, không bỏ nẻo giác ngộ dùng Phật đạo cũng như hạnh Bồ-tát mà hóa độ; dùng phổ trí của tất cả các chư Phật để giáo hóa chúng sinh, không mất chánh hạnh, không hoại kinh pháp. Tâm Bồ-tát không nghĩ: “Chúng sinh không có các căn thuần thục, ta soi sáng không tới; hiện bày cảnh giới Phật mà vẫn chưa có sự cảm ứng này”. Bồ-tát dùng đại dũng mãnh, quán căn cơ nơi chúng sinh để hiển bày Phật địa. Tuy giáo hóa chúng sinh nhưng chốn hành hóa và đại nguyện vô cực của Bồ-tát không có khuyết sót. Đó là sự vô úy thứ mười. Bồ-tát trú ở đấy thì đạt đến bốn Vô sở úy của Như Lai.

Bồ-tát có mười việc về pháp Bất cộng của chư Phật. Những gì là mười? Bồ-tát tinh cần, không từ đâu sinh ra, độ chúng sinh qua đến bờ giác, vui thích bố thí trừ hết bỏn sẻn, giới cấm thanh tịnh, không phạm các ác, thành tựu đầy đủ pháp nhẫn nhục, bỏ các sân hận; tu đại tinh tấn, việc tu Chánh giác chưa từng thoái chuyển, Thiền định kiên cố, bỏ các ý loạn, từ trí tuệ sinh ra, xa rời tà kiến, không hề ngôn thuyết. Sao gọi là không từ đâu sinh ra? Vì thường siêng năng phụng hành sáu Độ vô cực, đó là bậc nhất vô ngôn của Bồ-tát.

Bồ-tát hiểu rõ các pháp độ qua bờ giác, thu giữ các cảnh giới của chúng sinh. Bố thí thì dùng tục thí và giảng nói pháp thí, nét mặt vui vẻ. Nói với kẻ đáng nói thì dùng ngôn ngữ âm thanh từ hòa, mọi người nghe được thì không ai mà không vui lòng. Nghĩa lý đúng thời, hiểu rõ Phật đạo, tâm không thiên lệch, bè nhóm mà bình đẳng nghĩ về chúng sinh. Chỗ tu trì của Bồ-tát không từ đâu sinh, dùng vô ngôn mà cứu tế chúng sinh đến cảnh giới tu tập. Đó là pháp thí thứ hai của Bồ-tát.

Chốn tu trì của Bồ-tát là từ bi trí tuệ, không hề vọng tưởng, không thích thế tục, dẫn dắt chúng sinh vào Phật đạo. Hành định tu tập của Bồ-tát không bỏ Thánh tuệ của Như Lai Chánh chân, chỉ rõ diệu dụng nơi chúng sinh mà khuyến giúp họ bằng vô sở thuyết, đó là Bồ-tát không có ngôn thuyết, tu các gốc đức, ngưỡng cầu Phật tuệ, vì chúng sinh mà bố thí thì đó là sự vô ngôn thứ ba của Bồ-tát.

Hành nghiệp Bồ-tát có hạnh thứ nhất là phương tiện quyền biến, tùy theo sở thích của chúng sinh mà không hề chán ghét. Dạo trong thế tục, tại các nơi phóng túng, xấu ác, những chỗ của Thanh văn, Duyên giác, tất cả muôn loài mà khai hóa họ chứ không cầu an cho riêng mình. Thiền định, Tam-muội giải thoát, chánh thọ thì biết rõ tiến lùi, đắc định tự tại, không hề mỏi mệt. Quán nơi sinh tử thì cũng như mặt trời chiếu khắp, hủy diệt các cung điện ma, hiện khắp nơi xứ sở của Phạm thiên, Đế Thích, Tứ Thiên vương. Thường soi sáng, thấy các hàng Dị học mà đều thấu biết tất cả kinh thư, điển tịch, văn thơ, toán thuật, sáu việc bản thân của tất cả thế tục. Lại còn thấu biết điển tịch của vua, điêu khắc hoa văn, in gấm thêu hoa, trau chuốt ngôn từ, âm thanh hoan lạc, sáu món cờ bạc hơn cả thiên hạ. Lại cũng hiểu rõ sự tiến dừng của người nữ, sự hoạt động của nam nhi, dự đoán được điềm lành, thiên văn địa lý, nhật nguyệt tinh tú, các sự thiên tai và pháp độ thế.

Nếu Thanh văn, Duyên giác đến hỏi thì không có việc gì mà không sáng rõ. Các việc độ thế thì Bồ-tát một mình hành dụng không ai sánh cùng, tất cả thiên hạ đều cùng kính ngưỡng. Hiển bày oai nghi lễ tiết và chỗ không thể đạt đến của các thừa Thanh văn, Duyên giác và không xả Đại thừa. Lúc phát tâm, biết chỗ thị hiện của chư Như Lai, không đoạn kinh điển. Bồ-tát tuân theo phương tiện quyền xảo cũng không đoạn dứt. Bồ-tát phụng tu gốc đức vắng lặng; dùng tuệ pháp lạc, một mình tự tại, ở nơi vô vi mà hiện ra cõi sinh tử, đến chỗ không nhân tướng mà giáo hóa chúng sinh chưa từng trái bỏ. Ở nơi chúng sinh mà luôn thanh tịnh an nhiên, thị hiện nơi đại phiền não cấu uế, tức là dùng nhất phẩm của thân pháp tuệ thị hiện nơi vô số thân chúng sinh, vô hạn nơi chốn, giống như hư không. Dùng đại trí tuệ, vì chúng sinh mà thị hiện niềm vui nơi tất cả trần dục, vui nơi nhất phẩm lạc. Hiện ở ba cõi khai hóa chúng sinh, không rời vọng tưởng; ở với trăm ngàn Ngọc nữ thì thường dùng pháp lạc mà tự vui sướng, dùng tướng tốt và trăm ngàn công đức mà tự trang nghiêm nơi chỗ sinh sống. Thường tu hành thanh tịnh, chẳng có lỗi lầm, hiện sinh nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; ở nơi trí tuệ Phật đạo và các Độ vô cực mà không hề động xả tuệ thân Bồ-tát. Trí tuệ như vậy không có bờ cõi. Vì vậy Bồ-tát đều hiểu rõ Thanh văn, Duyên giác, huống gì là kẻ phàm phu ngu tối. Đó là sự vô ngôn thứ năm của Bồ-tát.

Hành thân, miệng, ý thì lấy tuệ làm đầu. Chỗ tu trì của Bồ-tát hành dụng trong sáng, đầy đủ từ tâm thương xót chúng sinh; luôn lìa bỏ các việc: sát sinh, trộm cắp, dâm dục, nói dối, nói hai lưỡi, nói ác, nói thêu dệt, ganh ghét, sân si, tà kiến… Nẻo hành của Bồ-tát, tu hạnh chánh kiến cũng đều vô ngôn, hành thân, khẩu, ý với trí tuệ ứng thời. Đó là việc thứ sáu.

Không bỏ chúng sinh, ấy là Bồ-tát phụng tu tâm Từ không ngăn ngại, thấy chúng sinh khổ não, thân năm ấm gặp hoạn nạn thì hành dụng, lời nói càng phải từng trải, hưng hiển gốc đức; vì chúng sinh mà ở tại địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh mà chịu nhiều khổ đau, chẳng hề biếng trễ; giáo hóa chúng sinh khiến họ an vui. Ở nơi tất cả dục và những chỗ vui thích mà chẳng đổi dời tâm, càng thêm tinh tấn nhằm độ thoát chúng sinh ra khỏi các khốn khổ độc hại. Cũng chẳng dùng các chỗ rèn tập của Bồ-tát mà chỉ chí nguyện nơi đại Bi, làm theo điên đảo lực. Đó là việc thứ bảy khiến tất cả cá loài đều phụng kính, vui thích.

Cho đến Bồ-tát, Đế Thích, Phạm thiên, Tứ Thiên vương đều cùng hộ niệm, nên tất cả muôn dân nhìn thấy đều hoan hỷ, chúng sinh nghĩ đến công đức thì tâm chẳng rời hoài bão. Vì sao? Vì Bồ-tát ấy nơi túc mạng xa xưa đã phụng hành thanh tịnh, không có lỗi lầm, cho nên mọi người chưa gặp Bồ-tát thì không biết dừng đủ; Bồ-tát cũng dùng vô ngôn mà giáo hóa, ấy là pháp thứ tám. Tâm Bồ-tát kiên cố, ở nơi các thông tuệ khéo mặc áo giáp công đức, ấy mới là Bồ-tát. Sở dĩ rất khó là vì Bồ-tát ấy phải ra sức siêng năng hành tập; vào nơi Thanh văn, Duyên giác mà tâm Nhất thiết trí luôn thanh tịnh sáng rỡ, không chỗ quên mất. Giống như đại minh châu có tên là Tịnh phục tịnh, nó luôn làm nước đục được lắng trong. Giả sử có hồ nước rất nhơ bẩn, dùng minh châu này đặt vào trong đó thì nước đục này liền lắng trong mà không hề đục trở lại. Cũng vậy, giả sử Bồ-tát cùng sống với kẻ ngu si, nối kết đến trọn đời nhưng Bồ-tát chưa từng bỏ mất Nhất thiết trí thanh tịnh sáng trong, trí tuệ vô cực, trừ sạch ái dục, tà kiến, phiền não uế trược của chúng sinh. Trú ở Nhất thiết trí sáng trong thanh tịnh mà cũng dùng vô ngôn. Tuy ở nơi kẻ ác, Thanh văn, Duyên giác mà không hề bỏ đại đạo, đó là pháp thứ chín.

Trí tuệ của Bồ-tát là pháp tôn quý đã qua bờ giác, ấy là tuệ Bồ-tát được tự tại đầy đủ không thiếu, là bậc Nhất sinh bổ xứ mặc áo lìa cấu uế, đội khăn mão pháp, đeo giây tơ đạo ấn, chẳng rời sự khuyên dạy của bạn lành. Phụng kính Như Lai; chưa từng khinh mạn thì cũng dùng vô ngôn. Bồ-tát chưa từng có tu mà khai hóa chúng sinh, không rời chư Phật và thường thuận theo Như Lai, khiêm cung tự quy. Đó là sự giáo hóa vô ngôn thứ mười. Bồ-tát an trú ở đây thì đạt thành vô ngôn vô thượng của Thế Tôn.

Bồ-tát có mười nghiệp. Những gì là mười?

1. Làm thanh tịnh khắp thế giới, trang nghiêm cõi Phật.

2. Hưng lập tất cả đạo nghiệp của chư Phật.

3. Lấy bạn lữ Bồ-tát làm đầu, đồng chung gốc đức.

4. Bồ-tát chỉ dạy nơi cảnh giới chúng sinh, thâu giữ từ gốc đến ngọn và các nghiệp đời sau.

5. Nghĩa là dùng thần túc biến khắp cảnh giới chư Phật nơi mười phương.

6. Tuy hiện hữu khắp mười phương nhưng không rời khỏi cảnh giới của mình.

7. Bồ-tát dùng ánh sáng diễn khắp vô lượng ánh sáng, mỗi một ánh sáng đều có hoa sen, trên các hoa sen ấy đều có chư Bồ-tát hiện thân ngự tọa, chẳng đoạn Tam bảo.

8. Sau khi Phật diệt độ thì Bồ-tát phụng hành tuyên thuyết, dạy dỗ không có tự đại, dạo khắp mười phương khai hóa chúng sinh.

9. Vì họ thuyết pháp và khiến họ tuân theo luật giáo, tu bát chánh đạo.

10. Nếu họ ở tà nghiệp thì vì họ mà thị hiện các nguyện khiến mọi người đều tròn đủ.

Đó là mười việc, Bồ-tát an trú ở đây thì thành tựu vô thượng đạo của Như Lai.

Thân Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Bồ-tát vị lai, hiểu rõ tất cả thân đều không chỗ thành, cũng vô sở hữu.

2. Thân Bồ-tát cũng như thân mọi người đều không thể thủ đắc.

3. Thân Bồ-tát, không có chân đế, tùy theo tập khí của chúng sinh mà thị hiện đó thôi.

4. Thân Bồ-tát thì không thể xâm tổn nhưng tùy theo thế tục mà hiển bày chân đế.

5. Thân Bồ-tát cũng không cùng tận, ở các đời vị lai không hề đoạn mất.

6. Thân ấy kiên cố, các ma không thể hủy hoại.

7. Thân ấy dũng mãnh, tất cả tà học, ngoại đạo không thể hủy hoại.

8. Thân ấy vô tướng mà lại thị hiện các tướng thanh tịnh, trăm phước công đức.

9. Thân ấy không đẹp vì lấy pháp tướng làm đẹp, cúi đầu làm lễ; thân ấy không nơi nào mà không vào.

10. Các Như Lai Chánh chân quá khứ, hiện tại, vị lai đều cùng một thân.

Đó là mười thân của Bồ-tát. Bồ-tát an trú ở đây thì thành tựu Pháp thân Như Lai vô cực không cùng tận.

Khi giảng nói lời này xong thì tam thiên thế giới đều chấn động lớn; đại ánh sáng ấy biến khắp mười phương; trời tuôn mưa hoa, đàn sáo nhạc khí không tấu mà tự vang. Các người đến nghe pháp mỗi mỗi đều rất vui mừng vì may mắn được gặp đạo sáng vô cực.

Họ đều hỏi:

–Muốn gặp pháp này thì tu cái hạnh gì?

Bồ-tát đáp:

–Phụng kính các pháp, một tâm nghe kinh, cúng dường Thánh chúng, khiêm cung và tôn kính Pháp sư như tôn kính Phật. Thương xót chúng sinh như thương xương tủy của mình. Ở tại ba cõi mà như hoa sen trong nước, như ánh sáng soi tỏa của mặt trời, mặt trăng chiếu đến các nơi u tối. Hành giả như vậy thì mau chóng đắc thành chánh pháp. Lúc giảng nói pháp này thì vô số người đều phát tâm đạo.

QUYỂN 4

Bồ-tát Phổ Trí lại hỏi Bồ-tát Phổ Hiền:

–Sao gọi là thân nghiệp? Sao gọi là thể? Sao gọi là ngôn từ? Sao gọi là khẩu tịnh? Sao gọi là khéo thanh tịnh? Sao gọi là chỗ hộ trì khéo được thu giữ? Sao gọi là chỗ tu tập giáo hóa của Bồ-tát thường khuyến hóa cõi chúng sinh? Sao gọi là tâm bình đẳng của Bồ-tát? Sao gọi là phát tâm ý? Sao gọi là tâm hiện hữu khắp? Sao gọi là các căn? Sao gọi là chí tính? Sao gọi là tính hòa? Sao gọi là đúng thời? Sao gọi là đáng tin? Sao gọi là tin vào thế giới? Sao gọi là tin vào cõi chúng sinh? Sao gọi là dừng ở? Sao gọi là hưng phát? Sao gọi là phụng hành? Sao gọi là thành tựu? Sao gọi là làm mất đạo pháp Phật? Sao gọi là vắng lặng? Sao gọi là pháp cứu cánh? Sao gọi là sinh nơi pháp Phật? Sao gọi là Chánh sĩ? Sao gọi là đường? Sao gọi là vô lượng đường? Sao gọi là đạo nghiệp? Sao gọi là hành đạo? Sao gọi là tiến đạo? Sao gọi là hạnh? Sao gọi là tay? Sao gọi là bụng? Sao gọi là tạng? Sao gọi là tâm nghiệp? Sao gọi là áo giáp công đức? Sao gọi là cây gậy? Sao gọi là đầu? Sao gọi là mắt? Sao gọi là tai? Sao gọi là mũi? Sao gọi là lưỡi? Sao gọi là thân thể? Sao gọi là hỷ hạnh? Sao gọi là bước đi? Sao gọi là ở? Sao gọi là ngồi? Sao gọi là nằm ngủ? Sao gọi là nhà? Sao gọi là du hóa? Bồ-tát Phổ Hiền đáp:

–Hay thay những câu hỏi ấy! Hãy lắng nghe và ghi nhận!

Bồ-tát Phổ Trí đáp:

–Thưa vâng!

Bồ-tát Phổ Hiền nói:

–Thân nghiệp của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Bồ-tát có thể dùng một thân mà hiện hữu khắp cõi Phật nên gọi là thân nghiệp.

2. Bồ-tát thị hiện ở tất cả cõi chúng sinh cùng các chỗ sinh sống khác mà luôn an nghĩ.

3. Một mình bước đi trong mười phương giới.

4. Cũng đều đi đến các chúng hội thuyết pháp nơi đạo tràng chư Phật.

5. Bồ-tát có thể dùng một tay che trùm tất cả tam thiên thế giới.

6. Dùng một tay nắm giữ các núi Đại Thiết Vi, các núi Kim Cang.

7. Hiển bày chúng sinh và tất cả cõi Phật tập họp ở trong thân mình.

8. Lại có thể làm biến mất, đem cõi chúng sinh làm thành một thân giấu riêng một chỗ.

9. Lại thị hiện cho tất cả chúng sinh nhận biết tại thân của mình.

10. Đem sự thành tựu để trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh.

Đó là mười thân nghiệp. Bồ-tát an trụ ở đấy thì đạt đến đạo Vô thượng, dạy bảo chúng sinh đều đến với đạo.

Thể Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Thể phụng tu sáu Độ vô cực của Bồ-tát.

2. Có thể hành bốn Nhiếp pháp, tu Bi rộng mở không xả bỏ chúng sinh.

3. Thân Bi, thay cho các chúng sinh đảm nhận cái khổ của năm ấm, tự thọ lấy những việc đó chẳng hề mệt mỏi.

4. Thân từ vô cực, hộ trì khắp tất cả, khiến mọi người được cứu giúp.

5. Dùng thân công đức khiến cho muôn dân đều tôn thờ kính ngưỡng, đạt được an ổn giải thoát.

6. Đem việc Thánh tuệ cùng với tất cả chư Phật hợp chung một thể.

7. Để được thành tựu thì nên bỏ tất cả các pháp hưng, nguy.

8. Thân thiện quyền phương tiện của Pháp thân.

Tất cả hiện môn về thần túc biến hóa đều có thể hiển thị, tạo ra sự cảm ứng.

9. Thể của Bồ-tát là ở nơi đạo tự tại, liền thành tựu Chánh giác.

Đó là mười thể. Bồ-tát trụ ở đấy thì liền có thể nhập vào đại tuệ vô thượng của Đức Như Lai Chí Chân.

Ngôn từ Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Lời nói của Bồ-tát chính xác, rõ ràng, tức dùng lời dạy để đem lại yên ổn cho chúng sinh.

2. Dùng lời trong sáng, hòa nhã làm vui mọi tâm niệm của tất cả muôn dân.

3. Dùng lời nói không dối gạt, đã nói thì nói đúng như sự thật.

4. Bồ-tát nói ra lời chân thật, giả sử đang ở trong mộng, Bồ-tát cũng không có lời nói khác.

5. Chỗ nói thì tùy thuận, chẳng khi dối các vị Đế Thích, Phạm thiên và bốn vua trời, thâm diệu không tổn hại.

6. Bồ-tát có thể thị hiện lời giáo huấn tự nhiên.

7. Điều đã nói ra thì bền vững, ban tuyên các pháp không có bờ cõi.

8. Bồ-tát diễn đạt, mọi việc được phơi bày, theo tất cả lời nói mà khai hóa.

9. Tùy chỗ tạo tác của từng người mà nói về báo ứng của họ, bày ra gốc ngọn sự việc ấy.

Bồ-tát quán sát tâm ý của chúng sinh rồi tùy theo chỗ thích ứng của họ mà dạy bảo.

Đó là Bồ-tát thông suốt mười ngôn từ.

Bồ-tát có mười việc là khéo thanh tịnh. Những gì là mười?

1. Ưa thích được nghe âm thanh của Đức Như Lai, đó là tịnh.

2. Suy xét âm thanh của Bồ-tát đã từng nghe.

3. Bỏ đi những điều chúng sinh chẳng thích nghe, dứt sạch ác ngữ.

4. Không đem đến cho người khác chỗ đã nói từ xưa cùng bốn điều lỗi của miệng phải luôn xa lìa.

5. Bản tâm hoan hỷ gióng vang đại âm ca ngợi Đức Như Lai.

6. Tại chùa Phật, đền thờ… ngợi khen công đức của Phật.

7. Dùng tánh thanh tịnh hòa nhã vì các chúng sinh tuyên dương pháp thí.

8. Tại chùa, đền tôn nghiêm, tấu các kỹ nhạc, đánh đàn, thổi sáo, tạo sự ưa thích về tháp miếu của Phật.

9. Gần gũi diện kiến theo các Đức Phật Thế Tôn, lắng nghe kinh điển, tùy thuận phước trời, theo các Bồ-tát.

10. Nếu vì Pháp sư được nghe kinh điển, đích thân phụng sự, tâm xả bỏ niềm vui cõi trời.

Đó là mười việc diễn dạy vì khéo thanh tịnh của Bồ-tát.

Chỗ hộ trì khéo được thu giữ của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Các vua trời hiện ra đều cùng ủng hộ.

2. Vua rồng, vua quỷ, thần đều hiện ra để bảo vệ.

3. Các chúng Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân đều đến phụng kính.

4. Các chúng Ca-lưu-la, vua Kim sí điểu đều đến tạo mọi an ổn.

5. Các hàng Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc đều quy ngưỡng.

6. Lại nữa, trời Đế Thích, chư Thiên theo hầu đều đến hộ trì.

7. Vua Phạm thiên đem các chúng Phạm thiên đến ở một bên mà tự quy y.

8. Các Bồ-tát đều cùng kính niệm.

9. Các vị Không thoái chuyển, Nhất sinh bổ xứ đều tạo sự thân cận.

10. Các Đức Như Lai hiện ở khắp mười phương, đều ra uy thần hộ trì.

Đó là mười việc khéo thu giữ ủng hộ Bồ-tát.

Bồ-tát có mười chương huấn là chỗ tu tập.

Những gì là mười?

1. Thường hoan hỷ ở cõi chúng sinh.

Cũng lại giáo hóa khắp cả ba ngàn cõi nước của chư Phật.

2. Bồ-tát lại có thể hội nhập nơi tất cả các căn tánh.

3. Tùy theo căn cơ, hoàn cảnh của những chúng sinh thông lợi, kẻ trung bình, thấp kém để tạo sự nghiêm tịnh cho họ.

4. Khiến chúng sinh tiêu trừ tất cả ái dục, phiền não.

5. Xa lìa các thứ uế trược, từ bỏ cảnh giới cấu nhiễm.

6. Đều nhìn thấy chí tánh hiện tại.

7. Dần dần thêm lớn tính thanh hòa.

8. Đều thấu đạt khắp các pháp giới.

9. Vì vậy cho nên mau chóng gần với Vô vi. Đó là mười việc.

Tâm bình đẳng của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Tâm bình đẳng nơi các pháp Tổng trì, nắm lấy các chúng sinh, thu giữ các gốc đức, khiến họ chẳng thoái chuyển.

2. Tâm như sông biển không thể hạn lượng, thuận theo pháp của chư Phật, nơi đạo tuệ vô cực.

3. Tâm như núi Tu-di, công đức ấy siêu việt và kiến lập tất cả gốc thiện của chúng sinh.

4. Tâm như ngọc sáng, trừ sạch các nhơ bẩn, ý niệm thanh tịnh.

5. Tâm như Kim Cương, hủy hoại tất cả các pháp uế tạp.

6. Tâm ấy kiên cố như núi Thiết vi, không gì có thể hủy hoại, tất cả chúng ma, các ngoại đạo, dị học không thể lay chuyển.

7. Tâm Bồ-tát giống như hoa sen, đi trong ba cõi mà vĩnh viễn không tham đắm.

8. Tâm Bồ-tát ấy lại như hoa Linh thụy, ở vô số kiếp khó được nghe, thấy.

9. Tâm như mặt trời, mặt trăng, du hành ở hư không, diệt trừ tất cả sự tối tăm, tệ ác, ngăn ngại, ngu si.

10. Tâm ấy như hư không, thương xót tất cả các loài.

Đó là mười tâm Bồ-tát.

Bồ-tát phát tâm lại có mười việc. Những gì là mười?

1. Bồ-tát phát tâm: Ta phải vui vẻ với muôn người phải diệt trừ các thứ phiền não, ái dục của chúng sinh, khiến cho họ vĩnh viễn dứt bặt.

2. Lại dấy lên ý nghĩ là cắt đứt các thứ tệ ác, ngăn ngại.

3. Ở nơi các pháp chẳng hề do dự, đạt đến chỗ vắng lặng.

4. Ta luôn an nhiên để thấy rõ tất cả chúng sinh bị năm ấm làm khổ.

5. Ta phải dứt bỏ tám nạn, đường ác.

6. Thường gặp đủ tất cả các Đức Như Lai, luôn ở bên cạnh các Ngài.

7. Thường phải tinh tấn tu học giới của Bồ-tát, thành tựu Phật đạo.

8. Thấy khắp chúng sinh, thành tựu tất cả, khiến nhập vào nguồn đạo.

9. Khi Bồ-tát phát đạo ý, phải biết đã được trống Phật gióng lên vang khắp các cõi Phật trong mười phương.

10. Thâu tóm hết cả chí tính và các căn của muôn người, khiến không ai là không được dẫn dắt.

Đó là mười việc phát tâm của Bồ-tát.

Tâm hiện hữu cùng khắp của Bồ-tát lại có mười việc. Những gì là mười?

1. Tâm ấy rộng lớn biến khắp như hư không.

2. Tâm nhập vào tất cả pháp giới đều không lường.

3. Một lúc đều hiện khắp trong ba đời.

4. Sự hưng hiển của chư Phật liền có thể gồm đủ: đầu thai, sinh ra, bỏ nước, nhường ngôi, thành Tối chánh giác, hiện tại diệt độ.

5. Đều do Thánh tuệ nhập vào cõi chúng sinh.

6. Tính ý, chí nguyện ấy hiểu rõ các căn.

7. Tâm đem ánh sáng đến khắp tất cả cảnh, cõi của các pháp, cùng khắp không bờ cõi.

8. Các lưới huyễn hóa không chỗ sinh ra, đến với tự nhiên, không có điên đảo, không thể kể xiết.

9. Tâm mình không ngăn ngại khiến cho kẻ khác không bị ngăn che, trí tuệ ánh sáng mà được tự tại.

10. Khi các Đức Phật hưng khởi sự phát tâm thì thị hiện đạo quả Tối chánh giác.

Đó là mười việc nói về tâm hiện bày khắp của Bồ-tát.

Các căn của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Bồ-tát nếu thấy các Đức Phật thì các căn vui vẻ, mừng rỡ, không ai theo kịp.

2. Ưa thích chư Phật, phụng kính kinh điển, không chỗ nào không đạt được.

3. Tất cả các căn Bồ-tát chẳng hề thoái chuyển, không chỗ chướng ngại.

4. Tâm thường trụ vững nơi hạnh tu tập.

5. Không hề phế bỏ các căn vi diệu, hiểu rõ phân minh Trí Độ vô cực.

6. Căn ý của Bồ-tát không hề thoái chuyển để khuyên bảo chúng sinh.

7. Chí Kim Cương làm tiêu diệt và chuyển hóa các pháp, phá trừ các thứ xấu, ác.

8. Ánh sáng ấy mạnh mẽ vững chắc, không gì là chẳng soi đến. Thấy các Đức Như Lai sáng rỡ tại chỗ mà các căn không lấy làm lạ.

9. Tâm của bậc Khai sĩ tỏ rõ thân của các Đức Như Lai, hợp làm một thể.

10. Ý Bồ-tát ấy đạt đến chỗ vô hạn, vào nơi mười Lực của Phật.

Đó là mười việc thuộc các căn của Bồ-tát.

Chí tánh Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Tâm Bồ-tát thường không đắm chấp, chẳng tham thế tục.

2. Tâm ấy trong suốt chẳng hề hư hoại, chẳng nghĩ đến việc của hàng Thanh văn, Duyên giác.

3. Luôn nói về chí tính Nhu thuận của Bồ-tát.

4. Chí hằng hữu nơi Phật đạo, ý ấy trong lành, hòa nhã do nơi Nhất thiết trí sinh ra.

5. Chỗ tư niệm của chí tánh không có người sánh cùng, hàng phục quân ma và các dị học của ngoại đạo.

6. Chí không tì vết, làm nghiêm tịnh tất cả cảnh giới trí tuệ của Như Lai, thường giỏi cứu độ.

7. Gốc ngọn của ý ấy, như chỗ nghe pháp thì chưa từng lãng quên.

8. Ý ấy tự nhiên mà không chấp trước vào chỗ sinh khởi không ưa thích.

9. Chí ấy sâu xa có thể vào được khắp trí tuệ vi diệu.

10. Nghĩ rồi tin hiểu, rõ thông pháp Phật. Đó là mười chí tính của Bồ-tát vậy.

Tính thanh tịnh, hòa hợp của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Bồ-tát tính hòa thì ý ở tại chỗ tôn quý, giàu có mà chẳng thoái chuyển, tích lũy thiện căn và pháp lành.

2. Chẳng nghi ngờ chư Phật, nói rộng từ gốc đến ngọn về tính hạnh của Như Lai.

3. Ở nơi gồm thâu chung, làm hạnh đại sư, nghe hết sở nguyện, nghĩ suy tại đỉnh tướng.

4. Có thể nhập vào tất cả, ở trong pháp của chư Phật thì tính tự nhiên thanh tịnh.

5. Nơi pháp của chư Phật đều được do chính mình tự tại.

6. Ý ấy vi diệu có thể nhập vào vô số các cửa đạo pháp.

7. Bồ-tát đứng đầu và siêu việt nơi tất cả nhân duyên ở đó.

8. Tự tại ở trong đạo, ở trong các Tam-muội định ý, chính thọ, biến hóa trang nghiêm, ý ấy bền trụ.

9. Nhập giữ lấy chỗ thệ nguyện của đời trước.

10. Giáo hóa chúng sinh chưa từng ngừng nghỉ.

Đó là mười tính tịnh hòa của Bồ-tát.

Bồ-tát ứng thời có mười việc. Những gì là mười?

Bồ-tát bố thí đó là ứng thời, bố thí các thứ sở hữu mà không hy vọng.

1. Phụng trì tất cả giới, đức, giới cấm dốc tu thanh tịnh, đúng thời.

2. Chẳng khinh miệt người khác, vì chúng sinh mà nhẫn nhịn các sân hận, từ bỏ hận thù, trừ khử tưởng chấp về ta mình và tha nhân, rộng tu tinh tấn, tùy thời không chuyển đổi.

3. Bồ-tát luôn hộ trì thân, miệng, ý mà không hề xao lãng.

4. Không phế bỏ các hành nghiệp Thiền định Tam-muội, tuân theo các cửa giải thoát và chánh thần thông.

5. Bồ-tát không bỏ ái dục, phiền não nếu có thể phụng hành các Độ vô cực tức gắng tích lũy các gốc đức, chưa từng lười bỏ.

6. Tu theo đại Từ, hiểu rõ thật sự không có chúng sinh, thân mạng, các khổ.

7. Năm phẩm ứng thân, chẳng bỏ đại Bi, biết rõ các pháp tự nhiên vắng lặng.

8. Đạt được mười Lực như Đức Như Lai luôn hiểu rõ tùy thời.

9. Dùng tiện nghi vô hạn để chuyển pháp luân hiển thị cho muôn người, chưa từng mang tâm trạng thoái lui.

10. Bồ-tát nhìn thấy chí tính của kẻ khác để chỉ dạy họ.

Đó là mười ứng thời của Bồ-tát. Bồ-tát trụ ở đấy thì liền có thể tùy thời đạt đến đại tuệ vô thượng vô cực của Phật.

Bồ-tát tín giải lại có mười việc. Những gì là mười?

1. Tin vào sự vi diệu mà thường tùy nghi, khó bì kịp gốc đức.

2. Thuần tín nơi vô số tịnh hạnh.

3. Sự tốt đẹp ấy là rộng khắp, thấy được vô số tâm niệm của chúng sinh.

4. Tạo cho họ niềm tin chắc thật nhập vào nơi pháp môn thâm diệu vô cực.

5. Ưa thích thanh tịnh, hưng khởi tâm niệm rộng lớn, ái mộ chỗ mong cầu.

6. Các Đức Phật kiến lập mười thứ lực, khiêm cung vô hạn, hàng phục quân ma cùng quyến thuộc của chúng.

7. Nghiệp lành rốt ráo bình đẳng nơi sự báo ứng, thuần tin nơi cửa vào.

8. Tùy theo sự vui lòng ấy mà thị hiện.

9. Nhận lãnh điều được thọ ký, nghĩa là muốn được sự thọ ký của Đức Phật, hiển bày thần túc tự tại.

10. Vui theo ý của mình, dốc tu tập, chứng đắc Phật đạo, co thể thành tựu Chánh giác.

Đó là mười tín giải của Bồ-tát.

Bồ-tát tin vào thế giới cũng có mười việc.

Những gì là mười?

1. Tin vào các cõi Phật, nhập vào một thế giới.

2. Đem một thế giới nhập vào các cõi Phật.

3. Tin một hoa sen như cả ngàn thế giới mà một đức thân Như Lai an tọa trên đó.

4. Mười phương cõi Phật, tin hiểu tất cả, tự nhiên như hư không.

5. Tất cả thế giới được trang nghiêm cùng khắp.

6. Tin là vào khắp mười phương thế giới, thân Bồ-tát có thể chiếu khắp trong đó.

7. Tin nơi mười phương cõi nước chỉ tạo ra một dấu tích, tất cả thế giới nhập vào một thân.

8. Tự thông suốt cảnh giới của chư Phật, cho đến cây Bồ-đề.

9. Nơi một đạo tràng chỉ dùng một âm thanh, báo khắp cả mười phương.

10. Tất cả chúng sinh nghe được âm thanh ấy thì tâm vui sướng.

Đó là mười việc Bồ-tát tín nhập nơi thế giới. Bồ-tát an trụ ở đấy thì có thể vào khắp vô lượng cảnh giới của Đức Như Lai.

Bồ-tát có mười việc nhập vào cảnh giới chúng sinh. Những gì là mười?

1. Tất cả thân hình chúng sinh vốn tự nhiên vô thân.

2. Các cõi chúng sinh thì lấy làm một thân, tự làm giảng đường.

3. Tin vào chỗ nhập, các loài chúng sinh thì được vào bụng một Bồ-tát.

4. Các cõi dân chúng có thể thọ nhận hình thể, dạng mạo của các bậc Đế Thích, Phạm vương và bốn Thiên vương.

5. Tin là cõi chúng sinh nhập vào thân Như Lai.

6. Mười phương muôn dân, các loài côn trùng bò sát, cõi của người và vật nhập vào thân một người.

7. Tất cả chúng sinh có thể được ở tại một phẩm nơi pháp Phật hiển bày cõi của các loài.

8. Hiện làm loại hình mạo, dáng dấp cùng như Thanh văn, Duyên giác mà vĩnh viễn không có tưởng niệm.

9. Mười phương thế giới đều hiện ra công đức trang nghiêm của Bồ-tát.

10. Ở các cõi chúng sinh thị hiện hình sắc tướng tốt của Đức Như Lai, ngần ấy thứ uy nghi, lễ tiết nơi thân để dạy bảo mọi người.

Đó là mười việc nhập vào cõi chúng sinh của Bồ-tát.

Bồ-tát dừng nghĩ có mười việc. Những gì là mười?

1. Bồ-tát phát ý tức là nơi chỗ ấy tu tập các gốc đức, các việc ác ngưng nghỉ.

2. Khai hóa chúng sinh, tùy lúc chỉ đường bày lối.

3. Thường gặp chư Phật, chẳng rời Thánh chúng.

4. Nơi họ muốn sinh đều ở tại cõi thanh tịnh.

5. Phụng tu đạo hạnh, chẳng trái Chánh chân.

6. Luôn có hoài bão với những thệ nguyện chân chánh.

7. Chẳng theo thệ nguyện tà vạy.

8. Họ đều có thể tuân phụng sáu Độ vô cực.

9. Chuyên suy nghĩ về đạo pháp bình đẳng.

10. Đã có thể du hóa đến các Phật hội.

Đó là mười chỗ dừng nghĩ của Bồ-tát. Bồ-tát trụ ở đây thì trừ bỏ được các phiền não, chứng thành vô lượng tuệ là chỗ dừng ở của Như Lai.

Có mười việc về sự hưng khởi của Bồ-tát. Bồ-tát dùng các việc này để đoạn dứt các tưởng chấp về hạnh khởi. Những gì là mười?

1. Cõi chúng sinh hưng khởi thì khai hóa họ, khiến đến được cứu cánh.

2. Thế giới nếu hưng khởi thì diệt trừ hết uế trược ở đó.

3. Thường khiến tạo mọi sự nghiêm tịnh của Như Lai, hưng hiện các hạnh Bồ-tát.

4. Tích lũy gốc đức, học Phật tướng tốt.

5. Công đức hưng khởi từ đại Bi.

6. Tiêu trừ khổ não nơi năm ấm thịnh suy của chúng sinh.

7. Phát khởi đại Bi, khiến lập chúng sinh, an trụ nơi Nhất thiết trí, nơi các Độ vô cực.

8. Tập họp hạnh nghiêm tịnh của Bồ-tát, dấy khởi phương tiện quyền xảo khắp vì tất cả, thị hiện cửa pháp đạo đức.

9. Hưng khởi đạo ý, tâm ấy an nhiên, không thể nêu bày.

10. Tóm lại, tất cả các pháp Bồ-tát đã hưng hiển thì thấu đạt mọi chỗ thần thông hóa hiện.

Đó là mười thứ hưng khởi của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười sự phụng hành. Những gì là mười?

1. Thường tự nhớ nghĩ về các Độ vô cực.

2. Dốc tu giới cấm không hề thiếu sót.

3. Vâng theo chánh tuệ chẳng theo tà kiến.

4. Thuận theo uy nghi chưa từng mất lễ tiết.

5. Tôn sùng đạo pháp chẳng theo tà kiến.

6. Tùy thứ bậc chẳng trái đức hạnh.

7. Đúng thời thị hiện chẳng phạm đạo giáo.

8. Thân cận hành nghĩa, chẳng chán việc dẫn dạy.

9. Phụng tu Chánh giác, chẳng theo Tiểu thừa.

10. Kính vâng Thánh hạnh mà chuyển pháp luân.

Đó là mười việc phụng hành của Bồ-tát.

Bồ-tát thành tựu có mười việc. Những gì là mười?

1. Thường giữ tâm thuần tín, phụng kính bạn lành, chứng thành Phật pháp.

2. Ân cần, vui thích theo điều thuyết giảng của Như Lai.

3. Chưa từng hủy báng huấn giáo của Thánh điển.

4. Tâm ấy vô lượng ở chỗ không bờ mé.

5. Khuyến trợ tạo gốc đức, đạt được cảnh giới của Như Lai không hạn hữu.

6. Tin vui chẳng hề nghi ngờ, có thể hội nhập khắp mười phương thế giới, thành tựu pháp Phật.

7. Lại nữa, ở trong pháp giới, không thể bị lay động, tâm như núi Thái.

8. Làm chấn động cảnh giới ma khiến chẳng được an ổn, tự nhiên hàng phục.

9. Hằng nhớ nghĩ đến thế giới chư Phật.

10. Dạy bảo chúng sinh phải tự nhớ nghĩ đến mười thứ trí lực của Đức Như Lai chí chân.

Đó là mười việc thành tựu của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc làm mất đạo pháp của Phật, thường phải xa rời. Những gì là mười?

1. Đó là tự kiêu mạn, khinh khi bạn lành khiến mất đạo pháp của Phật.

2. Hoảng sợ những khổ não cùng cực của sinh tử.

3. Chán chê các hạnh, trái tâm Bồ-tát.

4. Chán mệt nơi thế gian, đình trệ mọi việc, hành theo tánh cố chấp.

5. Trái với chánh định liền mất hết dấu vết của chỗ tạo gốc đức.

6. Chấp vào chỗ hành trì của mình, cho đó là thiện căn.

7. Hành trì ấy luôn ganh ghét, bài báng chánh pháp, che lấp các hạnh Bồ-tát.

8. Ưa thích pháp Thanh văn và Duyên giác.

9. Ghét bỏ những việc làm phúc đức rộng lớn.

10. Chẳng ưa hoằng truyền đại pháp của Bồ-tát.

Đó là mười việc làm mất đạo pháp mà Bồ-tát cần phải xa lánh, mới có thể vào được cảnh giới của Hiền thánh vô thượng.

Bồ-tát vắng lặng có mười việc. Những gì là mười?

1. Thường siêng tu Trí độ vô cực.

2. Quán sát chúng sinh, diệt trừ các thứ điên đảo.

3. Vượt thoát tất cả sự ràng buộc của tà kiến, chưa từng khởi ý cầu tìm vọng tưởng, khai hóa những kẻ tham chấp theo vọng tưởng.

4. Đi qua ba cõi, du hành đến tất cả mười phương thế giới.

5. Đi lại trong đó có thể cải hóa các chúng sinh, tham đắm theo phiền não, quen thói phóng dật.

6. Lìa cõi pháp ái dục, hưng khởi đại Bi, tâm thương xót muôn loài.

7. Trừ bỏ các sở hữu mà lại thị hiện gây tạo tất cả quyến thuộc.

8. Làm chấn động các thế giới, thị hiện có đầu cuối, là hiển bày sự tu hành.

9. Đi vào các pháp thế tục, tâm không đắm vướng mà còn tùy thời để dạy bảo.

10. Thấy trọn Phật đạo, chẳng đoạn dứt đại hạnh, chẳng sợ bản nguyện.

Đó là mười việc vắng lặng của Bồ-tát, Hiền thánh độ đời, giáo hóa chúng sinh thì siêu việt các việc của hàng Thanh văn và Duyên giác.

Bồ-tát có mười việc đắc pháp cứu cánh. Những gì là mười?

1. Vừa sinh ra đã là Như Lai tự tại.

2. Đạt đến sự thông suốt rốt ráo cảnh giới chư Phật.

3. Thành tựu được các việc Bồ-tát.

4. Đầy đủ tất cả các Độ vô cực.

5. Hưng thịnh và tròn đủ tánh Phật.

6. Siêu vượt các Đức Như Lai cùng hàng.

7. Thường được kiến lập mười lực của chư Phật.

8. Hoàn toàn thông suốt đại đạo của Như Lai.

9. Biết rõ chư Phật đều là một Pháp thân.

10. Rõ hạnh của Như Lai Chánh chân không có hai.

Đó là mười pháp cứu cánh của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc sinh ra nơi pháp của chư Phật. Những gì là mười?

1. Nhất tâm tự quy y, phụng sự bạn lành là hưng khởi pháp của chư Phật.

2. Cùng đến một gốc đức, tin chắc nơi pháp Phật thì khơi được nguồn đạo.

3. Khi phát tâm thì có thể hiện bày khắp các hạnh của Như Lai.

4. Nhờ công đức nên mang lại đại nguyện vô cực, phát tâm quảng đại.

5. Vui với gốc đức của mình đã tạo lập, không hề quên mất, chưa từng lo lắng, chán nản về công hạnh đã tích lũy ở vô số kiếp, nhiếp lấy tất cả vị lai không bờ mé.

6. Đi lại, sinh sống nơi vô lượng cõi Phật để khai hóa chúng sinh.

7. Thường tùy theo hoàn cảnh mà hưng khởi hạnh Bồ-tát, việc đã làm chẳng bị đoạn mất, thường phát khởi đại Bi hiển hiện tâm vô lượng.

8. Khi phát tâm thì thấy khắp hư không, hội nhập vào đại hạnh thù thắng vi diệu, sinh ra chân nguyện, chẳng mất bản tâm.

9. Phụng trì tất cả lời dạy bảo của Như Lai để soi sáng chúng sinh.

10. Vì phát tâm đạo nên tròn đủ các pháp công đức.

Đó là mười pháp đạo mà Bồ-tát hưng phát.

Có mười sự nêu rõ về bậc Chánh sĩ. Những gì là mười?

1. Bồ-tát hiểu rõ về tuệ Phật là cùng một Pháp thân, nên gọi là Khai sĩ.

2. Trụ vững nơi Đại thừa nên gọi là Đại sĩ.

3. Phụng hành pháp tôn quý nên gọi là Tôn nhân.

4. Biết rõ sự thành tựu diệu pháp nên gọi là Thánh sĩ.

5. Nhập tuệ thù thắng nên gọi là Siêu sĩ.

6. Khuyên người khác tinh tấn nên gọi là Thượng nhân.

7. Tuyên thuyết và hoằng truyền pháp thù thắng nên gọi là Vô thượng.

8. Hiểu rõ đầy đủ mười thứ tuệ lực nên gọi là Lực sĩ.

9. Trừ tất cả các che chướng và tối tăm nên gọi là Vô song sĩ (tức là khó ai sánh cùng).

10. Làm chủ được tâm, liền thành tựu Phật đạo nên gọi là Vô tư nghị.

Đó là mười hiệu chánh sĩ của Bồ-tát.

Đường đi của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười? Các Bồ-tát hưng khởi đường Nhất thừa, hơn hẳn không gì sánh bằng, chẳng xả nhất tâm là con đường thứ nhất. Bồ-tát có hạnh, có trí tuệ, phương tiện là đường thứ hai. Lại có đường thứ ba là phụng tu hạnh không, gốc của vô tướng tức không đầu cội, chẳng dựa vào vô nguyện, đi vào ba cõi không chỗ nhiễm ô. Lại có đường thứ bốn là tu hạnh Khai sĩ, giảng thuyết nghiệp vô tận, có thể khuyến trợ tất cả công đức, lễ lạy và phụng kính Đức Như Lai không lười nhác, tùy hỷ Thánh tuệ, khéo tuyên giảng đạo giáo. Thêm đường thứ năm, kiến lập kỹ nơi tín căn đại tinh tấn, trú nơi các hạnh không thoái chuyển, nhất tâm chẳng loạn, khéo biết rõ theo định ý, thường hiểu rõ trí tuệ hành. Tu lục thông lấy làm đường thứ sáu. Vì Thiên nhãn thì thấy các sắc tượng, nhìn thấy thế giới các loài chúng sinh. Nếu có sinh ra và chết đi thì dùng Thiên nhĩ nghe được kinh điển đã giảng nói của chư Phật và liền thọ trì. Tha tâm thông khi thấy các chúng sinh khác là có thể phân biệt, tự rõ tâm mình, cũng nhìn thấy được ý kẻ khác. Gốc ngọn các niệm không thể kể xiết mà được tự tại. Túc mạng thông nghĩ về vô số kiếp xa xưa, gốc đức đã tạo, tùy nghi tấn ích, đều hiểu biết chúng. Đắc đại thần túc thông thì tùy theo gốc chúng sinh mà ứng hóa, thị hiện ngần ấy biến hóa để đem chánh pháp dạy bảo muôn loài. Lậu tận thông là trí tuệ làm tiêu hết các lậu, tự nhìn thấy bản tế, chẳng đoạn tuyệt sự kiến lập hạnh của Bồ-tát. Hành bảy tư niệm là đường thứ bảy của Bồ-tát. Đó là thường nghĩ đến Phật, vì Phật dẫn đường cho tất cả chúng sinh không có bờ bến, Ngài dùng tất cả kinh pháp, khiến họ thấy được liền thọ trì và khuyến hóa người khác tự quy y Phật. Nhớ rõ kinh pháp của Phật, Như Lai Chánh chân, ở trong một đạo tràng mà chưa từng dời chuyển, có mặt khắp tất cả các chúng hội của chư Phật, thị hiện sự thuyết pháp của mình, âm thanh thấu suốt mười phương. Biết được tâm thức và căn cơ của những chúng sinh theo đấy để khai hóa họ. Ý ấy nhớ nghĩ, đã từng ở nơi vô số các Bồ-tát không thoái chuyển, chưa từng xa lìa, đều thấy chúng sinh và thân các Bồ-tát. Thường nghĩ sự bố thí, các Bồ-tát bố thí với tâm bình đẳng, nghĩ đến đại thí, khiến đức thêm lớn. Thường nghĩ đến giới cấm, chẳng bỏ tâm Bồ-tát, đem các gốc đức bố thí cho các chúng sinh. Thường nghĩ đến chư Thiên. Bồ-tát sinh ra tại cõi trời Đâu-suất sẽ là vị Nhất sinh bổ xứ. Nghĩ suy về đức, thường niệm chúng sinh, không gián đoạn. Bồ-tát ấy vào tám Chánh lộ (tám Chánh đạo) là con đường thứ tám. Đó là phụng thờ chánh kiến, bỏ các tà kiến, bỏ các vọng tưởng, các tham cầu. Chánh tư duy xả bỏ phân biệt, thuận theo Nhất thiết trí và các chủng tánh đạo đức. Xả bỏ bốn lỗi của miệng, tuân tu chủng tử Hiền thánh, giảng nói bằng chánh ngữ. Các chốn hành hóa của bản thân là vì chúng sinh mà bố thí, dạy bảo mọi người, không có nghỉ ngơi, lười nhác, chẳng bỏ giới luật chân chánh. Chính nghiệp ấy là giữ vững tự tại, biết đủ chỗ nhàn tịnh. Tu theo đạo đức ấy là trụ nơi uy nghi, lễ tiết, trụ nơi chánh pháp đều không lầm lỗi. Chánh Phương tiện là để các huynh đệ đồng môn, kiến giải quyến thuộc của Bồ-tát không có hao tổn, tuân tu hạnh nơi mười thứ lực của Như Lai. Chánh niệm là đã nghe được âm thanh thì có thể chấp trì, thấy khắp mười phương thế giới của chư Phật, định ý xuyên suốt. Chánh định là tịnh của Bồ-tát không thể nghĩ bàn, lấy làm cửa giải thoát vì luôn thông sáng. Dùng một định ý, phổ biến vô số chính thọ đời trước, chưa từng bỏ định. Đó là con đường của Bồ-tát lìa khỏi dấu vết nguy hại nơi Dục giới. Pháp đã thuyết giảng, miệng đã giảng nói tất cả chỗ vướng mắc của các tưởng và chỗ nhớ nghĩ đều không bị ngăn ngại. Bồ-tát khai hóa chúng sinh, nhập vào Nhất thiết trí, xả bỏ hy vọng, xả bỏ những tham ái, thường muốn thấy nghĩ về tất cả Như Lai với tâm ý hoan hỷ chưa hề biếng trễ. Bồ-tát xả bỏ những nghiệp vui buồn của thế tục, hiển bày sự độ thế của Bồ-tát Thánh hiền, vĩnh viễn an trụ nơi đạo tuệ, rõ tu vô thường, định ý vô sắc. Bồ-tát sinh ở cõi Dục và tại cõi Sắc, chẳng chuyển đổi chỗ nguyên sơ để vượt qua tất cả các tưởng, gặp được âm thanh chính thọ, hạnh Bồ-tát ấy chẳng lấy làm lao nhọc.

Phật tử! Nếu có thể tư duy và làm hưng phát mười lực của Như Lai là con đường hành trì của Bồ-tát. Thường thường có thể hiểu rõ được hữu xứ vô xứ, hữu hạn vô hạn, thấy được các con đường tội phước báo ứng trong quá khứ, vị lai và hiện tại của chúng sinh, biết được tất cả thần thức, các căn, tỏ rõ một cách phân minh, rồi quán sát bản tâm vì họ giảng nói pháp. Phân biệt ngần ấy chủng loại nơi thân tướng khác nhau không thể kể xiết. Nguyện ở trên như vậy thì chính giữa, hoặc chí lại ở dưới. Biết được thân ấy là vô hạn, để vì muôn loài ban tuyên pháp. Các cõi chúng sinh tại ba đời nơi tất cả các cõi, trong vô số kiếp, các thân Bồ-tát đều hiện khắp trong đó. Đức Như Lai chí chân hiện vô tưởng niệm mà không trái bỏ các hạnh Bồ-tát. Các định ý thiền, nhất tâm chánh thọ. Biết được nguyên nhân sinh ra phiền não sân hận, quán sát tới lui, an trú nơi cửa Bồ-tát, nhìn thấy đường sinh tử của các chúng sinh để vì họ nói rõ gốc ngọn. Biết đến các tưởng niệm ba đời, rồi nhập vào một đời. Tỏ rõ phiền não, ngăn ngại, chí tính buộc mở của các chúng sinh, khiến đều tan mất, mà chẳng xả bỏ sự hiển bày hạnh nguyện của Bồ-tát. Đó là mười đường. Bồ-tát an trụ ở đấy thì đều đạt được đạo quyền biến vô thượng của Như Lai.

Đường đi của Bồ-tát vô lượng, đường đến vô hạn, hành đạo thanh tịnh là vô số, không thể kể. Vì sao? Vì Hành đạo vô lượng của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Quán sát hư không thì không thể lường tính.

2. Khoảng giữa của pháp giới hướng về sự huyền nhiệm của chốn huyền nhiệm đều là vô lượng.

3. Chủng loại chúng sinh rất nhiều, không thể kể xiết.

4. Thế giới không bờ bến nên gọi là vô hạn.

5. Các tư tưởng ác cũng lại không đáy.

6. Tất cả ngôn từ của dân chúng cũng không bờ mé.

7. Thân của Đức Như Lai là không thể tính đếm, so sánh.

8. Âm thanh nơi ngôn giáo diễn thuyết của chư Phật cũng không thể tận.

9. Đạo lực của Như Lai là không cùng.

10. Minh tuệ, Thánh đạt của Nhất thiết trí cũng không thể tột cùng.

Đó là mười sự vô lượng của Bồ-tát đạo.

Vì sao? Như hư không vô lượng, tu đạo vô lượng cũng lại như thế. Như sự Huyền diệu của chốn Huyền diệu trong pháp giới phụng hợp nơi đạo vô nghĩa vô lượng cũng như thế. Như cõi chúng sinh rất nhiều, vô tận, Bồ-tát phụng đạo vô tận cũng như thế. Như thế giới ấy không có bờ cõi thì con đường tiến đến đạo cũng như thế. Như những tư tưởng xấu ác không thể kể hết thì việc thuận theo đạo lý để giáo hóa muôn người cũng như thế vậy. Như ngôn từ của dân chúng không có ngằn mé thì sự hợp đạo kia cũng như thế. Nếu nẻo hành hóa của Như Lai không thể tính kể, so sánh thì tất cả muôn loài không có hai nhân, chỗ tư niệm cùng khắp thì đạo hạnh cũng như thế. Nếu âm thanh ngôn giáo của Đức Phật không thể thể kể tận thì việc tu đạo cũng như thế, dùng một lời dạy bảo khắp tất cả loài người trong pháp giới. Nếu diệu lực của Như Lai không thể tận cùng thì sức tinh tấn của Như Lai tu đạo cũng vậy. Như Nhất thiết trí không thể kể hết thì Bồ-tát tích chứa công đức tu đạo cũng vậy. Đó là hành đạo vô lượng của Bồ-tát.

Đường đi của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Không hành, chẳng phải không hành, ứng hợp cũng chẳng phải không ứng hợp. Thân, miệng, tâm ấy là không chỗ kết hợp.

2. Không cất lên, không hạ xuống vì gốc của tuệ ấy vốn tịnh nên khiến thân, miệng, ý ấy cũng vậy.

3. Không phụng hành, chẳng phải không phụng hành, tu cũng chẳng tu hội nhập nơi tự nhiên.

4. Giống như huyễn mộng, như bóng, như tiếng vang, như thân cây chuối, như ánh chớp, như sóng nắng, như trăng trong nước… Rõ được những điều này để không còn một chút ỷ lại, mong cầu.

5. Đạt được ba ấn tâm: Không, Vô tướng, Vô nguyện đều không xứ sở. Vì tưởng kiến ấy mà có ba xứ. Tích lũy công đức ấy, chẳng bỏ hạnh kia.

6. Tâm không sở hữu, không hề thấy, không nói năng, không dạy bảo, lìa khỏi các pháp, các chỗ đi ở.

7. Phụng tu pháp giới, không chỗ hủy hoại, có thể quán biết nơi tất cả pháp.

8. Chẳng làm mất bản tế nơi chân đế của Như Lai. Chân đế ấy thì cùng khắp cõi hư không.

9. Nhập vào các hạnh lực của trí tuệ Bồ-tát, chưa từng mệt mỏi, lười nhác.

10. An trú nơi mười lực của Như Lai, bốn Vô sở úy, Nhất thiết trí tạng, xét các thứ bình đẳng, quán tất cả pháp đều bình đẳng, chẳng bị chìm đắm.

Đó là mười việc nói về đường đi của Bồ-tát.

Hành đạo của Bồ-tát có mười thứ nghiêm tịnh. Những gì là mười? Này Phật tử! Bồ-tát ở tại cõi Dục mà chẳng lay động, lại hiện ra ở cõi Sắc. Nơi ấy, hành dụng của hóa thân Bồ-tát luôn nhất tâm chánh thọ nơi cửa giải thoát. Chỗ sinh ra của Bồ-tát ấy không có phóng dật. Đó là con đường nghiêm tịnh thứ nhất. Lại nữa, này Phật tử! Bồ-tát tự thấy Thanh văn thừa thì dùng tuệ vượt qua nên chẳng rơi vào đấy. Đó là con đường nghiêm tịnh thứ hai. Lại nữa, này Phật tử! Bồ-tát quán biết thừa Duyên giác, hiểu rõ tùy lúc mà hưng khởi đại Bi, đạt được các nguyện lực chẳng hề lười nhác. Đó là con đường nghiêm tịnh thứ ba. Lại nữa, này Phật tử! Bồ-tát Đại sĩ cùng đoàn tháp tùng, các quyến thuộc đông đảo vây quanh, chư Thiên, dân chúng thanh tịnh uy nghiêm tấu lên trăm ngàn âm nhạc, các Ngọc nữ đánh đàn cầm, đàn sắt cũng không kể xiết. Những âm thanh ấy cũng rất thanh trong lành, hòa nhã. Bồ-tát cỡi xe ngựa lớn, hành Thiền định, Tam-muội, chính thọ theo ba cửa giải thoát, đúng như đạo không sai trái. Đó là con đường nghiêm tịnh thứ tư. Lại nữa, này Phật tử! Bồ-tát ở với tất cả chúng sinh ca múa đùa vui, tùy theo hành vi của mọi người mà Bồ-tát thị hiện chung cùng với họ mà luôn giữ đúng như sự nhất tâm định ý lúc ban đầu của mình, chưa từng tán loạn. Đó là con đường nghiêm tịnh thứ năm. Lại nữa, này Phật tử! Bồ-tát đã vượt qua pháp thế tục, đối với các hành nghiệp không hề vướng mắc, chẳng xả bỏ đạo hóa độ, cứu giúp chúng sinh. Đó là con đường tịnh thứ sáu. Lại nữa, này Phật tử! Bồ-tát trụ nơi đạo vì để hiển bày Thánh tuệ, để vào chính đạo, vượt các tà kiến. Bồ-tát ở nơi đường tà, dạy bảo chúng sinh khiến được sự hóa độ, chẳng đồng trần với đường tà. Đó là con đường nghiêm tịnh thứ bảy. Lại nữa, này Phật tử! Thân, miệng, ý của Bồ-tát Đại sĩ không có sai sót, cũng chẳng phải là không hộ trì giới. Bồ-tát luôn nuôi dưỡng giới cấm thanh tịnh của Như Lai, vì các hàng phàm phu mê lầm mà hiển hiện hạnh thanh tịnh, dạy cho kẻ theo giới ác, khiến họ được đầy đủ tịnh phước. Nhờ Bồ-tát nên họ có thể tiêu trừ hết nhân dẫn tới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đến được ba đường lành. Hiện tại, Bồ-tát chẳng hưởng an nhàn cho riêng mình, sinh ra nơi chỗ nhiều hoạn nạn, nghèo cùng thiếu thốn, Bồ-tát phải đến những nơi chỗ ấy chuyên tâm cứu độ chúng sinh. Tuy Bồ-tát hành hóa như vậy nhưng chẳng cấu nhiễm. Đó là con đường nghiêm tịnh thứ tám. Lại nữa, này Phật tử! Việc làm của Bồ-tát không vọng cầu theo người khác, chỉ ở nơi pháp Phật đạt đến vô ngại biện, quán khắp chư Phật đạt được tuệ quang của pháp. Từ các Đức Như Lai đến các loài vô hình, tất cả chư Phật đều là một Pháp thân. Chư Phật vì tất cả chúng sinh mà dẫn dắt, chiếu soi khắp các pháp môn, an trụ nơi các thừa. Chư Phật hiện hành trước mắt mà tất cả muôn người đều không thể lãnh hội được. Mọi loài chúng sinh đều có hình tướng, đến cả loài chưa từng thấy cũng đều hiện hữu khắp. Việc cầu pháp của Bồ-tát chưa từng quên mất. Việc hiện bày các bậc sư trưởng của Bồ-tát cũng được những người thọ giáo cung kính, đều khởi tâm nghinh đón. Nhân vào điều lạ sinh ra, duyên vào điều ấy để nhận lãnh, pháp tu hành kia ở tại chúng sinh. Vì sao? Vì nẻo hành trì, phương tiện quyền xảo của Bồ-tát, chân đế của Khai sĩ đều trụ nơi đạo nghiệp. Bồ-tát khéo dùng phương tiện khiến cho chúng sinh tuân theo luật, giáo, thị hiện đạo quyền biến để khiến họ có chỗ an lập. Đó là con đường nghiêm tịnh thứ chín. Lại nữa, này Phật tử! Bồ-tát tập hợp các gốc đức, đạt được diệu pháp tối thượng, đầy đủ hạnh nơi Nhất sinh bổ xứ của Như Lai. Hành Độ vô cực của Bồ-tát là tôn quý trong các pháp nên luôn đội mão pháp Ly cấu vô lượng, lấy tơ chánh pháp làm đai. Ở mười phương thế giới, hiện vô số thân Như Lai, hoán chuyển không hao tổn, kiến lập bánh xe pháp. Các thân Như Lai ấy hiện hữu cùng khắp tất cả cõi Phật, hội nhập nơi các pháp, một mình bước đi trong ba cõi, cứu độ mọi người đến bờ giác ngộ. Các Bồ-tát ấy thành tựu được mọi tự tại, sinh vào trong mười phương cõi nước. Các Đức Như Lai quá khứ, hiện tại và vị lai đã có thể thị hiện giáo hóa chúng sinh, đều ở trong một cõi Phật, cũng chẳng quên mất các hạnh Bồ-tát, chẳng mê mờ tuệ đạo, chẳng trái với gốc đức ban đầu của Khai sĩ mà bị thoái chuyển. Đi theo dấu vết của Bồ-tát mà chẳng lùi bước, ở nơi hành Đại sĩ chẳng hề lười bỏ, cũng chẳng đoạn tuyệt sự khơi nguồn của bậc Chánh sĩ, cũng chẳng rời bỏ phương tiện quyền xảo, chẳng phế bỏ Thánh nghiệp, chẳng trái với năng lực hiện hành của Bồ-tát, chẳng đem thêm sự nguy hại cho người khác, không xa lìa sự kiến lập của bậc Thánh sĩ. Vì sao? Nếu Bồ-tát ấy mau chóng được đạo Vô thượng Chánh chân như vậy thì không hề có sự đắm trước, quán Nhất thiết trí, biết rõ thể tướng của Như Lai vốn không hình mạo. Đó là con đường nghiêm tịnh thứ mười. Bồ-tát an trụ ở đấy thì mau chóng thành tựu đại đạo Vô thượng của Như Lai.

Này Phật tử! Bồ-tát có mười việc phụng hành. Những gì là mười?

1. Tu theo giới cấm với đại nguyện thù đặc, dần dần sẽ tu trọn đủ là hạnh tinh tấn; mang lại tất cả đạo phẩm chẳng bị thoái chuyển.

2. Noi theo hạnh thần thông, thuận theo ý chí nơi mọi người mà làm cho họ hoan hỷ.

3. Tu theo hạnh thần túc, vào khắp các nước Phật trong mười phương hợp làm một cõi mà chẳng lay động.

4. Chí phụng hành thanh tịnh nên được vào chỗ nhiệm mầu.

5. Thệ nguyện kiên cố thì tất cả việc làm không gì là không thành.

6. Luôn tuân phục, hành trì không thể vượt qua tất cả sứ mệnh của đấng Tôn sư.

7. Cầu nghe kinh điển và hành hóa không hề biết chán mệt.

8. Phụng tu nơi pháp đã ban tuyên của chư Phật nên luôn tinh tấn.

9. Sùng kính Thánh pháp thì đi vào tất cả chúng hội đạo tràng.

10. Dũng mãnh không khiếp nhược nên thành tựu đại hạnh thanh tịnh vô cực, biết rõ tất cả điều không chỗ sinh.

Đó là mười thứ phụng hành của Bồ-tát. Bồ-tát an trụ ở đấy thì có thể đi khắp tất cả cõi Phật trong mười phương không bị ngăn ngại.

Bồ-tát có mười việc về tay. Những gì là mười?

1. Đó là tay thuận tín, tin vào lời dạy của Như Lai, một tâm tin vui không thể cùng tận.

2. Dùng tay cúng dường các Đức Phật Chánh giác, tích lũy thêm đại công đức không biết mệt mỏi.

3. Đó là tay buông xả, khiến cho tất cả kẻ đến cầu xin đều được vui lòng, chỗ mong muốn của họ đều được đầy đủ nên đều tán thán: “Hay thay”.

4. Tay thăm hỏi trước nhất là đưa bàn tay phải ra.

5. Tay khéo học rộng, khéo trừ bỏ tất cả do dự, lưới nghi kết, khiến ba cõi vắng lặng.

6. Bàn tay du hành lớn đối với ái dục, vô thường phải dùng tay lớn để giáo hóa chúng sinh, trao truyền ban phát.

7. Tay an trụ nơi địa, hiểu rõ về bố dòng chảy nơi sinh tử.

8. Bàn tay hành Độ vô cực thâu nhóm tóm chung về nội tạng, phụng trì hạnh bình đẳng là pháp vô sư, hóa độ chúng sinh không khởi tâm độc hại.

9. Tay hóa độ thế gian, giảng thuyết kinh điển, biết rõ về thế tục, nên có thể trừ được tai ương, bệnh tật của thân tâm.

10. Tay trí tuệ báu, tiêu diệt phiền não, hiển hiện vô lượng ánh sáng pháp chói lọi.

Đó là mười việc về tay của Bồ-tát. Bồ-tát dùng bàn tay đạo này rộng che tất cả.

Có mười việc về bụng của Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Đó là bụng gồm đủ chí tánh, ý niệm thanh tịnh hòa hợp.

2. Bụng tàng chứa sự chất trực, không dua nịnh.

3. Bụng chẳng nghĩ cách ngụy trang, không hề vướng mắc.

4. Bụng không có cảnh giới của nhân duyên, chẳng ưa tất cả nghiệp hiện có trừ khử phiền não.

5. Lấy tuệ làm bụng chứa.

6. Tâm ấy thanh tịnh, không có vết nhơ.

7. Bụng quán xét, trừ các đồ ăn, chỉ nghĩ đến chân đế của Phật.

8. Bụng xét rõ vạn vật vốn không, hiểu rõ vốn do mười hai nhân duyên tạo nên.

9. Bụng phân biệt được các nghiệp sinh tử, trừ bỏ được các ngằn mé tà kiến.

10. Bụng Bồ-tát làm cho tất cả chúng sinh nhập vào tạng Phật đạo.

Đó là mười việc về bụng của Bồ-tát.

Bồ-tát lại có mười tạng. Những gì là mười?

1. Chẳng hề làm đoạn dứt, mà luôn phụng hành lời dạy của Phật, trụ ở hạnh Bồ-tát. Do không phóng dật nên được tự tại, hiển bày sự giáo huấn theo pháp ấy là khuôn mẫu của Bồ-tát.

2. Bồ-tát trụ ở Tuệ vô cực, thị hiện ở thế gian, nương theo Thánh chúng là kho chứa của Bồ-tát.

3. Bồ-tát trụ ở không thoái chuyển, chuyển bánh xe pháp, luôn tùy thuận chúng sinh, luôn giữ lấy phần pháp thiện còn lại, ấy là sự tàng chứa của Bồ-tát.

4. Chỗ trụ tùy lúc, chẳng mất đạo hạnh. Chúng sinh ở nơi chẳng hiểu biết, tin tưởng thì khai hóa đầy đủ cho họ, là khuôn mẫu Bồ-tát.

5. Đứng trên sự báo ứng khiến mỗi mỗi được hóa độ khiến đạo pháp không đoạn tuyệt. Chúng sinh theo nẻo tà kiến thì hưng khởi tâm đại Bi nhằm giáo hóa. Đó là thai tạng của Bồ-tát.

6. Hưng khởi ánh sáng vô cực cho đời sau, như mười Lực của Như Lai, phụng tu theo đường báo ứng. Khiến chúng sinh có được hiểu biết đầy đủ. Đó là sự tàng chứa của Bồ-tát.

7. Hàng phục quân ma, gốc đức vô song, đại vô sở úy là tiếng gầm của sư tử, là kho chứa của Bồ-tát.

8. Ở nơi trụ lập, đem lại an lạc cho chúng sinh, khiến họ không còn nghi ngờ, đạt được mười tám pháp của chư Phật. Đó là kho tàng của Bồ-tát.

9. Bồ-tát đều lấy Thánh tuệ dẫn đường tạo lợi ích cho tất cả. Hết thảy chúng sinh trong mười phương cõi nước có pháp của chư Phật đều hết lòng khuyến trợ Phật đạo. Đó là sự tàng trữ của Bồ-tát.

10. Sinh ra ở đâu cũng không sai khác, nhập vào một tuệ.

Đó là mười sự tàng chứa của Bồ-tát.

Có mười việc về tâm nghiệp của Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Đã có thể nghĩ đến hành nghiệp thì tất cả việc làm đều được thành tựu.

2. Không mang tâm khiếp nhược, tích lũy gốc đức, huân tập đầy đủ tướng tốt.

3. Bước đi của tâm Từ là hạnh lớn, hàng phục tất cả các ma và quyến thuộc của chúng.

4. Tùy lúc hành tâm Từ bi, tiêu trừ tất cả phiền não ái dục.

5. Tu hành chẳng thoái chuyển, cũng chẳng thoái thất hạnh từ bi rộng lớn.

6. Đến đạo tràng Phật, làm sáng tỏ gốc tịnh, tâm không chỗ đến, biết rõ hành vô sở trụ.

7. Thương xót và vào khắp cõi chúng sinh, tùy theo sự ưa thích của họ mà giáo hóa.

8. Tu phạm hạnh lớn, chẳng theo dị đạo, cứu độ chúng sinh.

9. Tâm hành pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, đạt đến chỗ vô sở hữu.

10. Trừ bỏ các tà kiến, chẳng lìa ba cõi, trang nghiêm và biến các cõi thành cõi Kim cang kiên cố không hoại. Điều đó khiến tất cả đều thành tựu, làm cho ma chẳng thể lay động được một mảy may đối với chỗ hưng khởi đức hạnh của Bồ-tát.

Đó là mười tâm nghiệp của Bồ-tát.

Có mười việc mặc áo giáp công đức của Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Mặc áo giáp đại Từ để hộ trì chúng sinh, tu từ bi vô cực, nhẫn chịu các khổ.

2. Chí mặc áo giáp thệ nguyện, có thể thông suốt tất cả phương tiện.

3. Mặc áo giáp công đức khuyến trợ nên gần gũi và phụng tu hạnh thanh tịnh của chư Phật.

4. Mặc áo giáp hưng khởi công đức nên khiến các chúng sinh đều nhờ nơi ân ấy.

5. Mặc áo giáp các Độ vô cực để độ chúng sinh.

6. Mặc áo giáp Thánh tuệ nhằm tiêu trừ tất cả phiền não ái dục.

7. Dùng phương tiện quyền xảo, gieo trồng các công đức, dẫn đường tạo lợi ích khắp mọi nơi.

8. Tâm Nhất thiết trí an ổn, không hề loạn động.

9. Áo giáp tâm ý ấy không hề biến đổi.

10. Áo giáp công đức nhất tâm, tức tâm luôn nghĩ về pháp chẳng chút lãng quên.

Đó là áo giáp công đức của Bồ-tát để hàng phục chúng ma.

Gậy của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Dùng gậy bố thí để đập bỏ mọi tham lam keo kiệt.

2. Tu trì giới cấm để loại trừ các sự vi phạm việc ác.

3. Gậy bình đẳng khuyến pháp, tiêu trừ vọng tưởng.

4. Dùng gậy trí tuệ đoạn đứt phiền não ái dục của chúng sinh.

5. Dùng gậy chánh nghĩa để xa lìa các nghề sinh sống trong tối tăm.

6. Dùng gậy phương tiện để tự hiện thân khắp chốn dâm, nộ, si, loạn.

7. Bồ-tát dùng gậy chánh pháp và giáo hóa tiêu trừ tất cả ái dục, tất cả các thứ cấu nhiễm của chúng sinh.

8. Bồ-tát ở tại sinh tử thì dùng tuệ lực để đoạn trừ mọi thứ cấu uế cùng khai hóa muôn loài.

9. Gậy giảng một pháp để phá bỏ tất cả chỗ vướng mắc.

10. Dựa vào cửa Nhất thiết trí để làm tiêu hết các chốn oán nghịch.

Đó là mười gậy của Bồ-tát nắm giữ.

Đầu của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Đầu không kiêu mạn thì trên trời, dưới thế gian không ai có thể thấy tướng đỉnh đầu.

2. Đầu đảnh lễ sư trưởng, hiếu thuận song thân thì trên trời dưới thế gian đều làm lễ.

3. Đầu ưa thích pháp thượng diệu thì cả tam thiên thế giới không đâu là không kính ngưỡng.

4. Lấy các gốc đức làm đầu thì chúng sinh nơi ba cõi đều đến quy mạng.

5. Thay mọi chúng sinh gánh vác việc nặng làm đầu thì thường có thể ngẩng đầu thấy khắp mười phương.

6. Đầu chẳng khinh người khác thì mọi việc làm, bước đi đều vượt hẳn mọi người.

7. Đầu hành trí Độ vô cực thì đỉnh có vua pháp.

8. Đầu theo phương tiện quyền xảo thì thị hiện khắp chúng sinh với hạnh bình đẳng.

9. Đầu dốc hóa độ chúng sinh thì khuyến tấn họ đến chỗ an ổn.

10. Đầu tu các giáo pháp của Như Lai thì thường phụng trì Tam bảo, khiến không đoạn mất. Đó là mười đầu của Bồ-tát.

Mắt của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Đó là dùng nhục nhãn thấy hết các sắc.

2. Dùng Thiên nhãn thấy khắp mọi chốn tư niệm của tâm ý chúng sinh.

3. Dùng trí tuệ nhãn quán căn tánh của chúng sinh.

4. Dùng pháp nhãn thấy hết chỗ quy về của các pháp.

5. Dùng Chánh giác nhãn của Phật thấy hết mười thứ lực của Như Lai.

6. Dùng Thánh tuệ nhãn thấy được việc trừ khử tất cả phi pháp.

7. Dùng ánh sáng nhãn diễn bày uy sáng của chư Phật, soi tỏa khắp nơi.

8. Dùng đạo lợi nhãn ném bỏ tất cả kiêu mạn tự đại.

9. Dùng vô vi nhãn thì sự nhìn thấy không bị ngăn ngại.

10. Dùng Nhất thiết trí nhãn thì nhìn thấy pháp môn khắp mười phương.

Đó là mười việc về mắt của Bồ-tát vậy.

Tai của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Nghe tán thán công đức thì đoạn trừ các chấp trước.

2. Nếu nghe lời hủy báng thì trừ được các cảm thọ.

3. Nếu nghe được việc của hàng Thanh văn, Duyên giác thì chẳng lấy làm vui mừng, chí chẳng cầu đến đó.

4. Nếu nghe tán thán hạnh Bồ-tát thì vui mừng vô lượng, nên đóng kín cửa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Giả sử có nhiều kẻ sinh ra bần cùng, gặp tám ách nạn thì vì họ mà hưng khởi tâm đại Bi.

5. Nghe kẻ sinh ra nơi yên ổn trong cõi người, cõi trời thì khiến họ điều biết về vô thường, chí nguyện ái mộ đại đạo.

6. Nếu nghe nói rộng về công đức của chư Phật thì tăng thêm sự tinh tấn để hoàn thành việc này.

7. Nếu được nghe các Độ vô cực, cùng pháp tạng bốn ân của Bồ-tát, dốc sức tu tập tất cả thì đều có thể thông đạt một cách đầy đủ việc đó.

8. Này Phật tử! Nên biết việc tuyên giảng nghĩa lý của chư Phật trong mười phương thế giới thì các chúng Bồ-tát, các vị Khai sĩ… đều nghe được cả.

9. Những vị đã được nghe thì thông rõ sự vô sở hữu.

10. Lại nữa, Bồ-tát ấy đã nghe được pháp thì nhất định từ lúc mới phát tâm cho đến khi vào đạo tràng, ngồi nơi cội Bồ-đề, thành tựu quả vị Phật, khai hóa chúng sinh chưa từng lười nhác.

Đó là mười việc về tai của Bồ-tát.

Mũi của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Nếu gặp mùi thơm thì chẳng lấy làm ưa thích.

2. Nếu gặp thấy mùi hôi thì chẳng lấy làm chán ghét.

3. Bình đẳng quán sát việc thơm, thối thì chẳng cho là khác biệt.

4. Quán sát hương thơm, mùi thối đều không sở hữu.

5. Đều dùng tâm bình đẳng để tiếp nhận các thứ y phục, ngọa cụ, hương thơm, mùi thối, việc dâm, nộ, si đều đem tâm bình đẳng mà tiếp nhận.

6. Vào cõi chúng sinh này, những kho chứa lớn các hương thơm của cây cối, Bồ-tát đều quán biết được cả, biết không có hương thơm.

7. Dưới đến tận địa ngục Vô Trạch, trên lên đến cõi trời Tam thập tam, tất cả danh hương có được trong những nơi ấy, Bồ-tát đều không tham đắm, đều nói được gốc ngọn của chúng.

8. Được nghe nói rộng về giới cấm của Thanh văn thì Bồ-tát bố thí hương trí tuệ đạo pháp, ngưỡng mộ Nhất thiết trí, tâm chưa từng biến đổi.

9. Giả sử được nhờ các hạnh Bồ-tát thì dùng trí tu hành cá địa Như vị.

10. Nếu đủ tuệ hương của cảnh giới Như Lai thì chẳng đoạn tuyệt đạo hạnh thượng diệu của Bồ-tát.

Đó là mười hương thanh tịnh của Bồ-tát.

Lưỡi Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Miệng diễn nói hạnh của chúng sinh không cùng tận.

2. Ban tuyên các lời dạy nơi kinh điển nhiều vô lượng.

3. Nói rộng về công đức của chư Phật không giới hạn.

4. Ca ngợi về biện tài giải thoát không cùng.

5. Tụng nêu về hành nghiệp của Đại thừa không bờ bến.

6. Lời nói của Bồ-tát ấy vang khắp cõi hư không trong mười phương.

7. Ánh sáng lớn ấy chiếu khắp các cõi Phật.

8. Lời của miệng đã nói ra đều khiến cho mỗi một chúng sinh đều được mở bày tỏ ngộ.

9. Lời cùng với miệng đã giảng nói ấy được chư Phật nơi mười phương cùng khen ngợi.

10. Tất cả chúng ma và thù địch bên ngoài, các thư phiền não nơi sinh tử đều tự nhiên dứt trừ, đạt đến tịch tịnh vô vi.

Đó là mười thứ nêu bày nơi miệng lưỡi của Bồ-tát.

Thân hình của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Đã thọ thân người thì dùng lời nói mà khai hóa họ.

2. Bồ-tát cũng lại dạy bảo, dẫn đường cho các dạng không phải người, như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, khiến chúng tuân theo luật, giáo để được sinh nơi cõi người trời.

3. Lại nữa, dẫn dạy chư Thiên, loài người, cõi trời Dục hành và trời Vô sắc.

4. Ở hàng Hữu học, Bồ-tát đem học địa mà khuyến dụ tiến tới.

5. Hướng về hàng Vô học, vì họ thị hiện các việc không chấp trước của A-la-hán.

6. Ở tại thân Duyên giác, vì họ mà dẫn dắt việc đảm đương phụng trì luật của Duyên giác.

7. Tại hình dáng Bồ-tát thì vì họ hiển bày hành nghiệp của Đại thừa.

8. Trí tuệ của Như Lai chí chân vô hạn, tùy lúc nêu bày.

9. Thấy những kẻ tự đại thì dùng phương tiện khéo léo mà dẫn dắt giáo hóa.

10. Pháp thân vô lậu đều không sở hữu, hiện khắp các thân.

Đó là mười thân của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười ý hành. Những gì là mười?

1. Nghĩ về tất cả nẻo hành hóa, các gốc đức nơi thân mạng của đời trước.

2. Kiến lập các ý ấy, thường phụng trì yếu nghĩa.

3. Tâm đã hội nhập thì chí thường ở nơi Phật đạo.

4. Đến chỗ cùng cực của nguồn cội thì luôn thương xót thân chúng sinh.

5. Nghĩ điều không phiền nhiễu, đoạn trừ các phiền não.

6. Ý ấy hiển sáng nên chẳng cùng với khách trần kết hợp.

7. Chọn nghĩ về hạnh lành nên tùy lúc xem xét mà không trái phạm.

8. Quán sát kỹ tội phước nên chẳng tạo ra lầm lỗi.

9. Nghĩ về các gốc đức nên các căn tịch định, chế ngự được phóng dật.

10. Chí ấy vắng lặng nên cầu được định ý của Phật.

Đó là mười ý hành của Bồ-tát.

Hành bộ của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Ưa đi đến pháp hội để lãnh hội kinh điển.

2. Chỗ đến không âm thanh cũng không che khuất.

3. Chẳng mang tâm dâm, nộ, si, sợ sệt mà luôn tư duy.

4. Có giảng nói giáo pháp đều vì chúng sinh.

5. Đến cõi Dục khai hóa muôn loài.

6. Nếu đến cõi Sắc và Vô sắc thì dùng hình dáng định ý, rồi liền quay trở về, hiện khắp nơi năm đường để dẫn dạy muôn loài.

7. Dùng tuệ thần thông hiện hữu khắp các cõi Phật.

8. Thấy các Đức Như Lai thì đảnh lễ, tham vấn. Chỗ được đi đến đều làm pháp thí, do đó nên được trí tuệ lớn.

9. Hiện nhập Niết-bàn mà chẳng đoạn tuyệt sinh tử.

10. Chỗ độ cùng khắp, pháp của chư Phật đầy đủ, chưa từng bỏ quên các hạnh Bồ-tát.

Đó là mười việc về hành bộ của Bồ-tát. Bồ-tát an trụ ở đấy thì không đi mà chẳng phải là không đi, vì thế Bồ-tát đến khắp các nẻo hành của Như Lai, một mình hành hóa khắp mười phương.

Bồ-tát có mười chỗ an trú. Những gì là mười?

1. Trụ nơi tâm Bồ-tát chưa từng quên.

2. An trụ nơi Độ vô cực, chỗ tu tập chẳng cho là tròn đủ.

3. Tụ tập pháp chúng nên trí tuệ thông đạt.

4. Dừng chân nơi chốn nhàn tĩnh nên đạt đến đại thiền định.

5. Thuận theo Nhất thiết trí, đức biết dừng đủ nơi Hiền thánh tịch tĩnh.

6. Trụ ở vô chúng tưởng, cũng không hy vọng.

7. Phụng hành pháp xứ nên chẳng xa chính nghĩa.

8. Lễ bái theo về với Như Lai nên có thể đạt đầy đủ uy nghi, lễ tiết của chư Phật chính giác.

9. Hiện bày thần thông nên đủ cả đại tuệ thọ ký.

10. Ngồi nơi đạo tràng xứ nên đạt đến sức vô úy, sung mãn tất cả pháp của chư Phật.

Đó là mười xứ an trụ của Bồ-tát.

Chỗ ngồi của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Phước đức của Bồ-tát được đến tòa ngồi của vua chuyển luân.

2. Bồ-tát tu được mười đức thì không mất chỗ trên cõi trời và thế gian loài người, được làm Tứ Thiên vương.

3. Đem pháp tôn quý của Đức Phật trao cho các thiên hạ thì được trở lại làm vua cõi trời.

4. Siêu việt hơn mọi người, hơn cả Phạm thiên, Tự tại, muốn thu giữ tâm người khác cũng được do chính mình.

5. Đạt được tòa Sư tử nên hưng hiển pháp chúng.

6. Được tòa chánh pháp thì đạt thành lực lực Tổng trì, chiếu soi khắp tất cả.

7. Chí ấy kiên cường, đã kiến lập chánh nguyện thì không đâu là không hiện bày khắp, thông đạt mười phương.

8. Dùng tòa ngồi đại Từ thì khiến sân hận, hoài nghi được giải mở.

9. Dùng tòa ngồi đại Bi thì nhẫn chịu được các khổ não, không còn cho là hoạn nạn.

10. Ngồi nơi tòa Kim cang thì hàng phục được các thứ ma và các oán địch bên ngoài.

Đó là mười tòa ngồi của Bồ-tát.

Chỗ nằm ngủ của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Chỗ nằm vắng lặng, thân tâm an nhiên.

2. Chỗ nằm một mình (thiền định), suy nghĩ nơi diệu nghĩa, chẳng mất thời cơ.

3. Chỗ nằm Chánh định, thân tâm vắng lặng.

4. Ở cõi Phạm thiên, có thể làm vui lòng mình, vui lòng kẻ khác.

5. Chỗ nằm nơi nghiệp thiện thì đời sau chẳng mang theo tâm phiền não.

6. Chỗ nằm dốc theo hạnh bình đẳng nên chẳng mang tâm sân hận.

7. Chỗ nằm an trụ đạo hạnh nên biết rõ bạn lành.

8. Sống đời vi diệu, khuyến trợ gốc đức nên đạt được hết tất cả nguồn gốc nghĩa lý.

9. Có thể thành tựu rốt ráo đạo giáo, chẳng cầu tài lợi.

10. Đó mới là đức hạnh nơi chỗ tu tập từ đời trước.

Đó là mười việc nằm ngủ của Bồ-tát.

Nhà Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Nhà Từ vô cực thì tâm bình đẳng cùng với chúng sinh.

2. Dùng hạnh đại Bi thì chẳng khinh chê kẻ chưa học.

3. Dùng hạnh đại Hỷ thì trừ được các việc chẳng vui.

4. Dung mạo vui hòa, hành đại Xả nên bình đẳng với các pháp hữu vi và không chấp nơi sở hữu.

5. Nơi các Độ vô cực lấy tâm đạo làm đầu.

6. Đầy đủ hạnh không, hiểu rõ tùy thời.

7. Hạnh vô tướng chẳng trụ nơi tịch diệt.

8. Là hạnh vô nguyện nên tâm chí thành phát sinh.

9. Hành ý an lạc nên đầy đủ nhẫn nhục.

10. Hạnh bình đẳng nơi các pháp thì nên đạt được thọ ký.

Đó là mười việc nói về nhà của Bồ-tát.

Bồ-tát du hóa đây đó có mười việc. Những gì là mười?

1. Ý ấy du hóa nên đầy đủ bốn Niệm xứ.

2. Chỗ hành du hóa nên tỏ rõ chỗ về của pháp.

3. Ở nơi tâm ý là chỉ vui với chư Phật, các Độ vô cực, đầy đủ Nhất thiết trí.

4. Tu hành bốn Nhiếp pháp, khai hóa chúng sinh.

5. Đi trong sinh tử nên hưng khởi gốc đức.

6. Tập họp muôn loài chẳng huân tập các việc phiền não, tùy theo sự ưa thích của họ mà độ thoát.

7. Hiển hiện hạnh thần thông nên khai ngộ chúng sinh.

8. Giải mở căn cơ đặc biệt bằng phương tiện thiện xảo.

9. Hành theo Trí độ vô cực nên vì mọi người giảng nói pháp, đi tới đạo tràng, đạt đến thông tuệ.

10. Hoàn bị các hạnh Bồ-tát nên sự tu hành chẳng hề đoạn tuyệt.

Đó là mười việc du hóa đây đó của Bồ-tát.

Khi giảng nói xong phần kinh này thì tam thiên thế giới đều chấn động lớn. Bồ-tát khắp trong mười phương đều đến khen ngợi, mang hoa trời nhiều như núi Tu-di mà tung rải lên trên Đức Phật, không ai là không hoan hỷ. Chư Thiên, long, thần đều đến phụng kính. Những thứ nhạc khí chẳng tấu mà tự vang lên, những vòng ngọc trang sức đều tự cất lời, các loài chim bay, thú chạy đều cùng hân hoan. Kẻ mù được nhìn thấy, người điếc được nghe, kẻ què chạy được, người gù lưng được thẳng, kẻ khòm cong được trở lại như trước, người điên được bình thường, kẻ gầy yếu được cường tráng, người bệnh được khỏi… Tất cả chúng hội đều hớn hở, thân tâm đều vui mừng và tự cho: “Túc mạng vốn có phước dày nên mới được thứ ánh sáng này”. Vô số người đạt được pháp không từ đâu đến, phát đại đạo tâm và các công đức đều thành tựu.

QUYỂN 5

Bồ-tát Phổ Trí lại hỏi Bồ-tát Phổ Hiền:

–Sao gọi là quán? Sao gọi là quán sát rộng khắp? Sao gọi là quyền biến? Sao gọi là sư tử hống? Sao gọi là thí tịnh? Sao gọi là giới tịnh? Sao gọi là nhẫn tịnh? Sao gọi là tấn tịnh? Sao gọi là thiền tịnh? Sao gọi là trí tịnh? Sao gọi là từ tịnh? Sao gọi là bi tịnh? Sao gọi là hộ (xả) tịnh? Sao gọi là hộ tịnh? Sao gọi là nghĩa? Sao gọi là pháp? Sao gọi là tích đức? Sao gọi là tuệ nghiệp? Sao gọi là thấu rõ? Sao gọi là cầu pháp? Sao gọi là hành pháp? Sao gọi là phụng pháp? Sao gọi là ma? Sao gọi là ma nghiệp? Sao gọi là thấy Phật? Sao gọi là Phật sự? Sao gọi là tự đại? Sao gọi là Thánh nghiệp? Sao gọi là Bồ-tát bị ma mà giữ chặt? Sao gọi là Phật kiến lập? Sao gọi là pháp kiến lập? Sao gọi là cõi trời Đâu-thuật? Sao gọi là trụ thai? Sao gọi là Bồ-tát hiện bày sự an tường ấy? Sao gọi là tu sinh? Sao gọi là vui cười? Sao gọi là đi bảy bước? Sao gọi là hiện trẻ thơ? Sao gọi là ở trong cung? Sao gọi là bỏ nước lìa ngôi? Sao gọi là siêng khổ hạnh? Sao gọi là đi đến đạo tràng? Sao gọi là ngồi dưới gốc cây? Sao gọi là ngồi nơi gốc cây đạt đến pháp chưa từng có? Sao gọi là hàng phục quân ma? Sao gọi là thành Phật đạo? Sao gọi là chuyển pháp luân? Sao gọi là chuyển pháp thanh bạch?

Sao gọi là Như Lai Chí Chân thủ đại Diệt độ?

Bồ-tát Phổ Hiền đáp lời Bồ-tát Phổ Trí:

–Những câu hỏi thật có nghĩa! Tôi vì tất cả chúng hội một lần nữa trình bày về những nghĩa ấy. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe và khéo ghi nhớ.

Bồ-tát Phổ Trí cùng với đại chúng lắng nghe và thọ giáo.

Bồ-tát Phổ Hiền nói:

–Bồ-tát quán có mười việc. Những gì là mười?

1. Quán chân đế, tạo lập thiện nghiệp.

2. Thấy sắc vi diệu thì đều thông đạt nguồn gốc của chúng.

3. Như xét về việc chết đi và thấy sự sinh ra cũng chẳng tham lam, dựa chấp.

4. Quán khắp chúng hội, thấy được các căn, phân biệt được các chúng để giáo hóa hàng độn căn.

5. Quán xét các pháp nhưng chẳng hủy hoại pháp giới.

6. Thấy các pháp, chứng được Phật nhãn, chứng được trí tuệ Thánh.

7. Tùy lúc thích hợp mà thuyết pháp nhẫn vô sở tùng sinh rốt ráo, thành tựu các pháp của Phật, được địa Không thoái chuyển.

8. Quán trừ các phiền não, những hoạn nạn của ba cõi, và tất cả con đường Thanh văn, Duyên giác.

9. Quán bậc Nhất sinh bổ xứ, ở trong pháp của Đức Phật luôn được tự tại.

10. Hiện pháp an vui khéo giải đạo ý, có thể thị hiện khắp tất cả mười phương.

Đó là mười việc quán của Bồ-tát.

Bồ-tát quán sát rộng khắp lại có mười việc. Những gì là mười?

1. Thấy người đến cầu xin, không khởi tâm độc hại, tùy theo sở nguyện đều nhằm khiến họ vui lòng.

2. Nhìn thấy người phạm giới cấm thì nên kiến lập giới nơi Nhất thiết trí.

3. Thấy các chúng sinh mang ý sân hận thì hiện bày sự nhẫn nhục, đem lòng từ bi của Phật mà khuyên bảo, sách tấn.

4. Thấy kẻ biếng nhác thì dùng hạnh chẳng lìa mà khuyến trợ, khiến họ học theo Đại thừa.

5. Nhìn thấy kẻ lạc tâm thì giáo hóa, kiến lập, chẳng cho bỏ quên giác địa và các thông tuệ sáng suốt.

6. Quán sát người ác, trí chưa từng hủy bỏ các tà kiến thì khiến họ diệt trừ không còn ác kiến.

7. Đem sự quán sát chân chánh của thiện hữu và sở học nơi Như Lai, kiến lập pháp Phật đúng như kinh đã nghe.

8. Quán xét nguồn gốc ấy để tu theo nghĩa vô thượng.

9. Nhìn thấy chúng sinh khổ não, hiển thị đại Bi.

10. Lãnh hội pháp của chư Phật, chứng đạt các thông tuệ sáng tỏ của bậc Chánh giác.

Đó là mười việc quán sát rộng khắp của Bồ-tát.

Bồ-tát quyền biến có mười việc. Những gì là mười?

1. Bồ-tát như voi quý co duỗi, chư Thiên, long, thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hầulặc… tất cả chúng hội không ai bì kịp.

2. Như Long tượng có sức chở lớn, tâm muốn thay cho chúng sinh nên đảm nhận gánh nặng.

3. Như Long vương đùn mây tuôn mưa, bùng chớp sáng lòa, phát ra tiếng sấm chân chánh: Năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, thiền duyệt Tam-muội, tưới nước cam lộ, mưa pháp rải khắp.

4. Như Phượng hoàng vương ẩn hiện, Bồ-tát dứt trừ sạch các thứ vô minh, ngu tối, vào sâu tận cội nguồn, tát khô suối ái dục, cứu độ chúng sinh ra khỏi các chốn uế tạp, độc hại của phiền não, xóa bỏ các tì vết của tâm dục.

5. Như sư tử tiến lui đúng cách. Bồ-tát dùng lưỡi kiếm lìa sợ hãi, lưỡi kiếm đại tuệ…, ở trong đại chúng, hàng phục các học thuyết ngoại đạo.

6. Dũng mãnh quyền biến trừ bỏ các oán địch, ái dục cấu nhiễm, những tối tăm uế tạp như vị đại tướng hàng phục kẻ địch hung dữ.

7. Thánh tuệ quyền biến dứt bỏ năm uẩn, bốn đại, các nhập, mười hai nhân duyên, làm cho chúng chẳng còn hiện hành nêu trí tuệ hiển hiện pháp tôn quý…

8. Tổng trì quyền biến nên tâm ý hội nhập mạnh mẽ. Tất cả đều được nghe liền có thể thọ trì và vì người khác thuyết giảng.

9. Biện tài quyền biến nên ứng cơ luôn thuận hợp, diễn nói vô lượng chương câu, phân biệt, ban tuyên, không hề bị ngăn ngại, có thể tạo mọi an vui cho chúng sinh, không tổn hại gốc ngọn rốt ráo.

10. Như Đức Phật quyền biến ngồi nơi tòa Sư tử thù thắng, hàng phục bọn ma, đầy đủ Phổ Trí và các thông tuệ sáng tỏ. Trong giây lát, nhất tâm ứng bình đẳng, thành tựu trí tuệ, làm Đấng Tối chánh giác; thảy đều sáng rõ, hộ trì và thành tựu đúng như ý nguyện, đạt đến đạo Vô thượng Chánh chân.

Đó là mười việc quyền biến của Bồ-tát.

Tiếng sư tử gầm của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Ta sẽ thành Phật, thành tựu Thánh đạo để gầm vang tiếng đại sư tử.

2. Độ kẻ chưa độ, cứu người chưa được cứu, làm an ổn những kẻ chưa an ổn, đối với bậc vô vi thì khuyến thủ Niết-bàn, thương xót chúng sinh.

3. Lời dạy của Phật, điều ngăn cấm của giới pháp, lời giáo huấn của Thánh chúng thuận theo, chẳng hề trái phạm.

4. Ở chỗ Đức Như Lai luôn dùng thệ nguyện kiên cố làm thanh tịnh các cõi Phật, thông đạt hết thảy.

5. Cẩn thận nơi giới cấm, trừ các đường ác, khiến tất cả đều tiêu sạch. Đó là tiếng gầm sư tử.

6. Ba nghiệp trọn đủ hướng tướng tốt trang nghiêm của Phật, cầu các công đức không cảm thấy chán đủ.

7. Đầy đủ Phật tuệ, mến mộ Thánh minh mà chẳng hề lười nhác, mệt mỏi.

8. Hàng phục quân ma khiến không có việc tổn hại, phụng hạnh Chánh chân, trừ bỏ các nghiệp phiền não.

9. Kiến giải các pháp là không ngã, không nhân, không thọ mạng với ba ấn tâm là Không, Vô tướng, Vô nguyện nên tâm như hư không. Thanh tịnh không cấu uế, tức thời hiểu rõ các kinh điển, có thể chứng được pháp nhẫn vô sở tùng sinh. Đó là tiếng gầm sư tử.

10. Bồ-tát thanh tịnh, rốt ráo tột cùng, hiện uy quang cảm ứng nơi cảnh giới của chư Phật chỉ dạy cho các Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương, rộng nói về chỗ thấy, về việc sinh mà chưa từng sinh. Dùng đại tuệ vô cực, vô hạn để quán kỹ về giác ý. Đã thành đạo quả Vô thượng Chánh chân, dứt mọi chỗ nhận nên rất hoan hỷ. Lại đi bảy bước, nói: “Ta xuất hiện nơi thế gian là bậc tôn quý tối thượng, ta phải trừ diệt sinh lão bệnh tử khổ của chúng sinh”. Hành như lời nói là tiếng gầm sư tử. Đó là mười tiếng sư tử gầm rống của Bồ-tát.

Thí thanh tịnh của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Bình đẳng bố thí cho chúng sinh, tâm không thiên lệch bè nhóm.

2. Tùy theo sự ưa thích của mỗi người mà bố thí cho họ.

3. Đầy đủ các nguyện, bố thí chẳng dứt bỏ tâm bi.

4. Bố thí hợp lúc vì rõ được chỗ gốc ngọn của mọi người.

5. Không cầu nên bố thí tức lìa khỏi sự ngưng trệ.

6. Giỏi thi hành bố thí nên đều xả bỏ chỗ ái kiến trong tâm.

7. Bố thí chẳng tiếc tất cả sở hữu trong ngoài, nên luôn yêu thích.

8. Thanh tịnh rốt ráo đối với vật ban cho.

9. Đã bố thí nên khuyến trợ Phật đạo, bỏ đi hữu vi mà thí vô vi. Khai hóa những kẻ đó nên chỗ bố thí và người bố thí khiến đều đạt đến chỗ rốt ráo thông suốt, thành tựu đạo tràng.

10. Bố thí thanh tịnh ba nghiệp nên nghĩ đến các pháp: Người bố thí, kẻ thọ thí, chỗ bố thí đều bình đẳng như hư không.

Đó là mười việc tịnh thí của Bồ-tát. Nếu an trụ ở đấy thì Bồ-tát chứng được đại thí Vô thượng của Như Lai.

Giới thanh tịnh của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Thân hành thanh tịnh thì hộ trì được cả ba việc của thân.

2. Miệng nói lời thanh tịnh nên trừ bỏ được bốn lỗi lầm của miệng.

3. Xả bỏ ba sự cấu uế của tâm thì không sân hận, si mê.

4. Nuôi dưỡng giới cấm nên tất cả không phạm.

5. Thấy kẻ có lỗi thì tùy thời tạo mọi an tâm cho họ.

6. Tiêu trừ tham dục, dứt bỏ sân hận, ngu si, tối tăm nên đức ấy chiếu sáng từ trên trời đến thế gian.

7. Giữ gìn tâm đạo, vui nghĩ nơi Đại thừa, phụng thờ các Đức Như Lai, dốc học theo Thánh giáo.

8. Thuận theo luật cấm, giữ giới tĩnh lặng nên trừ được các lỗi lầm, tai ương của chúng sinh.

9. Xa lìa các ác, thuận theo các gốc đức, đoạn tuyệt các tà kiến.

10. Không vì giới cấm mà sinh tâm tự đại, phải an ủi dưỡng dục muôn loài, tuân theo lực đại Bi.

Đó là mười giới thanh tịnh của Bồ-tát.

Nhẫn tịnh của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Nếu có người mắng nhiếc còn thêm lời thô ác thì lặng thinh không đáp lại. Đó là nhẫn thanh tịnh, cũng là hộ trì chúng sinh.

2. Nếu họ dùng gạch đá quăng ném, dao gậy đánh thân, nên nhẫn chịu chẳng đáp lại tức đã hộ trì được người và mình vậy.

3. Nếu có kẻ giận dữ đối với mình thì vẫn thương xót họ vì bản tính không hại.

4. Nếu có người khinh chê mà chẳng hề thì chẳng hề khởi tâm ác, đồng thời còn sáng suốt nhận lãnh.

5. Nếu có kẻ thuận theo về nên có thể chấp thuận cho họ.

6. Thà mất thân mạng chứ không trái bỏ pháp nhẫn.

7. Dứt bỏ tự đại, chẳng khinh kẻ chưa học, chẳng tham thân mình, xem như hư không.

8. Quán nhẫn như huyễn, hướng về việc ác nơi các cõi, tâm chẳng mang ác hại, không có tư tưởng ta, người.

9. Thuận theo phiền não để tiêu trừ các độc hại.

10. Các tuệ của Bồ-tát, từ nơi nhẫn nhục nhu hòa, hưng hiển, diệt hết tất cả các pháp xấu ác. Những cảnh giới thông tuệ, phàm nhân không biết ngưỡng mộ.

Đó là mười pháp nhẫn thanh tịnh của Bồ-tát.

Tinh tấn thanh tịnh của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Thân tu hành tinh tấn thanh tịnh, cung kính tự quy về các Bồ-tát đó là chúng Hiền thánh tịch định theo Phật.

2. Miệng nói về diệu lực của tinh tấn. Nghe được điều nên giảng thông suốt của các Như Lai tức đều nhớ nghĩ, thọ trì. Khen ngợi công đức của chư Phật, đem điều đúng như pháp đã nghe vì các chúng sinh giảng nói, không cho là mệt nhọc.

3. Tâm niệm trong sạch, Từ, Bi, Hỷ, Xả, Thiền định giải thoát, định ý chính thọ, chẳng bỏ phương tiện, chí không khiếp nhược.

4. Thường tu tinh tấn, chẳng mang tâm dua nịnh, tiến đến hạnh thanh tịnh, tâm ý chân chất ngay thẳng, các chỗ nên làm phải hành trì thuận hợp.

5. Chí tính siêng năng, hòa nhã, chỗ đi đến thường biểu hiện sự siêu vượt.

6. Tuệ ấy tăng dần, các pháp thanh tịnh đều tỏ rõ ánh sáng. Không ngăn cấm, chẳng hư dối, bố thí điều phục tâm, biết rõ, từ hòa, giới lãnh hội thí ban cho vĩnh viễn không phóng dật, điều đã lãnh thọ thì chẳng phế bỏ.

7. Thường đến nơi Phật thọ hàng phục ma oán, đó là tinh tấn thanh tịnh.

8. Đoạn trừ dâm, nộ, si, ái dục, trần lao, các chấp trước tà kiến, ấm cái ngăn ngại, thành tựu ánh sáng tuệ, thường tư duy kỹ, chứng được tâm thiện sáng tỏ, chẳng gắn với phiền não, chỗ tạo nghiệp đã hết, nên có thể đạt được pháp không ứng chẳng ứng của chư Phật. Đó là siêng tu hành.

9. Tâm đã lãnh nhẫn thì luôn luôn hoan hỷ; thân, miệng, tâm bình đẳng trong cái nhìn và không nhìn, quán sát rõ ràng, nhận biết pháp giới khắp trùm tùy theo chỗ nhận biết ấy tạo sự thuận hợp, thành tựu được chỗ thấu tỏ về pháp.

10. Dùng sự dũng mãnh, từ hòa để vượt qua các trụ địa. Ưa thích lời nói của chư Phật, hiểu được thân Phật không có các lậu. Hiện đến nhập thai, sinh ra cõi tục, bỏ nước bỏ ngôi, thành đấng

Tối chánh giác, chuyển pháp luân, thị hiện đại diệt độ và đầy đủ hạnh Phổ hiền.

Đó là mười tinh tấn thanh tịnh của Bồ-tát.

Bồ-tát thiền tịnh có mười việc. Những gì là mười?

1. Thường muốn xuất gia, chí giữ một tâm thì đó là thanh tịnh.

2. Bỏ tất cả tham, gặp được bạn lành, đúng thời đạt đến tịch tĩnh, bình đẳng nhận biết rõ đạo.

3. Quen ở nơi vắng lặng, tu hạnh thanh khiết, chẳng chấp nơi ta người, cũng không dấy khởi ham thích.

4. Trừ các ngủ nghỉ, từ bỏ mọi thứ náo loạn, ưa thích tĩnh lặng.

5. Tâm tinh tấn tu tập, giữ gìn các căn.

6. Trí tuệ nhất tâm, chẳng vì sự ngăn che trở ngại của mọi hiểm nguy và của những kẻ hung ác, dua nịnh.

7. Đường đạo giác ngộ luôn ứng hợp tự tại.

8. Tất cả chỗ tu đều dùng tuệ quán sát, luôn tạo sự nhất tâm, dùng phương tiện hội nhập thế gian, đi vào dục giới, có chỗ phát khởi, hiện bày thần thông.

9. Phân biệt các căn của chúng sinh để khiến cho họ nhập vào nẻo giác ngộ.

10. Ưa sự thanh đạm, vô sở hữu, đạt đến định ý của Đức Phật.

Đó là mười thiền tịnh của Bồ-tát.

Bồ-tát trí tịnh lại có mười việc. Những gì là mười việc?

1. Dùng trí tuệ thanh tịnh hiểu rõ báo ứng, chẳng mong cầu phước báo, hóa độ tất cả.

2. Thâu tỏ những điều mắt thấy, thường giữ tâm an hòa, chẳng tranh tụng; biết rõ chỗ không đoạn tuyệt mà cũng chẳng cho là thường còn.

3. Vào với nhân duyên, tùy theo tuệ chân đế, bỏ các tà kiến, thu giữ chúng sinh chưa từng rời bỏ.

4. Nhìn thấy tâm niệm nẻo hạnh của muôn loài, quán xét trần cảnh giống như huyễn hóa, đem biện tài đại tuệ vào với Thánh minh là trí tuệ thanh tịnh.

5. Phân biệt chương câu, các điều giảng nói không chướng ngại, xa lìa tất cả ma, các dị học của ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác, nhập vào tuệ phương tiện của các Đức Như Lai.

6. Thấy chư Phật thanh tịnh nên chúng sinh thanh tịnh.

7. Nhìn các pháp vắng lặng, quán sát các cõi tự nhiên như hư không.

8. Trí tuệ sạch trong rộng khắp, hội nhập vào trí này thì đạt được tướng vô vi, chứng đắc Tổng trì, biện tài giảng nói thông suốt.

9. Trụ ở quyền phương tiện, nói các độ vô cực, chỗ có thể bước đi thì vượt hẳn mọi người; luôn giữ lấy nhất tâm, thấu tỏ được các pháp.

10. Trí tuệ như Kim cương, chẳng mang tâm sân hận, không tư tưởng sợ hãi là trí tuệ thanh tịnh, là đỉnh trí tuệ của các pháp Thánh.

Đó là mười trí tuệ thanh tịnh của Bồ-tát.

Đại Từ thanh tịnh của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Từ bi bình đẳng với chúng sinh, tâm thanh tịnh vô hạn.

2. Thường hành tâm bi, vì mọi người thể hiện sự gánh vác cứu giúp.

3. Nuôi dưỡng vỗ về, đem thân từ hòa hộ trì.

4. Ra sức cứu độ mọi khổ nơi sinh, lão, bệnh, tử của chúng sinh.

5. Chẳng bỏ hữu tình, hưng khởi các gốc đức.

6. Hành hóa theo tâm nhân từ, giải thoát, có thể đoạn trừ hết mọi phiền não, ái dục của chúng sinh.

7. Chẳng quên ý đạo, dẫn dắt chúng sinh nhập vào thông tuệ, không hại muôn dân.

8. Bày khắp ánh sáng bình đẳng, phổ biến tâm Từ như hư không.

9. Hộ trì tất cả, tuân tu tâm Bi.

10. Giáo hóa đúng theo hạnh từ theo chân đế vô lậu, nhờ đó được nhập vào cảnh giới tịch nhiên của Bồ-tát.

Đó là mười từ tịnh của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười đại Bi thanh tịnh. Những gì là mười?

1. Bồ-tát đại Bi rộng lớn vì thân mình, luôn hiện tâm bi không chán.

2. Gặp các khổ não, chẳng cho là trở ngại ràng buộc. Thương xót chúng sinh nơi các đường ác, nơi tám nạn khổ.

3. Giả sử sinh vào các chốn đó thì Bồ-tát gắng sức cứu độ, nếu sinh vào cõi trời, người thì Bồ-tát hưng khởi tâm đại Bi thanh tịnh, tuyên giảng pháp vô thường.

4. Thương xót đến tất cả chúng sinh rơi vào tà kiến, nên ở trong vô số kiếp, luôn mặc lấy áo giáp đức, chẳng bỏ rơi kẻ chưa được độ.

5. An định, không thoái chuyển, khuyên dẫn chúng sinh khiến họ đạt được an ổn lớn.

6. Hành nghiệp đầy đủ tâm không vọng cầu.

7. Tâm từ thanh tịnh của mình thương xót đến những người điên đảo, ở đời vô trí, khiến họ xa lánh mọi chấp trước, giảng nói pháp đúng thời. Tất cả các pháp vốn thanh tịnh, tự nhiên, đều hư dối không thật, vì sự cấu nhiễm của các khách trần phiền não.

8. Bồ-tát biết thế nên đối với chúng sinh hưng khởi đại Bi, khiến cho người không thanh tịnh luôn đạt được chốn thanh tịnh.

9. Bồ-tát hiển hiện ánh sáng vô cấu, vì họ giảng nói pháp, phân biệt các pháp. Cũng như dấu chim bay giữa hư không, chúng sinh đối với tất cả kinh nghĩa này, tối tăm nên chẳng hiểu được.

10. Bồ-tát vì vậy hưng khởi tâm đại Bi vì họ thị hiện đại tuệ, hiện rõ con đường giải thoát theo chân đế.

Đó là mười đại Bi thanh tịnh của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc hoan hỷ thanh tịnh. Những gì là mười?

1. Vui vẻ phát đại tâm, lấy hoan hỷ làm thanh tịnh.

2. Đem tất cả sở hữu bố thí mà chẳng tham tiếc, không điều bức não, chẳng hề khiếp nhược.

3. Chỉ dạy kẻ phá giới, chúng sinh có hành vi ác đều có thể nhẫn chịu vì thông tỏ các nguyện.

4. Hành dụng được nghĩa kinh nên chẳng tiếc thân mạng, chẳng dấy khởi phiền não. Đó là hoan hỷ thanh tịnh.

5. Dứt trừ phiền não, vui nơi pháp lạc, lìa bỏ tất cả các thứ vui tham dục.

6. Hiển bày cho chúng sinh yếu nghĩa của kinh điển, khiến họ xả bỏ tham cầu, lợi dưỡng.

7. Thấy Phật không chán, luôn phụng kính, tự quy y nơi pháp an lành là niềm vui thanh tịnh.

8. Dùng thiền nhất tâm, đến với cửa giải thoát, đạt định ý chánh thọ nên hoan hỷ.

9. Lại dùng pháp này khai hóa người khác đạt được tĩnh lặng từ hòa.

10. Thiền không sân hận lấy tuệ làm tối thượng, bỏ các tà kiến, đủ hạnh Bồ-tát là hỷ tịnh.

Đó là mười hỷ thanh tịnh của Bồ-tát.

Xả thanh tịnh của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Tất cả chúng sinh tham vui trong hữu vi, Bồ-tát giáo hóa khiến họ đến với vô vi. Đó là xả tịnh.

2. Gốc tịnh, ở tại pháp vô dục, Bồ-tát hội nhập thế gian, thấy kẻ chẳng phải pháp khí, cũng không khởi tâm nguy hại, thấy kẻ pháp khí thì dùng phương tiện để hiển hiện.

3. Chí cầu nơi pháp thanh tịnh, chẳng ái mộ việc của hàng Thanh văn, Duyên giác, hàng Hữu học, Vô học.

4. Chẳng tham tất cả vui thích của ái dục.

5. Ở nơi nghiệp phiền não mà tâm luôn chuyên tinh tại kinh điển.

6. Không chán bỏ sinh tử theo như hàng Thanh văn, Duyên giác.

7. Chẳng trụ nơi thế gian, chẳng ưa sự bàn luận của thế tục, ngôn từ nguy hại đến kẻ khác, chẳng lìa bỏ pháp tùy thời.

8. Thanh văn, Duyên giác dùng lời nói làm loạn mất Bồ-tát đạo thì chẳng cùng họ đồng hành. Bồ-tát luôn hóa độ chúng sinh đúng theo sức giải thoát của mình, dứt hẳn các nhập nơi bốn đại tịch diệt.

9. Đối với người không biết pháp, Bồ-tát ứng thời quán xét. Vì Bồ-tát đã từng hiện việc hóa độ muôn người ấy địa Như Lai.

10. Chỗ quán của Bồ-tát, do rời khỏi hai ấy, không mất đi, không phơi bày, chẳng cất lên, chẳng hạ xuống, nên lìa được nhiều nỗi lo ngại của vọng tưởng, thường được tịch định ở pháp chân đế, chứng được pháp nhẫn.

Đó là mười xả thanh tịnh của Bồ-tát.

Nghĩa lý của Bồ-tát có mười việc. Những gì là mười?

1. Như kẻ nghe pháp lấy gì làm cốt yếu để hiểu rõ nghĩa pháp, kẻ ấy phải thấu giải được nghĩa không, nên biết mọi việc vốn không.

2. Phân biệt các pháp, tu theo nghĩa tịch tĩnh.

3. Vì sống thanh đạm an nhiên nên rõ được sự không sở hữu.

4. Chẳng trụ chấp nơi các âm thanh.

5. Làm đúng nơi chân đế, bình đẳng với ba đời.

6. Nhập vào pháp vị bình đẳng của pháp giới.

7. Diệu nghĩa vốn không ấy là chỗ quy hướng của Như Lai.

8. Thấu rõ bản tế của chân đế.

9. Rõ nghĩa của đại diệt độ là đoạn trừ khổ nạn.

10. Tu hạnh Bồ-tát, trừ bỏ các thọ. Đó là mười nghĩa lý của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười pháp. Những gì là mười?

1. Bồ-tát tu pháp chí thành thì nói và làm tương ưng, không ham tranh tụng.

2. Từ bỏ tất cả các mọi tham cầu, tranh tụng.

3. Tiêu trừ lửa dục nơi thế gian. Đó là sự vắng lặng của Bồ-tát.

4. Lìa các phiền não, bỏ hẳn tham dục.

5. Diệt các ái kết cấu uế, không nên nhớ nghĩ.

6. Nhập vào pháp vị bình đẳng của pháp giới.

7. Không pháp sinh khởi bình đẳng như hư không.

8. Tu tập pháp vô vi, buông bỏ các nhân duyên sinh khởi liên tục.

9. Đã thấu được bản tịnh, rõ pháp tự nhiên, không bị nhiễm ô.

10. Đoạn tất cả bệnh, đến được pháp diệt độ, hưng khởi hạnh Bồ-tát và nắm giữ để hành trì.

Đó là mười pháp của Bồ-tát.

Bồ-tát tích đức lại có mười việc. Những gì là mười?

1. Nếu có thể khuyên người phát tâm Bồ-tát là tích lũy công đức, chẳng khiến đoạn tuyệt Tam bảo, khuyên nơi mười việc, thuận theo phước hạnh.

2. Từ bỏ tất cả các pháp bất thiện, tu theo kinh điển Chánh chân, hưng hiển trí tuệ, đó là phước của Bồ-tát.

3. Bồ-tát ấy ở ba cõi không ai bì kịp, huân tu công đức không chán, dốc cứu độ tất cả chúng sinh, mọi thứ sở hữu bên trong lẫn bên ngoài đều có thể ban cho. Đó là xả bỏ tất cả nghiệp tham cầu.

4. Đầy đủ tướng tốt, tu đại tinh tấn, chẳng hề thoái chuyển, cắt đứt tâm ý gây tổn hại mọi khổ nạn ràng buộc, luôn nghĩ đến cái gốc đức thượng, trung và hạ và nên khuyến trợ Phật đạo.

5. Dùng quyền phương tiện, thọ nhận lời dạy thanh tịnh, bỏ các tà kiến, tu các gốc đức nên luôn khởi đại Bi.

6. Thị hiện hạnh của bậc Chánh sĩ, một mình bước đi, phụng kính quy mạng theo các Đấng Như Lai, thấy các Bồ-tát thì cung kính như Phật.

7. Đem an ổn cho muôn loài với sự hộ trì kiên cố, tích lũy công đức trong vô số kiếp đều là tạo gốc đức.

8. Đạo ở nơi thân mình, xem như trong lòng bàn tay.

9. Bố thí cho một người rồi khai hóa họ, chẳng mang tâm lo buồn cũng chẳng hối hận. Đối với tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, trước bố thí, sau đấy mới khai hóa.

10. Tập hợp các gốc đức, điều phục tâm ý, thấy đạo như thấy lòng bàn tay, chẳng mang tâm sầu lo, hối hận.

Đó là chí nguyện quảng đại của Bồ-tát, chí nguyện ấy như hư không, tích lũy được mười đức, nhập vào với đại trí rộng lớn vô cực.

Bồ-tát có mười tuệ nghiệp. Những gì là mười?

1. Lấy sự học rộng làm Thiện tri thức, cùng với bạn ấy như bóng theo hình, tôn kính, thọ nhận, hầu cận, trao truyền giáo pháp thì dốc tâm phụng trì không chút phiền muộn.

2. Dứt bỏ tự đại, khiêm tốn thuận hợp, thân hạ thấp, lời nhún nhường, không ương ngạnh, không nóng nảy. Chẳng thô ác, giới cấm đúng đắn, tâm ý nhu hòa, dung mạo vui vẻ, lìa mọi hư dối, hỏi han bậc tiền bối, tính hạnh chân chất không mang tâm dua nịnh.

3. Lấy tuệ làm sự nghiệp, làm ứng khí cho mình, tính ý hòa nhã, hiểu rõ mọi nẻo hướng cầu. Tâm ấy chẳng loạn, trụ vào hổ thẹn, phụng trì sáu tư niệm, hiển thị sáu chữ gốc là Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Tịch, Trí. Thuận theo sáu pháp kiên cố nên chẳng thoái chuyển, nhập vào mười tuệ giải.

4. Thường cầu nghĩa pháp, ưa pháp, thích pháp, kính mộ chánh pháp, chỗ nghe không chán. Xả bỏ mọi đàm luận của thế tục nên chẳng đồng hành. Lìa bỏ lời nói dung tục, giảng đạo độ thế, không hướng nơi Tiểu thừa, ý chí ở tại sự vi diệu của Đại thừa.

5. Tâm niệm không có việc khác, chỉ cầu sáu

Độ vô cực, dốc tu bốn phạm hạnh. Tập quen với pháp Nhu thuận làm sáng tỏ hành thông tuệ, học hỏi hiểu biết, lìa các đường tà, dẫn về đường chánh, đem điều suy nghĩ trong tâm ra để ban tuyên, điều phục tâm mình, hộ trì tâm người khác. Đó là tuệ nghiệp.

6. Phụng tu hạnh chính yếu thường muốn xuất gia. Tuy du hành khắp ba cõi, nhưng lại ưa tịch tĩnh, luôn tự quán sát tâm ý, chẳng khởi niệm ác, tiêu trừ ba ác nơi thân, khẩu, ý. Quán xét rốt ráo việc tự nhiên, làm thanh tịnh tâm mình và tâm kẻ khác.

7. Quán thấy năm ấm giống như huyễn hóa; xét thấy tứ bốn đại giống như rắn độc; nhìn rõ các nhập suy hoại cũng như làng xóm trống vắng, ảo hóa, dợn nắng, bóng nước, mộng, ảnh, tiếng vang trong núi, như hình dáng trong gương, như vẽ vào hư không, như bánh xe vô dạng. Dùng những điều ấy làm ví dụ để nói về gốc ngọn của tất cả các pháp không thể nắm bắt được, không so sánh được. Như bóng mặt trời không thường, không đoạn, không lai khứ, tất cả các pháp đều không có trụ xứ. Do quán sát các pháp nên nhập vào hành nghiệp vi diệu, sau đấy mới tin. Tức Bồ-tát hiểu rõ muôn vật vừa sinh liền diệt. Đó là tuệ nghiệp thứ bảy.

8. Vào tất cả pháp, lãnh hội tất cả pháp là vô ngã, vô nhân, vô thọ, vô mạng, không tâm nghĩ xét, không dâm, nộ, si, thân không sở hữu, cũng không quán nghiệp, không cấu không sinh, không huân tập sắc, không có ăn mặc, tu tập đến chỗ vô vi. Đã nghe như vậy thì hoan hỷ tin theo, chẳng hề hồ nghi. Đó là tuệ nghiệp thứ tám.

9. Tin hiểu đầy đủ, tinh tấn tùy thời, các căn tịch định, quán việc an nhiên. Ở nơi tất cả niệm không tạo không biết, thật không hình bóng, không ngã, không nhân cũng không chỗ hành. Chẳng trụ vào sự tham thân, văn tự rốt ráo, không có suy hoại, không chỗ đạt nhẫn, không tinh tấn, không biếng trễ, không đôi, không chiếc. Thân, miệng, tâm không chỗ cốt yếu tinh tấn tu hành. Đối với tất cả pháp và chúng sinh đều dùng tâm bình đẳng, đều không chỗ trụ, chẳng ở cõi này, chẳng sang bờ kia, lìa khỏi đây kia, không hành, chẳng hành tức đã noi theo tuệ tạo tác nghĩ suy đó. Đây là tuệ nghiệp thứ chín.

10. Qua được nỗi lo nơi các tưởng vọng nên thấy các nhân duyên, nhìn rõ các pháp là nghiệp thanh tịnh. Thấy các bậc Chánh giác, quán sự an nhiên nên thấy các pháp giới là hoàn toàn thanh tịnh. Thấy các bậc Chánh giác nên quán sát chúng sinh và các cõi nước là rất thanh tịnh. Thấy các cõi thanh tịnh như hư không, quán sự an nhiên, thấy rõ các pháp giới nên tuệ hoàn toàn thanh tịnh.

Nhìn thấy các Thánh tuệ và pháp đều thanh tịnh.

Đó là mười tuệ nghiệp.

Bồ-tát hưng khởi thần thông có mười việc.

Những gì là mười?

1. Giỏi nắm giữ pháp Phật nên hưng khởi sự thông đạt.

2. Lấy tinh tấn rốt ráo làm nghĩa đạo.

3. Lìa các tà kiến, tức được sáng tỏ nên các căn thông tỏ.

4. Lấy việc tu bình đẳng, tinh tấn làm chánh giải.

5. Khuyến trợ Thánh tuệ nhập vào sự nghiệp.

6. Hưng khởi hết trí tuệ, trừ được tội lỗi của phiền não.

7. Trí tuệ tuyển chọn phát khởi Thiên nhãn minh.

8. Do đời trước vốn thanh tịnh nên biết chỗ du hóa thuở xưa.

9. Tu các thần thông, quán sát căn nguyên của chúng sinh.

10. Dứt hết tất cả các lậu nên chính tuệ phát khởi.

Đó là Bồ-tát hưng khởi việc thần thông.

Bồ-tát cầu pháp có mười việc. Những gì là mười?

1. Tuy cầu các pháp mà không chỗ ái mộ, xả bỏ các thứ dua nịnh nên dùng tinh tấn cầu pháp.

2. Chí xa rời thế tục, dùng ý không chấp trước nên an vui nơi các pháp.

3. Chẳng tham thân mạng, trừ bỏ tất cả các nạn nơi phiền não nên ưa thích đạo pháp.

4. Chẳng mê hoặc theo ý niệm lợi dưỡng nên luôn vì mình và vì người khác.

5. Thương xót muôn loài nên yêu chuộng kinh điển chứ chẳng riêng vì mình.

6. Sở dĩ cầu pháp là muốn nhập vào cõi trí tuệ.

7. Chẳng trụ chấp nơi pháp mà luôn hành trì dẫn dắt.

8. Ái kính pháp, chẳng lấy thái độ đùa giỡn mà khinh dễ pháp.

9. Thương xót chúng sinh nên cầu pháp nghĩa. Không bỏ tâm đạo vì muốn diệt trừ các hồ nghi của chúng sinh nên cầu đạt nghĩa kinh.

10. Vì muốn trừ bỏ do dự nên cầu Phật đạo. Vì muốn hành hóa tròn đủ nên cầu kinh điển, không thích thừa khác.

Đó là mười sự cầu pháp của Bồ-tát.

Bồ-tát hành pháp có mười việc. Những gì là mười?

1. Giáo hóa các kẻ ngu tối, chí tâm ân cần hội nhập nơi các gốc đức.

2. Niềm tin không chỗ hoại, vượt mọi ngăn ngại, hiểu được các pháp tự nhiên.

3. Dốc tâm hành dụng theo yếu nghĩa.

4. Trụ ở kinh điển, phụng theo đạo tuệ chẳng lìa khỏi nghĩa.

5. Tuân theo đạo tuệ, lấy pháp làm niệm, vượt khỏi tám tà địa, vào tám chính lộ, thuận theo tám bậc, đoạn dứt các lưới kết sử, cắt đứt dòng chảy sinh tử, thị hiện nghĩa Chân đế, ngược dòng mà vượt qua, đó gọi là Tu-đà-hoàn.

6. Chẳng tự phóng túng bình đẳng với người khác, không tỏ vẻ bề ngoài, chỗ qua lại thường tu tập công đức.

7. Hành hóa qua lại, chẳng ưa ba cõi, nên ngay lúc ấy sinh ra chẳng mang tâm chìm đắm. Hành theo các bậc lậu tận vì chẳng còn trở lại.

8. Hiện sáu thần thông, ưa tám cửa giải thoát. Vì gốc Tam-muội mà tu Chánh thọ làm chiếc thuyền cho bản thân, giảng nói bốn Biện tài là không chỗ chấp trước.

9. Do ưa nhất phẩm, vào duyên khởi, vui với hành nghiệp, lấy tịch tĩnh làm gốc nên không tư, không tưởng.

10. Nhập vào quả vị của mình, tự nghe hành tuệ, chỉ tu thần thông là Duyên giác. Tâm chí vi diệu, ưa vào cảnh giới sáng suốt, tâm thường nghĩ nhằm độ thoát chúng sinh, tích nghiệp công đức nơi mười lực, bốn vô úy, đầy đủ tất cả đạo nghiệp của chư Phật.

Đó là mười việc hành pháp của Bồ-tát.

Bồ-tát phụng pháp có mười việc. Những gì là mười?

1. Phụng kính bạn lành là hành pháp.

2. Chư Thiên khuyến trợ là hành pháp.

3. Thường nghe lời dạy của chư Phật, Thế Tôn là hành pháp.

4. Thương xót chúng sinh, chẳng đoạn tuyệt sinh tử là hành pháp.

5. Có khả năng siêng tu đạo nghiệp rốt ráo, chẳng ôm tâm kết hận là hành pháp.

6. Vì các đồng học, người tu Đại thừa, khuyến họ tu hành theo hạnh tinh tấn của Bồ-tát là hành pháp.

7. Tuân tu theo nghĩa đúng, bỏ các tà nghiệp là hành pháp.

8. Hàng phục tất cả ma nơi trần dục là hành pháp.

9. Trụ ở Thánh giác, thấy được căn cơ của chúng sinh, vì họ giảng nói kinh là hành pháp.

10. Tu sửa đạo nghiệp rộng lớn không lường, chẳng bỏ ý đạo là hành pháp.

Đó là mười việc phụng hành pháp của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười thứ ma. Những gì là mười?

1. Dựa vào thân ma mà chấp nơi năm ấm là chỗ đạt được của ma trần dục.

2. Cũng là sự che ngăn của tội ma.

3. Tự dấy khởi ý niệm chính là tâm ma.

4. Tử ma là từ bỏ nơi chốn sinh ra.

5. Thiên ma là các tưởng vọng nghĩ nhiều về hạnh phóng dật.

6. Ma bỏ gốc đức là theo người tối tăm, chấp trước.

7. Ma loạn định ý là ái mộ nhiều dục lạc.

8. Ma tựa như thiện hữu vì hình dáng bên ngoài như thật.

9. Ma khiến người chẳng tu theo gốc đạo tuệ.

10. Ma lìa khỏi chính nguyện.

Đó là mười thứ ma của Bồ-tát.

Ma nghiệp của Bồ-tát lại có mười việc. Những gì là mười?

1. Trái với tâm Bồ-tát, bỏ các gốc đức, tâm bố thí thiên lệch.

2. Thấy kẻ phạm giới mà mang sân hận, tuy xa các oán thù, tránh được tâm loạn, nhưng theo các tà trí bỏ chỗ hành của Pháp sư không khuyến trợ pháp khí.

3. Nếu giảng nói kinh điển thì chỉ ca ngợi chuyện ăn mặc, chuyên hủy hoại pháp khí mà lại tỏ ra mệt nhọc chán bỏ các pháp Độ vô cực.

4. Nếu lại được chỉ dạy theo chánh pháp thì chỉ nghe mà chẳng phụng hành, bỏ qua lời dạy bảo nhã nhặn, tâm biếng trễ khiếp nhược không tinh tấn, chẳng thuận theo đạo giáo.

5. Tâm mang các tưởng, quen theo các bạn xấu, xa lánh bạn tốt, ưa thích Thanh văn, Duyên giác.

6. Nơi chỗ sinh ra, có người ưa lìa ái dục, tâm họ vắng lặng còn chí mình thì chán hạnh Bồ-tát, bài bác họ, tìm tòi chỗ xấu tốt của người khác, muốn dứt bỏ lợi dưỡng của họ.

7. Mắt ác nhìn thầy, phỉ báng chánh pháp, ngay cả kinh chưa được nghe nay mới nghe được cũng chê bai. Biết Pháp sư khác có điều giảng thuyết cũng chẳng chịu lãnh hội, khinh mạn, đùa giỡn, khen mình nói xấu người, ái mộ những lời tạp ngôn, văn vẻ của đời, tô điểm lời nói, phô trương kiến thức.

8. Thích nghe cái việc của hàng Thanh văn, Duyên giác. Giảng nói dạy bảo thì che đi lấp nghĩa thâm diệu chỉ xiển dương phần văn từ trau chuốt tạp nhạp, không phải là ứng khí.

9. Nếu nghe giảng nói pháp sâu xa thì chẳng chịu thọ lãnh, chẳng cầu Phật đạo, trái lại trụ ở đường tà, vượt các độ giải thoát, tập quen điều chẳng tốt, xả bỏ những việc an lành, ưa chuộng điều sai trái: Quy mạng tà vạy, chưa tỏ, chưa độ, chẳng tu điều thiện, chẳng theo chân lý tâm niệm tự đại không biết khiêm tốn.

10. Nói ra điều gì liền tự cho là cao xa hàm súc, nghĩ điều hại chúng sinh, chẳng cầu đạo tuệ, chẳng nuôi chí tĩnh lặng, thường mang tâm hủy hoại chính luật tu hành, tức là ma nghiệp.

Đó là mười nghiệp của Bồ-tát. Bồ-tát phải dứt bỏ việc ma để cầu Phật đạo.

Bồ-tát có mười việc trừ bỏ việc ma. Những gì là mười?

1. Thân cận cùng với bạn lành.

2. Xả bỏ các tự đại, bỏ các thứ ác hại, tự gây thương tổn thân mình, không tạo việc tổn hại.

3. Tin pháp thâm diệu của Phật, chưa từng hủy báng.

4. Tâm chẳng hề lìa bỏ chánh giáo.

5. Cầu đạt Nhất thiết phổ trí, tinh tấn tu tập hành không phóng dật.

6. Tu hành hạnh Bồ-tát, trụ ở pháp tạng.

7. Cầu học nơi tất cả kinh điển, chẳng chán bỏ sự hiểu biết rộng sâu.

8. Thường tư niệm các Đức Như Lai ở mười phương để hộ trì mình.

9. Nghĩ khắp nên đạt được ý sáng, tin vui nên phát huy nẻo thiện.

10. Ở nơi công đức, Bồ-tát lấy đó làm bạn bè, không có hai hạnh.

Đó là mười việc dứt bỏ ma nghiệp của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc thấy đạo của chư Phật.

Những gì là mười?

1. Phật trụ ở đời, không chỗ nương dựa.

2. Thành Tối chánh giác, kiến lập các Thánh giáo.

3. Chính nghiệp dẫn dắt, tin vui nơi chư Phật.

4. Điều diễn nói về báo ứng, giáo hóa quay về.

5. Công đức uy thần hiện rõ nên vào nơi chư Phật tâm dứt mọi tự đại.

6. Bình đẳng tiến đến tất cả pháp giới của chư Phật.

7. Tâm thường nghĩ tới sự phụng kính các bậc Thánh Hiền.

8. Dùng định ý của Đức Phật để không có phóng dật cũng không chấp trước.

9. Thấu rõ về Phật là rõ gốc tịnh.

10. Như sự giác ngộ của tâm, tâm ấy rộng lớn. Đó là mười việc thấy đạo nơi chư Phật của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc hành hóa Phật sự. Những gì là mười?

1. Tùy thời khuyên người làm Phật sự, tu tập bình đẳng nên được tùy ý sinh ra.

2. Ở trong giấc ngủ mơ thấy bậc Chánh giác là sự dẫn dụ tiến lên của gốc đức nơi đời trước. Chưa nghe được kinh mà niệm luôn nhớ nghĩ nên chẳng nghi Phật sự.

3. Bỏ tâm tham lam keo kiệt, xa lìa tâm Thanh văn, Duyên giác. Lại cũng trừ bỏ các hành vi phạm giới, sân hận, loạn ý, ác trí, các tâm chấp trước, do dự, chìm đắm, đùa cợt, tự đại.

4. Tướng tốt trang nghiêm của Như Lai là nhờ sự tu tập hành trì từ đời trước nên trừ sạch các nghi ngờ và các pháp tưởng ngăn che. Đối với Phật sự chẳng mang tâm do dự.

5. Nghe giảng nói kinh điển, tu theo pháp đã lãnh hội nên có thể thọ trì, có thể chứng được Thánh tuệ.

6. Hưng hiển thần thông khuyến hóa chúng sinh tạo lợi ích không lường. Đó là đạo nghiệp thứ sáu của chư Phật hoàn toàn thanh tịnh.

7. Giả sử việc ma dấy khởi thì dùng phương tiện thiện xảo tu trì hạnh chánh. Nếu lo ngại việc ma thì nương nơi âm thanh diễn nói pháp để khai hóa, liền kiến giải được đạo pháp. Giả sử người nghe tăng thêm tinh tấn, đó là Phật sự thứ bảy, vì tâm ý rộng lớn.

8. Lại nữa, sự hộ trì tâm nghịch, cũng hộ trì việc chẳng theo pháp Thanh văn, Duyên giác. Chế ngự các căn chưa thuần thục nên chẳng trao pháp giải thoát. Đời trước đã tạo đạo nguyện nơi chư Phật nên nay phụng hành. Tùy thuận sinh tử để dứt trừ các lậu. Nếu ở các hạnh tập hợp, nắm giữ thì hiển bày đại Bi, thành tựu các hạnh ấy, khiến hợp với vô vi. Đó là Phật sự thứ tám, chẳng theo hạnh đoạn.

9. Này Phật tử! Muốn biết chỗ lìa diệt độ ấy thì mình và chúng sinh phải đạt rõ về lý không người mà chẳng sợ hãi, cầu đạt gốc của trí đức. Lúc mới phát tâm, luôn đối với tuệ không chán, tạo mọi hưng phát cho thân mình và muôn vật nên tất cả các tướng không lìa điều này. Thấy sắc tướng các hạnh đã lìa tham chấp của Phật nên chẳng dựa chấp vào các pháp chí cầu vô vị. Làm thanh tịnh cõi Phật, hiểu rõ các tướng như cõi hư không, khai hóa chúng sinh, chẳng cho nhọc nhằn, cũng không lìa bỏ tướng vô ngã.

10. Thần thông biến hóa nơi pháp giới chẳng hề lay động, cũng lại không lìa việc hưng hiển của Bồ-tát. Dùng các ánh sáng của thông tuệ chiếu soi, chuyển pháp luân đem lại an lạc cho chúng sinh. Bồ-tát cũng không vượt ngoài lý vô sở hữu, thị hiện sự kiến lập, biến hóa của Như Lai, không lìa sự thị hiện đại diệt độ của Bồ-tát. Dứt bỏ các ác, nơi sinh ra đều hiện khắp năm đường. Này Phật tử! Như vậy dùng cái hạnh tịch nhiên ấy là phụng tu các pháp.

Đó là mười việc hưng hiển các Phật sự của Bồ-tát.

Bồ-tát tự đại có mười việc. Những gì là mười?

1. Khinh mạn nơi Thánh giáo, Thánh chúng cao tuổi, những hiền Thánh tôn trưởng. Chẳng hiếu với cha mẹ, với Sa-môn, Phạm chí tu hạnh bình đẳng, chẳng hành cung kính theo điều dạy bảo chân chánh.

2. Hành nghiệp, chỗ tư niệm của tâm không thuận theo Pháp sư là người hành tôn pháp, giảng nói diệu pháp, hành theo Đại thừa đi theo dấu đạo. Biết cách khiêm tốn mà chẳng khiêm tốn, cúi đầu lễ kính mà lại kiêu mạn buông lung, chẳng vâng lời dạy của thầy, chẳng chịu lắng nghe, cũng chẳng chịu tư duy.

3. Pháp sư giảng thuyết pháp mầu nơi chúng hội thì không khen ngợi bằng lời “Hay thay” khiến mọi người không khởi tâm ác kính. Người đó tâm khởi tự đại, tự hiển bày công lao của mình, che lấp đức người khác và chỉ kể về mình, sinh ra nhiều ý niệm khinh miệt.

4. Đã mang tâm tự đại là ta biết, ta hiểu, chê bai người có đức. Đối với người tu hành thanh tịnh, luôn nói đến lỗi lầm của họ, chưa từng khen ngợi đạo nghĩa công đức, nếu thấy có người ngợi khen họ thì khởi tâm sầu não.

5. Đã biết nghĩa pháp, luật giáo như thế, lời Phật dạy chí thành đáng tôn kính, nhưng lại chẳng vui mừng, ghét bỏ kẻ học, hủy hoại kinh pháp, chê bai điển tịch chân chánh, thọ nhận lấy nghĩa khác.

6. Cầu đạt chỗ ngồi cao, tìm kiếm sở đoản nơi kinh pháp, muốn được ái mộ nên tìm sự tôn kính của người khác. Thấy những bậc tôn trưởng, những người tu phạm hạnh thì không đứng dậy nghênh đón, cúi đầu làm lễ.

7. Nếu thấy người sáng suốt thì sắc mặt sầu thảm, dung mạo chẳng vui, chẳng diễn nói lời đẹp đẽ, thường mang tâm xấu ác, buông thả kiêu mạn, chẳng chịu đi đến với chánh nghĩa.

8. Nếu đến chỗ bậc minh trí thì chẳng chịu thuận theo, không khiêm cung, kính thuận, chẳng chịu thăm hỏi mà thọ nhận nghĩa kinh. Chẳng biết thiện bất thiện là gì, phải tu theo nghĩa lý nào để được an ổn lâu dài và chẳng gặp các hoạn nạn. Cùng với hàng ngu muội ngày càng hướng vào chỗ tối tăm thì sự che khuất của ngu si ngày càng thêm nhiều. Do lẩn thẩn nên bày ra thái độ chẳng kính thuận và tự hại mình, vì lẩn thẩn ngu mê nên mang tâm tự đại.

9. Do cao ngạo nên lìa khỏi lời dạy, làm hao tổn hết những gốc đức nơi đời trước, chẳng tạo thêm được phước mới. Tuổi trẻ càng muốn khiến mọi người phải khuất phục, nói điều chẳng nên nói, cử động hung, hèn, rất ưa tranh cãi, hủy báng kẻ trí. Bị đuổi ra khỏi Tinh xá mà tự phóng túng nên rơi vào chốn hiểm ác.

10. Lại nữa, đối với đạo tâm, với năng lực chân chánh thì kiêu mạn tự hào, cho mình là ở phần vị tôn quý. Do đó, trong trăm ngàn kiếp chẳng gặp Phật, huống là được gặp để nghe kinh pháp.

Đó là mười việc tự đại của Bồ-tát. Bồ-tát dứt trừ hết các thứ tự đại đó thì liền chứng đắc mười tuệ.

Tuệ nghiệp của Bồ-tát lại có mười việc. Những gì là mười?

1. Chỗ tạo sự nghiệp thì nắm giữ nghĩa Thánh.

2. Biết rõ phước quả không hề hủy hoại, tâm quen niệm đạo, thường biết niệm Phật.

3. Học theo bạn tốt, khiêm cung, tùy thuận, phụng kính với họ; thừa sự bậc tôn trưởng, tinh tấn tu tuệ.

4. Chí cầu đạo pháp, không lúc nào là không dốc cầu pháp, ưa thích học rộng, không biết chán đủ, tư duy tùy thuận. Luôn nghĩ đến việc siêng năng tu hành, không nên có ý niệm từ bỏ sự tinh tấn ấy.

5. Thấy các chúng sinh chẳng khởi tâm khinh mạn. Thấy các Bồ-tát thì xem họ như Đức Phật. Yêu pháp như yêu mình, phụng kính Như Lai như yêu thân mạng mình. Dốc tâm quy ngưỡng các Đức Phật.

6. Thân, miệng, ý luôn cẩn thận không để cho sai phạm. Miệng giảng nói điều gì, trước tiên thì chớ gây lỗi lầm nơi khẩu nghiệp. Quy mạng với Thánh minh, chẳng xa Phật đạo. Tinh tu tuệ nghiệp, mười hai duyên khởi chưa từng tranh loạn. 7. Bỏ các tà kiến, bứng rễ cây vô minh, diệt trừ ám muội, chứng đắc ánh sáng trí tuệ của các pháp.

8. Khuyến thuận mười môn hồi hướng, dẫn dụ tiến lên. Trí Độ vô cực thì xem như mẹ, phương tiện thiện xảo thì xem như cha. Nhập vào đạo nghiệp của Phật, chí tính tuệ giải.

9. Học rộng, trì giới, thích vắng lặng, chí chứa tuệ đức, chẳng lấy làm nhọc nhằn.

10. Chỗ giảng nói của Đức Phật trừ bỏ các ma, các tội lỗi của phiền não, đoạn trừ ấm cái, tất cả ngăn ngại, khai hóa chúng sinh, thuận theo giáo pháp, tinh chuyên hành pháp, làm thanh tịnh các cõi Phật, thần thông tam đạt hiện ở trước mặt.

Đó là mười tuệ nghiệp của Bồ-tát.

Bồ-tát có mười việc bị ma trói buộc. Những gì là mười?

1. Nếu Bồ-tát tâm ý khiếp nhược thì ma được thuận lợi.

2. Tâm ấy nhiều niệm, bối rối vội vàng, tính chẳng an hòa nên bị ma vây chặt.

3. Nhiều vọng cầu không chán là sự loạn động của ma.

4. Tự chuyên trì một pháp cứ cho là đúng tức bị ma vây chặt.

5. Chẳng thể ân cần hưng hiển chánh nguyện.

6. Là sự mê hoặc của dục, sự ràng buộc của phiền não.

7. Chí chẳng vắng lặng, chán lìa cùng khắp.

8. Muốn đoạn sinh tử thì bị ma kéo lại, chẳng thể tinh tấn tu đạo mà còn bị thoái lui.

9. Chẳng chịu khai hóa tất cả chúng sinh chỉ tự hộ trì mình, chẳng nghĩ đến chúng sinh khổ nạn.

10. Hồ nghi kinh điển, hủy báng chánh pháp, chẳng chịu tuân theo.

Đó là mười việc kiến lập của ma.

Bồ-tát có mười việc kiến lập của Phật. Những gì là mười?

1. Từ lúc mới phát tâm là được sự hộ trì của Phật.

2. Đời đời sinh ra chẳng quên ý đạo.

3. Biết rõ ma sự nên có thể hàng phục chúng, khiến chúng phải lùi bước.

4. Giả sử được nghe các pháp Độ vô cực, thì tâm ý được sáng suốt, nghe rồi liền phụng hành.

5. Biết rõ các khổ của sinh tử, tuy biết là khổ nhưng chẳng cho là mệt nhọc.

6. Quán pháp sâu mầu, chẳng cầu chứng quả.

7. Vì hàng Thanh văn, Duyên giác giảng nói kinh pháp, chẳng theo điều khéo nói của hàng Hữu học.

8. Quán sát tự nhiên theo nghĩa không sở hữu, chẳng trụ vô vi, đối với hữu vi và vô vi chẳng nghĩ có hai.

9. Chỗ Phật hộ trì, vì chẳng xa vời mà mang tâm lo lắng nên đi vào các thông tuệ của bậc Nhất thiết trí.

10. Theo hạnh Bồ-tát hiển bày tự tại, cũng không khiến đoạn mất.

Đó là mười chỗ kiến lập của Phật cho Bồ-tát.

Bồ-tát lại có mười việc kiến lập pháp. Những gì là mười?

1. Nhằm nhận biết tất cả vạn vật vô thường là kiến lập pháp.

2. Tất cả các pháp đều là khổ não.

3. Lại nữa, các pháp đều là không ta, người.

4. Niết-bàn vắng lặng, vĩnh viễn không xứ sở.

5. Đối với các pháp đều theo duyên mà chuyển đổi. Nhận nơi hư giả mà thoái thất, chẳng thuận theo sự huân tập thì hợp với mười hai duyên khởi, từ vô minh đến lão bệnh tử.

6. Trừ niệm bất thuận thì trừ được vô minh. Vô minh đã trừ thì sinh, lão, bệnh, tử đều trừ diệt vĩnh viễn vậy.

7. Đủ ba cửa giải thoát thì thành tựu quả vị Thanh văn, dựa vào chốn tĩnh lặng thì sinh pháp Duyên giác.

8. Có sáu Độ vô cực, bốn đẳng tâm, bốn ân thì hưng phát Đại thừa.

9. Tỏ được mười phương cõi, phân biệt các pháp, rõ được chúng sinh, đi vào các tuệ minh, không gì là chẳng thông suốt đó là cảnh giới của pháp.

10. Trừ bỏ các niệm, đoạn dứt các thọ, vào với tự nhiên thì từ quá khứ đến vị lai đều là nghĩa giải thoát. Đó là chỗ pháp kiến lập của Bồ-tát.

Bồ-tát ở cõi trời Đâu-thuật lại có mười việc. Những gì là mười?

Bồ-tát ở cõi Dục, vì các Thiên tử nói về sự bức bách của các ái dục. Đối với kẻ tự buông lung thì thị hiện các việc vô thường. Đối với những người có những thành tựu nơi hội hợp thì nói về pháp biệt ly, khuyên phát tâm đạo. Đó là lời dạy bảo đầu tiên ở cõi trời Đâu-thuật.

Bồ-tát ở tại cõi Sắc, vì các Thiên tử giảng nói các môn giải thoát môn Tam-muội Chánh thọ, không chỗ hưng khởi. Nếu họ tu Thiền định có ngăn ngại vì phát sinh ái niệm, phân biệt về phiền não, lý giải đúng như chân đế, rồi sau đó tiêu trừ tất cả các sắc, trụ nơi điên đảo. Những người chẳng hiểu biết, suy niệm về phần tịnh cho là thường tồn, thì đều không tham đắm, vì chúng sẽ về với nghiệp vô thường biệt ly, nhân đây khuyên họ phát tâm đạo. Đó là việc thứ hai.

Lại nữa, này Tộc tánh tử! Khi Bồ-tát ở tại cõi trời Đâu-thuật dùng Tam-muội Tịnh quang tự hành chính họ, thân phát ra ánh sáng tỏa khắp cả tam thiên thế giới. Tùy theo căn tánh của chúng sinh mà hóa độ, diễn nói bao nhiêu giáo pháp với hàng trăm loại âm thanh khác nhau. Nếu chúng sinh được nghe âm thanh kinh pháp ấy thì tâm họ an nhiên nên được thông hiểu, nên đều được sinh lên cõi trời Đâu-thuật. Vừa được sinh lên cõi trời, tức thời Bồ-tát khuyên họ phát khởi tâm đạo. Đó là việc thứ ba.

Khi ở cõi trời Đâu-thuật, Bồ-tát dùng đạo nhãn của hàng Bồ-tát không bị ngăn ngại, nhìn thấy hết các Bồ-tát trong mười phương cõi nước Phật, đều ở tại cõi Đâu-thuật. Thấy họ rồi liền triệu tập đại pháp hội, hiển bày sự biến hóa vô cực, hiện rõ việc nhập thai, lại thị hiện các việc sinh ra, bỏ nước, lìa ngôi vua, tu hành đi đến bên gốc cây Bồ-đề, trang nghiêm đạo tràng, giảng nói về sự tạo lập hạnh của đời trước. Nhờ bản hạnh từ đời trước khiến được vào đại tuệ vô cực. Bồ-tát chẳng rời khỏi chỗ hiện tại mà lại hiện khắp với vô số hóa thân để khai hóa quần sinh. Đó là việc thứ tư.

Khi Bồ-tát ở tại cõi trời Đâu-thuật thì các Bồ-tát ở cõi trời Đâu-thuật trong mười phương đều đến diện kiến, khiêm cung, thuận hợp. Lúc ấy, Bồ-tát đều làm cho họ vui mừng, khiến sở nguyện của họ đều được trọn đủ. Diễn nói đại pháp, tùy theo chỗ hành trì đã an lập của các Bồ-tát đáng phải trừ bỏ, hoặc cần phải phụng hành hay nên làm sáng tỏ mà vì họ giảng nói pháp. Nghe được những điều thuyết giảng chư vị đều hết sức vui mừng rồi đều trở về cõi trời Đâu-thuật của mình. Đó là việc thứ năm.

Khi ở tại cõi trời Đâu-thuật, Bồ-tát thấy ma

Ba-tuần, buông thả nơi tham dục, với rất đông kẻ tùy tùng, cùng đến vây quanh, muốn làm loạn Bồ-tát. Bồ-tát liền trụ ở đạo tràng Kim cương lý tích, với trí Độ vô cực, nắm lấy phương tiện quyền xảo dùng đầu mặt đạo tuệ để hàng phục các ma, tâm đầy nhân hòa, giới cấm vắng lặng. Dùng uy thần ấy để kiến lập, hợp đúng tình huống mà giảng nói pháp, khiến cho ma Ba-tuần chẳng được thuận lợi mà nhiễu loạn. Thấy được sự hiển hiện của Bồ-tát, chúng đều phát ý đạo Vô thượng Chánh chân. Đó là việc thứ sáu.

Khi ở tại cõi trời Đâu-thuật, Bồ-tát biết các chúng người, trời chán lìa dục giới, chí cầu pháp hội, nên khiến cho các cung điện ở trong dục giới tự nhiên phát ra âm thanh nói rõ: Hôm nay đức Bồ-tát sẽ hiện làm người trong cung. Như có ai nhìn thấy thì tự sinh ý muốn mà cùng chung lĩnh hội. Vừa nghe được âm thanh ấy thì có vô số ức trăm ngàn chư Thiên đều đến tập hợp. Lúc đó, Bồ-tát hiện ra các cung nhân xinh đẹp khác thường, thế gian ít có. Các Thiên tử này từ xưa đến nay chưa từng nghe, thấy. Họ thấy rồi thì rất vui mừng, nhìn không biết chán, không cảm thấy đủ. Họ đều tấu lên kỹ nhạc. Nhân nơi kỹ nhạc này mà có âm thanh pháp diễn nói: “Tất cả vạn vật đều trở về vô thường. Điều nhìn thấy của mắt đều là gốc khổ. Các pháp vô ngã, không thân, không thọ mạng, đều sẽ về với không. Vô vi là an lành, phụng hạnh

Bồ-tát sẽ được đến với Phật, đủ các thông tuệ”.

Chư Thiên đến hội, nghe được pháp âm này đều khởi tâm suy xét chẳng ưa tham dục, đều phát tâm đạo. Đó là việc thứ bảy.

Như khi ở tại cõi trời Đâu-thuật, Bồ-tát chẳng biến mất hình tướng của mình mà còn hiện ra nơi vô số cõi Phật trong khắp mười phương, nhiều không kể xiết. Các Bồ-tát đi đến chỗ các Đức Như Lai, cúi đầu làm lễ, nghe giảng nói pháp, nhìn thấy các Đức Phật. Các Đức Phật liền vì các Bồ-tát ban tuyên quả vị Nhất sinh bổ xứ. Vì từ bản tế, Bồ-tát đi đến cảnh giới thông tuệ, trụ vào đạo Bồ-tát, khiến nhập vào tất cả nghĩa đạo, đầy đủ Phổ trí vô cực. Trong lúc phát tâm thì chư Thiên đều được hiểu rõ. Đó là việc thứ tám.

Lúc Bồ-tát ở cõi trời Đâu-thuật, do từ oai thần mà có sự phụng trì pháp Phật, gọi là Hảo Thù Đặc, Bồ-tát dùng oai thần ấy mà đi đến khắp cõi nước của chư Phật trong mười phương, cúng dường các Như Lai vô lượng thanh tịnh, giảng nói không thể kể xiết, hiện ra các pháp giới, quy về cõi hư không. Chư Thiên, muôn dân thấy sự cúng dường này thì số người nhiều không thể kể hết đều phát ý đạo Vô thượng Chánh chân. Đó là việc thứ chín.

Lúc ở tại cõi trời Đâu-thuật, Bồ-tát nhập vào vô lượng các pháp đạo thuận hợp, phát ra ánh sáng trí tuệ, hiện ra ngần ấy hình sắc ở thế giới của chư Phật trong mười phương, nhiều không thể lường tính. Bồ-tát hiện ra các uy nghi, lễ tiết vô hạn, nhưng mỗi mỗi đều khác biệt. Tùy lúc hành dụng, vì chúng sinh mà phân biệt, giảng nói ngần ấy thứ pháp, phân tách, dạy bảo tùy theo tâm niệm của chúng sinh, đều khiến họ thấu đạt được bản hạnh và chí nguyện. Đó là việc thứ mười. Như vậy là Bồ-tát ở tại cõi trời Đâu-thuật hiện bày mười việc, sau đó mới thị hiện sinh ở nhân gian.

Bồ-tát biến mất ở trời Đâu-thuật cũng có mười việc. Những gì là mười? Ngay khi Bồ-tát ở tại cung trời Đâu-thuật, có ánh sáng tên là An Ổn thanh tịnh. Ánh sáng ấy phát ra từ dưới bàn chân của Bồ tát đều là đại ánh sáng tỏa chiếu đến cả tam thiên thế giới. Nơi đường ác, những kẻ gặp nạn ở ba đường dữ những chúng sinh gặp nguy ách ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh qua lại liên tục, nhưng vừa thấy ánh sáng này thì đều nhận được an lành, dứt các khổ hoạn. Vừa được an ổn thì tâm họ tự nghĩ: “Này các Hiền giả! Có bậc dị nhân đến thế giới này, ở trong tối tăm nhìn thấy ánh sáng.” Họ nhìn thấy nhau vừa mừng, vừa sợ. Đây là Bồ-tát thị hiện việc xả bỏ cõi trời Đâu-thuật. Đó là việc thứ nhất.

Lại nữa, ở tại cõi trời Đâu-thuật Bồ-tát có ánh sáng tên là Khuyến Trợ, từ khoảng giữa chân mày của Bồ-tát phóng ra soi khắp cả tam thiên thế giới, chiếu sáng các chốn hành hóa từ đời trước của Bồ-tát. Vừa diễn ra ánh sáng này, soi chiếu một ngàn cõi, thì việc thỉnh cầu Bồ-tát vừa xong. Lúc đó, đức hạnh của Bồ-tát đã tròn đủ, xả bỏ cõi trời Đâuthuật. Chư Thiên, long, thần tất cả cùng đến cúng dường Bồ-tát, thảy đều vui mừng và đều phát ý đạo. Đó là việc thứ hai.

Khi Bồ-tát ở tại cõi trời Đâu-thuật có ánh sáng tên là Tịnh Giới, phát xuất từ tay phải của Bồ-tát. Ánh sáng này lại diễn ra soi khắp cả tam thiên thế giới khiến các hàng Duyên giác ở các cõi ấy đều thành tựu nghiêm tịnh, không còn các lậu. Tức thời ánh sáng ấy dời sang nước khác, những vị ở đó nếu chẳng dời theo thì liền xả bỏ thọ mạng và vào Bát-niết-bàn. Các ngoại đạo dị học, phái lõa hình lộ thể mê hoặc nơi kiến chấp điên đảo cùng các loài chúng sinh cũng đều thấy ánh sáng kia dời đi, đặt ở phương khác. Thấy có sự dời đi ấy, là do thánh chỉ của Như Lai, cũng là khiến cho chúng sinh nhờ vào nhân duyên này nên thấy có sự khai hóa. Đó là việc thứ ba.

Lúc ở cõi trời Đâu-thuật, Bồ-tát có ánh sáng tên là Ly cấu hiển diệu, phát xuất từ thân của Bồ-tát, phóng ra ánh sáng ấy, soi xuống các cõi trời, rồi mới lên đến trời hai mươi tư là A-ca-nị-trá. Ở cung trời Đâu-thuật, các Thiên tử… mỗi mỗi đều tâm niệm: “Hôm nay đức Bồ-tát bỏ cõi trời Đâuthuật”. Họ đều lo rầu, mỗi người đều cầm lấy hương hoa, hương đủ mùi, bột thơm, long báu lụa năm màu, cờ phướn… tấu lên âm nhạc, ca tụng công đức của Bồ-tát. Họ vừa tấu kỹ nhạc, vừa đi đến chỗ của Bồ-tát mà cúng dường, đều cúi đầu lễ kính, nguyện hết lòng phụng sự chẳng nghỉ ngơi, cho đến khi thành Phật đạo, thị hiện đại diệt độ. Đó là việc thứ tư.

Lại nữa, này Tộc tánh tử! Khi ở tại cõi trời Đâu-thuật, Bồ-tát có ánh sáng tên là Mạc năng thắng tràng. Vì trên đầu có mão khăn quấn thân thể đeo chuỗi ngọc, nên ở tâm tạng phát ra ánh sáng này. Ánh sáng từ trong đó hiện ra, soi khắp các vị thần Kim cang ở mười phương khiến họ đều đến tụ hội, nguyện hầu hạ sau lưng Bồ-tát, từ khi ngài thành Phật cho đến khi vào đại Diệt độ. Đó là việc thứ năm.

Lại nữa, có ánh sáng tên là Giải chúng sinh. Lúc ấy, Bồ-tát từ các sợi lông nơi thân diễn ra ánh sáng này, soi tỏ khắp tam thiên thế giới. Thân tướng sáng ngời của Bồ-tát chiếu soi tất cả cung điện nơi cõi người, trời ngay khi ấy họ đều nghĩ: “Bậc khai sĩ của chúng ta sẽ hóa độ chúng sinh, phụng kính Như Lai”. Đó là việc thứ sáu.

Lại nữa, có ánh sáng tên là Tích thiện trụ, từ Đại bảo châu tạng của Bồ-tát phát ra ánh sáng Vô cực. Ngọc ánh sáng này hóa ra tòa điện lớn, đi đến cõi nước, nhà cửa, nơi sinh sống của Bồ-tát. Ánh sáng ở trong tòa nhà ấy chiếu tỏa đến các nhà cửa nơi các cõi, quận quốc, huyện ấp, châu thành, bang vực. Những kẻ đáng được hóa độ ở những nơi ấy cùng đến tụ hội, đều sinh ra ở các cõi ấy. Đó là việc thứ bảy.

Lại nữa, có ánh sáng tên là Phổ nghiêm cung. Ánh sáng này hiện ra thì Bồ-tát tức thời hiện ra đại bảo các điện cùng đại bảo điện Phổ nghiêm tịnh trụ ở thai mẹ, gần hông phải của người. Ánh sáng chiếu soi đến thì ngay khi ấy người mẹ kia được yên ổn khắp cả. Bồ-tát hộ trì thai mẹ là trụ nơi tất cả công đức huân tu. Bồ-tát ở trong cung đại bảo cung điện này mà du hóa. Đó là việc thứ tám.

Lại nữa, có ánh sáng tên là Đình Trụ, phát ra từ dưới lòng bàn chân của Bồ-tát. Các Thiên tử ở tại Dục giới và các Phạm thiên thường khởi tâm cung kính, phụng thờ Bồ-tát. Vì lúc mạng họ sắp hết đã thỉnh cầu Bồ-tát tiếp tục ở lại chỗ cũ. Ánh sáng chiếu đến, tuy ở trên cõi trời đủ sức phụng thờ Như Lai, nhưng ánh sáng vừa soi đến thì các Thiên tử đều được an trụ, không còn mạng chung nữa. Từ đó họ nguyện cúng dường Bồ-tát cho đến khi thành Phật, thị hiện Đại diệt độ. Đó là việc thứ chín.

Lại nữa, có ánh sáng tên là Ngần ấy mắt, từ trong các tướng tốt của Bồ-tát phát ra. Khi phóng ra ánh sáng này thì hiện ra vô lượng công đức của chư vị trong chúng Bồ-tát mỗi mỗi đều biến hiện khác nhau. Chư thiên, người kia từ xa thấy Bồ-tát trụ ở trời Đâu-thuật, hoặc hiện xuống nhân gian vào thai mẹ, hoặc thấy mới sinh ra, hoặc thấy xuất gia, hoặc thấy thành Phật, hoặc thấy chuyển pháp luân, hoặc thấy Diệt độ…

Đó là mười việc. Bồ-tát ở tại cõi trời Đâu-thuật biến mất và sinh nơi thế gian.

Đó là mười thứ ánh sáng của Bồ-tát, hiển hiện đầy đủ vô số ức trăm ngàn ánh sáng phát ra từ giường nằm, tòa ngồi, lầu các, cung điện. Thị hiện vô số chủng loại hành nghiệp có thể hưng khởi của Bồ-tát, lồng lộng như thế làm cho đạo pháp luôn tròn đầy.

QUYỂN 6

Bồ-tát nơi thai có mười việc. Những gì là mười?

Nhằm khai hóa những chúng sinh chí trụ nơi Tiểu thừa, mang tâm sợ hãi, kém cõi. Bồ-tát đều biết tâm niệm của hạng người này nên thị hiện nhập thai. Hoặc sợ hạng người này phát ý nghĩ: “Bồ-tát hóa sinh, gốc đức tự nhiên, chúng ta không thể học theo được! Do đó, Bồ-tát thị hiện nhập thai”. Đó là việc thứ nhất.

Bồ-tát đều vì cha mẹ, thân thuộc từ đời trước xa xưa, vì bạn đồng học, môn đệ và các chúng sinh khác mà gieo trồng gốc đức, muốn hóa độ những người này nên thị hiện nhập thai. Hoặc có người từ đời trước đã tích đức, nên lúc ở trong thai ấy nhận được sự khai hóa. Đó là việc thứ hai.

Bồ-tát Đại sĩ, tâm chưa từng vọng nghĩ về một sự yên ổn tự tại mà ý thường an định. Đó là việc thứ ba.

Như khi thị hiện ở thai mẹ, Bồ-tát giảng pháp cho Thánh chúng chưa từng đoạn mất. Các Bồ-tát, Đế Thích, Phạm thiên, Tứ Thiên vương đều đến tụ hội để Bồ-tát thị hiện vô số Thánh tuệ nhiều không thể kể, không bờ cõi. Ở trong thai, Bồ-tát hiển hiện những biện tài kỳ diệu liền độ thoát họ. Đó là việc thứ tư.

Như khi ở trong thai mẹ Bồ-tát đã tập hợp đại chúng cùng các bậc khai sĩ, và họ đều muốn vân tập đến. Vì bản thệ nhằm độ thoát họ nên Bồ-tát vì họ mà giảng nói pháp, khiến cho họ đều được giải thoát. Đó là việc thứ năm.

Lại nữa, muốn khai hóa dân chúng trong thế gian thành tựu quả vị Tối chánh giác, đầy đủ các đức, trang nghiêm đạo tràng nên Bồ-tát đã thị hiện sinh ra ở nhân gian. Đó là việc thứ sáu.

Bồ-tát tuy ở trong thai mẹ như thân Bồ-tát thị hiện khắp cả tam thiên thế giới, giống như trong gương sáng nhìn thấy các hình ảnh. Chí của Bồ-tát nhiệm mầu nên những bậc học sĩ Đại thừa, chư Thiên, Long thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Calưu-la, Chân-đà-la, Ma-hầu-lặc, nhân cùng phi nhân đều tâm niệm: “Ta nên đến đảnh lễ, quy mạng, cúng dường Bồ-tát”. Đó là việc thứ bảy.

Khi ở trong thai mẹ, Bồ-tát có đại pháp môn tên là Đại tuệ tạng. Pháp môn ấy đi đến các cõi Phật khác ở phương khác, rốt ráo đầy đủ, Bồ-tát ở trong thai đều cùng luận giảng. Do đó, nên khiến

Bồ-tát hiện thân nhập vào thai mẹ. Đó là việc thứ tám.

Khi Bồ-tát thị hiện vào trong thai mẹ, có Tammuội tên là Ly cấu tạng, nhờ nơi định lực mà được thành tựu, chẳng gần thai mẹ, tại trời Đâu-thuật, vào nơi thanh tịnh nên trụ trong thai mẹ mà cũng không chỗ nhập. Đó là việc thứ chín.

Lại nữa, Như Lai Chí Chân có đại công đức tên là Ly cấu tạng hoa, nên thấy việc phụng kính cúng dường Như Lai là các bậc Giác Phật. Khi ở trong thai mẹ, Thánh chỉ của Bồ-tát đều hiện hữu khắp mười phương. Vì bậc chân Đại Thánh và các chúng Bồ-tát đều có hạnh gọi là Pháp giới tạng. Vì giảng giải giáo điển này nên nhập vào tuệ Vô cực. Bồ-tát nhờ đó, thị hiện sự đi ở bằng thập thiện vi diệu, kiến lập được an lạc lớn.

Bồ-tát có mười việc thị hiện an tường. Những gì là mười?

1. Khi Bồ-tát nhập vào thai mẹ, từ lúc mới phát tâm cho đến khi hiện ở pháp Nhất sinh bổ xứ, luôn thành tựu đầy đủ Phật sự.

2. Như lúc vào thai mẹ, Bồ-tát lại tiếp tục thị hiện ở tại cõi trời Đâu-thuật.

3. Hoặc lại trở về hiện vào thai mẹ, rồi sinh ra.

4. Hoặc tại thai mẹ thị hiện trẻ thơ, không rời thai mẹ.

5. Thị hiện các thể nữ trong cung, hiển hiện nơi thai mẹ.

6. Lại thị hiện sinh ra, yên ổn nơi thai mẹ.

7. Thị hiện hạnh tinh tấn khổ nhọc. Hiện đi đến đạo tràng, ngồi nơi gốc cây, chứng đắc Chánh giác của Phật.

8. Lại hiện ở thai mẹ mà chuyển pháp luân, ở trong thai mẹ hiện Diệt độ.

9. Vào trong thai mẹ, giảng dạy khuyến tiến hội nhập nơi đại đạo.

10. Tại chỗ dừng trong thai đó thị hiện đầy đủ các hạnh Bồ-tát, kiến lập đại đạo vô cực của Như Lai, làm rõ cửa Đạo. Đó là Bồ-tát thị hiện mười hạnh an tường, tự tại.

Bồ-tát thị hiện sinh ra có mười việc. Những gì là mười?

1. Bồ-tát thông sáng, ý niệm an nhiên, hiện bày đời sống thanh tịnh hòa hợp.

2. Phát ra ánh sáng lớn chiếu soi khắp cả tam thiên thế giới.

3. Tối hậu rốt ráo, chẳng còn thọ sinh nữa, mà chỉ thị hiện sinh ra.

4. Không khởi, chẳng diệt nên gọi là sinh.

5. Suy nghĩ sự thọ sinh trong ba cõi giống như huyễn hóa.

6. Hiện thân sinh ra trong mười phương thế giới.

7. Thân ấy thị hiện đạt đến Nhất thiết trí.

8. Đấng Như Lai chí chân diễn bày uy thần sáng chói để ban bảo cho tất cả chúng sinh nơi các cõi Bồ-tát đã tích lũy đại tuệ nơi Tam-muội Chánh thọ, sau đó mới sinh ra.

9. Bồ-tát vừa sinh ra đã làm chấn động nơi các cõi Phật.

10. Khiến tâm các loài chúng sinh được hoan hỷ, trừ bỏ các đường ác, che lấp các ma sự. Mỗi mỗi đều kinh ngạc nói: “Hôm nay đức Bồ-tát từ cõi nào đến đây”.

Đó là mười việc Bồ-tát thị hiện sinh ra.

Bồ-tát vi tiếu có mười việc. Những gì là mười?

1. Quán sát thế tục do tham dục nên bị ràng buộc nên không thể vượt ra được. Chỉ mỗi sức của thân ta mới có thể làm được việc đó để khắng định điều ấy nên Bồ-tát mỉm cười vậy.

2. Người thế tục bị nhiều thứ phiền não mê hoặc mà tự cho là trí tuệ, nhưng không thể đạt được, nên Bồ-tát mỉm cười.

3. Kẻ tự đại, phóng dật mà tự cho mình là bậc vô thượng. Bồ-tát liền dùng Pháp thân thị hiển thị điều then chốt lớn, hiện bày cả ba đời khiến họ đều phát sinh ý cầu đạt đến.

4. Mắt của các Bồ-tát không chỗ ngăn ngại, từ mười phương cõi đến cung trời Phạm thiên, cho đến cõi trời Đại thần diệu, đều quán sát được cả gốc ngọn và tự nghĩ: “Các chúng sinh này đều bị phiền não cấu nhiễm, trí lực của Bồ-tát đều nhìn thấy rõ cả”.

5. Bồ-tát lại thấy chúng sinh đời trước tích chứa gốc đức mà bị đọa lạc trở lại.

6. Thấy chúng sinh gieo trồng phước ít mà mong cầu quả báo vô lượng.

7. Thấy đạo bình đẳng giác chân chánh không hề hư vọng.

8. Quán sát thấy bạn hữu thuở xưa, kẻ đồng học từ trước, chí cầu đạo Bồ-tát, mỗi một đều tịnh tu nhưng chưa tròn Phật pháp, chỉ riêng mình là đạt được.

9. Quán xét chỗ ở của chư Thiên, loài người và ở chốn tối tăm, thấy họ chẳng hiểu được chánh pháp nhưng tâm Bồ-tát chẳng hề thoái chuyển, chẳng hề chán mệt.

10. Như Lai chí chân có phóng ra ánh sáng gọi là Đại diêu an, luôn phát ra ánh sáng lớn tỏa chiếu. Đó là mười việc vi tiếu của Bồ-tát.

Bồ-tát đi bảy bước có mười việc. Những gì là mười?

1. Lúc ấy, Bồ-tát tự thị hiện trẻ thơ.

2. Bước đi bảy bước để biểu thị có bảy thánh tài, hiển bày sự thù thắng.

3. Muốn làm cho sở nguyện của Địa thần được đầy đủ.

4. Tự thị hiện công đức ấy siêu việt ba cõi, một mình bước đi không ai sánh cùng.

5. Bồ-tát đi như Long vương, đứng như Tượng vương, cử động tiến dừng như sư tử cất bước.

6. Các chỗ đi đến, qua lại, bước đi của Bồ-tát chuyển động cùng khắp và đều vượt hơn tất cả, khi ấy thì đất trời biến thành Kim cương.

7. Hàng phàm phu không đủ sức nhận lãnh công việc nâng đỡ, giữ gìn nên Bồ-tát an ủi chỉ dẫn cho tất cả chúng sinh bằng bước đi bảy bước.

8. Lại nữa, tất cả mọi người chẳng lý giải được nghĩa đạo nên Bồ-tát bước đi bảy bước ứng với bảy Giác ý.

9. Bước đi bảy bước để giác ngộ những người chưa được giác ngộ, khiến họ đạt đến chánh pháp, không chỗ dựa nương.

10. Ta ở đời là bậc tôn quý, trì tuệ không ai hơn và miệng tự nói lên: “Trên trời, dưới đất ta sẽ hóa độ tất cả”.

Đó là mười việc đi bảy bước của Bồ-tát.

Bồ-tát hiện bày trẻ thơ lại có mười việc. Những gì là mười?

1. Bồ-tát đều biết chú giải sách vở, toán số kỹ thuật, biết chỗ cần tùy nghi ứng phó, ngôn tư đối đáp, không có gì là không thông đạt nên lấy việc này hiển bày với mọi người.

2. Lại nữa, Bồ-tát thị hiện sự lên ngựa, cỡi voi, cỡi xe đi lại, hiện chú thuật thần tiên… so với mọi người thì siêu việt khác thường.

3. Kỹ nhạc, ca múa vui chơi, tranh tài, Bồ-tát cũng đều siêu quần bạt chúng.

4. Thân, miệng, ý của Bồ-tát thị hiện có tội phước mà không có tai ương.

5. Bồ-tát dùng Tam-muội Chánh thọ vô kiêu mạn hiện bày khắp các thế giới của chư Phật nhiều vô lượng để khai hóa chúng sinh hiện ở đó.

6. Bồ-tát hiển hiện công đức trí tuệ vượt hẳn các hàng Trời, Rồng, Quỷ, thần, A-tu-luân, Calưu-la, Chân-đà-la, Ma-hầu-lặc, Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương và tất cả đều đến quy mạng Bồ-tát.

7. Lại nữa, Bồ-tát tự thị hiện sắc mạo, hình tướng của Đế Thích, Phạm vương và Tứ Thiên vương, lại dùng dung mạo của Bồ-tát để tự thị hiện, hiển bày đạo nghiệp của mình.

8. Bồ-tát thị hiện ở chúng sinh mỗi mỗi đều khác. Như có các chúng sinh tham tắm ái dục, thích vui đùa hoặc lại có chúng sinh sầu lo, loạn động thì Bồ-tát sẽ vì họ thị hiện sự hoan hỷ thuận hợp khiến họ yêu thích pháp.

9. Bồ-tát thường dùng pháp hội tạo lợi ích lớn tăng thêm sự phụng kính Như Lai. Nhìn thấy khắp mười phương bằng ánh sáng của pháp, dùng uy thần của Như Lai để thị hiện sự an lành, hòa hợp, vắng lặng.

10. Vì hóa độ chúng sinh nên Bồ-tát thị hiện hình tướng trẻ thơ ở tại hậu cung để cứu giúp được nhiều.

Bồ-tát thị hiện nơi hoàng cung, ở chỗ các Thể nữ lại có mười việc. Những gì là mười?

1. Bồ-tát với họ từ đời trước vốn là chỗ đồng học, nên Bồ-tát muốn hóa độ những chúng sinh này.

2. Vì hiển bày gốc đức nên Bồ-tát hiện ở hậu cung.

3. Bồ-tát lại vì những người muốn vun trồng gốc đức nên phải ra sức cứu tế vì thế đã hiện ra ở hậu cung.

4. Vì chư Thiên, người đời kiêu mạn buông lung, hạng giàu sang quyền quý mà hàng phục, Bồ-tát nhân đấy cũng thị hiện sinh nơi vương cung cao quý đề hàng phục hóa độ họ.

5. Tại đời năm ô trược, tùy lúc dẫn dắt tiến lên, hóa độ đưa đến cõi Phật.

6. Tuy ở trong cung nhưng chẳng phế bỏ Tammuội, uy lực vô song.

7. Chúng sinh từ thuở xưa đã hưng lập thệ nguyện, Bồ-tát muốn làm cho được như ý nên hiện ra ở hậu cung.

8. Nhằm khiến cho cha mẹ, gia thất, thân thuộc, bản nguyện được tròn đủ, nên Bồ-tát dùng đại pháp âm, các thứ kỹ nhạc ca vịnh, đàn địch… phụng kính cúng dường Đức Như Lai chí chân để làm cho họ được thành tựu.

9. Lúc đó, Bồ-tát ở tại hậu cung đã tỏ ngộ và thành tựu Phật đạo, định ý chẳng lay động.

10. Từ đầu đến cuối là Bồ-tát thành Tối chánh giác, chuyển pháp luân vào Đại diệt độ, vì vậy Bồ-tát thị hiện, dùng pháp để hộ trì, cứu vớt bao nhiêu khổ ách, khiến chúng sinh vào với đại đạo.

Đó là Bồ-tát thị hiện ở tại hậu cung tối hậu rốt ráo sau cùng, bỏ nước nhường ngôi, vào núi đắc đạo.

Bồ-tát xả bỏ cõi nước lại có mười việc.

Những gì là mười?

1. Biểu thị việc chán bỏ trần dục nên hiện bày sự xuất gia.

2. Thấy ở thế tục nhiều sự cấu nhiễm tham chấp, nhằm khiến mọi người không bị đắm chìm nơi uế trược, nên hiển hiện đạo lý Nhu hòa thuận hợp của Hiền thánh chánh chân.

3. Bồ-tát vào trong hành nghiệp để nhằm thông suốt đạo hóa độ, khen ngợi đức xuất gia.

4. Dùng phương tiện quyền xảo, thị hiện ở cõi nhị biên, đi vào các nghi và sáu mươi hai thứ tà kiến để cứu vớt những chúng sinh ở đấy.

5. Chúng sinh tham dục, thiết tha muốn được an lạc, Bồ-tát vì họ thị hiện các nạn để họ từ bỏ tư tưởng ỷ lại vào an ổn.

6. Vì những kẻ đắm chấp ở ba cõi và các loài mãi lưu chuyển, trôi nổi trong sáu đường, nên trước hết Bồ-tát thị hiện sự xuất gia.

7. Tâm của các chúng sinh kia luôn dấy động, không có chỗ nương dựa quy ngưỡng, luôn duyên nơi cảnh trần nên Bồ-tát thị hiện xuất gia.

8. Lại thị hiện chứng đắc mười lực, bốn vô sở uý của Như Lai.

9. Tùy lúc giáo hóa, rốt ráo tối hậu.

10. Sẽ được thành Phật, ấy là điều hẳn nhiên.

Đó là mười việc bỏ nước, nhường ngôi của Bồ-tát.

Bồ-tát hiện hạnh cần khổ lại có mười việc. Những gì là mười?

1. Muốn khai hóa hàng Tiểu thừa nên Bồ-tát thị hiện sáu năm chuyên tu khổ hạnh, ngày chỉ ăn một hạt mè hạt gạo.

2. Bồ-tát lại muốn chuyển hóa sáu mươi hai thứ tà kiến để vì những hàng chúng sinh thất đức, chỉ bày về nghiệp báo, tội phước cho họ.

3. Bồ-tát cũng nhằm hóa độ thế giới tạp uế, mê lầm.

4. Tùy thời khuyên bảo, dẫn dắt, nên thị hiện sự lao khổ hoạn nạn của mình.

5. Có thể chế ngự tham dục nơi các căn mà hiển bày hai thứ nghiệp duyên.

6. Nhờ đó nên nhận được pháp chân đế, các pháp tham chấp ái dục được chuyển hóa tạo sự an lạc cho bản thân.

7. Đối với những chúng sinh rong ruổi theo trần cảnh thì Bồ-tát khiến họ tịnh tâm.

8. Lại nữa, Bồ-tát thị hiện về chí đạo tinh tấn cần khổ.

9. Sẽ được thành Phật nơi chân tướng sau cùng, nên hiển bày sự không thọ sinh trở lại.

10. Vì nhờ tinh tấn nên khiến cho chư Thiên, loài người căn tánh chưa thuần thục và những kẻ ngoại đạo, dị học phải tuân theo sự chỉ giáo. Đó là Bồ-tát thị hiện khổ hạnh có mười việc.

Bồ-tát đi đến đạo tràng lại có mười việc. Những gì là mười?

1. Bồ-tát phát ra ánh sáng lớn soi khắp mười phương khiến mọi người biết được nên đi đến gốc cây Bồ-đề.

2. Bồ-tát muốn tạo sự cảm ứng nơi các cõi nước Phật nên hiển bày thân mình, làm cho khắp các cõi Phật cũng đều thấy biết.

3. Lại nữa, Bồ-tát thị hiện thông suốt những chỗ hành hóa từ đời trước khiến cho các Bồ-tát và chúng sinh đều đến chỗ ấy đảnh lễ, thọ học.

4. Bồ-tát thị hiện ngồi nơi gốc cây ở đạo tràng ấy.

5. Tạo sự trang nghiêm thanh tịnh, tùy theo căn cơ của mọi người.

6. Tùy thời hiện thân, uy nghi, lễ tiết đầy đủ nơi đạo tràng vắng lặng.

7. Khiến cho mỗi mỗi Như Lai chí chân trong các thế giới đều tự hiện thân.

8. Hiện rõ chư Phật khi kinh hành, cất bước hạ chân, thường tu Tam-muội, chẳng rời định ý, thấu tỏ Thánh đạo.

9. Bồ-tát đi đến đạo tràng trong chốc lát thì tất cả chư Thiên, Long vương, Kiền-đạp-hòa, A-tuluân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hầu-lặc, Đế Thích, Phạm thiên và Tứ Thiên vương đều hiện đến phụng kính, mọi người thấy thế nên thảy đều phát tâm cầu đạt đại tuệ vô ngại.

10. Chốn hành của Bồ-tát quán sát mười phương, nghĩ đến các Đức Như Lai, hiểu hết mọi phương diện, ở tại các cõi nước hiện thành Chánh giác.

Đó là Bồ-tát tát hiện đến đạo tràng.

Bồ-tát ngồi nơi gốc cây Phật lại có mười việc. Những gì là mười?

1. Bồ-tát dùng vô số việc tạo sự cảm ứng nơi các cõi Phật nên ngồi nơi cội cây.

2. Bồ-tát muốn soi sáng khắp mười phương thế giới.

3. Nhằm tiêu trừ hết tất cả các đường ác.

4. Bồ-tát cũng muốn kiến lập tất cả các cảnh giới đều là Kim cang.

5. Quán sát các Đức Như Lai ngồi trên tòa Sư tử.

6. Hiện bày chỗ tư niệm của tâm bình đẳng như hư không.

7. Hiện thân uy nghi đều phải tùy lúc.

8. Hướng về đạo tràng Kim cang Tam-muội.

9. Là chỗ dừng bước của các Đức Như Lai, thọ nhận sự thanh tịnh và tự thừa kế oai lực của chư Phật.

10. Lấy gốc đức làm mục đích để an lập cho tất cả chúng sinh.

Đó là mười việc ngồi nơi cội cây của Bồ-tát.

Bồ-tát ngồi ở đạo tràng có mười điều đạt đến sự chưa từng có. Những gì là mười? Khi ngồi dưới cây Phật, Bồ-tát đạt đến pháp an nhiên chưa từng có. Các Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác trong mười phương thế giới đều hiện bày hình tướng nơi trước mặt, đưa bàn tay phải, đều tự khen ngợi, tức khiến cho bậc đại sư có được sự thù thắng chính là pháp bậc nhất chưa từng có. Đó là việc thứ nhất. Như lúc Bồ-tát ngồi nơi cội cây Bồđề thì tất cả chư Phật đều nghĩ đến và đều hiện uy thần đi đến. Đó là việc thứ hai. Khi ngồi nơi cội cây Bồ-đề, các Bồ-tát đồng học từ thuở xưa đều cùng đến vây quanh hộ vệ, trụ vào cửa Định ý đem vô số vật cúng dường Bồ-tát. Đó là việc thứ ba. Khi ngồi nơi cội cây Bồ-đề thì cỏ cây, hoa trái và các thảo dược của mười phương thế giới, tuy không có thần thức nhưng đều tự nhiên cúi mình; chúng đều cùng cúi mình hướng về cây Bồ-đề mà đảnh lễ. Đó là việc thứ tư. Bồ-tát có Định ý lớn tên là Tích pháp giới, siêu việt tất cả các hạnh Bồ-tát. Giả sử khi chứng được Định ý này thì ánh sáng của công đức ấy vượt tất cả các bậc Khai sĩ. Đó là việc thứ năm. Vào lúc Bồ-tát kiến lập đạo tràng Tổng trì thân hải tạng ly cấu quang diệu thì khiến các Đức Như Lai xiển dương mưa pháp lớn. Đó là việc thứ sáu, tức dùng pháp độ của đỉnh nhu hòa thuận hợp. Bồ-tát ngồi nơi đạo tràng cúng dường các Đức Như Lai, đi khắp các cõi nước, không trụ xứ nào mà chẳng đến. Đó là việc thứ bảy. Khi Bồ-tát ngồi nơi cội cây Bồ-đề thì hành nghiệp ấy cũng như trí tuệ của bậc Khai sĩ đã thấy khắp cội rễ việc làm và tâm niệm của tất cả chúng sinh. Đó là việc thứ tám. Khi ngồi nơi cội cây Bồ-đề, Bồ-tát tự nhiên khéo đạt đến định giác của Phật thánh. Vừa được định ấy tức biết được vô lượng sự việc cùng khắp nơi ba đời, giống như hư không. Đó là việc thứ chín. Khi ngồi nơi cội cây Bồ-đề, Bồ-tát dùng thân mình biết rõ được ba đời. Đại thánh tuệ không ai sánh bằng ấy phóng ra ánh sáng lìa cấu uế.

Đó là mười sự kiện pháp chưa từng có.

Bồ-tát hàng phục cung ma, hàng phục quyến thuộc ma có mười việc. Những gì là mười?

1. Chúng sinh đồng cảnh trần, buộc vào chốn hoạn nạn sinh tử của thế tục, không ưa chiến đấu để diệt trừ phiền não nên Bồ-tát thị hiện đại uy lực hàng phục quân ma và quyến thuộc của chúng.

2. Đới với chư Thiên và người đời thuộc loại cao ngạo, cầu danh, Bồ-tát muốn vì họ đoạn trừ nạn tự đại.

3. Đức Phật muốn hàng phục khai hóa quân ma và binh chúng khiến chư Thiên, muôn dân, cùng nhau vui vẻ đều đến tụ hội, nhân đấy Bồ-tát hóa độ họ.

4. Uy lực của Bồ-tát thật là vô thượng.

5. Cũng nhằm hiển hiện, khiến cho mọi người nhận biết, cũng nhằm khuyến khích, tạo an vui cho tất cả chúng sinh.

6. Hiển bày lợi lạc ấy cũng là nhằm thể hiện sự thương xót đến thế nhân trong đời vị lai.

7. Ở nơi cội cây Bồ-đề, khi hàng phục quân ma, Bồ-tát đều vượt qua các cảnh giới ma, không có trần dục, không có lực mà chẳng phải không có lực.

8. Nhìn thấy các lực yếu kém nên Bồ-tát thị hiện gốc đức, hiển bày diệu lực của tâm Từ.

9. Hàng phục quân ma và quyến thuộc, tùy lúc khuyến khích tạo sự an lạc.

10. Ái dục, phiền não, tham sân nơi thế gian thì dùng đạo pháp để chuyển hóa. Quán được mười nghĩa này nên Bồ-tát đã hàng phục quân ma và quyến thuộc của chúng.

Bồ-tát thành Tối chánh giác thị hiện uy lực của Như Lai cũng có mười việc. Những gì là mười?

1. Bồ-tát có thể hàng phục các nghiệp ma, phiền não cấu uế.

2. Đầy đủ hạnh Bồ-tát, ưa thích tất cả Định ý của các Bồ-tát luôn tự lấy làm vui.

3. Vượt lên trên cảnh giới Thánh tuệ của các bậc khai sĩ, nên Bồ-tát thành tựu rốt ráo các pháp thanh tịnh cùng tất cả các hạnh nghĩa.

4. Vì các thế gian nên Bồ-tát khéo hành tư duy.

5. Thân Bồ-tát biến khắp mười phương thế giới, diễn ra âm hưởng giác ngộ.

6. Tâm bình đẳng đối với chúng sinh, đều hiện rõ uy thần mà kiến lập cho họ.

7. Các Đức Phật Như Lai chí chân quá khứ, vị lai và hiện tại với thân, miệng, ý… đều không vọng tưởng, nên trong một lúc cùng đạt thấu tỏ cả ba đời.

8. Bồ-tát có Tam-muội tên là Thiện giác giác ý.

9. Khi được Định ấy thì nhập vào mười lực của Đức Phật.

10. Bồ-tát có thể hưng khởi lực này thì nơi nơi đều có lực, đến được Tuệ lậu tận.

Đó là mười lực của Như Lai tạo thành đạo quả Tối chánh giác của Bồ-tát. Khi Bồ-tát an trú nơi lực này thì chư Phật khắp các cõi cùng nói: “Như Lai đã thành Chánh Giác”.

Đức Như Lai Chí chân dùng mười phẩm để chuyển bánh xe pháp. Những gì là mười?

1. Đạt đến bốn Vô sở úy, vào tuệ thanh tịnh.

2. Thông suốt âm thanh của Tuệ và bốn Biện tài.

3. Lại khéo biết rõ nên vượt qua bốn đế.

4. Hành hóa ở cửa giải thoát Chánh giác vô ngại.

5. Tâm quảng đại, thương nghĩ về tất cả chúng sinh.

6. Tiêu trừ những thứ khổ nạn bức bách mọi lo âu, sầu não, các oan uổng bất như ý.

7. Bồ-tát chẳng trái với tâm Từ bi vô hạn nơi thuở xưa.

8. Hiện bày ngôn từ thanh tịnh, hòa ái khắp mười phương thế giới.

9. Ở trong vô số kiếp, Bồ-tát đã ban tuyên kinh pháp không hề cho là mệt nhọc.

10. Bồ-tát khéo phân biệt, biết rõ các Căn, Lực, Giác ý, nhất tâm, môn giải thoát, Thiền định chánh thọ.

Đó là mười phẩm lúc Bồ-tát thành Chánh giác dùng vô lượng nghĩa để chuyển bánh xe pháp.

Đã thành tựu Đấng Như Lai Chánh chân Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe pháp thì dùng mười pháp thanh tịnh, quán thấy tâm chúng sinh luôn lo an động không tĩnh nên làm cho tâm họ thường được hỷ lạc. Những gì là mười pháp?

1. Đạt đến uy lực theo sở nguyện của túc mạng từ đời trước, chẳng trái với bản thệ.

2. Uy thần được kiến lập, hiện rõ đại Bi vô cực, chẳng bỏ chúng sinh nên luôn cứu độ họ.

3. Hưng hiển Thánh tuệ, vì chúng sinh mà thuyết pháp.

4. Tùy lúc kiến lập để dẫn dạy.

5. Đúng thời khiến chúng sinh trừ bỏ kết sử.

6. Có được trí tuệ vô lậu, thông tỏ ba đời.

7. Nẻo hành hóa của thân vĩnh viễn không chỗ tạo tác.

8. Chỗ giảng nói của ý không có hình ảnh của tưởng chấp.

9. Đã hoàn toàn thông suốt.

10. Tùy theo âm thanh liền được thấu hiểu.

Đó là mười việc về pháp thanh tịnh, chuyển pháp luân.

Đức Như Lai Chí Chân vì hành hóa Phật sự, Bồ-tát quán thấy mười nghĩa thị hiện Đại diệt độ. Những gì là mười?

1. Thường vì chúng sinh thị hiện luôn xét kỹ về vô thường.

2. Tất cả thế giới hữu vi chỉ rõ như sự hô hấp.

3. Đạt đến chốn vô vi yên ổn đích thực, trừ hết mọi lo sợ.

4. Chư Thiên và muôn dân đều mang sắc thân nên thị hiện sắc thân vô thường như vậy.

5. Pháp thân thường còn, nhưng vì phân biệt nên có hợp, có tan.

6. Thế giới hữu vi phút chốc qua đi, không cố định.

7. Tất cả nơi ba cõi giống như huyễn hóa, các tưởng mong manh.

8. Chỉ có pháp vô vi là bền chắc, là biểu hiện đạo của pháp, không có hủy hoại.

9. Các tập biệt ly đều không chỗ thành, là biểu hiện sự hư nát, pháp tự ứng hiện như vậy.

10. Sự hành Phật sự của các Đức Phật, Thế Tôn đều đã đầy đủ, các vị khéo chuyển pháp luân, giải trừ nghi hoặc khiến cho chúng sinh tuân theo luật, giáo, thọ ký cho Bồ-tát, không có tiến thoái, tu Đại diệt độ.

Đó là mười nghĩa quán về Như Lai chí chân chọn lấy diệt độ, không có biến mất.

Bồ-tát Phổ Hiền lại nói:

–Này Phật tử! Đó là Bồ-tát hành đại pháp môn của đạo thanh tịnh. Tôi nay đã giảng nói ý nghĩa chính yếu của pháp môn, tạm nêu một cách sơ lược. Thật ra, nghĩa lý nơi sự ban tuyên của Đức Như Lai chí chân thì không thể hạn lượng, luôn tạo an vui cho những người minh trí. Các hạnh Bồ-tát, đều luôn hành theo đại nguyện, chưa từng đoạn tuyệt. Giả sử có người nghe, hoan hỷ tin theo, rồi theo tâm tin chắc này tu tập, phụng hành thì thành tựu nghĩa ấy và đều sẽ mau chóng đạt đến đạo Vô thượng Chánh chân, làm đấng Tối chánh giác. Vì sao? Vì nói đến đạo Bồ-tát thì lấy sự hành trì làm cốt yếu, chưa từng lìa khỏi sự hành hóa. Vậy nên Bồ-tát Đại sĩ phải trụ ở hạnh của mình có thể hành trì theo công đức này của Bồ-tát, hội nhập vào nghĩa phân biệt thanh tịnh đẹp như hoa sen, liền có thể được vào tất cả pháp môn của cõi Thánh vô cực của tất cả pháp môn, đi vào con đường độ thế, lìa khỏi con đường của hàng Thanh văn, Duyên giác vậy. Bồ-tát hóa độ các chúng sinh không mang tâm nhỏ hẹp, chiếu soi tất cả pháp môn của kinh pháp, khuyến khích chúng sinh khiến họ có thêm lợi lạc lớn. Pháp môn độ thế phải chí tâm nghe lãnh hội pháp phẩm độ thế, thọ trì đọc tụng, nhất tâm tư duy, tu môn đạo nhãn, tuân theo sở nguyện. Đã tu tập hành trì như thế thì sở cầu của Bồ-tát nhất định sẽ dễ thành tựu, mau chóng thành đạo Vô thượng Chánh chân.

Khi giảng nói kinh này xong, giảng nói pháp môn, diễn nêu pháp phẩm Độ thế thì mười phương vô lượng, thế giới của chư Phật không thể tính kể đều chấn động lớn, đều là sự hưng khởi hóa hiện nơi uy thần của chư Phật. Giảng nói đến pháp này, được kinh điển này thì tất cả cõi Phật tự nhiên lay động và đại ánh sáng hiện ra không đâu là không chiếu tỏa. Nơi các Đức Phật mười phương đều hiện thân, từ xa khen ngợi Bồ-tát Phổ Hiền: “Hay thay! Hay thay! Này Tối Thắng tử! Ông đã tùy thời giảng nói về công đức lớn của Bồ-tát Đại sĩ, phân biệt nghĩa lý chân chánh, thật đáng mừng thay! Vì ông đã mở bày và ban tuyên pháp phẩm Độ thế ấy. Này Phật tử! Như ông vốn tu học nơi chân đế, thấu giải được pháp này, hôm nay khéo kế thừa uy đức ánh sáng thanh tịnh của kinh, thuyết giảng những điều cốt yếu của kinh điển, chúng ta đều được hiểu rõ và chư Phật cũng vậy. Chúng ta cũng cùng khen ngợi kinh này. Hôm nay, chư Phật nơi mười phương hiện tại vì mọi người và chư Bồ-tát đời vị lai, những người chưa được nghe, học mà ban ân lành rộng lớn như vậy!”.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại sĩ Phổ Hiền nương theo Thánh chỉ của Đức Phật làm chỗ tiếp hộ cho Thánh chúng mười phương. Bồ-tát quán khắp mười phương, xét các chúng hội, nhìn khắp pháp giới mà nói kệ tụng:

Tu ngàn ức triệu kiếp
Siêng hành khó hạn lượng
Quy y vô số Phật
Nên sinh Pháp vương tử
Khai hóa nơi chúng sinh
Lập đạo không ngằn mé
Một lòng cùng chung nghe
Khen Phật: Không gì sánh
Cúng Phật không số hạn
Đã hết chấp Phật đạo
Rõ trần dục quần sinh
Chẳng nghĩ tưởng có người
Thấy công đức của Phật
Chẳng nương danh xưng ấy.
Rộng nói hạnh quý đó
Đời vui mừng lồng lộng
Tội trần ma đã diệt
Ba đời hiện khắp cùng
Đức ấy vượt các Thánh
Sức hành hiện thù thắng
Đốt hết hành si ái
Chí tánh nơi vắng lặng
Thị hiện hạnh đầy đủ
Nay khen ngợi công đức
Tối Thánh đã độ qua
Cõi chúng sinh như huyễn
Thị hiện ngần ấy biến
Khiến tự đại tiêu tan.
Vừa lúc tâm phát khởi
Có thể hiểu khắp cùng
Nay khen công đức đó
Chỗ chúng sinh phụng kính
Nhìn chúng sinh khổ não
Sinh, già, bệnh năm đường
Tiêu hết nỗi sầu lo
Ái dục làm tổn thương
Xót xa muốn độ họ
Nên hiện tuệ rộng lớn
Nên khen công đức ấy
Vừa một lòng lắng nghe
Thí, giới, nhẫn, tinh tấn
Nhất tâm vì tự vui
Quyền tuệ độ vô hạn
Bố thí từ vô cùng
Bi hỷ vui nơi pháp
Hộ hành trăm ngàn kiếp.
Nay khen ngợi hạnh ấy
Nghe chỗ nói công đức
Vì ngưỡng cầu Phật đạo
Dùng hơn ngàn ức thân
Chẳng tham tiếc thân mạng
Đó là đạo thù thắng
Tinh cần vì chúng sinh
Cũng lại muốn mình an.
Khen siêu hạnh Năng nhân
Chí mang tâm thương xót
Trải vô số ngàn kiếp
Khen ngợi tiếng vang xa
Dùng sợi lông lấy nước
Biển có thể cạn cùng
Đức tinh tấn nẻo hành
Hơn vậy, khó ví dụ
Nên nghe cảnh giới Phật
Thị hiện thương muôn loài
Là vì các chúng sinh
Nuôi lớn đức thanh tịnh
Chí tính chẳng ẩn mất
Không chán vui đạo pháp
Kiến lập cõi chúng sinh
Sông tuệ sâu, cây trí
Thế Tôn như đại thiên
Chúng sinh thường kính ngưỡng
Từ, nhu, mẫn là căn
Hộ cấm nhân là cành
Hoa lá tuệ huân tu
Giới hương rất thanh tịnh
Ngộ bất giác vọng ý
Hạnh ái kính chúng sinh.
Không nhiễm như hoa sen
Chúng sinh thấy quy mạng
Vì gieo trồng giải thoát
Từ bi vốn bản tính
Trí tuệ quyền phương tiện
Năm cành đến bờ kia
Hoa thần thông, lá thiền
Quả tuệ Nhất thiết trí
Cây pháp thần túc tôn
Rộng che khắp ba cõi
Vốn tu đạt thanh tịnh
Nuôi lớn nghĩa tuệ rộng
Miệng cổ sư tử niệm
Đầu trí tuệ thanh tịnh
Đệ nhất nghĩa tuệ không
Từ bi rõ độ thế
Vô ngã như sư tử
Tiếng gầm hàng phục ma
Vượt được đồng sinh tử
Mọi trần dục tà vạy
Độ hết nghiệp nhà mình
Trừ ngu, phụng yếu hạnh
Chỉ đường chánh kẻ mê
Hiển đạo Phật vô thượng
Lập chí không sợ hãi
Làm Đạo sư thù thắng
Chúng sinh dâm, nộ, si
Trần dục nhiều che chướng.
Theo hữu vi đêm dài
Khổ cha mẹ lo phiền
Thấy muôn loài hiện ra
Dùng bi trị ái dục
Giảng tám vạn bốn ngàn
Để trị dứt các bệnh
Đây hàng phục ma trần
Đem pháp dạy chúng sinh.
Bỏ ác không huân tập
Cầu Phật đức nghiêm tịnh
Rõ pháp lưỡng túc tôn
Tuệ tôn Nhất thiết trí
Dùng của cải Thánh hiền
Của báu giác mê lầm
Tự vui giới, Tam-muội
Đem trí tuệ Thánh tịnh.
Dùng đao bén thấu đạt
Độ trần không sợ hãi
Biến hiện nơi pháp huyễn
Vì chuyển tối pháp luân
Cũng chẳng lùi trở lại
Tất cả ý Dị học
Hiểu tuệ sâu cùng tận
Pháp vị ấy sinh khắp.
Giác ý thần thông báu
Giải nạn hóa muôn dân
Trú ở sức thông tuệ
Ba thanh tịnh là vua
Ấy là biển tuệ lớn
Vô song, nói vô tận
Dùng để vượt thế gian
Chẳng đắm chúng ba cõi
Thành tựu thiền thần thông
Tuệ như núi chẳng động
Tuệ ấy luôn trong lắng
Không bằng trí tuệ sáng
Đức vượt núi Tu-di
Thương chúng sinh kính ngưỡng
Tính cứng như kim cương
Chỗ tu đều chắc chắn
Tâm ấy không thể tan
Trọng pháp, hành Phổ trí
Vào các ma dục trần
Ở đời trụ vô úy
Tiêu trừ lửa ái ân
Thu giữ hết muôn loài
Mưa lành rãi khắp chốn
Ánh Từ bi rực rỡ
Sấm vang bốn thần túc
Tiếng Năng Nhân tịch tĩnh
Mưa bốn phần biện biệt
Thanh hòa tám phẩm đạo
Dùng trận mưa lớn này
Tiêu diệt các phiền não
Vách trí, hào hổ thẹn
Tịnh cờ pháp là phướn
Thánh như tường mở cửa
Ý niệm người giữ cửa
Bốn Đế trở thành đường
Thần túc bày nghiêm tịnh
Pháp huyễn là thành quách
Hàng phục ma, chủ ba cõi
Nhất thiết trí cây tâm
Đứng, đi, bay trụ vững
Như chim bay một mình
Từ bi ánh sáng soi
Giáo hóa như Phượng hoàng
Chúng sinh không theo kịp.
Đưa qua biển tử sinh
Lập chí đến Niết-bàn
Dùng đạo tràng giới, định
Kết vòng hoa tuệ tịnh
Ánh sáng diệt phiền não
Khô kiệt dòng ân ái.
Cây thuốc Căn, Lực lớn
Tịnh vô thượng Phật đạo
Xuất ánh mặt trời pháp
Đem soi cõi chúng sinh
Pháp, cảnh đều thanh tịnh
Chẳng xả bỏ chúng sinh,
Soi các hàng Hữu học
Thanh văn và Duyên giác
Tâm thấy khắp ba đời
Tiêu trừ niệm tăng giảm
Ý Thánh tuệ khác thường
Rõ chúng sinh như huyễn.
Nơi pháp được tự tại
Tại chúng, dáng oai đức
Cầm kim cang phát sáng
Thường đứng ở đất pháp
Tướng thân nhiều vẻ đẹp
Thanh tịnh vượt thế tục.
Vì chúng, chứa kinh điển
Pháp tối tôn, quần sinh
Dùng để vượt ba đời
Lưới ái các phiền não
Thương xót các thế gian
Mến pháp, Từ bi hộ
Hiện thân ở ba đời
Pháp âm dạy tất cả.
Như Phạm hạnh sạch trong
Cứu tà kiến khổ não
Thanh tịnh độ sinh tử
Cảnh giới pháp tôn quý
Lại chẳng bị thoái lui
Đại tâm thâu tóm vật
Pháp quý siêu vượt đời
Dùng tuệ trao cho chúng
Tất cả công lao tột
Truyền đời ca ngợi mãi.
Tự nhiên như hư không
Trừ tất cả điên đảo
Tại chúng làm việc lạ
Mãi không đắm các cõi
Vào khắp hạnh sạch trong
Cũng kiến lập chúng sinh
Trí ấy rất huyền diệu
Tuệ ấy tịnh càng tịnh.
Phương tiện rộng như đất
Biến khắp ở năm đường
Từ bi ấy như nước
Rửa sạch những trần dục
Dùng tuệ tẩy ái dục
Cứu vớt các hữu lậu
Thế Tôn không bến bờ
Như gió vào ba cõi
Chư Phật như báu ròng
Cứu các đường nghèo túng
Như kim cương khó sánh
Bỏ các kiến ba cõi.
Huyền âm ấy nhiều bậc
Đức trang nghiêm ba cõi
Như ngọc sáng trong đêm
Hạnh ấy là đỉnh đầu
Công sức như hoa ngàn
Giác ý lấy làm vui
Chúng như là tràng hoa
Chánh thệ nguyện vượt đời
Hương giới ấy thanh tịnh
Tròn đủ không thiếu sót.
Xoa hương pháp làm sạch
Tuệ bày ở ba cõi
Hạnh như tán cây cao
Che khuất phiền não dục
Hành dụng lập cờ tuệ
Giữ ý không hai vết.
Hạnh đẹp như cờ phướn
Tu tuệ ấy huyền trí
Rõ áo quần hổ thẹn
Dùng đức che chúng sinh
Cỡi vào vô lượng cõi
Dạo chơi khắp tam giới
Điều định như Long tượng
Tâm ấy thường kiên cố
Thần thông dạo ba đời
Siêu vượt gánh trọng trách.
Cũng như đại Long vương
Đã bày mây nước pháp
Cũng như hoa Linh thụy
Mọi người khó gặp được
Các vị Đại dũng mãnh
Hàng phục ma dứt phiền não
Cũng như chẳng chuyển luân
Đạo sư đã giảng nói
Hiện xưa sau khắp đời
Như ánh đuốc trong tối.
Đức ấy như trăm sông
Thuận đường như nước chảy
Các vị như cầu đường
Thường nhận chở tất cả
Như thuyền bè sạch trong
Dùng nguyện tuệ qua vực
Lại như người lái thuyền
Ở từ chỗ rất sáng
Dạo xem đêm hoan hỷ
Vì người hiện chân lạc
Đem pháp tuệ giải thoát
Trang nghiêm cung điện tuệ.
Như nhiều loại dược liệu
Tiêu trừ bệnh phiền não
Như thuốc ở Tuyết sơn
Diệu tuệ là nhà cửa
Hạnh ấy như Chánh giác
Tuệ thức kẻ ngủ say
Đạo ấy bình đẳng giác
Bình đẳng rõ chúng sinh.
Điều ấy từ đâu đến
Như thắng hạnh thành tín
Như Nhất thiết trí thông
Vào khắp nẻo nhà tuệ
Các vị cũng hóa độ
Cứu vô số chúng sinh
Dùng Phật tuệ tự tại
Vào cõi Nhất thiết trí
Lựa ấy không thể lường
Tất cả không thể sánh
Tuệ ấy vô sở úy
Tuệ hiểu rõ chúng sinh
Tất cả dạng dân chúng
Dung mạo ấy không bờ
Các sắc đều bình đẳng
Ngôn từ và âm thanh
Độ hết các sắc tướng
Lìa danh âm hiện thành.
Tất cả loài chúng sinh
Chẳng thể bày đức sáng
Tu tập công đức ấy
Bỏ trái, kiến lập pháp
Hiện tại vì cha tuệ
Đã xa nẻo có, không
Tức là Nhất thiết trí
Nơi tuệ sáng bậc nhất.
Nhập vào hạnh không chấp
Đời tuân kính vui mừng
Biết rõ các pháp môn
Như huyễn thường vắng lặng
Nguyện hạnh bi thuở trước
Thừa Thánh chỉ Thế Tôn
Lìa mạn, mở cửa tuệ
Mà biến hiện vô ngần
Đều nghe cùng một tâm
Công sức của Bồ-tát.
Tức dùng một thân hình
Hiện đức rộng vô cùng
Cảnh giới không tâm ý
Chúng sinh chẳng thấy tâm
Diễn xuất một âm thanh
Vượt cảnh giới văn tự
Tùy tất cả chúng sinh
Mà ban tuyên pháp âm
Để xả thân chúng sinh
Muốn đáp thể chốn hành
Rõ âm vô sở hữu
Mà thông âm thanh giáo.
Tâm vắng lặng hiển sáng
Giác đế như hư không
Chúng sinh mỗi một khác
Vì họ hiện vô lượng
Rốt ráo không có thân
Lại còn hiện hữu hình
Tùy chỗ sống chúng sinh
Được ở quả báo ứng.
Đều vào chốn sinh sống
Chẳng tham đắm chốn ấy
Thân mình như hư không
Vô vàn người chẳng tưởng
Thân họ không thể lường
Minh trí thường hiển hiện
Đấng người trời phụng kính
Về nơi Nhất thiết trí.
Hương hoa, các loại hương
Kỹ nhạc, cờ phướn lụa
Thân tự gieo xuống đất
Cúng dường Thánh thượng tôn
Đứng dưới một Đức Phật
Như đứng trước chư Phật
Nhìn thấy các nhà chúng
Thường hỏi không gì sánh.
Nghe pháp chứng Tam-muội
Một đài vô lượng cửa
Từ xưa đã lên đứng
Hiện dũng mãnh không lường
Trí tuệ quyền phương tiện
Để độ qua bờ giác
Hiểu chúng sinh như huyễn
Phật đạo tự nhiên thành.
Thấy khắp tâm dị biệt
Vô lượng sắc âm thanh
Vào nơi vọng tưởng cầu
Hiện khắp chúng không chấp
Hoặc lại hiện bậc nhất
Hiển bày tâm chúng sinh
Hoặc có người hành đạo
Thấy vô lượng chúng sinh
Bố thí, giới, nhẫn nhục
Tinh tấn, thiền, trí tuệ
Hoặc nhận lãnh phạm hạnh
Hoặc hiện hành thượng diệu
Hoặc có hạnh tròn đầy
Đắc nhẫn, dạy sân hận
Đạt tới sinh rốt ráo
Hoặc Phật Nhất bổ xứ.
Hoặc hiện thân Thanh văn
Hoặc hiện hình Duyên giác
Nước vạn năm hiện diệt
Lại cũng chẳng diệt độ
Hoặc Đao-lợi, Đế Thích
Tu luân, Phạm thiên vương
Ngọc nữ các quyến thuộc
Hoặc một mình hành bộ
Tỳ-kheo tâm tịch tĩnh
Hoặc lại làm Quốc vương
Vào lưới pháp, cõi tuệ
Hiện hình sắc vi diệu
Từ trời tái sinh xuống
Hoặc hiện thân nữ nhân
Nẻo độ đến vô cực
Hoặc hiện nơi lộ tinh;
Hoặc tại thiền ngoại đạo
Nếu chứa nghiệp nhẫn nhục
Hiểu thấu cõi Chân đế
Hiện mắt thấy tâm hành
Hoặc thị hiện vào thai
Ở thai, thành Chánh giác
Mà chuyển bánh xe pháp
Hoặc sinh, hiện diệt độ;
Hoặc lại học kỹ thuật
Tam-muội ở tâm Từ
Chúng nghiệp đã đầy đủ
Hiện bỏ nước nhường ngôi
Hoặc nơi cội Bồ-đề
Chứng thành Tối chánh giác
Hiện chuyển bánh xe pháp
Hiện vô số phẩm kinh
Hoặc Phật độ chúng sinh
Khắp ngàn ức cõi nước.
Thị hiện hạnh bất thoái
Phật cũng không nghiệp tĩnh
Vào tưởng Độ vô cực
Trải qua ngàn ức kiếp
Chỗ thị hiện nhất tâm
Cảnh giới trăm ngàn kiếp.
Các tưởng không có tưởng
Vì chúng sinh hiện kiếp
Không số, không chỗ nói
Mà hiện hữu khắp nơi
Thấy có hành vắng lặng
Hàng phục khắp chúng sinh
Đều do hàng phục được
Nơi ấy đạt an nhiên
Cõi chúng sinh, nước Phật
Vào các pháp báo ứng
Rốt ráo trong ức kiếp
Giảng nói không thể cùng
Vào chúng sinh như vậy
Trí rộng hiểu muôn loài
Tức dùng thân một người
Biến hóa vô lượng hình
Như dùng một huyễn thuật
Mà tất cả khắp cùng.
Ấy là Độ vô cực
Dạy người chưa hiểu thông
Rõ các căn thông lợi
Trung đạo gốc điều định
Các căn được tự tại
Chúng sinh không nghiệp duyên
Một căn vào các căn
Mỗi mỗi mang tham chấp.
Thiền diệt rất nhiệm mầu
Chỗ trụ các căn, nhập
Giải thoát tánh tín thí
Chẳng dừng hạnh trần dục.
Tâm quá khứ, vị lai
Hiện tại cũng như vậy
Chúng sinh qua bờ giác
Không đi cũng không lại.
Hiểu hết hạnh chân đế
Vì chúng nói thượng pháp
Tâm vô ngần như thế
Tâm, hành, trần vô lậu
Một tâm vào chánh đạo
Thấu giải Nhất thiết trí
Vô tâm Phật tại tâm
Trụ thượng tuệ bậc nhất.
Trong khoảnh khắc phát tâm
Tự nhiên tuệ phân rõ
Thần túc Độ vô cực
Biết rõ tất cả Thánh
Lúc phát niệm thần thông
Đến vô lượng cõi nước
Đi khắp cùng như vậy
Trăm ức vô số kiếp
Tuyên trí không thể lường
Lực bất động thấu khắp.
Huyễn sư cầu nghiệp của
Trong chúng thấy dáng hình
Không sắc thấy các sắc
Huyễn là không sở hữu
Quyền tuệ cũng như vậy
Vào pháp huyễn mênh mông
Hiện vô số biến hình
Khắp cùng ở thế gian
Như mặt trời trong không
Trong suốt không gì che
Giống như nước lắng trong
Thấy tất cả dưới đáy.
Cõi pháp giới vắng lặng
Ánh tuệ minh soi khắp
Thấy cõi người thanh tịnh
Trong tâm không tà kiến
Mọi tư duy như mộng
Giác tức không thật có
Vô số ngàn ức năm
Mãi mãi không thể cùng.
Pháp tự nhiên bình đẳng
Nhất thiết nghĩa hiện khắp
Ở trọn trăm ngàn kiếp
Thấu tuệ trong giây lát
Ở phương tục thế gian
Như then cửa đỉnh núi
Tất cả tiếng suốt thông
Chẳng nghĩ mình nói tuệ.
Bồ-tát rõ điều này
Các pháp tự nhiên vậy
Tùy ngôn âm chúng sinh
Hiện pháp âm vô tưởng
Như mặt trăng xuân hạ
Người khởi tưởng sóng nắng
Rong ruổi cho có nước
Đã khát càng thêm khát.
Chúng sinh cũng như vậy
Chí cầu lập giải thoát
Đắc tuệ, không tưởng người
Từ bi càng thêm lớn
Phật dạy sắc như bột
Thọ như là bọt nước
Tưởng đều như dợn nắng
Hành ví như cây chuối.
Tâm ấy giống như huyễn
Thức biến hiện vô vàn
Nêu năm ấm như vậy
Người đạt không mê đắm
Các nhập không, tự nhiên
Theo mình có tạo tác
Bình đẳng nơi pháp giới
Hiện lìa cõi chúng sinh.
Sáu việc tận chân đế
Bất định nói vô vàn
Đó là phân biệt giải
Chỗ các pháp cậy nương
Nói không đi, không lại
Cũng không chỗ thường trú
Báo ứng của tham ái
Tội phước chuyển ba đời.
Phân biệt nhân duyên sinh
Không trụ mà bạt trừ
Chí thành cầu gốc ngọn
Nương vào không sở hữu
Rõ ba đời là một
Nhất thời hiện vô vàn
Tại Dục, Vô sắc giới
Hiện cõi nước rộng khắp.
Theo hạnh đến ba xả
Cứu thoát nơi ba xứ
Tuyên thuyết rộng ba thừa
Đều về Nhất thiết trí
Tỏ rõ pháp nơi nơi
Khiến vượt các cội nguồn
Đã rõ cõi phiền não
Tự tại đi khắp cùng
Nhớ biết việc quá khứ
Mắt sáng diệt phiền não
Đại tuệ, mười Lực Phật
Cũng chẳng đắc các lực
Giác ý không tất cả
Hiện quán pháp chúng sinh
Không ái dục, hữu lậu
Cũng chẳng được thong dong.
Vào các nơi sinh ra
Chúng sinh chẳng mất tuệ
Là Thích tử dũng mãnh
Khéo thi hành trạch pháp
Đạo chẳng khuyết chẳng động
Ý ấy chẳng quên mất
Thích định ý tinh tấn
Trí tuệ tiêu các uế
Tạo được tuệ hộ pháp
Nay hiện nơi ba đời
Pháp từ, bạn chúng sinh
Vô vi, vô sở đắc
Pháp môn này, hạnh ấy
Đạt đến, tuyên dương đức
Đơn cử công sức đó
Trang nghiêm các nghĩa lý
Nói rộng nẻo hành ấy
Hàng ức kiếp không hết
Đơn cử yếu tuệ kia
Như lấy một hạt bụi
Nương vào Thánh tuệ Phật
Chưa từng trú tưởng nghĩ
Từ tâm tinh tấn vững
Vượt lên tất cả nghiệp.
Khuyến giáo hóa chúng sinh
Thiền, giới không thể động
Đạt thành hạnh chính quyết
Đều gọi là Phật tử
Vào thấu công huân Phật
Nghĩ đất nước chúng sinh
Vào nơi vô nhị tưởng
Khéo ban rải không chán.
Được biện lực Tổng trì
Độ, dùng nghĩa chân đế
Khen Phật không ai bằng
Chứng thành Tối chánh giác,
Rộng nghĩ đức Hiền thánh
Thệ nguyện hạnh vi diệu
Thương xót nhờ tu từ
Kính vâng đạo tịnh diệu.
Rõ tịnh Độ vô cực
Hiện diệt độ rốt ráo
Được năng lực phân minh
Chứng thành đạo tối thượng,
Thấu bình đẳng rãi khắp
Ban tuyên tối thượng pháp
Đức vượt áo giáp Thánh
Tôn pháp vị nơi đạo.
Rốt ráo trụ Thánh chỉ
Đẳng tâm trừ sấm vang
Ngự tuệ hóa kiêu mạn
Chứng đắc, hoằng Phật đạo,
Trí kiến lập vô tưởng
Đến pháp đường dạy dỗ
Trụ sâu nhờ dũng mãnh
Trừ hết nghi chúng sinh.
Tư tuệ, pháp thứ lớp
Thiện báo Độ vô cực
Cao, hạ bình đẳng vào
Giác Phổ trí tuệ bộ
Để độ trí vi tế
Tự vui với thần thông
Sáng soi, thoát phiền não
Vườn ươm vì chúng sinh
Làm thanh tịnh cung điện
Hiện vô số diệu hạnh
Dạy chúng vô số tịnh
Tâm ấy chẳng lay động,
Chí tính sáng xét thông
Khéo nói Độ vô cực
Thấy trong đạo nghiêm tịnh
Ánh tuệ sáng chiếu soi.
Vô thượng, không khiếp nhược
Ý ấy như Thái sơn
Đức hạnh đến vô cực
Trí như biển vô cùng,
Như nhà báu Kim cương
Áo giáp đức bền chắc
Chỗ thiết lập rộng lớn
Khéo hiểu không thể hoại.
Thọ ký sẽ đến đạo
Do trụ tâm quảng đại
Được vô tận tạng Phật
Giác thành Nhất thiết trí,
Thường hộ tuệ tự tại
Thông rõ, hiện biến hóa
Cõi chúng sinh, pháp giới
Trụ tuệ hiện quyền biến.
Thân nguyện lập du hóa
Tuệ biến cũng như vậy
Hiện vạn năm vô lượng
Tạo an lạc muôn loài
Hiển sức bay thần thông
Xét thông lực pháp lạc
Đạt đến cảnh giới giác
Loài chúng sinh khó độ.
Dũng mãnh, không kinh sợ
Nghiêm trí không ngữ ngôn
Tất cả là Phật tử
Thân ấy rất thanh tịnh
Thể nghiệp rất rộng lớn
Miệng nói cũng thanh tịnh
Kiến lập tuệ thành tựu
Tối thắng dạy mười nghiệp.
Tâm tâm phát tâm ấy
Hiển khắp là tột cùng
Dạy các căn định ý
Trụ vững ở nguồn cội,
Thanh tịnh trừ dua nịnh
Tính hạnh thường chất trực
Để vào chốn giải thoát
Hiện biến hóa vô tận
Ném chỗ bỏ dừng lại
Nắm giữ việc thượng phẩm
Thành được điều thiện ấy
Nhất thiết trí thấu đạt,
Chẳng bỏ tu vắng lặng
Trú ở nơi an nhiên
Sinh ra là công đức
Giỏi học nơi đại đạo.
Vô lượng việc cầu tâm
Phụng hành không chỗ chấp
Hiện đạo như vực sâu
Vào chúng sinh trú vững,
Nẻo hành dùng làm tay
Tuệ Tối thượng-bụng chắc
Ý ấy như kim cương
Cành Thánh tịnh, áo bi.
Đầu trí tuệ quán pháp
Biết đạo hành hiểu rộng
Hương giới là thanh tịnh
Động, tịnh là tối thượng,
Thân tâm đi, nói, làm
Tâm tuệ là tối thắng
Chốn hành đến Phật đạo
Ngồi trên tòa Sư tử.
Nằm ngủ giường phạm hạnh
Hành vô vi-tối không
Đến cõi an sáng tỏ
Ánh sáng chiếu chỗ ấy
Quán sát biết chúng sinh
Hành vô số quyền biến
Bố thí lìa tham sân
Cấm giới không khinh mạn.
Nhẫn nhục bỏ sân hận
Tinh tấn tối bậc nhất
Trí thiền được tự tại
Tâm từ bình đẳng chúng,
Thương xót pháp không nhàm
Thanh tịnh, phiền não hết
Thuận đạo pháp vắng lặng
Đem phước thí chúng sinh.
Thánh tuệ thật sắc bén
Trí sáng chiếu rộng xa
Học rộng không chán đủ
Vô úy dứt vọng tưởng
Ngăn mình lập công hạnh
Đường ma được giải thoát
Chỗ tu là Phật tuệ
Chí tánh đảnh lễ thờ
Dứt bỏ tâm cao ngạo
Thường vâng theo nghĩa đạo
Gắng trừ ma vây khốn
Theo uy thần của Phật.
Theo pháp giáo đại tâm
Đến vô thượng Tổng trì
Chỗ làm của thân sau
Siêu vượt Độ vô cực.
Sinh ra hiện tôn quý
Mới sinh đi bảy bước
Hiện đủ các tài nghệ
Thị hiện ở hậu cung
Bỏ nhà, không ái mộ
Tu đạo đến gốc dừng
Gần không ánh sáng tỏ
Rộng tu tâm chí thành
Hàng phục ma chứng thượng đạo
Vết tích chuyển pháp luân.
Tại Phật đạo thị hiện
Đại sư không gì sánh
Hành này không giới hạn
Hiện hình hoặc rộng xa
Tích hạnh hàng ức kiếp
Lấy đó làm vui mừng
Trăm ngàn ức chúng sinh
Trú Phật đức tinh tu.
Pháp vốn không có người
Tất cả hành cùng mang
Hạnh này hợp nghĩa tuệ
Tự vui với thần thông
Hàng ức ngàn cõi nước
Hàng trăm ngàn vạn kiếp
Tay làm, đi cùng khắp
Ngàn năm, cõi, chẳng nhọc.
Liền có thể về lại
Chúng sinh chẳng phiền não
Trang nghiêm các cõi Phật
Hiện ra, chừng hữu hạn
Khiến cho loài chúng sinh
Vào một lỗ chân lông
Khiến cho bốn biển lớn
Vào trọn lỗ chân lông
Chẳng tăng cũng chẳng giảm
Vạn chúng không bức não.
Tay nắm Thiết vi sơn
Ngàn ức như mảy trần
Dời ức sông, đại địa
Rồi trở về chỗ cũ
Giữ quốc cùng cõi ấy
Hoặc có người hủy hoại
Dùng vô tâm hàng phục
Chỗ vào không thể cùng.
Giả sử mọi chiếu sáng
Trăm ngàn mặt trời, trăng
Minh châu, ánh lửa lớn
Cả chư Thiên, Tu luân
Ánh sáng mảy lông Phật
Vượt sáng vậy ức lần
Diễn nói pháp vô thượng
Đời ác thú tiêu tan.
Vô số loại ngôn âm
Lời chúng sinh không ngoài
Suốt thông một lời dạy
Vào khắp lời chỉ giáo
Được nghe tiếng dịu dàng
Hàng ức người hân hoan
Pháp âm Phật giảng nói
Mọi người cùng lắng nghe.
Kể về kiếp quá khứ
Mà thấy việc vị lai
Nếu vị lai, hiện tại
Vì hiển hạnh quá khứ
Các cõi Phật hạn lượng
Hoại rồi lại trở về
Đem hàng ức chúng sinh
Vào hết một mảy lông.
Uy thần Phật mười phương
Kiến lập được siêu vượt
Đều hiện chân thân mình
Biến hóa cũng cảm ứng
Kẻ sáng trụ không kiêu
Hiểu rõ tâm chúng sinh
Theo thân họ thị hiện
Lìa cấu chẳng tham thân.
Tất cả các thân người
Miệng nói chỗ trở về
Thích, Phạm, Tứ Thiên vương
Chư Thiên và thế nhân
Thanh văn cùng Duyên giác
Đều từ thân Phật ra
Dạy phụng hành Phật đạo
Đến nơi Nhất thiết trí.
Vào trong lưới tư tưởng
Thanh tịnh giữa cấu uế
Kiến lập nơi Phổ trí
Thường hiện cõi Phật đạo
Tư tưởng nghĩ phân biệt
Trí tự tại thâu đời
Theo gốc đạo hạnh ấy
Cõi nước hiện chỗ tu.
Chỗ cảm ứng như vậy
Thiện cùng cực hiện lên
Thế tục theo chẳng kịp
Hiện vậy để giáo hóa
Chỗ hiện không chỗ hiện
Lại người hay lỗi lầm
Vì tánh hạnh muôn người
Hiển hiện việc chân đế.
Thân bình đẳng như không
Danh ấy vang ba đời
Áo hương giới tự xông
Đức trang nghiêm vắng lặng
Mặc lụa pháp lìa nhiễm
Phổ trí-ngọc Như ý
Đã đầy đủ trí sáng
Công huân trụ phổ trí.
Chứng luân Độ vô cực
Thường thí tối thần thông
Tuệ thần túc vô ngại
Đến ngọc sáng trí tuệ
Hạnh ấy, nữ tịnh diệu
Bốn Nhiếp pháp thù thắng
Dùng thiện quyền xướng đạo
Pháp luân gốc đức thiện
Định ý ở chân không
Giáp từ bi là thành
Cung tên trí bắn ý
Các căn sáng-mũi tên
Kiến lập là lọng đời
Thánh tuệ dựng cờ phướn
Vì hàng phục lực ma
Thì dùng sức nhẫn nhục
Tổng trì như mặt đất
Hành vực tuệ, cây trí
Hoa Tam-muội giác ý
Vui thần túc trang nghiêm
Rõ không là ao tắm
Giải thoát-vợ sạch trong.
Rõ pháp cam lộ thực
Dùng diệu dụng ba thừa
Đó là hạnh tối tôn
Thù diệu không gì vượt,
Trăm ngàn ức kiếp số
Chưa từng khởi lười mệt
Cung kính cõi Thánh tịnh
Hiểu niềm vui vô trụ.
Lập tuệ, các diệu lạc
Đầy đủ Nhất thiết trí
Dũng mãnh xét các cõi
Trời mưa tiêu các bẩn
Chúng diệu có thể hết
Hư không có thể độ
Trong khoảnh khắc thời gian
Được hiển các tâm niệm.
Nói cho các Phật tử
Trăm ngàn kiếp vô tận
Muốn đạt công đức tịnh
Tuệ không thể vượt qua
Cứu độ các khổ hoạn
Kiến lập mãi mãi an
Đến bình đẳng vô tận
An trú thân, miệng, ý
Tâm ấy phải kiên cố
Tạo hạnh như kim cương.

Khi Bồ-tát Phổ Hiền giảng nói lời này xong thì cả tam thiên thế giới đều chấn động sáu cách, đại ánh sáng ấy soi khắp mười phương, các thứ nhạc khí không tấu mà tự hòa âm vang khắp chư Thiên, dân chúng không ai là không mừng rỡ, đệ tử Thanh văn đều đến quy mạng, các vị Bồ-tát đều nói lên sự thành thật ấy, tất cả chúng hội đều chung vui vẻ, đều phát ý đạo Vô thượng Chánh chân.

Bồ-tát Phổ Trí lại bạch Đức Phật:

–Đạo từ hữu ngôn hay vô ngôn mà đạt đến?

Đức Phật dạy:

–Cũng từ hữu ngôn, cũng từ vô ngôn! Đọa ở khổ nạn sinh tử nơi năm đường, năm ấm, sáu trần các kiến chấp trói buộc, mười hai nhân duyên, sáu mươi hai thứ tà kiến quấy nhiễu chẳng yên; hoặc mười hai biển nên chẳng qua được bờ kia. Vì những sự việc ấy, trăm ngàn thứ bệnh nên Đức Phật thiết lập giáo lý, ban bố pháp dược: Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Độ tri kiến, bốn Đẳng tâm, bốn Ân, ba mươi bảy Phẩm, sáu Độ vô cực, mười hai bộ kinh, Không, Vô tướng, Vô nguyện, bốn Đế, ba Giải thoát và Tam bảo dùng để trị những thứ bệnh cấu uế này. Thuốc là vì bệnh mà cho, không bệnh thì không có thuốc. Ba độc, các uế đều là bệnh nặng. Đến được tuệ Chánh chân thì tức là không bệnh. Do sự ràng buộc của nhân duyên mà chẳng rõ được đạo nên Đức Phật làm cho họ thông suốt nơi văn dụ để hiểu rõ về chỗ ngôn thuyết. Tức ví như đống bọt, bong bóng nước, cây chuối, sóng nắng, tiếng vang, bóng hình, huyễn hóa, giấc mơ, trăng dưới nước, vụt hiện rồi mất để rõ ý ấy. Những việc này đều hư giả, nhân nơi mê lầm sinh ra. Chẳng tham thế tục, tu tập theo thuốc đạo pháp như: Sáu Độ, bốn Đẳng tâm, bốn Ân phụng hành những việc này thì được đến với đạo, lý giải được các ngôn giáo vốn là vô ngôn. Hoặc có cõi Phật không có sự ràng buộc năm ấm, sáu trần, ba độc, mười hai nhân duyên nên không có văn thuyết, không thân, không lời, rỗng lặng, tịch tĩnh. Lý giải được không có ba cõi, chẳng trụ ở hữu vi, chẳng ở vô vi, chẳng ở vào khoảng giữa. Đó gọi là đạt đến từ vô ngôn.

Bồ-tát Phổ Trí lại hỏi:

–Hôm nay chúng hội tập hợp ở đây, hoặc có người hiểu sâu thâm, các căn sáng suốt, hoặc có người trung bình vừa tiến vừa lùi, hoặc có kẻ căn trí thấp kém chẳng biết nẻo về. Kẻ trí đạt thì không nghi ngờ, người trung bình, thấp kém đều mang tâm do dự. Vì sao? Họ nghe con hướng về người hỏi hai trăm việc mà Bồ-tát Phổ Hiền đem hai ngàn việc để đáp lại nên họ đều suy niệm: “Sự việc phiền tạp, chẳng biết việc nào nên làm, nên bỏ”. Nguyện xin Đức Phật mở bày và phân biệt ý ấy. Vì những lý do gì mà việc có hai trăm nhưng đáp đến hai ngàn?

Đức Phật dạy:

–Hay thay! Hay thay! Việc hỏi của ông là điều hết sức thú vị vì giải quyết được sự nghi ngờ cho đời sau, khiến hàng hậu học chẳng vướng vào lưới nghi!

Đức Phật dạy:

–Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ! Như Lai sẽ vì ông mà giảng nói nẻo về của nghĩa này!

Bồ-tát thưa:

–Chúng con xin thọ giáo!

Đức Phật dạy:

–Dụng có hai nên hỏi hai trăm. Sao gọi là hai? Có vị thần tham thân chấp có ta người, có trong, có ngoài, tại có, tại không, nên hỏi hai trăm.

Bồ-tát lại hỏi:

–Dụng có chỗ chấp ấy nên có sinh tử, sao lại nêu hỏi đến hai trăm việc?

Đức Thế Tôn bảo:

–Nêu hỏi hai trăm việc ấy là để trừ hết các chấp về ta người, trong ngoài, có không. Đó là dùng quyền tuệ để khai hóa về chỗ không ngằn mé bờ bến. Chẳng thủ đắc trong, ngoài thì mới đến được đạo, mở bày dẫn dắt tất cả.

Bồ-tát Phổ Trí lại hỏi:

–Vì sao Bồ-tát Phổ Hiền lại dốc tâm dùng hai ngàn sự việc để đáp?

Đức Thế Tôn bảo:

–Tất cả Bồ-tát nơi mười phương đều đến tập hội, tâm ý mỗi mỗi đều khác, hành niệm chẳng đồng. Người thông tỏ nghe được yếu nghĩa thì đạt được đạo. Kẻ không thể thông đạt thì nên vì họ diễn nói nhiều lời, hiển dụ bằng ngôn thuyết, dắt dẫn bằng nghĩa lý, mắt được nhìn thấy hình. Dùng dụ thì ý của họ mới được tuệ giải, như áo bẩn nhiều thì phải dùng nhiều chất tẩy giặt nhiều lần mới sạch, sau đó đem áo nhuộm thì màu sắc mới tươi. Ví như có người muốn khởi công xây cất nhà cửa, chỗ đất dùng để xây cất ấy cao thấp không bằng phẳng, nhiều chỗ uế tạp rắn độc, trùng hại ẩn nấp. Các chỗ thấp cao thì san lấp cho bằng phẳng, trừ bỏ các thứ bất tịnh, xua đuổi rắn độc, xây tường vây quanh và tạo nền móng, rồi mới bắt đầu xây dựng nhà cửa. Bồ-tát cũng như vậy trừ bỏ năm ấm, sáu trần, mười hai nhân duyên, tội ta, các thứ ngăn ngại… hành đại Từ bi, trí tuệ thiện quyền để là làm nhà là các pháp, làm hộ thế gian, làm sự che chở cho thế gian.

Bồ-tát Phổ Trí lại hỏi: –Sao gọi là nhà pháp?

Đức Thế Tôn bảo:

–Giáo hóa tất cả chúng sinh đều vào tuệ không, không ghét, không yêu, tâm không vọng tưởng, độ thoát muôn loài, đó là nhà pháp.

Bồ-tát Phổ Trí lại hỏi:

–Sao gọi là đài?

Đức Thế Tôn dạy:

–Dùng sáu Thần thông: Nhìn xét thấu suốt, thấy rõ tâm niệm của muôn loài trong mười phương. Nghe thông triệt, nghe hết cả loài hữu hình lẫn vô hình. Thân biến khắp mười phương, không có khứ lai. Tâm đạo nhìn thấy tất cả các cội nguồn vốn không xứ sở. Đã thấy bản tế thì chẳng vướng nơi có không, chẳng ở nơi sinh tử, chẳng trụ nơi diệt độ, tâm mở bày tất cả, đều đến đại đạo, đó gọi là đài.

–Sao gọi là sự che chở?

Đức Phật đáp:

–Tùy lúc khai hóa, vào trong năm đường mà làm thanh tịnh ngũ nhãn. Những gì là ngũ nhãn?

1. Nhục nhãn. Ở thế gian, hiện thân bốn đại, nhờ đó mà khai hóa độ thoát mọi chúng sinh.

2. Sao gọi là Thiên nhãn? Những người ở trên cõi trời và tại thế gian chưa biết được đạo thì thị hiện ba thừa để khiến họ đến với chánh pháp.

3. Sao gọi là Tuệ nhãn? Những người không thể lý giải về Độ vô cực (Ba-la-mật) thì đều khai hóa, khiến họ nhập vào đại tuệ.

4. Sao gọi là Pháp nhãn? Kẻ thiên lệch cục bộ không thấy sự to rộng của pháp thì đều khai hóa khiến họ lý giải được Pháp thân là một, không quá khứ, vị lai và hiện tại, ba đời bình đẳng.

5. Sao gọi là Phật nhãn? Người mê lầm chẳng biết nẻo giác ngộ chánh chân, bị ấm cái che phủ, ví như người ngủ mê thì hiện hạnh bốn Đẳng tâm, bốn Nhiếp pháp, Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ, Thiện quyền phương tiện, rồi tùy lúc mà giáo hóa, tiến lùi thuận hợp, chẳng mất tất cả, đều khiến đạt được, đều phát tâm đạo Vô thượng Chánh chân.

Bồ-tát Phổ Trí lại hỏi:

–Tại sao kinh này gọi là Độ Thế Phẩm?

Đức Phật dạy:

–Tất cả chúng sinh bị trói buộc ở thế gian. Sao gọi là trói buộc? Sự che lấp của năm ấm, sáu trần, đường sinh tử triền miên, chúng sinh không thể tự cứu vớt nên phải dùng phương tiện quyền xảo nơi trí Độ vô cực để trừ diệt năm ấm, lìa bỏ sáu trần, chẳng kể ngã, ngã sở, chẳng ở sinh tử, chẳng trụ Diệt độ. Ví như mặt trời, mặt trăng ngày đêm tỏa ra ánh sáng. Như vậy quyền tuệ bỗng nhiên không dấu vết, đức như hư không, không thể ví dụ, nên gọi là Độ Thế Phẩm.

Đức Phật nói như thế xong, Bồ-tát Phổ Trí, Bồ-tát Phổ Hiền, những vị trong pháp hội, các chúng Trời, Rồng, Quỷ, thần, A-tu-luân nghe điều Đức Phật nói không ai là không hoan hỷ, kính lễ Đức Phật và lui ra.


[Đầu trang][QUYỂN 1][QUYỂN 2][QUYỂN 3][QUYỂN 4][QUYỂN 5][QUYỂN 6]


[Mục lục bộ Hoa Nghiêm][274][275][276][277][278.1][278.2][279.1][279.2][280][281][282][283][284][285][286][287][288][289][290][291][292][293.1][293.2][294][295][296][297][298][299][300][301][302][303][304][305][306][307]


[Mục lục tổng quát]