TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ HOA NGHIÊM(0274-0307)

SỐ 299 - KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG TỔNG TRÌ BẢO QUANG MINH

Hán dịch: Đời Triệu Tống, Sa-môn Pháp Thiên.

MỤC LỤC

QUYỂN 1

QUYỂN 2

QUYỂN 3

QUYỂN 4

QUYỂN 5


QUYỂN 1

Tôi nghe như vầy:

–Một thời, ở núi Linh thứu thuộc thành Vương xá, Đức Thế Tôn cùng với đại chúng Tỳ-kheo trăm ngàn người hội đủ, chư vị đều viên mãn tất cả bạch pháp, có trí tuệ vô lượng như bậc đại sư tử gầm rống, trí tuệ vô lượng được lợi ích lớn. Chúng Đại Bồ-tát gồm: Đại Bồ-tát Phổ Hiền, Đại Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Đại Bồ-tát Thường Hiện, Đại Bồ-tát Công Đức Trang Nghiêm, Đại Bồ-tát Phước Đức Âm, Đại Bồ-tát Đại Tuệ, Đại Bồ-tát Đức Nghiêm, Đại Bồ-tát Kim Cang Tuệ, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, Đại Bồ-tát Kim Cang Quang, Đại Bồ-tát Kim Cang Khí Trượng, Đại Bồ-tát Diệu Kim Cang, Đại Bồtát Trì Địa, Đại Bồ-tát Hiện Nhất Thiết Pháp, Đại Bồ-tát Quán Tự Tại, Đại Bồ-tát Đắc Đại Thế Chí, Đại Bồ-tát Kiên Lao Tuệ, Đại Bồ-tát Kim Cang Cát Tường, Đại Bồ-tát Kim Cang Thủ, Đại Bồ-tát Diệu Cát Tường, Đại Bồ-tát Diệt Ác Thú, Đại Bồtát Trừ Nhất Thiết Phiền Não Tuệ, đạo Bồ-tát An Tường Bộ, Đại Bồ-tát Ly Thủ Xả, Đại Bồ-tát

Chiên-đàn Hương, Đại Bồ-tát Hải Tuệ, Đại Bồ-tát Nan Thắng, Đại Bồ-tát Bảo Thắng, Đại Bồ-tát Tuệ Hạnh, Đại Bồ-tát Biện Tích, Đại Bồ-tát Diệu Hương, Đại Bồ-tát Từ Thị. Vô lượng các Đại Bồtát như vậy đều an trụ nơi pháp môn Chánh định giải thoát dũng mãnh, không thể nghĩ bàn do cũng chứng đắc được vô lượng âm thanh bất không, quán tất cả âm thanh nơi các cõi Phật vắng lặng an ổn, thọ mạng vô lượng nên được tiếng tốt, không chấp trước cũng không hủy hoại ba cõi, làm quyến thuộc với bậc Nhất thiết trí, sinh ra vô lượng các Tam-ma-địa, Tam-ma-địa bát-để, được viên mãn các nguyện, thảy đều đạt đến Bát-nhã ba-la-mật, được thân ngữ ý nghiệp bất không, được an trụ vào Trí Nhất thiết trí, vô lượng hạnh nguyện, hiểu rõ pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện.

Chúng các Đại Bồ-tát như vậy đều đến dự hội này. Bấy giờ, trong chúng hội, Đại Bồ-tát Phổ Hiền rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật và thưa:

–Bạch Thế Tôn! Làm sao biết được pháp giới? Phật dạy:

–Thiện nam! Pháp giới này vô tánh không thể biết được. Vì sao? Này thiện nam! Giống như hư không, lìa các hý luận, chẳng phải lìa các hý luận là chẳng phải chấp giữ, chẳng phải là xả bỏ, chẳng phải tánh, chẳng phải vô tánh, cũng không có xứ sở. Vì thế nên nhận bết pháp giới như vậy.

Bồ-tát Phổ Hiền lại thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có bao nhiêu Bồ-đề?

Phật dạy:

–Thiện nam! Bồ đề có vô lượng tướng không thể lường tính được.

Bồ-tát Phổ Hiền thưa:

–Bạch Thế Tôn! Làm sao phân biệt pháp giới?

Phật dạy:

–Thiện nam! Pháp giới vốn không có phân biệt. Bồ-tát Phổ Hiền thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu pháp giới không thể phân biệt thì làm sao chúng sinh phàm phu có thể hiểu biết được?

Phật dạy:

–Thiện nam! Có phân biệt tức là do tất cả chúng sinh mê muội nên đối với cái không phân biệt được dấy khởi phân biệt.

Bồ-tát Phổ Hiền thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-đề của Như Lai thâm sâu vi diệu như vậy thật là khó lãnh hội.

Phật dạy:

–Thiện nam! Đúng vậy, đúng như lời ông nói.

Phật lại bảo:

–Thiện nam! Bồ-đề là tất cả pháp, xa lìa các hý luận, vì vậy không có phân biệt.

Khi ấy, Đồng tử Diệu Cát Tường đang ngồi trong chúng hội liền đứng dạy đảnh lễ Phật và thưa:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn giảng nói pháp môn Tổng trì Bảo quang minh cho chúng con.

Phật dạy:

–Thiện nam! Ông nay hãy hỏi Đại Bồ-tát Nhất Thiết Pháp Hải Biện Tài, Bồ-tát ấy sẽ giảng cho.

Lúc đó, ở trước Như Lai, Đồng tử Diệu Cát Tường chắp tay thưa:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai là bậc Nhất thiết trí, thấy biết tất cả, tại sao Như Lai không thuyết giảng?

Phật dạy:

–Thiện nam! Vì đã có Đại Bồ-tát như vậy nên Như Lai không thuyết giảng.

Diệu Cát Tường thưa:

–Bạch Thế Tôn! Tại sao Như Lai không tự giảng nói, Như Lai bỏ chúng con sao?

Phật dạy:

–Thiện nam! Ta không bỏ cảnh giới hữu tình mà vì muốn hiển bày đối chiếu chỗ nêu giảng không thể nghĩ bàn của Bồ-tát ấy.

Đồng tử Diệu Cát Tường thưa:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Như Lai từ bi thương xót mà giảng nói pháp môn Tổng trì Bảo quang minh cho chúng con.

Phật dạy:

–Thiện nam! Ông nên hỏi Bồ-tát Phổ Hiền, chắc chắn Bồ-tát ấy sẽ nói pháp môn đó cho ông.

Thiện nam! Nên biết Đại Bồ-tát này có trí tuệ vô lượng.

Đồng tử Diệu Cát Tường thưa:

–Nếu Như Lai bảo con hỏi Đại Bồ-tát Phổ Hiền thì con sẽ hỏi.

Phật dạy:

–Diệu Cát Tường! Ông hãy tự mình chứng đắc vô số pháp môn Tam-ma-địa, sao lại hỏi Như Lai? Diệu Cát Tường thưa:

–Bạch Thế Tôn! Như hôm nay, chẳng những chỉ pháp của một Đức Phật giảng nói ra mà cho đến tất cả pháp thật tánh chân như của tất cả Như Lai giảng nói, con đều có thể ghi nhớ, thọ trì, không quên.

Phật dạy:

–Lành thay! Thiện nam! Ông nay đã khéo nêu bày!

Phật dạy:

–Diệu Cát Tường! Ông nên hỏi Đại Bồ-tát Phổ Hiền về pháp môn Tổng trì.

Khi ấy, Đồng tử Diệu Cát Tường thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát Phổ Hiền này đã thấu hiểu về thật tướng của pháp hành Đại thừa.

Phật dạy:

–Này thiện nam! Các ông đều là con của bậc Đại Pháp vương tự tại thì sao khác nhau được. Các ông đã có phước đức vô lượng, thông đạt về pháp không, chứng đắc pháp môn chánh định giải thoát chẳng thể nghĩ bàn.

Khi ấy, Đồng tử Diệu Cát Tường vâng lời Phật dạy, đến trước Đại Bồ-tát Phổ Hiền, chắp tay cung kính, thưa:

–Phật tử! Xin hãy vì tôi mà giảng nói pháp môn nhị tự.

Bồ-tát Phổ Hiền đáp:

–Thiện nam! Ông hỏi pháp môn nhị tự nào?

Đồng tử Diệu Cát Tường thưa:

–Phật tử! Hai chữ Giác và người Giác, tướng ấy như thế nào?

Bồ-tát Phổ Hiền nói:

–Này Phật tử! Giác vốn vô tướng, vô tánh, chẳng thể nghĩ bàn, không có các thứ lớp, lìa các hý luận, cũng chẳng phải lìa hý luận, chẳng phải là chỗ bàn luận có thể đạt tới. Vì thế, tánh giác của chư Phật là như vậy.

Diệu Cát Tường thưa:

–Phật tử! Nếu Phật pháp chẳng phải là hý luận thì tại sao Phật pháp lại nói như thế?

Bồ-tát Phổ Hiền nói:

–Vì xa lìa ngôn ngữ nên nói như vậy.

Diệu Cát Tường hỏi:

–Vì sao xa lìa ngôn ngữ?

Bồ-tát Phổ Hiền đáp:

–Vì trí xa lìa mọi ngôn thuyết.

Diệu Cát Tường hỏi:

–Làm thế nào biết trí?

Phổ Hiền đáp:

–Trí vô tánh cũng chẳng phải là vô tánh.

Diệu Cát Tường hỏi:

–Tại sao trí vô tánh, cũng chẳng phải là vô tánh? Thế thì tại sao giảng nói pháp ba thừa?

Bồ-tát Phổ Hiền đáp:

–Pháp giới xa lìa cấu nhiễm làm sao nói được.

Đồng tử Diệu Cát Tường nói:

–Tại sao tất cả pháp cũng vô tánh, thế thì tại sao nói tánh của Như Lai, tánh của năm uẩn vô lậu là không thể thủ đắc? Thế nào là Bồ-đề có hý luận? Bồ-tát Phổ Hiền đáp:

–Phật tử! Bồ-đề không có hý luận, chẳng phải xa lìa hý luận. Bồ-đề ấy có hý luận cũng chẳng phải là hý luận, tức chẳng phải thuộc ngôn ngữ, chẳng phải thuộc thuyết giảng.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ-tát Phổ Hiền:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Như lời ông nói, pháp môn chẳng thể nghĩ bàn này thật là sâu xa, Huyền diệu, là lời nói chân thật mà trong cõi trời, người không có ai có thể thấu đạt.

Đồng tử Diệu Cát Tường thưa:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp đều không thể biết, không thể thấy được, không có pháp nào có thể nêu bày được.

Phật dạy:

–Thiện nam! Đúng vậy! Đúng vậy!

Bồ-tát Phổ Hiền lại thưa:

–Bạch Thế Tôn! Pháp môn thanh tịnh này khó hiểu, khó nhận biết được.

Phật dạy:

– Đúng vậy! Đúng vậy!

Lúc ấy, Bồ-tát Hải Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Phổ Hiền đã khéo nêu bày về pháp môn thanh tịnh như vậy.

Phật dạy:

–Thiện nam! Đúng vậy. Lại nữa tất cả pháp đều thanh tịnh cũng như được tưới mát do trận mưa pháp lớn này.

Lúc ấy, Bình Đẳng Tịch Tĩnh Bà-la Đại Sa-la Tử thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-đề bình đẳng, không thể nghĩ bàn, xa lìa tướng văn tự, không thể thấy, lìa các sắc tướng.

Phật dạy:

–Thiện nam! Đúng vậy. Tánh của pháp giới xa lìa hết thảy các tướng.

Khi ấy, Đồng tử Diệu Cát Tường thưa:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao tánh không lìa âm thanh, hình sắc, tướng tốt?

Phật dạy:

–Diệu Cát Tường! Tánh không lìa mọi âm thanh, hình sắc, lìa các ngôn thuyết, cũng chẳng phải là lìa ngôn thuyết.

Thiện nam! Pháp tánh đúng như vậy. Tánh không lìa văn tự nên nói là không, lại lìa lời nói nên nói là không. Không là tự tánh của tất cả các pháp.

Lúc đó, trưởng lão Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai quán Bồ-tát chứng đắc pháp này có được sự giải thoát biến hiện chẳng thể nghĩ bàn không?

Phật bảo trưởng lão Xá-lợi-phất:

–So với trí tuệ của A-la-hán thì trí tuệ của Bồtát mới phát tâm sâu xa hơn, huống là trí tuệ của Bồ-tát này. Vì sao? Vì Bồ-tát mới phát tâm sẽ được thành Phật, còn A-la-hán cuối cùng cũng không thể đạt được.

Bấy giờ, Bồ-tát Nhất Thiết Pháp Tự Tại Vương thưa:

–Bạch Thế Tôn! Theo lời Phật dạy, con đã hiểu rõ. Thanh văn này đúng là không chứng đắc pháp Thanh văn.

Phật dạy:

–Thiện nam! Thanh văn không phải là chứng không đắc pháp Thanh văn.

Lại nữa, nếu so sánh trí tuệ giữa Thanh văn và Bồ-tát thì khác nhau, nên trí tuệ của hàng Thanh văn không sánh kịp.

Khi ấy, Diệu Cát Tường Thưa:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai nói Tôn giả Xá-lợi-phất đạt được trí tuệ bậc nhất?

Phật bảo Diệu Cát Tường:

–Như lời Ta nói, thật không nên thủ đắc.

Đồng tử Diệu Cát Tường nói với trưởng lão Xá-lợi-phất:

–Trưởng lão! Làm sao ông đạt được pháp Thanh văn?

Xá-lợi-phất thưa:

–Tôi không có chỗ đắc.

Diệu Cát Tường hỏi:

–Ông lẽ nào không phải là phàm phu chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

–Không.

Diệu Cát Tường hỏi:

–Tại sao ông cần phải học?

Xá-lợi-phất đáp:

–Tôi không có chỗ học.

Diệu Cát Tường hỏi:

–Làm sao ông được trí tuệ bậc nhất?

Xá-lợi-phất đáp:

–Tôi cũng không được.

Diệu Cát Tường lại hỏi:

–Ông chẳng phải là phàm phu, cũng chẳng phải là trí tuệ bậc nhất. Vậy ông là người gì?

Xá-lợi-phất đáp:

–Này thiện nam! Tôi cũng không biết. Trí tuệ của ông vô lượng, ví như biển cả. Vì thế tôi không thể so sánh với ông được.

Diệu Cát Tường bảo:

–Này Trưởng lão Xá-lợi-phất! Chớ nên nói như vậy! Ông tuổi cao, nhiều phước đức, vì sao lại khiêm nhường như vậy?

Xá-lợi-phất thưa:

–Tôi tuy lớn tuổi nhưng không có phước đức cũng không có thắng đắc gì.

Lại nữa! Ví như tất cả sự sai biệt nơi vạn pháp, giống như ngọn núi cao lớn bị chày kim cang đập một lần thì tan nát như bụi. Này thiện nam! Ông cũng như vậy, trong mỗi lỗ chân lông có lượng trí tuệ số như vi trần. Nếu tất cả chúng sinh thảy đều như tôi thì cũng không sinh kịp, huống chi chỉ có một mình tôi, vì thế tôi nay không dám nhận. Ví như con voi dữ, thân mình to lớn, sức lực rất mạnh, nhưng người ta dùng móc sắt thì có thể điều phục được nó. Tôi cũng như vậy. Vì sao? Vì ông có sức trí tuệ lớn, còn sức tôi rất yếu kém. Các ông giống như rồng lớn, làm sao sức tôi so sánh với các vị được.

Trưởng lão Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Như người mù bẩm sinh muốn đến các nơi khác nhưng trên đường đi, nhất định người ấy không thể nhìn thấy thành ấp đó, thế thì làm sao có thể đi khắp nơi? Cũng vậy, con đối với Bồ-tát Diệu Cát Tường cũng như người mù bẩm sinh kia. Phật đạo sâu xa, vi diệu làm sao biết được. Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Ông chớ nói vậy! Oai đức của Như Lai có thể làm cho tất cả chúng sinh vừa nghe qua liền đạt được pháp này, huống chi là ông đã chứng đắc chánh định chẳng thể nghĩ bàn ấy.

Lúc Đức Thế Tôn giảng nói về pháp này, trong hàng trời, người có chín vạn hai ngàn chúng sinh đều chứng được pháp đó.

Bấy giờ, nương vào oai thần của Phật, Bồ-tát Pháp Tuệ nhập Tam-muội tên là Bồ-tát Vô biên tương ưng bảo quang minh. Sau đó, nhập vào mười phương thế giới nhiều như số vi trần nơi mười ngàn cõi Phật. Nơi mỗi mỗi phương đều có chư Phật Thế Tôn nhiều như số vi trần nơi mười ngàn cõi Phật.

Tất cả chư Phật đều hiện tiền.

Lúc đó, chư Phật Thế Tôn bảo Bồ-tát Pháp Tuệ:

–Một phương như thế thì mười phương cũng như vậy.

Chư Phật Thế Tôn khen ngợi:

–Lành thay! Lành thay! Pháp Tuệ! Ông có thể nhập vào Tam-ma-địa Bồ tát vô biên tương ưng này.

Lại nữa, thiện nam! Khi ấy, ở mỗi mỗi phương đều có ngôi vị Như Lai nhiều như số vi trần nơi mười ngàn cõi Phật trong mười phương. Tất cả các Như Lai ấy đều có chung một hiệu là Thế Tôn Tỳlô-giá-na Như Lai, do diệu lực oai đức ban đầu nên được thiện lợi lớn cho đến chuyển pháp luân, chư Phật ấy đồng nói bài kệ rằng:

Phật trí vốn thanh tịnh
Ở khắp các pháp giới
Quán sát cõi chúng sinh
Thể nhập trí vô ngại
Pháp tương ưng tột bậc
Tất cả ngôn ngữ hay
Mau đắc Nhất thiết trí
Được viên mãn các pháp
Đủ trí tuệ ba đời
Khéo nói pháp như vậy.

Thiện nam! Nhờ sức oai thần của Phật nên ông nói pháp môn thập trụ của Bồ-tát.

Khi đó, chư Phật Thế Tôn đều dùng trí vô ngại chiếu khắp. Bồ-tát Pháp Tuệ lại được pháp môn chánh định gọi là Vô ngại, vô đoạn, pháp chẳng không, trí chẳng không, vô lậu, vô tế, vô tận, vô lai, vô khứ, vô biên, bản tánh không vướng mắc, chư Phật Thế Tôn đều đưa tay phải xoa nơi đỉnh đầu của Bồ-tát Pháp Tuệ. Được chư Phật nơi xoa đỉnh rồi, Bồ-tát Pháp Tuệ xuất định, bảo các Bồtát:

–Các Phật tử! Dòng tộc, họ hàng của Bồ-tát rộng lớn vô lượng, khắp cả pháp giới, hư không giới. Đại Bồ-tát đã sinh trong dòng họ của Như Lai quá khứ, đang sinh trong dòng họ của Như Lai hiện tại, sẽ sinh trong dòng họ của Như Lai vị lai.

Các Đại Bồ-tát ấy nói với Bồ-tát Pháp Tuệ:

–Phật tử! Theo như ông nói, tại sao các Đại Bồtát ấy được sinh trong dòng họ của Như Lai đời quá khứ, hiện tại, vị lai? Tại sao nói Bồ-tát ấy chứng đắc Bồ-tát trụ?

Các Đại Bồ-tát ấy bảo Bồ-tát Pháp Tuệ:

–Lành thay! Xin Bồ-tát hãy vì chúng tôi mà giảng nói pháp môn thập trụ của Bồ-tát.

Bồ-tát Pháp Tuệ nói:

–Các Phật tử! Pháp môn này chư Phật quá khứ đã nói, chư Phật hiện tại đang nói, chư Phật vị lai sẽ nói. Thực hành pháp thập trụ của Bồ-tát là gì? một là Phát tâm trụ, hai là Trị địa trụ, ba là Tương ưng trụ, bốn là Sinh quý trụ, năm là Phương tiện cụ túc trụ, sáu là Chánh tâm trụ, bảy là Bất thoái trụ, tám là Đồng chân trụ, chín là Vương tử trụ, mười là Quán đỉnh trụ. Này Phật tử! Đó là pháp hành thập trụ của Bồ-tát. Chư Phật Thế Tôn trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai đã nói, đang nói, sẽ nói.

Phật tử! Thế nào là Bồ-tát Phát tâm trụ?

Nghĩa là Bồ-tát này được thấy sắc tướng trang nghiêm, rực rỡ thù thắng, rộng lớn không ai bằng của chư Phật Thế Tôn. Chư Phật thuyết pháp rộng lớn, giáo hóa chúng sinh vô lượng. Bồ-tát này thấy sự biến hiện rộng lớn như vậy, lại nghe pháp rộng lớn chưa từng có, lại thấy sự khổ não của chúng sinh, vì thế Bồ-tát phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Vì cầu Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí của Như Lai, do đó gọi thứ nhất là Phát tâm trụ. Lại tu học mười Lực, những gì là mười?

1. Xứ phi xứ trí lực.

2. Quá hiện vị lai phước nghiệp báo trí lực.

3. Thiền định giải thoát Tam-muội trí lực.

4. Chí nhất thiết xứ đạo trí lực.

5. Vô số chủng chủng giới trí lực.

6. Vô số chủng chủng thắng giải trí lực.

7. Căn thắng liệt trí lực.

8. Túc trụ ức niệm trí lực.

9. Thiên nhãn trí lực.

10. Vô lậu trí lực.

Bồ-tát mới phát tâm nên học mười Trụ lực này. Vì Bồ-tát mới phát tâm ở trong tất cả thời đều cung kính cúng dường chư Như Lai; vì Bồ-tát ấy an trú nơi sự xưng tán Như Lai, vì Bồ-tát ấy là vị chủ nhân tối thượng bậc nhất trong thế gian; Bồ-tát mong cầu trí tuệ tối thượng vô lượng của Phật. Vì cầu Tam-ma-địa tương ưng với tịch tĩnh; vì xa lìa luân hồi, vì chuyển bánh xe chánh pháp; vì nhằm cứu độ tất cả chúng sinh khổ não. Vì sao? Vì cầu pháp chân thật nên phát tâm, vì thường được thân cận các bậc Thiện tri thức nghe pháp, xa lìa sự tán loạn, vì vậy được gọi là Bồ-tát Phát tâm trụ.

Thế nào là Bồ-tát Trị địa trụ?

Phật tử! Bồ-tát Trị địa trụ là Bồ-tát vì chúng sinh trước hết phát mười loại tâm. Đó là: Tâm Tín, tâm Niệm, tâm Tinh tấn, tâm Tuệ, tâm Nguyện, tâm Giới, tâm Hộ pháp, tâm Xả, tâm Định, tâm Hồi hướng.

Vì Bồ-tát Trị địa trụ này thường luôn niệm về sự hiểu không dứt, thường thích phụng sự, cúng dường, thân cận các bậc Thiện tri thức ở mọi lúc, vì thường chánh niệm, tỉnh giác; vì nói lời khiêm nhường, cung kính; vì cầu trí tuệ vô úy, kiên cố; vì hướng đến Trí Bồ-đề; vì cầu tịch tĩnh, dũng mãnh; vì cầu diệu pháp, xa lìa các hư vọng; vì tâm không mê lầm. Vì sao? Vì phát tâm thành thật như vậy, vì cầu tất cả Phật pháp, cho đến tùy nơi nào có Thánh pháp thì tự mình đến đó, thường thân cận các bậc Thiện tri thức để nghe pháp, xa lìa tán loạn, không bao giờ dừng bỏ. Vì vậy, gọi là Bồ-tát Trị địa trụ.

Thế nào là Bồ-tát Tương ưng trụ?

Bồ-tát hành tương ưng trụ này có mười pháp quán cầu nhất thiết pháp. Đó là cầu tất cả pháp vô thượng, xa lìa tất cả lo buồn khổ não, quán pháp không có tự tánh, tánh không không có thể tướng, tất cả pháp không thường còn, tất cả pháp không thể lường tính được, xa lìa tất cả nghi hoặc, không thể cải biến được, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải lấy, chẳng phải bỏ.

Bồ-tát tương ưng trụ lại phải quán tất cả các giới: Chúng sinh giới, pháp giới, thế giới, địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, hư không giới, Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới đều bình đẳng. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp bình đẳng, vì đến khắp mười phương cầu thắng pháp, ở trước chư Phật thân cận nghe pháp, thọ trì, xa lìa các niệm tán loạn liên tục không gián đoạn. Vì vậy gọi là Bồ-tát Tương ưng trụ.

Thế nào gọi là Bồ-tát Sinh quý trụ?

Đó là Bồ-tát được sinh mười thứ tịnh nghiệp viên mãn, hiểu rõ lời Phật dạy. Mười pháp là: Bồtát này thuyết pháp, chúng sinh đều tôn kính, lãnh thọ, dần dần tăng trưởng tâm kiên cố không thoái lui, thông suốt các pháp, quán các thế gian không hoại diệt, quán tất cả tánh của nghiệp, xa lìa vọng tưởng, quán các quả báo, không chấp thủ, không xả bỏ, quán luân hồi không có tướng tới lui, quán Niết-bàn trong lặng tịch tĩnh. Vì Bồ-tát Sinh quý trụ quán pháp Phật quá khứ bình đẳng, luôn luôn nghĩ không quên; vì quán pháp Phật vị lai bình đẳng, nguyện sẽ học; vì quán pháp Phật hiện tại bình đẳng, siêng năng tu tập. Vì quán pháp của chư Phật bình đẳng như vậy, cho nên ở trong ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều được hòa nhập, tu tập như vậy, nhớ nghĩ không quên, ân cần cung kính tất cả pháp Phật. Bồ-tát quán học Phật pháp quá khứ, vị lai, hiện tại bình đẳng, tăng trưởng. Bồ-tát Sinh quý trụ quán sát như vậy, hồi hướng đến tất cả Phật pháp, vì đều tu tập tăng trưởng bình đẳng rộng khắp. Vì sao? Vì ba đời bình đẳng tối thắng chân thật, không hư dối, cho đến nghe nơi nào có pháp như vậy thì đích thân mình đến tìm cầu, siêng năng học hỏi, tâm không tán loạn niệm niệm liên tục không hề gián đoạn. Thế nên gọi là Bồ-tát Sinh quý trụ.

Thế nào gọi là Bồ-tát Phương tiện cụ túc trụ?

Bồ-tát hành Phương tiện cụ túc trụ, quán vô lượng, vô biên, a-tăng-kỳ chẳng thể nghĩ bàn về cõi chúng sinh không gì sánh, giống như hư không không sinh, không diệt, tự tánh thanh tịnh, bình đẳng với chân đế pháp tánh. Bồ-tát quán sát tất cả chúng sinh như vậy gọi là Bồ-tát hành Phương tiện cụ túc trụ. Bồ-tát này có mười việc tu hành nghiệp lành, làm phương tiện tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh. Đó là làm cho tất cả chúng sinh không thoái chuyển tâm Vô thượng Bồ-đề, thương yêu chúng sinh không bỏ, làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh, thương xót tất cả chúng sinh, muốn làm cho chúng sinh đều được đạo giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, tẩy sạch tất cả nghiệp chướng cấu uế của chúng sinh, thâu phục tất cả chúng sinh, muốn làm cho tất cả chúng sinh vui vẻ, không chán nản, dùng các phương tiện để hướng dẫn các chúng sinh, muốn làm cho tất cả chúng sinh đạt được Niết-bàn tịch diệt, an lạc. Bồ-tát hành Phương tiện cụ túc trụ này nghe nơi nào có pháp này thì đích thân đến tìm cầu học hỏi, tu tập, mỗi niệm liên tục tâm không tán loạn. Đó gọi là Bồ-tát Phương tiện cụ túc trụ.

Thế nào gọi là Bồ-tát Chánh tâm trụ?

Bồ-tát hành Chánh tâm trụ có mười pháp cần phải ưa nghe, siêng năng tìm cầu, đối với Phật pháp được chánh tâm trụ. Đó là nói Phật có sắc, không sắc, đối với Phật pháp được chánh tâm trụ; nói pháp có sắc không sắc, đối với Phật pháp được chánh tâm trụ; nói các hạnh của Bồ-tát có sắc, không sắc, đối với Phật pháp được chánh tâm trụ, như vậy cho đến nói cảnh giới của chúng sinh, cảnh của đại sinh chúng sinh, cảnh giới của chúng sinh có phiền não, cảnh giới của chúng sinh không có phiền não, cảnh giới của chúng sinh dễ hóa độ, cảnh giới của chúng sinh khó hóa độ, cho đến đại pháp giới, pháp giới xuất sinh, cảnh giới hữu sắc, cảnh giới vô sắc, cảnh giới hữu pháp, cảnh giới vô pháp. Bồ-tát hành Chánh tâm trụ như thế cho đến ở trong Phật pháp được nghe pháp này, đó là Bồtát chứng đắc chánh tâm trụ. Lại nữa, Bồ-tát này nhờ nghe mười thứ pháp nên thể nhập nghĩa lý, siêng năng tìm cầu cho đến nghe tất cả pháp vô thượng cũng đều tu học. Đó là vô tướng, vô tánh, vô thật, vô nhiễm, xa lìa, không chấp trước, không có tự tánh, như huyễn, như mộng, xa lìa các nghi hoặc. Nhờ nghe tất cả pháp như vậy, nên Bồ-tát siêng năng tu tập. Vì sao? Vì Bồ-tát hành Chánh tâm trụ này thể nhập pháp môn chân thật. Như vậy cho đến nghe nơi nào nói pháp như thế, Bồ-tát đều đích thân đến tìm cầu học hỏi, siêng năng tu tập, niệm niệm liên tục, tâm không tán loạn. Đó gọi là Bồ-tát Chánh tâm trụ.

Thế nào là Bồ-tát Bất thoái trụ?

Bồ-tát hành Bất thoái trụ này nghe mười pháp không chấp trước, đối với Phật pháp tâm không thoái chuyển. Mười pháp là: Nghe chẳng phải có Phật, cũng chẳng phải không có Phật, Bồ-tát này đối với Phật pháp tâm không thoái chuyển; chẳng phải có pháp cũng chẳng phải không có pháp, đối với Phật pháp tâm không thoái chuyển; Chẳng phải có Bồ-tát cũng chẳng phải không có Bồ-tát, đối với Phật pháp tâm không thoái chuyển; chẳng phải chấp thủ nơi Bồ-tát, cũng chẳng phải không chấp thủ nơi Bồ-tát, chẳng phải xa lìa hạnh Bồ-tát, cũng chẳng phải không xa lìa hạnh Bồ-tát. Bồ-tát chẳng phải là có ra đời, cũng chẳng phải là không ra đời, đối với Phật pháp, tâm không thoái chuyển. Chư Phật quá khứ chẳng phải đi, cũng chẳng phải không đi. Chư Phật vị lai chẳng phải đến, cũng chẳng phải không đến. Chư Phật hiện tại chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ. Trí tuệ của chư Phật ba đời như vậy là bình đẳng một tướng, vô tướng, chẳng phải tận cùng, cũng chẳng phải không cùng tận, xa lìa các chướng ngại. Bồ-tát nghe pháp như vậy nên chẳng phải đối với Phật pháp tâm không thoái chuyển. Đó gọi là Bồ-tát Bất thoái trụ.

Bồ-tát này lại nghe mười pháp khác có thể tu tập. Đó là: vì nghe một hay nhiều chúng sinh siêng năng tu tập tất cả các pháp. Thắng nghĩa đế này là vì một hay nhiều duyên khởi nên là Thắng nghĩa đế. Tức là tánh vô tánh, tức tướng vô tướng, tức hữu sắc tức vô sắc, xa lìa các tướng tốt, tâm quyết định siêng năng tu tập. Vì sao? Vì nghe nhân quả của tất cả các pháp như vậy nên thông suốt, các pháp chân thật vô ngại. Như vậy cho đến nghe ở nơi nào nói pháp như thế, Bồ-tát liền đích thân đến tìm cầu học hỏi tu tập, niệm niệm liên tục, tâm không tán loạn. Vì thế gọi là Bồ-tát Bất thoái trụ.

Thế nào gọi là Bồ-tát Đồng chân trụ?

Bồ-tát Đồng chân trụ được mười pháp. Đó là: được thân nghiệp thanh tịnh, khẩu nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh, quán sát được sự khởi động tâm niệm của tất cả chúng sinh, chỗ bố thí của các chúng sinh ấy Bồ-tát đều biết, có thể biết sự giải thoát chúng sinh như vậy, có thể biết các loại giới của chúng sinh, pháp giới, thế giới, địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, hư không giới, Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Các cõi như vậy, Bồ-tát đều biết rõ, dùng thần thông nhanh nhẹn, tùy niệm mà sinh đến, đó gọi là Bồ-tát Đồng chân trụ.

Lại nữa, Bồ-tát này nghe mười thứ pháp có thể tu tập. Đó là: nghe trí tuệ nơi tất cả cõi Phật, sự chấn động nơi tất cả cõi Phật, quán tất cả cõi Phật, tìm cầu nơi tất cả cõi Phật, du hành nơi tất cả cõi Phật, đi đến vô số thế giới, học hỏi vô số nghĩa lý, xa lìa các loại tự tánh sai khác, phát tâm trong một niệm có thể đi khắp vô số cõi Phật để nghe pháp tu tập. Vì sao? Vì nghe pháp chân thật như vậy, nên thông suốt, hiểu rõ về đệ nhất nghĩa cho đến nghe nơi nào thuyết pháp này, Bồ-tát đều đích thân đến tìm cầu học hỏi, tu tập, niệm niệm liên tục, tâm không tán loạn. Đó gọi là Bồ-tát Đồng chân trụ.

Thế nào gọi là Bồ-tát Pháp vương tử trụ?

Bồ-tát hành Pháp vương tử trụ có mười thứ pháp đều biết rõ. Đó là: biết nơi sinh ra của tất cả chúng sinh, có thể biết phiền não của tất cả chúng sinh, có thể biết sự tham đắm của tất cả chúng sinh, có thể biết xứ sở của tất cả chúng sinh, có thể biết pháp thâm sâu vi diệu của tất cả chư Phật, có thể biết tánh chân thật nơi phương tiện của chư Phật, có thể biết các pháp sai biệt trong thế giới, có thể biết trí tuệ của chư Phật trong ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại, có thể biết pháp rộng lớn không bền chắc của tất cả thế gian, có thể biết chân tánh như như trong lặng tịch tĩnh. Vì vậy gọi là Bồ-tát hành Pháp vương tử trụ. Bồ-tát này lại có mười thứ pháp cần phải siêng năng tu tập. Đó là: khéo học tất cả các hoạt động của vương thành, khéo học tất cả lễ nhạc của vương thành, khéo học tất cả sự an trụ trong vương thành, khéo vào tất cả vương thành, có thể tự tại du hành khắp tất cả vương thành, trụ vào quán đỉnh Pháp vương, trụ vào sự quán sát của Pháp vương, đạt được lực tự tại của Pháp vương, kế thừa ngôi Pháp vương, được sự biện thuyết Pháp vương. Vì sao? Vì tu tập tất cả các pháp chân thật vô ngại. Như vậy, cho đến nghe ở nơi nào nói pháp này, Bồ-tát đều đích thân đến tìm cầu, học hỏi, tu tập niệm niệm liên tục, tâm không tán loạn.

Đó gọi là Bồ-tát Pháp vương tử trụ.

Thế nào gọi là Bồ-tát Quán đỉnh trụ?

Bồ-tát này chứng đắc mười loại thần thông. Đó là: Có thể làm cho các sự vật trong vô số thế giới chuyển động, có thể chiếu sáng vô số thế giới, có thể quán sát vô số thế giới, có thể cùng một lúc nhất tâm tu tập trong vô lượng thế giới, có thể ở trong vô số thế giới thành tựu các nghiệp thiện, đồng thời có thể biết được tâm của các chúng sinh sai biệt ở vô lượng thế giới, cùng một lúc có thể hành vô số tâm hành của mỗi mỗi chúng sinh trong vô số thế giới, đồng thời có thể hiểu rõ các thứ căn, khí của mỗi chúng sinh trong vô lượng thế giới, có thể giáo hóa vô số chúng sinh trong vô lượng thế giới, có thể biết được tác dụng nơi tâm của vô số chúng sinh.

Lại nữa, Bồ-tát quán đỉnh trụ này bí mật thực hành các Phật sự không ai có thể biết được. Vì sao? Vì thân nghiệp không thể biết, khẩu nghiệp không thể biết, ý nghiệp không thể biết, biến hiện không thể biết, quán sát các thứ biến hóa không thể biết, quán hành động trong quá khứ không thể biết, hành động trong mỗi sát-na đều không thể biết, quán trí tuệ không thể biết, tâm ý không thể biết, dụng nơi Nhất thiết trí không thể biết. Bồ-tát hành quán đỉnh trụ địa cho đến Bồ-tát Pháp vương tử vị đều không thể biết. Lại nữa, Bồ-tát quán đỉnh vị lãnh hội mười trụ của Đức Thế Tôn. Đó là: Trí ba đời, trí Phật, trí Pháp, trí phân biệt pháp giới, trí trung biên nơi pháp giới, trí nhận biết hết thảy thế giới vô lượng bình đẳng với pháp giới, trí quán sát soi chiếu tất cả thế giới, trí viên mãn tất cả chúng sinh, trí nhất thiết pháp, trí Phật vô biên. Bồ-tát này trụ vào trí của tất cả chư Phật. Vì sao? Vì Bồ-tát này nghe tất cả diệu lý thật tế nơi Trí, đó gọi là Bồ-tát Quán đỉnh trụ.

QUYỂN 2

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Pháp Tuệ giảng nói pháp mười trụ này cho các Bồ-tát xong lúc ấy, do thần lực của Phật nên ở mỗi phương trong mười phương đều có vô số thế giới nhiều như số vi trần nơi mười ngàn cõi Phật, ở mỗi thế giới đó, đất đều chấn động sáu cách. Đó là rung động khắp, rung động đều khắp, vang động khắp, vang động đều khắp, khua đập khắp, khua đập đều khắp, vọt lên khắp, vọt lên đều khắp, gầm rống khắp, gầm rống đều khắp. Trồi lên khắp, trồi lên đều khắp.

Lại do thần lực của Phật, nên từ nơi hư không lại mưa xuống vô số các thứ mây hoa trời, mây hương cõi trời, mây hương bột cõi trời, mây tràng hoa cõi trời, mây hương xoa cõi trời, mây y phục cõi trời, mây tàng lọng cõi trời, mây báu cõi trời, mây hoa sen thơm cõi trời, mây anh lạc cõi trời, mây các thứ trang nghiêm cõi trời, mưa khắp nơi tất cả các thứ như vậy đều đem cúng dường Phật.

Lại có vô số các thứ âm nhạc vi diệu cõi trời, ở trên hư không, không đánh mà tự vang lên, phát ra âm thanh lớn, chiếu sáng khắp bốn đại châu, núi Tu-di, núi Thiết vi hiện bày khắp mười phương đều để cúng dường. Lúc Bồ-tát Pháp Tuệ thuyết giảng pháp này, tất cả mười phương thế giới đồng thời cũng thuyết giảng pháp mười trụ ấy, cho đến nghĩa lý văn tự không tăng không giảm, thảy đều giống nhau.

Lại nữa, nhờ sức oai thần của Đức Phật, nên nơi mỗi một thế giới nhiều như số vi trần nơi mười ngàn cõi Phật, từ mười phương vân tập đến, đồng bảo Bồ-tát Pháp Tuệ.

–Này Phật tử! Lành thay! Lành thay! Như lời ông nói về pháp mười trụ của Bồ-tát cùng với chúng tôi đồng tên gọi, đồng thuyết pháp, tất cả đều như vậy đồng một tên là Bồ-tát Pháp Tuệ, từ chỗ tất cả chư Như Lai trong mười phương đến đây. Nhờ oai lực của Phật, nên thế giới mây pháp ở tất cả các nơi đồng thời chuyển bánh xe chánh pháp ấy. Như vậy tánh tướng, văn tự, nghĩa lý cũng không tăng, không giảm.

Bấy giờ, do oai lực của Phật nên cả chúng hội đều thấy chúng Bồ-tát kia cùng đến pháp hội ở đây. Như mình đi đến thế giới này, nơi tất cả thế giới trong mười phương, hết thảy bốn đại châu đảnh núi diệu cao, cung trời Đế Thích, tất cả Bồ-tát nhiều như số vi trần nơi mười ngàn cõi Phật cùng vân tập đến, cũng lại như vậy.

Khi ấy, Bồ-tát Pháp Tuệ nương vào oai lực của Phật quán sát chúng hội trong mười phương pháp giới và muốn trình bày lại nghĩa này, liền nói kệ rằng:

Thấy trí thanh tịnh của Như Lai
Lực biến hóa oai nghiêm như vậy
Công đức Mười Lực thật trang nghiêm
Do đó phát tâm Bồ-đề này.
Thấy các lực thần thông như vậy
Thuyết pháp làm lợi ích chúng sinh
Lại thấy các khổ não luân hồi
Vì vậy phát tâm Bồ-đề này.
Ngài Phổ Hiền ở trước Như Lai
Được nghe tất cả biển công đức
Cũng như hư không không có tướng
Vì thế phát tâm Bồ-đề này.
Biết rõ hết thảy các tánh hạnh
Tất cả chỗ sinh và chỗ ở
Những tánh trí mong cầu sai khác
Vì vậy phát tâm Bồ-đề này.
Các nghiệp thiện ác trong ba đời
Quá khứ, hiện tại đến vị lai
Cầu trí tuệ ấy nên tu tập
Do đó phát tâm Bồ-đề này.
Thiền định giải thoát và Tam-muội
Đẳng trì đều thanh tịnh như vậy
Mong cầu trí tuệ cung kính Phật
Các căn lực biến khắp thế gian
Như như sáng trong đều đồng đẳng
Cầu trí tuệ này học nghĩa lý
Vì thế nên phát tâm Bồ-đề.
Bồ-đề giải thoát khắp thế gian
Trong đó đều có vô số ý
Mong cầu trí tuệ vô số luận
Vì thế nên phát tâm Bồ-đề.
Vô số các pháp trong ba giới
Trong đó lại có vô số cõi
Trí cầu tự tánh các cảnh giới
Vì thế nên phát tâm Bồ-đề.
Đến khắp tất cả cầu pháp này
Chỗ nương như vậy được an lạc
Hiểu rõ tự tánh nghĩa chân thật
Vì vậy phát tâm Bồ-đề này.
Trong tất cả các cõi sinh ra
Như chúng sinh nhờ đất mà có
Đều mong cầu vô số mắt trí
Cho nên phát tâm Bồ-đề này.
Quá khứ, hiện tại và vị lai
Tánh tướng chúng sinh như thế nào
Đều biết việc quá khứ như vậy
Vì vậy phát tâm Bồ-đề này.
Tích tụ chúng sinh đầy thế gian
Cho đến nỗi một đều gần gũi
Phiền não của họ đều rõ hết
Do đó phát tâm Bồ-đề này.
Thông suốt hết trí tuệ ba cõi
Và tất cả pháp môn vô tận
Mong cầu trí chân thật như vậy
Vì vậy phát tâm Bồ-đề này.
Tất cả pháp không chỗ nương tựa
Tánh như hư không, không vướng mắc
Mong cầu biết thắng nghĩa chân thật
Vì vậy phát tâm Bồ-đề này.
Làm chuyển động vô số cõi Phật
Cũng làm nước sông biển vọt lên
Cầu trí tuệ Như Lai như vậy
Vì thế nên phát tâm Bồ-đề này.
Từ miệng phóng ra mỗi tia sáng
Áng sáng soi chiếu khắp mười phương
Vì cầu ánh sáng trí tuệ ấy
Do đó phát tâm Bồ-đề này.
Cung cấp thức ăn đồ chơi quý
Cho cõi nước chẳng thể nghĩ bàn
Con nguyện đầy đủ trí như vậy
Vì thế phát tâm Bồ-đề này.
Tất cả chúng sinh và cõi Phật
Đều khiến xa lìa sự giết hại
Nếu cầu pháp này được sống lâu
Vì vậy phát tâm Bồ-đề này.
Giả sử nước ở trong biển lớn
Có thể biết hết số giọt nước
Mong cầu được trí tuệ như vậy
Tất cả các cõi trong mười phương
Số vi trần trong mỗi một cõi
Trí tuệ như vậy hiểu biết hết
Vì thế phát tâm Bồ-đề này.
Quá khứ, hiện tại, vị lai kiếp
Số kiếp tất cả các thế gian
Kiếp số như vậy cần biết rõ
Vì vậy phát tâm Bồ-đề này.
Ba đời tất cả các Như Lai
Cùng với Thanh văn, Bích-chi phật
Tự tánh các pháp đều hiểu rõ
Vì vậy phát tâm Bồ-đề này.
Vô lượng, vô biên các thế giới
Một đầu sợi lông hiện bày đủ
Tánh nơi tự tánh đều nhận biết
Do đó phát tâm Bồ-đề này.
Vô lượng, vô số các thế gian
Trong một sát-na, tiếng vang khắp
Vì cầu trí tuệ, tiếng trong lắng
Cho nên phát tâm Bồ-đề này.
Tất cả ngôn ngữ trong thế gian
Một chữ diễn nói khắp tất cả
Vì biết rõ tự tánh chân thật
Do đó phát tâm Bồ-đề này.
Giáo hóa cho vô số chúng sinh
Trong ba cõi đều được hộ trì
Cầu lưỡi rộng lớn, nói thông suốt
Vì thế phát tâm Bồ-đề này.
Như nói tất cả các cõi Phật
Trong một sát-na có thể thấy
Vì cầu trí vô ngại thuyết pháp
Cho nên phát tâm Bồ-đề này.
Tất cả các cõi của Như Lai
Trong một sát-na đều hiện khắp
Biết Phật pháp chân thật như vậy
Do đó phát tâm Bồ-đề này.
Vô số thế giới như vi trần
Đều do tự tánh mà phát sinh
Vì cầu các trí tuệ như vậy
Cho nên phát tâm Bồ-đề này.
Quá khứ, vị lai và hiện tại
Ba đời chư Phật khắp thế gian
Trong một sát-na đều biết hết
Vì thế phát tâm Bồ-đề này.
Một câu nói ra khó nghĩ bàn
Kiếp tận, lời nói kia không tận
Vì cầu biết ngôn ngữ như thế
Do đó phát tâm Bồ-đề này.
Tám phương tất cả các thế gian
Liên tục nối nhau không gián đoạn
Vì tâm hiểu biết tự tánh ấy
Do đó phát tâm Bồ-đề này.
Ba nghiệp của thân, miệng và ý
Làm tất cả hạnh trong mười phương
Vì muốn hiểu ba đời là không
Nên phát tâm Bồ-đề như vậy
Siêng năng phụng sự bậc Tối thượng
Mười phương vô số kiếp làm xong
Cho nên tôn kính không thoái chuyển.
Các bậc tôn kính ở thế gian
Mỗi mỗi đều biến khắp tám phương
Các Đức Phật đó đều thuyết pháp
Tâm đều tôn trọng, không có thoái chuyển.
Nếu một Bồ-tát được an lạc
Nhờ các hạnh ấy thoát luân hồi
Làm tướng viên mãn các thế gian
Vì thế tôn trọng không thoái chuyển.
Diệu pháp tối thượng rất thù thắng
Thâm sâu, khó hiểu lìa ngôn thuyết
Chư Bồ-tát truyền bá chánh pháp
Vì thế tôn trọng, không thoái chuyển.
Thế gian không trụ cũng không động
Thật hy hữu, khó được như vậy
Pháp âm vi diệu thanh tịnh thuyết
Vì vậy tôn kính không thoái chuyển.
Được sinh trong tất cả Như Lai
Không ngã, không nhân, lìa kiêu mạn
Thường ở trước Phật cầu pháp này
Vì thế siêng năng không thoái chuyển.
Vô số vô biên a tăng-kỳ
Đắc Tam-ma-địa của Như Lai
Thực hành hạnh Bồ-tát như vậy
Vì thế dốc sức không thoái chuyển.
Cho đến được chánh định rốt ráo
Biết rõ là sẽ đến bờ kia
Thuyết pháp của chư Phật như vậy
Vì vậy tôn trọng không thoái chuyển.
Xa lìa luân hồi trong ba cõi
Chuyển bánh xe chánh pháp vi diệu
Khắp các thế gian không gián đoạn
Bồ-tát nên nói pháp như vậy.
Tất cả khổ não trong thế gian
Các tai nạn nguy khốn như vậy
Thương xót tất cả loài hữu tình
Cho nên Bồ-tát phải thuyết pháp.
Ban đầu Bồ-tát nói pháp này
Nhờ đó phát khởi tâm Bồ-đề
Thường luôn trì giới và thuyết pháp
Vì vậy gọi phát tâm trụ.
Bấy giờ, Bồ-tát trị địa trụ
Ban đầu hàng phục tâm như vậy
Làm an lạc lợi ích thế gian
Như Phật xa lìa già bệnh chết.
Tín tâm, tâm niệm và tinh tấn
Tâm tuệ, tâm nguyện và trì giới
Hộ pháp xả ly, không đến đi
Hồi hướng cho hết thảy hữu tình.
Người nào do trụ tâm như vậy
Đọc tụng thọ trì kinh Đại thừa
Tránh nơi huyên náo ở yên tĩnh
Tìm đến tất cả bạn lành thân
Ái ngữ, thân cận Thiện tri thức
Siêng năng tìm cầu trí chân thật.
Thông suốt tất cả các ngôn ngữ
Lý thắng nghĩa đế cũng như vậy
Đã rõ thắng nghĩa của Phật rồi
Xa lìa điên đảo, không nghi hoặc
Bình đẳng an nhiên và trong lặng
Đó là chân Phật tử thuyết pháp
Chứng đắc trị địa trụ như vậy
Các Bồ-tát khéo hay quán sát
Giảng nói pháp mầu phụng sự Phật
Vì vậy Phật tử cần phải học.
Lại nữa, Bồ-tát trụ thứ ba
Trong giáo pháp, mong cầu hạnh Phật
Khổ, không, vô thường đều hiểu rõ
Tất cả tự tánh không đến đi.
Các pháp vốn tịnh, lìa tự tánh
Tâm quyết định thông suốt hiểu rõ
Trụ pháp này không có mê lầm
Phật tử phải nên nói như vậy.
Biết tất cả các cõi chúng sinh
Và mở bày tất cả pháp giới
Thế giới như vậy đều biết hết
Vì vậy gọi là hành tương ưng.
Địa giới, thủy giới cùng hỏa giới
Phong giới, hư không giới cũng vậy
Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới
Các thế giới này đều biết hết
Cho đến các thế giới sai biệt
Đều thấy thể, tự tánh pháp giới
Tôn trọng trí tuệ rộng lớn này
Dũng mãnh tinh tấn cầu Phật trí.
Bấy giờ, Bồ-tát sinh quý trụ
Xuất gia, sinh trong các Như Lai
Có tánh, không tánh tâm quyết định
Thường giữ chánh kiến nơi sinh sống.
Bồ-tát địa này không thoái chuyển
Mong cầu Phật đạo, tâm không chán
Thường tu tập tất cả các pháp
Quán các chúng sinh như tự tánh
Tội ở thế gian như vi trần
Xa lìa luân hồi các quả báo
Phật tử khéo phân biệt sự sinh
Bồ-tát làm cho lìa già yếu.
Quá khứ, hiện tại và vị lai
Hết thảy pháp Trí đều hiểu rõ
Cùng sinh với bạn lành đời trước
Cũng như lúc Đức Phật xuất thế
Tất cả Như Lai đều thù thắng.
Thể nhập tâm bình đẳng ba đời
Hành nhập như vậy sinh tối thượng
Vượt qua các hành của ba đời
Đó là Bồ-tát trụ thứ tư
Thường hay khen ngợi sắc diệu này
Có thể hiểu biết rõ pháp ấy
Biết Bồ-tát kia sinh như vậy.
Bồ-tát tiếp sau là thứ năm
Gọi là phương tiện cụ túc trụ
Các phương tiện giáo hóa chúng sinh
Ưa cầu phước nghiệp đi khắp nơi
Tạp phước đức rộng lớn như vậy
Khiến các chúng sinh đều giải thoát
Hết tâm hồi hướng đều an lạc
Thương chúng sinh khiến lìa ràng buộc
Cứu giúp hoạn nạn trong thế gian
Nhiếp phục khiến họ sinh hoan hỷ
Hướng dẫn mỗi mỗi các chúng sinh
Chứng đắc đại Niết-bàn tịch tĩnh
Vô biên tất cả thế gian
Vô lượng, vô biên số như vậy
Vượt sự tính đếm không gì bằng
Không tánh, không tướng, không cứu cánh
Đó là Bồ-tát trụ thứ năm.
Đủ phương tiện giáo hóa chúng sinh
Đức trí Phật tròn sáng vi diệu
Thị hiện tất cả các công đức
Vô biên tất cả các chúng sinh.
Quán tự tánh pháp, không mê lầm
Trí thấu suốt lưới nghi hữu, vô
Trên trời dưới, thế đều bền vững
Ở nơi Phật, pháp và Bồ-tát
Thường hành diệu hạnh, lìa các sắc
Lúc ấy, vô số các chúng sinh
Chú tâm nghe thuyết pháp phương tiện
Chúng sinh phiền não khiến thanh tịnh
Khó độ, dễ độ đều hàng phục
Mở bày pháp giới rộng hay hẹp
Không đến, không đi, dứt các tướng
Thể tánh pháp giới chẳng có không
Ba đời Bồ-tát thích lãnh thọ
Quán sát tất cả tâm không động
Chuyên chú như vậy nơi Phật pháp
Dứt tánh tướng làm sao có, không
Bản tánh lìa nhiễm, con cũng vậy
Hiểu rõ kiếp tánh như huyễn mộng
Nghe diệu pháp tối thượng như vậy
Bồ-tát bất thoái nên như thế
Ở nơi Phật, pháp và Bồ-tát
Cùng quán hành tướng là có, không
Không lui, không có cũng không không
Như Lai chẳng đi cũng chẳng trụ
Không đến cũng chẳng phải không đến
Sinh và không sinh, diệt không diệt
Có tướng, không tướng chẳng sai khác
Tất cả mọi thứ đều giống nhau
Lý thắng nghĩa đế lìa có không
Các báu trang nghiêm mỗi mỗi khác
Bồ-tát ở đó tâm không chuyển.
Diệu tướng chân như chẳng có không
Dùng trí vô tướng đều biết rõ
Sai biệt như vậy đến hội này
Tất cả cõi trời đều lắng nghe.
Lại nữa Bồ-tát đồng chân trụ
Ba nghiệp thân miệng ý thanh tịnh
Làm các Phật sự không chấp trước
Vì vậy tùy ý được sinh ra
Đều từ chúng sinh hành pháp sinh
Du hành thấy các cõi nước ấy
Trí tuệ tùy ý mau thành tựu
Ân cần cung kính lễ mười phương
Bồ-tát với tâm không khác này
Nghe Phật tuyên bày pháp vi diệu
Biết các cõi nước đều chuyển động
Biết hết tất cả không còn sót.
Du hành, giảng thuyết ở cõi Phật
Sát-na đến khắp vô số cõi
Tùy vấn diễn thuyết vô số nghĩa
Tự tánh sai biệt, tánh cũng vậy.
Phương tiện âm thanh để xem xét
Vô số cõi Phật trong một niệm
Lại nói Bồ-tát vương tử trụ
Mật hạnh chúng sinh không thể lường.
Ngăn trừ vọng tưởng phiền não chướng
Có thể thực hành các diệu hạnh
Phân biệt đời quá khứ, vị lai
Hiểu biết rõ chân đế tục đế
Thật cầu pháp vi diệu như vậy
Khéo dùng phương tiện nhập vương thành
Đi khắp mọi nơi đều như vậy
Qua lại các nơi đều tự tại
Có thể quán sát được vương thành
Giống như diệu pháp quán đỉnh vương
Năng lực oai đức cũng như vậy
Vào được vương thành khéo thuyết pháp
Vì thế gọi là vương tử trụ.
Chư Phật giáo hóa cũng như vậy
Có thể tùy thuận các chúng sinh
Điều ngự xuất thế như vậy Được
an lạc Phật, trụ vương tử.
Phật tử Bồ-tát quán đỉnh trụ
Sống nơi cao tột làm lợi ích
Đếm được lượng nước bằng sợi lông
Tư duy tính toán không thể lường
Thực hành pháp chư Phật như vậy
Cũng như tất cả vô số cõi
Chúng sinh chẳng thể rõ bụi trần
Cho nên nói vô số như vậy.
Tất cả Như Lai và Bồ-tát
Cùng chư Phật quá khứ, vị lai
Từ khắp mười phương trong hiện tại
Cho đến Thanh văn, Bích-chi-phật
Từ lúc phát sinh tâm Bồ-đề
Số lượng như vậy không đếm được.
Số lượng công đức không thể biết
Một niệm tâm Bồ-đề ban đầu
Giáo hóa chúng sinh trong thế giới
Không ai vượt qua được vị ấy.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Phổ Hiền bảo Bồ-tát Pháp Tuệ:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Nay ông khéo nói pháp môn Tổng trì bảo quang minh ấy.

Lại nữa, thiện nam! Các chúng sinh ấy sẽ ưa thích công đức nơi tất cả trí tuệ bất khả tư nghì của chư Phật. Nếu có chúng sinh nào chỉ nghe qua danh hiệu của chánh pháp Tổng trì bảo quang minh này mà không cần phải thọ trì đọc tụng chỉ nhất tâm cung kính thì cuối cùng chắc chắn sẽ chứng đắc quả vị Phật.

Khi ấy, Bồ-tát Pháp Tuệ nói:

–Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Bồ-tát Phổ Hiền nói:

–Các ông đã được trí tuệ thâm sâu của Như Lai quán đỉnh. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào đến dự hội này, được nghe giáo pháp như vậy, hoặc có chúng sinh nào tay cầm quyển kinh này thì các chúng sinh ấy ở trong Phật pháp đã được thọ ký.

Lúc ấy, Trưởng lão Xá-lợi-phất từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Phật và thưa:

–Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con như người mù bẩm sinh, từ xưa đến nay chưa từng được thấy nghe chánh pháp như vậy, chẳng những con mà các chúng sinh đều không được nghe pháp này, tất cả chúng sinh cũng giống như người mù bẩm sinh kia.

Phật bảo:

–Này Trưởng lão, đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn giảng nói cho chúng con nghe chánh pháp thâm sâu chẳng thể nghĩ bàn này.

Phật dạy:

–Xá-lợi-phất! Ông hãy đi đến bảo các vị Phạm vương, Đế Thích, Hộ thế đến dự pháp hội này, ta sẽ nói pháp ấn Tổng trì bảo quang minh tối thắng ngay tại đạo tràng này.

Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất vâng lời Phật dạy, vì đã thưa hỏi pháp môn Tổng trì bảo quang minh này này nên thuận theo Thánh chỉ của Phật, Tôn giả đến chỗ chư Thiên, Phạm vương, Đế Thích, Hộ thế. Đến nơi, Tôn giả nói:

–Phật đang ở đạo tràng Bảo quang chờ các ông đến để cùng nghe và thọ trì pháp này. Bây giờ đã đúng lúc, Như Lai sẽ giảng nói pháp Tổng trì bảo quang minh chẳng thể nghĩ bàn này. Các ông hãy mau đến, chớ để trễ giờ, pháp ấy rất khó gặp, chớ bỏ mất cơ hội, sau sẽ hối tiếc. Pháp bảo tối thắng này, ở đời khó được, thật là hy hữu.

Sau khi nghe nói, chư Thiên liền vận thần thông, trong một khoảnh khắc đều vân tập tới pháp hội. Các vị ấy đến chỗ Thế Tôn, nhiễu bên phải ba vòng, rồi tới trước Đức Phật chắp tay cung kính, thưa:

–Cúi xin Như Lai thương xót chúng con và chúng sinh đời mạt pháp mà giảng nói pháp môn Tổng trì bảo quang minh này.

Lúc đó, Thế Tôn im lặng không đáp.

Chúng trời Phạm vương, Đế Thích, Hộ thế thưa thỉnh như vậy ba lần nhưng Đức Thế Tôn vẫn im lặng. Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Như Lai nói pháp Tổng trì bảo quang minh. Bạch Đức Thiện Thệ! Xin hãy giảng nói cho.

Lúc đó, từ trong lưỡi của Thế Tôn phóng ra các loại âm thanh vang khắp tam thiên đại thiên thế giới, tất cả chúng sinh đều nghe được trong một lúc. Nếu có thiện nam nào vì pháp Tổng trì bảo quang minh này mà thưa thỉnh các Như Lai thì các chúng sinh ấy đều không thoái chuyển nơi đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Đức Thế Tôn lại bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Ông hãy đến thỉnh Đồng tử Diệu Cát Tường giảng nói pháp này. Hiện giờ, Diệu Cát Tường đang ngồi kiết già chánh niệm dưới gốc cây Bátla-xoa-bà-la ở nơi khác, hơn trăm ngàn vạn Câuchi na-dữu-đa ánh sáng mặt trời, mặt trăng, trong lầu gác đại bảo trang nghiêm, Phạm vương, Đế Thích, Hộ thế đều vây quanh cung kính, thân đều cùng một màu hoàng kim, an lành trang nghiêm, ánh sáng rực rỡ.

Tôn giả Xá-lợi-phất vâng lời Phật dạy đến chỗ Đồng tử Diệu Cát Tường. Đến nơi, tôn giả thưa với Đồng tử Diệu Cát Tường:

–Thiện nam! Như Lai mời ông giảng nói pháp Tổng trì bảo quang minh cho chúng tôi.

Diệu Cát Tường nói với Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Như Lai có nghĩa như thế nào?

Xá-lợi-phất thưa:

–Trí tuệ của đồng tử rất thâm diệu, tôi không phải là người cùng bậc, vì thế không dám luận bàn. Diệu Cát Tường nói:

–Thôi đi, Xá-lợi-phất! Ông thật là chậm hiểu.

Nếu ông muốn nghe, ta sẽ nói.

Xá-lợi-phất thưa:

–Tôi muốn nghe, xin Thánh giả giảng rõ cho tôi.

Lúc Đồng tử Diệu Cát Tường nói lời này, tức thì nơi tam thiên đại thiên thế giới cho đến cung trời Thanh tịnh và Thiên chúng, trên đến thiên chúng A-ca-nị-tra, dưới đến bốn Đại Thiên vương và các quyến thuộc, vô số Câu-chi Đại Dược-xoa dẫn các Phạm thiên, Đế Thích, Hộ thế, chư Thiên và các Thiên nữ mỗi mỗi đều muốn nghe pháp này nên đều đến chúng hội. Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cõi trời Tam thập tam, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại, trời Đại phạm, trời A-ca-nị-tra. Các thiên chúng như vậy đều đến hội họp.

Lại có các đại chúng Thanh văn như Tôn giả

Tu-Bồ-đề, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Maha Ca-chiên-diên, Tôn giả A-nậu-lâu-đà, Tôn giả Nga-da Ca-diếp, Tôn giả Ma-ha Câu-hy-la, Tôn giả Tổ-noa Phán-xá-ca, Tôn giả Lê-phạ-da, Tôn giả Nẵng-nĩ Ca-diếp, Tôn giả Ô-lô-vĩ-loa Ca-diếp, tôn giả Bố-la Noa-mai-đát-pha-ni tử, Tôn giả Lahộ-la, Tôn giả Bạt-nại La-ba-la, Tôn giả Ma-sápba, Tôn giả A-nan-đà. Như vậy đại chúng Thanh văn và Da-thâu-đà-la với năm trăm Tỳ-kheo-ni đều đến hội họp.

Lại có Chuyển luân thánh vương và các vua nhỏ, các hàng Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ đều đến pháp hội.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất nhiễu quanh Phật ba vòng rồi thưa:

–Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà hôm nay đại chúng đều đến hội họp đông đúc như vậy?

Làm sao biết được nhân duyên ấy?

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Do oai đức của pháp Tổng trì Bảo quang này.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nay con muốn nghe pháp môn Tổng trì Bảo quang ấy.

Phật dạy:

–Xá-lợi-phất! Ông nên đến thỉnh Đồng tử Diệu Cát Tường và Bồ-tát Phổ Hiền. Hai vị Đại sĩ này sẽ nói cho ông nghe.

Khi đó, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Đồng tử Diệu Cát Tường:

–Xin Thánh giả hãy nói pháp môn Bảo quang chánh định là pháp bảo vi diệu.

Đại sĩ Diệu Cát Tường nói:

–Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Các vị hôm nay muốn nghe pháp Tổng trì bảo quang này chăng?

Xá-lợi-phất thưa:

–Nay bốn chúng các Thiên vương, Phạm vương, Đế Thích, Hộ thế cũng vì muốn nghe pháp này nên đến đây.

Lúc ấy, Đại sĩ Diệu Cát Tường liền bảo Trưởng lão Xá-lợi-phất:

–Này Xá-lợi-phất! Pháp bí yếu ấy như huyễn, như hóa, không thể thấy, nghe, nên nói như thế nào, ai là người nói, ai là người nghe?

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

–Nay tôi muốn nghe, xin Đại sĩ hãy giảng nói.

Diệu Cát Tường hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Nên nói như thế nào?

Xá-lợi-phất đáp:

–Không tức là nói.

Đại sĩ Diệu Cát Tường lại hỏi Tôn giả Xá-lợiphất:

–Nói không như thế nào?

Xá-lợi-phất đáp:

–Không là lìa lời nói.

Diệu Cát Tường hỏi:

–Không này nếu lìa lời nói thì làm sao tôi nói? Tất cả pháp đều lìa lời nói, nếu nói như vậy thì ai là người nghe nhận?

Trưởng lão Xá-lợi-phất đáp:

–Tất cả các pháp đều là lìa văn tự, lời nói, nên nói như vậy. Cho nên nói là Không, Vô tướng, Vô nguyện, không chấp, không xả, không khác, chẳng phải không khác, chẳng phải lìa hý luận, chẳng phải không lìa hý luận.

Khi Đồng tử Diệu Cát Tường và Tôn giả Xálợi-phất nói pháp này thì các Bồ-tát cùng Phạm vương, Đế Thích, Hộ Thế, chư Thiên đều rất vui mừng và khen ngợi.

Lành thay! Thiện nam! Các vị đã khéo giảng nói pháp Tổng trì bảo quang này.

Lúc ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề thưa với Đại sĩ Diệu Cát Tường:

–Đại Bồ-tát làm sao thọ trì, đọc tụng và vì người giảng nói pháp môn Tổng trì bảo quang này? Đồng tử Diệu Cát Tường đáp:

–Pháp Tổng trì này không sinh, thanh tịnh, như lý thọ trì, xa lìa tánh, tướng, không phải là lìa ngôn thuyết, không chấp, không xả. Nên thọ trì và giảng nói pháp môn này như vậy.

Khi Đại sĩ Diệu Cát Tường nói pháp này thì có chín mươi hai Bồ-tát đều được Tam-ma-địa dũng mãnh, lại có sáu mươi hai chúng sinh trong cõi trời, người được Vô sinh pháp nhẫn.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Phổ Hiền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, chắp tay cung kính, thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bi của Đại Bồtát?

Phật dạy:

–Thiện nam! Nếu Đại Bồ-tát nào không lìa bỏ ba cõi, gọi là đại Bi, hoặc làm cho tất cả chúng sinh thấy được các cõi nước thanh tịnh, vi diệu của chư Phật thì gọi là đại Bi, hoặc thương xót, giúp đỡ các chúng sinh phá giới gọi là đại Bi, hoặc làm cho tất cả chúng sinh thân cận, tu tập, mong cầu Bát-nhã ba-la-mật gọi là đại Bi, hoặc vì tất cả chúng sinh không tiếc thân mạng gọi là đại Bi. Cho đến vì các chúng sinh mà đối với đầu, mắt, tủy, não là cái khó xả bỏ mà có thể xả bỏ được, khó làm mà có thể làm được, gọi là đại Bi.

Lại nữa! Đại Bồ-tát vì các chúng sinh không hề có sự phân biệt, đem tâm bình đẳng làm cho chúng sinh được an vui, xa lìa các tà kiến và được giải thoát.

Thiện nam! Đó là đại Bi của Đại Bồ-tát, nên hiểu như vậy.

Đại Bồ-tát Phổ Hiền thưa:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Đức Như Lai đại Từ vô lượng vì các chúng sinh, vì tạo lợi lạc cho thế gian mà nói pháp Tổng trì bảo quang này khiến các hàng trời, người trong đại hội này đều được lợi ích an lạc.

Khi ấy, vì thương xót chúng sinh, nên Như Lai dùng Phạm âm bảo các Đại Bồ-tát:

–Vào đời vị lai, sau năm trăm năm khi chánh pháp sắp diệt, ai trong các ông có thể thọ trì, giảng nói, truyền bá pháp Tổng trì bảo quang này?

Lúc đó, Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Ly Nhất Thiết Ưu Ám, Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Biện Tích, Bồ-tát Xuất Sinh Nhất Thiết Pháp Vương, Bồ-tát Vô Tận Ý, Bồ-tát Hải Tuệ; Bồ-tát Bảo Sư Tử, Bồtát Bảo Hiền, Bồ-tát Bảo Quang, Bồ-tát Bảo Kế, Bồ-tát Quán Tự Tại, Bồ-tát Đẳng Quán, Bồ-tát Bảo Thủ, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Bảo Trang Nghiêm, Bồ-tát Cát Tường Tràng, Bồ-tát Pháp Cát Tường, Bồ-tát Tài Cát Tường, Bồ-tát Phước Đức Cát Tường, Bồ-tát Chiên-đàn Cát Tường, Bồ-tát Pháp

Tuệ, Bồ-tát Cam Lồ Tuệ, Bồ-tát Bất Tư Nghì, Bồtát Phước Đức Trang Nghiêm, Bồ-tát Công Đức Trang Nghiêm, Bồ-tát Tướng Trang Nghiêm, Bồtát Thường Hoan Hỷ Căn, Bồ-tát Chúng Trí Sơn Phong Vương, Bồ-tát Biện Thuyết, Bồ-tát Thường Cử Thủ, Bồ-tát Trì Địa, Bồ-tát Biện Ý, Bồ-tát Hư Không Tạng, Bồ-tát Nguyệt Tạng, Bồ-tát Thanh Tịnh Nguyệt Tạng, Bồ-tát Nhật Tạng, Bồ-tát Xuất Sinh Vương, Bồ-tát Ma-ha Di-lô, Bồ-tát Kiên Lao Tuệ, Bồ-tát Di-lặc, sáu mươi hai trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa Đại Bồ-tát như vậy, đồng thanh thưa:

–Bạch Thế Tôn! Ở đời vị lai, sau năm trăm năm, khi chánh pháp sắp diệt, chúng con sẽ thường thọ trì, giảng nói, truyền bá vì các chúng sinh nói pháp môn Tổng trì bảo quang này.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Thật là hy hữu! Vì chúng sinh các ông có thể phát đại nguyện thanh tịnh như vậy.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Bồ-tát Phổ Hiền:

–Thiện nam! Hãy lắng nghe chánh pháp vi diệu Tổng trì bảo quang này. Ta nói ra là vì muốn đem lại lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh.

Sau khi nói xong, Thế Tôn liền lên ngồi kiết già trên tòa Sư tử Đại bảo trang nghiêm và nói thần chú:

–Nẵng mồ tam mãn đa bạt nại ra dã mạo địa tát đát phạ dã ma hạ tát đát phạ dã ma hạ ca lỗ ni ca dã nhĩ dã tha, án bà ra để bà ra để bà ra bà lãnh đế tát phạ hạ.

Đức Thế Tôn nói ba lần thần chú Tổng trì bảo quang là pháp bảo vi diệu, sâu rộng, tối thượng.

Khi ấy, Đại Bồ-tát Phổ Hiền thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nghĩa của pháp cùng với pháp được nêu bày như thế nào?

Phật dạy:

–Thiện nam! Vô pháp tức là pháp, tức là tất cả nghĩa, là vô tánh nghĩa, nghĩa là tất cả các pháp bình đẳng với nghĩa hư không, nghĩa tất cả pháp tức vô số nghĩa, vô số nghĩa tức là tất cả nghĩa, vô số nghĩa tức là tất cả các pháp.

Bồ-tát Phổ Hiền thưa:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao nói tất cả pháp ấy?

Phật dạy:

–Thiện nam! Ta nói tất cả pháp này nghĩa là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Như vậy là sáu thức và mười hai duyên hành. Vì thế ta nói pháp này, tất cả các pháp cũng vậy. Lại nữa, tất cả các pháp vốn không sinh diệt.

Lúc đó, Đồng tử Diệu Cát Tường thưa với Bồtát Phổ Hiền:

–Bồ-tát thọ trì pháp môn Tổng trì bảo quang này như thế nào?

Bồ-tát Phổ Hiền đáp:

–Pháp môn Tổng trì bảo quang này nên như pháp mà thuyết, như lý mà thọ trì. Vì sao? Vì tánh vốn không sinh, không diệt, không hình tướng, không rỗng không, không tánh tức là tự tánh, tự tánh tức là không tánh.

Thiện nam! Không nên chấp trước nơi sự thọ trì, quán sát pháp môn Tổng trì bảo quang này. Trí tuệ quyết định rõ ràng như vậy nên an tru, phân biệt, giảng thuyết. Thiện nam! Đây là nghĩa tự tánh của pháp quán Tổng trì bảo quang.

QUYỂN 3

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Đồng tử Diệu Cát Tường:

–Diệu pháp này, tồn tại ở đời bao lâu?

Đồng tử Diệu Cát Tường đáp:

–Như ba độc tham, sân, si.

Xá-lợi-phất hỏi:

–Tham, sân, si tồn tại ở đời bao lâu?

Diệu Cát Tường đáp:

–Ba độc này tồn tại ở đời cũng như địa giới.

Xá-lợi-phất hỏi:

–Địa giới tồn tại ở đời bao lâu?

Diệu Cát Tướng đáp:

–Ba độc, địa giới như vô minh giới.

Xá-lợi-phất hỏi:

–Vô minh, ba độc này tồn tại ở đời bao lâu?

Diệu Cát Tường đáp:

–Như hư không giới.

Xá-lợi-phất hỏi:

–Ba độc, hư không giới này tồn tại ở đời bao lâu?

Diệu Cát Tường đáp:

–Như tự tánh, vô tánh nơi pháp.

Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa Đồng tử Diệu Cát Tường:

–Trí tuệ biện tài của các ông như vậy, làm sao sức trí tuệ của tôi có thể sánh bằng.

Đồng tử Diệu Cát Tường đáp:

Lại nữa, vì như tất cả mèo chồn cũng không thể nào dẫm đạp khắp hết núi Tu-di.

Diệu Cát Tường đáp:

–Đúng vậy, đúng vậy! Này thiện nam! Chúng tôi cũng như mèo, chồn kia. Vì sao? Ví như tất cả hàng Thanh văn cùng luận bàn với một số Bồ-tát. Cuối cùng cũng không thể khuất phục được Bồ-tát kia, huống là Đồng tử Diệu Cát Tường này.

Khi ấy, Bồ-tát Phổ Hiền nói với Đồng tử Diệu Cát Tường:

–Ông hãy thưa hỏi Như Lai: Vào đời vị lai, sau năm trăm năm, nên hộ trì Pháp vương Tổng trì bảo quang này như thế nào? Pháp sư nên thường thọ trì kinh như thế nào làm cho được kiên cố?

Lúc ấy, Đồng tử Diệu Cát Tường rời khỏi pháp tòa thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu Pháp sư thọ trì, đọc tụng, giảng nói chánh pháp này cho người khác thì được công đức gì? Phật dạy:

–Diệu Cát Tường! Nếu có Tỳ-kheo nào thọ trì Pháp vương này thì được phát sinh Pháp thân thanh tịnh và sẽ được quả Phật Bồ-đề rốt ráo. Thường được an trụ trong Phật pháp, như vậy mà tâm không thoái chuyển, tất cả Thiên ma và quyến thuộc không thể quấy nhiễu. Nếu thiện nam nào đối với Pháp sư này vừa phát tâm Từ, chỉ có trong chốc lát thì người đó liền được xa lìa luân hồi, cuối cùng được quả Bồ-đề.

Lại nữa, Diệu Cát Tường! Nếu người mà thọ trì Pháp vương bảo quang này mà sinh tâm khinh mạn, hủy báng thì người đó đời đời bị răng thưa, thiếu, mũi xẹp, không có lưỡi, tay chân cong quẹo, thường bị bệnh nặng, mù điếc, si mê, sinh trong dòng họ hạ tiện, biếng nhác, hèn hạ.

Phật bảo Đồng tử Diệu Cát Tường:

–Nay ta sẽ lược nói cho những hạng chúng sinh mê muội như vậy. Sau khi qua đời, các chúng sinh ấy phải chịu hình phạt trong vô số địa ngục. Như mỗi mỗi lỗ chân lông đều có các khổ não xuất sinh từ địa ngục. Nếu sinh trong loài người thì bị mù lòa, câm, ngọng.

Lại nữa, Diệu Cát Tường! Nếu người nào khinh khi hủy báng kinh chánh Pháp vương này thì các lỗ trên thân người ấy tiết ra mùi hôi, môi hở, thân thể lõa hình đen đủi, ốm yếu, da dẻ thô nhám giống như loài ngạ quỷ.

Diệu Cát Tường lại bạch Phật:

–Con biết trí tuệ của Như Lai thật vô lượng, không thể nghĩ bàn. Các chúng sinh mê muội như vậy sẽ sinh về đâu? Cúi xin Thế Tôn nói cho con biết.

Phật dạy:

–Diệu Cát Tường! Thôi đi! Ông không nên hỏi điều đó. Nếu ta nói chỗ sinh của chúng sinh mê muội, chê bai chánh pháp kia thì chư Thiên sẽ sợ hãi buồn rầu, choáng váng ngã quỵ xuống đất khi nghe nói điều này.

Diệu Cát Tường thưa:

–Cúi xin Thế Tôn đại Từ đại Bi giảng nói phân biệt. Các chúng sinh ấy nghe điều này sẽ không sinh tâm khinh mạn chánh pháp vi diệu không sinh, không diệt này.

Phật bảo Diệu Cát Tường:

–Từ đây trở xuống có các địa ngục tên gọi không giống nhau. Đó là địa ngục Viêm nhiệt, địa ngục Cực Viêm nhiệt, địa ngục Hắc thằng, địa ngục Xí nhiên, địa ngục Cực xí nhiên, địa ngục Cực ác, địa ngục Kiềm khẩu, địa ngục Thiết hoàn, địa ngục Thiết bổng, địa ngục Băng mai, địa ngục Huyền đầu, địa ngục Đảo huyền, địa ngục Hầu diện, địa ngục Diễm hằng xí, địa ngục Nùng huyết, địa ngục Thường xú, địa ngục Đà bộc, địa ngục Thường sát, địa ngục Sinh cực đại đông thống. Các địa ngục như vậy là chỗ sinh của chúng sinh chê bai chánh pháp.

Khi ấy, Đại Bồ-tát Phổ Hiền thưa:

–Bạch Thế Tôn! Pháp sư trì kinh đó sau khi qua đời sẽ sinh vào cõi nước nào?

Phật dạy:

–Nếu Thiện nam! Thiện nữ và các Pháp sư thọ trì kinh này thì sau khi qua đời được sinh vào thế giới Bảo trang nghiêm. Trong thế giới ấy có cõi Phật Bất khả tư nghì, và có Đức Như Lai là Lạc

Đại Biện Tài, lại có vô số các chúng Bồ-tát sắc thân rực rỡ trang nghiêm.

Thiện nam! Các chúng sinh này, khi sắp mạng chung, trong thế giới ấy có sáu mươi hai câu-chi Phật, đồng thời hiện ở trước mắt. Thiện nam! Nay ta chỉ nói tóm lược, nếu giảng nói rộng thì công đức vô lượng, vô số, trải qua trăm ngàn kiếp cũng không thể cùng tận.

Bồ-tát Phổ Hiền lại thưa:

–Bạch Thế Tôn! Tại sao ở đời vị lai, các chúng sinh nghe chánh pháp này không sinh tâm phỉ báng?

Phật bảo Bồ-tát Phổ Hiền:

–Nếu bốn chúng đệ tử, được nghe kinh này lại nói là chẳng phải chánh pháp mà nói là tà pháp, chẳng phải do Như Lai nói mà tự mình nói, chẳng phải là kinh điển chân chánh hoặc nói là trước kia ta đã nghe pháp này, không phải là chánh pháp rồi sinh tâm khinh mạn, phỉ báng pháp ấy thì vĩnh viễn không được nghe pháp, xa lìa danh tự Tam bảo. Các chúng sinh mê muội như vậy sau khi qua đời sẽ đọa vào địa ngục hắc am. Trong ngục ấy có bánh xe sắt lớn có mũi nhọn đâm vào đầu người ấy, làm cho chết đi sống lại nhiều lần, trải qua vô lượng trăm ngàn kiếp thường không có mắt. Sau đó lại trải qua trăm ngàn kiếp cũng không được thân người, mặc dù được sinh trong loài người, nhưng ở chỗ nào cũng bị mù lòa không có lưỡi, đầu mặt đảo lộn, lưng còng, chân cong quẹo, tiếng nói như chó sủa, thường bị khốn khổ, đói khát, ốm yếu, tiều tụy, sắc mặt khô gầy, miệng thường xuất mồ hôi, bị người khinh ghét, tất cả chúng sinh thấy họ đều phải tức giận, ghét bỏ.

Khi ấy, tất cả chúng hội đồng nói:

–Hôm nay, Như Lai vì chúng con mà nói pháp này. Chúng con được nghe liền vui vẻ. Ở đời vị lai, chúng con thấy có người thọ trì kinh điển này thì không sinh tâm phỉ báng khinh mạn. Chúng con mê muội cũng như trẻ con không hiểu, không biết, không có trí tuệ.

Lúc Phật nói lời này, các chúng Thanh văn, Thiên Đế Thích, Đại Phạm thiên vương, chư Thiên hộ thế, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nghe nói người phỉ báng pháp này có tội như vậy, chúng con đều rất sợ hãi.

Phật bảo:

–Đúng vậy, đúng như lời ông nói. Chẳng những các ông mà ta đã được Nhất thiết thánh trí mà còn sợ hãi, huống chi các ông là đệ tử của Ta.

Khi ấy, các thiện nam đều sinh tâm kính ngưỡng Pháp sư, các Thiên, Long, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, người và phi nhân không thể hủy hoại.

Phật dạy:

–Thiện nam! Sa-môn, Bà-la-môn nào xem Pháp vương này như tháp chùa Phật, và xem kinh này cũng như trời, người quý trọng rương báu.

Lúc bấy giờ, Đồng tử Diệu Cát Tường lại thưa: –Bạch Thế Tôn! Nếu bốn chúng đệ tử thọ trì kinh này với tâm tin sau xa thì được bao nhiêu phước đức?

Phật bảo Diệu Cát Tường:

–Người nào đối với diệu pháp này và với Pháp sư thọ trì kinh này cho đến danh tự, nếu sinh tâm Từ hoặc phát tâm cúng dường thức ăn uống, vườn rừng đất sạch làm tăng phòng, cúng dường các thứ chỉ trong một ngày hoặc trong một khoảnh khắc, Ta đều biết hết.

Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Những người thọ trì pháp này bị mắc tội ngũ vô gián có được tiêu trừ không?

Phật bảo Trưởng lão Xá-lợi-phất:

–Chớ nói như vậy. Vì sao? Vì chúng sinh nào thọ trì chánh pháp này liền tiêu trừ tội ngũ vô gián. Người mắc tội ngũ vô gián được nghe kinh này, nhờ oai lực đó, nghiệp tội ấy mau chóng được tiêu trừ, người đó được làm thân người, mau chóng được sinh trong Phật pháp, vĩnh viễn không đọa trong ba đường ác.

Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất buồn khóc lệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn vừa nói, người hủy báng kinh này phải chịu nghiệp báo rộng lớn như vậy, xưa nay chưa từng thấy, tội báo như thế đến như trong mộng cũng chưa từng thấy.

Khi ấy, Thế Tôn bảo Xá-lợi-phất:

–Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Ta đã từng dạy bảo các ông về diệu pháp vô ngại này. Các chúng sinh ấy do nghiệp lực của chính mình tạo nên các tội, tự mình làm thì tự mình chịu, chẳng phải là người khác. Mỗi chúng sinh do nghiệp lực của mình nên phải chịu thống khổ, chẳng phải là lỗi của Như Lai. Xá-lợi-phất! Ta thường dạy bảo các chúng sinh là các ngươi tìm bạn lành, muốn cầu an lạc, thì xa lìa các sợ hãi, mong cầu Niết-bàn, thích vị cam lồ.

Ta thường chỉ bày chánh lộ Bồ-đề.

Thế Tôn lại nói:

–Các chúng sinh nào buông lung, tham lam, sân giận, tự tạo các nghiệp thân, khẩu, ý, tâm sinh tà kiến, không tự biết chân chánh, tạo tác các tội nhìn mọi việc đều bằng tà nhãn, phân biệt thân tạo các nghiệp ác. Do đó, đọa vào địa ngục chịu các thứ khổ. Chúng sinh tự mình tạo lỗi, không phải do Như Lai.

Lại nữa Xá-lợi-phất! Vì các chúng sinh cho đến tất cả chúng sinh trong một kiếp, ta thường phát tâm đại Bi thay họ chịu khổ trong địa ngục, hoàn toàn không bỏ một chúng sinh nào.

Xá-lợi-phất! Tâm đại Bi của Như Lai thường như vậy. Ví như trong cõi trời, người, cha mẹ chỉ sinh một đứa con có phước tướng đầy đủ, xinh đẹp không ai sánh bằng. Một ngày kia, đứa con bỗng nhiên qua đời, cha mẹ nó buồn rầu, sợ hãi, đau đớn, khổ sở vô cùng.

Xá-lợi-phất! Như Lai ưng Chánh Đẳng Giác cũng vậy, thương xót chúng sinh như con một. Như Lai đều đã xa lìa phiền não, không còn vướng mắc. Vì sao? Vì ví như biển lớn không chứa thây chết, Như Lai cũng vậy, không vướng mắc phiền não.

Lại nữa, Xá-lợi-phất! Thân như huyễn mộng, như bóng, như tiếng vang do bốn đại hợp thành tạm gọi là người, chứ không có thật. Thấy các hành tướng chẳng phải hành chẳng phải trụ, chẳng phải xứ, chẳng phải vô xứ, không trì trệ, không ngăn ngại, không dính mắc ở ta, người.

Xá-lợi-phất! Như Lai cũng vậy. Quán các hành tướng giáo hóa chúng sinh không vướng vào lời nói, hành động. Tuy tạo tất cả các hành tướng nhưng không chỉ bày, giống như hư không, lìa các nghi hoặc, không có hý luận. Như Lai cũng vậy, lìa các nghi hoặc, không có hý luận.

Chúng sinh vẫn mê hoặc, không có chuyển tâm, Như Lai thương xót nên luôn tùy thuận. Nếu có chúng sinh muốn đến Phật cũng phải tùy thuận cho đến, muốn đi Phật cũng tùy thuận cho đi. Vì sao? Vì đó là bản nguyện của các Như Lai.

Lại nữa, Xá-lợi-phất! Như Lai ưng Chánh Đẳng Giác không có sai làm, không có vô minh. Trí tuệ của Như Lai không có mê hoặc. Ở trong cõi trời, người thì ta là tối tôn, tối thượng bậc nhất không thể nói hết, không có gì sánh bằng. Xá-lợiphất! Đây không phải là lời nói dối, lời nói sai khác.

Phật dạy:

–Nếu có chúng sinh tại gia, xuất gia sinh tâm phỉ báng chánh pháp này như trước đã nói thì chịu lấy tất cả tướng xấu, tất cả các khổ trong địa ngục. Lúc bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề chắp tay cung kính, thưa:

–Bạch Thế Tôn! Chánh pháp vi diệu này thật khó được nghe. Các chúng sinh phỉ báng chánh pháp này sẽ mắc tội báo như thế nào?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Người hủy báng pháp này, thì dẫn lưỡi rộng lớn trăm ngàn do-tuần, cũng thường bị năm trăm câu-chi lưỡi cày sắt cày trên đó, lại từ trong miệng phát ra ngọn lửa dữ rất nóng, bốc cháy, đỏ rực hợp thành một khối, trải qua trăm ngàn kiếp chịu khổ rất lớn. Vì sao mức nghiệp báo như vậy? Chúng sinh ngu si đều do khẩu nghiệp tạo ra. Họ phỉ báng chánh pháp này nên phát chịu quả báo như vậy.

Khi ấy, tất cả chúng hội, nhờ oai lực của Phật, đều thưa:

–Như Lai nói quả báo cực ác này thật là hiếm có.

Lúc đó, Đế Thích Thiên Chủ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Ở đời vị lai, con sẽ tôn trọng những vị Tỳ-kheo, Pháp sư thọ trì kinh này. Con sẽ đem cúng dường các thứ hương hoa, hương bột, hương phấn, y phục, thuốc thang thức ăn. ngày đêm ba thời con sẽ cung kính lễ bái tôn trọng, khen ngợi và hết tâm hộ trì.

Bạch Thế Tôn! Thiện nam này được sinh trong Pháp thân của Như Lai cùng một danh hiệu với các Như Lai. Vì sao? Vì như Thái tử con vua Sát-lợi được quán đỉnh với đầy đủ tướng mạo oai nghiêm của nhà vua, mọi người thấy được đều hoan hỷ, dân chúng đều tôn trọng, lễ bái, chào hỏi. Thấy Pháp sư cũng nên lễ bái, tôn trọng như vậy.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo Bồ-tát Phổ Hiền:

–Thiện nam! Đế Thích Thiên Chủ đã khéo nói điều đó. Vậy ông hãy gần gũi, làm lợi ích và ủng hộ Tỳ-kheo, Pháp sư trì kinh.

Bồ-tát Phổ Hiền thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con cũng vậy. Ở đời vị lai con cũng hộ trì, gần gũi, làm lợi ích cho các thiện nam, thiện nữ, làm cho họ dứt trừ các tai họa và được an lạc, đi khắp trăm do-tuần, không bị nhiễu loạn.

Đức Thế Tôn tán thán Bồ-tát Phổ Hiền:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Ông thật khéo nói.

Bấy giờ, với âm thanh Phạm thiên, Đức Thế Tôn trùng thuyết bằng kệ rằng:

Thương xót làm cho người an lạc

Đều tùy thuận tất cả chúng sinh Ba nghiệp thanh tịnh khéo tán dương Công đức chân thật không gì bằng.

Khi ấy Bồ-tát Phổ Hiền thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát làm sao đắc pháp Tổng trì bảo quang này?

Phật dạy:

–Thiện nam! Đối với pháp Tổng trì bảo quang này, Đại Bồ-tát nên thực hành một pháp.

Thế nào là một pháp? Nghĩa là đối với tất cả chúng sinh không sinh tâm giết hại mà làm cho được an lạc.

Này Phổ Hiền! Lại có hai pháp là xa lìa sân giận, và khéo nói lời hướng dẫn, nếu được như vậy tức là đắc pháp môn Tổng trì bảo quang.

Lại nữa, Bồ-tát Phổ Hiền! Vì tất cả chúng sinh mà ý căn không tán loạn, không lúc nào tạm bỏ.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn lại bảo:

–Thiện nam! Đại Bồ-tát vì các chúng sinh mà đều xa lìa tất cả thương ghét.

Khi ấy, Bồ-tát nói công đức của pháp Bảo quang Tổng trì này rồi thì lại tán dương khen ngợi công đức tối thắng ấy.

Lúc đó, trong cõi trời, người có vô lượng, vô số chúng sinh đều đắc pháp này. Lại nói ra công đức tối thắng của pháp môn Tổng trì bảo quang, khen ngợi Pháp sư.

Lúc ấy giờ, Tôn giả A-nan rời chỗ ngồi đứng dậy, bày áo vai phải, gối phải qùy xuống, chắp tay cung kính ở trước Phật thưa:

–Bạch Thế Tôn! Chánh pháp vi diệu Tổng trì bảo quang này thật là thâm thúy.

Phật bảo A-nan:

–Đúng vậy! Sắc tướng này thâm sau; thọ, tưởng, hành, thức cũng thâm sâu; như không thâm sâu; hư không thâm sâu.

A-nan thưa:

–Con ở trước Như Lai, được nghe tám vạn bốn ngàn pháp tạng mà chưa từng được nghe pháp này. Phật bảo A-nan:

–Chánh pháp bảo quang này thật khó gặp, khó nghe.

A-nan thưa:

–Phật nói chánh pháp vi diệu như vạy, ở đời vị lai, sau năm trăm năm khi pháp sắp diệt, có các chúng sinh muốn làm Phật sự thì nương vào pháp nào?

Phật bảo A-nan:

–Nương vào chánh pháp Đức Như Lai Thíchca Mâu-ni và Pháp sư nói. Người nào ghi chép, thọ trì, cúng dường, cung kính chánh pháp này thì mắt thường khô bệnh, các căn đầy đủ thân không hôi hám, không chết yểu, thọ mạng lâu dài, tất cả trời, người, phi nhân thường theo hộ vệ. Lúc Pháp sư qua đời sẽ được sinh vào thế giới Thiện thệ cõi trời, xa lìa các chỗ ồn ào và tất cả hý luận.

A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào thuyết giảng chánh pháp này? Cho dù Ma vương có độc hại cũng không thể gây chướng ngại, ngăn che được.

Phật bảo A-nan:

–Tất cả ma vương không thể gây chướng ngại chánh pháp này được. Sau khi Thế Tôn nói xong các ma vương sinh tâm độc hại, nghĩ: Nếu có người nào nói pháp Tổng trì bảo quang này thì ta sẽ đến gây chướng ngại người đó. Khi ấy, do nghiệp lực của mình, ma vương tự thấy lửa sẽ đến thiêu đốt thân mình. Do đó, ma vô cùng sợ hãi, bỏ chạy.

Phật dạy:

–A-nan! Chánh pháp này thâm sâu vi diệu, khó lường, không thể nghĩ bàn. Chánh pháp này trụ ở nơi nào cũng như tháp chùa Phật vậy.

A-nan thưa:

–Nếu Như Lai ở nơi trú xứ chánh pháp nào, thì con cũng ở đó, được thấy Như Lai, đến gặp Phật, trước lễ Như Lai, sau lễ chánh pháp. Như vậy có lỗi gì không?

Phật dạy A-nan:

–Ông có lỗi. Vì sao? Vì ông đã khinh mạn chánh pháp như vậy. Tại sao ta được tối tôn, tối thượng bậc nhất trong trời, người? Vì ở đời quá khứ, trước ta được nghe phía này, sau mới chứng Bồ-đề.

A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn! Cung kính cúng dường đối với Như Lai nào, nghe Như Lai thuyết giảng Tam-mađịa Tổng trì bảo quang này ở đâu?

Phật bảo A-nan:

–Ta chẳng phải ở cõi trời, người, cõi trời Càn đạt phạ mà cung kính cúng dường, cầu pháp này.

Xưa kia khi ta còn làm Bồ-tát, có Phật Thế Tôn hiệu là Bất không tích tụ, khai bày diệu chúng bảo ánh sáng tạng Như Lai, ở trước Phật ấy ta được nghe pháp này.

Phật bảo A-nan:

–Như Lai ấy mà không thọ ký cho ta thì từ đó đến nay trải qua trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp ta khó hành khổ hạnh.

A-nan! Vì muốn nghe pháp này ông nên trước lễ pháp này, sau mới lễ Như Lai.

Bấy giờ, tất cả Phạm vương, Đế Thích, chư Thiên, Hộ thế đồng thanh khen ngợi:

–Pháp này là pháp vô thượng, là pháp tối thắng, là pháp không có gì bằng, thần thông biến hóa như vạy. Nếu ai được nghe chánh pháp vi diệu này cho đến danh tự thì nên lễ bái. Vì sao? Vì thấy người thọ trì, đọc tụng, giảng giảng nói kinh này thì như thấy Như Lai không khác.

Khi ấy, Thế Tôn khen ngợi Phạm vương, Đế Thích, chư Thiên, Hộ thế:

–Lành thay! Thánh chúng khéo nêu rõ sự việc.

Lúc ấy, từ kim khẩu của Đức Thế Tôn phóng ra tướng lưỡi dài rộng chiếu khắp tam thiên thế giới, bảo Bồ-tát Phổ Hiền:

–Này thiện nam! Ông hãy lắng nghe. Nay ta thỉnh ông nói pháp này cho các chúng sinh.

Tại sao đối với pháp bảo tụ này chúng sinh không giữ gìn thì dần dần mất lợi lạc? Như người mù bẩm sinh không thấy ánh sáng mặt trời lại như người buôn bán không có kế hoạch thì không thể buôn bán được. Cũng như người nghèo không tự mình siêng năng tùy thuận thái độ của người khác lúc thấy các chúng sinh, không nghe pháp này cũng vậy. Vì các chúng sinh ta nói ví dụ.

Lúc đó, Bồ-tát Phổ Hiền rời chỗ ngồi đứng dậy bày vai áo vai phải, gối phải quỳ xuống chắp tay cung kính, ở trước Phật. Khi Bồ-tát Phổ Hiền từ tòa đứng dậy, tam thiên đại thiên thế giới, cung điện chư Thiên chấn động sáu cách, biến động, biến động đều khắp, vang động khắp, vang động đều khắp, khua đập khắp, khua đập đều khắp, vọt lên khắp, vọt lên đều khắp, gầm rống khắp, gầm rống đều khắp, nổi lên khắp, nổi lên đều khắp, ánh sáng lớn chiếu khắp thế gian.

Lúc đó, Bồ-tát Phổ Hiền thưa:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao Thế Tôn hỏi con? Vì sao đấng Thiện thệ hỏi con? Như Lai là bậc đầy đủ Nhất thiết trí sao không phát tâm đại Bi, thương xót chúng sinh? Con là con của Như Lai, làm sao con có trí Như Lai, lực Như Lai, con thường nương vào lời Phật dạy, nương vào lời Như Lai nói, con thường nương tựa, giống như cam lồ, không dám trái lại mà lúc nào cũng thuận theo.

Lúc ấy, Thế Tôn khen Bồ-tát Phổ Hiền:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Ông chính là trưởng tử của Như Lai, là Bậc Tối thắng, tối thượng. Ta vì chúng sinh nói chánh pháp này.

Thiện nam! Ông nên nương vào ta, như pháp mà hộ trì, thường tôn kính, cũng như cái rương quý đựng đồ quý báu, chớ có rời bỏ.

Ở đời vị lai, có Tỳ-kheo phá giới không có tâm tin kính, không nương tựa vào pháp này.

Bồ-tát Phổ Hiền thưa:

–Bạch Thế Tôn! Ý Thế Tôn thế nào? Người xuất gia có hạnh gì?

Phật dạy:

–Thiện nam! Thôi đi, đừng hỏi việc này.

Bồ-tát Phổ Hiền thưa:

–Xin Thế Tôn nói cho! Xin Thế Tôn nói cho! Nếu Thế Tôn không giảng nói thì làm sao có thể nói vì chúng sinh.

Phật dạy:

–Bồ-tát Phổ Hiền! Ông lắng nghe, ta nói pháp này giống như bốn biển.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát Quán Thế Âm, vô lượng, vô số các Đại Bồ-tát đều nhất tâm lắng nghe. Vào đời vị lai, người xuất gia ấy tu hạnh nghiệp gì?

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Bồ-tát Phổ Hiền:

–Thiện nam! Người xuất gia ấy phần nhiều khinh mạn, chánh pháp này ưa mong cầu nhà cửa, tham đắm lợi dưỡng, chất chứa của báu, mong cầu tinh xá, phòng ốc, y phục, giường nằm, thức ăn uống, thuốc men, tạo nghiệp ác, tự mình hủy hoại, đó là chúng sinh mê muội.

Ta giảng nói kinh này, truyền bá khắp nơi làm cho chánh pháp trụ lâu ở đời, không hoại diệt, để độ thoát chúng sinh.

Lúc đó, tất cả Long thiên, Dược-xoa, Kiền-đạtphược trong mười phương đều đến thưa:

–Bạch Thế Tôn! Các hàng trời, người, Bát bộ và các quyến thuộc chúng con nguyện suốt đời thường hộ trì kinh này, các pháp tạng và tất cả Pháp sư, Tỳ-kheo, không để cho họ bị quấy nhiễu. Chúng con thường theo hộ vệ, tôn trọng, cung kính, cúng dường hương hoa, y phục, châu báu và tất cả những vật cần dùng, con đều cung cấp khiến cho chánh pháp được trụ ở đời lâu dài.

Bấy giờ, Thế Tôn vì Bồ-tát Phổ Hiền và chín mươi hai câu-chi Bồ-tát nên nói kệ rằng:

Lắng nghe tất cả lời vi diệu
Công đức Tối thắng vượt bờ kia
Lừa dối, hung ác đều từ bỏ
Nhất tâm vui thích lắng tâm nghe.
Nghe Phật ở nước Ma-kiệt-đề
Ngồi cây Bồ-đề, tòa Sư tử
An trụ vào chánh định giải thoát
Lúc đó, dưới cội cây Bồ-đề
Vô số cõi trong khắp mười phương
Phật tử đi khắp, không sợ hãi
Gọi là chánh định của Như Lai
Nên chứng đắc các Tam-muội này.
Thường biết hành dụng của Nhân vương
Thấy cõi chân thật của Văn-thù
Vô số cõi trong khắp mười phương
Quán tướng chân thật của Như Lai.
Vô số cõi Phật trong mười phương
Phật tử đều gọi Cát Tường
Tất cả các cõi khắp mười phương
Phật tử đều có thể đi hết
Khắp thế gian ấy được gặp gỡ
Văn-thù-sư-lợi trí vô biên
Các chúng sinh hỏi Hiền Cát Tường
Làm sao được công đức Phật tử.
Lúc ấy, vô số các chúng sinh
Hiểu rõ công đức rộng thật tế
Các chúng sinh hỏi Hiền Cát Tường
Công đức Bồ-đề của Văn-thù.
Phật tử nói được pháp này rồi
Hiểu được rốt ráo công đức Phật
Lại nữa Phật tử làm thế nào
Chứng đắc công đức hạnh như vậy?
Phật tử lắng nghe Hiền Cát Tường
Công đức vô biên Bậc Tối thắng
Nay ta lược nói một phần nhỏ
Như thêm một giọt trong biển lớn.
Nếu có chúng sinh mới phát tâm
Cho đến chứng đắc quả Bồ-đề
Công đức vô biên không thể lường
Mỗi mỗi công đức tán dương hết.
Công đức của Ba-la-mật-đa
Nếu có trải qua rất nhiều kiếp
Không thể nói hết công đức ấy.
Tất cả chư Phật trong mười phương.
Lúc ấy, giảng nói một ít phần
Sinh vô biên công đức thù thắng
Như chim bay trên không khó lường
Hạt bụi không thể sánh mặt đất.
Chẳng phải không nhân từ đâu sinh
Công đức Bồ-đề tùy tâm ý
Vừa phát tâm tin, sinh Phật pháp
Sinh tâm hòa hợp như vậy rồi;
Chẳng phải ưa thích phước ngôi vua
Không mong cầu an lạc, lợi danh
Diệt trừ các khổ não thế gian
Vì chúng sinh nên sinh thế gian.
Ý thường vì tất cả chúng sinh
Cúng dường các cõi Phật thanh tịnh
Tu tập chánh pháp chứng Bồ-đề
Từ tâm phát sinh trí thanh tịnh
Thường cung kính mong cầu giải thoát
Tưởng nhớ Phật, tôn trọng tất cả
Công đức đồng tất cả các pháp
Sinh tâm thường cung kính như vậy.
Phát tâm hướng về với Phật pháp
Phật tử phát tâm hành hạnh này
Lúc phát tâm Bồ-đề vô biên
Sinh đại trượng phu, ý dũng mãnh.
Lực phát tâm làm chủ con người
Cúng dường rộng lớn khó nghĩ bàn
Các pháp không hoại, không thể lường
Nên phát tâm cúng dường như vậy.
Phát tâm thoát khỏi khổ bào thai
Tất cả việc dưỡng dục cù lao
Các đều ưa thích đều do tâm
Cho nên thấy ở chốn an lạc
Phát sinh tâm cung kính vô biên
Ngã, nhân Kiêu mạn đều từ bỏ
Phát tâm như kho chứa châu báu
Tay cầm lấy rồi, được an lạc.
Thường phát tâm, hoan hỷ xả bỏ
Phát tâm phấn khởi làm Phật sự
Phát tâm cầu công đức thù thắng
Đều được nghe đến nghe Phật dạy.
Phát tâm kiên cố không thể hoại
Các thứ phiền não mau diệt trừ
Phát tâm tán dương công đức Phật.
Phát tâm hòa hợp, không hòa hợp
Trong một sát-na đều xa lìa
Phát Tâm vượt qua cõi ma vương
Được giải thoát vi diệu tối thắng
Hạt giống công đức không hư mục
Phát tâm trồng cây Bồ-đề lớn
Trí tuệ tối thượng đều tăng trưởng
Phát tâm thấy tất cả chư Phật
Đời quá khứ thực đại hạnh
Phát tâm cầu diệu hạnh giải thoát
Pháp này, thế gian rất khó gặp
Giống như ngọc báu trong biển cả
Nếu thường phát tâm cung kính Phật
Không giới, không hạnh, đều xa lìa
Xa lìa các lỗi lầm hoạn
Lại hay khen ngợi công đức ấy
Trì giới thấy được tâm Bồ-đề
Phương tiện tu học công đức lớn
Nương vào giới pháp, khéo tu tập
Thường nương vào lời dạy của Phật.
Nếu thường phát tâm cung kính Phật
Cúng dường rộng lớn khắp chư Phật
Đã cúng dường rộng lớn chư Phật
Lại nghĩ ân Phật bất tư nghì.
Nếu thường phát tâm cúng dường pháp
Nghe Phật pháp tâm không chán nản
Nếu tâm không chán nản Phật pháp
Diệu pháp giải thoát không nghi bàn.
Nếu thường phát tâm cung kính tăng
Ở trong tăng, tâm không thoái chuyển.
Phát tâm như vậy, không thoái lui
Được lực phát tâm không thoái chuyển.
Đã được lực phát tâm không chuyển
Dùng lợi căn hiển hiện ánh sáng
Nếu được lợi căn hiện ánh sáng.
Thường hay xa lìa ác tri thức
Nếu đã xa lìa bạn ác xấu
Phải nên cầu pháp, tìm bạn lành
Nếu đã tìm được pháp bạn lành
Sẽ được nhiều an lạc tốt đẹp.
Nếu được nhiều an lạc tốt đẹp
Nhờ vậy, kiêu mạn tự xả bỏ
Nếu đã xả bỏ nhân ngã mạn
Được giải thoát tối thắng rộng lớn.
Được giải thoát rộng lớn như vậy.
Liền được chư Phật thường quán sát
Nếu được chư Phật thường quán chiếu
Liền sinh tâm Bồ-đề rộng lớn
Nếu sinh tâm Bồ-đề rộng lớn
Liền được đại công đức giải thoát
Nếu được đại công đức giải thoát
Liền được sinh vào nhà Như Lai
Nếu được sinh vào nhà Như Lai.
Tương ưng với giải thoát vi diệu
Nếu tương ưng giải thoát vi diệu
Phát tâm ý thảy đều thanh tịnh.

QUYỂN 4

Nếu được phát tâm, tịnh giác ý
Thuyết pháp tối thượng, tối thù thắng
Nếu được tối thượng, tối thù thắng
Thường hành hạnh Ba-la-mật-đa.
Nếu được hạnh Ba-la-mật-đa
Có thể tùy thuận pháp Đại thừa
Nếu đã tùy thuận pháp Đại thừa
Có thể tùy thuận cúng dường Phật.
Nếu đã tùy thuận cúng dường Phật
Được trí tuệ, ý nguyện kiên cố
Nếu được trí tuệ, chí kiên cố
Thường thấy chư Phật khó nghĩ bàn
Nếu thường thấy Phật, khó nghĩ bàn
Thấy Phật không đi, không chỗ trụ
Nếu thấy được Phật không đi, ở
Pháp này trụ thế, thường không diệt
Nếu thấy pháp này thường không diệt
Xa lìa các phiền não tích tập
Nếu đã xa lìa nhân phiền não
Có thể thuyết pháp không giới hạn.
Phát khởi tâm Từ trụ thế gian
Nếu có tâm Từ trụ thế gian
Đó là tâm đại Bi vững chắc
Nếu có tâm đại Bi vững chắc.
Tức là pháp hoan hỷ vì người
Nếu được pháp hoan hỷ căn bản
Bỏ sự tạo tác các nghiệp tội.
Nếu không còn tạo các tội lỗi
Vô ngã, vô nhân lìa sai trái
Nếu được vô ngã lìa sai trái
Thường hành tự lợi và lợi tha.
Nếu thường tự lợi và lợi tha
Vĩnh viễn thoát khỏi khổ luân hồi
Nếu xa lìa khổ não luân hồi
Sẽ chứng đắc oai lực tối thắng.
Nếu chứng đắc oai lực tối thù thắng
Được phát sinh trí tuệ thanh tịnh
Nếu đã sinh trí tuệ thanh tịnh
Vào cõi thế gian để tu hành.
Nếu vào thế gian để tu hành
Hiểu rõ thế gian thật hy hữu
Nếu đã hiểu rõ được thế gian
Tu tập trí tuệ của thế gian.
Nếu được trí tuệ của thế gian
Có thể tùy thuận hành tứ nhiếp
Nếu có thể tùy thuận tứ nhiếp
Thì giáo hóa được khắp thế gian.
Nếu giáo hóa được khắp thế gian
An trụ lực trí tuệ phương tiện
An trụ đạo Vô thượng dũng mãnh.
Nếu trụ nơi đạo Vô thượng dũng mãnh
Vĩnh viễn không gặp các ma quân
Nếu được không gặp các ma quân
Có thể xa lìa bốn thứ ma.
Nếu đã xa lìa bốn thứ ma
Đến được ngôi vị không thoái chuyển
Nếu đến được ngôi vị bất thoái
Được gọi là Vô sinh pháp nhẫn.
Nếu được Vô sinh pháp nhẫn này
Được Phật thọ ký, hiệu Thế Đăng
Nếu được thọ ký, hiệu Thế Đăng
Thì thường ở trước chư Như Lai.
Nếu được ở trước chư Như Lai
Được trí biến hóa bí mật Phật
Nếu được trí biến hóa Như Lai
Tất cả Như Lai đều thọ ký.
Nếu đã được chư Phật thọ ký
Tất cả các công đức trang nghiêm
Thì được thân phước đức thanh tịnh.
Nếu được thân thanh tịnh như vậy
Giống như núi vàng tỏa ánh sáng
Nếu được núi vàng sáng như vậy
Tức được đầy đủ ba hai tướng.
Nếu được đầy đủ ba hai tướng
Liền được thân tướng tốt trang nghiêm
Nếu đã được tướng tốt trang nghiêm
Thân phóng ra ánh sáng chiếu khắp.
Nếu đã được ánh sáng chiếu khắp
Ánh sáng trang nghiêm bất tư nghì
Nếu được ánh sáng trang nghiêm này
Bước chân đi trên hoa sen sáng.
Nếu được đi trên hoa sen sáng
Được tòa liên hoa cảnh giới Phật
Nếu được ngôi tòa sen Như Lai
Có thể soi thấy mười phương cõi.
Giáo hóa chúng sinh hành bất không
Nếu đã giáo hóa hạnh bất không
Được trí tuệ biện tài vô ngại
Nếu được trí biện tài vô ngại
Nói pháp chẳng thể nghĩ bàn này
Nếu được thuyết pháp bất tư nghì
Khiến vô lượng chúng sinh vui mừng.
Nếu làm vô lượng chúng vui mừng
Tu tập hạnh chẳng thể nghĩ bàn
Nếu được hạnh rộng lớn như vậy
Có thể biết hết các trí lực.
Nếu được lực trí tuệ như vậy
Tùy loại chúng sinh mà giáo hóa
Nếu đã tùy thuận hóa chúng sinh
Đều được an trụ trí túc mạng.
Nếu được trí túc mạng như vậy
Ba nghiệp luôn luôn được thanh tịnh
Nếu ba nghiệp thường được thanh tịnh
Dùng nguyện lực tùy niệm mà đến.
Tùy niệm đến theo nguyện lực
Tùy chúng sinh thị hiện các loại
Nếu đã tùy chúng sinh thị hiện
Được âm thanh hay nầy khó nghĩ bàn.
Nếu được âm thanh mầu như vậy
Có thể phát ra các ngôn ngữ
Đã phát ra lời nói vi diệu
Có thể biến khắp các thế giới.
Biến khắp các thế giới như vậy
Trong một sát-na đều biết hết
Nếu đã hiểu rõ tâm chúng sinh
Không sinh, không diệt không thoái chuyển
Nếu lìa sinh diệt không thoái chuyển
Tất cả phiền não không còn sinh
Nếu phiền não không sinh trở lại
Pháp thân đủ công đức trí tuệ.
Nếu được Pháp thân đủ trí tuệ
Ánh sáng pháp hạnh chiếu thế gian
Nếu được ánh sáng chiếu thế gian
Thì được mười Địa, mười loại thân.
Nếu được mười Địa, mười loại thân
Thì được đạo Bát-nhã giải thoát
Nếu được đạo Bát-nhã giải thoát
Quán đỉnh trang nghiêm là tối thượng.
Nếu được quán đỉnh như vậy rồi
Đều được thành tựu Tam-ma-địa
Đã được Tam-ma-địa như vậy
Thấy được tất cả Phật mười phương.
Nếu đã thấy chư Phật như vậy
Tất cả chư Phật niệm quán đỉnh
Sau khi suy nghĩ việc này rồi
Chư Phật mười phương đều quán đỉnh.
Đồng thời chư Phật đã quán đỉnh
Đều đưa tay phải xoa trên đỉnh
Đã được chư Phật xoa đỉnh rồi
Có thể biến hiện như hư không.
Biến hiện như hư không vậy
Bất cứ ở đâu cũng kiên cố
Đã được kiên cố như vậy rồi
Khắp cõi trời, người khó đo lường.
Đã được trời người không thể lường
Việc làm như vậy không nói được
Vượt qua suy lường, lìa ngôn ngữ
Đó là tất cả bất lực không.
Do được tất cả bất lực không
Nghe tên thấy thân được biện tài
Đã được lực biện tài như vậy
Hay làm đại thí chủ thế gian.
Lại gọi đại trượng phu bất không
Vì an trụ bản tánh trượng phu
Không bỏ đại Từ, chứng diệu pháp
Giáo hóa chúng sinh trong đường ác.
Giảng pháp Bảo quang tối thượng thừa
Giống như mây báu Kim cang tụ
Tánh nó như châu báu trong biển
Không tăng, không giảm, không hao tổn.
Công đức vô biên cũng như vậy
Cõi nước không Phật, không nghe pháp
Ở đó hiện làm Phật thuyết pháp
Gặp được như gặp đại Pháp tạng.
Thường nói pháp, xa lìa các hoặc
Mười phương thế giới, không chướng ngại
Cũng như mặt trăng chiếu sáng khắp
Giáo hóa chúng sinh ngàn phương tiện.
Mỗi sát-na chứng quả Bồ-đề
Liền thấy các thế giới nơi mười phương
Thường chuyển pháp luân, an thế gian
Dũng mãnh chuyển khắp mười phương cõi
Các ngôi vị Thanh văn, Bích chi
Trang nghiêm, biến hóa vô biên Phật
Trải qua chẳng thể nghĩ bàn kiếp
Hiện thân đến giáo hóa chúng sinh.
Hoặc nam, hoặc nữ, hoặc đồng tử
Trời, Người, A-tu-la, Long vương
Dược-xoa cho đến Ma-hộ-la
Do trí giải thoát nên đều thấy
Các loại chúng sinh trong thế gian
Tùy ngôn ngữ họ cùng nghe nói
Tất cả dũng mãnh đều thấy hết
Dũng mãnh như vậy đều quán sát
Hải ấn Tam-muội từ miệng sinh.
Chứng được Hải ấn Tam-muội này
Có thể trang nghiêm vô số cõi
Đã trang nghiêm vô số cõi nước
Cúng dường chư Phật trong mười phương
Cúng dường phẩm vật như vậy rồi
Lại được trang nghiêm bằng ánh sáng
Nếu được ánh sáng bất tư nghì
Thì được trí giải thoát vô biên.
Nếu được trí giải thoát vô biên
Được thân biến hóa bất tư nghì
Nếu được thân biến hóa như vậy
Khẩu, trí biện tài cũng như vậy.
Nếu được khẩu, trí vô ngại biện
Bố thí biến hóa bất tư nghì
Nếu được bố thí bất tư nghì
Trì giới, tinh tấn, nhẫn cũng vậy.
Nếu thông suốt giới, nhãn, tinh tấn
Thiền định biến hóa không thể lường
Nếu được định thần thông biến hóa
Phát sinh trí phương tiện thần biến.
Được trí phương tiện thần biến này
Phát sinh vô biên các công đức
Từ kim khẩu Phật sinh chánh định
Chánh định nhập vào một vi trần.
Tất cả vi trần đều hòa nhập
Trong một vi trần vô lượng cõi
Mỗi mỗi vi trần đều thấy hết
Vi trần số cõi Phật như vậy
Đều thấy hết cõi Phật trong đó.
Mỗi vi trần chúng đều thanh tịnh
Quý trọng cõi vi diệu vô thượng
Như thật xa lìa cõi trần thế
Vượt lên trên bí mật vi diệu
Phóng ánh sáng phá trừ tăm tối
Lưới Đế Thích rộng lớn vô tận
Cũng như thấy ánh sáng lớn chiếu
Tất cả vi trần đều như vậy.
Đại Bồ-tát thực hành chánh định
Được giải thoát tối thắng vô biên
Đem sức chánh định cúng dường Phật
Đã cúng dường tất cả Như Lai.
Từ trong tay biến hóa ngàn vạn
Cúng dường các bậc Đại trượng phu
Tràng hoa, hương bột, bảo vô giá
Các vật tốt đẹp trong mười phương
Đều từ trong tay tự ban phát
Cúng dường Phật ngồi cội Bồ-đề
Diệu hương, y giá trị ngàn vạn
Tràng phan, bảo cái đều xinh đẹp
Vàng Diêm-phù-đề trang nghiêm
Đều từ trong tay tự ban phát.
Vô biên tất cả các đồ vật
Thanh tịnh cúng dường Đấng Tối Thượng
Trong tay phụng sự cùng thoái xả
Dưới cây Bồ-đề cúng chư Phật.
Cho đến tất cả các kỹ nhạc
Chuông trống phát ra âm thanh vi diệu
Các thứ âm nhạc đàn sáo tấu
Đều từ trong tay phát vang ra.
Các loại kệ tán tụng vi diệu
Ca ngợi đức chân thật Như Lai
Vô biên tất cả mười phương cõi
Đều từ trong tay phát sinh ra.
Hoặc dùng ánh sáng làm Phật sự
Các động tác đều theo bên phải
Rưới nước thơm khắp các cõi Phật
Cúng dường tất cả đấng Tối tôn.
Ánh sáng rực rỡ, hương vừa ý
Hoa sen, anh lạc bất tư nghì
Vô ưng số hoa sen vi diệu
Đều đem cúng dường chư Như Lai
Phóng ánh sáng lớn hoa trang nghiêm
Vô số biển mây hoa vi diệu
Hoa vi diệu ấy biến khắp nơi
Cúng dường rộng lớn làm Phật sự.
Phóng ánh sáng lớn hương trang nghiêm
Vô số loại mây hương vi diệu
Hương vi diệu ấy biến khắp nơi
Cúng dường rộng lớn làm Phật sự.
Phóng ánh sáng hương phấn trang nghiêm
Vô số các loại hương phấn thơm
Hương thơm này biến khắp các nơi
Cúng dường rộng lớn làm Phật sự.
Phóng ánh sáng lớn vòng trang nghiêm
Vô số các loại vòng tốt đẹp
Vòng tốt đẹp biến khắp các nơi
Cúng dường rộng lớn làm Phật sự.
Phóng ánh sáng hương bột trang nghiêm
Vô số loại hương bột vi diệu
Biển mây hương ấy biến khắp nơi
Cúng dường rộng lớn làm Phật sự.
Phóng áng sáng lớn y trang nghiêm
Vô số loại mây y vi diệu
Biển y phục ấy biến khắp nơi
Cúng dường rộng lớn làm Phật sự.
Phóng ánh sáng lọng trang nghiêm
Vô số loại mây lọng vi diệu
Biển lọng vi diệu ấy tốt đẹp biến khắp
Cúng dường rộng lớn làm Phật sự.
Phóng ánh sáng vật báu trang nghiêm
Vô số mây vật báu vi diệu
Biển vật báu ấy biến khắp nơi
Cúng dường rộng lớn làm Phật sự.
Phóng ánh sáng hoa sen trang nghiêm
Vô số loại hoa sen vi diệu
Biển hoa sen ấy biến khắp nơi
Cúng dường rộng lớn làm Phật sự.
Phóng áng sáng an lạc trang nghiêm
Vô số mây anh lạc vi diệu
Biển anh lạc ấy biến khắp nơi
Cúng dường rộng lớn làm Phật sự.
Phóng ánh sáng lớn tràng trang nghiêm
Đủ màu sắc xanh vàng đỏ trắng
Vô số cờ báu rất trang nghiêm
Dùng để trang nghiêm các cõi Phật.
Các loại lưới ma-ni trang nghiêm
Vòng hoa, phan lọng treo rũ xuống
Ngọc châu anh lạc diễn Phật âm
Lọng che cúng dường chư Như Lai.
Giả sử cúng dường một Như Lai
Tay hiện vật cúng không thể lường
Tất cả chư Phật đều như vậy
Bồ-tát chánh định biến hóa.
Trí thần thông nhiếp hóa thế gian
Đó là đại chánh định tối thượng
Khéo làm tất cả các phương tiện
Giáo hóa vô số các chúng sinh.
Hoặc cúng dường các Đức Như Lai
Thực hành bố thí bất tư nghì
Hạnh đầu đà trì giới thanh tịnh
Hoặc dùng nhẫn nhục không lay động.
Hoặc là dũng mãnh và tinh tấn
Thiền định tịch tĩnh khéo tu tập
Trí tuệ thông đạt các nghĩa lý
Thực hành tất cả các phương tiện.
Hoặc hành nguyện Từ, Bi, Hỷ, Xả
Đem bốn Nhiếp pháp làm lợi tha
Dùng trí tích tập các phước báo
Tứ đế giải thoát mười hai duyên
Hoặc thực hành Căn, Lực, Giác, Đạo
Thanh văn thừa chứng đắc giải thoát
Duyên giác thừa quán nhân duyên tịnh
Tối thượng thừa thần thông biến hóa.
Hoặc thấy vô thường, các khổ não
Chẳng thân, chẳng mạng, duyên giả hợp
Luôn bị các phiền não trói buộc
Lực Tam-ma-địa đều trừ sạch
Lực hành tinh tấn trong thế gian
Giảng nói diệu pháp độ chúng sinh
Nguyện khắp tất cả đều giải thoát
Tùy thuận thế gian dẫn chúng sinh
Các loại hóa thân không thể lường
Thần thông mật diễn Tam-ma-địa
Ưa thích làm các sự biến hóa
Tùy ý hướng dẫn các thế gian
Thường nghĩ chúng sinh, không tạm bỏ
Đều khiến họ an lạc, hoan hỷ.
Nếu gặp lúc có nạn đói khát
Làm cho thế gian được an lạc
Tất cả ưa thích đều mãn nguyện
Bố thí rộng khắp cả thế gian.
Hoặc cho thức ăn uống ngon bổ
Các loại y phục và kho tàng
Ngôi vua quý báu cũng đều xả
Tùy thích thế gian đều bố thí.
Tướng tốt nghiêm thân thật thù diệu
Nguy nga thù thắng không lay động
Vòng hoa, hương bột làm vui vẻ
Hiện sắc tướng này độ chúng sinh.
Người thấy ưa thích tâm hoan hỷ
Các loại sắc, trí tuệ tối thượng
Tùy ý giáo hóa ở thế gian.
Phát diệu âm Ca-lăng-tần-già
Bạch hạc Kế-la và Câu-noa
Trống Khẩn-na-la phát Phạm âm
Thường giảng pháp giải thoát Như Lai.
Tám vạn bốn ngàn Như Lai tạng
Tất cả thắng nghĩa đều thực hành
Vạn pháp sai biệt thường giảng nói
Tùy ý giáo hóa các chúng sinh.
Đồng hành với chúng sinh khổ não
Không ác, không thiện cũng như vậy
Tạo tác tất cả các hạnh nghiệp
Tùy giáo hóa các chúng sinh.
Nếu gặp các tai nạn khổ não
Thấy việc như vậy khó kham nhẫn
Thay chúng sinh, chịu các khổ não
Làm tất cả thế gian an lạc.
Nếu pháp hoặc có, hoặc không đến
Không trí, không phước, không giải thoát
Cùng vua ở đó bày chánh pháp
Cứu vớt chúng sinh vượt bờ kia.
Xa lìa tham ái, các trói buộc
Gọi là chủ giải thoát thế gian
Vượt lên khỏi tất cả dục lạc
Xa lìa, giải thoát phóng ánh sáng
Phóng ánh sáng hành mười công hạnh
Dùng phương tiện điều phục chúng sinh
Hiểu rõ hết tất cả hạnh Phật
Quán thấy thế gian tùy việc làm.
Chúng sinh đồng đẳng thọ vô lượng
Thản nhiên an ổn và vui vẻ
Sinh, lão, bệnh khổ không thể hại
Tự thấy rõ ràng nghĩa vô thường.
Như có chúng sinh ưa ánh sáng
Ngọn đuốc lớn soi sáng thế gian
Thường đốt cháy, già, bệnh, chết khổ
Dẫn đường chúng sinh trong thế gian.
Mười Lực, Tinh tấn, bốn Vô úy
Mười tám pháp Bất cộng Như Lai
Con tư duy công đức rộng lớn
Làm Phật sự ở các thế gian.
Ví như các huyễn thuật ở đời
Có thể hiện ra các sắc tướng
Thấy Như Lai hóa hiện cũng vậy
Thần thông biến hóa độ chúng sinh.
Hành dụng, các pháp môn phương tiện
Khéo nói hướng dẫn các chúng sinh
Ví như hoa sen không dính nước
Tùy ý làm các hạnh sai biệt
Dùng lời nói khéo léo giáo hóa
Ca múa vui chơi cùng bàn luận
Dùng anh lạc trang sức vũ múa
Hiện tướng như huyễn mỗi mỗi khác.
Hoặc làm người buôn bán kinh doanh
Hoặc làm trưởng giả chủ trong thôn
Hoặc làm vua, đại thần, quan lớn
Hoặc lương y, luận sư, hùng biện
Hoặc làm cây to giữa đồng trống
Trân bảo, thuốc hay, kho vô tận
Hoặc làm ngọc ma-ni như ý
Hướng dẫn người mê khỏi lạc đường.
Biết hết thế gian đời vị lai
Chúng sinh không biết, tự tạo nghiệp
Các phương tiện, kinh doanh, nông vụ
Các việc công xảo ở thế gian.
Hoặc hiện oán, thân không thương, ghét
Làm an lạc tất cả chúng sinh
Vô số pháp luận bàn thông suốt
Chư Phật khai bày đạo ánh sáng.
Nếu hành thắng hạnh bậc Đại tiên
Trời, người tất cả đều giải thoát
Nếu người xuất gia hành khổ hạnh
Khai bày Nhất thiết trí tối thượng.
Làm người xuất gia các ngoại đạp
Thường giữ không nói họ của Phật
Tướng Sa-môn lõa hình bất động
Vâng theo lời dạy của bản sư.
Thường thực hành những pháp xả thân
Hoặc chấp có, hoặc là chấp không
Tướng đồng tử có búi tóc dài
Cũng vâng theo lời dạy bản sư.
Hoặc thân thể năm ngày phơi nắng
Hoặc giữ giới chó, bò và nai
Ba thời xem xét để cúng dường
Vâng theo lời dạy của bản sư
Hoặc kẻ có trí thích cõi trời
Bác bỏ không nhân, không thiện ác
Kiếm tìm củ trái làm thức ăn
Cho là thượng vị pháp khó nghĩ.
Hoặc mặc y màu hồng, ngồi xổm
Hoặc có bôi tro nằm trên cỏ
Hoặc nắm áo vắt vai mà đi
Cũng vâng theo lời dạy bản sư.
Cho đến tất cả các ngoại đạo
Đều làm cho họ lìa trói buộc
Trí thông suốt thực hành khổ ác
Ngoại đạo như vậy đều tiếp dẫn.
Đồng loại thế gian đều giáo hóa
Tà kiến đưa vào dấu vết xưa
Dùng phương tiện diễn nói diệu pháp
Giảng chánh pháp khuyên người thực hành.
Hoặc giảng pháp Đại thừa chân thật
Cùng chánh pháp thâm sâu vi diệu
Hoặc nói lời chân chánh ngay thật
Hoặc diễn nói âm thanh cõi trời.
Hoặc dùng văn tự được giải thoát
Pháp kim cang nghĩa lý vi diệu
Trí tuệ phá hoại luận ngoại đạo
Luận bàn các pháp môn giải thoát.
Hoặc trong loài người nói thần chú
Tuyên dương tất cả pháp vi diệu
Hoặc dùng ngôn ngữ của cõi trời
Hoặc ngôn ngữ Long vương, Dược-xoa
Ngôn ngữ của La-sát, Bộ-đa
Dược-xoa, Tất-xá, Càn-đạt-phược
Khẩn-na-la nữ Nga-lỗ-noa
Giảng nói nghĩa diệu pháp giải thoát.
Dùng trí tuệ nói đúng như pháp
Hoặc Phật, hoặc pháp đều như vậy
Trí đạo pháp chẳng thể nghĩ bàn
Nói pháp chánh định biến hóa này.
Hiểu rõ chánh định ở thế gian
Thực hành ở khắp các cõi nước
Hoặc phóng ánh sáng khó nghĩ bàn
Ánh sáng tiếp độ các chúng sinh.
Hoặc phóng ánh sáng tên Diệu quán
Chúng sinh tin tưởng nhờ ánh sáng
Được trí vi diệu quán bất không
Trí vô thượng và nhân vô thượng.
Được các công đức gặp chư Phật
Nghe chánh pháp và gặp chúng tăng
Thấy tháp, tán Phật thật hy hữu
Thấy ánh sáng thanh tịnh chiếu khắp.
Hoặc phóng ánh sáng tên Phổ chiếu
Chiếu khắp tất cả các thế gian
Mỗi mỗi vi trần đều biết hết
Muốn an lạc thế gian nên nói.
Ánh sáng chiếu khắp các chúng sinh
Thường đem đèn sáng cúng dường Phật
Đã đem đèn cúng dường chư Phật
Các ngọn đèn sáng trong thế gian
Hoặc dùng đèn bạch lạp, đèn dầu
Đèn dầu thông, cỏ tre, cỏ lau
Các đèn báu đẹp tỏa mùi thơm
Đều đem dâng ánh sáng cúng Phật.
Lại phóng ánh sáng tên Biến chiếu
Có thể quán sát các chúng sinh
Tham ái luân hồi biển sinh tử
Vì muốn cứu độ các chúng sinh.
Chiếu đến biển tham ái luân hồi
Làm cho lợi lác các chúng sinh
Đều được chia lìa bốn thứ ma
Khổ não bức bách được an lạc.
Tạo ra vô số các cầu đường
Hoặc làm thuyền bè để qua sông
Trừ tai nạn giả dối quở trách
Phóng ánh sáng chiếu khắp muôn nơi.
Ánh sáng thức tỉnh người đói khát
Có thể giác ngộ các chúng sinh
Xa lìa tham dục được lợi lạc
Được làm bậc Đạo sư thuyết pháp.
Nếu lìa tham dục được lợi lạc
Thuyết pháp giáo hóa cũng như vậy
Được Phật rưới xuống nước cam lồ
Cứu giúp người đói khát ở đời.
Hoặc làm sông, ao và đầm, giếng
Mong cầu Bồ-đề nên tạo tác
Khinh chê ái dục, khen ngợi định
Quở trách tham ái, đều đoạn trừ.
Thương xót chúng sinh, phóng ánh sáng
Ánh sáng giác ngộ khắp chúng sinh
Biến hóa lợi tha trụ Bồ-đề
Mỗi niệm phát sinh, ta đều rõ.
Tướng tốt trang nghiêm ngồi tòa sen
Đại bi thương xót các chúng sinh
Luôn luôn giảng nói công đức Phật
Phóng ánh sáng khiến họ vui lòng
Lại phóng ánh sáng tên Thích ý
Ánh sáng này giác ngộ hữu tình
Sinh lòng kính ngưỡng Phật và pháp
Thường ưa thích phụng sự chúng Tăng.
Đã được tâm kính mến Phật pháp
Và cúng dường, phụng sự chúng Tăng
Kính lễ công đức Như Lai
Vì thế được hạnh Phật vô thượng.
Gặp chư Như Lai và diệu pháp
Chứng đắc hạnh nhẫn nhục tối thượng
Giác ngộ rất nhiều chúng hữu tình
Niệm Phật, niệm pháp, niệm công đức.
Tâm giác ngộ mỗi mỗi công đức.
Phóng ánh sáng hướng đến mong cầu
Phóng ánh sáng tích tập công đức
Ánh sáng này giác ngộ hữu tình
Xả bỏ vô số các công hạnh
Khuyến thỉnh đạo Vô thượng Bồ-đề.
Các phẩm vật bố thí như vậy
Sở cầu như ý đều đầy đủ
Tùy ý bố thí tất cả rồi
Phóng ánh sáng tích chứa công đức.
Người trí phóng ra ánh sáng như vậy
Ánh sáng quán chiếu khắp chúng sinh
Tuyên thuyết chánh pháp không cùng tận
Có thể quán sát mỗi sát-na.
Mỗi trí đều có thể biết rõ
Nghĩa pháp tuệ nhiếp hóa chúng sinh
Đã tuyên dương thắng nghĩa diệu pháp
Là trí tuệ phóng ánh sáng lớn.
Nếu dùng đèn trí phóng ra ánh sáng
Ánh sáng chiếu khắp các chúng sinh
Chúng sinh bất không, không sinh diệt
Tự tánh các pháp tức vô tánh.
Như huyễn, như sương, trăng đáy nước
Cũng như mộng, như ảnh trong gương
Pháp không chủ tể, nương tánh không
Khéo thuyết pháp sinh đèn trí tuệ.
Pháp lực biến hóa phóng ánh sáng
Ánh sáng giác ngộ các chúng sinh
Tổng trì vô tận khó chứng đắc
Thọ trì Pháp tạng chư Như Lai
Tu tập diệu pháp Tổng trì rồi
Thường hộ trì pháp của chư Phật
Vì thế gian, giảng nói pháp này
Là pháp phóng ánh sáng giáo hóa.
Hoặc phóng ánh sáng xả ưa thích
Ánh sáng giác ngộ của chúng sinh
Biết khoái lạc vô thường, không chắc
Xả bỏ như vậy, đều chứng đắc.
Hiểu rõ tự tánh mây nổi
Đã biết thắng tuệ, khéo dung hòa
Là phóng ánh sáng thích bố thí.
Lại phóng ánh sáng tên sám hối
Chiếu đến chúng sinh phạm cấm giới
Giới pháp thanh tịnh, sám hối rồi
Tâm lìa vọng tưởng, chứng Bồ-đề.
Nếu các chúng sinh do trì giới
Nghiệp phá giới đã được thanh tịnh
Đồng thời phát tâm Bồ-đề này
Phóng ánh sáng sám hối chết cả.
Phóng ánh sáng nhẫn nhục trang nghiêm
Ánh sáng chiếu khắp các chúng sinh
Sân giận, ác ý khó điều phục
Dùng pháp nhẫn nhục được tiêu trừ.
Tự mình khó thực hành nhẫn nhục
Vì Bồ-đề nên tâm chẳng động
Thường hay ca ngợi hạnh nhẫn nhục
Đó là hạnh nhẫn nhục trang nghiêm.
Lại phóng ánh sáng chiếu rực rỡ
Quán sát các chúng sinh biếng nhác
Luôn dùng các phẩm vật tối thượng
Để cúng dường lên ngôi Tam bảo.
Đã thường đem phẩm vật tối thượng
Dâng cúng lên ngôi Tam bảo rồi
Có thể xa lìa bốn loại ma
Mau được quả Vô thượng Bồ-đề.
Giáo hóa chúng sinh hành tinh tấn
Cúng dường Tam bảo như vậy rồi
Luôn luôn thọ trì diệu pháp này
Liền được ánh sáng chiếu rực rỡ.
Lại phóng ánh sáng hành nhẫn nhục
Chiếu khắp, giác ngộ các chúng sinh
Được xa lìa các tham, sân, si
Tâm Bồ-đề thường không gián đoạn.
Các hành nghiệp đều được tiêu trừ
Xa lìa tất cả điều bất thiện
Khen ngợi thiền định, trừ tai nạn
Phóng ánh sáng nhẫn nhục thanh tịnh.
Phóng ánh sáng trí tuệ trang nghiêm
Giác ngộ các chúng sinh mê tối
Nếu thuyết chánh pháp, được giải thoát
Có thể chứng nhập các trí căn.
Nếu nghe chánh pháp được giải thoát
Có thể đến được tận nguồn căn
Liền chứng đắc chánh định Nhật đăng
Được trí tuệ sáng tỏ của Phật.
Vật báu của vua đều xả bỏ
Vì đạo Bồ-đề cầu chánh pháp
Liền được thường giảng chánh pháp này
Được ánh sáng trí tuệ trang nghiêm.
Nếu Phật phóng ánh sáng lớn này
Chiếu khắp quán sát các chúng sinh
Vô số Như Lai khó nghĩ bàn
Hiện ngồi trên tòa sen hoa báu.
Như Lai đại giác giải thoát con
Biến hóa vô biên diễn Phật âm
Lực quán chiếu của chư Như Lai
Được phóng ánh sáng của chư Phật.
Lại phóng ánh sáng thí vô úy
Quỷ Bộ-đa làm chúng sinh sợ
Gặp các tai nạn thường sợ hãi
Cứu các khổ nạn bị gông cùm
Làm cho chúng sinh được an ổn
Có thể xa lìa việc sát sinh
Cứu giúp người gặp nạn khốn khổ
Được phóng ánh sáng đại vô úy.
Lại phóng ánh sáng tên An lạc
Làm cho người bệnh được an vui
Chữa lành tất cả các tật bệnh
An lạc trụ vào Tam-ma-địa.
Các thuốc thang và hoa trái
Hương xoa, hương bột và trân bảo
Nước thơm, sữa, mật và tô, dầu
Cúng dường đầy đủ các thức ăn.
Thấy chư Như Lai phóng ánh sáng
Quán chiếu chúng sinh lúc qua đời
Dạy cho niệm Phật được thấy Phật
Qua đời nhất định sinh cõi Phật.
Thấy tượng chư Phật, tâm kính mến
Phật liền đến đó mà cứu độ
Được gặp chư Phật và nghe pháp.
Lại phóng ánh sáng tên Pháp quang
Ánh sáng này giác ngộ chúng sinh
Nghe pháp ghi chép, tụng, thọ trì
Đối với chánh pháp thường ưa thích
Mở bày diệu pháp rất khó gặp
Tâm siêng cầu diệu pháp viên mãn
Dùng các phương tiện, được pháp này
Vì thế được ánh sáng thuyết pháp.
Lại phóng ánh sáng tên Ngôn ngữ
Phật tử giác ngộ các chúng sinh
Bản nguyện chấn động ba ngàn cõi
Nghe tiếng vi diệu của Như Lai.
Lớn tiếng khen ngợi bậc Đại tiên
Bố thí các tiếng chuông linh hay
Vì các thế gian Phật nói pháp
Do đó được ánh sáng Ngôn ngữ.
Lại phóng ánh sáng Thí cam lồ
Ánh sáng giác ngộ các chúng sinh
Biết rõ móng tâm của chúng sinh
Hành tương ưng tất cả công đức
Trong vô số khổ não, tai nạn
Thường nói hữu vi không an ổn
Nếu thường dứt trừ các tai nạn
Đều được pháp bố thí cam lồ.
Lại phóng ánh sáng tên Tối thắng
Ánh sáng này giác ngộ chúng sinh
Thắng giới, thắng định đều cũng vậy
Nghe trí tuệ, tối thắng của Phật.
Tịnh giới, chánh định và trí tuệ
Của bậc Năng nhân là hơn hết
Khen ngợi tán thán quả Bồ-đề
Sẽ được ánh sáng tối thắng này.
Bố thí vô tận vật quý báu
Cúng dường chư Phật và tháp Phật
Các loại châu báu quý tốt đẹp
Chúng sinh cầu báu mà không được.
Bố thí châu báu chứng đắc Phật
Vì thế phóng quang như châu báu
Lại phóng ánh sáng chiếu sáng khắp
Ánh sáng này giác ngộ chúng sinh.
Không ngửi các hương xoa vừa ý
Thực hành các công đức Như Lai
Các hương thơm trong cõi trời, người
Đều dâng cúng dường chư Như Lai
Con đem thoa khắp các tháp Phật
Vì vậy phóng quang hương xoa này.

QUYỂN 5

Phóng ánh sáng các vật trang nghiêm
Tràng phan và tàn lọng tốt đẹp
Hòa tấu am nhạc và đốt hương
Cúng dường chư Phật các vật ấy
Hương hoa, hương đốt và hương bột
Tràng phan, bảo cái và màn báu
Sinh ra các vật diệu trang nghiêm.
Lại phóng ánh sáng Phát tịnh tâm
Tay cầm châu báu mà an trụ
Ở nơi tháp thanh tịnh của Phật
Được ánh sáng vi diệu thanh tịnh.
Phóng ánh sáng vầng mây rộng lớn
Mưa xuống các loại hương bột thơm
Rưới nước, thoa hương nơi tháp báu
Nên được vàng mây ánh sáng này.
Phóng ánh sáng các vật trang nghiêm
Người thiếu áo được đủ áo mặc
Các ngọc anh lạc và y phục
Nên sinh ra bố thí trang nghiêm.
Lại phóng ánh sáng tên chúng vị
Cho người đói khát thức ăn ngon
Các thức ăn ngon đem bố thí
Bố thí rồi được ánh sáng lớn.
Lại phóng ánh sáng tên Thắng nghĩa
Mở kho báu bố thí người nghèo
Cúng dường Tam bảo không cùng tận
Nên thành tựu thắng nghĩa bố thí.
Lại phóng ánh sáng nhãn thanh tịnh
Khiến người mù thấy được sắc tướng
Đem đèn cúng Phật và tháp Phật
Được phóng ánh sáng mắt thanh tịnh.
Lại phóng ánh sáng nhĩ thanh tịnh
Khiến người điếc nghe các loại tiếng
Trổi nhạc cúng Phật và tháp Phật
Được ánh sáng nhĩ căn thanh tịnh.
Lại phóng ánh sáng tỷ thanh tịnh
Người không ngửi được đều ngửi được
Dùng hương bột cúng Phật và tháp
Được ánh sáng tỷ căn thanh tịnh.
Lại phóng ánh sáng thiệt thanh tịnh
Được lời nói từ hòa của Phật
Xa lìa hẳn lời nói thô ác
Được ánh sáng tướng lưỡi thanh tịnh.
Lại phóng ánh sáng thân thanh tịnh
Khiến người tàn tật được đầy đủ
Xả thân cúng dường Phật và tháp
Vì thế được thân thanh tịnh này.
Lại phóng ánh sáng ý thanh tịnh
Đều được tất cả ý Huyền diệu
Do tâm ý thực hành chánh định
Được ánh sáng sắc thanh tịnh.
Lại phóng ánh sáng sắc thanh tịnh
Được thấy các sắc tướng Như Lai
Các sắc tướng tốt đẹp đầy khắp
Được ánh sáng trang nghiêm bảo tháp.
Lại phóng ánh sáng tiếng thanh tịnh
Biết rõ phi thanh và không thanh
Sinh tâm tin giống như tiếng vang
Phóng ánh sáng tiếng thanh tịnh này.
Lại phóng ánh sáng hương thanh tịnh
Tất cả mùi hôi được thơm sạch
Rưới nước hương thơm tháp chùa Phật
Phóng ánh sáng đến cội Bồ-đề.
Lại phóng ánh sáng vị thanh tịnh
Chất độc biến thành vị ngọt ngon
Cúng Phật, Thanh văn và cha mẹ
Được ánh sáng cúng dường thượng vị.
Lại phóng ánh sáng xúc thanh tịnh
Trơn nhám, mềm dịu đều an lạc
Kiếm kích cung, tên như mưa xuống
Biến hóa thành tràng hoa thơm đẹp.
Được mặc vô số y phục mịn
Độ chúng sinh đến chỗ Như Lai
Hoa đẹp, hương xoa, y thanh tịnh
Được ánh sáng bố thí tràng lọng.
Lại phóng ánh sáng pháp thanh tịnh
Tất cả đầu lông khó suy lường
Vì các thế gian mà xuất hiện
Được Phật giảng nói tất cả pháp.
Tin pháp tự tánh vốn không sinh
Pháp thân, Báo thân cũng như vậy
Pháp tánh thường trụ như hư không
Vì thế nên được pháp thanh tịnh.
Ngay đó ánh sáng được phóng ra
Từ lỗ chân lông bậc Đại tiên
Tất cả đều tùy theo nghiệp nhân.
Cũng như ở trong một mảy lông
Phóng ra vô số ánh sáng lớn
Tất cả các đầu lông như vậy
Bậc Đại tiên hiện chánh định này.
Nếu phóng ánh sáng như bản hạnh
Ánh sáng này đồng với quá khứ
Nếu không phóng hiện ánh sáng này
Làm sao bậc Đại tiên biến hóa.
Đã cùng nhau tu tập phước đức
Tùy hỷ khuyến thỉnh cũng như vậy
Nếu người thấy được ánh sáng này
Thì đều hiểu rõ mình và người.
Nếu ai khéo an hòa phước nghiệp
Cúng dường Phật liên tục không ngừng
Thường vui cầu công đức Như Lai
Thấy ánh sáng này, làm như vậy.
Không không phân biệt ngày đêm, thế gian
Làm sao mắt phân biệt các sắc
Mỗi mỗi pháp nghĩa sao hiểu rõ
Điều ngự phóng ánh sáng cũng vậy
Phân biệt, chỉ bày kẻ không thấy
Chưa lìa điên đảo lời vọng tưởng
Rốt cuộc không được ý thông suốt.
Dùng các loại hương hoa thơm đẹp
Và châu báu trang trí cung điện
Đại chúng người nào không thể biết
Tật bệnh thật khó mong tiêu trừ.
Ánh sáng Điều ngự cũng như vậy
Kẻ không biết ánh sáng tự che
Nói dối, lừa gạt chưa thể trừ
Rốt cuộc không được tâm rộng lớn
Thấy ánh sáng này có thể biết
Thường thích nghe pháp được an lạc
Không nghi ngờ dứt các vọng tưởng
Lìa ngã kiến được công đức lớn.
Biến hóa trang nghiêm cả chủ khách
Nương tựa vào chánh định vô thượng
Vô biên tất cả mười phương cõi
Hiển thị Phật tử và chủ khách.
Ba ngàn vi trần các cõi nước
Ánh sáng trang nghiêm các tòa sen
Biến hóa thị hiện chánh định này.
Mười phương vi trần cõi tự, tha
Các quyến thuộc được ngòi tòa sen
Các chúng Phật tử đều vây quanh
An trụ biến nhập vào chánh định.
Nhờ sức giáo hóa của Như Lai
Chúng sinh được sinh công đức Phật
Các hoa sen lớn bao xung quanh
Đồng thời chắp tay cung kính lễ.
Pháp này là bậc Điều ngự sư
Nếu thể nhập chánh định tịch tĩnh
Được các đệ tử vây xung quanh
Như trăng sáng giữa các vì sao.
Như người đến một nơi nào đó
Chỉ bày Phật tử và quyến thuộc
Trong tất cả phương đều như vậy
Biến hóa thị hiện Tam-ma-địa.
Tất cả chướng ngại đều tiêu trừ
Hành nhập Tam-ma-địa tối thượng
Hoặc từ nơi Tam-muội xuất định
Từ thân hiển hiện khắp mười phương.
Hoặc ở phương Đông nhập chánh định
Thị hiện hoạt động ở phương Tây
Hoặc ở phương Tây nhập chánh định
Phương Đông lại hiện tướng Đại nhân.
Đều thể nhập trong khắp mười phương
Phương khác lại hiện các Tam-muội
Trí công đức này hiện rộng khắp
Chánh định biến hóa của Như Lai.
Tất cả cõi nước ở phương khác
Đều đi đến vô số Như Lai
Thành kính đảnh lễ nơi chân Phật
Hiện trú vào chánh định an lạc.
Hoặc trong Tam-muội quán chúng sinh
Các cõi phương Tây đều vắng lặng
Tất cả Như Lai hiện ở trước
Hiện ra vô số vật cúng dường.
Thấy hết Tây phương như vậy rồi
Lại đến vô số các cõi Phật
Chí thành cung kính lễ Như Lai
Được trụ vào chánh định an lạc.
Nhờ Thiền định nên được chánh kiến
Tất cả cõi nước ở phương Đông
Các Đức Như Lai hiện ở trước
Lại thấy vô số vật cúng dường.
Thể nhập mười phương cõi Phật rồi
Khắp các phương đều không dao động
Nơi ấy thị hiện các Tam-muội
Phẩm vật cúng dường Đấng soi đời.
Ở trong nhãn trần nhập chánh định
Hay hiện sắc trần các cảnh giới
Thấy sắc chẳng thể nghĩ bàn này
Cõi trời và người khác đều kinh ngạc.
Đã thấy sắc trần Tam-muội này
Liền tư duy cảnh giới nhãn trần
Tự tánh của mắt không sinh diệt
Vì thế mở bày không vô tướng.
Hoặc trong nhĩ trần nhập chánh định
Hay hiện các cảnh giới thanh trần
Hiểu được tất cả tiếng ngữ ngôn
Cõi trời và người đều kinh ngạc.
Đã thấy thanh trần Tam-muội này
Suy xét kỹ cảnh giới nhĩ trần
Tự tánh của tai không sinh diệt
Vì thế mở bày không vô tướng.
Hoặc trong tỷ trần nhập chánh định
Hay hiện các cảnh giới hương trần
Ngửi được tất cả hương tối thượng
Cõi trời và người đều kinh ngạc.
Đã được hương trần Tam-muội này
Suy xét kỹ cảnh giới tỷ trần
Tự tánh của mũi không sinh diệt
Vì vậy mở bày không vô tướng.
Hoặc trong thiệt trần nhập chánh định
Hay hiện các cảnh giới vị trần
Nếm được tất cả các thượng vị
Cõi trời và người đều kinh ngạc.
Đã được thượng vị Tam-muội này
Suy xét kỹ cảnh giới thiệt trần
Tự tánh của lưỡi không sinh diệt
Vì thế mở bày không vô tướng.
Hoặc trong thân trần nhập chánh định
Hay hiện các cảnh giới xúc trần
Phân biệt được tất cả các xúc
Cõi trời và người đều kinh ngạc.
Đã được Tam-muội xúc trần này
Suy xét kỹ cảnh giới thân tràn
Tự tánh của thân không sinh diệt
Vì vậy mở bày không vô tướng.
Hoặc trong tâm trần nhập chánh định
Hay hiện các cảnh giới pháp trần
Đã thấy pháp trần Tam-muội này
Suy xét cảnh giới tâm trần
Tự tánh của tâm không sinh diệt
Vì vậy mở bày không vô tướng.
Trong thân đồng tử nhập chánh định
Xuất hiện thân tráng niên xinh đẹp
Trong than tráng niên nhập chánh định
Lại trú thân già yếu bệnh tật.
Trong thân già yếu nhập chánh định
Lại phát tâm làm Ưu-bà-tắc
Trong thân thiện nam nhập chánh định
Biến đổi hiện làm thân Tỳ-kheo.
Trong thân Tỳ-kheo nhập chánh định
Liền được thân Tỳ-kheo đa văn
Tỳ kheo đa văn nhập chánh định
Liền được thân Hữu học, Vô học.
Trụ trong thân này nhập chánh định
Liền được trụ trong thân Như Lai
Trong thân Như Lai nhập chánh định
Được thân Phật trang nghiêm tối thượng.
Trong thân tối thượng nhập chánh định
Hóa hiện làm thân tướng trời, người
Trong thân chư Thiên nhập chánh định
Sinh ra rất nhiều thân Đại long.
Trong thân Đại long nhập chánh định
Sinh ra các thân Dạ-xoa lớn
Trong thân Dạ-xoa nhập chánh định
Sinh ra tất cả thân Bộ-đa
Trong thân Bộ-đa nhập chánh định
Hiện tiền sinh ra trên đầu lông.
Trong một đầu lông nhập chánh định
Sinh ra tất cả các đầu lông
Trong tất cả lông nhập chánh định
Sinh ra một vi trần đầu lông.
Trong một trần lông nhập chánh định
Xuất hiện tất cả cảnh tóc trần
Tất cả tóc trần nhập chánh định
Lại hay xuất hiện số vi trần.
Nếu thấy một trần làm Tam-muội rồi
Sinh ra tất cả các vi trần
Trong tất cả trần nhập chánh định
Sinh ra biển Kim cang rộng lớn.
Trong biển Kim cang Tam-muội ấy
Sinh ra hoa quả cây ma ni
Từ Tam-muội cây ma-ni ấy
Xuất hiện ánh sáng lớn Như Lai.
Trong ánh sáng chánh định Như Lai
Xuất hiện tất cả nước sông biển
Ở trong Tam-muội sông biển ấy
Lại xuất hiện cảnh giới hỏa trần.
Ở trong Tam-muội hỏa trần ấy
Sinh ra suy nghĩ về phong trần
Từ trong Tam-muội phong trần ấy
Sinh ra cảnh giới đại địa trần.
Từ trong Tam-muội địa trần ấy
Sinh ra tất cả cung điện trời
Ở trong Tam-muội cung trời ấy
Suy nghĩ về cảnh giới hư không.
Chánh định giải thoát bất tư nghì
Đều được vô biên các công đức
Lại hay chiếu sáng vô biên kiếp
Tất cả Như Lai khó suy lường.
Tất cả chư Phật đều cùng nói
Nghiệp báo thế gian khó nghĩ bàn
Rồng hóa mây nước, Phật nhập định
Trong định biến hóa không khó nghĩ bàn.
Xuất hiện giải bày một ít phần
Những người trong chúng đều kinh ngạc
Trí phương tiện Pháp sư đều biết
Giảng nói làm cho mau hiểu rõ.
Liền được an trụ tám giải thoát
Thanh văn một thân hiện nhiều thân
Hoặc từ nhiều thân hợp thành một
Quán ánh sáng lửa trong hư không
Ngọn lửa hừng cháy rực sáng rỡ
Lửa cháy bao bọc xung quanh thành.
Dưới thành lửa cháy đến thủy luân
An trụ nằm ngồi trên luân này
Sát-na thân biến bất tư nghì
Nhưng họ không có tâm Từ bi
Không hành Bồ-đề xa thế gian
Thân tuy biến hóa bất tư nghì
Không thể vì thế gian lợi tha
Như nhật nguyệt đi giữa hư không
Có thể chiếu soi mười phương cõi
Hồ ao, vũng nước và vực suối
Lớn nhỏ, vuông tròn Sông biển báu
Hiện ra sắc tướng bất tư nghì
Như mặt trời chiếu khắp mười phương
Như trí giải thoát các Tam-muội.
Nếu gặp Phật Như Lai cũng vậy
Như bốn bệnh bên ao trong
Hiện rõ hình tướng ở trong đó
Đao kiếm, cung tên và mão giáp
Mão vải che vai áo giáp sắt
Cũng như sắc tướng để trang nghiêm
Thấy vầng ánh sáng của Như Lai
Không phân thương ghét, lìa nghi hoặc.
Công đức giải thoát Tam-ma-địa
Trong cõi trời, biển nói tên ấy
Cho đến mọi loài sinh ở biển
Nghe ngôn ngữ ấy thảy đều biết.
Khiến tất cả chúng đều vui mừng
Ưa thích ngôn ngữ tham và sân
Tất cả tùy loại có thể biết
Chứng đắc lực diệu pháp Tổng trì.
Cõi trời và người vượt hữu vô
Gọi là Đổ-lỗ-bà-nhạ-sa
Có Bà-la-môn nữ khen ngợi
Phát nguyện không có tâm yêu ghét.
Vì không ganh ghét, được giải thoát
Tuy biện tài nhưng còn ghét thương
Không thể thành tựu đại bố thí
Tiếng khen vang xa khắp thế gian.
Ai cũng tùy hỷ trí công đức
Ví như nhà huyễn thuật tài giỏi
Có thể hiện vô số hình sắc
Hoặc trong giây lát, hoặc ngày, tháng
Trăm năm ngắn như đuốc trước gió
Huyễn hóa làm sao có thương ghét.
Thế gian biến hóa như mộng huyễn
Quyết định xa lìa, được giải thoát
Như người trí khéo tu làm đều vui
Còn trời, Tu-la cùng chiến đấu
Trời thắng, Tu-la bị thua trận
Buông màn phủ kín khắp các xe
Binh giáp thoái lui đều bỏ chạy
Tu-la ở đó phát sân nhuế.
Thân biến, tự thuyết khó nghĩ bàn
Giàu sang, mạnh mẽ không địch nổi
Hiện ra thân biến hóa như vậy
Nhiếp phục Đại long và Kim cang
Quyến thuộc Đế Thích cưỡi voi lớn
Voi này hiện ba mươi đầu
Mỗi đầu lại hiện ra sáu ngà
Trên mỗi ngà đều có bảy ao
Mỗi ao đầy nước thơm trong sạch
Trong mỗi ao có bảy hoa sen
Trên mỗi hoa sen xinh đẹp ấy
Đều có bảy Thiên nữ trang nghiêm
Tất cả Thiên nữ đều giỏi biết
Ca vũ và các thứ kỹ nhạc.
Đế Thích thiên chúng đều vui chơi
Biết thân hình họ thuộc loài rồng
Biến hóa tất cả đều giống nhau
Tạo ra các vật để trang nghiêm
Hoặc hiện làm rồng chúa tối thượng
Hiện có thương, ghét và si mê
Tùy theo phước nghiệp hiện thần biến
Trí lực, phương tiện, tương ưng hành
Không hành chánh định không thể làm.
Cũng như La-hầu biến thân hình
Biến làm kim cang buộc dưới chân
Hiện thân trong nước biển đến rốn
Đầu cao ngang đỉnh núi diệu cao
Có đủ thương, ghét, sân, si
Sức thần biến La-hầu như vậy
Bậc soi đời hủy hoại ma vương
Hoặc hiện vô số thần thông biến
Hóa hiện Đế Thích bất tư nghì.
Lúc trời cùng Tu-la chiến đấu
Làm cho Tu-la không biến hóa
Đế Thích tự nhiên vô số thân
Biết được sức mạnh A-tu-la
Đồng thời tự đến trước Đế Thích
Trên tay đều cầm chày Kim cang
Tu la đánh nhau mà run sợ
Đế Thích biến hiện ra ngàn mắt.
Cầm chày Kim cang cháy rực rỡ
Mặc giáp đội mão rất oai nghiêm
Tu la trông thấy sợ bỏ chạy
Do phước mỏng oai lực yếu kém.
Đế Thích hiện thần thông biến hóa
Có thể cứu giúp khắp thế gian
Thần thông biến hóa phước vô tận
Trên không, trống trời khuyến chư Thiên.
Nói về các quả báo nghiệp lực
Biết chư Thiên ham mê ngữ dục
Trống trời vang lên tiếng cứu độ
Quán thân vô thường, không thường còn.
Không thể hiểu rõ tự tánh này
Như huyễn, như mây che trăng sao
Tự tánh vạn vật như giấc mộng
Đoạn trừ hết phiền não oan gia
Chứng đắc cam lồ lìa vô thường
Thiên chúng nào tham đắm dục lạc
Vô thường mau đến như Ma-kiệt
Tất cả quyến thuộc đều đau khổ.
Như người mù ưa thích dục lạc
Nếu có nghe pháp thoát vô thường
Trống trời Đế Thích thường khuyên bảo.
Thuyết giảng diệu pháp cho thiên chúng
Thường tuyên bày lời nói vi diệu
Hay nói rõ vô biên phiền não
Có thể hiển hiện không sắc tướng.
Trống trời phát ra âm thanh lớn
Tùy ý chư Thiên hiện các sắc
Vì các chúng sinh hiện vô tác
Trời và Tu-la lúc đánh nhau
Chư Thiên phước lực thù thắng lớn
Trống trời trên không khuyên chư Thiên
Phát ra các âm thanh giống nhau
Trống trời làm cho chư Thiên vui
Được xa lìa các sự sợ hãi
Binh tướng Tu-la thua bỏ chạy
Phút chốc lo sợ đều tiêu trừ.
Trống cam lồ trải qua vô số kiếp
Cứu độ tất cả các thế gian
Xa lìa phiền não các ma vương
Không bị phiền não được an lạc
Đế Thích vì Thiên nữ hóa thân
Làm cho chín hai Thiên nữ vui
Mỗi huyễn thân đồng với thân kia
Tất cả Thiên nữ đều đồng hiện
Đồng thời đều tham đắm dục lạc.
Nếu an trụ tự tánh diệu pháp
Và khai thị giảng nói chánh pháp
Một sát-na Đế Thích biến hóa
Đế Thích có đủ tham, sân, si.
Không người ở đời dùng phương tiện
Biến hóa xa lìa các ái dục
Ma vương tranh đấu trụ thế gian.
Nhiếp phục tất cả các chúng sinh
Bị phiền não nghiệp lực trói buộc
Chúng sinh mê muội không thể thoát
Vì do ba độc tham, sân, si.
Ma vương nhiếp phục cả thế gian
Bị ràng buộc trong mười nghiệp đạo
Tất cả thế gian tự phá hủy
Phạm vương chủ ba ngàn cung điện.
Cho đến ba ngàn cung Phạm vương
Thân hình hiện khắp ở trong đó
Phạm thiên phát ra âm thanh vi diệu
Phạm vương ở trong thế gian đó
Biết Phạm vương có thể biến hóa
Trải qua kiếp số như sát na
Không thể một niệm sinh bi trí
Phải vượt qua nạn ba hoại kiếp.
Tâm các thế gian khó nghĩ bàn
Tâm, nghiệp chúng sinh Tạo nên gió
Đại phong thành tựu khí thế gian
Bốn biển, núi cao và Thiên cung.
Chủng tử ánh sáng báu rộng lớn
Gió lớn tạo mây, giáng mưa xuống
Như làm ngừng gió, mây tự tan
Gió có thể thành thục vạn vật
Làm an lạc vô số chúng sinh
Gió ấy chẳng học Ba-la-mật
Cũng không học các công đức Phật
Hay hiện thế gian khó nghĩ bàn.
Tuy nhiên không thể thấy được như vậy
Cho đến âm thanh chim, cầm thú
Tiếng người nữ, đồng nam, đồng nữ
Tiếng sóng biển và tiếng sấm sét
Các chúng sinh thảy đều biết rõ
Nghe được tự tánh của âm thanh.
Dùng đại trí biện tài vô ngại
Sông ngòi đều âm thanh lớn
Thế gian ưa thích âm thanh hay
Biển pháp Như Lai thật hy hữu
Có thể nhiếp tất cả các biển
Biển có châu báu, nước vô tận
Nước sông chảy ra không làm tăng
Cũng như tất cả biển thế gian
Định, tuệ, giải thoát phước vô tận
Trí tuệ phát sinh các công đức.
Công đức, phước ấy cũng không tăng
Rồng Sa-nga-la được tự tại
Đi đến cõi trời Hóa lạc thiên
Mây lành trùm khắp bốn đại châu
Vô số vật báu để trang nghiêm
Từ trời Hóa lạc đến Diêm-phù
Hiện mây đủ màu sắc tươi đẹp
Hoặc biến ánh sáng màu hồng châu
Trời Đổ-sử-đa màu kim tuyết
Trong trời Dạ-ma màu lưu ly
Trong trời Đao-lợi tạng lưu ly
Trời Tứ Thiên vương màu pha lê
Kim cang kiên cố màu may biển
Cung Khẩn-na-la hương tỏa khắp
Cung điện Long vương màu hoa sen
Cung điện Kiên thủ màu quạ đen
Cung A-tu-la màu núi đá
Bắc Câu-lô châu mà vàng lửa
Thiệm bộ châu có màu ngọc bích
Vực khác, châu khác đều trang nghiêm
Màu mây tùy theo châu biến hóa
Trời Hóa lạc thiên hiện mây vàng
Như ánh chớp tia sáng mặt trời
Màu sắc đẹp như trăng trong sáng.
Trời Đổ-sử-đa màu vàng tía
Trời Diệm-ma có màu tuyết vàng
Cõi trời Đao-lợi màu lưu ly
Trời Tứ Thiên vương màu pha lê
Kim cang kiên cố màu mây biển
Cung Khẩn-na-la hương đầy khắp
Cung điện Long vương màu hoa sen
Kiên thủ đại lực màu quạ đen
Cung A-tu-la màu núi sắt
Bắc Câu-lô châu màu ma-ni
Các vật sai khác để trang nghiêm
Cõi Thiệm bộ châu màu ma-ni
Chớp sáng xuất hiện cũng như mây
Cõi trời Hóa lạc và Phạm vương
Tiếng trống đều vang vọng khắp nơi
Trời Đổ-sử-đa như tiếng ca
Trời Diệm-ma như tiếng Thiên nữ
Cõi Tứ thiên kia Kiền-đạt-phược
Tiếng núi chạm nhau, tiếng sóng biển
Khẩn-na-la dùng đàn tiêu địch
Long cung tiếng Ca-lăng-tần-già
Cung Kiên-thủ-la tiếng long nữ
Cung Tu-la tiếng đàn cầm sắt
Tiếng người, tiếng biển và tiếng nhạc
Cõi trời Hóa lạc tiếng diệu hương
Mưa các loại hoa để trang nghiêm.
Cõi Diệu ma-ni nguyệt diệu nguyệt
Rải tràng hoa Mạn-đà, hương bột
Trời Đổ-sử-đa màu ma-ni
Đầy đủ các châu báu trang nghiêm.
Ma-ni búi tóc như ánh trăng
Mưa y phục vàng màu rực rỡ
Các loại tràng phan và bảo cái
Tràng hoa, hương xoa đồ nghiêm sức
Y màu hồng sắc vàng châu báu
Nơi trời Diệm-ma luôn tuôn nước
Trời Đao-lợi mưa châu như ý
Hương xoa, chiên-đàn và trầm thủy
Trời Công-cô-ma nhụy rải hoa
Mưa xuống diệu hoa cùng hương nước
Thức ăn ngon lạ mùi vị thơm
Tăng thêm sức sắc mặt hớn hở
Châu báu thù thắng khó nghĩ bàn
Trời Tứ Thiên vương và Long cung
Mưa trong biển lớn luôn không dứt
Vô lượng vô cùng tận như vậy.
Kho tàng rất rộng lớn vô tận
Thường mưa vô số châu báu quý
Đầy đủ y rất tốt đẹp trang nghiêm
Lại mưa hương bột, hương mạt lợi.
Hoặc tấu đàn cầm sắt
Khẩn-na-la nữ, mưa anh lạc
Long cung mưa xuống châu sắc hồng
Ánh sáng Kiên lao ma-ni báu
Cung A-tu-la mưa kiếm, kích
Dẹp trừ được tất cả oan gia
Anh lạc vô giá làm an lạc
Mưa hoa Mạt-lợi, hoa Chiêm-ba
Mưa xuống Câu-lan-noa thanh tịnh
Lại mưa các loại đèn đuốc sáng
Người cõi Diêm-phù-đều hoan hỷ
Phấn khởi vui mừng trận mưa pháp.
Hoa, quả và hương các loại cây
Vật báu cõi trời an khắp thế gian
Mây trang nghiêm khó nghĩ cũng vậy
Các thứ mây mưa và sấm sét
Long vương biến hóa khó nghĩ bàn
Thường sống ở nơi biển rộng lớn.
Long vương biến hóa thật khó lường
Nếu vào trong biển pháp công đức
Vô biên biến hóa khó lường được
Nói sơ qua nghĩa ví dụ này.
Bậc Điều ngự sư nói như vậy
Trí dũng mãnh lìa các ví dụ
Nếu hiện an trụ môn giải thoát
Môn giải thoát này là tối thượng
Ý vô thượng rộng lớn vi diệu
Tâm chân thật, đắc việc hy hữu
Ý thâm sâu tối thắng như vậy
Là pháp hy hữu khó thực hành.
Thế gian có người hành hạnh này
Nếu nghe môn giải thoát tối thượng
Thế gian cung kính và khen ngợi
Làm than chúng sinh khó nghe đạo.
Nếu người hay tôn trọng pháp này
Thì được phước đức và an lạc
Do sự cung kính và cúng dường
Trong nhân gian xa lìa nghi hoặc.
Trong hàng Thanh văn không nghi ngờ
Hành Bích-chi-phật cũng như vậy
Trong các thừa khác cũng không nghi
An trụ Đại thừa cũng chưa khó
Cung kính kinh này mới thật khó
Làm sao đọc tụng và thọ trì
Thực hành pháp này như thế nào?
Giả sử ba ngàn núi và biển
Đầu đội đến tận kiếp vị lai
Khổ cực như vậy chưa là khó
Cung kính kinh này mới là khó
Chúng sinh vi trần ba ngàn cõi
Mỗi mỗi ở trước kính bao kiếp
Thắng phước như vậy chưa là khó
Tin kinh này mới thật là khó.
Giả sử biển núi trong mười cõi
Đem đặt ở trong tâm bàn tay
Khổ nhọc như vậy chưa là khó
Cung kính kinh này mới là khó.
Vô số chúng sinh trong mười cõi
Đều trải qua kiếp trụ trước mặt
Phước báo tối thắng chưa là khó
Tin kinh này mới thật là khó.
Vô số Như Lai trong mười cõi
Đều trải qua kiếp trước mặt
Nếu đọc tụng thọ trì pháp này
Được vô số công đức thù thắng.
Như Lai mở bày môn giải thoát
Có thể đánh đổ cung ma vương
Ở tất cả cõi trong mười phương
Dạy người được an lạc không tội.
Từ kim khẩu hiện ra tất cả
Các Đấng Sư Tử trong mười phương
Duỗi tay đặt để trên đỉnh đầu
Từ kim khẩu Như Lai phóng ra
Vô biên công đức an lành khắp
Như Lai lấy tay xoa đỉnh đầu.
Các ông nên truyền bá rộng khắp
Pháp môn giải thoát vi diệu này
Chớ đề cho pháp này đoạn tuyệt
Thế Tôn nói xong kệ này rồi
Mặc nhiên mà an trụ tịch tĩnh.

Bấy giờ, tất cả chư Thiên, nhân loại, Thánh chúng trong tam thiên thế giới đều nói:

–Đây là hội Chuyển pháp luân lần thứ hai của Như Lai.

Tất cả đều khen:

–Lành thay! Đức Thế Tôn thuyết pháp thật là hy hữu. Đời quá khứ, chúng con chưa từng nghe chánh pháp như vậy. Chúng sinh nào được nghe chánh pháp này thì thật là hy hữu, không sinh vào nhà bần cùng hạ tiện, tâm được bình đẳng cũng như công đức cúng dường, cung kính các Như Lai. Các chúng sinh ấy lần lần được dạy bảo. Như tháp chùa Phật, trời, người, ma vương cùng quyến thuộc không thể hại được các chúng sinh ấy. Các trời, người tại gia, xuất gia, các quốc vương, đại thần, trưởng giả, tể quan cũng không thể làm hại được.

Lúc ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu! Làm sao Như Lai chứng đắc pháp này? Chánh pháp bảo ánh sáng này nên thực hành ở đời, kinh quý báu này xuất hiện ở đời là do thần lực của Như Lai. Lại nữa, các chúng sinh được nghe pháp này cũng là do thần lực của Như Lai.

Khi đó, Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

–Ông nên siêng năng thọ trì đọc tụng chánh pháp này.

Lúc ấy, Tôn giả A-nan nhiễu Phật ba vòng rồi thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con sẽ thọ trì chánh pháp này, vĩnh viễn không để quên mất.

Sau khi Phật giảng nói kinh này tất cả Thánh chúng Bồ-tát, Thanh văn như Bồ-tát Phổ Hiền, Đồng tử Diệu Cát Tường, Tôn giả Xá-lợi-phất, các chúng Trời, Người, A-tu-la, Càn-đạt-phược… đều vui mừng, đảnh lễ và lui ra.


[Đầu trang][QUYỂN 1][QUYỂN 2][QUYỂN 3][QUYỂN 4][QUYỂN 5]


[Mục lục bộ Hoa Nghiêm][274][275][276][277][278.1][278.2][279.1][279.2][280][281][282][283][284][285][286][287][288][289][290][291][292][293.1][293.2][294][295][296][297][298][299][300][301][302][303][304][305][306][307]


[Mục lục tổng quát]