TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ NIẾT BÀN (374 - 392)

SỐ 376 - KINH ĐẠI BÁT NÊ HOÀN

Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, người huyện Bình Dương.

MỤC LỤC

QUYỂN 1

Phẩm 1: PHẦN TỰA

Phẩm 2: BỒ TÁT ĐẠI THÂN

Phẩm 3: TRƯỞNG GIẢ THUẦN ĐÀ

QUYỂN 2

Phẩm 4: XÓT XA THAN THỞ

Phẩm 5: SỐNG LÂU

Phẩm 6: THÂN KIM CƯƠNG

Phẩm 7: THỌ TRÌ

QUYỂN 3

Phẩm 8: BỐN PHÁP

QUYỂN 4

Phẩm 9: BỐN HẠNG NGƯỜI ĐỂ NƯƠNG TỰA

Phẩm 10: PHÂN BIỆT TÀ CHÁNH

QUYỂN 5

Phẩm 11: BỐN ĐẾ

Phẩm 12: BỐN THỨ ĐIÊN ĐẢO

Phẩm 13: NHƯ LAI TÁNH

Phẩm 14: VĂN TỰ

Phẩm 15: LẤY CHIM LÀM THÍ DỤ

Phẩm 16: LẤY MẶT TRĂNG LÀM THÍ DỤ

QUYỂN 6

Phẩm 17: HỎI VỀ BỒ TÁT

Phẩm 18: VUI THEO


QUYỂN 1

Phẩm 1: PHẦN TỰA

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật ở giữa cặp cây Ta-la trong khu rừng Kiên cố, cạnh dòng sông Hi-liên, thuộc thành Câu-di-na-kiệt là nơi sinh ra của dòng họ Lực sĩ, cùng với tám trăm ức vị Tỳ-kheo vây quanh. Ngày mười lăm tháng hai, Đức Phật sắp sửa nhập diệt. Bấy giờ các chúng sinh ai nấy đều hớn hở vui mừng, tự xét mình thanh tịnh, không có ý tưởng nghi ngờ chán ghét, bỗng nhiên họ tự thức tỉnh và nhận ra rằng, hôm nay Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác động lòng thương xót thế gian, che chở giữ gìn thế gian, giúp đỡ thế gian, dồn hết sự bình đẳng để xem xét chúng sinh giống như nhìn đứa con một. Đấng tôn quý Đại Mâu Ni tịch diệt điềm đạm bảo cho các chúng sinh biết rằng, Như Lai sắp sửa diệt độ, các vị nào có điều thắc mắc khó giải quyết thì đều nên đến hỏi, gọi là lần hỏi sau cùng. Khi biết được sự việc như thế rồi mọi người đều lo buồn, sầu khổ.

Bấy giờ, từ chính giữa khuôn mặt của mình, Đức Thế Tôn phóng ra đủ mọi ánh sáng màu xanh, vàng, đỏ, trắng, pha lê, hồng, sáng chói rất đỗi khác thường, soi khắp ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến hết thảy cõi Phật trong mười phương. Chúng sinh ở sáu đường được nhờ ánh sáng ấy mà tội lỗi nhơ bẩn và các phiền não thảy đều trừ diệt, ai nấy đều cảm động buồn thảm, nước mắt tuôn như mưa. Mọi người lại nói với nhau: “Này Nhân giả! Kỳ lạ thay! Thế gian trống rỗng. Này Nhân giả! Kỳ lạ thay! Phước của chúng sinh hết rồi! Này nhân giả! Kỳ lạ thay! Pháp khổ tăng thêm! Chẳng bao lâu nữa Đức Như Lai sẽ vào Nê-hoàn. Sao mà chóng vánh quá! Thế gian trống rỗng. Sao mà nhanh chóng quá! Con mắt của thế gian diệt mất. Chúng ta hãy nên cùng nhau mau mau đi đến chỗ Đức Phật để lễ lạy cúng dường, cầu xin khuyến thỉnh Đức Thế Tôn đừng vào Nê-hoàn, hãy trụ ở tuổi thọ một kiếp hoặc giả hơn một kiếp. Nếu như Đức Phật diệt độ thì ai thân thiện từ bi dẫn dắt cho chúng ta, ai cứu giúp các ách nạn cho chúng ta. Vì thế cho nên các Nhân giả có điều gì không hiểu rõ thì nên hỏi Đức Như Lai để được Ngài giải quyết điều thắc mắc”.

Bấy giờ, đại địa chấn động đủ sáu cách. Khi ấy, có tám trăm ức Tỳ-kheo đều là bậc A-la-hán, tâm được tự tại, việc đáng làm đã làm xong, xa lìa các phiền não, hàng phục các căn ví như con rồng lớn, thành tựu không tuệ, đạt được sự lợi ích cho bản thân, quyến thuộc như rừng chiên-đàn, công đức đầy đủ, làm người con chân chính của Đức Phật. Tên của các vị ấy là: Tôn giả Ca-chiên-diên, Tôn giả Bạc-câu-la, Tôn giả Ưu-ba-nan-đà v.v... Sáng sớm, các vị Tỳ-kheo ấy dùng tăm xỉa răng, súc miệng, rửa ráy sạch sẽ, khi ấy có ánh sáng nhiệm mầu chiếu rọi đến thân thể của họ, giống như mặt trời mới mọc, soi sáng cây cối xanh tươi, gân đỏ của ngọn lá thảy đều hiện rõ. Các Tỳ-kheo này cũng như thế, khắp cả thân mình, hết thảy lỗ chân lông máu tuôn chảy như mưa, lòng hết sức khổ đau, vì sự an vui và thương xót các chúng sinh, vì muốn phát khởi phương tiện mật giáo của Đại thừa, vì nhân duyên giáo hóa, các vị ấy súc miệng rửa mặt một cách nhanh chóng, xong xuôi, liền đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu làm lễ dưới chân Ngài, đi quanh trăm ngàn vòng, cung kính thăm hỏi rồi đứng sang một phía.

Lại có hai mươi lăm ức Tỳ-kheo-ni, đều là bậc A-la-hán, tâm được tự tại, việc đáng làm đã làm xong, lìa bỏ mọi phiền não, hàng phục các căn ví như con rồng lớn, thành tựu không tuệ, đạt được sự lợi ích cho mình. Tên của các vị ấy là: Tỳ-kheoni Tu-bạt-đà-la là con gái của Câu-lân (Kiều-trầnnhư), Tỳ-kheo-ni Ưu-bà-nan-đà, Tỳ-kheo-ni Hải Trí v.v... như mặt trời mới mọc, ánh sáng rọi vào cây cối xanh tươi, gân đỏ của ngọn lá thảy đều hiện rõ, các Tỳ-kheo-ni này cũng như vậy, khắp cả thân thể, hết thảy lỗ chân lông máu tuôn chảy như mưa, trong lòng vô cùng đau đớn khổ sở, vì sự an vui và thương xót các chúng sinh, vì muốn phát khởi phương tiện mật giáo của Đại thừa, vì nhân duyên giáo hóa, nên các vị ấy đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu làm lễ dưới chân Ngài, đi quanh trăm ngàn vòng, cung kính thăm hỏi rồi đứng sang một bên.

Lại có các Tỳ-kheo-ni đều là bậc Bồ-tát hùng mạnh ở trong loài người, chứng được mười Địa của Bồ-tát, vì nhân duyên giáo hóa nên hiện làm thân nữ, đi đó đây giáo hóa Bốn vô lượng, có thể thị hiện thành Phật với đủ mọi thứ biến hóa.

Lại có hàng Đại Bồ-tát nhiều như số cát của một sông Hằng, bậc hùng mạnh trong loài người, đều đầy đủ tất cả công đức. Bằng thân phương tiện, các vị ấy rất ưa thích pháp Đại thừa, hướng đúng đắn về Đại thừa, ngưỡng vọng Đại thừa, tham cầu Đại thừa, khát khao Đại thừa, có tài năng khéo léo tùy thuận hết thảy thế gian, độ cho người chưa được độ, giải thoát cho người chưa được giải thoát; ở vô số kiếp, những vị ấy tu tập giới hạnh thanh tịnh và độ thoát chúng sinh; ở vô số kiếp, các vị ấy tu tập giới hạnh thanh tịnh, an ủi chúng sinh; ở vô số kiếp, các vị ấy tu tập giới hạnh thanh tịnh, làm hưng thịnh ba ngôi báu; ở vô số kiếp, các vị ấy tu tập giới hạnh thanh tịnh, vận chuyển bánh xe chánh pháp; ở vô số kiếp, các vị ấy tu tập giới hạnh thanh tịnh, thành đại trang nghiêm; ở vô số kiếp, các vị ấy tu tập giới hạnh thanh tịnh, hành xử kiên cố, những sự việc như thế, vô lượng công đức đều thành tựu hết thảy. Các vị ấy xem xét chúng sinh một cách bình đẳng giống như nhìn đứa con một. Tên gọi của các vị ấy là: Bồ-tát Hải Đức, Bồ-tát Vô Tận Trí v.v... Giống như mặt trời mới mọc, chiếu rọi vào cây cối xanh tươi, gân đỏ của ngọn lá thảy đều hiện rõ, các vị Bồ-tát này cũng như vậy, khắp cả thân thể, hết thảy lỗ chân lông máu chảy như mưa, tâm rất khổ sở đau đớn, vì sự an vui và nhớ nghĩ thương xót tất cả chúng sinh, vì muốn phát khởi phương tiện mật giáo của Đại thừa, vì nhân duyên giáo hóa, cho nên những vị ấy đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu làm lễ dưới chân Ngài và đi quanh trăm ngàn vòng, họ cung kính thăm hỏi rồi đứng sang một bên.

Lại có hàng Ưu-bà-tắc vâng giữ năm giới, nhiều gấp đôi số cát của sông Hằng, họ hết sức ưa thích tất cả các pháp đối trị: khổ và vui, thường và vô thường, cái ta và không phải cái ta, không và chẳng phải không, nương dựa và không nương dựa, chúng sinh và phi chúng sinh, thường hằng và không phải thường hằng, tốt và không phải tốt, hữu vi và vô vi, Nê-hoàn và không phải Nê-hoàn, ưa thích pháp đối trị một cách sâu xa như thế, họ muốn nghe nghĩa lý vi diệu và nêu cao giáo pháp lớn lao. Ở trong vô số kiếp, họ thanh tịnh tu hành phạm hạnh mà không làm hỏng mất, muốn thực hành Đại thừa và giảng nói rộng rãi cho mọi người, tu tập giới hạnh thanh tịnh và muốn học Đại thừa kiên cố, muốn học thuận theo thế gian, muốn học độ thoát thế gian, muốn học làm hưng thịnh Ba ngôi quý báu, muốn học chuyển bánh xe pháp, muốn học đại trang nghiêm, đầy đủ vô lượng công đức như thế, xem xét chúng sinh một cách bình đẳng giống như trông nhìn đứa con một. Tên gọi của các vị ấy là: Ưu-bà-tắc Quang Vô Cấu Xưng Vương, Ưu-bà-tắc Thiện Đức v.v... các vị Ưu-bà tắc như thế, số lượng nhiều bằng số cát của hai sông Hằng. Vào lúc sáng sớm, vì để cúng dường Đức Như Lai, cho nên mỗi người đều làm năm ngàn giường màn bằng cây chiên-đàn, giường màn bằng gỗ trầm thủy, giường màn bằng các thứ quý báu, giường màn thiên hương và giường màn hoa uất kim hương. Toàn bộ các giường màn đều dùng hương thơm của cây ngưu-đầu-chiên-đàn để xông ướp và trang nghiêm bằng mọi thứ bảy báu kỳ diệu, đồng thời trang hoàng lưới đan bằng dây vàng dùng để phủ lên trên; màu xanh phát ánh sáng xanh, màu vàng phát ánh sáng vàng, màu đỏ phát ánh sáng đỏ, màu trắng phát ánh sáng trắng, màu hồng phát ánh sáng hồng, màu pha lê phát ánh sáng pha lê, màu ngọc như ý phát ánh sáng ngọc như ý, dùng các màu sắc lẫn lộn như thế để trang nghiêm. Màn che bao quanh thù thắng và hiếm có, đều dùng lưới bảy báu giăng phủ lên trên, giáp vòng bốn mặt thì treo những phướn báu, lấy đủ mọi thứ hương thơm lẫn lộn để tô lên các vật ấy. Sợi tơ vàng dệt làm dây tua, bên trong tấm màn quý báu ấy với các thứ màu sắc lạ thường trang hoàng giống như trên, bảy thứ quý báu được dệt xong để làm nệm, cỏ huân thơm tho mềm mại dùng để lót vào bên trong chiếc nệm ấy. Mỗi một chiếc giường màn được chở bằng xe báu, chiếc xe ấy được trang hoàng bằng bảy món quý báu tốt đẹp uy nghiêm, trước và sau xe đều có cờ phướn và lọng tán quý báu, từng mỗi chiếc phướn lọng đều làm bằng lưới bảy báu, được trang nghiêm bằng bảy báu màu xanh, vàng, đỏ, trắng và bốn loài hoa: ưu-bát-la, bát-đàm-ma, câumâu-đầu, phân-đà-lợi, cũng được trang hoàng bằng bảy thứ châu báu như trước, kết mọi thứ quý báu lẫn lộn để làm tràng hoa. Bức tranh vẽ trên vải bông màu trắng tốt đẹp và hiếm thấy về những câu chuyện bản sinh ở thời quá khứ của Đức Như Lai, biểu hiện đức Bồ-tát từ khi bắt đầu phát tâm tu hành cho đến lúc Ngài thành Phật, giữa quãng thời gian ấy, Ngài thọ thân và tu hành đủ mọi khổ hạnh, không có chuyện nào mà chẳng ghi lại và phô bày ở đây.

Nhiều người đứng hai bên đường trỗi lên những khúc nhạc, các nhạc khí ấy đều dùng bảy vật quý báu để chế tạo. Âm thanh của chúng hòa nhã, đều phát ra tiếng vô thường, khổ, không.

Mọi người đều nói: “Kỳ lạ thay! Thế gian trống rỗng!”. Họ buồn rầu gào khóc, nước mắt tuôn trào, tiếng than làm chấn động trời đất. Để cúng dường Đức Phật, mỗi người mang theo bên mình đủ thứ bột thơm mịn màng của loại hoa nổi tiếng, họ lại còn sắm sửa các món ăn có mùi vị rất ngon, dùng nước khe núi và đun nấu bằng thứ củi thơm, khiến cho đồ ăn mềm nhuyễn, đầy đủ hương vị.

Lại nữa, ở bên trong và ngoài khu rừng Kiên cố được vẩy nước quét dọn rồi trải cát bằng bảy báu, áo báu được xông ướp hương thơm để phủ lên trên. Chung quanh khu rừng người ta đặt ba mươi hai hàng tòa sư tử đều được trang nghiêm bằng bảy thứ quý báu, chạm trổ hoa văn năm màu sáng loáng, tòa ngồi ấy được xông ướp đủ thứ hương thơm diệu kỳ, rồi trải nệm bằng bảy báu lên trên đó.

Mọi việc xếp đặt xong xuôi, các vị ấy suy nghĩ: “Tất cả chúng sinh muốn có những thứ cần dùng, ta thảy đều bố thí. Như áo quần, đồ ăn thức uống, của cải, châu báu, đất nước, thành trì, vợ con, đầu, mắt, tủy, não, máu, thịt, cơ thể v.v... Các hạng người giàu có, nghèo khổ, sang trọng, hèn hạ, tùy theo sự cần dùng, ta đều khiến cho mỗi người được dồi dào, đầy đủ. Chỉ có điều là, trừ những sự bố thí không được thanh tịnh như sắc dục, thuốc độc, cho đến làm hại chúng sinh v.v...

Các vị Ưu-bà-tắc ấy phát khởi tâm Bồ-tát rồi suy nghĩ: “Chúng ta cầm giữ giường màn, xe báu, các thứ tài vật, đồ dùng, để cúng cho Đức Phật và chư Tăng, ấy là sự cúng dường và bố thí lớn lao cuối cùng”. Mỗi người đều suy nghĩ thế này: “Đức Phật và đại chúng nhận lấy phẩm vật cúng dường của chúng ta rồi, hôm nay Đức Như Lai sẽ vào Nêhoàn”. Suy nghĩ như thế xong, tâm của họ buồn bã rối bời. Ví như mặt trời mọc soi chiếu cây cối xanh um, gân đỏ của ngọn lá hiện rõ toàn bộ, các vị Ưubà-tắc cũng như vậy, khắp cả cơ thể, máu chảy ra từ lỗ chân lông như mưa, thân tâm đau đớn, buồn rầu nức nở, nước mắt đầm đìa.

Lại nữa, ở bên cạnh khu rừng Kiên cố, các vị ấy đặt để trướng màn to lớn được trang nghiêm bằng bảy thứ quý báu, cao rộng uy nghiêm đẹp đẽ lên đến ranh giới hư không. Ở bên trong bức màn ấy, họ thiết lập tòa nhà ăn bằng bảy thứ báu, bày biện đầy đủ xong xuôi rồi, họ bèn đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu làm lễ dưới chân Phật, phướn lọng cúng dường đầy khắp cả hư không, họ đốt hương và rải hoa dường như mây mưa. Ai nấy đều xót xa mến mộ, buồn thảm làm cảm động đến trời đất, họ đấm ngực kêu gào, nước mắt tuôn chảy như mưa. Mọi người lại bảo với nhau: “Kỳ lạ thay! Thưa nhân giả! Thế gian trống rỗng, sao mà con mắt của thế gian diệt nhanh quá vậy!”. Với đầu và mặt chạm sát đất, họ cùng lên tiếng thỉnh cầu Đức Phật: “Xin nguyện Phật và chư Tăng thương xót chúng con, cùng với các đại chúng đều nhận lời mời của chúng con. Nhận lời mời của chúng con rồi sẽ vào Nê-hoàn. Xin cho chúng con dọn bữa ăn cúng dường Phật và đại chúng để chúng con được phước thí sau cùng”. Đức Thế Tôn biết thời nên im lặng mà chẳng nhận lời. Mọi người thỉnh cầu ba lần như thế, Đức Phật cũng im lặng.

Bấy giờ, tất cả các vị Ưu-bà-tắc hết lòng trông mong, họ buồn rầu khổ não như người cha hiền từng chỉ có một đứa con, nó mắc bệnh chết, chôn cất xong trở về, nên buồn bã khổ não. Sự ưu sầu khổ não của các vị Ưu-bà-tắc cũng như vậy, họ làm lễ rồi đứng qua một bên.

Lại có các Ưu-bà-di đông gấp ba số cát của sông Hằng, họ đều giữ năm giới cấm, công đức đầy đủ, hiện làm hình dáng người nữ để hóa độ chúng sinh. Họ quở trách thân mình giống như bốn con rắn, có tám muôn hang ổ vi trùng ăn mòn thân thể ấy, thân này hôi thối bị mê hoặc bởi sự ham muốn. Ví như thây chết không có một tí gì đáng được ưa thích, tấm thân bất tịnh này có chín lỗ thường rỉ; máu, thịt, gân, xương cùng nhau nương gá để làm tòa thành giả tạo; tay chân, lóng đốt dùng để đánh lùi quân địch; móng tay, răng, tai, mắt dùng để làm cửa hang; tâm và pháp giả tạo không thật dùng làm bức ngăn cửa; buông lung, ngang bướng, ngạo mạn lấy làm lầu nhà; giặc ác, ý tưởng, tâm vương ở bên trong thành ấy; tham lam lợi lộc, phóng đãng, buông thả ruổi giong theo sáu cảnh. Như thành quách giặc giả này là nơi chư Phật vứt bỏ, song kẻ phàm phu ngu dốt lại ưa thích, quỷ La-sát tham dục, tức giận, ngu si nương dựa và dừng trụ ở trong thành đó. Như rừng rậm mọc những cây y-lan không có gì đáng yêu thích; bọt nước tích tụ, cây chuối không có sự bền chắc; ánh điện chớp, tiếng vang, sóng nắng, bóng trăng đáy nước, huyễn hóa giống như ngọn sóng cả của biển khơi; dòng nước chảy xiết trên đám cỏ đứng thẳng phút chốc cỏ ngã rạp; đồi núi, gò đất, rừng rậm tràn đầy nhơ nhớp xấu xa; loài cáo, sói, chim cắt, kên kên, quạ, cú mèo, chó đói, các lũ sâu bọ dữ dằn tranh giành nhau trú ngụ ở trong đó, giống như tấm thân dơ bẩn này sao có thể chung sống nổi. Nếu lấy một sợi lông để chấm lấy từng giọt nước trong biển cả thì còn có thể biết được số lượng, thân thể như cây cối độc hại này có bốn trăm lẻ bốn mầm bệnh, vô lượng các thứ uế tạp không thể nào tính kể và nói hết.

Như Đức Thế Tôn nói thí dụ, chặt cỏ cây trong thiên hạ để làm thẻ, nghiền vụn đất đá khắp quả đất thành bụi bặm, còn có thể đếm biết được số lượng; thân này bất tịnh, vô lượng xấu ác tạp nhạp, số lượng ấy hơn hẳn con số ở trên. Thân ấy tai hại làm diệt mất các pháp lành, các vị Ưu-bà-di ấy có thể vứt bỏ thân này giống như nhổ bỏ nước bọt, thực hành không, thực hành vô tướng và vô tác; ưa thích Đại thừa một cách sâu xa và thường giảng nói cho mọi người.

Tên gọi của các vị đó là: Ưu-bà-di Kỳ-bà-thilợi, Ưu-bà-di Thắng-mạn, Ưu-bà-di Tỳ-xá-khư v.v... Vào lúc sáng sớm, ánh sáng soi chiếu rồi, tức thời họ biết được điềm ấy, mỗi người bèn mau vội sắm sửa các thứ cúng dường nhiều gấp bội hơn ở trước. Họ đi đến chỗ Phật, đầu và mặt làm lễ sát đất để cầu thỉnh Đức Phật và chư Tăng, song Đức Thế Tôn chẳng nhận lời, họ lo buồn, khổ não đứng ở một bên.

Lại có các đồng tử thuộc dòng họ Ly-xa ở trong thành Tỳ-xá-ly, số lượng đông gấp bốn số cát của sông Hằng, nhập chung với những người ở bên ngoài thành đến đây, cộng với các vị vua, quan lớn ở đất nước biên giới của cõi Diêm-phù-đề, mọi người đều ưa thích chánh pháp và tu tập giới hạnh một cách thuần túy, thành tựu các đức hạnh, làm khuất phục những kẻ học theo đạo khác và kẻ làm lộn xộn chánh pháp. Họ có khả năng ban bố pháp không sợ hãi và diễn thuyết pháp tạng vô tận cho mọi người ở khắp nơi, toàn bộ có năng lực tu tập giáo pháp vi diệu như nước cam lộ mà chư Phật đã nói, bẻ gãy và khuất phục lời luận bàn không chính đáng của ngoại đạo và các loài ma; tự nắm giữ việc thực hành giới luật, khiến cho hàng Tăng già giữ giới đắc lực và được an ổn, bản thân thì giữ gìn, phụng hành giới luật, ưa thích nghe giáo pháp Đại thừa và giảng nói rộng rãi cho mọi người, đức từ bi thương xót tất cả chúng sinh khắp nơi như đã nói trên.

Tên gọi của các vị ấy là: Đồng tử dòng họ Lyxa tên Tịnh Ly Cấu Tạng, đồng tử dòng họ Ly-xa tên Thường Khoái Tịnh, đồng tử dòng họ Ly-xa tên Hằng Thủy Ly Cấu Tịnh v.v... Những vị thuộc dòng họ Ly- xa đó, mỗi người đều lo liệu sự sắm sửa tám mươi tư ức chiếc giường màn bằng gỗ chiên-đàn, giường màn bằng gỗ trầm thủy, giường màn Uất-kim, giường màn làm bằng gỗ cây bách, giường màn làm bằng gỗ thơm Đâu-lâu. Mỗi chiếc giường cũng đều có tám mươi bốn ức hoa văn chạm trổ, trang hoàng bằng bảy báu và được trang hoàng năm màu sáng rỡ như trước một cách uy nghiêm. Mỗi vị sắm sửa tám vạn bốn ngàn con ngựa báu, tám vạn bốn ngàn con voi chúa cao lớn, tám vạn bốn ngàn báu có bốn ngựa kéo, toàn bộ đều lấy xâu ngọc báu Thần châu sáng rỡ thắt quấn vào để trang sức, đoan nghiêm đẹp đẽ, đi nhanh như cơn gió lốc.

Lại nữa, họ còn bày biện tám vạn bốn ngàn viên ngọc quý Minh nguyệt, sáng rỡ cả ngày liền đêm; cờ phướn, lọng, hoa, màn che, châu báu quý giá, lụa trắng, tranh vẽ theo thứ tự như trước. Chiếc lọng được trang sức bằng hoa quý báu ấy rộng một do-tuần; lụa mịn màng và màu sắc rực rỡ dùng để vẽ hình tượng rộng ba mươi hai do-tuần; màn che cao to ấy lộ rõ mỗi bức một trăm do-tuần; cờ phướn ấy mỗi lá dài một ngàn do-tuần, được trang hoàng bằng bảy thứ quý báu uy nghiêm như trước; mùi thơm của bữa cơm bốc lên xông tỏa một do-tuần. Họ xếp đặt giường nằm và tòa ngồi ở rừng Kiên cố, cung cấp đồ dùng để cúng dường toàn bộ đều chu đáo. Các vị ấy đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu thỉnh cầu Đức Phật, làm lễ xong rồi đứng sang một bên.

Lại có các vị đại trưởng giả ở trong cõi Diêmphù-đề, số đông gấp năm lần số cát của sông Hằng, họ rất mực ưa thích chánh pháp, tu tập giới hạnh một cách thuần túy, thành tựu thuần thục mọi đức hạnh, thành tựu được mọi đức hạnh, làm cho kẻ học theo đạo khác và kẻ gây rối loạn chánh pháp phải khuất phục. Tên gọi các vị đó là: Nhật Nguyệt Quang Vương, trưởng giả Chiêm Bặc Hoa Thủ, trưởng giả Pháp Thủ. Các vị như thế cộng thêm con trai và con gái của họ, số đông bằng năm lần lượng cát bên bờ sông Hằng. Vào lúc hừng sáng, nương theo uy thần của Đức Phật, họ sắm sửa vật dụng cúng dường, số lượng lại tăng gấp bội so với các đồng tử dòng họ Ly-xa ở trước. Mọi người đi đến chỗ Đức Phật và cúi đầu cầu xin Phật, làm lễ dưới chân rồi đứng sang một bên.

Lại có bà con thân thuộc bên nội và bên ngoại của nhà vua trị vì thành Tỳ-xá-ly, cùng hàng vua chúa, người dân dã chốn xóm làng thành ấp lớn nhỏ, chủ quản cõi Diêm-phù-đề. Ngoài A-xà-thế ra, các vị vua còn lại như vua Nguyệt Ly Cấu Tạng, vua Nhật Ly Cấu v.v... số đông gấp sáu lần lượng cát bên bờ sông Hằng, mỗi vị vua đem theo một trăm tám mươi vạn ức quyến thuộc, toàn bộ đều là người khỏe mạnh, sức lực giống như con voi to khỏe, đi nhanh tuồn như cơn gió lốc. Họ rất mực ưa thích chánh pháp, tu tập giới hạnh một cách thuần túy, thành tựu mọi đức hạnh, làm cho kẻ học theo đạo khác và kẻ gây rối loạn chánh pháp phải hàng phục. Các vật phẩm cúng dường do họ làm ra chuyển thêm gấp bội, hơn hẳn số lượng của các vị trước đây. Mọi người đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu cầu thỉnh Phật, làm lễ dưới chân rồi đứng sang một bên.

Lại có phu nhân và cung nữ hầu hạ trong cung của các nhà vua lớn nhỏ chủ quản cõi Diêm-phùđề, số đông gấp bảy lần lượng cát bên bờ sông Hằng. Trừ vua A-xà-thế ra, phu nhân và cung nữ đều nhàm chán mối họa của thân nữ, họ tu hành hạnh không, rất mực ưa thích Đại thừa, giảng nói rộng rãi cho mọi người công đức của việc tu hành toàn bộ giống như đã nói ở trước. Tên gọi của các vị Ưu-bà-di ấy là: Phu nhân Tam Giới Diệu, phu nhân Niệm Đức v.v... Các vật phẩm cúng dường do họ làm ra lại gấp bội, hơn hẳn các vị trước đây. Vào lúc sáng sớm, họ đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu thỉnh cầu Đức Phật, làm lễ dưới chân rồi đứng sang một bên.

Lại có chúng sinh ở các cõi trời đông nhiều gấp tám lần số cát sông Hằng, như Thiên tử Câu Phổ Minh v.v... Họ đều ưa thích Đại thừa và giảng nói rộng rãi cho mọi người. Các vị ấy tu hành giới hạnh thanh tịnh, khao khát và ngưỡng mộ Đại thừa. Nếu các loài chúng sinh ưa thích Đại thừa thì các vị ấy đem pháp Đại thừa để thỏa mãn khao khát ngưỡng mộ của chúng sinh ấy, chúng sinh tu hành giới hạnh thanh tịnh và ham thích Đại thừa, thì các vị ấy làm cho chúng sinh vững chắc nơi Đại thừa, giác ngộ Đại thừa, đối với pháp Đại thừa họ chẳng khởi lên tâm ganh ghét và kiêu mạn. Các vị ấy hàng phục người học theo đạo khác và kẻ gây rối loạn chánh pháp, hộ trì chánh pháp, tu hành giới hạnh thanh tịnh, tùy thuận thế gian, độ cho người chưa được độ, giải thoát cho kẻ chưa được giải thoát. Họ muốn quay bánh xe pháp, muốn làm hưng thịnh Ba ngôi báu mãi mãi khiến cho không dứt, muốn dựng lập đại trang nghiêm. Các việc như thế, vô lượng công đức hết thảy đầy đủ. Họ đem lòng từ và bình đẳng đối với chúng sinh giống như đứa con một.

Vào lúc sáng sớm, ánh sáng chiếu rọi xong, những vị ở cõi trời ấy hiểu được tướng điềm ứng hiện này, họ đều suy nghĩ: “Chẳng bao lâu nữa Đức Như Lai sẽ vào Nê-hoàn”. Các vị ấy đi đến chỗ Đức Phật, nhìn thấy mọi thứ vật phẩm cúng dường, mỗi vị nói với nhau:

– Các ông hãy nhìn xem, vật dụng cúng dường ở chốn nhân gian kia thật trang nghiêm đặc biệt, giống hệt ở cõi trời. Cúng dường Đức Như Lai là sự cúng dường sau cùng, bữa cơm và các thứ vật phẩm cúng Phật và Tăng là cuộc đại thí cuối cùng, thế mà hôm nay Đức Thế Tôn thảy đều chẳng nhận. Này các nhân giả! Hôm nay chúng ta nên làm việc bố thí sau cùng cho Đức Phật, chư Tăng và các quyến thuộc để hoàn thành đại thí đến bờ bên kia. Hôm nay Đức Như Lai và Tăng chúng cùng với hàng bà con thân thuộc thương xót nhận sự cúng dường bố thí lần sau chót của chúng ta rồi Ngài sẽ vào Nê-hoàn. Đức Phật ở đời khó gặp, việc bố thí rốt ráo sau cùng lại khó khăn gấp bội. Kỳ lạ thay! Thưa Nhân giả, thế gian trống rỗng, con mắt của thế gian sao mà diệt mất nhanh chóng đến thế! Các chúng sinh ở cõi trời ấy đều suy nghĩ: “Chúng ta cũng nên cúng dường Đức Như Lai”. Lập tức, các vị ấy sắm sửa vật dụng cúng dường tốt đẹp hơn hẳn nhân gian gấp bội phần, giường màn, xe cộ, cờ phướn, lọng hoa, bức vẽ, màn che, hết thảy đều dùng hương thơm cõi trời, hàng tơ lụa cõi trời, của báu cõi trời thật trang nghiêm để trang hoàng, vật dụng cúng dường đã sắm sửa xong. Các vị ấy đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu làm lễ dưới chân Ngài, đi quanh trăm ngàn vòng, cung kính thăm hỏi sức khỏe rồi đứng sang một bên.

Lại có các Long vương từ bốn phương đến, số đông gấp chín lần số cát của sông Hằng. Tên của các vị đó là: Long vương Hòa-tu-cát (Rồng chín đầu), Long vương Nan-đầu-ưu-bát-nan-đà v.v... họ có đầy đủ các đức, thương xót thế gian. Vào lúc sáng sớm, ánh sáng chiếu rọi rồi, mỗi vị đều suy nghĩ: “Chẳng bao lâu nữa Đức Như Lai sẽ vào Nêhoàn”. Họ sắm sửa các vật dụng cúng dường tốt đẹp hơn hẳn gấp bội vật dụng cúng dường của những vị ở cõi trời và cõi người. Các vị ấy đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu thỉnh cầu Phật, đi quanh trăm ngàn vòng rồi đứng sang một bên.

Lại có các vị vua trong loài quỷ thần, Tỳ-samôn v.v... số đông gấp mười lần lượng cát của sông Hằng. Vật dụng cúng dường của tất cả quỷ vương làm ra, toàn bộ đều giống như trước. Họ đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu thỉnh cầu Phật, đi quanh trăm ngàn vòng rồi đứng sang một bên.

Lại có vua của loài Già-lưu-la, số đông nhiều bằng hai chục lần số cát của sông Hằng, như là Giàlưu-la vương Long Oán v.v... Vua của loài Kiềnthát-bà, số đông gấp ba mươi lần số cát của sông Hằng, như là Kiền-thát-bà vương Na-la-đạt v.v... Vua của loài Khẩn-na-la, số đông bằng bốn mươi lần số cát bên bờ sông Hằng, như là Khẩn-na-la vương Khoái Kiến v.v... Vua của loài Ma-hầu-lagià, số đông gấp năm mươi lần số cát của sông

Hằng, như là Ma-hầu-la-già vương Đại Khoái Kiến v.v... Vua của loài A-tu-la có số đông bằng sáu chục lần số cát của sông Hằng, như là A-tu-la vương Du Không v.v... Vua của loài Đà-na-bà số đông gấp bảy mươi lần số cát của sông Hằng, như là vua Pháp Thủy Ly Cấu Thắng v.v... Vua của loài La-sát, số lượng đông gấp tám chục lần số cát của sông Hằng, như là La-sát vương Quảng Bố Úy v.v... Vua chủ quản rừng rậm có số đông bằng chín mươi lần số cát của sông Hằng, như là Tùng lâm chủ vương Nhạo Hương v.v... Vua Trì chú có số lượng gấp ngàn lần số cát của sông Hằng, như là Trì chú vương Đại Huyễn v.v.... Chúng dục sắc nhiều gấp một ức lần số cát của sông Hằng như là Dục sắc Thiện Hiện v.v... Chúng Thiên nữ nhiều gấp trăm ức lần số cát của sông Hằng như là Thiên nữ Lam-bà v.v... Phụ đa vương số đông gấp ngàn ức lần lượng cát của sông Hằng như là Phụ-đa vương Túc-quân-để v.v... Hàng Thiên tử số đông gấp trăm ngàn ức lần số cát của sông Hằng như là bốn vị Thiên vương v.v... Vua thần gió nhiều gấp trăm ngàn ức lần số cát của sông Hằng; vua thần ưa thích mây mưa nhiều gấp một ức lần số cát của sông Hằng, hết thảy vua Tịch tĩnh mây mưa ở thế gian, các vị vua như thế, vào lúc sáng sớm, ánh sáng soi chiếu rồi, họ nghĩ tướng điềm ấy, mỗi người thuộc phái Vũ chúng, đem gấp bội vật dụng cúng dường của người và trời, tất cả đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu thỉnh cầu Phật, đi quanh trăm ngàn vòng rồi đứng sang một bên.

Lại có loài voi chúa tỏa ra mùi thơm số nhiều gấp hơn hai chục lần số cát của sông Hằng, như con voi đầu đàn mắt xanh pha lẫn đỏ, thân mình có sắc vàng óng v.v... các con voi chúa ấy tùy theo sức lực của mình, có khả năng chọn lấy các thứ cỏ thuốc thơm và các loại hoa nổi tiếng như Ưu-bátla, Bát-đàm-ma, Câu-mâu-đầu, Phân-đà-lợi v.v... to lớn giống như bánh xe ở trong núi Tuyết, cùng các thứ hoa mọc ở núi, sông, trên cạn, dưới nước, dùng để trang nghiêm giường màn và vật dụng cúng dường. Tiếng kêu thương gào rống của chúng làm chấn động trời đất: “Sao mà nhanh quá! Thế gian trống rỗng, sao mà con mắt của thế gian diệt mất nhanh chóng quá vậy!”. Chúng đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu làm lễ dưới chân Ngài rồi đứng sang một bên.

Lại có vua trong loài sư tử số nhiều gấp ba lần số cát bên bờ sông Hằng, như vua sư tử có tiếng gầm thét vang động v.v... chúng đều bố thí sự không sợ hãi cho chúng sinh một cách rộng khắp. Cùng với vua trong các loài chim Ca-lăng-tần-già v.v... Vật dụng cúng dường của các loài chim đó làm ra hết thảy giống như vật dụng cúng dường của voi chúa.

Lại có vua trong các loài trâu và loài dê, chúng đi đến rừng Kiên cố sản sinh ra thứ sữa thơm hảo hạng, sữa đều chảy tràn đầy hết thảy ao và hầm hố.

Lại có các vua trong loài ong mật đều đem mật thơm chứa đầy ăm ắp ở trong ao và hầm ấy. Các loài như thế bằng số cát của sông Hằng, tất cả đều đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu làm lễ dưới chân Ngài rồi đứng sang một bên.

Lại có tiên nhân chứng được năm thần thông, số đông gấp vạn lần số cát bên bờ sông Hằng, cùng với tất cả vị tiên ở bốn châu thiên hạ đi theo, như tiên nhân Nhẫn Nhục v.v... làm đủ mọi thần lực, tất cả vật dụng cúng dường đều tốt đẹp hơn trước kia bội phần. Họ đi đến chỗ Đức Phật, đem tóc mình trải xuống mặt đất, cúi đầu sát dưới chân Phật rồi đứng sang một bên.

Bấy giờ, hàng Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni ở mười sáu nước lớn, chỉ trừ hai chúng của Tôn giả Đại Ca-diếp và Tôn giả A-nan, số còn lại đều tập họp chật cả một do-tuần, tất cả đều giống như trước. Vào buổi sáng sớm, chúng Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu làm lễ dưới chân Phật, đi quanh hàng trăm ngàn vòng rồi đứng sang một bên.

Lại có các vua thần núi nhỏ, vua thần núi lớn; các vua thần loài quỷ, vua thần núi Tu-di ở khoảng giữa thế giới, số đông gấp muôn lần lượng cát bên bờ sông Hằng, vua thần ăn các thứ cây, lá, hoa, quả và đủ mọi loài có sự sống, đều có sức thần thông phóng ra ánh sáng rực rỡ. Các vị ấy đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu làm lễ dưới chân Ngài, rồi đứng sang một bên.

Lại có các thần, Thiên tử, các vua lớn, vua nhỏ ở khắp tám con sông lớn, biển cả, quả đất, số đông gấp trăm ngàn muôn lần số lượng cát của sông Hằng, các vị ấy đều có sức thần thông, phóng ra ánh sáng rực rỡ che lấp hơn cả ánh sáng của mặt trời và mặt trăng. Ở khu rừng Kiên cố tuôn ra nước cam lồ chảy lặng lờ và trong vắt đầy cả dòng sông Hi-liên, đâu đâu cũng làm thềm đường bằng bảy thứ báu, khiến cho các chúng đến tụ họp uống nước ấy mà không biết chán.

Bấy giờ, về phía Bắc ngoảnh về hướng Nam và vùng đất của các người thuộc dòng họ Lực sĩ sinh ra, tự nhiên có tòa giảng đường Thiện pháp được kiến trúc nhiều tầng gác, hoa văn trang trí được tô vẽ chạm trổ bằng bảy thứ báu rất trang nghiêm, năm màu sáng rỡ. Vườn, rừng, hoa quả, ao tắm, suối nước trong veo cũng tự nhiên hóa thành, ví như khu vườn Hoan hỷ ở cung trời Đao-lợi, thật đáng yêu thích vô cùng. Các hàng trời, người, Atu-la ở nơi đó đều trông thấy tướng Nê-hoàn của Đức Như Lai, ai nấy đều thương tiếc, lo lắng rầu rĩ, thở than.

Lại có một ức a-tăng-kỳ các Thiên tử của bốn vị Thiên vương, toàn bộ đều đến tập họp, mỗi người bảo nhau: “Các ông hãy nhìn xem, những vị trời, người, A-tu-la này, vì việc cúng dường Đức Như Lai lần sau chót, nên họ đã làm ra các thứ cúng dường đặc biệt rất mực tốt đẹp và dọn đủ mọi thứ đồ ăn thức uống này. Đức Phật cùng đại chúng nhận sự cúng dường kia xong thì Ngài sẽ vào Nêhoàn. Chúng ta cũng nên sắm sửa mọi vật dụng cúng dường tốt đẹp gấp bội hơn các vị kia”. Các Thiên tử sử dụng toàn là hoa trời, hương thơm cõi trời, thức ăn cõi trời, như hoa Mạn-đà-la, hoa Maha Mạn-đà-la; hoa Ca-câu-la, hoa Ma-ha Ca-câula; hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa; hoa Tán-đa-na, hoa Ma-ha Tán-đa-na, dùng đủ mọi thứ hoa trời và các thứ hương thơm cõi trời như thế, để làm vật dụng cúng dường rồi đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu thỉnh cầu Ngài rồi đứng sang một bên.

Thích-đề-hoàn-nhân cùng với vô số chúng ở cõi trời Ba Mươi Ba sắm sửa vật dụng cúng dường, cho đến vật dụng cúng dường của vua tầng trời thứ sáu (Trời Tha Hóa Tự Tại) cùng với các hàng quyến thuộc làm ra, các thứ ấy chuyển thành tốt đẹp gấp bội phần các vật phẩm trước kia. Trừ các vị ở bốn cõi trời Vô sắc giới (Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ) và cõi trời Vô tưởng thuộc sắc hữu (tức sắc giới), số chư Thiên còn lại cũng sắm sửa vật dụng cúng dường chuyển thành tốt đẹp gấp bội hơn trước kia.

Bấy giờ, Phạm Thiên vương coi giữ thế giới Ta-bà cùng với các Phạm thiên tử và vô lượng quyến thuộc, mỗi vị tỏa ra ánh sáng từ thân thể mình soi khắp cả bốn châu thiên hạ, khiến các ánh sáng phát ra từ thân thể của hàng trời và người ở cõi Dục đều bị che lấp chẳng hiện. Khắp nơi đều mưa xuống áo trời và hoa nổi tiếng cõi trời, cung cấp sắm sửa thức ăn cõi trời. Từng chiếc cờ phướn trời, lọng trời, từ khu rừng Kiên cố lên đến cõi Phạm thiên. Bày biện mọi đồ cúng xong, các vị ấy đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu thỉnh Phật rồi đứng sang một bên.

Lại có A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la cùng với vô lượng bà con thân thuộc A-tu-la đi theo. Vị ấy phóng ánh sáng từ thân mình soi khắp bốn châu thiên hạ, các ánh sáng từ thân thể của Thích-đềhoàn-nhân và các Phạm vương đều bị che lấp, chẳng hiện ra. Họ cũng sắm sửa bữa cơm và các vật dụng cúng dường, các lọ báu của họ thảy đều bao phủ khắp cả một ngàn tiểu thế giới. Bày biện mọi thứ cúng dường xong, họ đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu thỉnh cầu Phật rồi đứng sang một bên.

Bấy giờ, ma trời Ba-tuần và vô lượng chúng nữ thiên thần ác ma đi cùng, liền dùng sức thần thông mở toang khắp hết thảy các cánh cửa địa ngục, tùy theo chúng sinh ở địa ngục kia có điều gì mong muốn và ưa thích, thì thiên ma đều cứu giúp và cung cấp cho họ.

Lại nữa, thiên ma còn bảo khắp các chúng sinh ở địa ngục để nói cho họ biết:

– Này các ngươi, các ngươi phải nên nhớ nghĩ đến Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác mà vui mừng lần sau chót. Đây chính là năng lực của các ngươi vốn có thể tu hành trong khả năng của mình, để có được lợi ích và phước đức, điều đó sẽ khiến cho các ngươi gặt hái được niềm an vui lâu dài, mãi mãi được thoát ra khỏi nỗi khổ sở gay gắt ở chốn địa ngục.

Do nhờ uy đức và thần lực của Đức Như Lai, khiến cho tâm niệm của ma Ba-tuần chuyển thành hòa giải và khuất phục, cùng với hàng bà con thân thuộc đi theo, họ mang mọi thứ binh khí dùng để đánh nhau như dao, kiếm, cung tên, dùi vàng, búa lớn, rìu, thừng lưới, móc dài, toàn bộ đều trang nghiêm. Chúng sinh ở địa ngục sống trong cảnh đêm dài tăm tối si mê, xa lìa chánh pháp, chịu đủ bao nỗi đớn đau khổ sở, ngọn lửa rừng rực đốt cháy thành quách và nhà cửa, chợt nổi lên đám mây rồi mưa xối xả, khiến cho lửa cháy thảy đều tắt ngấm. Bấy giờ, chúng sinh ở cảnh địa ngục lìa khỏi khổ đau để được yên lành, lìa bỏ khổ đau và được yên lành rồi, mỗi một các ma cùng với quyến thuộc của mình sắm sửa mọi vật dụng cúng dường tốt đẹp hơn các vị ở trước gấp bội phần, họ bèn đi đến chỗ Đức Phật rồi cúi đầu thỉnh cầu Đức Phật:

– Bạch Thế Tôn! Chúng con chỉ có một niềm ước mong rằng Thế Tôn thương xót mà thu nhận sự cúng dường của chúng con. Thế Tôn thu nhận vật dụng cúng dường của chúng con rồi, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào gọi danh hiệu Ma-hadiễn (Đại thừa) hoặc chân thật, hoặc giả dối, chúng con đều phải nên gìn giữ những vị ấy và làm cho họ không có sự sợ hãi mà nói bài chú:

Sá sí tra tra la, đà sí lỗ lâu lệ, ma ha lỗ lâu lệ, a la, ma la, đa la, tất ba la.

Bài chú ấy có năng lực khiến cho những người có tâm trí tán loạn được thiền định sâu xa huyền diệu, bài chú ấy có năng lực khiến cho các người sợ hãi lìa khỏi các sự sợ hãi, bài chú này có năng lực khiến cho người làm pháp sư có tài biện luận thông suốt không có sự gián đoạn, bài chú này có năng lực hàng phục hết thảy ngoại đạo. Các người có khả năng hộ trì chánh pháp, được bài chú này che chở giống như đem gươm thần, chú thuật được con nói ra này chính là lời chân thật, như người nào có năng lực thọ trì bài chú này, nếu ở chốn đồng không mông quạnh, có loài thú độc địa hung dữ làm hại, gặp nạn lụt lội, lửa cháy v.v... người ấy hoặc trì chú, hoặc nói bài chú, thì mọi tai nạn thảy đều tiêu trừ, giống như con rùa giấu kín sáu chi (bốn chân, đầu và đuôi) trong mai. Hôm nay, chúng con đều đã lìa bỏ tất cả các sự dua nịnh, tà vạy của ma. Chỉ có điều là ước mong Đức Thế Tôn xót thương mà thu nhận sự cúng dường của chúng con, đồng thời mong muốn Ngài chứng thực điều sở đắc và khen ngợi về bài thần chú mà con đã nói ra.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền bảo với ma:

– Ta chẳng thọ nhận đồ ăn của các ngươi cúng dường, song vì sự an ủi cho tất cả chúng sinh, nên Ta sẽ thọ nhận pháp cúng dường là bài thần chú của ngươi.

Các ma thỉnh cầu ba lần như thế, thì ba lần Đức Thế Tôn cũng im lặng mà chẳng thọ nhận.

Khi ấy, ma Ba-tuần và ma Thiên nữ cúi đầu làm lễ dưới chân Đức Phật rồi đứng về một phía.

Lại có vua cõi trời Đại Tự Tại và vô lượng các Thiên tử Đại lực đi cùng. Họ phóng ra ánh sáng rực rỡ chiếu rọi khắp ba ngàn đại thiên thế giới, các ánh sáng phát ra từ thân thể của chư Thiên nơi cõi trời Phạm thiên, cõi trời Đế thích, cho đến chúng A-tu-la thảy đều bị che lấp không hiện rõ. Các vị ấy sắm sửa mọi vật dụng cúng dường tốt đẹp gấp bội vật dụng cúng dường của các vị trước. Ánh sáng của lọng trang sức bằng hoa soi chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, trăm ức vầng mặt trời và mặt trăng thảy đều giống như mực đen tích tụ, ánh sáng chẳng hiện rõ.

Phẩm 2: BỒ TÁT ĐẠI THÂN

Về phương Đông cách đây vô số a-tăng-kỳ số cát sông Hằng cõi Phật, số lượng cõi Phật nhiều như bụi nhỏ, có thế giới tên là Ý Nhạo Mỹ Âm, Đức Phật hiệu là Hư Không Đẳng Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, Đức Phật ở đời dạy dỗ chỉ bảo cho vị đứng đầu hàng Thanh văn, Bồ-tát tên là Đại Thân:

– Này thiện nam! Ở phương Tây có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác sắp sửa diệt độ. Ông hãy cầm bát cơm đựng đầy cơm thơm ở cõi nước này, mùi thơm lan tỏa suốt ba ngàn đại thiên thế giới. Cùng lúc, theo tấm lòng của ta, ông hãy đến chỗ Đức Như Lai và đại chúng hiện ở nước kia, xin chư vị thọ nhận bát cơm của ta xong hẳn vào Nê-hoàn. Lại nữa, ông hãy mang giường màn và vật dụng cúng dường làm bằng các thứ quý báu để hiến dâng cho Đức Như Lai kia; cùng lúc, các ông hãy tự mình thỉnh cầu Đức Như Lai giải quyết cho những điều còn thắc mắc.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Thân cúi đầu lễ dưới chân Phật, đi vòng quanh theo chiều tay phải, xong rồi Bồ-tát chắp tay vâng mệnh sự chỉ dạy. Đi cùng Đại Thân có vô số a-tăng-kỳ Đại Bồ-tát, họ đi về hướng thế giới Ta-bà này.

Bấy giờ, khắp các cõi đất thuộc ba ngàn đại thiên thế giới đều rung chuyển mạnh. Khi ấy, đại chúng đến hội họp như Phạm vương, Đế thích, bốn vị Thiên vương, Ma vương, A-tu-la, chư Thiên Đại lực trông thấy cõi đất rung động thế này thì lông khắp cả thân mình họ đều dựng đứng, mỗi vị tự thấy ánh sáng ở thân thể của mình bị xóa nhòa, toàn bộ tựa hồ mực đen tích tụ.

Lúc này, tất cả đại chúng thảy đều nổi lên sự kinh sợ, Đồng tử Văn-thù-sư-lợi bèn bảo với các vị Phạm vương, và các Thiên vương:

– Các ông đừng sợ hãi, các ông chớ kinh sợ! Về phương Đông cách đây vô số a-tăng-kỳ số cát sông Hằng cõi nước, cõi Phật nhiều như bụi nhỏ, có thế giới tên là Ý Nhạo Mỹ Âm, Đức Phật hiệu là Hư Không Đẳng Như Lai Ứng Cúng Đẳng

Chánh Giác, Đức Phật ấy bảo với vị đứng đầu hàng Thanh văn và Bồ-tát: “Ông hãy đi đến thế giới Tabà, nơi ấy có Đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác sắp sửa diệt độ, để cúng dường bữa cơm cho Đức Phật và Tỳkheo Tăng ở thế giới kia. Cùng lúc, bản thân các ông hãy thỉnh cầu Đức Phật giải quyết cho mọi điều thắc mắc”. Ngay lúc ấy, Bồ-tát Đại Thân cúi đầu dưới chân Phật, đi vòng quanh về phía tay phải, xong rồi Bồ-tát chắp tay vâng theo lời dạy bảo. Đi cùng Đại Thân có rất nhiều vị không sao đếm xuể a-tăng-kỳ Đại Bồ-tát, tất cả cùng đi đến thế giới Ta-bà này. Thân thể họ phóng ra ánh sáng, khiến cho ánh sáng của các ông đều bị che lấp chẳng hiện. Đức Phật Hư Không Đẳng Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác kia, do việc cúng dường Đức Thế Tôn của chúng ta, nên mới cử các vị ấy đến đây, các ông đều phải một lòng nghe theo.

Khi đó, Đế thích, Phạm vương, Thiên vương cho đến các đại chúng lập tức than:

– Kỳ lạ thay! Thế gian trống rỗng! Chẳng bao lâu nữa Đức Như Lai sẽ nhập Nê-hoàn, con mắt của thế gian sao mà diệt nhanh quá vậy! Mọi người đều gào khóc thảm thương, khóc lóc buồn bã. Khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Thân kia, từ cõi Phật Ý Nhạo Mỹ Âm, cùng với vô lượng a-tăng-kỳ các Bồ-tát đi theo, khắp thân thể mỗi mỗi vị tỏa ra ánh sáng rỡ ràng rồi đi đến thế giới Ta-bà. Ánh sáng tỏa ra từ lỗ chân lông khắp toàn thân Bồ-tát Đại Thân ấy, hóa thành vô lượng hoa sen, mỗi hoa có bảy lớp cao rộng đẹp đẽ trang nghiêm, mỗi tòa thành làm bằng bảy báu và vàng Diêm-phù-đàn dùng để đẩy lùi quân địch. Trên thành dùng để đẩy lùi quân địch ấy trồng từng hàng cây báu, toàn bộ cây ấy đều sinh ra các thứ hoa quả quý báu, khoảng giữa các cây đều dùng dây vàng kéo dai không dứt. Lấy lưới bằng bảy báu giăng thành lớp bên ngoài các cây, gió dịu thổi qua phe phẩy làm lưới lay động phát ra năm điệu âm thanh, âm thanh ấy hòa nhã như tiếng nhạc trời, dân chúng yên ổn, tự tại vui sướng.

Bên ngoài tòa thành ấy có ao bảy báu bao bọc chung quanh, nước tám công đức trong lắng tràn đầy, không lạnh cũng chẳng nóng, nước chảy nhè nhẹ sạch trong. Trong ao đều mọc bốn loại hoa sen bảy báu, to lớn giống như bánh xe, màu xanh, vàng, đỏ, trắng, năm màu sặc sỡ, mọi người đáp con thuyền làm bằng bảy báu hớn hở dạo chơi trong ao đó.

Lại nữa, bên trong tòa thành ấy cũng có ao tắm, bên trong ao có bốn loại hoa sen lớn bằng bánh xe, sặc sỡ năm màu trang nghiêm đẹp đẽ. Bốn bờ ao làm bằng vàng óng, bạc trắng, lưu ly, pha lê, mỗi mặt làm bằng một thứ báu óng ánh lẫn nhau. Đáy ao được làm bằng ngọc mai côi, trải cát vàng. Mỗi ao tắm đều có mười tám bậc thềm bằng vàng ròng, trang hoàng đủ mọi thứ quý giá rất trang nghiêm, khoảng giữa các bậc thềm đều lấy loại vàng Diêmphù-đàn, làm thành cây chuối trồng từng hàng lối bên vệ đường. Hoa trời Ưu-bát-la, Bát-đàm-ma, Câu-mâu-đầu, Phân-đà-lợi to lớn giống như bánh xe phủ kín khắp trên ao, các loài chim quý hiếm nhảy nhót líu lo ở trong đám hoa đó. Bên trên ao tắm ấy đều có đủ mọi thứ hương thơm, cây cối và hoa cõi trời; gió từ bốn phương trời thổi đến tản mạn khắp trên ao, mùi thơm của nước trong ao đó ròng như mùi thơm chiên-đàn cõi trời. Bên trong và ngoài tòa thành ấy có tám vạn bốn ngàn đại vương, các đại vương ấy mỗi vị đều có số phu nhân và gái đẹp hầu hạ rất nhiều không sao đếm xuể, họ tự tiêu khiển bằng năm thứ ham muốn. Dân chúng và nhà cửa của mỗi vị rộng bốn do-tuần, toàn bộ bảy lớp tường thành đều bằng bảy thứ quý báu, tự nhiên mỗi nơi cũng có vườn tược, lầu quán, ao tắm. Về năm thứ ham muốn thích thú, họ tùy ý dạo chơi và cư trú song không có chủ ý thỏa thích. Đất đai nơi đó mềm mại, được trải bằng loại hoa năm màu, xông ướp bằng hương thơm cõi trời.

Lại nữa, chốn kia không có tên gọi hàng Thanh văn và Duyên giác, chỉ thuần một tên gọi Đại thừa. Ở trên mỗi đóa hoa đều có đại vương ngồi vào tòa sư tử, gác chân lên ghế quý báu, trướng màn làm bằng các thứ báu che phủ lên trên đó. Bồ-tát đem giáo pháp Đại thừa để cảm hóa và độ thoát chúng sinh, các chúng sinh ấy thảy đều ở trên hoa để nghe pháp và vâng lời Đại thừa, họ biên chép, thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ, theo như lời thuyết giảng mà tu hành. Ánh sáng tỏa ra từ lỗ chân lông của Bồ-tát Đại Thân biến hóa thần thông, còn các vị Bồ-tát khác cũng lại có thần thông như thế.

Khi ấy, các chúng sinh không có lòng ham muốn vui sướng, chỉ có nỗi khổ não buồn rầu, khóc lóc thảm thương. Theo con đường cái, dần dần họ đi đến tòa thành lớn Câu-di, mỗi người bèn nói với nhau:

– Các ông hãy nhìn xem sự việc cúng dường đặc biệt thù thắng của hàng trời, người này, các Bồ-tát đến đây cũng sắm sửa vật dụng cúng dường, mùi vị của các món ăn trong bữa cơm thơm ngon, tươi tốt, sạch sẽ, không thể nào ví dụ được.

Từ lỗ chân lông nơi thân thể của Bồ-tát Đại Thân và các hàng quyến thuộc mọc ra hoa sen báu; thức ăn và cơm của các vị ấy mang theo để cúng dường Đức Phật và Tăng tỏa hương thơm ngát xông khắp ba ngàn đại thiên thế giới, chúng sinh ngửi được hương thơm ấy thì tất cả phiền não thảy đều trừ diệt. Hoa sen, màn che, cờ phướn, lọng hoa quý báu, tất cả vật dụng cúng dường, không thể nào ví dụ được.

Từ cõi nước mình ở, nhắm hướng đến cõi này, các vị ấy lướt hư không mà đến đây dường như đài cao, tất cả chúng sinh không có ai là không trông thấy. Bồ-tát Đại Thân và các hàng quyến thuộc bày các lễ phẩm cúng dường gấp bội vật dụng cúng dường của các vị cõi trời. Chỉ trừ ánh sáng của Đức Như Lai, còn các ánh sáng của chư Thiên, Phạm vương, Đế thích bị xóa nhòa và không hiện rõ. Từ lỗ chân lông nơi thân thể của những vị Bồ-tát kia mưa xuống toàn là hoa sen, hương thơm của hoa ấy xông ngát khắp ba ngàn đại thiên thế giới, những người nào ngửi được hương thơm thì tội lỗi nhơ bẩn tiêu trừ, phát tâm Bồ đề. Bồ-tát Đại Thân có thân mình cao lớn không lường, đầy khắp cả hư không, đương nhiên trừ Đức Như Lai ra, còn lại không ai có thể so lường. Các vị ấy cúi đầu cung kính hiến dâng thức ăn và mọi vật dụng cúng dường rồi đứng sang một phía.

Từ lỗ chân lông nơi thân thể của các vị Bồ-tát đến từ thế giới phương Nam mọc ra hoa sen báu, giống như cõi Diêm-phù-đề, từ trên hoa sen nổi lên tòa thành bảy báu tốt đẹp gấp bội.

Hoa sen mọc ra ở lỗ chân lông của các vị Bồtát đến từ thế giới phương Đông và phương Tây giống như ở bốn châu thiên hạ; tòa thành các thứ và mọi vật dụng cúng dường lại tốt đẹp hơn trước gấp bội.

Hoa sen mọc ra ở lỗ chân lông của các vị Bồtát đến từ thế giới phương Bắc giống như ở một ngàn tiểu thế giới gộp lại, thành quách, ao tắm cũng đẹp đẽ hơn gấp bội. Cho đến vô lượng a-tăng-kỳ các vị Bồ-tát đến từ các thế giới ở mười phương, thân thể đầy cả hư không, đều giống như Bồ-tát Đại Thân. Hoa sen mọc từ lỗ chân lông dường như ba ngàn đại thiên thế giới, mưa xuống đủ các giống hoa và mọi thứ vật dụng cúng dường. Trừ Đức Như Lai ra, ánh sáng nơi thân của các vị ấy đều che lấp ánh sáng của mọi người đến hội họp, họ rập đầu cung kính hiến cúng lễ vật rồi đứng ở một bên.

Bấy giờ, cạnh khu rừng Kiên cố thành vùng đất rất mực tốt lành, xung quanh xếp đặt ba mươi hai hàng tòa ngồi. Chỗ ấy tuy nhỏ hẹp, song thân thể của Bồ-tát cao lớn không lường được, các vị ở cõi trời và người thảy đều tụ tập nhiều như mây tụ nhưng chẳng dồn ép. Có tòa ngồi như chỗ mũi kim, có tòa ngồi như chỗ đầu sợi lông, có tòa ngồi như chỗ đầu lông nhọn, có tòa ngồi như chỗ mảy bụi, tùy theo thân lớn hay nhỏ mà mỗi người có thể yên ổn vững vàng chẳng chịu tai vạ khổ đau. Cho đến sáu thứ chấn động mạnh ở thế giới nhiều như bụi bặm ở khắp mười phương, biến hóa thần thông, hiện ra tướng hiếm có, mỗi mỗi người tùy sức mình mà thiết lễ cúng dường như trước.

Khi ấy, chỉ trừ quyến thuộc của Tôn giả Đại Ca-diếp, quyến thuộc của Tôn giả A-nan, quyến thuộc của vua A-xà-thế trong cõi Diêm-phù-đề, những chúng sinh còn lại, không ai là không đến hội họp.

Bấy giờ, các loài sâu bọ côn trùng tai hại, rắn độc, bò cạp, ma quỷ, La-sát, người luyện chú tạp nhạp, kẻ theo đạo làm mê hoặc lừa dối người khác, tất cả đều sinh lòng từ, không xâm phạm và làm hại lẫn nhau, coi nhau như những đứa con một, chỉ trừ hạng Nhất-xiển-đề.

Lúc này, do uy đức và thần lực của Đức Phật, nên đất đai thuộc ba ngàn đại thiên thế giới này đều mền mại, không có gò đồi, cát sỏi, bụi gai, cỏ độc, được trang nghiêm bằng đồ quý báu giống như cõi nước Cực lạc phương Tây.

Khi ấy, chúng trời, người, A-tu-la đến hội họp, họ thấy hết cả thế giới khắp mười phương rất nhiều như bụi bặm, có những gì thuộc về trong đó thảy đều ở ngay trước mắt, giống như xem hình dạng mình trước gương soi.

Bấy giờ, Đức Như Lai từ gương mặt của mình phóng ra đủ thứ ánh sáng rỡ ràng đặc biệt thù thắng, ánh sáng tỏa ra từ thân thể của các vị đến hội họp đều bị che lấp, chẳng hiện rõ, tất cả chúng sinh rập đầu khuyến thỉnh:

– Những sự việc ứng hiện Như Lai đã làm xong, xin Như Lai cho trở vào lại từ cửa miệng.

Khi ấy, các hàng trời, người, A-tu-la v.v... liền hết sức sợ hãi, lông trên mình đều dựng đứng, mỗi người bèn nói với nhau rằng:

– Ánh sáng của Đức Như Lai chiếu soi khắp vô lượng thế giới trong mười phương, những điều ứng hiện Đức Như Lai đã làm xong vẫn từ cửa miệng mà trở vào lại, không có sự việc gì khác, ắt hẳn đó là tướng Nê-hoàn sau chót. Lễ vật của hàng trời và người cung kính hiến dâng, Đức Như Lai đều chẳng thọ nhận. Sao kỳ lạ thay! Bốn chiếc răng công đức trong ba mươi tướng tốt phút chốc phế bỏ; ánh mặt trời trí tuệ bậc Thánh từ nay mãi mãi xóa nhòa; con thuyền báu từ bi chìm nghỉm ở nơi đây. Than ôi! Đau xót thay! Niềm trông mong của chúng sinh dứt bặt.

Họ gào khóc buồn thảm nức nở, nước mắt đẫm máu tuôn như mưa. Ví như đám mây lớn làm đổ mưa xối xả khắp thế giới, giống như khi các đại chúng khóc lóc thảm thiết, chảy nước mắt.

Phẩm 3: TRƯỞNG GIẢ THUẦN ĐÀ

Bấy giờ, trong chúng hội có vị trưởng giả tên là Thuần-đà sống ở thành Câu-di, cùng với năm trăm người con của trưởng giả đi theo, các con được dạy dỗ hiếu thuận lễ nghĩa, uy đức phép tắc. Vị trưởng giả xem xét mọi người dự hội đều đã tập họp đông đủ, ông bèn sửa quần áo lại cho tươm tất để làm lễ Phật, ấp ủ trong lòng nỗi lo buồn. Như mặt trời bắt đầu ló dạng, ánh nắng rọi vào cây cối xanh tươi, gân đỏ của ngọn lá hiện rõ toàn bộ, khi đó trưởng giả kia cũng như thế, khắp cả mình mẩy tươm máu, nước mắt ròng ròng tựa mưa tuôn, ông đi quanh Đức Phật ngàn vòng rồi chắp tay bạch với Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con chỉ có một niềm ước mong, xin Thế Tôn và đại chúng xót thương thọ nhận sự cúng dường sau cùng của chúng con, điều đó sẽ khiến cho con và tất cả chúng sinh thảy đều nhờ ơn mà giải thoát. Ví như đứa con nghèo nàn của gia đình làm ruộng, vào tiết giữa xuân, nó cày cấy ruộng rẫy rồi gieo hạt giống, sau đó ngước lên mong mỏi trời mưa. Nay con gây đủ mọi thứ nhơ bẩn phiền não, tai họa về thân miệng ý như thế, nhờ ơn Phật con mới chập chững tập tành một ít ý nghĩ, chán bỏ xa lìa. Chỉ có điều ước nguyện, xin Đức Thế Tôn sẽ ra ơn ban cho cơn mưa giáo pháp, mong Ngài cùng với đại chúng đoái thương mà nhận lời thỉnh cầu của con, ruộng nương khô cạn bởi nắng hạn kéo dài sẽ được nhờ ơn từ bi nhuần thấm.

Bấy giờ, bậc Nhất Thiết Chủng Trí tôn quý trong đời biết tất cả đã đúng thời, bèn nói với Thuần-đà rằng:

– Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cùng với các đại chúng sẽ thọ nhận sự cúng dường sau cùng của ông.

Khi ấy, các hàng trời, người, A-tu-la nghe Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thọ nhận sự cúng dường cuối cùng của trưởng giả Thuần-đà, tất cả đại chúng ôm ấp trong lòng niềm vui sướng, trăm miệng một lời khen là sự việc chưa từng có:

– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Trưởng giả Thuần-đà! Đức hạnh và nguyện vọng của ông đã thỏa mãn đầy đủ. Kỳ lạ quá! Thuần-đà! Người ta sinh ra trong cõi người khó có được lợi ích, vậy mà nay ông đã được. Giống như cõi thế gian hiếm có hoa Ưu-đàm-bát, sự việc Đức Phật xuất hiện ở cõi đời còn khó gặp hơn thế nữa; lòng tin khó được, nghe giáo pháp cũng khó, được cúng dường bữa sau cùng khi Đức Phật sắp nhập Nê-hoàn lại khó khăn hơn sự việc kia. Lại nữa, này Thuần-đà! Ví như ánh trăng vào đêm rằm mùa xuân, vằng vặc sáng trong, không có những đám mây che lấp, tất cả chúng sinh không ai là không chiêm ngưỡng. Ông cũng như thế, Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cùng với các đại chúng thọ nhận sự bố thí cúng dường rốt ráo sang bờ bên kia lần cuối cùng của ông. Quý hóa thay! Thuần-đà! Vì thế, chúng tôi nói ông giống như vầng trăng vành vạnh, hết thảy chúng sinh không ai là không chiêm ngưỡng. Kỳ lạ thay! Thuần-đà! Ông là người con chân chính của Đức Phật, dù rằng ông sinh ra trong cõi người, song nay chúng tôi đều gọi ông là vị trời hơn hẳn trong hàng chư Thiên, vì thế chúng tôi phải rập đầu làm lễ. Ai nấy đều lên tiếng nói bài tụng khen ngợi:

Tuy sinh trong cõi người
Tướng trời đều đầy đủ
Tôi và tất cả chúng
Nay sẽ cúi đầu thưa.
Nếu thương xót nhận lời
Sẽ nói tâm nguyện mọn
Nếu muốn độ chúng sinh
Chỉ nên mau khuyến thỉnh.
Hôm nay Thiên Trung Thiên
Bậc Điều Ngự loài người
Mắt thần thông hoàn hảo
Tướng vô lượng công đức.
Vì chúng sinh năn nỉ
Bỏ phương tiện Niết bàn
Thiên Trung Thiên ở đời
Rộng nói pháp cam lồ.
Khổ sống chết lâu xa
Từ nay được yên ổn.

Bấy giờ, trưởng giả Thuần-đà rất đỗi vui mừng, dường như có kẻ nào đó bị chết mất cha mẹ, nỗi buồn rất đau xót và khốn đốn đến tận cùng, lúc sắp sửa tiễn đưa người quá vãn đến bãi tha ma, bỗng dưng cha mẹ sống lại. Kẻ ấy chiêm ngưỡng phụng thờ, vui buồn lẫn lộn, tình cảm tôn kính tăng thêm gấp ba lần. Trưởng giả Thuần-đà và các người bà con thân thuộc cũng như thế, họ gieo năm vóc xuống đất, chắp hai bàn tay, đọc bài kệ tụng:

Vui thay ta nay được lợi lớn
Đã gặt diệu quả trong loài người
Sướng thay, nay ta được lợi lớn
Đóng mãi cửa địa ngục xấu ác.
Vui thay nay ta được lợi lớn
Đời sống được gặp quả vô thượng
Dường như tìm báu đẹp trong cát
Chợt gặp kim cương mừng quá chừng.
Sướng thay nay ta được khéo lìa
Súc sinh mê hoặc khắp nơi nơi
Vui thay nay ta được lợi lớn
Tin vững chắc hoa Ưu-đàm bát.
Sướng thay, nay ta được khéo lìa
Khổ đói khát ngạ quỷ keo kiệt
Vui thay nay ta được lợi lớn
Khó được bố thí đến bờ kia.
Từ rày đóng mãi các nẻo ác
Rốt ráo lìa A-tu-la vương
Sướng thay nay ta được lợi lớn
Như Lai ra đời rất khó gặp.
Nay ta gặp hoa Ưu-đàm bát
Cũng như hạt cải ném mũi kim
Vui thay nay ta được khéo lìa
Chấp thường của Tứ thiên đại vương.
Sướng thay nay ta được lợi lớn
Thấy hết thảy báu lớn pháp vương
Cho đến mười chỗ sinh trời Dục
Hiểu kỹ rõ ràng chẳng bám víu.
Vui thay nay ta được lợi lớn
Thế Hùng khó gặp, nay kính hầu
Giống ném hạt cải qua mũi kim
Gặp Phật rất khó lại hơn thế
Hết hăm lăm hữu nguồn ba cõi
Kim nhọn thí dụ cũng vậy thôi
Sướng thay nay ta được lợi lớn
Gặp gỡ Như Lai nguyện đầy đủ.
Diệt hết tất cả các hung ác
Vô lượng suy tối giặc vô tri
Vui thay nay ta được lợi lớn
Sinh gặp đấng hoa sen lìa bẩn.
Sướng thay nay ta được lìa mãi
Sóng cả nhận chìm biển sinh tử
Sướng thay sinh đời gặp Như Lai
Biển khơi rùa mù vớ gỗ nổi.
Vui thay nay ta được lìa mãi
Biển cả sống chết, rùa mù lầm
Sướng thay nay ta được lợi lớn
Đời chưa từng có kẻ sánh bằng.
Trời người năn nỉ đều chẳng nhận
Nay ta được báu khó thỉnh cầu
Vui thay nay ta được lợi lớn
Trời, người, Tu-la vốn tôn thờ.
Sướng thay nay được pháp quả ngay
Đại tiên nhận ta thỉnh sau cùng
Vui thay nay ta được lợi lớn
Cùng các người trời đều khuyến thỉnh.
Bỏ thứ thượng diệu trời người kia
Xót thương nhận ta cúng thô chát
Sướng thay nay ta được lợi lớn
Trời người hiến cúng nguyện không quả.
Ta cúng thô chát như y lan
Đại từ Như Lai thương xót nhận
Chư Thiên, dân chúng, A-tu-la
Ưu sầu gào khóc rập đầu thỉnh.
Đại bi Như Lai xót thương khắp
Xem chúng sinh đồng như con một
Ví phỏng không nhận mọi cơm cúng
Nguyện thương trời người chẳng diệt độ.
Các trời, người không cầu gì khác
Chỉ nguyện Như Lai ở đời hoài
Giống như Tu-di ở biển cả
Tòa kim cương giờ yên chẳng động.
Núi sông lồng bóng đoan nghiêm đẹp
Như Lai ở Hội lớn như thế
Uy quang pháp vương ngời bốn chúng
Dường như mây lấp cả thế gian.
Mặt trời ló dạng trừ mọi tối
Nay các thiên nhân cũng như vậy
Lo buồn tâm si tối lâu xa
Chỉ nguyện Như Lai ở đời lâu.
Mặt trời thánh tuệ trừ diệt thảy
Nguyện đấng Đại trí ở đời hoài
Nguyện bậc Đại hùng ở đời mãi
Khiến lòng chúng con lìa lo sợ
Giống như Tu-di yên bất động.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói cho Thuần-đà biết:

– Đúng thế! Này Thuần-đà! Phật xuất hiện ở đời rất khó gặp được, giống như một hạt kim cương bằng hạt thóc lẫn trong cát biển; thân người khó được lại còn khó hơn thế nữa, được lòng tin đầy đủ cũng lại rất khó, giống như con rùa mù gặp được bọng cây nổi giữa biển khơi. Được gặp Như Lai sắp sửa vào Nê-hoàn, việc mà ông cúng dường sau cùng là bố thí đến bờ bên kia lại còn khó hơn những điều đã nói trên kia, như hoa Ưu-đàm-bát qua thời gian dài chỉ nở một lần mà thôi. Này Thuần-đà! Hôm nay ông chớ sinh lòng lo buồn khổ não mà hãy nên vui mừng. Tại sao như thế? Ông hãy nên suy nghĩ thế này: “Hôm nay Đức Như Lai cùng với các đại chúng thọ nhận sự cúng dường và bố thí lớn lao sau cùng của ta, vì sự lợi ích tốt lành ấy, cho nên ta phải vui mừng”. Này Thuần-đà! Nay ông đừng thỉnh cầu Như Lai ở dài lâu trong cõi đời này, hãy nên xem xét thế gian thảy đều vô thường, bản tính của hết thảy các hành cũng như thế. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói cho Thuần-đà bài kệ:

Cho dù ở đời lâu
Rốt cuộc cũng phải diệt
Tuy sinh trời Trường Thọ
Mạng cũng sẽ chấm dứt.
Việc thành rồi sẽ bại
Có đó rồi diệt mất
Khỏe mạnh bị già hoại
Lực lưỡng bị bệnh khốn.
Người sống đều có chết
Vô thường đâu lâu được
Không sắc không sức mạnh
Cũng không có thọ mạng.
Vợ con và voi ngựa
Tiền tài đều thế cả
Các thân thích thế gian
Quyến thuộc đều xa cách.
Ba cõi quá hãi hùng
Cho đến khổ đường ác
Hạng này thảy diệt rốt
Sao chẳng thể chán chường.
Có tướng hữu, sinh, lão
Gọi là pháp hổ thẹn
Suy tính thường xâm lấn
Mà cho rằng trường tồn.
Pháp thù thắng mát mẻ
Lìa xa nỗi khủng khiếp
Cũng được lìa họa lớn
Sinh già bệnh và chết.
Tâm loạn ngu si bẩn
Nói đều độ hạng này
Vô lượng trùm khắp hết
Tịch diệt thù thắng diệu.
Nghĩa ấy thật vô thường
Chẳng phải pháp che chở
Chỉ là mọi khổ nhóm
Giả dối chẳng vững bền.
Không chịu, không nhẫn nổi
Cũng không thể giữ luôn
Hạng này như loài tằm
Kết kén mà tự buộc.
Xoay vần trong ba cõi
Không một chỗ đáng vui
Chỉ có tai vạ lớn
Khổ sinh già bệnh chết.
Biết nghĩa là thấy rõ
Ngày đêm thọ mạng trôi
Suy giảm pháp lừa dối
Khiếp sợ, không, vui tạm.
Lo đau ốm buồn phiền
Những phi nghĩa đầy ắp
Lửa dục chuyển rừng rực
Các nạn giành nhau đến.
Người trí chẳng ở hoài
Chịu lắm khổ đau này
Hiểu rõ họa năm dục
Không phải công đức lợi.
Lìa dục không tham lam
Rõ ràng thấy chân thật
Đó là quán giải thoát
Trừ bỏ các sinh già
Quở trách hại kết oán
Rốt ráo bỏ các hữu.

Từ rày mau lìa tất cả số
Dường như củi hết lửa rực tắt
Sắc đẹp sáng trong thường yên ổn
Không bị già suy làm phai mờ.
Vô lượng tật khổ chẳng thúc ép
Tuổi thọ lâu dài không cùng cực
Biển khổ không bờ thảy đã qua
Chẳng theo thời tiết dời kiếp số.
Vui thay Như Lai vượt ba cõi
Lại chẳng mê sống chết xoay vần
Ông chớ xem Ta diệt độ mãi
Dường như Tu-di trụ biển cả.
Thuần-đà! Nay Ta nhập Nê-hoàn
Chánh pháp bình đẳng an vui mãi
Những người sáng trí nghe nghĩa này
Hiểu kỹ rõ ràng chẳng âu lo.
Chớ đem thân sống chết giòn nguy
Trí tuệ nông cạn đo lường Phật
Thân ta chân thật ở yên ổn
Chỉ đấng Thiên Tôn mới hiểu rõ.

Bấy giờ, Thuần-đà bạch với Phật:

– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Bạch Thế Tôn! Chúng con là hạng phàm phu thấp kém, được biết việc Nê-hoàn của Đức Thế Tôn, nay con liền cùng với các chúng Bồ-tát đại nhân và các vị La-hán kia không có gì sai khác, giống như Đồng tử Văn-thùsư-lợi và các vị A-la-hán. Trong những chúng này, nếu có người vừa mới thọ giới lần đầu tiên, lập tức họ được ở vào Tăng số trong ngày thọ giới. Nay con là hạng phàm phu thấp kém cũng như thế, được nhờ uy đức và thần lực của Phật mà con được đếm số cùng các chúng đại hiền này. Vâng, đúng thế, bạch Thế Tôn! Ước mong cho Đức Như Lai ở đời mãi mãi, con chẳng nguyện ước Ngài vào Nê-hoàn như hạt giống cháy tiêu.

Văn-thù-sư-lợi nói với Thuần-đà:

– Ông đừng có niềm ước mong như thế, lý do thế nào? Ông hãy nên quán thế này, thực hành pháp hữu vi, tính chất tự nhiên như thế, quán như vậy là trí tuệ quán lý Không được đầy đủ, người muốn cầu chánh pháp thì hãy nên khởi lên sự nhận thức như thế.

Thuần-đà trả lời:

– Thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Luận rằng, Đức Như Lai là đấng tôn quý trong loài người, là bậc Trời được tôn kính nhất trong hàng chư Thiên, tên gọi là Ứng Cúng thì chẳng lẽ Như Lai chấp hành việc ấy chăng? Nếu chấp hành như thế là pháp sinh diệt. Ví như bọt nước thoạt nổi lên rồi thoạt diệt mất, lưu chuyển qua lại in hệt bánh xe. Nếu như Đức Như Lai chấp hành số mạng như thế, kết cục Như Lai không vượt ra khỏi để đứng trên hàng người và trời được, Như Lai lại không phải là đấng Thiên Trung Thiên, cũng chẳng phải là bậc Ứng Cúng.

Lại nữa, thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Chẳng lẽ Tôn giả không nghe có cõi trời Trường Thọ sao? Thế mà nay Đức Như Lai sống không đầy trăm tuổi, thì sao gọi là khuôn phép của việc sinh tử, xứng đáng đứng trên hàng người và trời để thành bậc Thiên Trung Thiên, tên gọi là Ứng Cúng?

Thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Ví dụ như có người làm chủ thôn xóm, tùy theo công trạng to lớn của người ấy mà dần dần thuyên chuyển được làm chức vị cao, ông ấy phải được mọi người kính nể, vốn liếng sức của thoải mái. Khi phước hưởng thụ đã hết thì ông ấy trở thành kẻ nghèo hèn, người ta chẳng thèm đếm xỉa. Nếu như Đức Như Lai chấp hành số mạng như thế, thì cũng như vậy, Ngài không phải là bậc cao cả trong loài người, không phải vị Trời được tôn quý nhất trong hàng chư Thiên, cũng không phải là bậc xứng đáng được hưởng thụ sự cúng dường của hàng trời và người, mà chuyển thành hạng thấp kém. Vì sao? Vì pháp sinh khởi và diệt mất. Do đó, thưa Tôn giả Vănthù-sư-lợi! Tôn giả chớ khởi lên sự quán xét ấy mà cho là đấng Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác chấp hành số mạng như thế.

Lại nữa, thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Tôn giả biết mà nói, hay vì không biết mà nói? Sự phân biệt sai lầm, song cứ chấp giữ mọi tướng sai lầm ấy như thế nào mà Tôn giả nói rằng, Đức Như Lai chấp hành số mạng như thế? Ví bằng Đức Như Lai chấp hành số mạng như thế, thì chẳng thể gọi là đấng Pháp vương tự tại đối với ba cõi. Lý do ấy thế nào? Ví như có ông vua dũng mãnh, nhiều sức lực, một người địch lại ngàn người. Bấy giờ người ta đặt hiệu cho ông vua là Thiên lực sĩ vương (vua có thể địch nổi ngàn lực sĩ), vì ông ta có thể hàng phục cả ngàn người lực sĩ. Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng

Chánh Giác cũng như vậy, hàng phục bốn loại ma: phiền não ma, ấm ma, tử ma và tự tại thiên ma. Các ma lực sĩ kiêu mạn như thế thảy đều khuất phục, vì thế Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác được gọi là đấng Pháp vương tự tại đối với ba cõi. Nếu như Đức Như Lai giữ theo khuôn phép qua đời như thế, thì không thể có công đức thực sự giống như ông vua Thiên lực sĩ vậy. Vì thế, thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Tôn giả chớ khởi lên vọng tưởng cho rằng Đức Như Lai chấp hành số mạng.

Lại nữa, thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Ví như ông trưởng giả giàu có chỉ sinh được một đứa con, thầy tướng xem bói đoán rằng đứa con ấy có tướng tuổi thọ ngắn ngủi, cha mẹ đứa bé nghe nói điều đó trong lòng hết sức lo buồn, tướng của chúng ta mỏng manh, nhà ở không tốt lành, sinh ra đứa con thì tuổi đời ngắn ngủi, thế rồi họ chẳng yêu chuộng nó nữa. Nguyên do thế nào? Luận rằng, trong hàng trời, người và Bà-la-môn có vị tuổi thọ ngắn ngủi, từ đó lớp ngang hàng với vị này chẳng quý mến kính nể, bởi vì vị kia có tuổi thọ ngắn ngủi. Như thế, thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Nếu cho rằng Đức Như Lai cùng tuổi thọ như người đời, cũng giống như người đời, không được cha mẹ kính mến, Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác chấp hành số mạng, thì cũng không được hàng trời, người, A-tu-la ái mộ và tôn kính, vì hiện thấy chuyển biến. Vì sao? Vì sự thấy biết, thoái lui, bại hoại của tất cả pháp giống như nhau, mà lại nói giáo pháp giải thoát cho chúng sinh, ý nghĩa như thế thì sao gọi là bậc Chánh Giác? Do đó, thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Tôn giả đừng khởi lên sự suy nghĩ xằng bậy cho rằng Đức Như Lai chấp hành số mạng.

Lại nữa, Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Giống như người con gái nghèo nàn không có chỗ dừng chân cư trú, lại thêm ốm đau. Rày đây mai đó, cô đi xin người ta tấm lòng, dừng lại nhà khách của người khác để ở trọ sinh một đứa con. Ông chủ nhà khách ấy xua đuổi khiến cô ta phải ra đi, cô ấy ẵm đứa con đi theo con đường hướng về đất nước giàu có sung sướng, giữa đường mỏi mệt, cô bị ruồi muỗi và sâu bọ độc hại cắn mổ vào thân thể của mình. Qua đến sông Hằng, cô ta ẵm đứa con mà sang sông. Bập bềnh trên dòng nước chảy xiết, song cô chẳng buông rời con mình, thế rồi đến nỗi chìm đắm, cả mẹ con đều chết. Do công đức và lòng từ cứu con như thế, nên khi tấm thân hủy hoại, mạng sống chung cuộc, thì cô ta được sinh lên cõi trời Tịnh Diệu. Lý do thế nào? Vì nhờ cô ta không tiếc mạng sống của mình để che chở cho con. Thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Như thế, Bồ-tát muốn cứu hộ chánh pháp, thì chẳng nên tạo tác hành quán, nên biết đó là người mù lòa, không có con mắt tuệ. Đối với Đức Thế Tôn, phải nên quán xét điều đó một cách đúng đắn, không thể nghĩ bàn. Nên biết Đức

Như Lai không phải là pháp hữu vi, vì thế nên mới thị hiện giáo hóa cho chúng sinh được an vui. Người con gái nghèo nàn kia che chở cứu vớt đứa con của mình, đến nỗi chẳng tiếc thân mạng, cho nên được sinh lên cõi trời Tịnh Diệu. Vị Bồ-tát ủng hộ chánh pháp cũng như thế, có thể biết Như Lai không phải là pháp hữu vi, đó là pháp tồn tại lâu bền, đó là pháp trụ mãi mãi, nhờ sự hộ pháp này mà được pháp quả ngay hiện tiền, chóng thành bậc giải thoát.

Lại nữa, thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Ví như kẻ trượng phu đi xa, dừng chân ở nhờ nhà người khác, người ấy mệt nhọc quá đỗi rồi ngủ. Thình lình ngọn lửa mạnh bùng lên đốt cháy ngôi nhà này. Giật mình tỉnh dậy, người ấy nhìn thấy ngọn lửa cháy lan tiến sát thân mình, lòng muốn thoát ra khỏi nạn lửa, song quần áo bị cháy rụi, ông tự thẹn thùng bởi thân thể trần truồng, ông không ra khỏi ngôi nhà lửa để đến nỗi bị chết cháy. Do nhờ công đức hổ thẹn, nên khi thân thể hủy hoại, mạng sống chấm dứt, người ấy được làm vua ở tầng trời Ba Mươi Ba tám chục ngàn lần, lại làm vua cõi trời Phạm thiên một trăm ngàn lần. Sau này sinh vào trong loài người, người ấy thường làm Chuyển luân Thánh vương, không còn rơi xuống đường ác, mãi mãi ở chốn an vui, do lòng hổ thẹn cho nên được như vậy.

Thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Nên biết rằng

Đức Như Lai thực hành phương tiện, tương ứng với người trượng phu kia do hổ thẹn mà chết. Thà làm kẻ ngoại đạo quen theo thói tà kiến, chứ không làm Tỳ-kheo giữ giới đối với Đức Như Lai vô vi mà dấy lên ý tưởng hữu vi, biết mà vẫn nói năng dối trá xằng bậy. Nếu người nào dấy lên ý tưởng hữu vi đối với Đức Như Lai, nên biết đó là người thường lấy chốn địa ngục A-tỳ làm nhà cửa, cho nên đừng tác ý số mạng hữu vi đối với Đức Như Lai. Nếu người nào có thể dấy lên ý tưởng vô vi đối với Đức Như Lai, từ đây người ấy sẽ được sang bên kia biển cả trí tuệ, chẳng bị thây chết làm mê hoặc, người ấy thành tựu trí tuệ Bát nhã sâu xa đến mức cùng cực, đem hiệu quả trí tuệ này để mau chóng đạt được tướng tốt đầy đủ của Đức Như Lai. Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi nói với Thuần-đà:

– Quý hóa thay! Này thiện nam! Ông nên biết như vầy, Đức Như Lai thường trụ vô vi, không phải là pháp biến dịch. Này thiện nam! Ông có trí ấy thì cũng có năng lực che giấu như Đức Phật, thị hiện phương tiện hữu vi. Nay chẳng bao lâu nữa, ông sẽ thành Phật đạo, như công đức đặc biệt kỳ lạ và tuyệt diệu thù thắng này, chỉ có Đức Phật Thế Tôn mới có thể nói lời khen ngợi.

Lại nữa, này Thuần-đà! Bố thí hợp thời và bố thí pháp vượt lên tất cả mọi sự bố thí. Bố thí đúng lúc là hoặc hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di; hoặc giả người từ phương xa đi đến đây; hoặc là người đang còn đi giữa đường; tùy theo sức của mình mà họ có thể đáp ứng nhanh chóng các thứ cần dùng, sự bố thí đến bờ bên kia như thế là hạt giống mọc lên quả báo lớn lao. Thuần-đà, nay ông hãy tùy theo sức của mình mà cúng dường bố thí lần sau cùng cho Đức Phật và Tăng. Có lẽ ông biết rằng, nay đúng là lúc sắp đến giờ Đức Thế Tôn diệt độ.

Thuần-đà nói:

– Thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Phiền Tôn giả thúc giục tôi cúng thức ăn cấu uế này làm gì? Chẳng lẽ Đức Như Lai đáng chờ đợi ăn thức ăn này chăng? Suốt sáu năm, Đức Như Lai tu tập khổ hạnh là việc khó làm ở dưới gốc cây Đạo, hằng ngày chỉ ăn hạt mè hay hạt gạo mà vẫn còn tự mình gắng sức, huống gì nay trong chốc lát, chẳng lẽ không thể đợi được chăng? Ông bảo rằng, Đức Như Lai ăn thức ăn này chăng? Pháp thân Như Lai không phải là thân dùng thức ăn cấu uế.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Văn-thù-sư-lợi:

– Những điều Thuần-đà nói ra là lời chân thật. Phật lại nói với Thuần-đà:

– Ông trở thành người đại trí hiểu rõ Đại thừa. Văn-thù-sư-lợi nói với Thuần-đà:

– Nay ông thành người hợp ý Đức Như Lai, được Phật hộ niệm. Thuần-đà trả lời:

– Chẳng lẽ Đức Như Lai hộ niệm thiên vị chăng? Đức Phật đều hộ niệm tất cả chúng sinh một cách bình đẳng, Tôn giả đừng nói lên tư tưởng đảo ngược này, hộ niệm và đáng được hộ niệm, cả hai điều ấy thảy đều không đáng tạo tác việc làm như thế. Luận rằng, yêu thương và nghĩ đến là ví như con bò sữa, mặc dù khát nước và đói bụng nhưng nó vẫn đi tìm cỏ và nước. Hoặc giả đủ hay chưa đủ cỏ và nước, bỗng dưng nó nhớ nghĩ đến con của mình, bèn nhanh chóng quay trở về. Các Đức Phật Thế Tôn không có sự nhớ nghĩ khổ cực này, chư Phật coi tất cả chúng sinh đều giống như đứa con một, đó là trí tuệ nhớ nghĩ cảnh giới của các Đức Phật.

Lại nữa, thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Ví như chiếc xe báu được kéo bằng voi hoặc ngựa, độ đi nhanh hay chậm chẳng giống nhau, như thế cỗ xe chín bộ của chúng ta không thể nào hỏi ngang hàng với trí tuệ của Đức Như Lai.

Lại nữa, thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Ví như vua của loài chim lông cánh sắc vàng vượt lên khoảng không mà bay vút, chim bay qua biển cả, hình bóng hiện rõ trong nước, thân mình của nó dài và lớn, các loài vật sinh sống dưới nước không loài nào có thể đo lường hình dáng của mình lớn hay nhỏ, như đứa trẻ nhỏ mắc bệnh không chịu nổi liều thuốc quá mạnh.

Văn-thù-sư-lợi nói:

– Đúng như những điều Thuần-đà nói, tôi và các hàng Bồ-tát, đối với công đức rất mực sâu xa mà lập nên luận thuyết này.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ gương mặt của mình, phóng ra ánh sáng đủ mọi màu sắc. Khi ấy, Đồng tử Văn-thù-sư-lợi trông thấy ánh sáng này mới hay giờ Nê-hoàn của Đức Như Lai sắp đến, liền bảo cho trưởng giả Thuần-đà biết:

– Ông hãy cúng dường lần cuối cùng cho Như Lai, Như Lai sắp sửa vào Nê-hoàn rồi. Thời giờ ấy đã đến, có lẽ ông hãy nên mau bày ra. Thuần-đà! Nên biết Như Lai không vì không có nhân duyên mà phóng ra ánh sáng, ý nghĩa ấy có nguyên do. Hãy nên nhanh chóng! Hãy nên nhanh chóng! Đừng để cho mất thời cơ như ngắt hoa quá lứa.

Trưởng giả Thuần-đà đứng lặng thinh, Phật bảo Thuần-đà:

– Lát nữa đây, Như Lai sẽ vào Nê-hoàn, nay đúng là lúc ông cúng dường Tăng.

Phật nói hai ba lần như thế, Thuần-đà buồn bã than:

– Kỳ lạ biết bao! Thế gian trống rỗng! Như Lai một đi không bao giờ trở lại.

Ông buồn bã gào khóc, nước mắt ròng ròng. Thế rồi ông lại giải bày cầu thỉnh, nguyện Phật xót thương mà ở mãi trong đời. Đức Thế Tôn bảo:

– Thuần-đà! Ông chớ khóc lóc, tự làm rối loạn tâm mình. Hãy nên suy nghĩ đúng đắn, tu phép quán về sóng nắng, cây chuối, giấc mộng hão huyền, ánh điện chớp, đồ dùng hủy nát v.v..., không có sự chân thật và bền chắc, nên biết hữu vi là ngôi nhà tai họa.

Thuần-đà bạch Phật:

– Bạch Như Lai! Như Lai chẳng xót thương trụ lại cõi đời, thế gian trống rỗng, chúng con cầm lòng sao được mà không khóc lóc.

Phật dạy:

– Này Thuần-đà! Nay Ta thương xót ông và hết thảy chúng sinh mà vào Nê-hoàn, đó là pháp tự nhiên của chư Phật, tính chất của pháp hữu vi cũng như thế. Đối với tất cả các hành tướng hữu vi, ông hãy nên nghĩ rằng, khi xưa Ta nói bài kệ vô thường, bài kệ thân này là tai họa, bài kệ sinh diệt giống như bong bóng trên mặt nước, ông chớ lo buồn vô ích, giống như pháp của người phàm tục.

Thuần-đà bạch:

– Đúng thế, bạch Thế Tôn! Quả thật con biết sự nhập Nê-hoàn của Như Lai là phương tiện, bởi không thể nào tự cầm lòng mình cho nên con âu sầu não ruột.

Phật bảo Thuần-đà:

– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Này thiện nam! Nên biết rằng Nê-hoàn là phương tiện của Như Lai, nên biết rằng Phật từng trải như vượt qua biển cả, sống lâu, không phải sống lâu, pháp sinh khởi, pháp diệt, pháp hão huyền, pháp phương tiện, đúng lúc, không phải thời, tính, chẳng phải tính những việc như thế ông phải biết hết.

Này Thuần-đà! Nếu ông muốn vượt qua biển ba cõi một cách nhanh chóng, thì ông có thể mau mau bày ra những vật dụng cúng dường mà ông mang theo để cúng dường cho các hàng trời, người, A-tu-la. Nay ông xứng đáng được làm công việc cúng dường lần sau chót, khiến cho tất cả chúng sinh được niềm vui sướng bất động từ bản thân Ta, ông và các người khác gặp được ruộng phước tốt lành. Đối với Như Lai Đẳng Chánh Giác, Ta chẳng làm khó dễ về sự bố thí đến bờ bên kia mà ông vốn đã thiết lập, tự nhiên cũng sẽ thành ruộng phước Như Lai.

Khi ấy, vì muốn độ tất cả chúng sinh, nên trưởng giả Thuần-đà gục đầu khóc sướt mướt, nước mắt đầm đìa như mưa. Ví như mặt trời mọc, ánh nắng chiếu rọi cây cối xanh tươi, gân đỏ của lá hiện ra toàn bộ, trưởng giả Thuần-đà cũng như vậy, máu và nước mắt đều tuôn rơi, rồi ông bạch Phật:

– Vâng, đúng như thế, bạch Thế Tôn! Nay con phải nghe theo lời dạy của Như Lai, thế nhưng ý nghĩa Nê-hoàn quá ư sâu xa của Như Lai, không phải hạng tầm thường nhỏ bé như con vốn có thể đo lường nổi, cũng chẳng phải điều mà hàng Thanh văn và Duyên giác hay biết, chỉ có cảnh giới trí tuệ của Phật Thế Tôn mới biết được.

Bấy giờ, Thuần-đà cùng với các thân thuộc, vì độ hết thảy chúng sinh, nên họ cúi đầu lễ dưới chân Đức Phật, đi vòng quanh về phía tay phải xong, họ đốt hương và rải hoa cúng dường Đức Thế Tôn. Cùng lúc, mọi người lại cúng dường Tôn giả Vănthù-sư-lợi, để sắm sửa các thức cúng dường, cho nên mọi người quay trở về nhà mình.

QUYỂN 2

Phẩm 4: XÓT XA THAN THỞ

Đúng lúc ấy, sáu thứ chấn động khắp cả cõi đất, trong đó thôn xóm, thành ấp, núi non, biển cả, cho đến mười phương, toàn bộ đều chuyển động mạnh. Khi ấy, các chúng sinh ai nấy đều hết sức hoảng sợ, hàng trời người, A-tu-la đều than vãn xót thương. Họ rập đầu làm lễ dưới chân Đức Phật và cúng dường xong, cùng một lúc tất cả đều dùng bài kệ ca tụng:

Lạy Đấng Hùng loài người
Xót con nay côi cút
Gieo mình dưới chân Phật
Ngửa nhớ diệu công đức.
Nghe con nói sống chết
Đủ mọi khổ khôn xiết
Các trời, người nghe đó
Ai cũng sinh lìa chán.
Ví như con côi cút
Bệnh khốn tự quấn thân
Tuy gặp lương y chữa
Bệnh ấy vẫn chưa khỏi.
Nhưng bỗng dưng nửa chừng
Thầy bỏ đi nơi khác
Chúng con và tất cả
Kẻ cùng khổ cũng thế.
Mới được phương tiện chữa
Mọi tà kiến phiền não
Đại y vương Thế Tôn
Chợt sắp bỏ con đi.
Bèn như kẻ bệnh nặng
Mất thầy không chỗ cậy
Ôi thôi thế gian này
Từ rày luôn trống trải.
Cũng như nước rối ren
Lại mất chúa hiền minh
Xót thay các trời người
Đều chịu nạn La-sát.
Giống như kiếp thóc quý
Dân gặp khổ đói kém
Thương thay các trời người
Mất mãi vị cam lồ.
Ví như lửa dữ bùng
Chúng sinh đều chết thiêu
Xót thay các trời người
Đường ác rực cháy mãi.
Thương thay các trời người
Chịu khổ lớn đêm dài
Quay vòng dòng sinh tử
Như voi lún bùn sâu.
Xót thay nay trời người
Từ thân máu chảy ra
Khổ não thêm lo buồn
Lòng luyến mộ như thế.
Do Thế Tôn diệt độ
Hành nghiệp lại khó lường
Trời trăng ẩn lớp mây
Từ đây ánh tuệ diệt.
Thương thay chúng trời người
Sống đêm dài tăm tối
Do đó buồn canh cánh
Không vật nào dụ được.
Nhìn thân không đáng vui
Muốn bỏ như nhổ bọt
Chẳng ham sống đời hoài
Nghe tiếng Phật Nê-hoàn.
Chỉ mong đấng Đại trí
Ở đời nói cam lồ
Mây tan ánh dương tỏ
Mịt mùng thảy đều diệt.
Ánh dương tuệ Như Lai
Mãi tiêu chướng sinh tử.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các vị Tỳ-kheo:

– Này các Tỳ-kheo! Đừng giống như các hàng trời, người, phàm phu khóc lóc ưu sầu, các vị hãy nên siêng năng chịu khó vâng giữ giáo pháp chân thật của Như Lai nói ra, chuyên chú nhớ nghĩ theo đúng mà tu hành.

Khi ấy, các hàng trời, người, A-tu-la v.v... nghe Đức Phật thuyết pháp cho các vị Tỳ-kheo rồi, họ nguyện xin dứt ngay nỗi đau thương luyến tiếc. Ví như người mẹ hiền từ vừa qua đời, đứa con hiếu thuận làm lễ tế để tiễn đưa mẹ đến nấm mồ, từ biệt mẹ mãi mãi rồi trở về nhà, tự mình gắng gượng dằn xuống nỗi xót xa cảm xúc và thảm buồn não ruột.

Thế rồi, Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Các ông nên mở ý
Pháp chư Phật phải vậy
Ai nấy về chỗ ngồi
Lắng nghe điều Ta nói.
Nhiếp tâm đừng buông thả
Giữ giới hạnh thanh tịnh
Định các ý tưởng loạn
Tự khéo giữ tâm mình.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Nếu có điều ngờ vực thì các vị đều phải nên hỏi. Hoặc là không, bất không; thường, vô thường; quay về, không quay về; nương tựa, không nương tựa; lâu dài, không lâu dài; chúng sinh, không phải chúng sinh; thật, không thật; chân lý, không phải chân lý; Nê-hoàn, không phải Nê-hoàn; mật, không mật; pháp nhị, pháp bất nhị. Trong mọi thứ pháp như thế, các vị có điều gì hoài nghi thì nay đều nên hỏi, Ta sẽ tùy thuận lời hỏi mà nói cho các vị, Ta sẽ khai mở cánh cửa bất tử cho các vị rồi sau đó mới diệt độ. Do đó, hiện giờ các vị có điều gì nghi ngờ trong lòng thì mỗi mỗi nên hỏi. Vì sao? Phật ra đời khó gặp, được làm thân người là khó, có được lòng tin cũng khó, lìa khỏi tám chỗ khó khăn chướng nạn và giữ gìn giới luật trọn vẹn, việc này lại càng khó hơn, giống như tìm hạt vàng trong cát sông Hằng, cũng như hoa Ưu-đàm nở.

Lại nữa, này Tỳ-kheo! Trăm thứ lúa má hoa màu, cây thuốc, cho đến các thứ quý báu đều từ đất đai sinh ra, tất cả chúng sinh nương dựa theo đó mà được sinh trưởng. Như Lai sinh ra các pháp cam lộ tốt đẹp như thế, nhân đó chúng sinh nuôi lớn pháp thân. Do vậy, Tỳ-kheo nên hỏi những điều mình còn thắc mắc, Như Lai đều nói ý nghĩa quyết định cho các vị, sau đó mới nhập Nê-hoàn, vì làm vui tất cả chúng sinh.

Khi ấy, các vị Tỳ-kheo nghe Đức Như Lai quyết định nhập Nê-hoàn xong, họ ấp ủ trong lòng nỗi thương đau sợ hãi, lông trên thân thể đều dựng đứng. Giống như ánh mặt trời ló dạng rọi vào cây lá xanh tươi, gân đỏ đều hiện rõ. Thân mình của các vị ấy cũng như thế, lóng đốt tay đốt chân khắp cả cơ thể, máu và nước mắt cùng lênh láng đầm đìa, họ rập đầu lễ dưới chân Đức Phật, đi vòng quanh về phía tay phải xong rồi bạch Phật:

– Quý hóa thay! Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn hãy mau mau giảng giải giáo pháp phi thường, khổ và không. Như dấu chân voi là trên hết so với dấu vết của cả thảy chúng sinh, như thế, bạch Thế Tôn!

Thế Tôn nói sự quán tưởng vô thường là phép quán đứng hàng đầu tiên ở trong các sự quán tưởng. Người nào siêng năng chăm chỉ tu tập thì có thể lìa khỏi tất cả tham ái, sắc ái và hữu ái trong cõi Dục, vô minh và kiêu mạn này từ nay mãi mãi tiêu diệt. Lại nữa, bạch Thế Tôn! Ví như vào thời tiết mùa thu, cỏ và hạt chưa chín, người làm ruộng cày sâu mảnh đất của mình, sang mùa xuân gieo trồng thêm ngũ cốc, loài cỏ dại chẳng mọc lên. Nếu người tu hành siêng năng tu tập và nhớ kỹ sự quán tưởng vô thường một cách sâu xa như thế, thì họ có thể xa lìa hết thảy tham ái, sắc ái và hữu ái ở cõi Dục, vô minh và kiêu mạn mãi mãi không nảy sinh nữa. Bàn về con nhà làm ruộng thì họ cho việc cày bừa vào tháng mùa thu là trên hết. Bạch Thế Tôn! Trong giáo pháp lấy sự quán tưởng vô thường làm phép quán đứng đầu.

Lại nữa, giống như vị vua chúa biết mạng sống của mình sắp sửa kết thúc, ông bèn ban ân tha tội cho những người bị giam cầm ở chốn ngục tù trong thiên hạ, nhờ ơn vua, họ lại được thoát khỏi cảnh tù tội, rồi sau đó ông vua ấy mới qua đời. Hôm nay, Thế Tôn cũng như vậy, đến lúc sắp diệt độ còn giảng nói giáo pháp cam lồ, ban ơn lợi ích cho chúng sinh, nhà lao tham ái đều giải thoát tất cả, sau đó mới nhập Nê-hoàn. Như người bị ác quỷ nắm giữ, gặp được vị pháp sư trì chú, liền được giải thoát. Như thế, chúng sinh bị loài La-sát tham ái nắm giữ, may mắn được nhờ bài thần chú trí tuệ bậc Thánh của Như Lai, họ được giải thoát khỏi loài La-sát ân ái và mọi tà vạy. Như người mắc bệnh sốt rét gặp được thầy giỏi thuốc hay, bệnh hoạn khổ sở thảy đều tiêu trừ. Chúng con cũng như vậy, vô lượng tà kiến, phiền não, bệnh tật nơi thân, nhờ được vị thuốc diệu pháp của Thế Tôn, bệnh đều được trừ khỏi. Như người say rượu chẳng nhận biết người thân thuộc, kẻ xa lạ; bậc cao quý, hạng thấp hèn; người lớn, kẻ nhỏ; sau đó chẳng bao lâu người ấy tỉnh ngộ, ấp ủ trong lòng nỗi hổ thẹn, tự trách cứ mình hết sức nghiêm khắc. Chúng con cũng như thế, ở trong vô lượng, vô biên sinh tử, say sưa theo tình dục, mê muội với tà kiến, mới được tỉnh ngộ. Giống như cỏ lau và cây y-lan không có sự vững vàng chắc chắn, thân này cũng như thế, ta, người, thọ mạng v.v... không có sự vững bền.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Như thế là các ông tu phép quán tưởng không có cái ta chăng? Các Tỳ-kheo trả lời:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Chúng con thường tu phép quán tưởng vô ngã, số người còn lại cũng tu quán tưởng vô thường, khổ, không, vô ngã. Bạch Thế Tôn! Như người ta nói, mặt trời, mặt trăng, các vì sao trên bầu trời, núi non, đất đai chuyển động, đây không phải là chuyển, nhưng chúng sinh hoa mắt lầm lẫn nói đó là chuyển động. Như thế người ta nói vô thường, khổ, không, vô ngã, nên biết các chúng sinh này cũng chính là sự hoa mắt lầm lẫn của thế tục, điều chúng con tu ấy là tu bình đẳng.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Như ví dụ của các ông nói, trong ví dụ này, các ông nói ý vị hay là nói ý nghĩa, các ông vẫn chưa giải thích. Ta sẽ nói lại như lời người ta nói, rằng mặt trời, mặt trăng, núi non, đất đai chuyển động; đây không phải là chuyển động, nhưng chúng sinh hoa mắt lầm lẫn mới nói là chuyển động; hạng chúng sinh ngu si điên đảo như thế, họ chấp cái ta, chấp thường, chấp lạc, chấp tịnh. Nhưng Phật kia chính là nghĩa của ngã, pháp thân là nghĩa của thường, Nê-hoàn là nghĩa của lạc, các pháp giả danh là nghĩa của tịnh. Này các Tỳ-kheo! Các vị đừng hoa mắt quán tưởng lầm lẫn mà nói rằng, Ta tu quán tưởng vô thường, khổ, không, bất tịnh đối với tất cả pháp vậy.

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng tu ba pháp tu thanh tịnh. Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Ở trong pháp của Ta, ba pháp này cũng không có nghĩa lý chân thật. Vì phân biệt sự lên xuống của tính tự nhiên và sự chịu khó tu tập, nên đảo lộn khổ tưởng lại cho là lạc tưởng, đảo ngược lạc tưởng lại cho là khổ tưởng; đảo lộn tưởng vô thường lại cho rằng thường, đảo ngược tưởng thường lại cho rằng vô thường; đảo lộn tưởng không phải cái ta mà lại cho rằng cái ta, đảo ngược tưởng cái ta lại cho rằng không phải cái ta; đảo lộn tưởng bất tịnh mà lại cho là tịnh, đảo lộn tưởng tịnh mà lại cho rằng bất tịnh. Bốn tưởng đảo ngược như vậy, nếu không nhận biết rõ sự bình đẳng đối với điều sửa đổi này thì không phải là sửa đổi chính đáng. Sửa đổi khổ thành không khổ, sửa đổi vô thường thành thường, sửa đổi vô ngã thành ngã, sửa đổi bất tịnh thành tịnh; bốn thứ sửa đổi này chính là lạc, thường, ngã, tịnh thuộc thế gian; lìa khỏi thế gian cũng có bốn thứ lạc, thường, ngã, tịnh. Các ông nên biết tên gọi ý vị ấy là pháp thế gian, tên gọi ý nghĩa ấy là pháp ra khỏi thế gian.

Khi ấy, các Tỳ-kheo bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Chúng con nên tu ba tưởng và thấy bốn sự đảo ngược như thế nào để giống như lời dạy của Thế Tôn. Chỉ có điều là cầu mong Như Lai ở cõi đời một kiếp hoặc hơn một kiếp, như lời Thế Tôn dạy bảo, chúng con phải tu hành. Nếu Như Lai chẳng trụ lại trong cõi đời, thì làm sao chúng con có thể ở lâu dài cùng với loài rắn độc chung ngôi nhà hầm của mình khi vĩnh viễn cách xa Như Lai! Vị nào sẽ ở trong cõi đời để gánh vác và nắm giữ giáo pháp chân chính?

Chúng con sẽ theo Như Lai vào Nê-hoàn.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Đừng nói lời như thế, đừng nói lời như thế! Tỳ-kheo nên biết rằng, chánh pháp của Như Lai giao cho Đại Ca-diếp, nay Đại Ca-diếp sẽ làm chỗ quay về và nương tựa cho các ông, cũng cứu giúp che chở khắp hết thảy chúng sinh giống hệt như Phật. Tỳ-kheo nên biết, ví dụ như đại vương trông coi và dẫn dắt các nước, nếu ông ấy muốn đi chơi đất nước khác, cần phải lập một vị quan lớn kiêm nhiệm biết mọi việc trong nước như thời gian nhà vua đang trị vì. Ta cũng như thế, ở thế giới này chẳng bao lâu nữa sẽ an lập Ma-ha Ca-diếp. Thế nhưng, này các Tỳ-kheo! Điều tu tập trước tiên là quán tưởng vô thường, khổ, không, vô ngã, đó chẳng phải là tu chân thật. Ví như vào tháng mùa xuân là đến lúc các hạng người buôn bán họp nhau lại vui thích, đùa giỡn dạo chơi trên bờ sông, có một người trong đám người đó đánh rơi mất ngọc lưu ly xuống đáy nước sâu. Bấy giờ, các người lái buôn ai ai cũng nhảy vào nước để tìm vật báu. Có người nhặt được đồ sành, đá sỏi, gỗ trầm rồi bảo rằng của báu thật, họ vui mừng cầm lên khỏi mặt nước mới hay đó không phải là báu thật, do đó ngọc lưu ly kia vẫn còn trong nước, ánh sáng màu sắc soi chiếu đến cùng sáng ngời quá đỗi vượt hẳn ánh sáng mặt trời và mặt trăng. Mọi người trông thấy ánh sáng biết đó là vật báu nổi tiếng, họ khen ngợi vật báu ấy đặc biệt kỳ lạ, ai ai cũng muốn tìm giữ. Khi ấy có một người trí tuệ khôn khéo dùng phương tiện lấy được vật báu chân thật. Như thế, này các Tỳ-kheo! Đối với hết thảy khổ, không, vô thường, bất tịnh, các vị hãy dấy lên ý tưởng dứt bỏ hết những điều đó để thọ nhận lời dạy bảo tu tập của Ta nói. Cũng như người kia, tay cầm vật không phải quý báu mà tự lừa dối mình. Này các Tỳkheo! Các vị đừng tự lừa dối mình giống như người kia mà phí công vô ích, hãy nên giống như người trí tuệ trong đám người lái buôn. Này các Tỳ-kheo! Nên biết, Phật có ngã, có thường, có lạc, có tịnh; những điều các ông tu tập và hết thảy những điều các ông thâu giữ đều là đảo lộn, giống như người kia không nhận ra ngọc báu lưu ly vậy. Này các Tỳ-kheo! Người tu pháp chân thật giống như được châu báu, còn người tu quán tưởng vô thường là tu pháp không chân thật.

Các Tỳ-kheo thưa:

– Như lời Thế Tôn dạy, tất cả các pháp thảy đều vô ngã, nên tu như thế, tu như thế thì khi ấy ngã tưởng liền diệt, ngã tưởng diệt rồi đúng là lúc sắp vào Nê-hoàn. Điều này có ý nghĩa thế nào, chúng con chỉ mong Thế Tôn xót thương nói lại cho.

Đức Phật dạy:

– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Này các Tỳkheo! Các vị muốn trừ bỏ tâm mê vọng của tự thân mình và vạn vật ở ngoài ta nên hỏi như thế. Ví như có ông vua ngu độn, tâm trí kém cỏi, bấy giờ có người thầy thuốc cũng chẳng hiểu biết rõ, ông ta lừa dối cả thiên hạ và nhận lãnh bổng lộc của nhà vua. Người ấy chỉ biết một phương thuốc được làm từ sữa, lại chẳng tài giỏi hiểu biết gì, thế mà ông thường đem vị thuốc này để chữa bệnh. Dân chúng trong nước lại chẳng biết những phương thuốc thích hợp thuộc chứng bệnh về phong đàm, nước dãi, thế mà ông vua ngu độn kia lại bảo rằng ông ấy là thầy thuốc bậc trên.

Bấy giờ có người thầy thuốc sáng suốt, thông hiểu tám thứ học thuật, từ phương xa đến nói với người thầy thuốc cũ: “Ông hãy làm thầy tôi, tôi làm học trò, tôi sẽ theo ông để học”.

Người thầy thuốc cũ nói: “Quý quá! Tôi sẽ chỉ dạy cho ông phương thuốc uống vào không chết, ông nên chăm chỉ học tập suốt bốn mươi tám năm, sẽ khiến ông biết hết thuật y học cao hơn cả”.

Thế rồi, ông ấy đem người thầy thuốc đến sau vào cung vua, ông vua ngu độn này và người thầy thuốc đến sau cũng mến thích nhau, người thầy thuốc đến sau kia bèn nói với nhà vua: “Tâu đại vương! Đại vương phải nên học các môn kỹ nghệ”. Vua hết sức vui mừng, liền theo người ấy chịu sự chỉ dạy để học tập, dần dần tăng thêm trí tuệ, vua mới biết người thầy thuốc cũ không có trí và lừa dối, vua ra lệnh đuổi người thầy thuốc cũ ra khỏi nước, lại tăng thêm lòng kính trọng người thầy thuốc đến sau. Người thầy thuốc đến sau kia biết thời đã đến, lại tâu với nhà vua: “Thần có việc muốn thỉnh cầu, xin Đại vương chấp thuận theo ý của thần”.

Vua trả lời: “Được”.

Người thầy thuốc nói: “Tâu đại vương! Phương thuốc được làm từ sữa của người thầy thuốc kia rất độc hại và nguy hiểm, đại vương không thể uống thuốc đó nữa mà phải bỏ cách thức chữa bệnh này đi”.

Lập tức, vua nghe theo, ra lệnh cho dân chúng khắp cả nước từ nay trở đi, ai uống thuốc sữa thì sẽ bị trừng phạt nặng nề. Bấy giờ, người thầy thuốc đến sau bèn đem năm loại thuốc có năm thứ mùi vị là ngọt, chua, mặn, đắng và cay dùng để trị liệu tất cả bệnh. Khi ấy nhà vua mắc bệnh, bèn mời thầy thuốc đến chữa. Thầy thuốc xem bệnh của vua phải dùng thuốc sữa để trị, ông liền nói với vua: “Chỉ có thuốc sữa là có thể khiến cho vua không chết”.

Vua nói với người thầy thuốc: “Nay ông điên rồi chăng? Trước kia ông nói thứ thuốc ấy là độc hại, khiến ta đuổi người thầy thuốc kia, thế mà nay ông lại bảo ta phải uống thuốc sữa”.

Người thầy thuốc đến sau trả lời: “Chẳng phải vậy, tâu đại vương! Lời nói này có ý. Ví như tấm ván có dấu vết loài trùng ăn tựa hồ tên chữ của nhà vua. Người không biết chữ bảo là thật, còn người giỏi viết chữ mới biết đó không phải là chữ chân thật. Người thầy thuốc trước kia cũng thế, tuy hòa hợp thuốc sữa song người kia chẳng biết phân biệt điều thích ứng của thời tiết. Nên biết rằng, thuốc sữa có khả năng giết người song cũng không giết người. Thuốc không giết người là khi nuôi bò sữa phải thả bò ở nơi đồng cỏ bát ngát không có cỏ độc hại, chọn nước rồi mới cho bò uống, thêm nữa không lấy gậy đánh đập khi theo nó ra vào. Khi cấu thành sữa kia, bọt không sủi lên, nên biết thứ sữa này cứu được hết thảy bệnh tật, là phương thuốc uống vào không chết”.

Vua nói: “Tốt lắm”.

Nói xong nhà vua liền uống thuốc sữa. Khi ấy, dân chúng nghe tin vua uống thuốc sữa, ai nấy đều sợ hãi, họ đi đến chỗ vua nói: “Ông thầy thuốc này chẳng phải là quỷ đó sao? Trước đây, ông ấy nói thuốc giết người, nay ông khiến đại vương uống thuốc sữa trở lại”.

Khi ấy, nhà vua liền giảng nói về sự lên và xuống của sữa cho dân chúng, vua và dân chúng tăng thêm lòng cung kính và cung phụng cho người thầy thuốc đến sau, họ vâng theo cách sử dụng ấy và thường uống vị thuốc sữa.

Các Tỳ-kheo nên biết! Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,

Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự

Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn là bậc vua lớn trong hàng thầy thuốc, xuất hiện và làm hưng thịnh cho cõi đời, nhằm phá hoại thuật chữa bệnh tà vạy của ngoại đạo, nên Như Lai cùng với vị vua của chúng sinh gần gũi và tập làm quen với nhau dần dần, khi biết hai vị đã mến thích nhau rồi, Như Lai liền dạy bảo, khiến vị vua ấy bỏ sự thọ lãnh và tà vạy của ngoại đạo mà nói với vị vua ấy: “Không có ta, người, chúng sinh và thọ mạng, như loài trùng ăn gỗ ván thành chữ viết, những kẻ theo đạo giáo khác nhận ta và người mà nói không có cái ngã, tất cả chúng sinh vâng theo lời dạy của Như Lai, từ người này sang người khác chỉ bảo lẫn nhau đều nói không có cái ngã, đây là vì Như Lai biết phải lúc phương tiện cứu giúp chúng sinh, nên nói tất cả pháp, tính cách của nó là không có cái ngã, không phải tự ta và người mà thế gian thọ nhận, do đó nói tất cả pháp, bản tính của nó là không có cái ngã. Khi ấy Ta lại nói ngã, như người thầy thuốc tài giỏi kia hiểu rõ cách thức sử dụng thuốc sữa. Nên biết cái ngã ấy là chân thật, cái ngã ấy thường trú, không phải là pháp thay đổi, không phải là pháp phải diệt. Cái ngã ấy chính là đức, ngã là tự tại. Như người thầy thuốc giỏi về vị thuốc sữa, Như Lai cũng vậy, Ta nói pháp chân thật cho các chúng sinh, tất cả bốn chúng hãy nên học như thế”. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:

Đối với các giới luật trong giáo pháp, nếu các vị có điều nghi hoặc thì hãy nên hỏi Như Lai.

Các Tỳ-kheo thưa:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Chúng con đã tu các sự tu tập như trên, hiểu biết được thân tướng thảy đều không tịch.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Các ông đừng như bậc Nhất thiết trí nói mà nói rằng: Ta tu cả thân tướng thảy đều không tịch.

Phật lại nói với các Tỳ-kheo:

– Đối với giới luật trong giáo pháp, các vị còn có điều gì nghi hoặc thì phải nên hỏi lại.

Các Tỳ-kheo thưa:

– Bạch Thế Tôn! Ý nghĩa bình đẳng của Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác không phải là cảnh giới của ngã, chúng con đâu dám hỏi lại. Những điều chư Phật nói là điều không thể nghĩ bàn, do đó chúng con và các chúng dự hội thảy đều không thể nào hỏi lại Đức Như Lai. Bạch Thế Tôn! Ví như có người sống thọ một trăm hai mươi tuổi, mắc bệnh lâu ngày, thân thể ốm yếu nằm liệt giường chiếu. Có một người trượng phu không có trí, của cải giàu có khôn xiết, ông ta đi đến chỗ người mắc bệnh đang nằm trên giường kia rồi nắm tay người bệnh, nói với người ấy: “Này thiện nam! Ông nên nhận lấy kho tàng châu báu của ta, ta sắp đi đến đất nước xa xôi, có lẽ trải qua mười năm, hoặc hai mươi năm. Sau này khi ta trở về, ông phải gộp lại trả hết cho ta”.

Bấy giờ, người bệnh kia không có con cái nối dõi, không có người họ hàng thân thuộc, bệnh tình chuyển đổi tăng thêm trầm trọng, thế rồi ông ta qua đời, của cải của người đi xa gửi đều mất mát. Người chủ giàu có sau khi trở về muốn đi đến người kia để đòi của cải song chẳng biết ở nơi nào. Như thế, Thế Tôn bảo với chúng con rằng, đối với các giới luật trong giáo pháp, nếu có điều gì nghi ngờ thì nay đều nên hỏi. Nếu như hàng Thanh văn hỏi Như Lai, e rằng chánh pháp này không được ở đời lâu dài. Lại nữa, chúng con chẳng biết phải nên hỏi thế nào, để có thể khiến cho tất cả chúng sinh đều được nhờ phước của Phật. Do đó, bạch Thế Tôn! Nay chúng con không thể hỏi lại nữa.

Như có người sĩ phu, thầy tướng số xem bói cho ông ấy nói rằng, ông ấy sống thọ đến một trăm hai mươi tuổi, quyến thuộc thành tựu, giàu có của cải không xiết. Lại có người đến nói với sĩ phu: “Ta có tiền của châu báu, nay đem gởi cho ông, ông nên chi ra thu vào để sinh lợi tức cho ta. Hoặc giả trải qua mười năm, hoặc hai mươi năm, lúc ta trở về ông hãy trả hết toàn bộ cho ta”.

Khi ấy, người sĩ phu kia liền nhận lấy tiền của rồi sinh lợi cho người ấy. Sau đó người chủ trở về rồi đến đòi tiền, sĩ phu đều trả lại toàn bộ cho người chủ. Như thế, bạch Thế Tôn! Tôn giả A-nan và các vị Thanh văn v.v... hộ trì pháp tạng mà Như Lai nói ra, muốn làm cho tồn tại lâu dài thì không có lý như thế. Lý do thế nào? Vì các vị ấy thuộc thừa Thanh văn. Chỉ có các Đại Bồ-tát như Ca-diếp v.v... mới khiến các vị ấy hỏi han ngõ hầu gánh vác và vâng giữ pháp tạng của Như Lai trong trăm ngàn muôn kiếp, tất cả chúng sinh đều sẽ được nhờ phước. Do đó, bạch Thế Tôn! Thế Tôn nên khiến hàng Bồ-tát vì chúng sinh, nên thỉnh cầu Thế Tôn giải quyết điều nghi ngờ, không phải hạng người tầm thường như chúng con vốn kham nổi.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Này các Tỳkheo! Các vị được pháp vô lậu, thành bậc A-lahán, cho nên có khả năng hiểu sâu ý Ta mà nói lên lời chân thật này. Có hai nhân duyên sẽ làm cho hàng Bồ-tát gánh vác và nắm giữ chánh pháp, có thể khiến cho pháp tạng Đại thừa ở mãi cõi đời, lại còn khiến cho hết thảy chúng sinh đều được nhờ ơn phước ấy.

Phẩm 5: SỐNG LÂU

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo khắp cả đại hội:

– Này các thiện nam, thiện nữ! Ở trong ba pháp (giáo pháp, hành pháp và chứng pháp) và các lời giảng dạy về giới luật, nếu có điều gì còn thắc mắc thì nay các vị đều phải hỏi.

Đức Thế Tôn nói đi nói lại như thế mấy lần.

Lúc này, trong hàng ghế ngồi có Bồ-tát Na-latụ-lạc, người họ Ca-diếp, dòng Bà-la-môn, vâng nhờ uy đức thần lực của Đức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục để hở vai bên phải, rập đầu lễ dưới chân Phật, đi quanh trăm ngàn vòng, quỳ gối phải chạm đất, dùng hương hoa cõi trời cúng dường xong rồi bạch:

– Bạch Thế Tôn! Con có điều muốn hỏi, xin Thế Tôn từ bi thương xót diễn bày rộng rãi cho.

Phật bảo Đại Bồ-tát Ca-diếp:

– Tùy ý ông hỏi điều gì, Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác sẽ giảng nói cho ông.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Những điều con hỏi đều là được nhờ sức uy thần của Như Lai, cũng là do gốc rễ tốt lành của tất cả chúng sinh. Hôm nay, Như Lai lấy bốn chúng hiền đức lớn làm quyến thuộc, lấy các đại sư tử làm quyến thuộc, lấy các kim cương sĩ làm quyến thuộc, lấy biển cả trí tuệ tuyệt vời làm quyến thuộc. Còn hạng phàm phu thấp kém như chúng con có điều muốn hỏi, song vì không được nhờ thần lực của Như Lai trợ giúp thêm, nên chúng con không thể nêu ra câu hỏi. Vì thế, nay con có điều dám hỏi, nên biết đều là nhờ thần lực của Như Lai.

Ở trước Đức Phật, Ca-diếp liền dùng kệ hỏi:

Nhân gì được sống lâu
Thân kim cương chẳng hoại
Thọ trì thế nào đây
Nghĩa khế kinh rất sâu.
Bồ-tát dạy chúng sinh
Nói pháp có mấy thứ?
Hạng người nào kham được
Gọi là nương chân thật.
Tuy chẳng phải La-hán
Lượng ngang với La-hán
Thiên ma Như Lai nói
Làm sao phân biệt được.
Làm sao biết bình đẳng
Nghĩa Bốn thánh chân đế
Và bốn tướng đảo ngược
Hành, khổ, không, vô ngã.
Làm sao thấy Bồ-tát
Khó thấy tánh Như Lai
Làm sao được đầy đủ
Hiểu rõ nghĩa “bán tự”.
Làm sao khéo hóa hiện
Như nhạn hạc xá-lợi
Làm sao được trí tuệ
Như tú vương nhật nguyệt.
Làm sao vì Bồ-tát
Nguyện thương nói quyết định
Các pháp môn như vậy
Nghĩa rất sâu vô lượng.
Điều chúng con nên biết
Nên nêu câu hỏi này
Đâu dám hỏi Như Lai
Cảnh giới của chư Phật.

Phật bảo Ca-diếp:

– Hay thay! Hay thay! Này thiện nam! Người nào dần dần bước lên thềm bậc Nhất thiết chủng trí của Như Lai, mới có thể hỏi nghĩa lý kinh điển rất sâu xa này. Từng phương diện một, chư Phật hiểu rằng a-tăng-kỳ cát sông Hằng, từ khi có nguồn gốc đến nay, chư Phật tự ở thế giới mình, ngồi nơi gốc cây Đạo thành bậc Đẳng Chánh Giác, con số ấy rất nhiều không đếm xuể. Các vị ấy vốn dĩ là Bồ-tát đắc đạo Bồ đề, lần lượt khai phát sự tỉnh thức, thảy đều là do họ hỏi về pháp tạng sâu xa của Như Lai. Hôm nay các ông cũng như vậy, các ông có thể lấy cảnh giới Nhất thiết chủng trí mà hỏi Ta, ngõ hầu đem lại an vui cho tất cả chúng sinh.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con không thể nào gánh vác nổi sự việc xin hỏi Thế Tôn về cảnh giới Nhất thiết chủng trí. Ví như con muỗi, con ve, chúng nó không thể bay vượt hư không để sang bờ bên kia biển cả, chúng nó cũng không thể nào uống hết nước biển. Cũng như thế, con không thể vượt qua trí tuệ rất mực sâu rộng dường hư không và biển cả của Thế Tôn mà không có nỗi sợ hãi. Lại như viên ngọc sáng trong búi tóc của vị đại vương, người giữ kho tàng của đại vương tăng thêm sự trông nom giống như chăm giữ đỉnh đầu của mình. Cũng như thế, nay con hỏi chánh pháp rất sâu xa của Như Lai, Như Lai sẽ giải quyết mạng lưới ngờ vực ấy mà giảng nói rộng rãi.

Phật bảo Ca-diếp:

– Này thiện nam! Nay Ta sẽ nói về nghiệp của sự sống lâu, Đại Bồ-tát thực hành nghiệp này để làm nhân cho bậc Đẳng giác. Này thiện nam! Ta cũng nhờ thực hành nghiệp kia và giảng nói rộng rãi cho mọi người, nên chứng đắc A-nậu-đa-latam-miệu-tam-bồ-đề. Ví như đại vương, đứa con của ông phạm tội bị nhốt tại nhà giam, vì đứa con ấy nên ông tha tội cho những người tù khắp cả để cứu đứa con của mình. Bồ-tát tu nghiệp sống lâu như thế, nhớ nghĩ tất cả chúng sinh giống như đứa con một. Đối với các chúng sinh, Bồ-tát đem tâm đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, vâng giữ giới hạnh thanh tịnh, không làm hại chúng sinh, xây dựng tất cả chúng sinh ở dấu tích năm giới cấm và mười nghiệp thiện. Tùy theo sức lực của mình, Bồ-tát có thể cứu giúp địa ngục, quỷ đói, súc sinh, để cắt đứt hết thảy nghiệp duyên đường ác. Giải thoát cho người chưa giải thoát, hóa độ cho kẻ chưa được độ, chí hướng và sự suy nghĩ vững mạnh thành trí thông đạt về pháp phương tiện. Do thực hành nghiệp này mà được quả dựa theo và quả báo do hành động tạo tác, vị ấy sống lâu không cùng tột, thành trí tuệ rất tuyệt diệu, sống tự tại và không có nỗi sợ hãi, như thế Bồ-tát mãi mãi lìa khỏi khuôn pháp của sự chết.

Ca-diếp bạch Phật:

– Như lời Thế Tôn nói, Đại Bồ-tát bình đẳng xem chúng sinh dường như đứa con một, điều này có ý nghĩa gì? Nếu nói Đại Bồ-tát bình đẳng xem chúng sinh như con một, chẳng lẽ có ý này. Vì sao? Vì trong pháp Phật, hoặc có kẻ gây ra năm tội trái ngược với đạo lý, nói xấu chánh pháp, đối với hạng chúng sinh này, đều phải tu tập ý tưởng con một chăng?

Đức Thế Tôn bảo:

– Đúng thế, này Ca-diếp! Ta coi tất cả chúng sinh giống như La-hầu-la.

Ca-diếp bạch Phật:

– Nếu đúng như vậy, thế thì tại sao một hôm nọ, vào ngày mười lăm hàng tháng, giữa chúng Tăng thanh tịnh, Bồ-tát trong đại hội, có một người chưa thọ giới Cụ túc lén vào nghe trộm giới luật, khi ấy kim cương lực sĩ ngước nhìn thần chỉ của Phật, bèn cầm cái chày kim cương đập nát khiến cho người kia dường như bụi bặm, sao gọi là bình đẳng coi tất cả chúng sinh như con.

– Đừng nói như thế, đồng tử kia là người biến hóa thành mà thôi, muốn chánh pháp sáng tỏ thì phải dẹp bỏ kẻ phạm tội, để răn đe người đời sau, khiến cho kẻ ôm lòng vụng trộm và tâm xấu ác của hạng Nhất-xiển-đề phải ẩn núp. Giống như ông quan lớn của nhà vua bắt giữ kẻ phạm pháp, tùy theo tội trạng của kẻ ấy mà trừng trị. Như Lai cũng như vậy, có người phá hoại giáo pháp, liền đem đạo lý để trừng phạt, khiến cho kẻ phạm vào điều xấu ác tự thấy quả báo của tội lỗi. Như Lai thường đem ánh sáng từ thân mình để an ủi chúng sinh, không e sợ cũng chẳng làm hại. Tuy có chúng sinh không được nhờ ánh sáng, nhưng đến chết, đối với người kia, Như Lai cũng không bỏ lòng đại bi.

Lại nữa, này Ca-diếp! Nếu các ông có thể khéo hiểu ý nghĩa vi diệu bí mật của Như Lai, thì nay Ta sẽ nói lại. Ca-diếp! Ví như ở phương khác có các Tỳ-kheo giữ giới thanh tịnh, đạo đức thuần nhất, uy nghi đầy đủ. Đức Như Lai ở phương kia đã vào Nê-hoàn, các chúng Tỳ-kheo không có người gánh vác nắm giữ. Bởi vì chúng Tăng kia không có vị Đại sư, cho nên người không có đạo đức làm não hại các vị Tỳ-kheo. Bấy giờ, có vị quốc vương tốt rất ưa thích pháp Phật, trừng trị kẻ xấu ác kia, hoặc là đuổi người kia ra khỏi đất nước. Nhờ đuổi người ác kia, làm cho chánh pháp được đứng vững yên ổn, cho nên ông vua gặt hái được phước đức không lường. Lý do ấy thế nào? Vì ông vua trừng phạt lỗi nặng của người kia và xây dựng giáo pháp lớn lao. Lại nữa, như nhà người mọc lên cây cối độc hại, thì hãy nên mau chóng cắt bỏ và tiêu diệt. Như thế, người phạm giới và làm loạn pháp ở trong pháp Phật, như chủ và tôi tớ tai hại đều phải đuổi ra khỏi, nếu không đuổi họ ra khỏi, nên biết hạng người ấy cách giáo pháp của Ta quá xa, nếu người nào đuổi họ ra khỏi thì chính là đệ tử của Ta.

Ca-diếp bạch Phật:

– Vì ý nghĩa ấy, cho nên chẳng bình đẳng coi chúng sinh giống như con một. Mổ xẻ và quán xét một cách đồng đều thì lời nói này trái nghịch. Nếu nói rằng Như Lai trị người phá hoại giáo pháp thì làm sao có ý nghĩa này?

Phật bảo Ca-diếp:

– Như nhà vua, quan lớn, trưởng giả, cư sĩ sinh ra đứa con đoan chánh, thông minh, sáng láng, trí tuệ khôn khéo, cả thế giới chỉ có một không hai, được mọi người yêu mến quý trọng. Người cha đem con mình đi đến nhà thầy để xin cho con học các môn kỹ nghệ, ông thưa với người thầy: “Tôi tuy sinh ra đứa con phước đức và đoan chánh này song nó chưa học kỹ nghệ, xin thầy dạy dỗ nó học hành giúp tôi, ắt hẳn khiến nó được thành tựu. Nếu nó không giữ đúng phép tắc, thì thường xuyên đánh roi vọt thêm. Tôi có bốn đứa con đều đến học với thầy, cho dù ba đứa con bị gậy đánh mà chết, chỉ có một đứa con còn lại nên phải chịu khó trông nom việc học, cốt yếu làm cho nó thành tựu, thì tôi vẫn không ân hận”.

Phật bảo Ca-diếp:

– Ý ông nghĩ thế nào? Cha mẹ và thầy vất vả dạy dỗ đứa con ấy đến nỗi mất mạng, cha mẹ và thầy phạm tội giết người chăng?

Ca-diếp trả lời:

– Bạch Thế Tôn! Không phải vậy! Vì yêu thương và lo nghĩ con cái, muốn cho con cái được thành tựu, tuy thêm roi gậy đau đớn, song họ không có ý ghét hại, phước ấy vô lượng, không có mang tội giết người.

Phật dạy:

– Như thế, này thiện nam! Như Lai cũng vậy, trong số đó có người phạm giới và phá hoại pháp, Ta xem chúng như con với tâm đồng đều, xót thương răn dạy, muốn làm cho kẻ phạm giới và phá hoại pháp thành tựu, nên phải nhọc sức trông nom dạy dỗ, Ta không có lỗi. Do đó nên biết rằng, Đại Bồ-tát bình đẳng xem chúng sinh, nghĩ tưởng như con một, tu tập tâm bình đẳng Tam-muội, như thế thì không ôm lòng làm hại, đó là nghiệp sống lâu của Bồ-tát, trí tuệ tự tại.

Ca-diếp bạch Phật:

– Tưởng nghĩ tất cả chúng sinh như đứa con một, Đại Bồ-tát tu hành tưởng này rồi được sống lâu chăng?

Đức Phật dạy:

– Đúng thế.

Ca-diếp lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Chỉ có điều con ước mong rằng Thế Tôn đừng nói ý nghĩa này như bắt chước trẻ con đùa giỡn bằng hai thứ tiếng nói vậy. Bạch Thế Tôn! Ví như trẻ con đùa giỡn trong đại hội, nói rằng khen ngợi và cúng dường cho cha mẹ đủ thứ, tự nhiên trở về nhà mình thì lại bất hiếu ngược ngạo, làm rối loạn buồn bực hai đấng sinh thành, chẳng đền trả ân đức nuôi nấng. Thế Tôn cũng như thế, Ngài nói Đại Bồ-tát coi tất cả các chúng sinh nghĩ như đứa con một, nhờ công đức ấy liền được sống lâu, trí tuệ tự tại, thường trụ không chết. Thế nhưng, nay tuổi thọ của Thế Tôn và người trong cõi đời giống nhau, lẽ nào chẳng phải là Thế Tôn thường ôm ý tưởng dao gươm đối với tất cả chúng sinh ở trong vô số kiếp chăng? Kỳ lạ thay! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn chịu quả báo làm hại chúng sinh với tuổi thọ ngắn ngủi này, giống với thọ mạng trăm tuổi của người đời kia, thì Thế Tôn còn không phải là Bồ-tát, huống nữa là đấng Như Lai.

Phật bảo Ca-diếp:

– Ông đừng phát ra lời lẽ thô lỗ này ở trước Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác. Thiện nam! Ông nên biết, Như Lai sống lâu không lường được, nên biết Như Lai là pháp thường trụ, nên biết Như Lai không phải là pháp thay đổi, nên biết Như Lai chẳng phải là pháp phai mờ tiêu diệt.

Ca-diếp bạch Phật:

– Làm sao biết được Như Lai sống lâu? Phật bảo Ca-diếp:

– Như nước trong tám con sông lớn và các con suối thuộc cõi Diêm-phù-đề thảy đều chảy về biển, không có chỗ cùng tột, nên biết biển cả là chỗ dung nạp của sông suối. Như Lai cũng vậy, tất cả thọ mạng của chư Thiên và người đều trở về với biển cả thọ mạng của Như Lai, do ý nghĩa đó, nên biết tuổi thọ ấy của Như Lai là vô lượng.

Lại nữa, này Ca-diếp! Ví như hư không thường trụ không biến đổi, sự thường trụ của Như Lai cũng như thế. Cũng như đề hồ là vị thuốc mát mẻ, có thể trừ diệt nóng sốt phiền não, Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thường đem vị thuốc diệu pháp đề hồ mát mẻ, để diệt trừ hết những hoạn nạn cho chúng sinh, vì thế Như Lai thường trụ trì mát mẻ, không có các phiền não tai họa.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu đúng là Như Lai sống lâu không lường, lại muốn cho tất cả chúng sinh an vui, thì hôm nay Thế Tôn phải nên ở cõi đời một kiếp hoặc hơn một kiếp, để cho nước chánh pháp mát mẻ mưa xuống khắp cả chúng sinh. Chúng con chỉ ước mong Thế Tôn xót thương mà ở cõi đời.

Phật bảo Ca-diếp:

– Đừng dấy lên ý tưởng tận diệt đối với Như Lai. Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bàdi và những người ngoại đạo vẫn còn năm đức, thì họ có thể sống lâu ở đời một kiếp hoặc hơn một kiếp, họ đi dạo giữa hư không, ngồi nằm tự tại. Sườn bên trái ra lửa, sườn bên phải ra nước, từ thân thể ra khói, họ có thể làm cho thân thể mình to lớn mà không có chỗ cùng cực và nhỏ bé vào nơi không có khe hở. Người có năm đức này liền được sức thần thông tự như thế, huống chi là Như Lai thành tựu tất cả vô lượng công đức, mà sức lực không thể ở cõi đời một kiếp hoặc hơn một kiếp hay sao? Do đó, nên biết Như Lai thường trú, không phải pháp biến đổi và pháp phai diệt. Nên biết thân này không phải là thân uế thực, thân ứng hóa ở thế giới này như cây thuốc độc nay nên vứt bỏ. Cho nên, này Ca-diếp! Nên biết pháp thân của Như Lai là thường trú, không phải là pháp biến đổi, không phải là pháp phai mờ tiêu diệt, ông hãy giảng nói rộng rãi cho mọi người.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế gian và xuất thế gian khác nhau những gì? Đức Phật dạy:

– Như Lai thường trú, người đời cũng nói thường trú. Ca-diếp nói rằng Phạm thiên trước kia, vị thần ấy lại thường chu du tới lui. Nếu Như Lai thường trú thì chưa thấy sự khác nhau giữa pháp thế gian và pháp lìa khỏi thế gian.

Phật bảo Ca-diếp:

– Ví như ông trưởng giả có một con bò sữa giao cho người chăn bò, ông ra lệnh cho người ấy chăn nuôi bò phải thả riêng ở đồng bằng bát ngát, nơi không có cỏ độc hại, không được buộc chung một chuồng cùng với đàn bò, ông trưởng giả muốn được bơ sữa tốt để cung cấp cho bà con thân thuộc. Như thế ít lâu người trưởng giả ấy qua đời, rồi chẳng bao lâu sau đó, kẻ chăn bò kia lại chết. Khi ấy có người dân quê mùa đi chơi trong đầm bắt được con bò sữa này, bèn vắt sữa con bò ấy để tự cung cấp cho cuộc sống, ông muốn làm bơ sữa song chẳng biết cách thức sử dụng, ông ta chứa sữa vào đồ đựng xấu và độ lạnh ấm không thích hợp, rốt cuộc không thành sữa mà cũng chẳng được bơ. Lại nữa, mùi vị sữa bị hỏng, sữa ôi đông đặc và đục ngầu, vậy mà ông cũng gọi đó là bơ sữa, nghĩ là bơ sữa rồi giữ lấy để dùng.

Sự ngu si của chúng sinh cũng như vậy, ao đầm chánh pháp tưới thấm nghĩa lý vi diệu rộng sâu,

Phật đã diệt độ giống như ông chủ con bò qua đời, những chúng sinh kia đang ở vùng đầm rộng sinh tử giống như người quê mùa kia, đối với chánh pháp của Phật, họ đem trí tuệ thế tục tưới thấm uy nghi giới luật rồi dấy lên tư tưởng đảo ngược, bèn nói có chúng sinh, ngã, nhân, thọ mạng; nói đây chính là giải thoát, đây chính là thường trú, tích tập quen các kiến chấp khác, không được giải thoát sinh tử bằng con đường cốt yếu, xa lìa sự hành xử luật nghi thuộc chân đế, không biết Như Lai chính là pháp thường trụ. Như người quê mùa ngu si không được năm thứ mùi vị thích hợp của sữa bò, tự cho là mình dùng bơ sữa, song thực ra người ấy chẳng được một thứ mùi vị trong năm thứ mùi vị của sữa. Chỉ dính mắc đấng tạo hóa Phạm thiên thế tục rồi nói đó là thường, là chúng sinh, là giải thoát. Nhân vì mong cầu Phạm thiên, họ tu chút ít phạm hạnh, lìa xa tà dâm nên hiếu dưỡng cha mẹ, một ít người được sinh trên cõi trời, món ăn ưa thích tự nhiên, như người quê mùa kia dùng thứ sữa ôi ấy. Này thiện nam! Phạm hạnh thế tục cúng dường cha mẹ song chẳng biết quay về Ba ngôi báu, nên biết rằng, quả này không phải là hữu thường. Cúng dường cha mẹ, không tà dâm v.v..., có thể được như điều Phật hóa hiện vô thường là pháp thế tục mà thôi. Chỉ có Như Lai thường trụ bất diệt. Cho nên, này thiện nam! Nên làm phương tiện xa lìa các hồ nghi, chăm chỉ tư duy về Như Lai chính là pháp thường trụ.

Lại nữa, này thiện nam! Bấy giờ, người nhà quê chăn nuôi con bò sữa kia, gặp dịp Chuyển luân Thánh vương xuất hiện làm hưng thịnh cho đời. Phép vua Chuyển luân cần phải có con bò sữa, do lực uy đức của vua nên khiến cho người quê mùa kia phải rời bỏ con bò. Con bò đi nốt quãng đường, tự nhiên đi đến chỗ bầy tôi của vua coi giữ kho tàng. Người bầy tôi coi giữ kho báu biết con bò sữa này chắc chắn sinh sản ra loại sữa có mùi vị tinh túy thích hợp với năm thứ mùi vị của sữa, nhất định chính là phước đức của Thánh vương cảm ứng. Phật là đấng Pháp vương, lúc xuất hiện ở đời cũng như vậy. Giống như con bò sữa kia vốn được thọ nhận âm thanh pháp thường của thế gian, biến đổi thành âm thanh pháp thường của Như Lai, nó bẻ gãy phá tan khiến người quê mùa phàm tục bỏ bò mà đi bởi âm thanh pháp thường của bò sữa. Thế rồi nó đi đến đứng ở nước người bầy tôi coi giữ kho báu là đệ tử của Như Lai, nhờ sức mạnh phước đức của chúng sinh nên khiến cho con bò sữa pháp thường sinh sản ra những thứ sữa luôn có mùi thơm. Cho nên, này thiện nam! Nên biết pháp thường của Như Lai không phải là pháp biến đổi, hạng phàm phu ngu si trong thế gian vốn không thể nào hiểu rõ, đều là nhờ âm thanh thường trụ của Như Lai nên được biết mà thôi. Những người ở thế gian kia phải nên dấy lên sự suy nghĩ như thế. Nói đến âm thanh pháp thường tức là âm thanh pháp thường của Như Lai. Từ âm thanh này nên biết Như Lai vô số vô lượng. Như thế, này thiện nam và Thiện nữ! Nếu nắm giữ hai chữ thường trụ của Như Lai, trải qua nhiều kiếp tu tập, thì những chúng sinh như vậy chẳng bao lâu sẽ thành đạo Đẳng Chánh Giác giống như Ta không khác. Này thiện nam! Ông hãy cẩn thận chớ buông lung, nhận lãnh nắm giữ hai chữ “thường trụ” một cách vững chắc. Hôm nay, Như Lai sẽ nhập Nê-hoàn, đây là pháp nhất định của hết thảy chư Phật.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Những gì là pháp? Pháp có ý nghĩa như thế nào?

Con mong muốn được nghe pháp nhất định và tánh của nó thế nào?

Phật bảo Ca-diếp:

– Nay ông muốn nghe pháp tánh chăng? Cadiếp bạch Phật:

– Con mong muốn được nghe Thế Tôn giảng nói rộng rãi. Phật bảo Ca-diếp:

– Pháp tánh là xả thân. Ca-diếp bạch Phật:

– Xả thân là tăng thêm sự bàn luận vì nghi ngờ. Phật bảo Ca-diếp:

– Ông đừng quán xét như vậy mà nói rằng, Như Lai xả thân rồi lại thọ thân.

Ca-diếp bạch Phật:

– Con không hỏi sự thọ thân. Phật bảo Ca-diếp: – Ông chớ nói năng như thế, các pháp dứt bỏ vậy. Lại nữa, này Ca-diếp! Vô sắc ấm kia thuộc cõi trời Phi tưởng, các chúng sinh ấy trụ như thế nào? Chết thế nào? Hiện thế nào? Các âm tưởng kia hồi chuyển thế nào? Ấy là cảnh giới của Phật, ông phải nên hỏi; ông cũng cần nên hỏi việc Ta lại thọ thân nữa.

Nếu người ta hỏi ông về hình sắc, ý tưởng, chỗ ở, sự hưởng thụ vui sướng của chúng sinh trong cõi Vô tưởng kia như thế nào, thì ông trả lời làm sao? Nhưng không phải là cảnh giới của hàng Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát theo kịp, mà chỉ là cảnh giới của Như Lai hành xử.

Lại nữa, này thiện nam! Thân Như Lai so sánh hơn hẳn các cảnh giới đó và lại khó biết nữa, không phải là cảnh giới của các Thanh văn, Duyên giác, theo kịp. Như Lai lấy nơi nào làm chỗ trụ, Như Lai lại hiện thân thế nào? Thân phương tiện không thể nghĩ bàn của Như Lai không phải là cảnh giới của ông. Này thiện nam! Đối với Ta, ông chỉ cần suy nghĩ thế này, Như Lai thường trụ, Pháp và Tăng cũng vậy. Ba sự việc này không phải là pháp vô thường, đó là pháp thường trụ, không thay đổi, mát mẻ, chân thật, xa lìa những phiền não và tai họa. Nếu không như thế, thì thiện nam và thiện nữ kia thảy đều không thành tựu đối với Ba pháp quay về một cách thanh tịnh, nên cần phải tu pháp thường trụ không thể nghĩ bàn như thế.

Này thiện nam! Ví như có cây này thì chắc chắn có cái bóng này; nếu không có cây kia thì tất nhiên cũng không có cái bóng kia; nếu chẳng trông thấy cây mà nói rằng thấy bóng cây thì thật là vô lý. Như thế, đã có Như Lai thì nhất định Như Lai thường làm cây lớn cho hết thảy, che chở chúng sinh và làm nơi nương tựa cho chúng sinh. Nếu Như Lai là vô thường, thì không gọi là bậc Ứng Cúng làm chỗ nương dựa cao nhất cho hàng trời, người.

Ca-diếp bạch Phật:

– Đức Thế Tôn nghĩ thế nào, trong đêm tối tăm có bóng cây hiện ra chăng?

Đức Phật dạy:

– Đã có cây ấy ắt có bóng, sao gọi là không có bóng? Chỉ không phải con mắt thịt của phàm phu thì mới có thể thấy điều đó mà thôi. Do đó nên biết rằng, đã có Như Lai thì mới là thường trụ, không phải là pháp biến đổi, chẳng phải là pháp phai mờ tiêu diệt, giống như bóng cây kia, con mắt thịt không thể thấy được trong đêm tối tăm. Phật nhập Nê-hoàn rồi, thường trụ không thay đổi, cũng như thế, con mắt thịt chẳng thấy, nhưng kẻ vọng tưởng kia dấy lên ý nghĩ vô thường đối với Như Lai. Thiện nam! Nếu cha mẹ các ông cho đến những người các ông tôn trọng dấy lên ý tưởng không phải là thường đối với Phật Pháp Tăng, thì hết thảy đều không thanh tịnh đối với ba pháp quay về, nay ông nên đem ba pháp thường trụ mà dạy bảo khuyên nhủ họ, khiến cho họ được thành tên gọi Bồ-tát tam quy ở trong ba pháp.

Ca-diếp bạch Phật:

– Thưa vâng! Bạch Thế Tôn! Kể từ hôm nay, con sẽ bắt đầu đem Ba pháp thường trụ Phật Pháp Tăng, nhằm gợi mở sự thức tỉnh cha mẹ đời này cho đến cha mẹ bảy đời, đều khiến cho các vị ấy kính vâng giữ pháp thường trụ. Kỳ lạ thay! Bạch Thế Tôn! Con sẽ nhận được sự học tập Ba pháp thường trú và giảng nói rộng rãi cho mọi người. Nếu những người kia không chịu học giáo lý chân thật vi diệu này, nên biết hạng người ấy là kẻ mê hoặc vô thường. Thế nhưng ngày ngày ba thời con sẽ giảng nói cho họ hiểu, khiến cho họ được gần gũi pháp ấy.

Đức Phật dạy:

– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Này thiện nam! Người bảo vệ và nắm giữ chánh pháp phải nên như thế, họ cũng thường tu tập lòng từ không làm hại ai, nhờ kết quả không làm hại kia, người ấy liền được sống lâu không cùng tột và đạt được trí tuệ tự tại của Bồ-tát.

Phẩm 6: THÂN KIM CƯƠNG

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói với Ca-diếp:

– Này thiện nam! Thân Như Lai là thân kim cương, không phải là thân uế thực. Đó chính là pháp thân, ông hãy nên quán xét như thế.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Không phải hạng phàm phu tầm thường như con vốn có năng lực quán xét điều đó. Vì lẽ gì? Nếu đích thực Như Lai nhập Nê-hoàn, thì thân ấy chính là thân hư hoại, thân đất bụi, thân uế thực. Nếu thực sự Như Lai vĩnh viễn chẳng nhập Nê-hoàn, thì phải nên thuận theo phép tu quán tưởng bình đẳng.

Phật bảo Ca-diếp:

Này thiện nam! Ông đừng nói rằng thân Ta cùng với thân người đời bị hư hoại, nguy hiểm, dễ vỡ, quay lăn mãi trong vòng sống chết trải qua kiếp số lâu dài giống như nhau. Thân Như Lai chính là thân không thể nào bị hư hoại; không phải là thân người đời, cũng chẳng phải là thân cõi trời; không phải là thân uế thực, chính là thân vô ngã; cũng không sinh, cũng chẳng diệt; không tập khởi, cũng chẳng lưu chuyển; không có ranh giới bến bờ, không có dấu vết; không phải trí, cũng chẳng phải hạnh, bản tánh thanh tịnh; không thật có, không có đối tượng thọ nhận; không có đến, không có đi; không trụ, cũng chẳng động; không mùi vị, cũng chẳng xúc chạm; không có sự nhận biết, không có sự suy nghĩ; không có gì so sánh bằng, không có gì lớn hơn được nữa; đi đến chỗ không phải là nơi đi đến, đi đến chỗ đúng là nơi đi đến; pháp dứt bỏ vĩnh viễn, pháp không phải dứt bỏ; không phải sự, cũng chẳng phải thật; không phải giác, cũng chẳng phải tưởng; không phải bắt đầu tạo ra, cũng chẳng phải rốt cuộc hoàn thành; không phải lập nên, chẳng phải đầy tràn; không phải nơi chốn, chẳng phải nhà cửa; không phải dừng nghỉ, chẳng phải yên tĩnh; mở rộng sự thanh tịnh, xa lìa các phiền não; không phải nắm giữ, cũng chẳng phải bám víu; không phải can ngăn, lìa khỏi tranh cãi; thường trụ mà không phải trụ cho nên không khuất phục cũng chẳng cứng nhắc; không phải pháp, cũng chẳng phải phi pháp; không phải điền, cũng chẳng phải phi điền; không thể nào cùng tận; không phải Tỳ-kheo, cũng chẳng phải phi Tỳ- kheo; lìa bỏ danh tự, lìa bỏ sự khen ngợi, lìa bỏ lời ăn tiếng nói, lìa bỏ sự tu tập, lìa bỏ suy nghĩ ước muốn; không phải hòa hợp, cũng chẳng phải phi hòa hợp; không phải lượng, cũng chẳng phải phi lượng; không phải đến, cũng chẳng phải không đến; không phải thông suốt, cũng chẳng phải trở ngại; không phải lìa tướng; từng tướng một trang nghiêm song không nắm giữ, phi hữu, lìa hữu, có năng lực làm ruộng phước, thực sự không thể nhìn thấy, không thể tỏ rõ, như như chân thật; độ tất cả chúng sinh mà không có điều gì để độ; giải thoát hết thảy chúng sinh mà không có gì giải thoát cả; thanh tịnh cho tất cả chúng sinh mà không có gì để thanh tịnh; che chở cho tất cả chúng sinh mà không có gì để che chở; giảng dạy chúng sinh mà không có hai; không có gì so sánh bằng, không có gì cao hơn cái không có gì cao hơn đó; vô lượng đẳng, hư không đẳng, vô đẳng, vô sinh đẳng, vô hữu đẳng, vô đẳng, lìa đẳng, tịch diệt không phải dứt hẳn hành, chẳng phải chuyển biến mà chuyển biến rốt ráo, tất cả thâu nhận và cắt đứt sự tuyệt diệu hết sức sâu sắc, hiện giáo pháp bất nhị, không bỏ tự tính; không phải thành, không phải dài, cũng chẳng phải ngắn; không phải Ấm, không phải Giới, cũng chẳng phải Nhập; không phải tướng hữu vi, không phải xứ vô vi, cũng chẳng phải nuôi lớn; không lên cao cũng chẳng xuống thấp; không phải tàng chứa, cũng không phải chứa cất; không phải địa, cũng chẳng phải phi địa. Công đức như thế rất nhiều không sao đếm xuể và không thể nào suy nghĩ luận bàn, đó là thân Như Lai. Không có người biết, không có người thấy, không có người nói, không có người bàn luận, không phải là việc mà thế gian thâu nhận; không phải nguyên nhân, cũng không phải là không có nguyên nhân, nắm giữ cái tướng của hết thảy vọng tưởng rồi nói rằng, Nê-hoàn không thể lấy gì để so sánh, vô lượng công đức thành tựu như thế gọi là thân Như Lai. Như vậy, này Ca-diếp! Thân tướng của Như Lai, có lẽ hàng Thanh văn và Phật-bích-chi biết được, thành tựu thân Như Lai như thế, đó là pháp thân, không phải là thân uế thực, làm sao hủy hoại bệnh khổ như đồ hư hỏng? Tùy theo người nhận lãnh sự giáo hóa mà Ta hiện nay thân già, bệnh, chết. Pháp thân của Như Lai là thân kim cương khó hủy hoại. Này Cadiếp! Từ nay về sau ông nên biết như thế này, thân Như Lai không phải là thân uế thực, ông hãy giảng nói rộng rãi cho mọi người biết, từ nguyên nhân vi diệu sinh ra, đó chính là pháp thân, là thân kim cương, là thân thuần hậu, nên biết ấy là pháp thường trụ vậy.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Công đức của Như Lai đầy đủ như thế thì sao gọi là thân có bệnh, hoặc là chết. Kể từ hôm nay, con sẽ quán xét pháp thân Như Lai thường trụ, không phải là pháp biến đổi, tốt đẹp, tịch diệt, con sẽ giảng nói rộng rãi cho mọi người. Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Pháp thân kim cương của Như Lai không hủy hoại, thế nhưng con chưa thể biết được sở nhân thế nào?

Phật bảo Ca-diếp:

– Người hộ trì pháp ấy không phải là người giữ năm giới cấm, cũng chẳng phải là bậc hiền đức thực hành thông thạo giới luật uy nghi. Người ấy ở trong đời ác chẳng tiếc thân mạng, tay cầm giữ đồ sắc bén để che chở bảo vệ pháp sư và những người giữ giới, đó là người hộ pháp.

Ca-diếp bạch Phật:

– Tỳ-kheo và người cầm khí cụ gậy gộc kia đều cùng đi chung hay ngừng lại, há không có người nào là không phải Tỳ-kheo chăng?

Đức Phật nói:

– Chẳng phải vậy.

Ca-diếp lại bạch Phật:

– Thế thì đây là hạng cư sĩ cạo đầu mà thôi. Phật bảo Ca-diếp:

– Ông chớ nói lời như thế. Vì sao? Nếu có người nào một mình ở chỗ vắng vẻ yên lặng, tu hành chín pháp của hạnh Đầu-đà, xin ăn, ít ham muốn, im lặng, thiền định, suy nghĩ, quán xét thân thể, kinh hành; cũng giảng nói về pháp bố thí, giữ giới, tu tập, đạo đức, hành nghiệp, nhân quả cho mọi người; thế nhưng người ấy không thể tuyên giảng rộng rãi về sự không sợ hãi; cũng lại không thể hàng phục và giáo hóa người xấu ác, giả dối, lừa bịp. Nên biết rằng người này không thể tự độ mình, cũng chẳng hóa độ người khác, họ chỉ tu trì phạm hạnh và hoàn thiện riêng cho mình mà thôi.

Nếu lại có Tỳ-kheo thực hành pháp tu Đầu-đà, được có cả sự không sợ hãi; vị ấy tuyên giảng rộng rãi chín bộ: Tu-đa-la (Khế kinh), Kỳ-dạ (Trùng tụng kệ), Thụ ký, Già-đà (Phúng), Nhân duyên, Như thị ngữ (Bản sự), Bản sinh, Phương quảng, Vị tằng hữu (Chưa từng có), để giáo hóa chúng sinh, tự độ mình, độ cho người khác. Vị ấy lại còn nói những câu trọng yếu trong Khế kinh cho mọi người, như nói rằng, trong bộ kinh nọ có nói không được nuôi dưỡng đầy tớ, nô bộc, bò, ngựa, các loài súc sinh cho đến không đồng ý nhận tài vật phi pháp, nếu nhận cất giữ thì không phải là pháp của người xuất gia, người này phạm vào quy chế nên phải bãi đạo và đuổi ra khỏi. Những kẻ phạm giới nghe nói lời như thế bèn cùng bè đảng giận dữ làm hại vị pháp sư kia, vị kia tuy chấm dứt mạng sống, song vẫn còn có thể tự độ mình và cũng có thể hóa độ người khác. Cho nên, này Ca-diếp! Các Ưu-bàtắc hoặc vua chúa, quan lớn nên hộ trì pháp, cũng nên hàng phục hạng cư sĩ cạo đầu.

Lại nữa, này Ca-diếp! Thời quá khứ lâu xa atăng-kỳ kiếp, thế giới ấy có Đức Phật tên là Nan-đề-bạt-đàn Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác xuất hiện làm hưng thịnh cho đời, Đức Phật cũng thường trú ở thành Câu-di này. Khi ấy thế giới này rộng rãi nghiêm tịnh ví như cõi nước Cực lạc ở phương Tây, những chúng sinh ở đó thảy đều yên vui, không có ý tưởng đói khát, hoàn toàn là các vị Bồtát. Đức Phật kia sống ở đời vô lượng ức kiếp rồi mới vào Nê-hoàn, đã để lại giáo pháp ở đời cũng lại vô lượng ức kiếp. Như thế, còn lại bốn mươi năm khi Phật pháp chưa diệt, khi ấy có vị Tỳ-kheo tên là Phật-độ-đạt-đa xuất hiện ở thế gian, đại chúng và quyến thuộc kẻ trước người sau lần lượt đi về bên phải. Vị ấy thành tựu sự không sợ hãi mà nói pháp cho mọi người, rồi đem chín bộ kinh để giảng dạy các Tỳ-kheo: “Trong bộ khế kinh nọ nói rằng, không được nuôi dưỡng đầy tớ, nô bộc, loài súc sinh và không đồng ý nhận tài vật không đúng pháp”.

Những kẻ phạm giới bèn nổi tức giận, kết bè lập đảng giúp nhau muốn làm hại Pháp sư. Khi đó, vị quốc vương kia tên là Bà-già-đạt-đa nghe tin những người ác kia sắp làm hại Pháp sư, nhằm để hộ trì Phật pháp, lập tức ông liền cầm vũ khí sắc bén, cùng chung khổ cực chiến đấu tiêu diệt đám người xấu ác. Thân thể nhà vua bị thương tích, ông bèn đi đến chỗ ở của Pháp sư, Pháp sư nói về công đức hộ pháp cho nhà vua nghe, nghe pháp xong, chẳng bao lâu nhà vua qua đời, sinh về cõi nước của Đức Phật A-súc. Khi ấy, những người quyến thuộc cùng hộ pháp với vua đều lần lượt qua đời, được sinh cõi nước của Đức Phật A-súc, những người phát tâm hoan hỷ với công đức ấy đều thành tựu Bồ-đề. Rồi chẳng bao lâu Pháp sư Phật-độ-đạtđa lại chấm dứt mạng sống, cũng sinh về cõi nước của Đức Phật A-súc kia, làm vị đệ tử hàng đầu của Đức Phật A-súc, vua Bà-già-đạt-đa làm vị đệ tử thứ nhì.

Phật bảo Ca-diếp:

– Bấy giờ, vị quốc vương hộ pháp đó đâu phải người nào khác mà chính là Ta, vị Pháp sư hồi ấy chính là Đức Phật Ca-diếp. Này Ca-diếp! Nên biết rằng công đức hộ trì chánh pháp là vô lượng, Ta vốn nhờ không tiếc thân mạng hộ trì chánh pháp, nên được pháp thân kim cương chẳng hoại này.

Ca-diếp bạch Phật:

– Như lời Thế Tôn dạy, pháp thân của Như Lai chân thật, thường trụ, không phải là pháp phai mờ tiêu diệt, tâm ý con tin chắc dường như khắc vào đá.

Phật bảo Ca-diếp:

– Cho nên, này thiện nam! Các Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nên chăm chỉ phương tiện hộ trì chánh pháp, các vị cũng nên giảng nói rộng rãi về quả báo của việc hộ pháp cho mọi người rõ. Lại nữa, này Ca-diếp! Luận rằng, người làm Pháp sư giữ gìn giới hạnh thanh tịnh thì hãy thường phải tự bảo hộ mình, không có dụng cụ để tự phòng ngừa, thì chớ coi thường cử động của mình. Nếu người Ưu-bà-tắc không thọ giới cụ túc mà học Đại thừa, vì sự hộ trì chánh pháp mà cầm khí cụ gậy gộc, thì ông hãy nên nương tựa những người ấy để làm bè bạn.

Ca-diếp lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói, cùng người cầm gậy gộc kết giao đều là không phải uy nghi giới luật.

Phật bảo:

– Sau khi Ta vào Nê-hoàn, trong cõi đời vẩn đục, nhân khi lúa gạo đắt đỏ, tật dịch lan tràn, kẻ trá hình lợi dưỡng đông nhiều vô số. Khi ấy có Pháp sư trì giới trì luật, uy nghi đầy đủ, bị những người kia xua đuổi, hoặc làm hại, hoặc giết. Đang lúc ấy, vị Pháp sư giữ giới dạo chơi đến các thành ấp, chốn đồng không mông quạnh tai nạn nguy hiểm. Ta nghe tin bèn cùng với vị quốc vương kia, quan lớn, người nông thôn, cư sĩ, chiên-đà-la v.v..., họ không thọ giới cụ túc song có khả năng hộ pháp, ta kết làm bè bạn với họ. Mặc dầu các hạng người kia không thọ giới, nhưng quả báo của công đức hộ pháp vô lượng hơn hẳn những người thọ giới. Vị Pháp sư ấy vâng giữ giới hạnh, thanh tịnh uy nghi, hết sức ưa thích Đại thừa và giảng nói rộng rãi cho mọi người. Có thể đem dầu thơm, phướn, hoa, các vật dụng cúng dường, cùng với các quốc vương, quan lớn, trưởng giả thay nhau hiến tặng mà chẳng hủy mất pháp hạnh sa-môn. Gọi rằng Pháp sư giữ giới như thế là tự thân vị đó thâu nhận và nắm giữ pháp chân thật dường như biển cả, uy nghi đầy đủ, ấy gọi là giữ giới. Hoặc giả có người giữ giới mà không ưa thích vui sướng, chẳng ham chuộng danh dự, chán ghét lợi dưỡng, thường nói về hạnh ít muốn và biết đủ cho mọi người. So sánh những sự việc như thế, lợi ích của mình giảm bớt, bà con thân thuộc không vui lòng, nên họ không gọi là Pháp sư. Từ đó, đối với các chúng học trò họ bèn khởi lên ý tưởng chán nản uể oải, tự phá hoại quyến thuộc, cũng gọi là phá hoại Tăng. Tăng có ba hạng: Tăng phạm giới, Tăng như trẻ con ngây ngô và Tăng thanh tịnh. Hai loại Tăng trước không thể phá hoại Tăng thanh tịnh. Tăng phạm giới là hạng phàm phu lần thần ngu xuẩn, họ thuận theo người phạm giới, không kiểm tra xem xét nhau, vì sự tham lam bẩn đục mà họ chung cùng hòa hợp, đó gọi là Tăng phạm giới. Cho dù tự bản thân họ có khả năng giữ giới, song cũng lại gọi họ là số Tăng phạm giới vậy. Những hạng Tăng như thế không đúng với việc tu hành mà họ cứ làm, nếu người nào có khả năng cảm hóa các người phi pháp này thì gọi người ấy là Pháp sư.

Tăng ngây ngô khờ dại là hạng Tăng không chịu học tập tu hành, căn trí ngu si chậm chạp. Giả sử được lợi dưỡng, họ tự cung cấp cho mình và quyến thuộc, nhưng việc tu tập thì người nào lo xây dựng người nấy, không cùng chung cùng hòa hợp. Lại nữa, họ cũng không cùng người phạm giới làm phép Tự-tứ hay Bố-tát chung với nhau. Nếu như vị nào có năng lực cảm hóa hạng người ngu si phi pháp này, thì gọi vị ấy là Pháp sư.

Tăng theo đúng giới pháp luật nghi, những hạng Tăng như thế khiến chúng ma dù sao cũng không thể nào ngăn trở phá hoại. Dường như hạng Bồ-tát Tăng tính thường thanh tịnh, hai hạng Tăng kia là thầy phạm giới. Vị thầy giữ gìn giới luật là người khéo giáo hóa, biết thời, biết nặng, biết nhẹ, không phán đoán điều sai trái giới luật, cũng không phán đoán xác đáng.

Thế nào gọi là Pháp sư theo đúng giới pháp luật nghi khéo biết thời gian giáo hóa? Đó là Bồ-tát, hoặc là như con trẻ thơ dại, nếu Bồ-tát giáo hóa nhằm việc hộ trì chánh pháp, cũng không quán xét đúng thời hay trái thời, dư hay không dư, hoặc cho phép, hoặc ngăn cấm, tùy theo sự việc ấy mà thích ứng. Vị ấy tự tại dạo chơi hay dừng lại ở thôn xóm, giữa gò mả, do tâm hộ pháp nên không vi phạm điều gì. Chỉ trừ các nhà người con gái chuyên nghề ca múa, nhà đàn bà góa chồng, nhà dâm nữ, nhà trẻ em gái, chỗ học luyện thanh là những nơi không nên đi đến, tất cả các chỗ còn lại, Bồ-tát hộ pháp suốt ngày vòng quanh qua lại mà không có lỗi, đó gọi là Pháp sư biết thời giáo hóa. Biết nặng, nghĩa là nếu thấy Như Lai chế ra giới luật, thoạt đầu khởi sự từ nguyên nhân, người nào mà phạm vào tâm khinh rẻ và bốn pháp nặng thì không gọi là người xuất gia, đó gọi là biết nặng. Biết nhẹ, nghĩa là nếu thấy Tỳ-kheo phạm vào giới nhẹ từng duyên khởi một, tâm cũng không coi trọng hoặc là tự mình nhớ lại, như trong các giới của Như Lai, người ấy phạm mà không đầy đủ, đó gọi là biết nhẹ. Không phán đoán giới luật hữu dư, nghĩa là nếu nuôi dưỡng đầy tớ v.v..., cất chứa các tài vật bất tịnh, đối với giới luật còn sót lại, không cần phải phán đoán, nên thường không muốn cãi cọ với người phạm giới, đó gọi là sai trái luật. Không cần phải phán đoán thỏa đáng nghĩa là tuy rằng sai trái luật, nhưng ở trong kinh khác nói thì hoàn toàn giống với giới luật, đó cũng là luật, không cần phải phán đoán thỏa đáng, tùy lời lẽ nói năng mà gọi đó là theo đúng câu văn song chẳng hiểu một chữ. Nếu người nào có thể hiểu được lời nói của chư Phật ba đời nói trong kinh, tâm được sự không sợ hãi, có năng lực hộ trì lời Phật giảng dạy sâu rộng vô lượng như thế, thì người ấy đạt đến thành tựu bậc Pháp vương Như Lai không thể nghĩ bàn.

Ngay sau đó, Ca-diếp bạch Phật:

– Thưa vâng! Bạch Thế Tôn! Đấng Pháp vương Như Lai không thể nghĩ bàn, Như Lai thường trụ không phải là pháp biến đổi, con sẽ vâng giữ và giảng nói rộng rãi cho mọi người biết.

Đức Phật dạy:

– Quý hóa thay! Này Ca-diếp! Vị nào vâng giữ pháp thân kim cương bất hoại, muốn học sự quán xét thân Như Lai đều bình đẳng, thì vị ấy nên tu phép quán Kim cương bất hoại, Đại Bồ-tát hãy tu tập như thế, liền được phép quán pháp thân vô thượng một cách bình đẳng.

Phẩm 7: THỌ TRÌ

– Lại nữa, này thiện nam! Nay Ta sẽ giảng nói công đức thọ trì Khế kinh rất mực sâu xa, nếu có chúng sinh nghe được kinh này, thì đời đời chẳng rơi vào trong bốn nẻo, ở chỗ mình sinh ra thường gần gũi chư Phật.

Ca-diếp bạch Phật:

– Chúng con nên gọi kinh này là gì và phải vâng giữ như thế nào? Phật bảo Ca-diếp:

– Kinh này tên gọi là Đại Bát-nê-hoàn, lời nói thoạt đầu cũng tốt lành, lời nói chặng giữa cũng tài tình, lời nói sau cùng cũng thanh tịnh tràn đầy. Nay Ta sẽ giảng nói về kho chứa châu báu Kim cương. Này thiện nam! Giống như nước trong tám con sông lớn thuộc cõi Diêm-phù-đề đều đổ về biển cả, nước ấy không bao giờ cùng tận, kinh Đại Bát Nê Hoàn cũng như thế, trừ diệt phiền não, hàng phục chúng ma, quay lưng với sự sống chết, lìa bỏ thân biến hóa, cho nên gọi là Nê-hoàn, tất cả chư Phật giống như giáo pháp vi diệu này, không có sự cùng tột.

Lại nữa, giống như phương pháp trị bệnh có thuật tinh tế bí mật tên gọi là Đại y, tất cả các phương thuốc đều đưa vào trong đó, giáo pháp hàm chứa nhiều nghĩa lý vi diệu bí mật do Như Lai nói cũng như vậy, tất cả chín bộ kinh thảy đều ở vào trong đó, cho nên gọi là Đại Bát-nê-hoàn.

Ví như công việc cày ruộng và gieo hạt vào tháng mùa hè thì thường có hy vọng, đến khi đã thu hoạch quả thì mọi trông mong đều dứt. Người tu hành cũng như vậy, họ thường có hy vọng khi tu tập thiền định đối với tất cả kinh điển, học tập kinh này xong, họ chóng thành tựu sự giải thoát và vượt ra khỏi ba cõi.

Lại nữa, này thiện nam! Như người mắc bệnh nặng dùng đề hồ làm thuốc, thế rồi người ấy lại uống tám thứ thuốc mùi vị ngọt ngào, vị thuốc ấy hay nhất. Như thế, đối với giáo pháp bí mật của Phật, chúng sinh mắc bệnh mê hoặc và tán loạn, Ta đem Khế kinh Đại thừa mà giáo hóa cho họ dần dần, rồi sau mới nói phương thuốc diệu pháp có tám vị Đại Bát-nê-hoàn cho chúng sinh. Tám thứ mùi vị đó là: Pháp thường trụ, pháp tịch diệt, không già, không chết, mát mẻ, thông suốt như hư không, bất động và khoái lạc; tám thứ mùi vị đó gọi là Đại Bát-nê-hoàn. Nếu có Bồ-tát trú tại Đại Bát-nê-hoàn này, thì đâu đâu vị ấy cũng thường có thể thị hiện nê-hoàn, cho nên gọi là Đại Bát-nê-hoàn. Nếu thiện nam nào muốn ở Đại Bát-nê-hoàn mà vào Nê-hoàn, thì phải nên học pháp thường trụ của Như Lai như thế, Pháp và Tăng cũng vậy. Nếu như trong số ấy có thiện nam và thiện nữ thực hành kinh Đại Bát Nê Hoàn này, thì nên học tập thường trụ ở Như Lai.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Pháp thân của Như Lai chẳng thể suy nghĩ và bàn luận, giáo pháp vi diệu mà Phật nói ra không thể nghĩ bàn, công đức của chúng Tăng không thể nghĩ bàn, kinh này chẳng thể nghĩ bàn. Kể từ hôm nay, như có chúng sinh tâm tính cứng cỏi, thì con sẽ trừ diệt bóng tối tăm còn sót lại trong đêm dài sinh tử vô tri cho những chúng sinh kia.

QUYỂN 3

Phẩm 8: BỐN PHÁP

Phật bảo Ca-diếp:

– Này thiện nam! Đại Bồ-tát thành tựu bốn pháp có thể nói kinh Đại Bát Nê Hoàn cho mọi người. Những gì là bốn pháp: Có thể tự mình dốc lòng làm điều chính đáng, có thể làm điều chính đáng cho người khác, có thể tùy theo câu hỏi mà trả lời, khéo hiểu rõ nhân duyên; đó là bốn pháp.

Tự mình dốc lòng làm điều chính đáng, nghĩa là khi người nghe giáo pháp thiết yếu của Phật, có thể theo đó mà chán bỏ hay sợ hãi, lông trên thân thể đều dựng đứng. Như lời Phật nói, thà rằng ôm thân cây khô cháy rực, khắp cả thân mình cháy trụi, chứ không đối với phương tiện mật giáo của Như Lai mà tâm mình chưa tỏ ngộ. Nghe nói có thường bèn nổi lên tâm phỉ báng rồi nói lời dạy của ma và ca tụng ngôn luận của ngoại đạo thuận theo thế tục. Người nói vô thường mà bảo là chân thật, thà rằng lấy lưỡi để liếm cây khô cháy rực, chứ không nói Như Lai chân thật vô thường, hoặc giả nghe người khác nói liền kinh sợ, đối với người nói pháp mà khởi lên ý nghĩ từ bi, hết sức tin tưởng pháp thân Như Lai tồn tại lâu dài, pháp già, bệnh, chết không thể nào hủy hoại. Nên biết rằng Thế Tôn không thể nghĩ bàn, giáo pháp cũng vậy. Như kinh Cây khô mà ta đã nói, ông hãy tự nắm giữ cho khéo, đó là Bồ-tát có thể tự mình dốc lòng làm điều chính đáng.

Có thể làm điều chính đáng cho người khác, nghĩa là như Thế Tôn thuyết pháp, có một phụ nữ nuôi đứa trẻ sơ sinh còn bú đi đến chỗ Đức Phật, rập đầu làm lễ dưới chân Phật lòng có điều băn khoăn lo lắng, cô ta đứng về một bên mà suy nghĩ. Bấy giờ Thế Tôn biết được điều suy nghĩ của người ấy, liền đem đứa con của cô ta làm thí dụ mà nói pháp:

– Ví như người mẹ khéo nuôi đứa con của mình, thoạt đầu lấy móng tay mà ngậm bơ đặc khiến cho bơ ấy tan ra, xong lại càng tăng thêm dần.

Khi ấy, tâm của người phụ nữ kia liền hiểu ra, bèn bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Đấng Đại Thánh biết tâm niệm của con mà nói lên lời như thế, sáng sớm hôm nay, con cho đứa bé ăn nhiều bơ có lẽ không bớt tuổi thọ.

Phật dạy:

Chẳng phải vậy, đứa trẻ này đã lớn, nó có thể ăn được mà không có hại gì.

Người phụ nữ vui mừng rồi bạch Phật:

– Kỳ lạ thay! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn thuận theo pháp tan ra và không tiêu mà nói một cách tài tình; trước tiên Thế Tôn nói pháp vô thường, khổ, không, bất tịnh cho người mới thọ nhận sự giáo hóa; nếu lòng tin của chúng sinh đó chưa vững chắc, thì Thế Tôn nói pháp thường trụ cho họ, gốc rễ niềm tin kia bị mất, Thế Tôn nói bơ thường không tan ra.

Phật dạy:

– Quý hóa thay! Này thiện nữ! Con nên học như thế, cách thức nuôi con buổi đầu cho nó ăn dần thức ăn dễ tiêu và mềm mại, khi tuổi khôn lớn, nếu cho nó ăn đồ cứng và đặc thì có khả năng tiêu hóa và không có mối lo bệnh hoạn. Ta cũng như thế, trước kia Ta nói món ăn bất tịnh, vô thường, khổ, không và mềm mại cho các đệ tử; khi tâm đạo đã tăng thêm họ có thể lãnh thọ Đại thừa, sau đó Ta mới nói pháp Ma-ha-diễn Đại Bát-nê-hoàn này cho họ. Món ăn cứng và đặc gồm sáu vị: ngọt, đắng, cay, chua, mặn và nhạt. Lấy khổ làm vị chua, vô thường làm vị mặn, phi ngã làm vị đắng, vui thích làm vị ngọt, ngã và ngã sở làm vị nhạt, pháp thường làm vị cay, lấy lửa huyễn hành đốt cháy củi phiền não, nấu chín món ăn cam lộ đúng theo phép tắc chế định là Đại Bát-nê-hoàn.

Lại nữa, này thiện nữ! Ví như người chị em gái có các duyên sự phải bỏ nhà đi ra ngoài, đến xóm làng khác, có lẽ đi lâu không trở về. Người ấy có hai người con, một người hiền lành chất phác, người thứ hai ác độc tệ hại. Lúc sắp sửa lên đường, người ấy chẳng nói với đứa con xấu ác về kho tàng bí mật cất giấu châu báu, mà giao phó cho đứa con hiền lành.

Người nữ bạch Phật:

– Thật vậy! Bạch Thế Tôn! Phật hỏi:

– Cớ sao người kia không giao phó kho báu cho đứa con ác? Người nữ bạch Phật:

– Đứa con xấu ác kia vốn làm điều trái với đạo nghĩa, làm theo hành động buông thả, tiêu dùng ăn uống không có điều độ, cho nên người mẹ không phó thác kho báu. Còn đứa con hiền lành ấy có năng lực xây dựng dòng dõi, làm vẻ vang rạng rỡ họ hàng, vì thế người mẹ gửi gắm kho báu cho đứa con ấy.

Phật dạy:

– Đúng vậy! Pháp của Ta cũng thế, khi muốn đi vào phương tiện bát Nê-hoàn, giáo pháp thiết yếu bí mật chứa trong kho châu báu của Như Lai đều giao phó cho đệ tử, không trao cho kẻ phạm giới và các người là kiến. Nay đối với Ta, ngươi dấy lên ý tưởng diệt hay là dấy lên ý tưởng thường?

Người nữ bạch Phật:

– Đối với Như Lai, con dấy lên ý tưởng thường trụ. Phật dạy:

– Này thiện nữ! Như lời ngươi nói, cần phải dấy lên quán tưởng ấy, đừng dấy lên ý tưởng diệt. Nên biết Như Lai là pháp thường trụ, không phải là pháp biến đổi, cũng chẳng phải pháp phai mờ tiêu diệt. Nếu như có chúng sinh vốn tu tập quán tưởng thường trụ đối với Như Lai, nên biết những hạng người này, nhà nào nhà nấy đều có Phật, đó gọi là có thể làm điều chính đáng cho người khác.

Có thể tùy theo câu hỏi để mà trả lời, nghĩa là giống như có người đến hỏi Như Lai: “Con phải làm thế nào để được nổi tiếng là người làm việc bố thí lớn lao, tiếng tăm truyền khắp thiên hạ mà chẳng bỏ của cải ra để bố thí?”.

Phật bảo người kia: “Chỉ có người tu tại gia mặc áo trắng thanh tịnh không nuôi đầy tớ nhỏ, tu trì phạm hạnh, thế nhưng họ lại ưa thích bố thí đứa ở, nô bộc, vợ cả, nàng hầu; họ dứt bỏ mùi vị thịt, thế nhưng họ lại ưa thích đem thịt để bố thí; họ lánh xa rượu, không uống rượu, thế nhưng họ lại lấy rượu khuyên nhủ người khác uống; họ thường tập thói quen ăn đúng thời, song lại bố thí bữa ăn phi thời cho người khác; họ xa lìa các thứ hương hoa, đồ trang sức, dụng cụ, song lại đem hết thảy hương hoa, đồ dùng trang nghiêm mà bố thí cho mọi người. Những loại như thế, tùy theo sự việc bố thí, người kia biếu cho mọi người xong, gọi là đại thí chủ. Nếu người làm như thế, liền được sự bố thí lớn lao, nổi tiếng khắp thiên hạ, song chưa từng tổn hại hoặc hao phí một sợi lông của mình. Nói ví dụ như thế, có thể tùy theo câu hỏi để mà trả lời”.

Bấy giờ, Ca-diếp bạch Phật:

– Như lời Thế Tôn nói, người không ăn thịt mà lại đem thịt để bố thí, được điều là người ăn thịt ấy không có lỗi lớn, chẳng lẽ không tăng thêm tà kiến của ngoại đạo, cho nên cần phải lập phép không ăn thịt?

Phật bảo Ca-diếp:

– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Này thiện nam! Ông khéo quan sát ý của Phật! Phép tắc của Bồ-tát hộ pháp phải nên như thế. Này thiện nam! Kể từ hôm nay, Ta ngăn cấm các đệ tử, không để cho họ ăn thịt, giả dụ được món ăn khác, phải luôn luôn dấy lên ý tưởng ăn thịt con mình. Sao gọi là đệ tử mà để cho họ ăn thịt? Chư Phật nói rằng, người ăn thịt ấy đã dứt bỏ hạt giống đại từ.

Ca-diếp bạch Phật:

– Tại sao Thế Tôn để cho đệ tử ăn ba món thịt thanh tịnh? Phật bảo Ca-diếp:

– Ba món thịt này tùy theo việc mà hạn chế dần dần, cho nên Ta mới nói như thế.

Ca-diếp lại hỏi:

– Nguyên nhân nào Phật nói có món ăn được nhận lãnh để lìa bỏ mười món thịt?

Phật bảo Ca-diếp:

– Đây cũng là hạn chế dần dần, nên biết phép tắc hiện giờ là không nên ăn thịt.

Ca-diếp lại bạch Phật:

– Tại sao Thế Tôn khen ngợi thịt cá rồi cho là món ăn ngon? Phật bảo Ca-diếp:

– Ta không nói thịt cá và cho đó là món ăn ngon, Ta nói cây mía ngọt, gạo tẻ, đường phèn và những trái cây ngọt là món ăn ngon. Như Ta khen ngợi mọi thứ y phục là đồ trang sức, lại còn khen ngợi ba thứ y phục hoại sắc, nên biết thịt cá là món ăn tanh uế thuận theo sự ham muốn mà thôi.

Ca-diếp bạch Phật:

– Nếu như Thế Tôn ngăn cấm đệ tử không ăn thịt, thì năm thứ kia là sữa, dầu vừng, tơ tằm, lụa là, vỏ sò, ngọc kha quý giá và thuộc da họ cũng không nên thọ nhận.

Phật dạy:

– Ông nghĩ ngợi kỳ lạ, đừng dấy lên cái nhìn của ngoại đạo Ni-kiền-tử.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nay con nên làm thế nào? Phật bảo Ca-diếp:

– Này thiện nam! Kể từ hôm nay Ta ngăn cấm các đệ tử, không để cho họ ăn ba món thịt thanh tịnh và lìa bỏ chín thứ lãnh thọ, mười món thịt, cho đến con vật tự chết, hết thảy đều không được ăn.

Vì sao? Vì nếu như người ăn thịt, giả như họ đi, đứng, ngồi, nằm, tất cả chúng sinh trông thấy họ thảy đều sợ hãi, bởi ngửi mùi vị giết chóc của người ấy. Như người ăn món hưng cừ và tỏi, nếu họ đi vào chỗ hội họp đông đảo, thì mọi người thảy đều căm ghét. Người ăn thịt ấy cũng như thế, tất cả chúng sinh ngửi mùi giết chóc của người ấy thì có nỗi khủng khiếp và sợ chết, các loài có mạng sống ở dưới nước, trên cạn, bay giữa hư không, đi trên mặt đất trông thấy đều bỏ chạy nhanh. Do đó hàng Bồ-tát chưa từng ăn thịt, tùy thời các vị ấy hiện bày sự ăn thịt nhằm để giáo hóa chúng sinh, chứ kỳ thật không ăn.

Lại nữa, này thiện nam! Vào thuở kiếp lâu xa, sau khi Ta nhập Nê-hoàn, sẽ có hàng Tỳ-kheo tuy vì sự học đạo nhưng tự mình cao ngạo mà nói rằng, ta là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-lahán. Họ trôi giạt ở trong cõi đời xấu ác, nghèo nàn khốn khổ, rồi xuất gia làm Tỳ-kheo mà chỉ có cái danh chứ không có cái thực, hiểu đủ mọi thứ một cách xằng bậy. Vì lợi dưỡng nên họ cung kính người thế tục mặc áo trắng, hình dáng tiều tụy hốc hác như kẻ chăn thả súc vật, thân thể đắp ca-sa song trông in hệt gã thợ săn, họ mong cầu lợi lộc thế tục dường như con mèo vồ chuột. Thân thể bất tịnh, bệnh hoạn ốm o gầy còm, cùi hủi, ghẻ lở, thế mà họ mặc quần áo và đắp chăn màn của bậc Hiền

Thánh Mâu Ni, hình dáng giống như quỷ đói, nghèo túng cùng quẫn, chẳng phải là Sa-môn chân thật mà làm y như Sa-môn. Vào đời sau này, lúc thời kỳ chánh pháp hủy hoại, đối với pháp luật, hành xử, kinh điển, chính luận mà Ta chế ra, họ đều làm trái ngược điều Ta đã quy định, mỗi người tự tạo ra kinh luận và giới luật rồi nói rằng, giới luật của ta được ăn món thịt thanh tịnh là của Đức Phật nói; họ tự viết lời luận bàn và bài tụng, mỗi bài đều trái ngược nhau; họ đều xưng mình là hạng Sa-môn, đệ tử của đức Thích-ca.

Lại nữa, này thiện nam! Ta nói pháp nhận lãnh lúa gạo sống, cho đến ăn cá thịt, tự tay mình làm đồ ăn thì không phải thanh tịnh. Tập quen nghề nghiệp ép dầu, học các môn kỹ thuật, thợ mộc tinh xảo, bậc thầy của ngành thuộc da. Tới lui với vua trong nước, xem lịch tinh tú, tạo ra phương thuốc chữa bệnh, học bàn luận về âm thanh và lời văn khéo léo trong thế tục. Nuôi đầy tớ, nô bộc, gom góp tiền của, vàng bạc, san hô, vỏ sò, ngọc kha, đá ngọc, chân châu, vật báu; nuôi sư tử, cọp, beo, chồn, sóc, chuột, mèo, cáo. Tích trữ thuốc độc, trì chú thuật, làm họa sĩ, tạo ra sách vở giấy tờ, làm nghề dệt the lụa tốt đẹp, khởi lên đạo đầu độc làm mê hoặc người, ca múa huyễn hoặc, đọ sức, nhuộm răng, xông hương thơm xoa vào thân thể, lấy hoa kết thành chuỗi để trang sức, sửa hình dáng thân thể, cho đến đủ thứ còn lại, đại loại có vẻ như phi pháp, đồ dùng và y phục phi pháp, Ta nói những sự việc này chẳng phải là pháp thanh tịnh.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu có đất nước phần đông mọi người đều ăn thịt, tất cả người xin ăn đều xin được toàn là món thịt tạp nhạp, làm thế nào các Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di ở trong nước thích ứng với đời sống thanh tịnh?

Phật bảo Ca-diếp:

– Này thiện nam! Nếu đồ ăn có thịt lẫn lộn, nên cho vào trong nước để thức ăn và thịt tách ra, rồi sau đó mới có thể ăn, thì không mắc lỗi vượt qua giới luật.

Ca-diếp lại bạch Phật:

– Nếu đồ ăn và thịt không thể tách rời nhau, việc này phải làm thế nào?

Phật bảo Ca-diếp:

– Này thiện nam! Nếu trong nước mọi người thường ăn thịt, hết thảy đồ ăn đều có thịt bày rõ, thì Ta thuận cho gạn thịt, bỏ nước, hủy hoại mùi vị gốc của nó, rồi mới có thể ăn. Nếu như cá, thịt nai v.v..., tự phân biệt thì có thể biết, người ăn đắc tội. Hôm nay Ta nói có nhân duyên chế ra giới không ăn thịt, không có nhân duyên thì nhân dịp nói Đại Bát-nê-hoàn, Ta cũng lại đặt ra giới cấm khiến mọi người không nên ăn thịt, đó gọi là có thể tùy theo câu hỏi để mà trả lời.

Khéo hiểu rõ nhân duyên là, nếu Tỳ-kheo hay Ưu-bà-tắc hỏi ý nghĩa như thế này: Tại sao khi Đức Thế Tôn Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời, thoạt đầu không quy định từng điều giới cấm cho đệ tử, không nói từng mỗi pháp môn như thế, không nói Ba-la-đề-mộc-xoa (biệt giải thoát, xứ xứ giải thoát) một cách rốt ráo? Ý nghĩa ấy thế nào? Tỳ-ni có ý nghĩa gì? Này thiện nam! Hãy nghe Ta phân biệt ý nghĩa Ba-la-đềmộc-xoa. Ba-la-đề-mộc-xoa là ít muốn, biết đủ, thành tựu uy nghi, chẳng thu nhận và cất chứa nhiều của cải, lìa bỏ các sự bám víu. Đối với tất cả những người lấy tâm thanh tịnh làm đời sống mà phạm tội đọa, ấy là đọa vào bốn nẻo ác và địa ngục thiêu đốt. Người kia uy nghi, ít muốn, chẳng thu nhận và cất giữ nhiều của cải, tất cả đời sống thanh tịnh mà phạm tội đọa, theo đó nói rằng không phải là tội đọa, ấy là đọa vào trong địa ngục A-tỳ, đó gọi là đọa. Bồ-tát là nuôi lớn thiện căn công đức, về ý nghĩa có hai thứ: Ba- la-đề-mộc-xoa là lìa xa đối với học thuyết xằng bậy. Tỳ-ni là dạy dỗ và răn bảo những điều nhỏ nhặt, điều phục uy nghi. Lại còn không thu nhận của cải phi pháp, cũng chẳng bố thí của cải ấy cho người khác, đó gọi là Tỳ-ni. Trong đó có người phạm bốn pháp nặng, có người phạm mười ba pháp hữu dư, có người phạm ba mươi pháp xả đọa, có người phạm chín mươi mốt pháp đọa, có người phạm bốn pháp hối quá, có người phạm pháp chúng học, có người phạm hai pháp bất định, có người phạm bảy cách thức diệt bỏ tranh cãi, có người gièm pha báng bổ giáo pháp kinh điển và hạng Nhất-xiển-đề. Người có những tội như thế song chẳng hướng về bậc sáng suốt để nói rõ tội đã phạm phải, cũng chẳng xin sám hối lỗi lầm. Xưa nay họ vẫn che giấu tội lỗi giống như con rùa giấu kín sáu chi (bốn chân, đầu và đuôi), tội lỗi của người phạm giới ngày đêm càng thêm lớn.

Tại sao Thế Tôn biết có tội ấy mà không kết thành giới luật, khiến cho chúng sinh kia rơi vào trong đường ác?

Giống như có người đem theo nhiều người muốn đến địa phương khác, bảo cho họ biết con đường thiết yếu đó. Trong số đông ấy có người lạc hướng con đường chính, rơi vào chỗ không phải con đường đi. Người thông tuệ khôn khéo kia đuổi theo kêu gọi, khiến cho người đó trở lại con đường chính cũ. Giáo pháp của Như Lai cũng như thế, ban đầu Ta nói đạo lý ngay thẳng, nếu các Tỳ-kheo phần nhiều gây ra các lỗi lầm, sau đó Ta mới nói quả báo của việc phạm tội cho họ, và chế ra giới luật cho các vị ấy. Như vậy, Thế Tôn chỉ rõ cho họ biết con đường vốn dĩ chân thật không hư vọng, nói công đức của mười điều thiện cho chúng sinh. Vị trời cao quý nhất trong các cõi trời, đức vua của chánh pháp thương xót khắp cả chúng sinh mà nói công đức của mười điều thiện, bình đẳng quán xét chúng sinh như nhìn đứa con một. Nếu như có một chúng sinh đang còn ở trong địa ngục, vì việc cứu độ người ấy tránh khỏi địa ngục, nên Ta ở trong địa ngục sống lâu một kiếp hoặc giả hơn một kiếp. Sao gọi là khiến cho Tỳ-kheo phạm giới kia rơi vào đường ác mãi? Ví như người thợ dệt dệt, hoàn thành chiếc áo mới, sau đó người ấy phá hỏng chiếc áo xong, rồi lại vá víu sửa chữa. Ví như thoạt đầu Chuyển luân Thánh vương đem mười điều thiện để giáo hóa dân chúng, thời gian sau này việc làm xấu ác của chúng sinh tăng thêm, vua lại nhờ Tự tại kim luân thần bảo đi đến đặt ra pháp luật, khiến cho các chúng sinh ấy phải điều phục. Thế Tôn cũng như vậy, thoạt đầu chưa kết thành giới Ba-la-đề-mộc-xoa, về sau các Tỳ-kheo phạm tội chuyển tăng thêm, sau đó Ta mới lấy nhân duyên phạm giới làm căn bản mà đặt ra giới luật cho họ. Giả như các chúng sinh ưa thích tu pháp (phép gia trì cầu đảo của Phật giáo), thấy nhân duyên của các chúng sinh phát khởi để chứng thực lòng tin lớn thêm lên, cho đến bình đẳng quán xét nghĩa lý rất mực sâu xa vi diệu của Bốn đế, như sự tự tại của chư Phật cũng như vậy, đó chính là giáo pháp của vô lượng chư Phật. Chư Phật không thể nghĩ bàn như thế, giáo pháp chư Phật nói không thể nghĩ bàn, người nghe pháp này không thể nghĩ bàn, năng lực tin tưởng kinh này cũng không thể nghĩ bàn, đó gọi là khéo hiểu rõ nhân duyên.

Đó là bốn pháp của Đại Bồ-tát thành tựu, có thể giảng nói kinh Bát-nê-hoàn, nói nhân duyên thị hiện và nhân duyên Đại Bát-nê-hoàn cho mọi người. Nên biết kinh Đại Bát Nê Hoàn này chính là khéo hiểu rõ nhân duyên.

Tự mình dốc lòng làm điều chính đáng, nghĩa là giảng nói xong xuôi, người ấy chân thành hướng về chính mình, chuyên chú hướng về kinh Đại Bát Nê Hoàn này, nên biết đó gọi là có thể tự dốc lòng làm điều đúng đắn.

Có thể làm điều chính đáng cho người khác, nghĩa là biết ý của các Tỳ-kheo thành tâm hướng theo mà giảng nói kinh Đại Bát Nê Hoàn này cho họ, nói rằng Như Lai tồn tại lâu dài, nên biết đây là có thể làm điều chính đáng cho người khác.

Có thể tùy theo câu hỏi mà trả lời, nghĩa là giống như Ta nói cho Ca-diếp, tức là ông có trí sắc sảo lanh lợi vi diệu của Đại Bồ-tát, đủ thứ mật giáo với phương tiện bí yếu, không phải điều mà các hàng Thanh văn và Duyên giác lường tính nổi, gọi là kinh Đại Bát Nê Hoàn. Nên biết tên gọi ấy có thể tùy theo câu hỏi mà trả lời, tùy theo điều mà ý nghĩ trong lòng của chúng sinh kia thích ứng để rồi nói pháp cho họ, không phải là hư vọng. Ví như có người nói nhiều tên gọi của hư không, gọi là không, gọi là hư, gọi là vô sở hữu, gọi là vô số, người ấy nói những tên gọi như thế đều không phải là hư vọng. Như Lai thuyết pháp cũng như vậy, Ta nói bốn loại Niết-bàn trong kinh Đại Bát Nê Hoàn, toàn bộ có điều thích ứng chứ chẳng phải là hư vọng.

Ca-diếp bạch Phật:

– Nếu đúng là Như Lai tồn tại lâu dài, thì trái ngược với lời Phật nói trong khế kinh.

Ví như nung viên sắt
Ném nó vào nước lạnh
Sức nóng tiêu diệt dần
Chẳng biết nóng về đâu.
Sự giải thoát như thế
Qua các vực sống chết
Yên vui mãi chẳng động
Không ai biết chỗ ấy.

Phật bảo Ca-diếp:

– Này thiện nam! Ông đừng hiểu bài kệ này một cách xằng bậy, khởi lên ý tưởng tiêu diệt vĩnh viễn đối với Như Lai. Không phải viên sắt ném vào nước, sức nóng diệt mất dần dần, sự tiêu diệt vĩnh viễn của chư Phật Như Lai nhập Nê-hoàn cũng như vậy, giống như viên sắt ném vào nước, sức nóng tiêu diệt, Như Lai cũng vậy, vô lượng phiền não, họa hoạn trói buộc đều tiêu diệt. Giống như viên sắt ném vào nước, sức nóng tuy diệt mất, song tính chất của sắt vẫn còn. Cũng như vậy, ngọn lửa phiền não hừng hực trong vô lượng kiếp số của Như Lai đều tiêu diệt toàn bộ, tính chất kim cương của Như Lai thường còn, không phải là pháp biến đổi, không phải là pháp phai diệt. Những sự việc vượt qua các vực sâu sống chết và giải thoát như thế, vô lượng kiếp sống chết trong dòng sông phiền não kia, Như Lai đã vượt qua để vào Nê-hoàn, chỗ tiêu diệt mãi mãi trong các nẻo đường không thể nào biết được, cho nên nói:

Sự giải thoát như thế
Qua các vực sống chết
Yên vui mãi chẳng động
Không ai biết chỗ ấy.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Giống như viên sắt ném vào nước, sức nóng tiêu tan hết, song vẫn còn có thể sử dụng mà ném lại vào lửa. Như Lai vào Nê-hoàn, nhưng thực ra là vẫn thường trụ, thế thì tại sao lại vì chúng sinh mà vào ở trong ngọn lửa bùng bùng vô lượng sinh tử để dứt bỏ tai họa trói buộc cho hết thảy chúng sinh. Quý hóa thay! Bạch Thế Tôn!

Như Lai tồn tại lâu dài là lời nói quyết định.

Phật bảo Ca-diếp:

– Đúng thế, đúng thế! Này thiện nam! Ví như Chuyển luân Thánh vương đi vào trong cung điện phía sau để vui chơi với những cung nữ hầu hạ, chốc lát vua lại dạo chơi ở nhà vườn, ao tắm, vui thích tự tại. Nhà vua vắng mặt trong cung, không ai hô hoán rằng vua mất vĩnh viễn. Chư Phật Thế Tôn bỏ cõi Diêm-phù-đề hiện bày sự vô thường cũng như vậy, đừng hô hoán rằng chư Phật diệt độ mãi mãi. Giống như vị quốc vương kia bỏ nơi thâm cung đi dạo chơi khu cây cảnh, vui thích tự tại. Như Lai cũng vậy, Ta bỏ chốn thâm cung vô lượng phiền não, đi vào vườn Tổng trì, ao hoa bảy giác chi, dạo chơi tham quan thích thú, đáp cỗ xe trí thông đạt về pháp phương tiện, tự tại hiện thân giáo hóa, vô lượng họa hoạn trói buộc đã tiêu diệt từ lâu.

Ca-diếp bạch Phật:

– Như lời Thế Tôn nói, Như Lai thảy đều tiêu diệt mối lo phiền não sinh tử trong vô lượng vô số kiếp, đã vượt qua biển năm dục, cớ sao khi Như Lai làm Bồ-tát, tự vui thú với những người con gái đẹp hầu hạ ở chốn thâm cung, làm cha của La-hầula? Vì thế nên biết, Như Lai không dứt hết họa hoạn trói buộc và vượt qua biển các thứ ham muốn. Đức Phật dạy:

– Này thiện nam! Đừng đối với Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác mà nói lên lời như thế. Sở dĩ gọi là Đại Bát-nê-hoàn, là vì có thể kiến lập nghĩa lớn. Nay ông hãy lắng nghe và giảng nói rộng rãi cho mọi người, chớ nảy sinh nghi ngờ và lấy làm kỳ lạ.

Đại Bồ-tát trụ ở Đại Bát-nê-hoàn, nghĩa là có thể đem ngọn núi lớn Tu-di đặt vào một vỏ trấu.

Các chúng sinh ấy nương dựa núi Tu-di mà ở không bị quấy nhiễu tai hại, họ đến, đi, ngừng lại mà chẳng biết ai làm; số chúng sinh còn lại có kẻ thấy biết, họ biết ấy là Bồ-tát trụ Đại Bát-nê-hoàn, an trí núi Tu-di ở trong vỏ trấu, rồi sau mới trở về lại, cảnh giới của Đại Bồ-tát trụ ở Đại Bát-nê-hoàn là như thế.

Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ ở Đại Bát-nê-hoàn lấy đất đai khắp ba ngàn đại thiên thế giới này đặt vào trong vỏ trấu, chúng sinh ở trong đó không bị điều gì quấy rối hay làm hại, mỗi người chẳng tự biết ai mang mình đi lại, ai an trí mình ở đây. Các chúng sinh còn lại có người thấy biết, họ biết ấy là Bồ-tát trụ ở Đại Bát-nê-hoàn, lấy ba ngàn đại thiên thế giới này đặt vào trong vỏ trấu, rồi sau mới trở về lại.

Lại nữa, này thiện nam! Bồ-tát trụ ở Đại Bátnê-hoàn này lại lấy ba ngàn đại thiên thế giới xếp đặt vào trong một lỗ chân lông của bản thân mình mà không có sự phiền nhiễu tác hại đối với những chúng sinh kia, mỗi người không tự biết ai mang mình đi lại và vị nào sắp xếp mình ở nơi này. Ngoài ra có một số chúng sinh thấy biết sự việc, họ biết đó là Bồ-tát trụ ở Đại Bát-nê-hoàn, lấy ba ngàn đại thiên thế giới này đặt vào bên trong lỗ chân lông của bản thân mình, rồi sau mới trở về lại.

Lại nữa, này thiện nam! Bồ-tát trụ ở Đại Bátnê-hoàn đang ở thế giới này, có thể đưa cõi nước của chư Phật khắp cả mười phương đặt vào mũi nhọn chiếc kim, giống như lấy mũi kim nhấc giữ lá táo lên, rồi di chuyển đến cõi nước của Đức Phật khác ở nơi xa lạ, đối với các chúng sinh, họ không bị phiền nhiễu hay tác hại gì cả. Mỗi người chẳng tự biết ai mang mình đi lại và ai an trí mình ở nơi này. Ngoài ra có một số chúng sinh thấy biết sự việc, họ biết đó là việc làm do thần lực của Bồ-tát trụ ở Đại Bát-nê-hoàn.

Lại nữa, này thiện nam! Bồ-tát trụ ở Đại Bátnê-hoàn nắm cõi nước khắp mười phương đặt vào lòng bàn tay phải của mình như bánh xe dùng để tiện của nhà làm đồ gốm, ném đến thế giới nhiều như bụi nhỏ ở phương khác, đối với các chúng sinh họ không bị quấy nhiễu hay tác hại gì cả. Mỗi người chẳng tự biết ai đem mình đi lại và ai an trí mình ở đây. Ngoài ra còn một số chúng sinh có thấy biết sự việc, họ biết đó là việc làm bởi sức thần thông của Bồ-tát trụ ở Đại Bát-nê-hoàn.

Lại nữa, này thiện nam! Bồ-tát trụ ở Đại Bátnê-hoàn ấy lấy mười phương thế giới ở bên trong một hạt bụi, đối với các chúng sinh, họ không bị quấy rối hay tác hại gì cả. Mỗi người chẳng tự biết ai đem mình đi lại và ai an trí mình ở đây. Ngoài ra, các chúng sinh còn lại có người thấy biết, họ biết đó là thần lực của Bồ-tát trụ Đại Bát-nê-hoàn làm nên điều ấy. Như thế, này thiện nam! Bồ-tát trụ ở Đại Bát-nê-hoàn này có thần lực lớn, thị hiện đủ mọi thứ, cho nên gọi là Đại Bát-nê-hoàn. Bồ-tát trụ ở Đại Bát-nê-hoàn làm những điều gì ở đó, tất cả chúng sinh không thể nào đo lường nổi, nay ông làm sao có thể biết Như Lai quen theo năm thứ dục và làm cha của La-hầu-la?

Lại nữa, này thiện nam! Ta trụ Đại Bát-nê-hoàn này có năng lực làm việc lớn. Đối với trăm ức mặt trời, mặt trăng, trăm ức cõi Diêm-phù-đề thuộc ba ngàn đại thiên thế giới này, Ta thị hiện đủ mọi cách để giáo hóa, như điều đã nói trong Tam-muội Thủlăng-nghiêm. Ở cõi Diêm-phù-đề thuộc ba ngàn đại thiên thế giới, Ta lấy Đại Bát-nê-hoàn để thị hiện Nê-hoàn mà không có Bát-nê-hoàn rốt ráo.

Lại nữa, này thiện nam! Ta thị hiện chịu sự sinh ra từ bào thai ở trong cõi Diêm-phù-đề với năm thứ dục, các bậc cha mẹ ấy gọi Ta là con, thế nhưng từ thuở quá khứ vô số kiếp đến nay, Ta đã vĩnh viễn hết sạch ái dục, không có thân nhiễm ô, không có thân uế thực, pháp thân thanh tịnh đã dứt bỏ mọi sự sinh ra. Ta đem trí thông đạt về pháp phương tiện để thuận theo thế gian, Ta sinh ra ở cõi Diêmphù-đề, thị hiện làm con trẻ, rồi đi về phương Bắc bảy bước chân mà tự xưng: Ta là đấng tôn quý vô thượng đối với hàng trời, người và A-tu-la.

Cha mẹ Ta vui mừng cùng khen ngợi: Chúng ta sinh hạ con trẻ, vừa rơi xuống đất bèn đi bảy bước, là sự việc chưa từng có trong đời.

Khi ấy, các chúng sinh đều nói rằng đó là chuyện đặc biệt lạ lùng, thế nhưng Ta chưa hề làm trẻ con. Từ vô số kiếp đến giờ, Ta lìa bỏ hạnh anh nhi, là pháp thân thanh tịnh, không phải là thân xương thịt được nuôi lớn bằng thức ăn uế tạp. Ta thị hiện pháp thân mà làm đồng tử là thuận theo thế gian. Ta đi bảy bước về hướng Nam để thị hiện làm tất cả ruộng phước không có gì hơn. Ta đi bảy bước chân về hướng Tây để thị hiện dứt bỏ rốt ráo sự sinh, già, bệnh, chết; làm bờ ranh sau cùng đối với tất cả chúng sinh. Ta đi bảy bước chân về phương Đông để thị hiện làm người dẫn đường cho hết thảy chúng sinh. Ta hướng về bốn phương góc rồi đi bảy bước chân là để thị hiện dứt bỏ mọi tà vạy phiền não và việc làm của ma, Thiên tử ở cõi trời Tự Tại thảy đều hàng phục, Ta sẽ thành đạo Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác. Ta nhẹ nhàng đi bảy bước lên khoảng không ở phương Trên là để thị hiện giống như hư không, không thể nào bám víu hay dính mắc ở đó. Ta lại hướng về phương Dưới rồi đi bảy bước, là để thị hiện dập tắt ngọn lửa bùng cháy trong tất cả địa ngục, nổi lên đám mây pháp lớn rồi tuôn xuống trận mưa pháp lớn đem an vui cho chúng sinh; cơn mưa đá giáo pháp lớn phá tan các giới cấm ác.

Ta sinh ra ở cõi Diêm-phù-đề, thị hiện chừa lại chỏm tóc trên đỉnh đầu, là muốn khiến cho chúng sinh biết tóc đỉnh đầu cùng sinh khởi một lúc với thân đồng tử này, chư Thiên và người đời không ai có thể cầm dao đặt lên trên đỉnh đầu ấy để cạo tóc được. Ở trong vô số kiếp, Ta đã lìa bỏ tóc trên đỉnh đầu, nhưng Ta thị hiện có tóc trên đỉnh đầu. Thuận theo thế gian, Ta thị hiện đi vào đền thờ chư Thiên, thiên thần có uy lực lớn, trời Đế thích, Phạm vương, bốn vị Thiên vương hộ vệ thế gian đều cúi đầu phụng thờ cung kính, đem thân mạng quay về mà làm lễ dưới chân Ta. Ở vô số kiếp, Ta làm đấng tôn quý trong hàng trời và người, Ta thị hiện đi vào đền thờ chư Thiên là vì thuận theo thế gian. Ở cõi Diêm-phù-đề, Ta thị hiện đeo vòng ở tai, thực ra không có người dám xuyên thủng tai của mình. Ta xõa tóc xoay vòng về phía bên phải giống như lông bờm sư tử, tất cả dân chúng đều trông thấy đồng tử xõa tóc như lông bờm sư tử. Ở vô số kiếp, Ta đã lìa bỏ việc xõa tóc, song Ta thị hiện xõa tóc xoay vòng về phía bên phải là vì thuận theo thế gian.

Ở cõi Diêm-phù-đề, Ta thị hiện đi vào nhà sách, ở trong ba cõi, không ai có khả năng làm thầy Ta, chỉ có Ta nhận lời làm thầy dạy cho hàng trời và người, cho nên gọi là Nhất thiết chủng trí. Ở vô số kiếp, Ta đã từng học tập sách vở, thành A-nậuđa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, song thị hiện thực hành học tập sách vở là vì thuận theo thế gian.

Ta thị hiện cưỡi voi, ngựa, xe báu, cất giữ kho châu báu, thân ở chốn thâm cung vui chơi tự nhiên với cung nữ hầu hạ trong cung, điều khiển sắp xếp công việc đất nước, mà thật sự không nhiễm ô bám víu, Ta đã lìa bỏ từ lâu dường như nhổ bỏ nước bọt. Dù thị hiện hưởng thụ năm thứ dục lạc, điều khiển sắp xếp việc nước, làm Chuyển luân vương, làm vua ở cõi Diêm-phù-đề, song ở vô số kiếp Ta đã bỏ ngôi vua, có thể chuyển bánh xe pháp cam lộ vô thượng, Ta thị hiện Chuyển luân vương là vì thuận theo thế gian.

Ở cõi Diêm-phù-đề, Ta thị hiện cảnh già, bệnh, chết, vứt bỏ đủ mọi thứ dục lạc trong cung, xuất gia học đạo, mọi người đều trông thấy đồng tử xuất gia, vì việc độ thoát cho mọi người mà thị hiện sự xuất gia là để thuận theo thế gian. Chúng sinh đều thấy Ta thị hiện bốn quả Sa-môn làm bậc Tu-đàhoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán, chín phép chánh thọ Tam-muội liên tiếp nhau (cửu thứ đệ định), tu bốn chân đế, thế rồi, Ta chóng thành bậc La-hán vô thượng, đã qua vô số kiếp thành bậc La-hán rốt ráo. Vì cứu độ mọi người nên Ta thị hiện lúc mới phát tâm cho đến khi thành đạo, đi đến nơi gốc cây, thị hiện ngồi nệm cỏ, hàng phục chúng ma, thành đạo vô thượng. Ở vô số kiếp, các não hại của chúng ma Ta đều hàng phục, được pháp cam lộ. Ta thị hiện hơi thở ra vào, đi tiểu, đi đại tiện, nhưng pháp thân thanh tịnh không có các mối lo này. Ta thị hiện vào tất cả các loài hữu tình chúng sinh và phi tình là để tùy thuận thế gian. Ta thị hiện thọ nhận sự ăn uống là vì chúng sinh, thật ra Ta không có tư tưởng đói khát, vì thuận theo thế gian nên Ta thị hiện ăn uống.

Ở vô số kiếp, Ta thường chứng đắc các Ba-lamật rất mực sâu xa, chẳng theo thời tiết, Ta thị hiện cư trú nhà cửa, thực ra Ta không có sự ngủ nghỉ, mắc chứng nôn mửa, há miệng ngáp, chau mày, chồm dậy cùng những sự đau đớn khổ sở trong thân, Ta thị hiện nương nhờ nhà cửa là để thuận theo thế gian. Ta thị hiện ngồi, nằm, kinh hành, ngắm, nhìn, ngoảnh lại, liếc mắt, co vào, duỗi ra, cúi xuống, ngước lên, pháp thân chân thật không có loại hình dạng này. Ta thị hiện tắm rửa, xoa dầu mè vào thân, xỉa răng, súc miệng, nhỏ thuốc sáng mắt, những việc này không phải là sự cần thiết của pháp thân thanh tịnh. Tay chân mềm mại như lá hoa sen, hơi miệng thơm tho tinh khiết như hoa Ưu-bát-la, đôi mắt thanh tịnh dường như trăng sáng, Ta thị hiện pháp này là vì thuận theo thế gian. Ta thị hiện tu hành hạnh ít muốn, xin ăn sơ sài, mặc y phấn tảo. Ở vô lượng kiếp, lối tu khổ hạnh của Sa-môn, Ta đều đã rốt ráo. Ta hiện ở nhân gian làm cha của La-hầu-la, làm con vua Tịnh Phạn, mẹ của Ta là bà Ma-da, quyến thuộc thành tựu, song Ta có thể chán nỗi vui trong đời mà xuất gia học đạo, ở giữa cây rừng, Ta thị hiện sự hơn và kém của dục, sự chênh lệch và hạ thấp của lạc, bỏ ngôi vị vua và thái tử, mang họ lớn Cù-đàm. Ta thị hiện làm người xuất gia hóa độ chúng sinh, không phải làm Như Lai dính mắc vào năm thứ dục và làm cha của Lahầu-la. Ta hiện có cha mẹ là thuận theo thế gian, các chúng sinh ấy gọi Ta là người đời, thực ra Như Lai không phải là trời, cũng chẳng phải người.

Ta lại ở cõi Diêm-phù-đề thị hiện nhập Nêhoàn, nhưng chẳng rốt ráo vào Nê-hoàn. Chúng sinh đều nói Như Lai diệt độ mãi mãi, nhưng nay pháp thân Như Lai thường trụ, không phải pháp biến đổi, cũng chẳng phải pháp tiêu diệt, chư Phật thường trụ thị hiện Nê-hoàn.

Ta lại còn làm Tỳ-kheo phạm bốn pháp nặng, mọi người đều nhìn thấy, thực ra Ta không làm những hành vi biếng nhác. Hoặc giả Ta lại thị hiện làm những hành vi của một kẻ Xiển-đề, hoặc thị hiện phá sự hòa hiệp của Tăng. Mọi người đều trông thấy Ta gây ra nghiệp vô gián, nhưng kỳ thật Ta không có tâm phá hoại sự hòa hợp của chúng Tăng, cũng không có Tăng để Ta có thể phá hoại.

Ở cõi Diêm-phù-đề, Ta hộ trì chánh pháp, chúng sinh đều trông thấy Ta là vị Đại sĩ hộ pháp. Đó là thường pháp của chư Phật và Bồ-tát. Ở cõi Diêm-phù-đề, Ta thị hiện làm thiên ma, chúng sinh đều trông thấy, song thực ra Ta không làm theo những hành động của chúng ma. Ở cõi Diêm-phùđề, Ta thị hiện làm hình dáng người con gái, chúng sinh nhìn thấy rồi, ai nấy đều khen: “Kỳ lạ thay! Hôm nay người nữ làm Phật”. Thực ra, Như Lai không làm thân người con gái, để làm vừa lòng điều người kia mong muốn, tùy theo nhân duyên mỗi người, Ta hiện ra hình dáng nam nữ là thuận theo thế gian.

Ở cõi Diêm-phù-đề, Ta thị hiện sinh ra trong nẻo đường của bốn loại súc sinh, chúng sinh đều bảo, Ta là súc sinh chân thật, thực ra Ta không làm theo các hành động của loài súc sinh kia, Ta thị hiện vào đường súc sinh là vì thuận theo thế gian.

Ta vào trong cõi trời Phạm thiên, thị hiện vì Phạm thiên mà làm sư trưởng. Các chúng sinh ở cõi ấy thờ phụng Phạm thiên, thế là Ta dùng phương tiên dẫn dụ họ tiến lên, khiến cho họ đi vào chánh pháp, không tập quen làm các nghiệp kia, Ta thị hiện hình dáng Phạm thiên là tùy thuận thế gian. Ta thị hiện vào nhà thổ để độ cho các hạng người dâm mà không dấy lên tư tưởng dâm dục, tâm Ta như hoa sen, nước cõi trần không làm vấy bẩn. Ta trang nghiêm thân thể của mình rồi đi dạo chơi ở các con đường lớn thông bốn ngả, để dùng phương tiện dẫn dụ giáo hóa chúng sinh có tâm nhiễm ô. Ta vào nhà kỹ nữ thị hiện làm người con gái, đem chánh pháp để giáo hóa mọi người. Ta vào trường học thư viện thị hiện làm sư trưởng giáo hóa những đứa trẻ nhỏ thơ dại. Hoặc giả Ta vào nơi hội họp uống rượu, đánh cờ, sòng bạc, rạp hát, nhằm mục đích giáo hóa, nên Ta chẳng làm những việc giống như họ. Ta đi đến bãi tha ma để độ các loài chim muông mà không chấp tướng. Ta vào trong chỗ quan lớn để dạy bảo họ khiến cho việc cai trị được đúng đắn. Ta vào chỗ các vương tử để giáo hóa khiến cho họ hộ pháp. Ta vào chỗ các vua chúa, lấy phép trị nước bằng chánh pháp của vua đời trước để dạy dỗ cho họ. Ta thị hiện tai họa tật bệnh, ôn dịch, rồi bày ra phương thuốc cứu giúp cho họ, khiến cho những kẻ mắc bệnh kia chán ghét lìa bỏ nỗi khổ của thân, rồi đem chánh pháp để đưa đường chỉ lối cho họ; vì chúng sinh nói rằng, tai nạn dịch bệnh ấy là chân thật. Ta thị hiện thời vận thóc lúa đắt đỏ quý hiếm, bèn bố thí món ăn cam lộ cho chúng sinh nghèo đói thiếu thốn, rồi đem chánh pháp để dẫn dắt họ; vì chúng sinh bảo rằng, thời vận thóc lúa quý hiếm như thế là thật. Ta thị hiện tai họa binh đao, mỗi mỗi chúng sinh cùng làm tổn hại lẫn nhau, Ta giáo hóa khiến cho họ hòa hợp như nhau, rồi đem chánh pháp để dẫn dắt họ; vì chúng sinh nói đây là tai họa chiến tranh thật sự. Ta thị hiện vì chúng sinh chấp giữ, cho các pháp là thường vào thời hoại kiếp thiêu đốt, để chỉ cho họ biết thể trạng của các pháp là vô thường; vì chúng sinh nói rằng, đó thật sự là cuộc đại hỏa tai vào thời hoại kiếp. Đối với tất cả chúng sinh, Ta nói tiếng giống như tiếng nói của mỗi người, âm thanh vi diệu hơn hẳn từng mỗi loài chúng sinh kia, chúng sinh ưa thích âm thanh nhân đó mà được độ thoát. Ta thị hiện thành bốn thứ đất, nước, lửa và gió; tùy theo từng thứ nào, chúng sinh nhiễm ô chấp trước nhờ đây mà được độ thoát. Ta thị hiện thành cây thuốc để chữa bệnh cứu giúp chúng sinh, nhân đây mà họ được độ thoát. Ta vào các đạo giáo không chính đáng mà thị hiện xuất gia, từng mỗi đạo giáo Ta đều vì những người kia mà làm thầy hướng dẫn cho họ. Ở vô số kiếp, Ta đã lìa xa ngoại đạo, Ta thị hiện xuất gia là đem chánh pháp để dẫn dắt. Ta thị hiện làm người thợ khéo, hiểu cách thức chữa bệnh và chú thuật tất cả chúng sinh và người ngoại đạo ai nấy đều ôm lòng kiêu mạn, do đó Ta ở trong những người đó để thị hiện giáo hóa đủ các thứ, hàng phục những kẻ tà vạy, cao ngạo kiêu mạn, rồi đem chánh pháp để dẫn dắt họ. Chúng sinh nhìn thấy rồi họ nói Ta là người đời. Như Lai thường trụ lìa khỏi pháp thế gian. Thậm chí Ta thị hiện làm người hèn hạ, làm đầy tớ chịu người sai khiến, tùy theo loại mà độ thoát mọi người.

Ở cõi Diêm-phù-đề có đủ mọi thứ nghiệp khác nhau, không có nghiệp nào là Ta không thị hiện giáo hóa, thật ra Như Lai chẳng làm cùng công việc giống như họ, Ta thị hiện làm những việc y như người, đó là thuận theo thế gian.

Châu Uất-đan-viết ở phía Bắc, châu Câu-da-ni ở phía Tây, châu Phất-vu-kiến ở phía Đông, hai mươi lăm xứ, cho đến ba ngàn đại thiên thế giới, Ta thị hiện giáo hóa ở trong đó là thuận theo thế gian. Như Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm giảng nói rộng, Như Lai thành tựu đại phương tiện trí. Tất cả những điều Ta làm, không việc nào mà Ta không thị hiện giáo hóa, cho nên gọi rằng Đại Bát-nêhoàn, Đại Bồ-tát trụ ở công đức ấy, thảy đều có thể tùy theo loại mà biến hóa đủ mọi thứ một cách tự tại và không có nỗi sợ hãi. Lại không nên nghi ngờ Ta là cha của La-hầu-la, nên biết ở vô số kiếp, Như Lai đã xa lìa biển cả ái dục sinh tử, cho nên Như Lai là pháp thường trụ, không phải pháp biến đổi, không phải pháp phai mờ.

Ca-diếp bạch Phật:

– Nếu như Như Lai là pháp thường trụ, không phải pháp mất đi, không phải pháp biến đổi, thì tại sao Như Lai khen ngợi Nê-hoàn? Ví như ngọn đèn tắt, lửa tắt đó đến chỗ nào, không ai có thể biết.

Phật bảo Ca-diếp:

– Bây giờ Ta nói thí dụ này, không phải như ông nói. Thiện nam! Ví như đồ dựng dầu thắp đèn, dầu đã hết gọi là đèn tắt, đồ đựng ấy vẫn còn. Như Lai cũng vậy, dầu đốt cháy phiền não tắt ngấm, đèn đóm Như Lai luôn luôn còn chứ không mất. Nếu cho rằng dầu và đồ đựng đều hết cả, thì Như Lai vào Nê-hoàn cũng sẽ phải hết cả. Đèn tắt, đồ dựng còn, cho nên Như Lai không ẩn mất cũng chẳng phát sinh sự vui thích Nê-hoàn.

Lại nữa, này thiện nam! Ta nói đèn tắt là thí dụ A-la-hán, không phải nói Nê-hoàn. Sự tham muốn món ăn dơ bẩn của thế gian đều diệt mất, còn lại sự ham muốn món ăn rốt ráo, ví như đèn tắt; về Ana-hàm, ý nghĩa của nó cũng vậy, cho nên Ta dùng phương tiện giảng nói giáo pháp mầu nhiệm tinh tế bí mật, chẳng phải giảng nói Nê-hoàn.

Ca-diếp bạch Phật:

– A-na-hàm có những ý nghĩa gì? Phật bảo Cadiếp:

– Không thọ thân trở lại gọi là A-na-hàm. Cadiếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói thế nào? Như Lai cũng có pháp bí ẩn giống như nhà ảo thuật chăng? Đức Phật dạy:

– Không phải vậy, giáo pháp Ta giảng nói ví như khi trăng thu vành vạnh, lìa bỏ dâm dục, tức giận, si mê; không có những sự che lấp, cũng không có sự bí ẩn.

Lại nữa, giống như ông trưởng giả có rất nhiều tiền của, ông chỉ có một đứa con, vốn dành tình cảm yêu thương rất mực, bèn đem con đến nhà thầy xin thầy dạy cho nó học bán tự. Thời gian chưa được bao lâu, sợ con mình chẳng chóng thành đạt, người cha đưa con trở về, ngày đêm ân cần dạy cho con học bán tự. Thiện nam! Ông nói thế nào? Khi người cha ấy dạy con học bán tự, liệu nó có khả năng biết hết tất cả ký luận hay không? Ví bằng nó có thể biết hết tất cả ký luận, thế tại sao người cha ấy dạy nó học bán tự, đối với đứa con yêu quý, ông ấy có điều gì che giấu mà không dạy cho nó học ký luận chăng?

Ca-diếp trả lời:

– Không phải vậy, bạch Thế Tôn! Đứa con ấy còn thơ dại chưa đủ khả năng biết luận, cho nên người cha không dạy nó học. Nếu cho rằng, ông ấy giữ bí mật không dạy bảo thì mới gọi là che giấu, còn ông ấy khiêm tốn khuyến khích, tùy theo sức mình mà chỉ dạy dần dần thì không gọi là che giấu. Phật bảo Ca-diếp:

– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Thiện nam! Giống như điều ông vừa nói, nếu tức giận tiếc rẻ mà giữ bí mật không dạy bảo thì mới gọi là che giấu; đối với tất cả chúng sinh, Ta đem tâm từ yêu thương nghĩ nhớ giống như tưởng nhớ đứa con một, bởi vì đứa trẻ thơ dại ấy chưa kham nổi pháp sâu xa nên Ta không giảng nói cho nó. Giống như người kia dạy con, thoạt đầu học bán tự, cũng như thế, Ta giảng nói Chín bộ kinh, Mười thứ trí lực, Bốn pháp chân đế, Tám phần thánh đạo; còn ký luận hết sức sâu xa, đó là Phương đẳng Đại thừa, Ta đều không nói cho họ.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như vị trưởng giả dạy dỗ đứa con yêu quý của mình, trước tiên cho nó học bán tự, bán tự đã đúng đắn, ông lần lượt chỉ dạy cho nó học ký luận rất sâu xa, khiến cho con thành tựu. Cũng như thế, thoạt đầu Ta chỉ nói Chín bộ kinh cho đệ tử, khi biết họ có thể lãnh thọ nổi, sau đó Ta mới nói ký luận Đại thừa, Như Lai tồn tại lâu bền, không phải pháp biến đổi, khiến cho con mắt trí tuệ của các chúng sinh mở rộng.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như vào mùa hạ, đám mây và sấm sét nổi lên, ắt hẳn tuôn xuống trận mưa lớn, trăm thứ lúa má hoa màu và cây cỏ thảy đều được thấm ướt. Cũng như thế, hôm nay Như Lai làm nổi lên đám mây pháp bí mật vi diệu đại Nê-hoàn, làm chấn động âm thanh thuyết pháp lớn lao, chắc chắn sẽ tuôn xuống trận mưa giáo pháp cam lộ, làm cho chúng sinh được yên vui.

Ca-diếp bạch Phật:

– Như Thế Tôn nói, không có tích chứa gì cả, hiểu rõ đoạn thực. Như chim bay giữa khoảng không, khó tìm được vết chân của nó, điều này có ý nghĩa gì?

Phật bảo Ca-diếp:

– Tích có nghĩa là tích tụ, nhận lấy nghĩa là thêm lên; tạng là kho tàng, tạng có chỗ thu nhận nên gọi là tích chứa. Tích chứa có hai thứ: tích chứa hữu vi và tích chứa vô vi. Tích chứa hữu vi là nói hàng Thanh văn, tích chứa vô vi là nói Như Lai. Tăng có hai hạng: đẳng Tăng và vô đẳng Tăng. Đẳng Tăng là Thanh văn Tăng, Thanh văn Tăng này cũng không có sự tích chứa, thế nhưng tại sao hiện nay họ nhận nuôi tiểu đồng làm tôi tớ, cất giữ tiền bạc của cải, lập kho vựa? Dầu mè mà muối ăn còn không nên tích trữ, chẳng lẽ Như Lai để mặc họ nuôi tôi tớ tiểu đồng, người nào nói rằng, Như Lai để mặc họ tùy ý như thế, đời đời người ấy sẽ bị đọa vào địa ngục rút lưỡi. Đẳng Tăng Thanh văn không có việc tích chứa, nghĩa là có thể hiểu rõ đoạn thực, không bỏ đoạn thực và suy nghĩ ham muốn mùi vị, hạng này đạt đến chỗ vết chân khó tìm, chóng thành đạo Đẳng Chánh Giác vô thượng. Vết chân khó tìm cho nên gọi là Như Lai. Hữu vi Tăng còn không tích chứa, huống gì là vô vi Tăng. Vô vi Tăng là chư Phật Như Lai, lẽ nào chư Phật Như Lai có giấu kín, nếu có giấu kín thì chính là tích chứa, cái khó tìm ấy gọi là Nê-hoàn bất động khoái lạc. Không có các tướng hư không, mặt trời, mặt trăng, mây, mưa, đất, nước, lửa, gió, sinh, già, bệnh, chết, phiền não kia, thường trụ không biến đổi, khoái lạc bất động, cho nên gọi là Nê-hoàn. Do được Nê-hoàn, cho nên gọi là Như Lai Đại Bátnê-hoàn. Điều ấy trở thành lớn là vì làm việc lớn, cái gọi là lớn nghĩa là có tên gọi hữu vi. Nếu có một người sống lâu vô lượng thì gọi là đại nhân, người có năng lực thực hành giáo pháp là bậc lớn trong loài người, nếu người ấy lại thành tựu tám điều suy nghĩ của bậc đại nhân, thì gọi là đại nhân. Cho nên đại có nghĩa là tên gọi hữu vi. Nê-hoàn là lìa bỏ những ung nhọt, cho nên gọi là Nê-hoàn. Ví như có người thân thể bị trúng tên độc, chịu bao nỗi đau đớn khổ sở, người ấy gặp được vị thầy thuốc giỏi giúp việc chữa trị hoạn nạn ung nhọt, nỗi đau đớn khổ sở đều trừ diệt. Người thiện nam ấy được lìa khỏi u nhọt, lại đi chơi các nước để điều trị hoạn nạn mụn nhọt cho các chúng sinh khắp nơi. Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cũng như vậy, tất cả chúng sinh trong cõi Diêm-phù-đề chịu đau đớn gay gắt, bởi các phiền não như dâm dục, căm giận, ngu si ở trong kiếp số không lường, Ta bèn giảng nói pháp dược cam lộ Đại thừa để trị liệu chứng bệnh ung nhọt cho chúng sinh. Đối với chúng sinh này, khi đã lìa khỏi hoạn nạn ung nhọt rồi, họ lại hiện ra ở nước khác để trị liệu mọi bệnh tật cho các chúng sinh, cho nên gọi là Đại Bát-nêhoàn. Từ nghĩa chân thật cho đến nghĩa phương tiện, thảy đều gọi là Đại Bát-nê-hoàn, thị hiện đi vào các nẻo và vào giải thoát. Tùy theo sự thu nhận giáo hóa của chúng sinh kia mà ở đâu cũng thị hiện, đó là ý nghĩa quan trọng, vì vậy gọi là Đại Bát-nêhoàn.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Tại sao phương pháp của vị thầy thuốc giỏi có thể chữa tất cả bệnh hoạn ung nhọt cho chúng sinh? Bệnh khỏi rồi vị ấy lại hiện ra ở nơi khác để chữa các bệnh chăng?

Đức Phật dạy:

Đúng thế, này thiện nam! Vị ấy có thể trị liệu tất cả, đều khiến cho họ lìa khỏi bệnh tật, chỉ trừ người mắc bệnh nặng không thể cứu chữa. Chư Phật Thế Tôn cũng như thế, trừ hạng Nhất-xiển-đề ra, còn lại tất cả mọi bệnh tật của các chúng sinh thảy đều được cứu chữa.

Ca-diếp lại hỏi:

– Giải thoát là những loại gì? Phật bảo Ca-diếp: – Sự giải thoát ấy là Sắc và Vô sắc. Vô sắc là sự giải thoát của Thanh văn và Duyên giác, Sắc là sự giải thoát của Như Lai. Giải thoát tuy sắc nhưng không nói ấy là sắc. Vì sao? Vì như tu hành ở cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng là sắc hay vô sắc cũng không đúng là sắc hữu. Ông hỏi cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng là sắc hay vô sắc cũng không đúng là sắc. Sao gọi là trụ? Sao gọi là ưa thích? Việc này Ta cần phải nói, đây là cảnh giới của Phật, không phải điều mà các hàng Thanh văn hay Duyên giác biết được.

Ca-diếp bạch Phật:

– Con chỉ ước mong xin Thế Tôn nói lại ý nghĩa của sự giải thoát khi Như Lai Đại Bát-nê-hoàn.

Phật bảo Ca-diếp:

– Sự giải thoát ấy là đối với tất cả sự trói buộc và hòa hợp đều lìa bỏ. Lìa bỏ hòa hợp là bất sinh đối với sinh, giống như do nơi cha mẹ mà sinh ra đứa con ấy, đó gọi là sinh. Sự giải thoát ấy thì không phải như thế. Giống như tính chất tự nhiên sẵn có của đề hồ là thanh tịnh, chẳng do sự ái dục của cha mẹ nuôi lớn, vì độ thoát chúng sinh nên thị hiện có sinh ra, cho nên giải thoát bất sinh là đối với sinh. Lại còn sinh ấy là ví như trồng các thứ lúa má hoa màu mà đâm chồi nảy lộc, sự giải thoát ấy thì không phải như thế, cho nên nói rằng giải thoát bất sinh. Sự giải thoát ấy tức là Như Lai, cho nên Như Lai bất sinh là đối với sinh, không phải làm điều mình làm, thực ra làm là giống như thành quách, lầu nhà có người làm nên, kỳ thực giải thoát thì không phải như thế, do đó giải thoát không có người làm, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Cho nên phải biết rằng, Như Lai không phải làm nên, đó gọi là vô vi. Hữu vi ấy là ví như nhà làm đồ gốm dùng đất dẻo nhào với nước làm thành đồ dùng, có làm thì có vỡ, thực ra giải thoát thì chẳng phải như vậy, cũng không có làm thành, cũng không có hủy hoại, cho nên giải thoát không có sự tạo tác, không có sự hủy hoại, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Nên biết Như Lai không sinh cũng chẳng tử, cho nên Như Lai chính là pháp vô vi, cố tình nói Như Lai vào đại Nê-hoàn không có tướng già yếu suy nhược, thân hình héo hon, cơ thể gầy còm, tóc bạc, răng rụng, đó là tướng già. Kỳ thực giải thoát thì không phải như thế, vì mãi mãi xa lìa tất cả sự lão suy, hủy hoại, biến đổi, gọi là giải thoát, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Do đó Như Lai không có tướng già cả suy yếu, cho nên gọi rằng không có bệnh. Gọi bệnh ấy là có bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh, ngoài ra số bệnh tật bất ngờ không thể nói hết. Xa lìa những tai họa này, cho nên gọi là giải thoát, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Pháp thân thanh tịnh không có bệnh, do đó nói rằng, Như Lai không có bệnh; vì không có bệnh nên không có sự chết, chúng sinh thường chết, không có sự giải thoát, cho nên có tận, có chết, mãi mãi xa lìa tên gọi là chết, cho nên nói là giải thoát, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Như Lai thành tựu vô lượng công đức vi diệu tối thượng như thế, nói rằng có sự chết, thì thật là vô lý. Pháp thân kim cương thanh tịnh không hủy hoại, lẽ nào có tướng vô thường biến đổi hủy hoại, cho nên bất tử, xa lìa các sự nhơ bẩn. Ví như tấm vải bông trắng tinh đẹp đẽ bị dầu bơ làm vấy bẩn, thực ra giải thoát thì chẳng phải như thế, dường như hoa sen trắng thanh tịnh không có nhơ bẩn, sự giải thoát của Như Lai cũng như vậy, Ta vĩnh viễn xa lìa ái dục và các bụi trần nhơ bẩn, cho nên tên gọi của Như Lai là Vô Cấu, lìa khỏi các giới hạn trở ngại như có vua chúa đặt ra, gọi đó là giới hạn trở ngại, song thật ra sự giải thoát không có các giới hạn trở ngại, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Do đó Như Lai không có sự ngăn ngại mà mát mẻ. Nơi mát mẻ là miếu trời thuộc thế tục, gọi là mát mẻ, đó là nói xằng bậy, chỉ có giải thoát là mát mẻ chân thật, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Cho nên Như Lai mát mẻ yên ổn, sự yên ổn ấy là ví như đường sá không có các kẻ trộm cướp, thì gọi đó là yên ổn. Sự giải thoát chân thật thì chẳng phải như thế, tính chất của nó là không có sự sợ hãi, thì gọi đó là yên ổn, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Cho nên Như Lai yên ổn, không có nỗi sợ hãi và lìa khỏi các sự hoảng sợ. Sự lo sợ ấy là ví như vị quốc vương luôn luôn sợ hãi kẻ thù, sự giải thoát thật sự mãi mãi không có nỗi sợ sệt này. Ví như Chuyển luân Thánh vương không có các sự khủng khiếp, sự giải thoát thật sự cũng như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Pháp vương Như Lai chuyển bánh xe vô thượng không có các kẻ thù, do đó Như Lai không có sự sợ hãi và không có sự lo lắng. Sự lo sợ ấy vì như vị quốc vương có kẻ mưu tính phản nghịch, vị vua ấy không có năng lực làm cho kẻ kia đầu hàng khuất phục, nên thường ấp ủ nỗi lo âu sợ hãi trong lòng. Sự giải thoát chân thật không có nỗi lo sợ này, ví như vị quốc vương hàng phục được người thù hằn, vị vua ấy vui thích và không có nỗi lo âu, sự giải thoát ấy chính là Như Lai. Cho nên Như Lai không có nỗi âu lo, xa lìa các ô uế của cõi trần. Ô uế của cõi trần ấy ví như gió mùa xuân làm nổi tung các tro bụi, sự giải thoát chân thật là lìa xa các tro bụi, giống như viên ngọc sáng bên trong búi tóc của vị Chuyển luân vương không có các bụi bặm dơ bẩn, sự giải thoát ấy chính là Như Lai. Do đó Như Lai lìa khỏi các ô uế của cõi trần, lìa bỏ các sự giả dối. Sự hư hão giả tạo ấy thí dụ như chiếc bình hư hỏng. Sự giải thoát chân thật thì chẳng phải như vậy, giống như kim cương không có sự hư hão giả dối, sự giải thoát ấy chính là Như Lai. Do đó Như Lai không có các sự hư hão giả dối, xa lìa những sự không tự tại. Không tự tại là như người nghèo khổ cùng cực gánh của cải người khác, người giàu có trông nom chế ngự, người nghèo không được tự do thoải mái. Sự giải thoát chân thật thì không phải như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai, cho nên Như Lai tự tại không có sự trở ngại, không có những mối lo lấn lướt. Các mối lo lấn lướt là như con người có dính dáng đến cái nóng vào mùa xuân, uống rượu vào mùa hạ, dính dáng đến giá lạnh vào ngày mùa đông, thì làm thương tổn thân thể của mình, tự nhiên nảy sinh tai họa xâm phạm. Sự giải thoát chân thật thì không phải như thế, không có những tai họa xâm phạm, sự giải thoát ấy chính là Như Lai. Cho nên Như Lai không có những tai họa xâm phạm, xa rời các sự cặn đục, ví như hư không không có các cặn đục.

Sự giải thoát chân thật cũng như thế, không có các sự cặn bã dơ bẩn, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Cho nên Như Lai không có các sự cặn bã vẩn đục, không có các sự vướng vít, sự vướng vít ấy là bạn bè và quyến thuộc. Sự giải thoát chân thật không có các sự vương vấn này, giống như Chuyển luân vương tự tu dưỡng một mình, không có bè bạn, sự giải thoát ấy chính là Như Lai. Cho nên Như Lai khéo tu dưỡng một mình đặc biệt kỳ lạ. Như hoa sen mọc trong nước, đây không phải đặc biệt kỳ lạ, trong lửa mọc lên hoa sen mới là đặc biệt lạ lùng, mọi người yêu thích. Sự giải thoát chân thật cũng như thế, được mọi người yêu thích, sự giải thoát ấy chính là Như Lai. Cho nên Như Lai hiếm có, đặc biệt kỳ lạ, không có người nào đủ năng lực làm nổi. Ví như đứa trẻ sơ sinh, răng của nó chưa lộ ra, ta không thể nào khiến cho răng mọc. Sự giải thoát chân thật cũng như vậy, không hợp thời mà được, lẽ nào có cái lý đó? Giống như hạng Nhất-xiển-đề uể oải biếng nhác, suốt ngày nằm như cái thây ma, rồi nói ta sẽ thành Phật, nếu hạng này thành Phật, liệu có cái lẽ ấy sao? Ví phỏng các người Ưu-bà-tắc tin theo giáo pháp, muốn cầu giải thoát, đi qua bờ bên kia, cũng đâu có lẽ đó, huống gì là người nằm như cái thây ma kia. Vì sao? Vì tính chất không phải trở thành gì khác, do đó sự giải thoát đó tức là Như Lai. Vì thế, Như Lai là địa vị mà không ai có tài năng gì làm nổi, vô lượng vô biên. Ví như biển cả còn có thể lường biết nổi, còn sự giải thoát chân thật thì vô số vô lượng, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Cho nên Như Lai vô lượng tối thắng, sự tối thắng đó không có gì có thể so sánh nổi, ví như biển cả không lấy gì để so sánh nổi, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Do đó Như Lai tối thắng cao hiển, sự cao hiển đó ví như hư không, không có gì cao hơn nữa, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Cho nên sự cao hiển của Như Lai là đứng đầu trong các hàng Thánh, ví như sư tử là con vật đứng đầu trong các loài thú, sự giải thoát thật sự là vua của các pháp, ánh sáng giải thoát soi chiếu tất cả pháp, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Gọi là cao nhất, gọi là trên hết, ví như các phương lấy châu Uất-đan-viết gọi là châu trên hết, giải thoát tối thượng cũng như vậy, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Cho nên Như Lai cao nhất, không có gì cao hơn nữa, ví như các phương, châu Uất-đan-viết là châu cao nhất, không có châu nào cao hơn nữa, giải thoát vô thượng cũng như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Do đó Vô thượng là thường pháp của Như Lai, giống như sự chết là thường pháp của các hàng trời và người. Thường pháp của sự giải thoát thì không phải như thế, sự giải thoát ấy chính là Như Lai.

Cho nên, Như Lai thường trú bền vững, cây chuối, bọt nước không có sự bền vững, sự giải thoát thật sự thì không phải như vậy, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Lìa bỏ các thói hư tục xấu là luận rằng, bức tường mục nát là nơi muỗi mòng ve sầu dừng đậu, sự giải thoát ấy thì không phải như thế; ví như bức tường có vẽ tranh, chúng nó không tài nào dừng đậu, sự giải thoát như là tất cả tội ác không thể nào làm vấy bẩn, sự giải thoát ấy chính là Như Lai. Không có ranh giới bến bờ, là như đất nước thôn xóm mà còn có ranh giới bờ cõi, sự giải thoát thật sự thì không phải như thế, ví như hư không vô biên khoái lạc, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Sự vi diệu không hiện ra là như chim bay giữa khoảng không, vết chân không hiện, sự giải thoát không hiện ra cũng như vậy, sự giải thoát ấy tức là Như Lai.

Rất mực sâu xa khó thể lường tính được, nghĩa là ân đức sinh đẻ và nuôi nấng của cha mẹ hết sức sâu dày, không người nào có tài năng so lường nổi, sự giải thoát thật sự cũng như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Rất sâu xa khó thể nhìn thấy, nghĩa là giống như các chúng sinh, tự bản thân mỗi người đều có Như Lai tánh vi diệu bí mật khó thấy, sự giải thoát chân thật vi diệu bí mật khó thấy cũng như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Không ai có năng lực nhìn thấy, nghĩa là giống như tướng nhục kế ở trên đỉnh đầu của Như Lai, không ai có khả năng nhìn thấy, sự giải thoát như thế không phải là điều mà các hàng Thanh văn và Duyên giác trông thấy được, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Không có hang hốc hay nhà ở, hang hốc hay nhà ở là tên gọi của nơi cư trú, chỗ dừng nghỉ, nhà cửa; sự giải thoát thật sự thì chẳng phải như thế, ví như hư không là chỗ ở của hai mươi lăm cõi thì mãi mãi không thể nào được, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Không có sự nắm giữ điều gì, về tên gọi nắm giữ ấy nghĩa là giống như tay cầm quả A-ma-lặc, sự giải thoát thật sự thì không phải như thế, giống như nhà ảo thuật làm ra các trò biến hóa, không người nào có thể nhận lấy được, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Xa lìa những sự dơ bẩn tạp nhạp, sự dơ bẩn tạp nhạp ấy là giống như lấy da bò ghẻ lở có nhiều màu sắc lẫn lộn để làm quần áo, sự giải thoát thật sự thì không phải như thế. Giống như sữa đúng thời có một màu một vị, sự giải thoát chân thật là vi diệu một tướng cũng như vậy, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Tính ấy thanh tịnh, nước đục bùn lắng gọi là không thanh tịnh, sự giải thoát thật sự thì không phải như thế; giống như mưa giữa hư không có một vị thanh tịnh, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Tính ấy chân thật vi diệu, là giống như mặt trăng vành vạnh không có các đám mây âm u, sự giải thoát như thế là chân thật vi diệu, không có các vọng hoặc làm nhơ bẩn tâm tính, sự giải thoát đó chính là Như Lai. Chân thật vi diệu và điềm tĩnh, là giống như cứu lửa cháy trên đầu thì không có thái độ bình tĩnh thản nhiên, sự giải thoát thật sự vĩnh viễn dập tắt phiền não tai họa đốt cháy hừng hực, sự giải thoát ấy tức là Như Lai.

Tính ấy bình đẳng, sự không bình đẳng ấy giống như hai kẻ ngông cuồng, bản tính của họ không đồng đều; sự giải thoát chân thật thì chẳng phải như thế, đặc tính bình đẳng ấy là giống như mẹ con, sự giải thoát đó tức là Như Lai. Tính ấy tịch diệt, đạt đến chỗ cao nhất, không có ý tưởng mong cầu gì hơn nữa, giống như người đói được ăn món ăn thơm ngon, no đủ vừa ý, người ấy không còn ý tưởng mong cầu điều gì khác. Sự giải thoát thật sự cũng như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Tính ấy đã cắt đứt, ví như mồi câu và sợi dây câu đã đứt, sự giải thoát thật sự cũng như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Qua ở bờ bên kia là ví như dòng sông có bờ bên này và bờ bên kia, vô lượng sự sống chết gọi là bờ bên này, sự giải thoát thật sự gọi là bờ bên kia, sự giải thoát ấy chính là Như Lai.

Thanh tịnh như nước đọng vực sâu, nước đọng vực sâu ấy nghĩa là không phải nước ở các dòng sông mà giống như nước trong biển cả, sự giải thoát thật sự cũng như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Mùi vị ấy ngon thuần túy là giống như gieo hạt giống trong nhà ở, mùi vị của nó đổi thành đắng; sự giải thoát thật sự thì không phải như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Lìa khỏi các sự buông lung, sự buông lung ấy là mải mê ưa thích năm thứ dục; sự giải thoát thật sự thì không phải như thế, tính chất của nó thanh tịnh; lìa bỏ dâm dục, tức giận, si mê; sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Khuất phục những sự khao khát ái dục, ái có hai thứ: có niệm ái và có pháp ái. Pháp ái là thương xót nhớ nghĩ chúng sinh, sự giải thoát thật sự là không có niệm ái, xa lìa ngã và ngã sở, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Tính ấy diệt tận, tất cả sự bó buộc của tập khí sinh tử đều diệt, ấy gọi là giải thoát, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Làm ngôi nhà cho thế gian, để làm bóng rợp che phủ độ thoát tất cả cõi, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Làm nơi nương tựa cho thế gian giống như quốc vương đi dạo chơi các thành ấp trong nước, sự giải thoát chân thật thì chẳng phải như thế, bất động khoái lạc ấy gọi là giải thoát, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Nơi ấy thường yên ổn, là ví như sự hiểm nạn khủng bố ở chốn đồng không mông quạnh; sự giải thoát thật sự thì không phải như thế, giống như vua trong loài sư tử không có các nỗi sợ hãi đối với các giống thú, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Lìa khỏi những sự bức bách, là giống như có người bị thú dữ thúc ép, không có những sự cứu giúp che chở khiến cho họ qua khỏi tai nạn rủi ro, sự giải thoát chân thật thì chẳng phải như thế; giống như người thợ chuyên môn về thuyền bè đóng được chiếc thuyền vững chắc có khả năng vượt qua biển cả, sự giải thoát ấy chính là Như Lai.

Lìa bỏ những sự vẩn đục, ví như từ sữa tươi làm ra váng sữa (lạc), từ váng sữa chế thành sữa đặc, từ sữa đặc chế tạo ra thục tô (bơ), từ thục tô làm ra đề hồ (phó mát). Chỉ có tự tính của vị đề hồ là thanh tịnh, lìa bỏ những sự vẩn đục dơ bẩn, sự giải thoát như thế, giải thoát ấy tức là Như Lai. Hàng phục các sự tự cao kiêu mạn, ví như vị quốc vương kiêu mạn tự cao tự đại, nói rằng không có ai ngang bằng với mình, sự giải thoát thật sự thì không phải như thế; lìa bỏ những sự tự cao kiêu mạn, không có cái ta và cái ta có, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Diệt trừ vô minh, là ví như sữa tươi và váng sữa lần lượt sinh ra vị này qua vị khác với nhau cho đến thành ra đề hồ, vị đề hồ ấy lìa khỏi các sự vẩn đục dơ uế, tự tính trong sáng; sự giải thoát như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Xa lìa sự ham muốn, ở chỗ yên vắng tĩnh mịch, không có điều gì sánh ngang được với hai pháp ấy; đi một mình, bước một mình giống như con voi giữa đồng không mông quạnh; sự giải thoát như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Lìa bỏ những sự dối trá, giải thoát ngã sở, vào Như Lai tạng, nghĩa là thân của các hàng trời, người, A-tu-la không có sự bền vững chắc chắn, giống như cây y lan, lau sậy, cây chuối không có sự chắc chắn vững vàng, vì xa lìa Như Lai tạng; sự giải thoát chân thật là vào Như Lai tạng, xa lìa những sự giả tạo, dứt bỏ tất cả sự sống chết nối tiếp ở các cõi; sự giải thoát như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Đi vào chánh pháp của Phật, không phải chánh pháp là giống như hoa bách diệp, sự giải thoát thật sự thì chẳng phải như thế, sự giải thoát đó chính là Như Lai. Đi vào ở một chỗ là đối với các sự nhập môn thì không có ngã sở; sự giải thoát như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Đó là pháp thiện, ví như người con hiếu có hiếu với cha mẹ, sự giải thoát như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Vượt ra khỏi thế gian, đối với tất cả pháp vượt quá ở trên kia, trong tất cả mùi vị thì mùi vị của sự giải thoát chân thật là đứng hàng đầu, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Trong vắt không dao động, gọi sự dao động ấy là như biển nổi sóng, sự giải thoát chân thật thì chẳng phải như thế; giống như cờ của Nhân-đà-la, gió thổi từ bốn phương không thể làm lay động, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Bước lên ở nhà giảng giáo pháp, nhà thế gian giống như cung điện nhà cửa của vua, nhà giải thoát chân thật thì không phải như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Ánh sáng soi chiếu rõ ràng giống như vàng ròng được tôi luyện; giải thoát như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Nghỉ ngơi khoái lạc là giống như vị quốc vương vừa mới hàng phục kẻ thù ở nước đối địch, thân tâm vui thích; sự giải thoát thật sự là vứt bỏ các khổ ấm, được khoái lạc Nê-hoàn, sự giải thoát ấy chính là Như Lai.

Vô dư rốt ráo, xa lìa các sự trói buộc ở lao ngục sống chết, ví như người bị tù, tội hết được ra khỏi nhà giam, giải thoát như thế, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Lìa khỏi các sự trói buộc độc hại, tai họa trói buộc của vô lượng phiền não rắn độc đều đã giải thoát. Dứt tất cả hữu, lìa tất cả sự khổ sở, được hết thảy sự vui sướng, sinh sôi tăng trưởng sự giải thoát, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Lìa bỏ dâm dục, tức giận, ngu si, tất cả phiền não vĩnh viễn đã trừ diệt hết, nhổ gốc rễ ba độc, giải thoát tột bậc không còn thừa, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Lìa bỏ tất cả hữu, tất cả các hữu từ nay vĩnh viễn tiêu diệt, nhập vào Nê-hoàn rốt ráo giải thoát, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Vượt lên trên các ấm, vượt khỏi tất cả những pháp bất thiện, ở mãi trong cảnh giải thoát, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Lìa khỏi sự tự tại, lìa khỏi các ngã sở, phi ngã trong thế tục, vô ngã chân thật nên Phật tánh hiện ra rõ ràng, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Tính ấy là hư không, hư không ấy là sở hữu và không có sở hữu đều không thể nắm bắt được, giống như hữu và không có sở hữu của hạng Ni-kiền, sự giải thoát thật sự thì không phải như thế. Lại nữa, cái không ấy là giống như chiếc bình đựng loại sữa đặc tinh chế, không có sữa đặc cho nên gọi là bình rỗng, song thực ra chẳng trống rỗng. Bởi vì không có vật đựng nên hình sắc vẫn còn đó, nên biết không phải rỗng không. Sự chẳng rỗng không của giải thoát cũng như thế, có hình và có sắc cho nên nói rằng chẳng rỗng không, vô lượng phiền não xoay vần trong hai mươi lăm cõi sinh tử, vĩnh viễn đoạn tuyệt sự qua lại và hành xử trong thế giới, giống như không có sữa đặc tinh chế thì gọi là bình trống rỗng; tiêu diệt các lỗi lầm tai họa, cho nên gọi rằng rỗng không. Y như sắc dáng chiếc bình, lìa bỏ pháp thế gian mà hành xử tiếp đãi, sự bất động và khoái lạc thường trụ không thay đổi; thế nhưng hình sắc chiếc bình kia là pháp vô thường, sự giải thoát thật sự là thường trụ không thay đổi, cho nên gọi rằng rỗng không của sự chẳng rỗng không, sự giải thoát ấy tức là Như Lai.

Lìa khỏi sự dính mắc về nơi chốn, sự dính mắc về nơi chốn là ưa thích làm trời Đế thích, Đại Lực, Phạm vương, trí tuệ giác ngộ thành tựu đầy đủ; các sự dính mắc vào cảnh mến chuộng đó thảy đều giải thoát, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Không có sự tham muốn diệt tận, tất cả việc có mong cầu ham muốn hết sạch vĩnh viễn, thoát khỏi các thói quen dính mắc, đó gọi là diệt, diệt tận ấy chính là giải thoát, sự giải thoát ấy tức là Như Lai.

Nê-hoàn an lạc, Nê-hoàn ấy nghĩa là ví như đàn nai gặp các tay thợ săn bắn, nỗi sợ hãi nguy hiểm e rằng sắp chết đến nơi, bầy nai bỏ chạy trốn vào vùng núi gặp được hang động của vị tiên nhân, chúng nó liền được nghỉ ngơi dễ chịu sau cơn khốn đốn, yên ổn an lạc, nghỉ ngơi an lạc gọi là Nê-hoàn, sự Nê-hoàn ấy chẳng phải gọi là diệt tận. Sự giải thoát đối với tất cả hữu, vô lượng sinh tử, phiền não, điên đảo, oan trái lâu đời, mà phương tiện trốn tránh được vào hang ở chánh pháp của tiên nhân, chỗ dừng nghỉ tịch tĩnh, chỉ cần nương dựa Ba pháp quay về, vô lượng chúng sinh nghỉ ngơi an lạc, sự nghỉ ngơi an lạc gọi là Nê-hoàn, không phải là tận diệt. Ví bằng các chúng sinh được Ba pháp quay về nương tựa gọi là Nê-hoàn, huống gì Như Lai là bậc Nhất thiết chủng trí, mãi mãi bỏ thân này mà không phải Nê-hoàn yên ổn an lạc chăng? Vào Nê-hoàn là giống như người say sưa mê muội, có người đến hỏi rằng, ông có yên vui hay không? Người say sưa kia hiểu rồi trả lời rằng mình được an vui. Chúng sinh như thế ở vô số kiếp mê say sống chết trong hai mươi lăm cõi, khi chứng được Chánh giác thì Nê-hoàn an lạc, yên ổn thường trú, bất động giải thoát, không phải là diệt tận, sự giải thoát ấy tức là Như Lai.

Bấy giờ, Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Không sinh cũng chẳng khởi tức là giải thoát, đó là Như Lai chăng?

Phật bảo Ca-diếp:

– Đúng thế, đúng thế! Này thiện nam! Không sinh cũng chẳng khởi chính là giải thoát, cũng là Như Lai.

Ca-diếp lại bạch Phật:

– Tính hư không kia không sinh cũng chẳng khởi cũng gọi là Như Lai chăng?

Phật bảo Ca-diếp:

– Rốt ráo giải thoát không phải giống như hư không. Lại nữa, này thiện nam! Giống như chim Ca-lăng-tỳ-già và chim Mạng mạng, tiếng hót của chúng nó trong trẻo, lẽ nào giống với loài chim cú hay diều hâu chăng?

Ca-diếp bạch Phật:

– Không phải thế, bạch Thế Tôn! Tiếng hót của chúng nó mỗi loài mỗi khác nhau, không thể lấy đó để so sánh. Có nhân duyên nên chư Phật Như Lai mới phương tiện nói ví dụ.

Phật bảo Ca-diếp:

– Quý hóa thay, quý hóa thay! Ông khéo hiểu rõ ý nghĩa của âm thanh rất mực sâu xa, cho nên sự giải thoát chính là Như Lai, Như Lai ấy tức là giải thoát, sự giải thoát ấy không thể nào ví dụ cho được. Chư Thiên, người đời, A-tu-la, tất cả không ai có năng lực lấy phi dụ mà làm ví dụ. Chỉ có Như Lai, vì sự giáo hóa nên có thể phương tiện giảng nói, lấy phi dụ để làm thí dụ, nói ví dụ giải thoát. Lý do thế nào? Vì sự giải thoát ấy tức là Như Lai, Như Lai ấy tức là giải thoát, không có hai, không có sự khác nhau. Điều gọi là lấy phi dụ làm thí dụ là khuôn mặt như vầng trăng vành vạnh, con voi trắng lớn ấy giống như núi Tuyết. Chư Phật Thế Tôn cũng như vậy, nói các phi dụ làm thí dụ giải thoát, vì sự hóa độ chúng sinh nên phương tiện nói pháp và nói giáo pháp chân thật.

Ca-diếp bạch Phật:

– Vì những nguyên do gì mà có hai thứ thuyết pháp? Phật bảo Ca-diếp:

– Này thiện nam! Ví như có người nổi lên lòng tức giận đối với Như Lai, người ấy bèn lấy dao gươm để làm hại Như Lai, thế nhưng vị Như Lai ấy không có ý tưởng đau đớn. Thế nào? Này thiện nam! Người kia sẽ trở thành tội nhân ở địa ngục vô gián hay không?

Ca-diếp bạch Phật:

– Chẳng phải vậy, bạch Thế Tôn! Vì sao? Vì đối với thân trưởng dưỡng, người ấy không làm thương tổn hủy hoại, nên không có tội vô gián. Như Lai không có thân trưởng dưỡng, gọi là pháp thân tự tại, thì sao gọi là làm tổn hại? Vì sự phát tâm của người kia là phương tiện ác, cho nên người ấy mắc tội vô gián, đó gọi là phương tiện pháp tánh chân thật.

Đức Phật dạy:

– Quý hóa thay, quý hóa thay! Này thiện nam! Giáo pháp của Ta nói ra cũng như vậy. Lại nữa, này thiện nam! Như có người ác độc muốn làm hại mẹ mình, người mẹ ấy biết được bèn xa rời bản xứ. Người ấy không biết cứ đến chỗ ở cũ của mẹ, dùng dao gậy tiến hành việc giết hại rồi nói rằng mẹ mình đã chết, song thật ra bà ấy không chết. Thế nào, này thiện nam! Người này há mắc phải tội vô gián hay không?

Ca-diếp bạch Phật:

– Thưa không, bạch Thế Tôn! Nếu việc giết hại được thực hiện đầy đủ mới gọi là mắc tội vô gián, thế nhưng hiện giờ ba môn ấm, giới và các nhập của người mẹ ấy không bị thương tổn nên không phải là tội vô gián, theo đó, người kia mắc tội báo tương tự vô gián, cũng gọi là vô gián, đó gọi là sự chân thật của pháp phương tiện.

Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật:

– Hay thay, hay thay! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn khéo nói phương tiện ứng theo điều không thích ứng.

Phật bảo Ca-diếp:

– Vì có nhân duyên nên Ta nói sự giải thoát, vì có nhân duyên nên Ta nói các ví dụ một cách rộng rãi, vô lượng công đức thành tựu như thế gọi là Nêhoàn, cũng gọi là Như Lai, đó là đi nhanh đến Đại Bát-nê-hoàn kia. Hôm nay Như Lai sẽ vào Nêhoàn, do ý nghĩa này, nên gọi là Đại Bát-nê-hoàn.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Đó là Như Lai chẳng hướng đến sự diệt tận, nên biết tuổi thọ ấy của Như Lai là không cùng tận.

Phật bảo Ca-diếp:

– Quý hóa thay, quý hóa thay! Thiện nam! Người hộ trì chánh pháp phải nên diệt trừ các sự hồ nghi và học trí quyết định như thế. Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát thành tựu bốn pháp, khéo nói kinh Phương Đẳng Bát-nê-hoàn.

QUYỂN 4

Phẩm 9: BỐN HẠNG NGƯỜI ĐỂ NƯƠNG TỰA

Đức Phật lại bảo Ca-diếp:

– Có bốn hạng người, đối với kinh Đại Bát Nê Hoàn này, những vị ấy có thể hướng đến chánh pháp, hộ trì chánh pháp, có thể làm bốn chỗ nương tựa để độ thoát cho nhiều người, làm nhiều điều lợi ích cho kẻ khác để vượt ra khỏi thế gian. Bốn hạng người để nương tựa là hạng nào?

Một là hạng phàm phu tuy chưa xa lìa phiền não và ra khỏi thế gian, song họ có thể độ thoát cho nhiều người và làm nhiều điều lợi ích cho kẻ khác. Hai là hạng người đắc quả Tu-đà-hoàn và Tư-đàhàm. Ba là hạng người đắc quả A-na-hàm. Bốn là hạng người đắc quả A-la-hán. Đó là bốn hạng người làm nơi nương tựa chân thật, độ thoát cho nhiều người và làm nhiều điều lợi ích cho kẻ khác. Hạng phàm phu kia là người tự mình giữ gìn giới đức, uy nghi đầy đủ, để làm bức thành hộ pháp nên họ đã nghe và lãnh thọ chánh pháp ở chỗ Như

Lai, đọc tụng và nắm giữ nghĩa lý cùng ý vị, giảng nói rộng rãi cho mọi người, có thể tự mình ít sự ham muốn. Người ấy lại còn giảng nói Tám pháp nhớ nghĩ của bậc đại nhân cho mọi người, giáo hóa những người phạm giới đều khiến họ sám hối, vị ấy khéo biết đủ thứ ngôn ngữ của chúng sinh, học tập thực hành công đức hộ pháp của Bồ-tát, đó gọi là Bồ-tát phàm phu đứng hàng đầu. Những người phàm phu này chưa được Như Lai ghi nhận về sự việc họ làm địa vị Bồ-tát trong tương lai.

Hạng người Tu-đà-hoàn và Tư-đà-hàm kia là những vị đã đạt được chánh pháp, xa lìa các sự nghi hoặc. Chư vị ấy chẳng giảng nói kinh sách không phù hợp chánh pháp cho mọi người, chẳng rời bỏ khế kinh của Phật mà ca tụng ký luận, văn chương trau chuốt của thế gian; chẳng nuôi đầy tớ và cất chứa của cải phi pháp, đó gọi là Bồ-tát Tuđà-hoàn. Mặc dù chưa được an trụ địa vị thứ hai và thứ ba của Bồ-tát, nhưng họ đã được chư Phật trao cho lời ghi nhận ngay trước mặt về việc sẽ thành Phật trong tương lai.

Hạng A-na-hàm là người đã đạt được chánh pháp, lìa khỏi những sự hồ nghi. Chư vị không giảng nói kinh điển sách vở không phù hợp chánh pháp cho mọi người; chẳng rời bỏ khế kinh của Phật mà ca tụng ký luận, văn chương trau chuốt của thế gian; chẳng nuôi đầy tớ và cất giữ của cải phi pháp. Các sự trói buộc chưa khởi lên thì có thể hiểu biết được ngay, những sự kết tập vào thời quá khứ mãi mãi chẳng còn trói buộc được nữa. Các vị ấy có nói ra giáo pháp gì cũng không dứt bỏ Phật tánh, đức hạnh thanh tịnh, thân thể không có bệnh tật bên ngoài, rắn độc bốn đại nương theo đó mà khởi lên các bệnh là điều không thể mắc phải. Lại khéo giảng nói về lý không phải cái ta, vượt chấp ngã, sự cố chấp phân biệt ta và người, xa lìa cái ngã của thế gian mà thực hành phương tiện thuận theo thế gian. Chư vị thường cảm hóa người bằng giáo pháp Đại thừa, không nói đạo lý gì khác. Trong thân thể không có tám vạn hang ổ vi trùng và vô lượng tai ương hoạn nạn. Tâm xa lìa sự ái dục, không có tâm tưởng ác mộng, lìa khỏi tất cả hữu, sống chết, sợ hãi. Ai thực hành như thế thì gọi là người A-na-hàm ở quả vị thứ ba, không quay trở lại cõi Dục nữa nên có tên là A-na-hàm. Các vị ấy tập quen các gốc rễ công đức, điều xấu ác lầm lỗi từ thuở lâu xa không thể làm ô nhiễm, gọi là A-nahàm. Đó gọi là Bồ-tát A-na-hàm phát tâm ghi nhận lời quyết đoán. Phát tâm ghi nhận lời quyết đoán là người ấy chẳng bao lâu nữa sẽ thành Phật đạo.

A-la-hán là phiền não đã hết sạch, lìa bỏ những gánh nặng, những điều đáng làm các vị ấy đã làm xong, đầy đủ mười địa. Các vị ấy đã được Phật ghi nhận pháp nhẫn hết sức sâu sắc, hết thảy sắc thái hình tượng đều có thể biến hóa thị hiện, tùy theo ý của mình muốn đối với các phương diện, là bậc Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác. Công đức như thế đều đầy đủ tất cả, gọi là A-la-hán.

Đó là bốn hạng người đối với kinh Đại Bát Nê Hoàn này. Chư vị độ thoát cho nhiều người, làm nhiều điều lợi ích cho kẻ khác và vượt ra khỏi thế gian. Các vị ấy làm bậc thầy của hàng trời và người, giống như các Đức Như Lai. Đó là bốn hạng người làm nơi nương dựa chân thật.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con không thể tin bốn hạng người ấy là chỗ nương tựa chân thật, nguyên do ấy thế nào? Vì, như Thế Tôn giảng nói cho trưởng giả Cù-sư-la rằng, nếu ma vương ở cảnh trời thứ sáu cõi Dục và Phạm Thiên vương ở cõi Sắc hiện thân làm Phật có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, ánh hào quang phóng ra từ vòng tròn trên đỉnh đầu xa đến một tầm, hiện ra tướng sợi lông trắng ở giữa chặng mày, nếu vị Phật ấy đi đến chỗ của ông, thì ông nên nhận biết khiến cho Phật kia phải hàng phục. Nay ta để mặc ông làm khuất phục ma xấu ác kia, tại sao phải như thế? Vì chúng không phải A-la-hán mà tự xưng là La-hán. Nếu như loài ma xấu ác có ngồi nằm giữa hư không, hông bên trái phát ra lửa, hông bên phải tuôn ra nước, hoặc cả mình mẩy cháy rực mà bốc ra mây khói, đủ các thứ biến hóa. Lại nữa, chúng có thể giảng nói chín bộ khế kinh còn không thể nào tin được, cho nên ông phải khuất phục loài ma xấu ác kia, đừng sinh lòng nghi hoặc. Ví như có người ở trong đêm tối gặp con chó tinh ranh lẻn vào nhà, người ấy hay biết con chó tinh ranh lẻn vào nhà mình bèn mắng ngay: “Con chó tinh ranh hãy cút đi, đừng để ta giết mày trong giây lát”. Ngay sau đó, con chó tinh ranh bèn chạy nhanh ra ngoài, không dám trở lại nữa. Ma Ba-tuần xấu ác cũng như vậy, ma biến hóa đến thì ông nên đem năm pháp trói buộc của ta mà cột trói nó lại. Bị năm pháp ràng buộc xong, ma Ba-tuần xấu ác khiếp sợ bỏ chạy nhanh, ví như con chó tinh ranh. Như thế, Phật giảng nói cho trưởng giả Cù-sư-la: “Nay nếu như ông có thể hàng phục loài ma xấu ác thì dần dần sẽ gần gũi Nê-hoàn”. Bạch Thế Tôn! Vì những nguyên cớ gì mà hôm nay Thế Tôn nói bốn hạng người làm chỗ nương tựa chân thật? Vì thế, hôm nay con chẳng sinh lòng tin.

Phật bảo Ca-diếp:

– Đúng thế! Này thiện nam! Ta giảng nói pháp này đều nhân vì hàng Thanh văn và những hạng phàm phu mắt thịt mà nói cần phải hàng phục, chẳng phải vì người lãnh thọ và thực hành pháp Ma-ha-diễn. Trong các vị Thanh văn, tuy có vị được thiên nhãn, song Ta nói những pháp ấy là nhắm vào số người phàm mắt thịt. Cho dù người phàm mắt thịt tin vào Ma-ha-diễn, song Ta nói những pháp ấy là nhắm vào số người có con mắt Phật. Vì sao? Vì người ấy có năng lực nắm giữ kinh Ma-ha-diễn là Phật thừa.

Lại nữa, này thiện nam! Giống như vị đại tướng khéo biết phép dụng binh, ông ta dạy cho người hèn kém nhút nhát học võ thuật của mình, bèn nói với người ấy: “Ngươi phải nắm giữ các vũ khí như dao kiếm như thế này, nên giữ tâm mình cho chính xác, giống như lửa cháy hừng hực, hãy thận trọng chớ quay đầu nhìn lại. Cho đến khi lâm trận, mỗi người cầm đồ binh khí, xắn tay áo hô lớn. Giống như lửa rực cháy, binh giặc chắc hẳn rút lui. Đấng Đạo sư Thế Hùng là vị tướng của ba cõi, dạy bảo các Thanh văn hàng phục chúng ma cũng như thế.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như có người chủng tánh dũng mãnh, được tập làm quen với phép tắc chiếc tranh, không có sự nhút nhát yếu hèn, đối với các chiến sĩ, người ấy đứng hàng đầu, là người đi trước. Như thế, này thiện nam! Người nào tập học Đại thừa, nghe khế kinh Ma-ha-diễn hết sức sâu xa và giáo pháp bí mật vi diệu mà chẳng phát sinh sự sợ hãi, nên biết người ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, nhận sự học tập Đại thừa, cội rễ niềm tin vững chắc. Ức trăm ngàn loài ma biến hóa hiện ra đủ thứ, rốt cuộc người ấy không có nỗi sợ hãi, cũng chẳng có một chút suy nghĩ đối với loài ma kia, thế nhưng chúng ma kia thấy có người học Ma-ha-diễn thì sinh lòng sợ hãi giống như hạng đàn ông nhút nhát yếu hèn. Ví như rắn độc thấy các chú dược thì phát sinh lòng sợ hãi, thiên ma Batuần cũng như thế, ức trăm ngàn ma được nghe kinh Ma-ha-diễn như vậy, âm thanh, mùi thơm, ánh sáng rọi chiếu, khiến chúng lìa khỏi các sự kiêu mạn, cao ngạo, tự đại.

Lại nữa, này thiện nam! Giống như có người nếu thấy rồng dữ, rắn độc, sư tử, cọp, beo, lang sói, người ấy đều sợ hãi; hoặc giả nghe tiếng kêu của chúng cũng sinh lòng khiếp sợ. Hoặc lại có người có năng lực hàng phục thú dữ như vị trượng phu kia, nếu thấy người kia thì thú dữ sinh lòng sợ hãi. Nên biết hết thảy hàng Thanh văn và Duyên giác cũng như thế, nếu trông thấy loài ma, các vị ấy bèn sinh lòng sợ hãi, thì bị các loài ma có dịp làm hại. Như vị trượng phu kia có năng lực hàng phục loài thú dữ, nên biết đó là người học Ma-ha-diễn cũng như vậy, vị ấy có thể hàng phục chúng ma, đã hàng phục xong mà lại còn thuyết pháp cho chúng. Giống như loài thú độc hại kia, tâm của bọn ma Ba-tuần đã điều phục, họ bèn nói lời này: “Kể từ hôm nay, đối với chánh pháp của Đức Phật, con phát sinh lòng tin và ưa thích, không còn gây rối loạn nữa”. Nên biết hàng Thanh văn sẵn có phiền não, tập khí, sự sợ hãi; Ma-ha-diễn là dứt bỏ vĩnh viễn nỗi sợ hãi; Ma-ha-diễn là sức mạnh rất siêng năng, cho nên Ta nói những hàng Thanh văn cần phải hàng phục, đừng phát sinh nỗi sợ hãi. Như thế, này thiện nam! Kinh Ma-ha-diễn Đại Bát-nê-hoàn này rất là hiếm có, nếu nghe kinh này thì Như Lai tồn tại lâu dài, thật kỳ lạ và hiếm có, người nào có lòng tin và vâng giữ, thì giống như hoa Ưu-đàmbát, khó có thể gặp được. Kinh Đại Thừa này cũng như thế, hiếm có và kỳ lạ thay! Ta vào Nê-hoàn rồi, gặp được kinh Đại Thừa này cũng như vậy. Hiếm có và kỳ lạ thay! Ta vào Nê-hoàn rồi, các hàng chúng sinh nghe được kinh này cũng rất là hiếm có. Sao mà kỳ lạ thế! Này thiện nam! Vào đời sau này, sẽ có chúng sinh chê bai kinh này.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thời gian lâu dài, nếu như có những hạng chúng sinh sẽ phỉ báng kinh này, thì hạng người nào hộ trì pháp này ở đời mai sau?

Phật bảo Ca-diếp:

– Sau khi Ta diệt độ, pháp này được truyền khắp nơi trong bốn chục năm rồi sau mới mai một. Này thiện nam! Ví như thế gian lấy mía đường, gạo tẻ, váng sữa, dầu, bơ để làm đồ ăn thức uống; có các chúng sinh ăn uống món ăn này rồi lại phát sinh ốm đau; trở lại họ dùng thức ăn sơ sài, cây cỏ, hoa trái. Các món ăn ngon, gạo tẻ, dầu bơ kia như kinh Ma-ha-diễn, họ chẳng muốn nghe, trái lại họ ăn thứ sơ sài, cây cỏ, hoa trái. Các thừa Thanh văn mãi mãi vứt bỏ món ăn ngon là kinh pháp Đại Bát-nêhoàn như thế, mà chẳng muốn nghe nói.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như có vị vua cư trú trong núi non sâu thẳm, không có các món ăn gạo tẻ, dầu bơ v.v... Các dân chúng trong nước ấy có những món ăn ngon đều gửi dâng cho nhà vua, còn tự mình ăn đồ sơ sài, cây cỏ, hoa trái. Trong số đó có những người gần gũi nhà vua, do được nhờ uy lực của vua, thoạt đầu họ chưa hề thấy món ăn nào sánh bằng các món ăn này, thế mà họ được ăn món đó. Như thế, này thiện nam! Bốn hạng người kia là vị tướng dũng mãnh ở trong pháp Phật, trong những vị Đại Bồ-tát kia, nếu có một người xuất hiện để làm hưng thịnh cho đời, ở nơi vị ấy đến, đem kinh Đại Bát Nê Hoàn Ma-ha-diễn để giáo hóa chúng sinh. Họ liền tự biên chép và thọ trì, hoặc bảo kẻ khác biên chép, viết cuốn kinh ấy xong xuôi rồi đem bố thí cho các chúng sinh. Hoặc có chúng sinh ở bên cạnh vị Đại Bồ-tát kia cảm nghe được món ăn giáo pháp Đại thừa Bát-nê-hoàn đều là nhờ ánh sáng thần lực của Bồ-tát, khiến cho họ được nghe văn chữ, câu nghĩa, cho đến một chữ của pháp chưa từng có này, như chúng sinh kia nhờ uy lực của vua nên được các thức ăn ngon. Do đó, này thiện nam! Kinh Đại Bát Nê Hoàn Ma-ha-diễn đến ở chỗ nào, ông nên biết vùng đất này thảy đều thành kim cương, nơi đó nếu có chúng sinh nghe được pháp này, rồi biên chép, thọ trì, đọc tụng, giảng nói, thậm chí một chữ, ông nên biết toàn thân thể của họ cũng là kim cương. Những chúng sinh ấy đức mỏng phước ít, thế mà kinh Đại Thừa Maha-diễn này là chánh pháp được lưu truyền ở đất nước mình mà họ chẳng nghe và nhận lãnh, giống như chúng sinh kia, từ đất nước mình sản sinh ra đủ thứ mùi vị cao cấp thượng hạng mà mình không ăn được. Thương thay chúng sinh! Nghe nghĩa lý chân thật mà chẳng vâng theo và thọ trì.

Ca-diếp lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, pháp này hưng thịnh ở đời trong bốn mươi năm rồi mới mai một, sau đó bao lâu nữa thì pháp này lại được lưu truyền rộng khắp?

Phật bảo Ca-diếp:

– Này thiện nam! Sau khi Ta vào Nê-hoàn, pháp này tồn tại tám mươi năm, sau đó thì chánh pháp sắp mai một, kinh Đại Thừa này sẽ lại được lưu truyền rộng rãi ở cõi Diêm-phù-đề, trải qua bốn chục năm thì kinh này lại mai một.

Ca-diếp lại bạch Phật:

– Như lời Thế Tôn nói, khi kinh pháp Đại Bátnê-hoàn này sắp sửa diệt mất, rồi sẽ lại hưng thịnh trong đời. Đang lúc này, người giữ giới ít ỏi, kẻ phạm giới quá nhiều, chánh pháp sắp sửa diệt mất, sự hướng tới chân chính giảm bớt, thì hạng người nào đủ năng lực nghe theo và thọ trì pháp này, ai có thể nắm giữ, ai có thể đọc, ai có thể tụng, ai có thể cúng dường, ai có thể hiểu rõ và giảng nói, người nào có thể tự mình biên chép, ai có thể dạy bảo kẻ khác viết chép pháp này, xin ước mong Thế Tôn phân biệt giảng giải cho rõ ra, khiến cho tất cả chúng sinh nhờ đây mà được độ thoát. Có các Bồtát ưa thích học giáo pháp sâu sắc, nghe lời Thế Tôn nói, họ sẽ vâng theo sự chỉ bảo của Thế Tôn.

Phật bảo Ca-diếp:

– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Này thiện nam! Nếu có chúng sinh ở chỗ các Đức Như Lai nhiều bằng số cát của sông Hi-liên để phát tâm Bồ-đề, thì những chúng sinh ấy có thể khởi lên tâm Bồ-tát vào lúc chánh pháp sắp sửa mai một. Tuy rằng chưa quyết định ở đạo Vô thượng, song vị ấy có năng lực không phỉ báng kinh Phương Đẳng này.

Nếu có chúng sinh phát tâm Bồ-đề ở chỗ các Đức Như Lai nhiều bằng số cát của một con sông Hằng, thì có thể vào lúc chánh pháp sắp sửa diệt mất, đối với kinh điển Phương Đẳng này, vị ấy không khởi lên tâm phỉ báng, được tâm tin tưởng và ưa thích, nhưng chưa đủ khả năng giảng nói rộng rãi cho chúng sinh.

Nếu có chúng sinh phát tâm Bồ-đề ở chỗ các Đức Như Lai nhiều bằng hai lần số cát sông Hằng, thì có thể vào lúc chánh pháp sắp sửa diệt mất, đối với kinh điển Phương Đẳng này, vị ấy không khởi lên tâm chê bai, bản thân tự tiếp thu sự học tập, cũng lại chưa thể giảng nói rộng rãi cho người khác.

Nếu có chúng sinh phát tâm Bồ-đề ở chỗ các

Đức Như Lai nhiều gấp ba lần số cát sông Hằng, thì có thể vào lúc chánh pháp sắp sửa diệt mất, vị ấy không khởi lên tâm phỉ báng đối với kinh Phương Đẳng; vị ấy có thể thọ trì, có thể giảng nói, có thể viết chép, song chưa thể nào giải thích ý nghĩa.

Nếu có chúng sinh phát tâm Bồ-đề ở chỗ các Đức Như Lai nhiều bằng bốn lần số cát sông Hằng, thì có thể vào lúc chánh pháp sắp sửa diệt mất, vị ấy không khởi lên tâm phỉ báng đối với kinh Phương Đẳng; vị ấy có thể thọ trì, có thể giảng nói và giải thích một phần mười sáu nghĩa lý giáo pháp sâu xa. Nếu có chúng sinh phát tâm Bồ-đề ở chỗ các Đức Như Lai nhiều bằng năm lần số cát sông Hằng, thì có thể vào lúc chánh pháp sắp sửa diệt mất, vị ấy không khởi lên tâm phỉ báng đối với kinh Phương Đẳng; vị ấy có thể nhận lãnh, có thể giảng nói, có thể biên chép, có thể nắm giữ, hiểu rõ một phần tám nghĩa lý giáo pháp sâu xa.

Nếu có chúng sinh phát tâm Bồ-đề ở chỗ các Đức Như Lai nhiều bằng sáu lần số cát sông Hằng, thì có thể vào lúc chánh pháp sắp sửa diệt mất, vị ấy không khởi lên tâm phỉ báng đối với kinh Phương Đẳng; vị ấy có thể nhận lãnh, có thể giảng nói, có thể biên chép, có thể nắm giữ, hiểu rõ một phần tư nghĩa lý giáo pháp sâu xa.

Nếu có chúng sinh phát tâm Bồ-đề ở chỗ các Đức Như Lai nhiều bằng bảy lần số cát sông Hằng, thì có thể vào lúc chánh pháp sắp sửa diệt mất, vị ấy không khởi lên tâm phỉ báng đối với kinh Phương Đẳng; vị ấy có thể nhận lãnh, có thể giảng nói, có thể biên chép, có thể chỉ bảo người khác biên chép, có thể nắm giữ, giải thích rõ một phần hai nghĩa lý giáo pháp sâu xa.

Nếu có chúng sinh phát tâm Bồ-đề ở chỗ các Đức Như Lai nhiều bằng tám lần số cát sông Hằng, thì có thể vào lúc chánh pháp sắp sửa diệt mất, vị ấy không khởi lên tâm chê bai đối với kinh Phương Đẳng; vị ấy có thể nhận lãnh, có thể biên chép, có thể dạy bảo người khác biên chép, có thể nắm giữ, có thể đọc tụng giảng nói, có thể tùy theo nhân duyên mà truyền bá, có thể khéo nói ý nghĩa ẩn náu kín đáo bên trong. Vị ấy cũng có năng lực trông giữ hộ vệ, cũng có thể chỉ bày rõ ràng, thương xót thế gian, khiến cho khắp cả mọi người đều cung kính cúng dường Kinh, chuyển dạy người khác khiến những người ấy cúng dường, trí tuệ đầy đủ, hiểu rõ nghĩa lý trọng yếu sâu sắc. Vị ấy khéo biết Như Lai chính là pháp thường trụ, không phải pháp biến đổi, không phải pháp phai mờ tiêu diệt; yên ổn diệu lạc, khéo hiểu rõ chúng sinh, từ đó phân biệt mỗi mỗi hạng người có Như Lai tánh, mở mang khắp cả cho mọi người. Các Bồ-tát ấy đã từng trải phụng thờ vô lượng chư Phật thuở quá khứ, cho nên có thể hộ trì chánh pháp của Như Lai. Nếu hôm nay lại phát tâm Bồ-đề, thì ở đời sau, người kia cũng sẽ có thể kham nổi việc hộ trì chánh pháp. Đối với hạng người này và các hàng chúng sinh khác, này thiện nam! Ông nên quán xét thế này, nay ở thời hiện tại và đời sau này, nếu có người ưa thích pháp mà phát tâm Bồ-đề, nên biết người ấy là vị hộ pháp.

Lại nữa, này thiện nam! Có các kẻ ngoại đạo, vì sự lợi dưỡng nên khi nghe tin Phật Nê-hoàn, họ bèn hô hoán bảo rằng Ta chết mãi mà chẳng lo buồn, trái lại họ lại còn vui mừng. Vào đời sau này, có kẻ giả dạng khoác áo ca-sa, xuất gia học đạo ở trong pháp của Ta, song họ lười biếng uể oải, phỉ báng khế kinh Phương Đẳng ấy, nên biết hạng người này đều là các lớp dị đạo ngày nay. Thành tựu vô lượng công đức như thế, tin Phương Đẳng Đại Bát Nê Hoàn này và ưa thích giáo pháp sâu xa, cho dù vị Thiện nam ấy đã từng gây ra vô lượng các tội lỗi và làm đủ mọi nghiệp ác vào thời quá khứ, các tội báo nhức đầu ấy tức thời trừ diệt. Hoặc bị khinh dễ, hoặc hình dáng xấu xí, áo quần không đủ mặc, ăn uống sơ sài, mong cầu của cải thì không thuận lợi, sinh vào nhà nghèo hèn và nhà tà kiến. Hoặc gặp phải tai nạn lớn và các thứ quả báo đau khổ trong nhân gian còn sót lại, người ấy chịu quả báo trong đời hiện tại một cách nhẹ nhàng, đây là do nhờ sức lực của công đức hộ pháp.

Này thiện nam! Ví như sương tuyết, khi mặt trời chưa mọc thì không giảm bớt sự tích tụ ngưng đọng; ánh sáng mặt trời đã xuất hiện thì sương tuyết thảy đều tiêu tan hết. Cũng như thế, chúng sinh gây ra vô lượng việc ác, ánh sáng mặt trời của kinh Đại Bát Nê Hoàn này chưa xuất hiện thì vô lượng quả báo xấu ác không giảm sự tích tụ ngưng đọng; khi ánh sáng mặt trời Đại Bát-nê-hoàn này xuất hiện rồi, thì vô lượng quả báo xấu ác đều bị tiêu diệt toàn bộ.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như có người xuất gia học đạo, mặc dù người ấy không giữ giới, song được cùng chung với đại chúng đi theo Như Lai, ở khắp mọi nơi, người ấy giả vờ khoác áo ca-sa để nhận sự cúng dường của mọi người, tên người ấy được liệt vào Tăng số của Như Lai. Như thế, này thiện nam! Nếu có Đại Bồ-tát thành tựu trọn vẹn mười địa và các người ngoại đạo có thể tin tưởng và thọ trì kinh Ma-ha-diễn này dù chỉ một lời nghe qua tai, thì những hạng người này đều được kể vào số đại chúng Bồ-tát của Như Lai. Cho dù vì lợi dưỡng hay vì danh dự mà đọc tụng kinh này nhưng mà họ không phỉ báng, những hạng người như thế thảy đều sẽ thành tựu đạo Như Lai Ứng Cúng Đẳng Giác. Vì vậy, Ta nói bốn hạng người kia là bốn chỗ nương tựa thật sự, trong bốn hạng người kia, chỉ cần một người có năng lực tự mình quyết định, không theo ký luận của ngoại đạo thế tục mà gọi là lời nói của Như Lai, cho nên gọi là bốn chỗ nương tựa chân thật, nên thêm sự cúng dường, nhận lãnh sự học tập và hộ pháp. Sao gọi là cúng dường? Nếu có người đủ khả năng thọ trì kinh Ma-ha-diễn, thì ông phải nên đi theo người ấy trọn đời để thu nhận sự học tập và hộ pháp. Theo người ấy học tập xong lại tăng thêm sự cúng dường, cho nên Ta nói bài kệ này:

Ca-diếp lại thưa:

Nếu người biết chánh pháp
Chẳng hỏi họ lớn bé
Hết lòng thêm cúng dường
Như phép người thờ lửa.
Nếu người biết pháp ấy
Chẳng hỏi họ lớn bé
Hết lòng cung kính lễ
Như trời thờ Đế thích.

– Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói, đối với những vị sư trưởng, phải nên tăng thêm sự cung kính, thờ phụng, lễ lạy, cúng dường, giả sử người già cả theo người trẻ tuổi để học tập, thì cũng phải cung kính làm lễ hay không? Lại nữa, nếu người cao tuổi tuy biết kinh pháp song không giữ giới cấm, còn người học trò trẻ tuổi mà có thể giữ gìn giới hạnh, thì phải nên kính lễ hay không? Lại nữa, người cư sĩ mặc áo trắng khéo biết kinh pháp, người xuất gia theo người ấy để nhận sự học tập, thì phép tắc cung kính, vâng mệnh, phụng thờ phải nên thế nào?

Phật bảo Ca-diếp:

– Đối với người thế tục áo trắng, người xuất gia không nên lễ lạy, vì người thế tục không phải là ruộng phước. Phàm là người cao tuổi, thì người xuất gia ấy là ruộng phước của tất cả, phải nên kính lễ, nếu là người phạm giới thì không nên. Vì sao?

Vì nuôi lớn cỏ dại sẽ làm hại mầm non cây lúa.

Ca-diếp lại bạch Phật:

– Như Thế Tôn nói, hết lòng cung kính làm lễ, giống như chư Thiên phụng thờ Đế thích, như thế, hai bài kệ cùng với ý nghĩa trái ngược nhau. Nếu tất cả mọi người nên lễ kính người cao tuổi, thì phần nhiều các vị Tỳ-kheo giữ giới có sự phạm tội, ý Thế Tôn thế nào mà nói bài kệ ấy? Lại nữa, ở khế kinh này, Như Lai nói cần phải hàng phục kẻ phạm giới.

Phật bảo Ca-diếp:

– Ta vì hàng Bồ-tát ở đời sau nên mới nói, hết lòng làm lễ một cách cung kính như chư Thiên phụng thờ Đế thích, hai bài kệ này là nói cho hàng Bồ-tát, chứ không phải nói cho hàng Thanh văn. Này thiện nam! Sau khi Ta vào Nê-hoàn, lúc chánh pháp của Như Lai sắp sửa diệt mất, số đông người giữ giới giảm bớt, số đông người phạm giới tăng thêm, những vị thanh tịnh được giải thoát ấy thảy đều ẩn náu, những người xuất gia nhận của cải không hợp pháp, nuôi dưỡng đầy tớ. Đang lúc ấy, trong bốn hạng người, nếu có một người xuất hiện ở đời tin rằng nhà mình không phải là nhà, bèn xuất gia học đạo; người này cũng thị hiện nhận của cải phi pháp và nuôi dưỡng đầy tớ giống như người kia, thế nhưng người này tự mình có thể phân biệt đúng pháp và phi pháp, đúng luật và trái luật; biết người khác không giữ giới hạnh, cũng biết bản thân mình đã phạm vào điều nhẹ hay nặng, có thể biết Như Lai hành xử điều thích ứng, hiểu biết được thời tiết, nơi chốn, pháp dụng. Khi tụng đọc chín bộ kinh điển của Như Lai, có người học tập và đọc tụng chín bộ kinh điển mà phạm giới trái luật, tuy người này biết kẻ kia phạm tội nặng, song vì việc hộ pháp nên phương tiện im lặng, chẳng nói lỗi của người kia, thế rồi tự khiêm tốn theo người kia để nhận sự học tập, với lòng hộ pháp mà không hủy hoại điều gì. Nên biết người này vì việc hộ pháp nên xuất hiện ở đời.

Này thiện nam! Ví như có đất nước nọ, nhà vua ở nước ấy qua đời, thái tử con vua còn nhỏ dại yếu đuối nên chưa thể trị vì đất nước. Có một người dân dã dòng dõi Chiên-đà-la, nhờ sức mạnh nên làm vua nước kia. Bấy giờ, các vị trưởng giả, Bàla-môn dấy lên sự suy nghĩ thế này, nay người Chiên-đà-la làm chủ lãnh đạo đất nước này, duyên cớ gì chúng ta tới lui vâng thuận, họ bèn bỏ chạy trốn đến đất nước khác. Vua Chiên-đà-la kia sai người đuổi theo, chặn con đường tắt của họ. Vua Chiên-đà-la đánh trống ra lệnh, bảo những vị trưởng giả và Bà-la-môn: “Các ngươi đừng bỏ đi, ta sẽ chia một nửa đất nước cho các ngươi cai trị”. Dân chúng trong nước có người không bỏ chạy, vua lại nói: “Này các vị Bà-la-môn! Các ông hãy bảo cho nhau biết lời nói của ta, bảy ngày sau, các hàng Bà-la-môn và những người có học thức sẽ thiết lập đại hội cho vua Chiên-đà-la, các người nên cùng nhau đi đến chỗ nhà vua, để cùng với vị quốc vương kia và hàng Chiên-đà-la là thân tộc của vị vua ấy ăn uống và ngủ nghỉ. Nếu có một người không nghe theo lời chỉ bảo ấy, ta sẽ trị tội gắt gao”. Vua lại còn nói: “Trong nhà ta có vị thuốc cam lộ của tầng trời Ba Mươi Ba. Người nào ăn uống vị thuốc đó thì có thể khiến cho người ấy không chết, lại có cách truyền lại cho nhau”.

Bấy giờ, có một vị Phạm chí tóc quấn chuyên tu tịnh hạnh, nghe chỉ giáo của nhà vua xong, bèn đi đến chỗ vua, đem đầu mặt làm lễ dưới chân, rồi tâu vua: “Tâu đại vương! Đại vương nên biết, người có thể làm điều bất nhẫn, tội ác lớn lao trong thiên hạ thì người đó chính là tôi đây. Nhà vua nên ban quan tước bổng lộc cho tôi, tôi có thể xướng lệnh”.

Tức thời, nhà vua đồng ý. Bấy giờ, người Phạm chí kia lập tức nhận chỉ thị của vua rồi xướng lệnh ở trong nước. Khi ấy, các người Bà-la-môn trong đất nước thảy đều tức giận và quở trách người đó, thế nhưng người Phạm chí ấy vẫn cùng với ông vua kia trông coi việc nước. Mãi đến vào thời gian sau này, vị đại thần Phạm chí bèn thưa với nhà vua: “Tôi và đại vương cùng nhau trông coi việc nước cho đến ngày hôm nay, song đại vương vẫn chưa thể hiện sự tin cậy mà chẳng chỉ bảo cho tôi học một pháp thuật”.

Vị vua nói với Phạm chí: “Từ từ ta sẽ dạy bảo ông học pháp thuật, nay nhà ta có vị thuốc cam lộ của vị vua đời trước để lại, ta sẽ cùng ông dùng chung”.

Tức thời, vua bèn lấy vị thuốc cam lộ này cùng bày cách thức sử dụng cho người Phạm chí kia. Đại thần Phạm chí được vị cam lộ và phương pháp sử dụng này rồi, bèn hòa thuốc với đồ ăn cho ông vua kia dùng. Nhà vua uống phương thuốc kia tức thời qua đời. Khi ấy đại thần Phạm chí liền lập thái tử của Tiên vương lên nối ngôi vua, ông vẫn hộ trì Tiên vương dùng chánh pháp để giáo hóa cai trị. Như thế, đại thần Phạm chí không vứt bỏ phép tắc Bà-la-môn mà tập quen theo phép tắc của hạng Chiên-đà-la, cho nên vị Phạm chí tu hành theo hạnh nghiệp cứu giúp của Bồ-tát. Dân chúng ở trong cõi nước khen ngợi: “Quý hóa thay! Người Bà-la-môn này hộ trì phép tắc của nhà vua”.

Bấy giờ, vị Bồ-tát vì việc giữ gìn chánh pháp nên làm người Bà-la-môn, tạo tác các phương tiện, vị ấy lập người con của nhà vua kia để làm vua trong nước, mọi người ở bên trong và bên ngoài cung điện cho đến các vị quan lớn đều tiếp nhận chánh pháp, còn vợ con quyến thuộc của vua Chiên-đà-la đều cho uống thuốc độc khiến cho họ mê say, rồi sau mới đuổi họ ra khỏi nước. Đại Bồtát cũng như vậy, thị hiện tướng Phạm giới, nuôi dưỡng nô tỳ, tiếp nhận của cải không hợp pháp, rồi Bồ-tát đi đến chỗ Tỳ-kheo xấu ác phạm giới kia để phụng sự, học tập, viết chép kinh của Tỳ-kheo đó. Viết chép kinh xong, vị ấy chuyển đến dạy dỗ cho người giữ giới, cùng với kẻ xấu ác kia ngủ nghỉ, tiếp đãi ăn uống, tự tay làm thức ăn, không cho người khác làm thức ăn, vì việc hộ trì chánh pháp bèn làm phương tiện, đem các sự việc của tám loại phi pháp mà hàng phục họ khiến cho họ mê say, lại chẳng cùng với người kia hòa hợp tự tứ và bố-tát. Hàng phục hết thảy những người phạm giới là cùng với các chúng thanh tịnh hòa hợp làm phép bố-tát và tự tứ, đem thuật pháp Ma-ha-diễn Phương đẳng nói rộng rãi cho mọi người yên ổn, tế độ vô lượng chúng sinh, đó là Bồ-tát hộ trì chánh pháp, Ta vì những hạng người ấy mà nói bài kệ này.

Nếu có hàng Tỳ-kheo nghe điều Ta giảng nói, họ không có tâm hộ pháp, nhưng muốn phương tiện bắt chước vị Bồ-tát kia, khởi lên các lỗi lầm, là điều Phật chẳng cho phép. Họ tự nói mình là Bồtát, mà thực ra họ khoan hồng dung túng người làm chuyện xấu ác lỗi lầm, Ta nói những kẻ ấy là hạng người biếng nhác. Giáo pháp phương tiện bí mật tinh tế này của Ta là vì Bồ-tát hộ pháp, nên Ta nói bài kệ này:

Nếu người biết chánh pháp
Chẳng hỏi họ lớn bé
Hết lòng thêm cúng dường
Như phép người thờ lửa.
Nếu người biết pháp ấy
Chẳng hỏi họ lớn bé
Hết lòng cung kính lễ
Như trời thờ Đế thích.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Như thế, Bồ-tát kiêu mạn, phóng túng, lười biếng, thì đối với giới Cụ túc, vị ấy được thanh tịnh hay không?

Phật bảo Ca-diếp:

– Thiện nam! Người thọ giới Cụ túc kia nếu biết sám hối thì nên nói họ là người thanh tịnh. Thiện nam! Ví như bờ đê bị phá vỡ thì nước giữ ở bờ đê chảy ra. Vì sao? Vì người chẳng ân cần sửa sang. Thế nhưng, này thiện nam! Bờ đê bị phá vỡ thì sửa sang lại, nước trong bờ ao ấy chảy trở lại; người biếng nhác kia cũng như thế, đối với giới Cụ túc, bố-tát, tự tứ bị phá vỡ, nước giới pháp tuôn chảy ra. Vì sao? Vì sự siêng năng giảm bớt, sự biếng nhác tăng thêm, nhưng giới hạnh của vị Tỳkheo ấy giảm bớt cần phải sửa chữa lại. Từ chỗ của các vị Bồ-tát hộ pháp kia, họ gắng sức sửa đổi và sám hối khiến cho được thanh tịnh.

Ca-diếp bạch Phật:

– Giống như điều Thế Tôn nói trong kinh với ví dụ quả A-ma-lặc; việc giữ giới, phạm giới, tướng của chúng khó thể biết được, phải phân biệt thế nào?

Phật bảo Ca-diếp:

– Thiện nam! Sự giữ giới và phạm giới, muốn biết tướng của chúng thì phải dựa vào kinh Đại Bát Nê Hoàn mới có thể khéo phân biệt. Thiện nam! Ví như người làm ruộng gieo trồng năm loài cây có hạt dùng để ăn, nhổ bỏ cỏ dại rậm rạp thì gọi là thửa ruộng sạch. Vì có giống cỏ kê in hệt mầm lúa tốt tươi, đến khi giống cỏ ấy đơm quả thì cỏ và lúa mỗi thứ khác nhau, rồi sau đó mới biết có sự phân biệt giữa chân và ngụy. Bồ-tát hộ pháp cũng như thế, phương pháp sửa sang thửa ruộng tu tập, trước tiên trừ bỏ tám thứ hành động thô ác tội lỗi, diệt trừ lỗi lầm thô ác xong thì gọi là chúng Tăng có con mắt thịt thanh tịnh, ruộng phước tươi tốt hơn cả cho đến quả vị bậc Thánh. Ngoài vị Tăng mắt thịt ra thì gọi là Tăng thanh tịnh, chỉ cần trừ bỏ tám thứ lỗi lầm lớn lao như rắn độc, thì gọi là chúng Tăng có ruộng phước tốt hơn cả. Tuy chưa hoàn toàn thanh tịnh, nhưng đã là chỗ của hàng trời và người cúng dường, là thửa ruộng phước tốt tươi, huống chi kết cục lại thành tựu diệu quả Hiền thánh và ruộng phước thanh tịnh, vượt ra khỏi sự biểu hiện của con mắt thịt kia trông thấy.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như trong nước có hai cây ăn quả, một cây gọi là Ca-lưu, cây thứ hai gọi là Triêm-mâu. Cây Ca-lưu là thứ cây ra quả đắng, cây Triêm-mâu là loại cây ra quả ngọt, hình dáng hoa lá, trái cây na ná như nhau. Có người không nhận biết bèn hái lẫn lộn những quả ấy, đem ra chợ bán, người ăn chúng bị chết rất nhiều. Bấy giờ, có người trí tuệ nghi ngờ đó là quả độc, bèn đi đến hỏi thăm người bán: “Các ông hái quả này ở đâu mà mang đến đây”. Người kia trả lời: “Ở vùng đất nọ”. Người có trí bèn nói với người kia: “Đây ắt hẳn là có quả độc lẫn lộn, cho nên giết chết nhiều người, ông nên mau mau vứt bỏ nó đi”. Như thế, này thiện nam! Vị Tăng biếng nhác thành tựu tám việc ác, cùng lúc có người giữ giới ở trong số đó, giống như quả ngọt kia ở trong rừng cây độc hại. Bồ-tát hộ pháp dạy bảo khiến cho số Tăng ác bỏ đi, không bảo những hạng đệ tử có lòng tin lễ lạy, cúng dường, cung kính, gần gũi, để bị cắt đứt gốc rễ tuệ mạng, rơi vào trong địa ngục. Cho nên, những hạng Ưu-bà-tắc có lòng tin nên khéo phân biệt, đừng thấy hình dạng áo quần rồi liền làm quen và gần gũi nhau, phải nên hỏi để biết rõ người kia được thành tựu tám thứ pháp hay không? Việc tự tứ và bố-tát được hòa hợp hay không? Hoặc giả người kia đã xa lìa tám thứ pháp xấu ác, những hạng Tăng như thế, Thế Tôn cũng thu nhận, vì xót thương chúng sinh. Ở rừng Kỳ-hoàn các vị ấy cùng hòa hợp nhau như tích tụ vàng thật, nên biết hạng người ấy hãy nên cúng dường. Nếu nói rằng không thu nhận, không cùng hòa hợp bố-tát, tự tứ, nên biết hạng người ấy không phải là người đáng được hàng trời và người cúng dường, các Tỳ-kheo ấy không nhận lời cùng bố-tát và tự tứ chung với họ, nếu họ hỏi thăm vẫn không thể biết, hãy nên dựa vào khế kinh chân thật của Như Lai mà phân biệt. Nếu như người phàm phu ngu si không khéo phân biệt mà bèn cung kính, cúng dường bố thí đồ cần dùng, cùng với người kia gần gũi tập quen nhau, Ta nói hạng người ấy sẽ rơi vào con đường ác.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như núi Tuyết có cây thuốc tốt và ngọt, khi ấy các người buôn bán cùng nhau lấy các cây thuốc rồi đi các nơi để bán. Bấy giờ, có một người không nhận biết các cây thuốc, mới hỏi những lái buôn kia: “Các ông có loại cỏ thuốc ngọt mọc ở núi Tuyết hay không?”. Những người kia trả lời: “Chúng tôi có thứ thuốc ấy”. Người ấy liền nghe theo và đòi mua thứ thuốc ấy, thế nhưng, người buôn kia lại giao cho người mua món thuốc đắng. Người mua thuốc ấy mong cầu vị thuốc ngọt, trái lại mua nhằm vị thuốc đắng. Mọi người thanh tịnh giống như thuốc ở núi Tuyết, cùng với hạng Tỳ-kheo phạm giới biếng nhác kia mà hòa hợp chung, kẻ có lòng tin ấy cúng dường, lễ bái, phụng sự, nên biết đó là hạng người phàm phu mắt thịt, giống như người kia không nhận biết vị thuốc ngọt, sự thanh tịnh hay phạm giới, tướng của chúng khó thể biết được, mắt thịt của kẻ phàm phu không thể nào phân biệt, chỉ có thiên nhãn mới có thể phân biệt mà biết. Cho nên người có đủ tám thứ pháp ác, tuy rằng mặc pháp phục ca-sa, song không nên nhận sự lễ lạy cúng dường của người khác. Nếu có năng lực sửa đổi ăn năn, trừ bỏ tám thứ lỗi lầm, thì gọi là vị Tăng thanh tịnh.

Ca-diếp bạch Phật:

– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn giảng nói pháp này một cách chắc chắn, con sẽ đảnh lễ thọ trì món báu kim cương ấy.

Bấy giờ, Ca-diếp lại bạch Phật:

– Như lời Thế Tôn nói, Thế Tôn đã bảo cho các Tỳ-kheo biết có bốn pháp để dựa vào. Những gì là bốn pháp nương tựa? Y theo pháp chẳng y theo người, y theo lời nói quyết định chứ không y theo lời nói chưa quyết định, dựa theo trí tuệ chứ chẳng dựa vào thức, dựa vào nghĩa chứ không nương theo văn tự. Chúng con tin tưởng đây là bốn thứ để dựa vào, chứ không tin bốn hạng người là chỗ nương tựa chân thật.

Phật bảo Ca-diếp:

– Những điều đó gọi là pháp, chính là sự Đại

Bát-nê-hoàn của Như Lai, tất cả chư Phật đều cùng pháp này. Chư Phật Như Lai đạt được pháp này rồi, đó là pháp thường trú không thay đổi, không phải pháp phai mờ tiêu diệt. Nếu người nào dấy lên ý nghĩ vô thường đối với Như Lai, thì Ta nói hạng người này không phải là người biết pháp, là người không thể tin cậy. Như Ta đã nói bốn hạng người ấy khéo hiểu rõ giáo pháp bí mật phương tiện của Như Lai. Họ biết các Đức Như Lai là pháp thường trụ, không phải pháp biến đổi, không phải pháp phai mờ tiêu diệt. Chư Phật Như Lai cũng lại ở tại những người kia, trong số bốn hạng người và các chúng sinh khác. Đối với giáo pháp bí mật phương tiện của Như Lai thường trú, người nào khéo hiểu rõ nghĩa ấy, Ta nói hạng người ấy là nơi nương dựa căn bản, nên biết có thể tin tưởng, vì ý nghĩa ấy nên Ta nói bốn hạng người là chỗ nương dựa chân thật.

Nương dựa vào pháp, nghĩa là các hàng Thanh văn ấy có trí tuệ và đạo đức lớn, ở trong chánh pháp tâm họ chẳng lầm lẫn sơ hở. Chánh pháp ấy là Như Lai thường trú, đối với chánh pháp này là phương tiện siêng năng, gọi là nương theo pháp. Chẳng y theo người là, nếu cho rằng người này phạm giới, tham lam vẩn đục, lại nói Như Lai là pháp vô thường, người kia không phải là kẻ đáng tin, cho nên Ta nói không nương theo người mà nương theo nghĩa quyết định. Nghĩa quyết định chính là Bồtát. Các hàng Thanh văn đối với giáo pháp bí mật phương tiện của Như Lai này, họ nghi hoặc, không tin tưởng. Biển trí Đại thừa khiến cho họ quyết định lìa khỏi các sự nghi hoặc. Lại nữa, quyết định chính là trí Đại thừa, mãi mãi lìa khỏi các sự ngăn ngại. Ngăn ngại là trí của hàng Thanh văn, các Bồtát ấy có thể lấy trí tuệ Đại thừa quyết định để hiểu rõ các Đức Như Lai là pháp thường trụ. Do đó lời của Bồ-tát nói là đáng tin cậy. Chưa quyết định chính là trí của hàng Thanh văn, họ nói rằng, thân uế thực của các Như Lai khi vào Nê-hoàn thì diệt hết, ví như lửa tắt thì không thể tin. Sở dĩ Như Lai nói những kinh này là vì phương tiện giáo hóa, như các hạng chúng sinh mê hoặc hai đạo. Trí của hàng Thanh văn chính là hữu dư, là không quyết định, cho nên các Thanh văn gọi là số không quyết định, vì trí tuệ kia không hiểu rõ lời nói của đấng tôn quý Đại Thánh Như Lai, cho nên nói hạng người kia là người không thể tin. Do đó, Phật nói nghĩa quyết định chính là bốn chỗ nương dựa thật sự, nương dựa vào trí tuệ. Trí tuệ ấy tức là pháp thân Như Lai đáng tin, còn thân phương tiện là chẳng đáng tin. Tại sao chỉ cần thấy thân phương tiện của Như Lai xong, rồi nói thật có ấm, giới và các nhập, nếu thân ấy không có, thành ra thân ấy từ đâu đến, mà nay hiện có xá-lợi tích tụ, vì có xá-lợi hiện ra ở đời nên gọi pháp thân ấy là thân uế thực, dấy lên sự suy nghĩ xằng bậy ấy, vì nguyên cớ đó mà sự nhận biết không đáng tin, sự nhận thức không đáng tin nên dấy lên thức tưởng, nên biết người ấy cũng là người không đáng tin.

Nương dựa vào nghĩa, nghĩa là chính nghĩa, chính là nghĩa đầy đủ, đầy đủ là nghĩa không tiêu giảm, không tiêu giảm là nghĩa thường của Như Lai, thường của Như Lai là nghĩa thường pháp, thường pháp ấy là nghĩa thường của chúng Tăng, đó chính là Đức Phật nói, gọi là nghĩa nương dựa theo. Nếu có hạng phàm phu dua nịnh quanh co, được nhờ lòng từ của Như Lai che chở, người ấy xuất gia học đạo rồi bèn biếng nhác, buông bỏ giới cấm, người ấy nói rằng, Đức Phật cho phép ta thu nhận nuôi dưỡng đầy tớ và cất giữ những của cải phi pháp. Hoặc lúc mất mùa đói kém, người ấy nói rằng, các đệ tử của ta chớ tự chịu khốn khổ, ta để mặc cho họ thu nhận nuôi dưỡng đầy tớ, tiền tài, vàng bạc, của báu, bò ngựa, gạo thóc, mua bán kiếm lời. Người kia nói ra đủ thứ văn từ như thế, nếu nói kinh luật đều chẳng đáng tin, kẻ tin lời nói ấy, nên biết kẻ đó cũng là người không đáng tin. Vì nghĩa ấy nên nói là y theo nghĩa. Phi nghĩa ấy là nói rằng, ba pháp này đều là vô thường, biến đổi phai mờ tiêu diệt, đó gọi là phi nghĩa, đó gọi là văn tự. Cho nên nói rằng, dựa theo nghĩa chứ không dựa theo văn tự. Cho dù kinh nghĩa của ngoại đạo nói mà phù hợp với Ma-ha-diễn, thì đó đều là việc có thể tin, không phải là văn tự. Cho nên bốn pháp để dựa vào, cho đến kể ra bốn hạng người mắt thịt là chỗ nương tựa chân thật. Thiện nam! Đó là bốn thứ nương dựa theo, ông phải nên học như thế.

Phẩm 10: PHÂN BIỆT TÀ CHÁNH

Phật bảo Ca-diếp:

– Có bốn pháp: Có ma nói kinh, có Phật nói kinh, có các chúng sinh theo lời dạy của ma, có các chúng sinh theo lời dạy của Phật.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con phải phân biệt thế nào mà biết được, con mong muốn được nghe điều đó. Phật bảo Ca-diếp:

– Thiện nam! Bảy trăm năm sau khi Ta nhập Nê-hoàn, giáo pháp của Như Lai từ đây sẽ tiêu diệt dần dần, loài ma làm Tỳ-kheo để phá hoại và làm rối loạn chánh pháp, làm tướng thợ săn mà tự mình che giấu, chúng làm ra dáng vẻ Tỳ-kheo, dáng vẻ Tỳ-kheo-ni; làm ra dáng vẻ Ưu-bà-tắc, dáng vẻ Ưu-bà-di; làm ra dáng vẻ Tu-đà-hoàn, dáng vẻ Tưđà-hàm; làm ra dáng vẻ A-na-hàm, dáng vẻ A-lahán, cho đến chúng làm ra dáng vẻ Phật, loài ma Ba-tuần ấy làm ra dáng xa lìa tướng thế tục nhưng thực hành pháp thế tục, chúng phá hoại và gây rối loạn giáo pháp của Ta. Ma Ba-tuần nói: “Như Lai ẩn mất từ cõi trời Đâu-suất, giáng thần xuống nhà của vua Tịnh Phạm, phu nhân Ma-da hòa hợp sự ái dục rồi từ đó Ngài mới được sinh ra. Nếu người nào nói rằng, Như Lai không từ ái dục sinh ra, lẽ nào có lý đó. Cùng pháp nhân gian như nhau, nhưng lại được chư Thiên, người đời và A-tu-la cung kính cúng dường. Vì sao? Vì vị ấy gieo trồng mọi cội rễ đức hạnh từ nhiều kiếp trước, vợ con và các thứ thuộc tự thân, vị ấy đều bố thí cho người, cho nên được làm Phật”. Với tướng mạo như thế, ông nên biết rằng, đó là kinh luật của ma nói. Vì sao? Vì việc giáo hóa chúng sinh nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác mới xuất hiện ở đời, không phải vì sự tích tập ái dục của cha mẹ mình rồi từ đó Như Lai mới sinh ra. Ta thị hiện tướng hạnh này là thuận theo thế gian. Với tướng mạo như thế, nên biết đó là kinh luật của Phật nói.

Nếu có chúng sinh tin thọ kinh luật của ma, nên biết hạng người ấy là thuận theo lời dạy của ma. Nếu chúng sinh ấy tin thọ kinh luật do Như Lai nói, nên biết người ấy là Bồ-tát.

Ma lại còn nói, Như Lai sinh ra ở đời rồi hướng về khắp mười phương, mỗi phương đi bảy bước. Không phải vì sự thị hiện mà người bảo rằng thị hiện, đó là điều không đáng tin. Những kinh luật như thế, nên biết đó là ma nói. Nếu nói rằng, khi Như Lai mới ra đời, hướng về khắp mời phương, mỗi phương đi bảy bước, đó là Như Lai phương tiện thị hiện. Những kinh luật như thế, qua đó biết là do Phật nói. Tin theo kinh luật của ma nói, nên biết hạng người ấy là thuận theo lời dạy của ma. Tin theo kinh luật do Phật nói, nên biết người ấy là Bồ-tát.

Ma lại còn nói, Như Lai đi đến miếu thờ trời rồi cung kính lễ bái, chứ không phải là thiên thần lễ bái Bồ-tát. Vì sao? Vì thiên thần ở trước, Như Lai ở sau. Nên biết như thế là kinh luật của ma nói. Như Lai phương tiện thị hiện đi vào miếu thờ trời, chư Thiên, Đế thích, Phạm vương thảy đều cung kính làm lễ và hầu hạ Bồ-tát. Tướng mạo như thế là lời nói của Như Lai. Tin theo kinh luật do ma nói, nên biết hạng người ấy là thuận theo lời dạy của ma. Tin theo kinh luật do Phật nói, nên biết người ấy là Bồ-tát.

Ma lại còn nói, Như Lai làm Thái tử con vua, tự vui thú năm thứ dục với người trong cung và gái đẹp hầu hạ, nên biết đó là kinh luật do ma nói. Có người nói rằng, Đức Như Lai kia hiện giờ ở thâm cung, vui vẻ với gái đẹp hầu hạ trong cung, vị ấy bỏ nhà để đi học đạo giống như nhổ bỏ nước bọt. Nói như thế, nên biết ấy là kinh luật của Như Lai. Tin theo kinh luật do ma nói, nên biết hạng người ấy là thuận theo lời dạy của ma. Tin theo kinh luật do Phật nói, nên biết người ấy là Bồ-tát.

Ma lại còn nói, Như Lai Ứng Cúng Đẳng

Chánh Giác, ở tại rừng cây của thái tử Kỳ Đà, vườn của ông Cấp Cô Độc, thu nhận và cất giữ tiền tài, vàng bạc, vật báu; nuôi dưỡng nô tỳ, voi, ngựa, bò, dê, gà, chó, mèo, chồn, khỉ, chuột; cất chứa đồng, sắt, lưu ly, chân châu, ngọc kha, vàng, bạc, ngọc báu, san hô, hổ phách; đủ mọi thứ đồ vật tạp nhạp, đủ mọi thứ nhà ở đất ruộng, đủ các thứ buôn bán; nuôi dưỡng con trai, con gái, gom góp cất giữ thóc gạo. Những việc làm như vậy là vì thương xót thế gian, cho nên thảy đều thu nhận. Những việc đại loại giống như thế, nên biết đó là lời nói của ma.

Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác xót thương hết thảy mọi loài chúng sinh, Ngài trú ở rừng Na-la, rồi nói cho vị Bà-la-môn Di-la-kỳ-la và vua Ba-tưnặc: Này đại vương! Các đệ tử của ta thu nhận đồ vật phi pháp, đâu có lẽ đó. Nếu như họ cất chứa vàng bạc, nuôi dưỡng nô tỳ, voi, ngựa, trâu, dê, gà, chó, mèo, chồn, sóc, chuột; cất giữ đồng, sắt, lưu ly, vàng, bạc, chân châu, ngọc kha, đá ngọc, san hô, hổ phách, các thứ đồ vật tạp nhạp, đủ thứ nhà ở ruộng đồng, đủ thứ buôn bán; nuôi dưỡng con trai, con gái, gom chứa thóc gạo. Tự mình nấu chín, bảo người khác nấu chín, học xem tướng, học chú, học tiếng hót của các loài chim, suy tính năm tháng ngày giờ, khi thịnh khi suy, nhật thực nguyệt thực; ngẩng xem lịch số; học kết vòng hoa, học nghề làm mộc tinh xảo; học sách bói mộng, học sáu mươi tư nghề, uống các thuốc tiêu hóa thức ăn và trị môi răng; đeo tràng hoa, xoa hương thơm vào mình; dua nịnh quanh co, đi bách bộ, hiện ra tướng biết đủ nhưng thực sự cầu không biết chán; nói chuyện cười đùa, tham mùi vị đồ ăn thức uống, món ăn ngon bằng thịt và cá; hòa hợp các loại thuốc độc, hòa hợp các loại dầu thơm, làm các dụng cụ âm nhạc, giầy da, dù lọng; mở nhà làm tre nứa, xưởng dệt, chạm trổ, vẽ tranh, thêu hoa văn, uống đủ thứ thuốc, hòa hợp các mùi thơm; bắt chước điệu bộ nói năng chuyện trò, đứng dậy, ngồi xuống, nói cười, vui vẻ, yên lặng của nhà vua; học theo kiểu cách trang điểm, làm đồ trang sức, vòng hoa của nữ nhân; bắt chước nói năng trêu ghẹo, mặc áo quần có nhiều màu lẫn lộn; tạo ra nhà cửa lầu gác, đi vào chỗ hội họp nơi quán rượu và chốn lầu xanh, đủ mọi thứ tài vật phi pháp như thế, hoặc làm, hoặc nhận, hoặc nắm giữ, hay đem cho người khác. Như thế, thưa đại vương! Các sự việc đại loại ấy là điều Như Lai không cho phép. Vì sao? Vì những việc phi pháp này giống như loài cỏ dại làm hại mầm lúa tốt tươi, phải xử lý trừng phạt nghiêm khắc và đuổi họ ra khỏi đạo.

Người nào nói như thế, nên biết đó là nói theo kinh luật của Như Lai. Tin theo kinh luật do ma nói, nên biết hạng người này là thuận theo lời dạy của ma. Tin theo kinh luật do Phật nói, nên biết đó là Bồ-tát.

Ma lại còn nói, Như Lai chẳng thể nào thị hiện vào nơi miếu trời, cũng lại không thể hàng phục được các hàng trời người kia. Vị ấy cũng lại không thể nào xuất gia ở trong chín mươi sáu thứ đạo giáo, không thể hiện kiếp thành bại, không học tất cả các cách thức chữa bệnh, cũng không thể hiện ra thành người đầy tớ để sai khiến, con trai, con gái, cây thuốc, hoặc là đại thần của nhà vua. Nếu như Đức Như Lai làm những sự việc ấy thì chẳng phải là Như Lai, đó là hạng tà kiến. Như Lai bình đẳng trong cách xử sự giữa người đến xoa hương và người chặt đứt tay mình, không có sự oán giận, không có sự yêu thương, cũng không có sự việc này. Với tướng mạo như thế, nên biết đó là kinh luật của ma nói.

Như Lai thị hiện đi vào tất cả các miếu thiên thần, ở chín mươi sáu thứ đạo mà thị hiện xuất gia, hiện kiếp thành bại, đi vào các trường để học sách về chú thuật, thị hiện làm người đầy tớ bị sai khiến, làm con trai, làm con gái, hoặc làm cỏ thuốc, quốc vương, quan lớn; thị hiện vào nhà thổ; hoặc làm vị trưởng giả, cư sĩ, Phạm chí, con trai con gái nghèo túng cho đến các hạng người chẳng thành nam tính. Thị hiện đủ mọi thứ để giáo hóa rộng khắp cả hai mươi lăm cõi, mà không bị mê hoặc rối loạn bởi từng loại biến hiện kia, giống như hoa sen không dính mắc nước đục, bụi bặm, nên biết Như Lai vì việc hóa độ các chúng sinh, cho nên thuận theo thế gian. Với tướng mạo như thế, nên biết đó là kinh luật của Như Lai nói ra. Theo kinh luật của ma nói rồi tin tưởng, nên biết hạng người ấy là tùy thuận ma giáo. Theo kinh luật của Phật nói mà tin tưởng, nên biết đó là Bồ-tát.

Nói rằng kinh luật của Ta, điều mà Thế Tôn nói ra là tội, là ác, là nhẹ, là nặng, đó gọi là thô tội, đó gọi là tính tội, đó gọi là chế tội. Giới luật của Ta nói là chân thật như thế ấy, ông nói là thật, chẳng lẽ bỏ lời nói của Ta mà chọn lấy lời nói của ông chăng? Ông nói luật này là luận bàn thế tục chăng? Kinh luật này của Ta là chín bộ khế kinh do Như Lai nói đã được niêm phong ấn chứng xong, trong chín bộ kinh ấn chứng, Ta chưa từng nghe có âm thanh của một câu, một chữ, vài lời trong kinh Phương Đẳng. Như Lai nói kinh có mười bộ chăng? Bộ của kinh Phương Đẳng ấy là vô lượng, nên biết đều là do Điều-đạt làm ra, phá loại tất cả nghĩa mà nói ra lời hư dối, nói rằng kinh Phương Đẳng vượt ra ý nghĩ mà tạo ra xằng bậy là điều ta không tin.

Phật bảo Ca-diếp:

– Người nào nói như thế là làm rối loạn pháp giáo của Ta, phỉ báng khế kinh Phương Đẳng của Như Lai. Người nào nói như thế, nên biết đó là kinh luật của ma nói. Về đời sau này có hạng người như thế, ai nấy đều tự nói rằng, ta có kinh luật, rồi cùng tranh luận chung với kinh luật tà thuyết. Đối với chín bộ kinh, có các Tỳ-kheo tỏ ra biết Ta nói riêng kinh lớn Phương Đẳng Ma-ha-diễn này, họ có lòng tin và hướng về. Đối với giới luật, các vị ấy không dính mắc vào tà kiến, thảy đều có thể lìa bỏ uy nghi bất tịnh. Đối với pháp luật của Ta thì họ thanh tịnh đầy đủ, dường như vầng trăng tròn, họ biết từng kinh điển một, từng pháp luật, từng giới hạnh một, số ấy nhiều như cát sông Hằng, không thể nào nói và đếm xuể. Nghĩa lý chân thật, nghĩa lý của mọi thứ đều là do Phật nói. Nếu ai nói rằng, kinh luật của Ta không có giới ấy, nên biết đó là giới không phải do Phật nói. Người nào nói rằng, Ta hạn chế số người giữ giới này, nên biết hạng người như thế chính là người phạm giới. Nếu có kinh nói rằng, sự ít ham muốn và giữ trai giới thanh tịnh là phù hợp với lời Phật, nên biết nghĩa này đều là những điều Ta nói rõ trong kinh Ma-ha-diễn.

Nếu nói rằng Như Lai yên ổn cứu giúp và độ thoát tất cả chúng sinh, cho nên nói như thế này là kinh Phương Đẳng Đại Thừa Nê Hoàn, nên biết hạng người này quả là đệ tử của Ta. Nếu có người nào nói khác điều đó, thì Ta không phải là thầy của kẻ kia, kẻ kia không xuất gia học đạo ở chỗ của Ta, họ đều là đệ tử của kẻ ngoại đạo tà kiến. Với tướng mạo như thế, nên biết đó là kinh luật của Phật nói. Người nào tin theo kinh luật của ma nói, nên biết hạng người này là đi theo ma giáo. Nếu người nào đối với kinh luật của Như Lai nói, thuận theo rồi có niềm tin, nên biết đó là Bồ-tát.

Như Lai thành tựu vô lượng công đức, chứng đắc tuệ không, vô, Ngài nói khổ, không, vô ngã cho chúng sinh. Nay vì sự vô thường nên đã vào Nêhoàn, cũng chẳng thị hiện tùy thuận thế gian. Người nào nói như thế, nên biết là ma giáo.

Nên biết Như Lai không thể nghĩ bàn, thành tựu vô lượng vô số công đức, là Phật Thế Tôn, chính là pháp thường trụ, không phải pháp thay đổi. Tất cả không phải là giống như chặt ngang cây Đa-la, thế mà Thế Tôn nói bốn pháp không thể độ thoát giống như chặt ngang cây Đa-la. Thế Tôn lại nói từng pháp không thể độ thoát dường như chẻ đá, nói pháp hơn người là về hạng vô gián, pháp hơn người ấy là người chưa chứng đắc Thánh quả mà nói mình đã chứng đắc.

Có một Tỳ-kheo ít muốn biết đủ, lại còn hiểu biết rộng. Nếu nhà vua, quan lớn và người đời trông thấy vị ấy, thì họ đều cung kính, rồi nói bài kệ khen ngợi Tỳ-kheo kia đủ mọi thứ công đức. Mọi người nói Tôn giả đó bỏ thân này xong sẽ thành Phật đạo. Tỳ-kheo nghe họ khen xong, bèn nói lời thế này: “Đối với người chưa đạt được quả vị, các ông đừng đem đạo quả để khen ngợi. Hễ là danh tự thì có nhiều sự ham muốn, đó là điều Phật không cho phép. Các ông hãy im lặng, đừng trọn đời làm người ưa thích pháp của ta mà gây ra danh tự nhiều sự ham muốn, chưa đạt được đạo quả, ta tự biết việc đó”. Thế nhưng, vị quốc vương và các đại thần kia nói với Tỳ-kheo: “Thưa Tôn giả! Nay cả thế giới đều nghe tin Tôn giả chính là Phật, mọi người đều theo Tôn giả để học kinh luật và ký luận”. Nên biết nhà vua và những ông quan lớn kia làm kệ tụng khen ngợi công đức vô lượng, nhưng mà Tỳ-kheo kia vẫn tu trì phạm hạnh, không có điều gì vi phạm. Không phải vì việc không giải thoát cũng chẳng phạm mà vị ấy tự xưng mình đạt được pháp hơn người.

Lại có Tỳ-kheo giảng nói kinh Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, là do ở trong thân, vô lượng phiền não đều trừ diệt xong, Phật liền hiện ra rõ ràng, trừ hạng Nhất-xiển-đề”. Bấy giờ, có vị quốc vương và các đại thần hỏi Tỳ-kheo: “Ông sẽ làm Phật hay không làm Phật? Trong thân các ông đều có Phật tánh?”. Tỳ-kheo kia nói: “Chẳng biết tôi sẽ được làm Phật hay không, nhưng thật ra trong thân tôi có Phật tánh”. Các người kia lại nói với Tỳ-kheo: “Nay ông đừng làm hạng Nhất-xiển-đề, mà tự mình tính toán ta sẽ làm Phật”. Tỳ-kheo nói: “Vâng, chỉ cần trong thân ta có Phật tánh thật sự”. Tỳ-kheo kia tuy nói lời này, nhưng không phải là người tự xưng mình đạt được pháp hơn người, vì thật ra có Phật tánh, do bố thí, trì giới phát sinh.

Lại có Tỳ-kheo dấy lên sự suy nghĩ thế này: “Ta sẽ thành Phật, quyết định không nghi ngờ”. Suy nghĩ như thế tuy rằng chưa đạt được đạo quả, song phước của vị ấy vô lượng. Do ý nghĩa ấy, tất cả hàng Tỳ-kheo đều cần phải tu hành pháp suy nghĩ như thế. Vì sao? Vì tám mươi ức pháp chẳng thanh tịnh từ đây được lìa bỏ, sự thanh tịnh ít ham muốn đều được thành tựu, chân tánh Như Lai do pháp này mà hiện ra rõ ràng. Đến khi đạt được trăm ngàn các pháp chứa cất châu báu, Đức Thế Tôn vì lòng đại bi mà nói thế này: “Tướng mạo như vậy, nên biết đó là kinh luật do Như Lai nói”. Người nào tin theo kinh luật của ma nói, nên biết hạng người ấy là đi theo ma giáo. Người nào tin theo kinh luật của Phật nói, nên biết đó là Bồ-tát.

Lại nữa, ma còn nói rằng, cũng không có bốn tội đọa, mười ba tăng tàn, ba mươi pháp xả, chín mươi mốt pháp đọa, nhiều chúng học pháp, bốn pháp hối lỗi, hai pháp bất định, bảy cách diệt bỏ sự tranh cãi; không có tội sai trái vượt qua giới luật, cũng không có tội thô; cũng không có năm tội nghịch, không có sự chê bai kinh pháp; không có hạng Nhất-xiển-đề, cũng không có quả báo đọa vào trong địa ngục khi phạm các giới này; các vị Tỳ-kheo và người ngoại đạo ấy đều sẽ sinh lên cõi trời, thế nhưng Phật Thế Tôn vì sự khủng bố mọi người nên nói giới luật này. Nếu người nào muốn hưởng thú vui tột bực trong đời một cách thỏa thích, thì hãy nên bỏ pháp phục mà trở lại hưởng thụ năm dục, chán năm dục xong thì ăn năn hối lỗi rồi tu tập điều thiện. Như Lai còn ở đời cũng có hạng Tỳ-kheo quen theo sự hưởng thụ năm dục được sinh lên cõi trời, cũng được giải thoát. Xưa và nay có việc đó, không phải một mình ta bịa đặt, người phạm bốn pháp đọa, cho đến năm giới cấm và tất cả các luật nghi bất tịnh, thu nhận tài vật phi pháp đều được giải thoát. Nếu người nào nói lời như thế thì phạm tội sai trái vượt qua Tỳ-ni, sẽ đọa trong địa ngục tám vạn bốn ngàn năm, theo đúng cách tính ngày tháng năm ở cõi trời Đao-lợi, tội báo thuộc các thiên còn lại khác nhau, giảm sụt, nhẹ nặng, đó là lời nói lừa bịp dối trá của các luật sư, giả xưng lời Phật dạy là điều không đáng tin. Tướng mạo như thế, nên biết đó là kinh luật do ma nói, tội vượt qua Tỳ-ni rất là vi tế. Nếu có Tỳ-kheo phạm từng mỗi luật nghi vi tế này, biết mà che giấu giống như con rùa rụt cả sáu chi lại, nên biết đó là hạng người không thể gần gũi thân quen, giống như bài kệ của ta nói:

Nếu phạm tội vi tế
Người nói dối im lặng
Không kể vào đời sau
Không ác nào chẳng làm,

Những việc ấy đều là lời nói quyết định răn dạy của Như Lai, huống chi là phạm tội thô ác. Giới luật không có thô hay tế nên phải nắm giữ vững vàng. Vì Phật tánh, nếu người nào nói rằng, chín bộ kinh không nói đến chúng sinh đều có Phật tánh, lại nữa kinh Phương Đẳng cũng nói vô ngã, đó là kẻ phỉ báng chín bộ khế kinh, sao gọi là không khởi lên vọng kiến cố chấp của chúng sinh chăng? Trong chín bộ kinh, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, điều mà ta chưa từng nghe, ta nên chọn lấy điều nào? Hoặc có thể tự xưng nói pháp hơn người, nên biết những điều đó giống như nói biển cả không có các thứ vật quý báu.

Người kia tuy tiếp nhận sự học tập chín bộ khế kinh, nhưng các giáo pháp quý báu Phương đẳng cốt yếu trong biển Ma-ha-diễn không phải là cảnh giới của người kia. Thế nhưng, giáo pháp do Phật nói không phải cho hết thảy Thanh văn và Duyên giác, đều không phải là cảnh giới của người ấy. Thấy được tướng mạo nhân duyên của Phật nói, cũng lại có khả năng biết tất cả chúng sinh có Như Lai tánh, không hủy hoại tướng ngã, nhân, thọ mạng. Tâm giữ trung đạo mà nói rằng, trong thân ta đều có Phật tánh, ta sẽ được thành Phật, nay ta chỉ nên diệt hết các phiền não. Người nói như vậy chính là hàng Thanh văn của ta, nếu người nào nói khác điều này gọi là tự xưng mình có pháp hơn người.

Lại nữa, có người còn nói rằng, ta đã làm Phật, ta đã thấy pháp, trụ ở Phật địa, đó là tự mình nói được pháp hơn người. Nếu người ấy không nói như thế, những hạng người này chẳng bao lâu sẽ thành Phật đạo. Lời dạy bảo của Phật hết sức sâu xa quyết định như thế, mà ở trong các hàng Tỳ-kheo tự nói mình được pháp hơn người. Cũng vì lợi dưỡng cho nên họ dua nịnh quanh co, bước đi thong thả thị hiện thực hành việc xin ăn. Người phạm giới ngu si chưa đạt được đạo quả, mà lại hướng về mọi người rồi nói rằng mình đã đắc quả, khắp nơi nghe biết bèn cung kính phụng sự. Người ấy tăng thêm lòng tham bám riết không rời, chầu chực trông mong người ta cúng dường. Họ chẳng tu tập pháp niệm mà thị hiện uy nghi, cốt làm vui lòng người khác, ta nói hạng người đó là kẻ tự xưng mình được pháp hơn người.

Lại có Tỳ-kheo vì sự hộ trì chánh pháp nên thị hiện sự mong cầu lợi dưỡng và tham đắm tiếng tăm. Vị ấy suy nghĩ thế này, ta sẽ khiến cho tất cả mọi người nhận biết và khen ngợi ta rằng, thật quý hóa thay, rồi họ cung kính phụng sự, nhân đó, ta sẽ hàng phục kẻ ngoại đạo và người phạm giới, để làm rạng rỡ và giương cao đức độ của đấng Như Lai tôn quý nhất trong hàng chư Thiên, tuyên truyền rộng rãi kinh Phương Đẳng Bát Nê Hoàn, dìu dắt dạy bảo chúng sinh khéo hiểu rõ kinh luật và phần bù thêm vào chỗ thiếu sót của tạng luật do Như Lai nói, nuôi lớn hạt giống Như Lai trong bản thân của chính mình, chóng làm cho Phật tánh khai phát và hiện ra rõ ràng, vô lượng tai họa kết thắt bị trừ diệt cùng một lúc.

Tỳ-kheo ấy bảo cho các chúng sinh biết: Các ông đều thành tựu tính của Như Lai làm tiêu diệt các phiền não. Tâm vì sự hộ pháp mà vị ấy nói lời như thế, ta nói hạng người này là Bồ-tát. Vì sự hộ pháp nên vị ấy không tự xưng mình được pháp hơn người. Tội vượt Tỳ-ni phải ở trong địa ngục tám vạn bốn ngàn năm, tính theo số năm ở cõi trời Đaolợi, huống gì là thô tội. Người mắc thô tội đối với Ma-ha-diễn ấy đều nên đuổi họ ra, người có giữ lấy cái gì thì ấy là thô tội, người vốn nhận bảo vệ vật trong tháp mà lấy vật như hạt cải, cho đến người không hỏi chủ mà lấy cuốn kinh đều là thô tội, người có lòng gian trá hủy hoại tháp cũng phạm thô tội, đều phải đuổi họ ra khỏi. Nếu nhà vua và đại thần có chùa tháp cũ, muốn làm nơi đặt xá-lợi để cúng dường, có lẽ vì sự cung kính nên vua lập một vị Tỳ-kheo, giao phó tiền bạc của cải cho vị ấy để làm việc kinh doanh, thế mà Tỳ-kheo kia bèn giữ lấy để sử dụng một mình, khiến cho người chủ quở mắng, hạng Tỳ-kheo ấy cũng cần phải đuổi họ ra khỏi. Cho dù người không có nam căn và người có hai căn đều nên đuổi họ ra. Vì sao? Vì vượt qua năm giới cấm. Thậm chí đối với con kiến, ta đều nên có lòng từ và ban cho nó sự không sợ hãi, đó là pháp Sa-môn. Giả sử có mùi thơm của rượu, cũng cần phải xa lìa, đó là pháp Sa-môn. Cho dù trong giấc mơ vẫn không nói dối, đó là pháp Samôn. Mặc dù trong mộng cũng chẳng ở chung với người nữ, đó là pháp Sa-môn. Nếu cùng ở chung với người nữ, tuy rằng không phạm giới, giống như hương hoa các thứ, khiến cho con người phóng túng, tâm khởi lên sự buông thả, đều là do ban ngày trông thấy, tâm theo đó mà nảy sinh, thì có mộng tưởng, tỉnh giấc mộng kia rồi cũng tăng thêm tâm niệm tán loạn. Khởi ý tưởng ăn thịt con mình mà thực hành pháp xin ăn, làm sao khiến cho tâm phóng túng nảy sinh được, tâm phát sinh trong mộng cần phải mau chóng trừ diệt. Tướng mạo như thế nên biết đó là kinh luật của Như Lai. Người nào theo kinh luật của ma nói mà có lòng tin, nên biết hạng người ấy là tuân theo ma giáo. Người nào theo kinh luật của Phật dạy mà có niềm tin, nên biết đó là Bồ-tát.

Người nào nói rằng, Như Lai cho phép vâng theo cách ngồi của bậc đại nhân, uy nghi đi đứng vâng chịu phép không nói chuyện, lao xuống núi, uống chất độc hại, nhịn ăn, giết hại mạng sống, trói buộc chúng sinh, tự trị thân thể, tạo tác nghiệp mậu-la, chú thuật làm mê hoặc. Hạng người Chiênđà-la, người không đủ nam căn, người có hai căn nam và nữ, tay chân không đủ, Như Lai đều bằng lòng cho họ xuất gia, vì thương xót chúng sinh. Sữa, mật, lụa là, ngọc kha bối, thuộc da, các loại lúa gạo v.v... thảy đều không được ăn uống, nhận lãnh, đối với những cây cỏ, thì dấy lên ý tưởng thọ mạng, do lòng từ bi nên Như Lai vào Nê-hoàn diệt độ mãi. Tướng mạo như thế nên biết đó là kinh luật của ma nói. Trừ phép ngồi của bậc đại nhân và bốn thứ uy nghi ra, nếu người nào nói rằng Ta cho phép uống chất độc hại, nhảy vào lửa, nhịn ăn, lao đầu xuống vách núi, tàn sát chúng sinh, tạo tác nghiệp mậu-la, chú thuật làm mê hoặc; dùng sữa, mật, lụa là, ngọc kha bối, lúa gạo, thì dấy lên ý tưởng thịt chín, đối với tất cả cây cỏ thì dấy lên ý tưởng thọ mạng, nói như thế là điều Ta không bằng lòng. Nếu người nào nói lời này, nên biết hạng người này là đệ tử của ngoại đạo. Người nào nghe theo điều Ta cho phép rồi có thể thực hành, đó là đệ tử của Ta. Không nói bốn đại có ý tưởng thọ mạng, người nói như thế, nên biết đó là kinh luật của Phật nói, nói tỉ dụ như thế số đông nhiều vô lượng. Tin theo kinh luật của ma nói, nên biết hạng người này là tuân theo ma giáo. Người nào tin theo kinh luật của Phật nói rồi tin tưởng, nên biết đó là Bồ-tát.

Này thiện nam! Những điều nói như thế là kinh của ma nói, kinh của Phật nói có tướng khác biệt, phải nên phân biệt mới biết.

Ca-diếp bạch Phật:

– Hay thay! Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con mới hiểu lời nói hết sức sâu xa của Như Lai.

Phật bảo Ca-diếp:

– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Này thiện nam! Ông hãy nên học tập như thế, đó là người thông minh trí tuệ.

QUYỂN 5

Phẩm 11: BỐN ĐẾ

Bấy giờ, Phật bảo Ca-diếp:

– Này thiện nam! Nếu như cái khổ đó gọi là khổ đế, thì địa ngục và súc sinh đều có khổ đế. Gọi khổ đế nghĩa là biết pháp thân của Như Lai thường trụ không phải là thân uế thực. Chúng sinh không đạt được trí tuệ cao quý của Như Lai. Biết sự khổ, cho nên lấy phi pháp làm pháp. Phiền não ngu si và tham ái từ thuở lâu xa trói buộc, bánh xe khổ não xoay chuyển không ngừng nghỉ qua bao đời kiếp sống chết. Giả sử tạm thời được nghe qua tai hai chữ thường trụ của Như Lai, họ muốn sinh lên cõi trời và mong cầu sự giải thoát, tất nhiên sẽ đạt được Thánh quả, tự nhiên khoái lạc. Người trí tự biết đều là do âm thanh của Như Lai thường trụ tạm thời nghe qua tai, cho nên được kết quả kỳ diệu này. Từ thuở lâu xa đến nay, vì không biết pháp Như Lai thường trụ, cho nên đi đi lại lại trong vô lượng sự sống chết và khổ đau phiền não, người biết khổ như thế gọi là biết khổ đế, nếu khác với sự hiểu biết này thì không phải là người biết khổ đế.

Chân lý cắt nghĩa việc sinh khởi và căn nguyên của mọi nỗi khổ là sự chân thật của các pháp, vì không biết chân thật cho nên tăng thêm sự tụ tập tham ái của mình, nuôi nô tỳ và cất giữ các của cải phi pháp. Phi pháp cho là pháp, rồi sinh ra sự chấp giữ xằng bậy, không biết chánh pháp khởi lên và chẳng biết chánh pháp tiêu diệt. Vì không có trí nên ở mãi trong vòng sống chết, khổ đau phiền não xoay chuyển như bánh xe. Nên biết hạng người này làm hủy hoại chánh pháp, rốt cuộc chẳng được kết quả sinh lên cõi trời và giải thoát. Vì không biết tướng chân thật của nguyên nhân đưa đến khổ đau, cho nên làm hủy hoại chánh pháp. Tội báo của việc nói dối cũng lại chịu khổ não sống chết lâu dài, người biết như thế là biết chân lý nguyên nhân của mọi nỗi khổ, nếu khác với sự hiểu biết này thì không gọi là người biết nguyên nhân của sự khổ.

Chân lý đề cập tới việc diệt khổ và nguyên nhân của khổ, nghĩa là nếu tu hành pháp không, tất cả diệt hết thì hoại Như Lai tánh. Nếu tu hành pháp không, gọi là chân lý diệt khổ, thì nghĩa trái ngược nhau với các người ngoại đạo kia, họ cũng tu hành pháp không mà đạt được chân lý diệt khổ chăng? Nên biết hết thảy đều có tính của Như Lai thường trụ, diệt các sự trói buộc và phiền não mãi mãi hết sạch, tính của Như Lai thường trụ hiện ra rõ ràng, khởi lên sự nhất tâm, liền được kết quả vi diệu, thường ưa thích tự tại nên gọi là pháp tự tại vương, đó là sự tu hành Thánh đế diệt khổ. Nếu họ lại tu hành mà dấy lên tướng không và vô ngã đối với Như Lai, nên biết hạng người đó giống như con thiêu thân lao vào lửa. Gọi chân lý diệt khổ chính là Như Lai tánh, ấy là Như Lai chân thực diệt trừ hết thảy vô lượng phiền não. Vì sao? Vì Như Lai tánh ấy là nguyên nhân. Người biết như thế gọi là biết chân lý diệt khổ của Như Lai là bình đẳng, nếu khác với điều này thì không gọi là người biết diệt khổ.

Con đường để diệt khổ là tính giải thoát của Như Lai, Pháp và Tăng, bốn pháp này gọi là chân lý đề cập đến con đường để diệt khổ. Bởi vì không biết thật sự đối với bốn pháp, cho nên ở mãi trong vòng sống chết, chịu vô lượng khổ đau phiền não. Ở trong sinh tử có thể siêng năng tu hành, biết rõ sự giải thoát của Như Lai, Pháp và Tăng, đó là pháp thường trụ, không phải pháp biến đổi, không phải pháp phai diệt, không cùng tận cũng chẳng hủy hoại, khởi lên ở sự nhất tâm, được quả vi diệu, tự tại vui thích. Nếu người nào dấy lên tư tưởng phi pháp đối với bốn pháp bất không thường trụ này, thì nên biết hạng người ấy mắc phải quả báo tà kiến. Con đường để diệt hết khổ đau là tu tập thường trụ ở trong ba pháp này, như thế là người biết chân lý diệt khổ và con đường để diệt khổ. Việc tu hành và khởi lên tư tưởng thường trụ như thế, nên biết hạng người ấy là đệ tử của Ta, biết bốn chân lý mà các bậc Thánh nhân thấy được, đó là hạng Bồ-tát biết bốn chân đế.

Ca-diếp bạch Phật:

– Nay con bắt đầu biết tu tập bốn chân lý mà các bậc Thánh nhân thấy được.

Phẩm 12: BỐN THỨ ĐIÊN ĐẢO

Phật lại bảo Ca-diếp:

– Điều mà Ta gọi là điên đảo, có tư tưởng vui đối với sự khổ, Như Lai vô thường diệt tận Nêhoàn, như củi hết lửa tắt thì cho là nỗi khổ lớn mà quán tưởng như thế này, Như Lai vô thường, đó là điên đảo. Có tư tưởng khổ đối với sự vui, đối với sự trường tồn của Như Lai mà khởi lên cái vọng kiến cố chấp thực hữu của chúng sinh, đó là điên đảo. Sự khổ não ở ba cõi mà khởi lên tư tưởng vui sướng, đó cũng là điên đảo, ấy là điên đảo thứ nhất. Điên đảo đối với vô thường mà quán tưởng cho là thường, điên đảo đối với thường mà quán tưởng cho là vô thường. Đối với vô thường mà quán tưởng cho là thường, nghĩa là Như Lai Nê-hoàn, họ bèn tu lẽ Không tướng tột bực, đó là điên đảo. Tu lẽ Không cùng cực xong, chúng sinh có tuổi thọ ngắn ngủi liền được sống lâu, do đó kết quả tu tập là pháp tồn tại lâu dài, gọi là điên đảo, ấy gọi là điên đảo thứ nhì.

Điên đảo đối với vô ngã mà quán tưởng cho là ngã, điên đảo đối với ngã mà quán tưởng cho là vô ngã, họ nói rằng tất cả thế gian có ngã, đó là điên đảo. Phật nói Như Lai tánh chính là ngã chân thực, thế nhưng đối với nghĩa này họ tu tập vô ngã, đó gọi là điên đảo thứ ba.

Điên đảo đối với tịnh mà quán tưởng cho là bất tịnh, điên đảo đối với bất tịnh mà quán tưởng cho là tịnh, Như Lai thường trụ không phải thân uế thực, thế nhưng người phàm mắt thịt nói rằng thân uế thực, không phải pháp thanh tịnh, Pháp, Tăng và giải thoát cũng sẽ diệt mất hết, đó gọi là điên đảo. Họ đối với thân bất tịnh mà không có một phép quán tưởng thanh tịnh, vì ngu si điên đảo mê hoặc mà khởi lên quán tưởng thanh tịnh, đó gọi là điên đảo thứ tư.

Như thế, này thiện nam! Đó gọi là bốn thứ điên đảo. Ca-diếp bạch Phật:

– Quý hóa thay! Bạch Thế Tôn! Từ trước đến giờ, con thường dính mắc vào sự điên đảo, nay mới bắt đầu biết chánh kiến của Như Lai.

Phẩm 13: NHƯ LAI TÁNH

Ca-diếp lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Như Lai có cái ta, hai mươi lăm cõi là có hay là không có?

Phật bảo Ca-diếp:

– Cái ta chân thật chính là Như Lai tánh, nên biết tất cả chúng sinh đều có, nhưng chúng sinh kia bị vô lượng phiền não che lấp nên chẳng hiện ra. Ví như người nhà nghèo, bên trong căn nhà có kho tàng quý báu, song người ấy không thể biết. Khi ấy có một người khéo biết của báu, bèn nói với người nghèo: “Ông hãy làm việc cho ta, ta sẽ cho ông tiền của và vật báu”. Người nghèo trả lời: “Tôi không thể đi. Vì sao? Vì trước đây trong nhà có kho tàng quý báu nên tôi không thể bỏ đi”. Người kia lại nói: “Ông là người ngu si, chẳng biết chỗ cất vật báu, vả lại ông hãy làm việc với ta, ta cho ông của báu, sử dụng nó không bao giờ hết”. Người nhà nghèo bèn nghe theo lời của người ấy, sau đó người kia mới lấy của báu trong nhà người nghèo ra rồi cấp cho. Người nghèo mừng rỡ dấy lên ý nghĩ lạ kỳ, biết người sĩ phu kia thật sự là người đáng nương cậy. Hết thảy chúng sinh cũng như thế, ai nấy đều có bản tính của Như Lai, thế nhưng do vô lượng phiền não che lấp ẩn mất, nên không thể nào tự mình hay biết, Như Lai phương tiện khuyên dỗ họ tiến bước để dìu dắt hóa độ, khiến cho họ biết, chính bản thân mình có Như Lai tánh rồi vui mừng tin theo và thọ trì.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như người mẹ sinh ra đứa con, đang còn nhỏ mà bị mắc bệnh. Người thầy thuốc phương tiện hòa hợp vị thuốc hay với bơ sữa và thạch mật rồi khiến đứa con uống vị thuốc ấy. Thầy thuốc nói với người mẹ ấy: “Bà hãy thận trọng đừng cho nó bú, để cho thuốc của đứa con mới uống được tiêu hóa, rồi sau mới cho nó bú”. Bà mẹ lại hòa hợp vị thuốc đắng rồi xoa lên vú của mình. Đứa con muốn bú vú mẹ, thế nhưng nó ngửi mùi thuốc đắng nên liền bỏ đi. Người mẹ biết vị thuốc ấy tiêu hóa, sau đó mới rửa vú để cho đứa con bú.

Như thế, này thiện nam! Như Lai khuyên dỗ chúng sinh, hãy tiến bước và giáo hóa họ, thoạt đầu ta nói pháp tu hạnh vô ngã đối với hết thảy pháp cho chúng sinh. Lúc tu vô ngã thì chúng sinh diệt trừ cái ý kiến chấp trước có ta, diệt ngã kiến xong mới vào Nê-hoàn. Vì muốn trừ bỏ cái ngã của thế tục nên ta nói phương tiện giáo pháp bí mật vô ngã, rồi sau đó mới nói bản tính của Như Lai cho chúng sinh, đó gọi là cái ta chân thật lìa khỏi cõi đời.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Lúc người ta mới chào đời, trí tuệ hãy còn ít ỏi. Dần dần người ấy lớn khôn, trí tuệ cũng theo đó mà sáng suốt. Nếu có cái ngã ấy thì trước sau phải như một. Vì trí tuệ kia dần dần tăng thêm, cho nên biết không có cái ngã. Lại nữa, cái ngã ấy không có sự sống chết, thế nhưng có sự sống chết nên biết rằng không có cái ngã. Ví phỏng tất cả chúng sinh đều có Như Lai tánh thì phải không có sự khác nhau, thế nhưng hiện tại có những hạng người như Trưởng giả, Phạm chí, Sátlợi, Cư sĩ, Chiên-đà-la v.v... mọi loài chúng sinh chịu đủ các thứ nghiệp khác nhau, việc thọ thân cũng chẳng giống nhau. Nếu như chúng sinh có Như Lai tánh thì cần phải ngang hàng với nhau, thế mà nay họ không giống nhau, do đó biết rằng chúng sinh không có bản tính của Như Lai. Hoặc giả lại có Như Lai tánh thật sự, thì họ không nên giết hại, trộm cắp, gây ra đủ mọi hành động tội ác và bất thiện. Nếu cho rằng chúng sinh có Như Lai tánh, thì người điếc lẽ ra phải nghe được, người mù mắt lẽ ra phải nhìn thấy, người câm lẽ ra phải nói năng. Ví phỏng mỗi người đều có Như Lai tánh, thì tính ấy được ở chỗ nào? Đối với đủ thứ màu sắc, xanh, vàng, đỏ, trắng trong thân thể hòa hợp kia, tính ấy được ở một chỗ hay là trong khắp cả thân thể?

Phật bảo Ca-diếp:

– Ví như vị quốc vương có châu báu ma-ni đại lực sĩ, có năng lực trừ khử độc hại đau đớn, vua buộc viên ngọc trên đầu rồi đánh nhau với nước đối địch. Vua bị người kia đánh, khiến cho viên ngọc báu ma-ni lọt vào trong thân thể, viên ngọc bị máu thịt và da che phủ, thế là vua bị mất ngọc báu, tìm hoài chẳng được, vua bèn khởi lên ý tưởng mình mất viên ngọc báu. Bấy giờ có người thầy thuốc giỏi đến chữa bệnh cho nhà vua, nhân đó nhà vua bèn nói với người thầy thuốc: “Ta có châu báu liền bị đánh mất, ta tìm kiếm khắp nơi mà chẳng biết ở đâu, nên biết của báu là vật phi thường giống như bong bóng trên mặt nước, sinh ra nhanh chóng, tiêu diệt nhanh chóng, giả dối như huyễn”. Như thế, nhà vua dấy lên sự suy nghĩ mình đã mất ngọc báu vĩnh viễn. Người thầy thuốc trả lời: “Viên ngọc báu không mất, xin đại vương đừng dấy lên tư tưởng mất ngọc. Nhân lúc đại vương đánh nhau, viên ngọc đã lọt vào trong thân mình, vì máu thịt và da che phủ cho nên nó không hiện ra”. Vị vua kia không tin mà nói với người thầy thuốc: “Bên trong máu thịt, chỗ nào có ngọc báu, đó là lời dối trá mà thôi”. Khi ấy, người thầy thuốc kia liền lấy viên châu ngọc ra cho nhà vua, vua kia được châu ngọc rồi mới tin điều hiểu biết lạ kỳ của người thầy thuốc. Tất cả chúng sinh cũng như vậy, mỗi người đều có bản tính của Như Lai, song họ quen theo tri thức ác mà khởi lên sự dâm dục, tức giận, ngu si rồi đọa vào ba đường ác, cho đến thọ lãnh đủ các thân khắp cả hai mươi lăm cõi, bản tính của Như Lai ví như viên ngọc báu ma-ni ẩn mất ở vết thương phiền não dâm dục, tức giận, ngu si, chẳng biết nó ở nơi nào. Đối với cái ngã của thế tục, họ tu quán tưởng vô ngã, chẳng hiểu giáo pháp bí mật phương tiện của vị thầy thuốc tài giỏi Như Lai, họ dấy lên quán tưởng vô ngã mà không thể biết cái ngã chân thật. Do vậy Như Lai lại làm phương tiện, khiến cho vô lượng phiền não đang rực cháy bị dập tắt, khai thị bản tính của Như Lai hiện ra rõ ràng.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như ở ngọn núi Tuyết có phương thuốc ngọt ngào tên gọi là Thượng vị, khi vị Chuyển luân Thánh vương chưa xuất hiện ở đời thì nó ẩn mất mà chẳng hiện ra, các người bệnh ấy đều đến nơi có thuốc, họ đào đất chôn ống tre để tìm cầu nước thuốc, có người hứng được mùi vị ngọt, có người được mùi vị đắng, có người được mùi vị cay, có người được mùi vị chua, có người được mùi vị mặn, có người được mùi vị nhạt. Thế rồi những người bệnh ấy hứng được các mùi vị này, mà chẳng được phương thuốc Thượng vị chân thật. Họ đào đất không sâu vì phước đức mỏng manh. Nhờ sức mạnh phước đức nên khi Chuyển luân Thánh vương xuất hiện ở đời, liền được phương thuốc Thượng vị chân thật.

Như thế, này thiện nam! Như Lai tánh là mùi vị đủ loại, vì vô lượng phiền não ngu si che lấp, cho nên chúng sinh không được bản tính của Như Lai thượng vị, họ có đủ mọi thứ hành nghiệp, đâu đâu cũng thọ thân. Như Lai tánh kia không thể nào giết hại được, các người chết ấy gọi là tuổi thọ ngắn ngủi, bản tính của Như Lai gọi là tuổi thọ chân thật, không cắt đứt cũng chẳng hủy hoại, cho đến thành Phật. Bản tính của Như Lai không có hại không có giết, chỉ có thân nuôi lớn, bởi vì có làm hại có giết chóc giống như những người bệnh kia gây ra mọi nghiệp tà vạy, chịu đủ các thứ báo ứng. Dòng dõi Sát lị, Phạm chí, cho đến hai mươi lăm cõi sống chết, chẳng được Như Lai tánh chân thật.

Lại nữa, này thiện nam! Giống như người đào đất tìm vật báu kim cương, tay cầm cái đục bén đào khoét đất đá cứng đều có thể khiến cho đất đá vỡ vụn, chỉ có kim cương không ai có thể cắt đứt. Tính của Như Lai cũng như thế, gươm bén của thiên ma không thể nào làm thương tổn, chỉ có thân nuôi lớn chịu sự tổn thương hủy hoại ấy không phải là Như Lai tánh. Vì vậy, nên biết rằng bản tính của Như Lai không có sự tai hại, không có sự giết chóc, đó là lời dạy quyết định của Như Lai, khế kinh Phương đẳng vừa làm cam lộ, vừa là thuốc độc.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Ý nghĩa cam lộ và thuốc độc của khế kinh Phương đẳng quy hướng nơi nào?

Phật bảo Ca-diếp:

– Này thiện nam! Nay ông hãy lắng nghe, Ta sẽ nói cho ông rõ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Có người ăn cam lộ
Được sống lâu như tiên
Có người uống cam lộ
Tổn thọ mà chết sớm
Hoặc chết do uống độc
Hoặc sống bởi uống độc

Cam lộ ấy là trí vô ngại của Ma-ha-diễn, thuốc độc ấy cũng là trí vô ngại của Ma-ha-diễn. Giống như đề hồ, dầu bơ, đường phèn, nếu ăn chúng không tiêu thì gọi là thuốc độc, nếu ăn chúng mà tiêu hóa thì gọi là cam lộ. Chúng sinh không có trí chẳng hiểu giáo pháp bí mật của Phương đẳng Đại thừa, thì đối với người ấy gọi là thuốc độc; hàng Thanh văn và Duyên giác trụ vào pháp Đại thừa, cho đến các Bồ-tát, bậc oai hùng ở trong loài người gọi là cam lộ. Ví như con bò sữa, mặc dù màu sắc của chúng không giống nhau, song sữa của nó chung một mùi vị. Như thế, này Ca-diếp! Nên biết đó là điều mà Bồ-tát thành tựu sự không sợ hãi, rồi quay trở về và nương dựa vào pháp tánh của Như Lai. Tính của người kia và tính của Ta đều cùng một vị như nhau.

Do đó Bồ-tát Ca-diếp liền nói bài kệ:

Con quy y Tam bảo
Như Lai tánh sâu xa
Tự thân Như Lai tạng
Phật Pháp Tăng là ba
Người quy y như thế
Là nương dựa cao nhất.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại vì Ca-diếp mà nói bài kệ:

Người chẳng biết Tam bảo
Sao gọi biết quy y
Ý nghĩa còn không rõ
Làm sao biết Phật tánh.
Nếu nhờ quy y Phật
Đó là an lành nhất
Lại có nhân duyên gì
Mà lại quy y Pháp.
Người quy y với Pháp
Đó là tưởng tự tâm
Lại có nhân duyên gì
Mà quay về chúng Tăng.
Không tin quy y Phật
Bậc chân thật quyết định
Tam bảo Như Lai tánh
Làm sao có thể biết.
Chưa biết nghĩa thế nào
Mà sinh suy tính trước
Phật Pháp Tỳ-kheo Tăng
Ghế thang của Tam bảo.
Giống như không có thai
Mà mong muốn sinh con
Người suy nghĩ như thế
Chỉ thêm rối loạn mình.
Như người tìm tiếng vang
Lìa Ưu-bà-tắc thật
Nên chăm cầu phương tiện
Nghĩa quyết định Đại thừa.
Như Lai tùy thuận nói
Khiến ông trừ lưới nghi.

Bồ-tát Ca-diếp lại nói bài kệ:

Phép làm Ưu-bà-tắc
Quay về nương với Phật
Tất cả các thiên thần
Không sinh tưởng quy y.
Phép làm Ưu-bà-tắc
Quay về hướng với Pháp
Không theo pháp hại sinh
Mà cúng tế phi pháp.
Phép làm Ưu-bà-tắc
Quay về nương dựa Tăng
Chẳng theo chúng tà đạo
Cầu xin ruộng phước tốt.
Cho nên nương Tam bảo
Trừ ba phi pháp tục
Ba pháp quay về này
Cũng là Như Lai nói.
Xưa ta do pháp này
Nay được chỗ yên ổn
Các ông cũng nên làm
Rốt cuộc đến chỗ ta.
Đường phẳng phiu như thế
Theo đó các ông đi
Chóng tránh khỏi các khổ
Hoặc sống chết luân hồi.
Bản tính của Như Lai
Cũng từ Thế Tôn nói
Ta và các chúng sinh
Cùng Như Lai tánh này.
Đạo chư Phật thuận theo
Chúng con đều theo đó
Cho đến các ma trời
Cũng có cam lộ này.
Kết cục giống chư Phật
Đấng Mâu ni lìa hữu

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói bài kệ một lần nữa cho Ca-diếp:

Ông đừng như Thanh văn
Trí tuệ của trẻ con
Chỉ quy y một ngôi
Nên biết không có ba.
Đạo bình đẳng như vậy
Một vị Phật Pháp Tăng
Vì diệt si tà kiến
Nên lập ba pháp này.
Nay ông muốn thị hiện
Kẻ tùy thuận thế gian
Phải theo chỉ dạy này
Quy y với Tam bảo.
Nếu người quy y Phật
Chính là quy y Ta
Quy y Đẳng Chánh Giác
Chánh giác Ta đã đắc.
Kẻ phân biệt quy y
Thì loạn Như Lai tánh
Nên ở chỗ Như Lai
Mà khởi tâm bình đẳng.
Chắp tay cung kính lễ
Là lễ tất cả Phật
Ta là chỗ dựa thật
Cho các loài chúng sinh.
Vì Ta đã đầy đủ
Thân thanh tịnh diệu pháp
Nếu lễ tháp xá-lợi
Hãy nên kính lễ Ta.
Ta là tháp chân thật
Cho mọi loài chúng sinh
Cũng là xá-lợi thật
Cho nên phải kính lễ.
Ví phỏng quy y Pháp
Hãy nên quy y Ta
Bởi Ta đã đầy đủ
Thân thanh tịnh diệu pháp.
Ta là pháp chân thật
Cho các loài chúng sinh
Nếu quy y chúng Tăng
Cũng nên quy y Ta.
Hết thảy chúng còn lại
Đều nhiếp bởi Phật Tăng
Ta là Tăng Chánh Giác
Cho các hàng chúng sinh.
Loài chúng sinh không mắt
Sinh đạo nhãn cho họ
Cho nên chúng Thanh văn
Và các Tăng Duyên giác.
Tăng Như Lai đều nhiếp
Quy y chân thật nhất.

Phật bảo Ca-diếp:

– Như thế, này thiện nam! Đại Bồ-tát nên suy nghĩ thế này, dù cho sự chẳng tốt lành và không biết gì cả gom góp lại, thế nhưng cần phải biết rằng, Ta có Phật tánh. Giống như người khỏe mạnh kia lúc đang chiến đấu, nên biết ta là vị tướng lĩnh trong quân, là chỗ nương cậy của tất cả mọi người. Ví như con vua lúc làm thái tử, cần phải biết ta là người ở trên tất cả vương tử, ta sẽ nối ngôi vua để làm chỗ nương dựa chân thật cho các vương tử, rốt cuộc không sinh tâm nghĩ rằng mình là kẻ thấp hèn. Này thiện nam! Đại Bồ-tát cũng như thế, lập ý chí kim cương vượt lên hẳn ba pháp kia, giống như vị vương tử kia thành tựu sự không sợ hãi. Ở trong ba pháp, vị ấy lìa khỏi các thứ suy nghĩ, Như Lai là bậc cao nhất dường như tướng trên đỉnh đầu là bậc nhất; không phải Phật, không phải Pháp, không phải Tỳ-kheo Tăng, đủ mọi thứ khác nhau như bậc thang vậy. Như Lai làm chỗ nương dựa cho thế gian, vì việc độ thoát thế gian, nên đối với pháp chân thật, Như Lai thị hiện đủ mọi thứ, mà đặt ra ba pháp khuyên bảo giáo hóa chúng sinh thơ dại không biết gì, khiến cho họ đi vào trí tuệ sâu sắc của Đại thừa.

Bồ-tát Ca-diếp lại nói bài kệ:

Biết nghĩa chân thật này
Mà hỏi đấng Như Lai
Muốn hiển phát Bồ-tát
Dũng mãnh lìa nhơ bẩn.
Hay thay Thế Tôn nói
Việc Bồ-tát tu hành
Trí sâu sắc Đại thừa
Như luyện tuệ kim cương.
Hay thay Thế Tôn nói
An lập các Bồ-tát
Như Lai khéo tỏ rõ
Nay con cũng đương nhiên.
Tất cả loài chúng sinh
Đều nên tự quán xét
Như Lai tạng tự thân
Đều là ba quy y.
Phàm hết thảy chúng sinh
Người tín thọ kinh này
Nếu đã lìa phiền não
Và các dục chưa lìa.
Đều nên về tự thân
Như Lai tạng vi diệu
Chỉ quy y chính đáng
Không hai cũng không ba.
Nguyên cớ vì sao vậy
Thế Tôn phân biệt rộng
Tự thân ai nấy có
Như Lai tạng vi diệu.
Do biết nghĩa lý này
Chẳng quay về ba nữa
Con đã vì tất cả
Thế gian dựa chân thật.
Pháp và Tỳ-kheo Tăng
Tất cả việc thâu giữ
Thanh văn Phật-bích-chi
Thảy đều nên kính lễ.
Vì thế các Bồ-tát
Hướng đúng đạo Đại thừa
Như Lai tánh như thế
Là không thể nghĩ bàn.
Vì đủ băm hai tướng
Và tám mươi vẻ đẹp

Phật bảo Ca-diếp:

– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Này thiện nam! Các Bồ-tát ấy cần phải học trí lanh lợi rất sâu sắc như thế. Lại nữa, này thiện nam! Ta sẽ giảng nói lại lần nữa về việc vào Như Lai tạng.

Phật liền nói bài kệ:

Có ngã tồn tại lâu
Trọn chẳng trải khổ hoạn
Nếu như không có ngã
Là tu phạm hạnh suông.
Tất cả pháp vô ngã
Gọi là đoạn diệt giáo
Người nói ngã trường tồn
Thì gọi thuyết chấp thường.
Tất cả pháp vô thường
Đó là thuyết đoạn diệt
Tất cả pháp là thường
Thì gọi là thuyết thường.
Tất cả pháp là khổ
Đó là thuyết đoạn diệt
Hết thảy pháp là vui
Đó là thuyết chấp thường.
Tất cả tu thường tưởng
Là chóng được đoạn diệt
Tất cả tu vô thường
Là mau được thường tưởng.
Ví như bóc côn trùng
Được một vội trông hai
Người tu thường như thế
Là chóng được đoạn diệt.
Nếu người tu đoạn diệt
Cũng chóng được thường tưởng
Nói thí dụ như thế
Được một lại cầu dư.
Pháp khác nếu tu khổ
Thì nói phần bất thiện
Pháp khác nếu tu lạc
Chính là nói phần thiện.
Pháp khác tu vô ngã
Vô lượng các phiền não
Pháp khác tu thường còn
Phật tánh và Niết-bàn.
Pháp khác tu vô thường
Thì thân không bền vững
Pháp khác nếu tu thường
Tam bảo bậc Như Lai.
Và bình đẳng giải thoát
Là các pháp chân thật
Điều mà Như Lai nói
Chẳng giống với dụ kia.
Nên biết trừ hai mé
Ở giữa mà nói pháp
Chấp thường và đoạn diệt
Lìa cả hai kiến ấy.
Hạng phàm ngu thế gian
Mê hoặc lời Phật dạy
Dụ như người bệnh gầy
Chợt uống bơ mê loạn.
Có người không thêm hoạn
Ví như người bệnh nặng
Bốn đại thêm bớt nhau
Mà không được hòa hợp.
Đàm ấm tăng không ngừng
Chủng gió nổi thiêu đốt
Phong ấm đã trái ngược
Nước bọt cũng thêm nữa.
Chẳng hòa hợp như thế
Toàn thân phát cuồng loạn
Lương y khéo điều trị
Thuận theo an bốn chủng.
Trừ diệt tất cả bệnh
Vui đẹp toàn thân khỏe
Như rắn độc bốn đại
Vô lượng hoạn phiền não.
Lương y khéo điều trị
Tính bình đẳng yên ổn
Tính bình đẳng ấy là
Tên gọi Như Lai tạng.
Được nghe Như Lai tánh
Lìa khỏi tất cả cõi
Thường trụ không biến đổi
Chẳng dính sự có không.
Phàm ngu mà nói bừa
Chẳng hiểu pháp sâu xa
Như Lai vì chúng sinh
Phương tiện nói thân khổ.
Phàm ngu không thể rõ
Nói thân ta đoạn diệt
Người tuệ hiểu chân đế
Không gộp tất cả thọ.
Biết được trong thân ta
Có hạt giống an vui
Nghe ta nói vô thường
Phương tiện cho chúng sinh.
Phàm ngu bảo thân ta
Như đồ hỏng thợ gốm
Người tuệ hiểu chắc rằng
Không gộp tất cả thọ.
Biết được thân ta có
Giống pháp thân vi diệu
Nghe ta nói vô ngã
Phương tiện cho chúng sinh.
Phàm ngu nói pháp Phật
Hết thảy không ngã sở
Người trí hiểu chắc rằng
Không nói giả danh hết.
Với thanh tịnh chẳng lầm
Chân pháp tánh Như Lai
Nghe Phật vì chúng sinh
Phương tiện nói pháp không.
Người ngu không thể biết
Bảo dứt ngôn ngữ thảy
Người tuệ hiểu chắc rằng
Không gộp tất cả thọ.
Biết pháp thân Như Lai
Trường tồn chẳng biến đổi
Nghe ta nói giải thoát
Phương tiện cho chúng sinh.
Người ngu nói thân Phật
Giải thoát đều hao mất
Người tuệ hiểu chắc rằng
Không đoạn hết qua lại.
Nhân Sư tử, Như Lai
Tự tại đi một mình
Ta nói cho chúng sinh
Vô minh duyên các hành.
Phàm ngu không thể biết
Nói đó là hai pháp
Người tuệ hiểu chắc rằng
Minh, phi minh tuy khác.
Pháp giải thoát chân thật
Thì không có hai tướng
Duyên các hành sinh thức
Phàm ngu nói là hai.
Người tuệ biết hành duyên
Tuy hai mà chẳng hai
Mười thiện và mười ác
Phàm ngu theo hai tướng.
Người tuệ có thể rõ
Tuy hai mà chẳng hai
Có tội và vô tội
Phàm ngu bảo là hai.
Người tuệ hiểu chắc rằng
Tự tính chẳng phải hai
Tướng thanh tịnh bất tịnh
Phàm ngu bảo là hai.
Người tuệ hiểu chắc rằng
Tự tính chẳng phải hai
Người làm và không làm
Nói tất cả các pháp.
Phàm ngu không thể biết
Cho đó là hai pháp
Người tuệ hiểu chắc rằng
Tự tính chẳng phải hai.
Nói tất cả các pháp
Là phần khổ và vui
Phàm ngu không thể biết
Cho đó là hai pháp.
Người tuệ hiểu kỹ rằng
Tự tính chẳng phải hai
Ta nói cho chúng sinh
Hết thảy hành vô thường.
Phàm ngu không thể biết
Tu chung Như Lai tánh
Người tuệ hiểu kỹ rằng
Tự tính chẳng phải hai.
Ta nói cho chúng sinh
Tất cả pháp vô ngã
Phàm phu không thể biết
Bảo Phật nói vô ngã.
Người tuệ hiểu tự tính
Ngã, vô ngã chỉ một
Vô lượng vô số Phật
Nói là Như Lai tạng.
Ta cũng nói khế kinh
Tích tụ mọi công đức
Ngã, vô ngã chẳng hai
Các ông khéo thọ trì.

Này thiện nam! Nên nghĩ nhớ lại, kinh tích tụ tất cả công đức, Ta nói kinh Bát Nhã Ba La Mật và kinh Đại Bát Niết Bàn là không phải hai kinh, kinh kia nói về cái ngã và không có cái ngã như thế là không phải hai. Ví như từ sữa tươi làm ra sữa cô đặc, từ sữa cô đặc chế làm ra kem, từ kem làm ra bơ, từ bơ chế ra đề hồ, gọi rằng trước sau là một, gọi là từ chỗ khác đến. Nếu tức là một tức làm ra sự kiện gốc, nếu sữa tươi tức là từ sữa cô đặc, thì khi hiện còn sữa tươi mà không có tướng sữa cô, nhân duyên phát sinh lẫn nhau từ vị sữa này sang vị sữa khác như thế, không phải đã có trước kia mà nói rằng chuyển đổi từ vị sữa này sang vị sữa khác. Nếu sự việc từ chỗ khác đến, thì sự việc kia trụ tại chỗ nào, cho rằng vào lúc còn vị sữa tươi, không thấy các vị sữa như sữa cô từ chỗ khác đến. Hết thảy thành phần của các vị sữa kia đều có tự tính của vị đề hồ, nhưng vì các lỗi che lấp, nên thành phần khác hiện ra. Bò ăn quá mức nên sữa biến thành huyết khí, bò ăn cam thảo thì sữa có mùi thơm ngọt, bò ăn cỏ đắng thì sữa có vị đắng. Ở dưới núi Tuyết có thứ cỏ thấm ngọt, con bò ăn thứ cỏ ấy sản xuất thành đề hồ, không làm ra màu sắc khác. Coi như bò ăn cỏ đủ thứ mùi vị, thì có đủ các thứ màu sắc khác. Minh và vô minh không phải là hai pháp, cũng như thế, vì hành nghiệp lỗi lầm nên minh chuyển thành phi minh. Hết thảy pháp tốt lành và pháp chẳng tốt lành đều không có hai pháp, cho nên phải biết rằng, tính của Như Lai giống như vị đề hồ kia, tự tính vốn thanh tịnh, vì lỗi lầm phiền não nên có tướng khác hiện ra.

Ví như người ta nói nước trong biển cả mặn, không phải là tất cả nước ấy đều mặn, trong ấy cũng có nước tám mùi vị. Ví như núi Tuyết có nhiều thứ cỏ độc, thế nhưng trước đây núi Tuyết kia có cỏ thuốc hay. Thân thể của tất cả chúng sinh cũng như thế, bốn đại hòa hợp ví như rắn độc, nhưng lại ở trong thân này trước đây có Phật tánh, giống như vị thuốc hay kia, Như Lai tánh ấy trước sau luôn luôn có, không phải tạo tác và đối tượng tạo tác, chỉ vì vô lượng phiền não cạnh tranh khởi lên ở khoảng giữa. Phàm các chúng sinh muốn cầu quả Phật, nên trừ bỏ vô lượng phiền não tai họa trói buộc. Ví như tháng mùa xuân, bầu trời nổi lên đám mây lớn, sấm sét vang rền, nhưng chưa đổ mưa xuống, cỏ cây hoa quả đều chưa đâm chồi nẩy mầm; mùa hạ đổ mưa lớn, tất cả sum sê tươi tốt. Tánh của Như Lai cũng như vậy, vì bị che lấp bởi vô lượng phiền não tai họa trói buộc, tuy nghe khế kinh và các Tam-muội, cho nên chẳng biết tánh của Như Lai, vì không biết mà khởi lên tưởng ngã và vô ngã. Khế kinh Phương Đẳng Đại Bát Nê Hoàn, pháp tạng mật giáo nghe ở thế gian, chúng sinh nghe xong thì tánh của Như Lai thảy đều nảy mầm, có thể nuôi lớn nghĩa lớn, cho nên gọi là Đại Bátnê-hoàn.

Như thế, này thiện nam! Nếu có chúng sinh học Phương đẳng Bát-nê-hoàn này, gọi là người ấy đã đền trả ân đức của Như Lai xong xuôi.

Ca-diếp bạch Phật:

– Quý hóa thay! Bạch Thế Tôn! Đối với các hàng Thanh văn và Phật-bích-chi, tánh của Như Lai rất là quý báu khó thấy và khó được.

Phật bảo Ca-diếp:

– Đúng thế, đúng thế! Này thiện nam! Ta cũng thường nói tánh ấy rất là khó thấy. Ví như có người không thấy được năm màu vì bị màn da che mắt, người ấy đến vị thầy thuốc tài giỏi kia để chữa mắt của mình. Người thầy thuốc bèn trừ bỏ ít phần da thịt làm che mắt cho người đó, rồi lấy một vật biểu hiện khiến cho người đó nhìn. Người kia do lầm lẫn lộn xộn cho rằng có hai, có ba vật, nhìn kỹ hồi lâu thì trông thấy lờ mờ. Như thế, này thiện nam! Đại Bồ-tát tu sửa thanh tịnh đạo đức, thành tựu mười trụ, ở trong tự thân quán xét tánh chân thật của Như Lai, vẫn còn bị bánh xe vô ngã làm mê hoặc, huống chi lại là hàng Thanh văn và Phậtbích-chi mà có thể biết điều đó chăng? Thiện nam! Nên biết tánh của Như Lai khó thấy như thế.

Lại nữa, giống như có người ngước lên xem chim bay, trông xa thì không biết có phải hay là không phải, nhìn rõ hết tầm mắt của mình thì chỉ nhận biết phảng phất. Bồ-tát Thập trụ cũng như vậy, vị ấy quán xét Như Lai tánh ở trong tự thân vẫn còn sinh ra ý tưởng lầm lẫn, quán lâu ngày mới biết phảng phất, huống gì lại là Thanh văn và Phậtbích-chi.

Lại nữa, giống như người mắc bệnh đàm ấm tăng thêm, nên mê muội đối với các phương hướng, người ấy muốn có chỗ đi đến, từng tâm tư nối tiếp nhau chuyên lòng nhớ nghĩ cố nhận ra nhưng vẫn lạc đường đi. Bồ-tát Thập trụ cũng như thế, vị ấy quán xét Như Lai tánh ở trong tự thân, chuyên tâm phương tiện song vẫn còn có sự tán loạn mê hoặc, huống gì lại là hàng Thanh văn và Phật-bích-chi.

Lại nữa, giống như kẻ đi xa giữa chốn đồng không mông quạnh, bị sự nóng bức và khát nước làm rối loạn, xa xa nhìn thấy ánh nắng bụi bặm tựa hồ sóng nắng, hoặc cho là nước, hoặc nói là cây rừng, hoặc nói rằng thôn xóm. Bồ-tát Thập trụ cũng như thế, vị ấy quán xét Như Lai tánh ở trong tự thân cũng sinh ra tưởng sai lầm.

Lại nữa, ví như có người bước lên trên cao nhìn xuống, xa xa thấy tháp Phật, hoặc cho là nước, hoặc nói là hư không, hoặc nói rằng nhà cửa, hoặc cho là sóng nắng, núi, đá, cỏ, cây; phương tiện quan sát kỹ mới biết đó là ngôi tháp. Bồ-tát Thập trụ cũng như thế, vị ấy quán xét Như Lai tánh ở trong tự thân vẫn còn sinh ra tưởng sai lầm, phương tiện nhìn hết mức mới biết chân thật.

Lại nữa, giống như người đi thuyền trên biển cả, xa xa thấy thành quách rồi sinh ra tưởng sai lầm, hoặc cho là hư không, hoặc nói là hình dáng sự vật. Bồ-tát Thập trụ cũng như thế, vị ấy quán xét Như Lai tánh ở trong tự thân cũng sinh ra tưởng sai lầm.

Lại nữa, ví như vị vương tử xem đào hát suốt đêm, đến khi ánh nắng mặt trời hiện ra, vị ấy nhìn thấy mọi người rồi sinh ra mê hoặc, thấy người thân mà tưởng lầm kẻ khác. Bồ-tát Thập trụ cũng như thế, vị ấy quán xét Như Lai tánh ở trong tự thân cũng sinh ra tưởng sai lầm.

Lại nữa, ví như vị quan lớn đi đến chỗ vua để tư vấn tường tận mọi chuyện với nhà vua, đêm tối ông trở về nhà, ở trong ánh điện chớp, dường như ông thấy con trâu trắng mà sinh ra tưởng sai lầm, hoặc cho là nhà cửa, hoặc bảo là gò đống. Bồ-tát Thập trụ cũng như vậy, vị ấy quán xét Như Lai tánh ở trong tự thân cũng sinh ra tưởng sai lầm.

Lại nữa, ví như vị Tỳ-kheo giữ giới tự lọc nước sạch, nhìn kỹ lại một lần nữa dường như vị ấy trông thấy sợi lông nhỏ, hoặc cho là vi trùng, hoặc cho là mảy bụi. Bồ-tát Thập trụ cũng như thế, vị ấy quán xét Như Lai tánh ở trong tự thân cũng sinh ra tưởng sai lầm.

Lại nữa, giống như người trông lên đỉnh núi cao, nếu có người đi bộ, lầm cho là cầm thú. Cũng như thế, Bồ-tát Thập trụ quán xét Như Lai tánh ở trong tự thân cũng sinh ra tưởng sai lầm.

Như người đau mắt xem tranh vẽ vào đêm tối trời, hoặc cho là tranh vẽ người ta, hoặc cho là tranh vẽ vị thần, hoặc cho là tượng Phật, hoặc cho là tranh vẽ Phạm vương, Đế thích và các vị Bồ-tát. Cũng như thế, Bồ-tát Thập trụ quán xét Như Lai tánh ở trong tự thân cũng sinh ra tưởng sai lầm.

Như thế, này thiện nam! Tánh của Như Lai rất sâu xa khó thấy, chỉ có cảnh giới của Phật, không phải là điều mà các hàng Thanh văn và Phật-bíchchi có thể thấy biết. Như thế, này thiện nam! Giáo pháp của Như Lai mà người trí tuệ biết, phải nên có lòng tin và thọ trì.

Ca-diếp bạch Phật:

– Như lời Thế Tôn nói, tánh của Như Lai rất sâu xa vi diệu, những người phàm mắt thịt làm sao thấy được?

Phật bảo Ca-diếp:

– Ví như cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng, chỉ có cảnh giới của Phật mới có thể thấy, còn tất cả hàng Thanh văn và Phật-bích-chi làm sao có thể thấy được. Chỉ cần những vị kia thuận theo khế kinh của Như Lai, có lòng tin và phương tiện, rồi sau mới quán xét một cách bình đẳng. Như thế, này thiện nam! Hết thảy hàng Thanh văn và Phật-bíchchi nên đối với kinh Phương Đẳng Bát Nê Hoàn mà phát sinh lòng tin, biết tự thân của mình có Như Lai tánh. Cho nên, phải biết rằng, tánh của Như Lai chỉ có cảnh giới của Phật, không phải cảnh giới của các hàng Thanh văn và Phật-bích-chi.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Chúng sinh trong thế gian đều nói có cái ta, so sánh ý nghĩa thế nào?

Phật bảo Ca-diếp:

– Ví như vào một thuở nọ, hai người làm bạn với nhau, một người là con vua, một người là kẻ nghèo túng, họ qua lại thắt chặt tình bạn tốt đẹp. Vị vương tử ấy có con tê giác cái đã được điều phục, người nghèo trông thấy nó. Vào thời gian sau này, người kia cùng đi chung với vị vương tử đến đất nước khác, trời tối hai người cùng dừng chân ngủ lại ở một nhà khách. Thế rồi ở trong giấc mơ, người nghèo kia nói: “Con tê giác đến, con tê giác đến”, tiếng nói vang thấu ra ở bên ngoài. Khi ấy có người nghe, bèn đi đến chỗ nhà vua rồi đem những điều mình nghe được tâu đầy đủ rõ ràng cho vị quốc vương. Nhà vua liền hỏi: “Nơi nào có con tê giác cái?”. Bấy giờ, người nghèo kia bèn tâu với nhà vua: “Tôi không có con tê giác cái, người bạn tri thức tốt lành của tôi có, đã có lần tôi thấy nó”. Tức thời nhà vua lại hỏi hình dạng của nó thế nào, người kia lại tâu với vua: “Sừng của nó tương tự con dê”. Người nghèo nói lời như thế xong, vua bèn nói với người nghèo: “Ông tự trở lại nơi nào có con tê giác”. Người kia không nói dối, thế mà chuyện con tê giác tựa hồ con dê truyền khắp thiên hạ. Như thế chẳng bao lâu vị vua ấy qua đời, thái tử lên ngôi cũng hỏi thăm tìm con tê giác song không thể nào được; sau này, người con của thái tử nối ngôi làm vua cũng như thế, mong cầu con tê giác chẳng được; đời vua này đến đời vua khác thường xuyên tương truyền về chuyện con tê giác mà dấy lên tư tưởng con dê. Như thế, khi Đại Bồtát xuất hiện ở đời, vị ấy nói về cái ngã chân thật cho chúng sinh. Trong số đó, kẻ không biết gì nghe tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, họ chẳng biết tính chân thật ấy bèn vọng tưởng nói rằng, cái ngã giống như cây đèn nhỏ xíu nằm ở trong tâm, đủ các thứ ngã, nhân và thọ mạng của chúng sinh. Giống như người kia nằm mơ nói, rồi người này nối tiếp người kia đều khởi lên tà kiến, so đo suy tính có cái ta và tính của cái ta, không được ngã chân thật rồi nói rằng không có cái ngã. Thế nhưng hết thảy chúng sinh trong thế gian thường dấy lên ý tưởng xằng bậy, so đo suy tính có cái ngã và tưởng không có ngã.

Như thế, này thiện nam! Ta nói tánh của Như Lai là chân thật nhất. Nếu thế gian nói ngã thuận theo pháp, nên biết đó gọi là lìa khỏi thế tục, nên biết đều là Bồ-tát biến hóa, thị hiện nói giống như thế tục.

Phẩm 14: VĂN TỰ

Phật lại bảo Ca-diếp:

– Tất cả lời lẽ, chú thuật, ký luận được Như Lai nói là nguồn gốc của hết thảy.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nghĩa ấy thế nào? Phật bảo Ca-diếp:

– Thoạt đầu Ta bày rõ bán tự làm nguồn gốc của tất cả. Hết thảy chú thuật, ngôn ngữ vốn nắm giữ và tích tụ pháp chân thật, chúng sinh thơ dại ngây ngô từ căn bản của văn tự này mà học tập thông suốt các pháp, đó là pháp hay phi pháp và biết sự sai biệt của nó. Cho nên Như Lai biến hóa thị hiện gốc của chữ mà không gọi là phi pháp.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Sao gọi là gốc của chữ? Phật bảo Ca-diếp:

– Mười bốn âm đầu tiên gọi là căn bản của chữ, mười bốn âm ấy thường gọi là căn bản bất tận của tất cả. Bất tận có nghĩa gì? Nghĩa chẳng thể bị phá hoại, nghĩa chẳng tiết lậu, nghĩa Như Lai gọi là nghĩa bất tận. Pháp thân Như Lai là kim cương không thể bị phá hoại, cho nên gọi là chẳng hoại.

Như Lai không có các lậu của chín đường, cho nên gọi là chẳng tiết lậu. Như Lai thường trụ, cho nên nói ý nghĩa của sự vô tác bất tận.

Âm a ngắn đầu tiên nghĩa là tốt, tốt là ý nghĩa của Ba ngôi báu. Thứ hai, âm a dài (à) nghĩa là hiện Thánh trí, tên gọi của nó là bậc Thánh lìa khỏi số thế gian, thanh tịnh, ít sự ham muốn, có khả năng vượt qua tất cả biển của ba cõi, cho nên gọi là Thánh. Thánh là chân chính, có thể làm đúng khuôn phép, hành xử luật nghi và phép tắc mực thước của thế gian, đó là ý nghĩa của những chữ ấy vậy.

Lại nữa, âm a là có sự nuôi lớn đều nương dựa vào bậc Thánh, là gốc rễ của tất cả chánh hạnh chân thật. Hiếu dưỡng cha mẹ đều dựa vào sự hiểu biết ấy, hiểu rõ chánh pháp trụ ở Ma-ha-diễn, thiện nam, thiện nữ, Tỳ-kheo và Bồ-tát giữ giới, điều mà những vị ấy thực hành như thế đều nương dựa vào bậc Thánh.

Lại nữa, âm a là chỗ nương dựa của quy luật và sự cấu tạo ngôn ngữ thế giới, như nói thiện nam Agià-xa, như nói nam tử đừng làm A-na-giá-la, cho nên a cũng là chỗ nương dựa của ngôn ngữ thế gian.

Âm i ngắn là “đây”, nói pháp này chính là pháp Như Lai, phạm hạnh, xa lìa, nhiễm bẩn của mọi phiền não, thanh tịnh. Vì chư Phật Thế Tôn giống như mặt trăng vành vạnh lộ rõ pháp này mà thể hiện tên gọi này.

Lại nữa, âm i là như nói rằng, đây là nghĩa đúng, đây là nghĩa sai trái, đây là ma nói, đây là Phật nói, nương dựa vào sự phân biệt ấy nên gọi là này.

Âm i dài (ì) ấy gọi là tự tại, gọi là đại tự tại. Phạm vương tự tại có thể đối với giáo pháp Như Lai khó có được, đem sức tự tại để hộ trì chánh pháp. Vì nguyên do đó nên gọi là tự tại.

Lại nữa, âm i là tự tại đối với kinh Đại Thừa Phương Đẳng Bát Nê Hoàn này, tự tại thâu giữ, khiến cho giáo pháp này tự tại rực cháy, khiến cho chúng sinh khác tự tại chịu sự học tập kinh Phương Đẳng này.

Lại nữa, âm i là tự tại, Phương đẳng có năng lực tiêu trừ âm i là ghen ghét và tà kiến, giống như sửa sang lúa mầm ở ruộng đồng, nhổ bỏ các loài cỏ dại. So sánh những việc như thế, do đó cho nên Như Lai nói âm i tự tại.

Âm u ngắn là ở trên vậy, Ta nói nghĩa cao nhất đối với khế kinh này, có lẽ là điều mà các hàng Thanh văn và Phật-bích-chi chưa từng nghe qua tai dù một câu, một chữ, một vài lời. Ví như Uất-đanviệt là châu đứng hàng đầu về sự phước đức trong các phương, Đại Thừa Phương Đẳng cũng như thế, hễ một lời được nghe qua tai, nên biết hạng người ấy là bậc cao thượng của trong loài người, gọi là Bồ-tát, vì thế cho nên Như Lai nói chữ u này.

Âm u dài (ù) là giống như sữa bò thơm, mùi vị thơm của sữa ấy chính là mùi vị cao nhất của kinh Đại Thừa, giảng nói rộng rãi về tính chân thật của Như Lai, sự kiêu mạn trái ngược chánh pháp thảy đều tiêu diệt.

Lại nữa, âm u còn tên gọi là u lớn. Đối với Như Lai tạng, người ấy cắt đứt cội rễ trí tuệ và thọ mạng mà dính mắc vào thuyết vô ngã, nên biết hạng người ấy gọi là đại ưu, vì thế cho nên Ta nói âm u.

Âm ai là như thế vậy. Nói đó là pháp Phật; Như Lai Nê-hoàn, cũng nói pháp ấy. Âm ai là Như Lai, có nghĩa là đến và đi, bởi thế cho nên nói Như Lai, Như Khứ.

Âm o là dưới thấp vậy. Phiền não thấp hèn đều trừ diệt xong thì gọi là Như Lai, cho nên Ta nói âm o.

Âm au chính là Ma-ha-diễn. Ở trong số mười bốn âm thì âm au là rốt ráo, cho nên Ta nói tên gọi là Ma-ha-diễn, đối với tất cả luận đó là luận rốt ráo, cho nên Ta nói âm au.

Âm ạm là tất cả vậy. Giáo pháp của Như Lai xa lìa hết thảy tiền tài vật báu. Âm ạm nghĩa là che ngăn, nghĩa là Nhất-xiển-đề.

Âm ạh cuối cùng là hết vậy. Tất cả khế kinh Ma-ha-diễn là hết sức cùng tận.

Âm ka là suy nghĩ hết thảy chúng sinh như con một, đối với tất cả các chúng sinh đều khởi lên lòng từ bi, cho nên Ta nói âm ka.

Âm kha là đào lên vậy, khai phát đào lên pháp tạng hết sức sâu xa của Như Lai, trí tuệ ăn sâu vào không có sự bền chắc, do đó Ta nói âm kha.

Âm ga là tàng chứa vậy. Tất cả chúng sinh có Như Lai tạng cho nên Ta nói âm ga.

Âm gha đọc nặng là tiếng gầm vậy. Thông thường con sư tử gầm nên nói Như Lai thường trụ. Âm na là giòn vậy. Hết thảy các pháp hữu vi do nhân duyên sinh ra lưu chuyển trong ba đời, thoắt khởi thoắt diệt, cho nên gọi là na.

Âm ca là hành vậy. Vì thành tựu chúng sinh nên gọi là ca.

Âm cha là soi sáng. Tính thường trụ của Như Lai, cho nên Ta nói âm cha.

Âm ja là sinh vậy. Sinh ra các sự giải thoát, không phải như sinh của sinh tử nguy hiểm dễ vỡ, cho nên Ta nói âm ja.

Âm jha đọc nặng là thiêu đốt vậy. Tất cả phiền não thiêu đốt khiến dập tắt mau chóng, cho nên nói là jha.

Âm na là trí vậy. Thật sự biết pháp cho nên nói là na.

Âm tạ là tỏ rõ vậy. Ở cõi Diêm-phù-đề biểu hiện chẳng đầy đủ, thế mà pháp thân của Như Lai kia thường trụ cho nên nói là tạ.

Âm tha là biểu thị sự thỏa mãn đầy đủ vậy. Đầy đủ một cách bình đẳng cho nên nói là tha.

Âm da là nhẹ nhàng tự tại không ẩn mất, cho nên Ta nói âm da.

Âm dha đọc nặng là chẳng biết hổ thẹn, không báo đền ân sâu cho nên Ta nói âm dha.

Âm na là không chính đáng giống như các kẻ ngoại đạo, cho nên nói là na.

Âm ta là che lấp tất cả hữu, khiến cho nó không nối tiếp nhau, cho nên nói âm ta.

Âm tha là không biết vậy. Giống như con tằm làm kén, cho nên nói là tha.

Âm da là phương tiện vui vẻ đối với Ma-hadiễn, cho nên nói âm da.

Âm dha đọc nặng là gìn giữ vậy. Hộ trì Ba ngôi báu giống như không làm cho núi Tu-di chìm lỉm, cho nên nói là dha.

Âm na là giống như cờ phướn của Nhân đà la bên cạnh cửa thành, dựng lên Ba ngôi báu, cho nên nói âm na.

Âm pa là khởi lên tưởng đảo ngược. Ba ngôi báu chìm lỉm mà tự mê loạn, cho nên nói âm pa.

Âm pha là thế giới thành bại, giữ giới thành bại, tự mình thành bại, cho nên nói âm pha.

Âm ba là sức lực vậy. Như các Đức Như Lai có vô lượng thần lực, không phải chỉ mười lực, cho nên nói âm ba.

Âm bha đọc nặng là có thể làm mái che chánh pháp là Bồ-tát đạo, cho nên nói âm bha.

Âm ma là giới hạn vậy. Vào ngưỡng cửa khuôn phép của hàng Bồ-tát, tự cứng rắn ý chí của mình, làm lớp mái che cho chúng sinh, cho nên nói âm ma.

Âm ya là tập thực hành bốn thứ công đức của Bồ-tát, cho nên nói là ya.

Âm ra là diệt bỏ sự dâm sục, giận dữ, ngu si; đi vào pháp chân thật, cho nên nói âm ra.

Âm la đọc nhẹ là không lĩnh thọ thừa Thanh văn và Phật-bích-chi mà nhận lãnh sự học tập Đại thừa, cho nên nói là âm la.

Âm va là chú thuật của tất cả thế gian đặt ra, hàng Bồ-tát đều nói, cho nên nói âm va.

Âm sa là ba thứ gai độc thảy đều đã nhổ, cho nên nói là âm sa. Âm sạ là nghĩa đầy đủ, đều có thể nghe và lĩnh thụ khế kinh

Phương đẳng, cho nên Ta nói âm sạ.

Âm sa là dựng lên chánh pháp, cho nên Ta nói âm sa.

Âm ha là tiếng làm kinh động vậy. Kỳ lạ thay các pháp hữu vi do nhân duyên sinh ra, lưu chuyển trong ba đời thảy đều rốt ráo. Kỳ lạ thay Như Lai mà vào Nê-hoàn rời xa các sự vui sướng, cho nên nói âm ha.

Âm kta là ma vậy. Thiên ma hàng ức ngàn không có ai năng lực phá hoại vị Tăng chân chính Như Lai, vì thuận theo thế gian mà thị hiện có sự hủy hoại.

Lại nữa, thuận theo thế gian làm cha mẹ và các người họ hàng thân thuộc cho nên nói âm ksa.

Âm r, r, l, l, bốn chữ này là trưởng dưỡng bốn nghĩa Phật và Pháp, Tăng; thị hiện có đối đãi thuận theo thế gian, thị hiện hữu đối (chướng ngại) giống như Điều-đạt phá hoại Tăng. Ngôi báu Tăng thật sự không bị phá hoại, Như Lai phương tiện thị hiện việc phá hoại Tăng, hóa làm hiện tượng như thế là để kết thành giới luật. Nếu người biết nghĩa phương tiện của Như Lai thì chẳng nên sợ hãi, nên biết đó gọi là thuận theo thế gian, do vậy Ta nói bốn chữ sau cùng này. Thanh âm hút khí, thanh âm lưỡi, thanh âm theo mũi, âm thanh vượt lên cao, âm thanh dài, lấy những ý nghĩa đó mà hòa hợp với chữ này, giống như những chữ này hòa thuận các thanh, đi vào âm thanh ngôn ngữ của mọi người, đều y theo lưỡi và răng mà có sai biệt, vì nhờ các chữ này, thân tích tụ vô lượng các tai họa phiền não, làm nhân duyên hòa hợp ấm, giới, các nhập; tịch diệt nghỉ ngơi, vào Như Lai tánh, Phật tánh hiện ra rõ ràng, thành tựu trọn vẹn tột cùng. Cho nên, bán tự gọi là căn bản của hết thảy các chữ. Nếu quán xét lý chân thực của các pháp và sự giải thoát của Như Lai cũng không có tướng của văn tự ngôn ngữ, tướng của chữ và tướng của vị thảy đều xa lìa. Cho nên, hết thảy sự xa lìa gọi là giải thoát, sự giải thoát ấy tức là Như Lai. Nhân bán tự này có thể khởi lên các pháp, mà không có tướng của các pháp nương theo chữ, đó gọi là khéo hiểu ý nghĩa của văn tự. Nếu khác như thế là không hiểu văn tự phân biệt các pháp là pháp hay phi pháp. Tính của Như Lai và Ba ngôi báu giải thoát, nhưng không thể biết đó là kinh hay không phải kinh, đó là luật hay không phải luật, đó là ma nói hay Phật nói, tất cả đều không thể biết lời nói của Ta. Do hạng người ấy không biết chữ, cho nên này thiện nam, các ông cần phải khéo học bán tự, cũng nên đi vào sự hiểu rõ số văn tự kia.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con sẽ khéo học những bán tự này. Nay Thế Tôn của chúng con bắt đầu cho người con Phật có được bậc thầy cao cả trên hết, nay con mới vào trường học tập.

Phật bảo Ca-diếp:

– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Này thiện nam! Người ưa thích tu tập chánh pháp cần phải học như thế.

Phẩm 15: LẤY CHIM LÀM THÍ DỤ

Phật lại bảo Ca-diếp:

– Chim nhạn, chim hạc, chim xá-lị, điều gọi là các thứ pháp vô thường, khổ, không và vô ngã thì giống như những loài chim nhạn, chim hạc, chim xá-lị.

Ca-diếp bạch Phật:

– Ý nghĩa này thế nào? Phật bảo Ca-diếp:

– Có pháp vô thường, có pháp là thường; có pháp là khổ, có pháp là vui; có pháp là ngã, có pháp là vô ngã. Ví như người làm ruộng gieo trồng năm thứ lúa dùng hạt để ăn và các cây ăn quả. Từ khi chúng nảy mầm cho đến mọc ra hoa lá, người ấy thường xuyên khởi lên tư tưởng phi thường. Đến như khi chúng chín muồi, thu hoạch trái cây ấy, lúc được thọ dụng mà nảy sinh tư tưởng thường còn.

Vì sao? Vì sự chân thật hiện rõ ra.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Sao gọi là sự thường còn của ngũ cốc? Sự thường còn đó không hoại diệt giống Như Lai chăng?

Phật bảo Ca-diếp:

– Cũng như đem Như Lai tỉ dụ núi Tu-di, lúc thế giới bại hoại, núi Tu-di ấy lẽ nào không hoại chăng? Thiện nam! Không nên đối với thí dụ mà đặt ra câu hỏi ấy, tất cả các pháp đều trở về với sự hoại diệt, chỉ có Nê-hoàn là pháp thường còn mà thôi, lời nói tùy theo thế gian nên lấy núi kia làm ví dụ.

Ca-diếp bạch Phật:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Hay thay lời nói này! Phật bảo Ca-diếp:

– Như thế, này thiện nam! Việc tu tập các Tammuội theo tất cả khế kinh, cho đến việc chưa nghe khế kinh Phương đẳng Đại Bát Nê Hoàn, các hàng chúng sinh tu quán tưởng vô thường, khi họ nghe kinh này rồi, nếu thiện nam và thiện nữ vốn ôm lòng phiền não thì mãi mãi lìa khỏi sự trói buộc bởi lòng nghi ngờ, hiểu rõ pháp thường. Vì sao? Vì tính của Như Lai ở tự thân mỗi người được hiện ra rõ ràng.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như thợ vàng nung chảy kim loại ấy, đến mức đồ dùng chưa thành thì người thợ ấy dấy lên tưởng phi thường, khi đồ quý báu dã hoàn thành thì thường được thọ dụng. Như thế, Thiện nam! Việc tu tập các Tam-muội theo tất cả khế kinh, ngay cả việc chưa nghe khế kinh Phương Đẳng Đại Bát Nê Hoàn, các chúng sinh ấy tu tưởng vô thường, khi họ nghe kinh này xong thì vĩnh viễn lìa khỏi sự trói buộc bởi lòng nghi ngờ và điều phiền não ôm ấp trong lòng, hiểu rõ pháp thường. Vì sao? Vì tánh Như Lai ở tự thân mỗi người được hiện ra rõ ràng.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như có người trồng cây mía, cây mè, cả đến lúc cây và hạt chưa chín, họ thường dấy lên tư tưởng đủ mọi thứ mùi vị. Khi đã chế thành dầu mè, đường phèn xong xuôi, người ấy mới biết mùi vị thật sự. Như thế, này thiện nam! Sự tu tập các Tam-muội theo tất cả khế kinh, ngay cả việc chưa nghe khế kinh Phương Đẳng Đại Bát Nê Hoàn, các chúng sinh ấy tu tưởng vô thường, khi họ nghe kinh này xong, thì mãi mãi lìa khỏi sự trói buộc bởi lòng nghi ngờ và điều phiền não ấp ủ, hiểu rõ pháp thường còn. Vì sao? Vì tánh Như Lai ở tự thân mỗi người được hiện ra rõ ràng.

Ví như trăm sông đều đổ về biển, như thế hết thảy khế kinh và các Tam-muội đều trở về với kinh Phương đẳng Bát-nê-hoàn. Vì sao? Vì tính của Như Lai là rốt ráo nhất, do đó ta nói có pháp vô thường, có pháp là thường, như chim xá-lị, kiếm đâm lo buồn Như Lai đã cắt đứt, thế mà có nhiều người nghi ngờ đối với luận này. Nhưng sự lo buồn của Như Lai ấy là hiện có trước mắt, không giống như sự lo buồn của hàng người, trời và chúng sinh khác. Như phi tưởng xứ làm sao có tưởng, nếu không có tưởng thì không cần phải có tuổi thọ, có sống lâu song không có tưởng, thì làm gì có tên gọi của tưởng ấm, giới và nhập.

Lại nữa, như cây rừng đều có thần nương dựa, nếu cây có thần nương dựa, là nương dựa vào thân rễ, hay là nương dựa vào nhánh cây. Các chỗ như thế thảy đều không hiện, gọi là trụ vào chỗ nào để nương dựa. Như vậy, giáo pháp Như Lai rất sâu sắc, nên biết sự lo buồn của Như Lai là thị hiện, đối với La-hầu-la mà khởi lên lòng từ, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng như thế, chỉ có Phật với Phật mới biết ý nghĩa này. Những điều này đều là pháp của chư Phật mà còn không có tâm ý thì làm sao có lo buồn, lo buồn nếu không có thì giáo pháp trái nhau. Ý tưởng xem như con một đó là lời nói suông, nói tất cả pháp đều không thể nào tin được, nhưng lời Như Lai nói là không thể nghĩ bàn, giáo pháp của chư Phật cũng chẳng thể nghĩ bàn, pháp Phật của Như Lai không thể nghĩ bàn, đó là chân thật.

Ví như hư không, không thể tạo lập cung điện hay nhà cửa ở trong đó, thế mà nhà ảo thuật có thể tạo ra ở trong đó, kẻ phàm phu ngu si trông thấy xong rồi dấy lên ý nghĩ thế này, làm sao giữa hư không mà có thể an lập như sự chuyển đổi của tâm ý, lời nói như thế còn không có tâm ý thì làm gì có sự lo buồn, lo buồn nếu như không có, thì ví dụ về La-hầu-la ấy là chẳng chân thật. Như giữa hư không, Như Lai lo buồn là việc không thể được, như sự huyễn hóa ấy, tùy theo sự chuyển đổi của tâm ý, Như Lai thì có tâm tưởng lo buồn, nghe bát Nê-hoàn mà dấy lên sự suy nghĩ như thế này, làm sao có lo buồn, người nghe sự chuyển đổi ấy thường có sự lo buồn. Do đó Như Lai thường trụ, nếu vô thường thì có lo buồn, nhưng nay Như Lai không phải là vô thường. Như Lai lo buồn và không có nỗi lo buồn đều không thể biết được.

Dưới là biết dưới mà không biết giữa và trên; giữa là biết giữa và dưới mà chẳng biết trên ấy; chỉ có trên là tất cả đều biết. Các hàng Thanh văn và Phật-bích-chi ấy ai nấy đều tự biết, nhưng không thể biết cảnh giới của Như Lai, Như Lai đều biết hết, cho nên gọi là xa lìa mọi chướng ngại.

Ví như nhà ảo thuật thị hiện biến hóa đủ mọi thứ, Như Lai cũng vậy, tùy thuận thế gian mà thị hiện đủ mọi thứ, có thể biết đây gọi là người thông tuệ, tưởng của người phàm phu mắt thịt là vô tưởng, không phải cảnh giới của họ, thế mà đối với Như Lai, họ dấy lên tưởng buồn lo và không buồn lo. Cho nên Ta nói, có pháp là ngã, có pháp là không phải ngã, giống như chim xá-lị.

Lại nữa, này thiện nam! Giống như chim nhạn, chim hạc và chim xá-lị, vào tháng mùa hạ, lúc trời mưa nước sông tràn ngập, chúng lựa chọn chỗ cao ráo mà xếp đặt cho con mình yên ổn, rồi sau mới bay đi. Như thế, Như Lai xuất hiện và làm hưng thịnh cho đời, hóa độ vô lượng chúng, khiến cho họ đi vào chánh pháp, phương tiện nói pháp cho người chịu sự giáo hóa, hoặc nói pháp khổ, hoặc nói pháp vui. Các hành hữu vi gọi là khổ, Nê-hoàn rất mực vui sướng, lìa khỏi các hành hữu vi thì Ta nói tên gọi là vui.

Ca-diếp bạch Phật:

– Nghĩa ấy là thế nào? Phật bảo Ca-diếp:

– Điều đó gọi là như như. Ca-diếp bạch Phật:

– Sao gọi là chúng sinh được vui thú Nê-hoàn? Phật dạy:

– Này Ca-diếp! Như trước đây Ta nói tất cả các hành không có sự sinh, già và chết, điều đó gọi là:

Nếu không buông lung
Chỗ ấy bất tử
Nếu kẻ buông lung
Đó là đường chết.
Người không buông lung
Được chỗ chẳng chết
Nếu người buông lung
Thường ở sinh tử.

Nếu người buông lung là hành hữu vi, người kia có hành hữu vi thì đó là pháp khổ. Không phải Nê-hoàn, đó là chỗ chết. Nếu tạo tác sự buông lung thì đó gọi là tạo tác hành, nên biết hành này thì gọi là rất khổ, không hướng đến Nê-hoàn gọi là con đường chết, người không có sự buông lung là không tạo tác hành, tuy lại tạo tác hành cũng chẳng sinh tử, đó gọi là thân kim cương chẳng hủy hoại. Kẻ thế tục ấy gọi là buông lung, người xa lìa thế tục là không có sự buông lung, khỏi sinh, già, chết là khoái lạc Nê-hoàn, cho nên Như Lai có nói pháp khổ, có nói pháp vui, có nói phi ngã, có nói đó là ngã. Như chim bay giữa hư không, chẳng trông thấy dấu tích của nó. Người không có thiên nhãn, phiền não chưa dứt bỏ, không tự nhìn thấy thân và tính của Như Lai. Cho nên Ta nói có pháp vô ngã, vì phiền não nên nói giáo pháp bí mật vi diệu. Các chúng sinh ấy không có thiên nhãn mà tính toán so đo ngã và ngã sở, tạo tác hành hữu vi vô lượng phiền não, cho nên Ta nói các pháp vô thường cho họ. Do đó Ta nói có pháp vô thường:

Giống như mắt sáng trụ đỉnh núi
Biết rõ hạng phàm phu nơi ấy
Như Lai đạo nhãn lên đài tuệ
Không còn lo nghĩ loại quần sinh.

Như thế, vô lượng phiền não đều tiêu diệt, gọi là trụ đỉnh núi, nhìn vô lượng phiền não ấy rực cháy, chúng sinh thấp kém ai là người bước lên đài tuệ. Thế nào gọi là không có sự lo lắng, nếu người không có sự lo lắng, thì sao gọi là lo nghĩ thế gian. Nếu Nê-hoàn diệt tận, thì sao có việc xem xét kẻ ngu. Ví phỏng Như Lai Nê-hoàn diệt tận, sao gọi là có thể bước lên đài cao trí tuệ. Nếu cho rằng Nêhoàn, làm sao ở đỉnh núi có thể nhìn xuống dưới ấy. Đài trí tuệ là nói rằng, diệt tận Nê-hoàn là người không có nỗi lo và lo nghĩ, gọi là Như Lai lo nghĩ vô lượng quần sinh trong thế gian. Đỉnh núi là nói giải thoát, trụ là người thực hành, địa là hành hữu vi, người ngu là người không có phương tiện khéo léo khi nói. Hiểu rõ kỹ càng là chánh giác. Như Lai là mãi mãi xa lìa sự lo lắng khổ sở vì đó là pháp thường còn. Nhờ tự mình lìa khỏi âu lo, thấy chúng sinh bị đồ sắc bén đâm vào, lo lắng buồn bực, rồi phát sinh nỗi lo lắng cho họ. Nếu như Như Lai vĩnh viễn xa lìa sự lo lắng thì không gọi là bậc Chánh giác, tùy chúng sinh kia mà đáp ứng sự thâu giữ giáo hóa, Như Lai Đẳng Chánh Giác liền thị hiện cho họ, do đó nên biết Như Lai thường trụ, thị hiện mọi thứ giống như chim nhạn, chim hạc và chim xá-lị.

Phẩm 16: LẤY MẶT TRĂNG LÀM THÍ DỤ

Đức Phật lại bảo với Ca-diếp:

– Này thiện nam! Giống như mặt trăng không hiện ra, mọi người cho là mặt trăng lặn mất, hết thảy dân chúng đều dấy lên tư tưởng lặn mất, mặt trăng xuất hiện ở phương khác thì dân chúng ở phương khác bảo rằng mặt trăng mọc, thế nhưng mặt trăng kia không lặn cũng chẳng mọc, nhân vì sự xuất hiện của núi Tu-di nên có sự xuất hiện và tàng ẩn. Như vậy, Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở Đại thiên thế giới hoặc cõi Diêm-phù-đề nương tựa nhân duyên cha mẹ mà thị hiện sinh ra làm con, người trong cõi Diêm-phù-đề đều dấy lên tư tưởng sinh ra. Lại nữa, Ta thị hiện vào Nê-hoàn ở lên tư tưởng diệt độ, thật ra Như Lai chẳng sinh chẳng diệt.

Lại nữa, này thiện nam! Giống như mặt trăng ở phương khác xuất hiện tròn vành vạnh, chúng sinh ở phương kia đều dấy lên ý tưởng tròn đầy; cõi Diêm-phù-đề này hiện có trăng non, dân chúng phương này dấy lên ý tưởng trăng non mới mọc, mặt trăng dần dần lớn thêm, cho đến khi vầng trăng tròn vành vạnh, họ bèn dấy lên ý tưởng tròn đầy. Thế nhưng vầng trăng kia không thêm cũng chẳng bớt, bởi vì núi Tu-di hiện có tăng giảm. Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cũng như thế, hoặc Ta ở cõi Diêm-phù-đề thị hiện có Nê-hoàn, thế rồi các chúng sinh đều dấy lên ý tưởng diệt độ. Hoặc Ta ở cõi Diêm-phù-đề thị hiện sinh ra đời giống như mặt trăng mới mọc, người ở cõi Diêm-phù-đề dấy lên tư tưởng trẻ con như mặt trăng mọc ngày mồng ba. Ta thị hiện hành động đi bộ dạo chơi như trăng mọc ngày mồng bốn. Ta thị hiện hành động học tập sách vở như trăng mọc ngày mồng tám. Ta thị hiện xuất gia tu hành cho đến khi mặt trăng tròn vành vạnh. Ta thị hiện ánh sáng rõ ràng phá hoại vô lượng chúng ma, tốt lắm thì thị hiện vào Nêhoàn. Trang nghiêm thân của mình bằng ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp. Giống như vầng trăng sáng, các tinh tú chung quanh lặn mất mà chẳng hiện ra. Người ở cõi Diêm-phù-đề, hoặc dấy lên tư tưởng sinh, hoặc dấy lên tư tưởng diệt. Thật ra Như Lai không thêm cũng chẳng bớt, thường như vầng trăng tròn vành vạnh, do đó nên biết rằng Như Lai thường trụ.

Lại nữa, này thiện nam! Giống như vầng trăng sáng rỡ, tất cả mọi người ở chốn ao đầm, núi non, xóm làng, thành ấp, khắp nơi đâu đâu cũng trông thấy. Tùy theo đồ đựng lớn nhỏ, nước chứa trong các thứ ấy, mặt trăng đều hiện ra tất cả. Nếu người đi chơi xa trăm ngàn do-tuần mà mặt trăng thường theo, rồi những hạng người kia dấy lên ý tưởng thế này, có người cho đó là vầng trăng ban đầu, có người cho đó là vầng trăng khác. Người ngu trông thấy mặt trăng dường như chiếc gương soi mặt, người bậc trung trông thấy mặt trăng dường như bánh xe, bậc thượng nhân thấy mặt trăng tròn năm do-tuần, cho đến chúng sinh còn lại, đều trông thấy tùy theo sức mình. Mặt trăng sáng ngời, Như Lai cũng như thế, tất cả đều trông thấy, thế rồi các chúng sinh, mỗi người dấy lên sự suy nghĩ thế này, họ bảo rằng, Đức Phật Thế Tôn thương xót chúng ta cho nên trú tại nhà chúng ta, cho đến các loài ở đường súc sinh cũng như thế. Người bị điếc, đui, câm, và những kẻ tàn tật, ngọng ai nấy đều bảo rằng, Như Lai là vị giống như mình, các thứ ngôn ngữ, các thứ sách vở, các thứ thân thể. Mọi người đều dấy lên sự suy nghĩ này, chư Phật Như Lai chỉ nói ngôn ngữ của ta, học sách vở của ta, thị hiện thân như ta, ăn món ăn như ta. Họ lại còn dấy lên tư tưởng khác, có người cho Như Lai là Thanh văn, có người bảo Như Lai là Duyên giác, có người cho rằng Như Lai xuất gia ở đạo khác, có người cho Như Lai vì ta mà làm hưng thịnh ở đời. Thế nhưng, pháp thân chân thật của Như Lai ấy không có sự biến đổi khác, vì chúng sinh nên dùng thân phương tiện thị hiện đủ mọi tướng giống như cây thuốc hay. Như Lai cũng vậy, vì chúng sinh nên thị hiện trăm ngàn sự thay đổi thuận theo thế gian, vì thế cho nên Như Lai chính là pháp thường trụ.

Lại nữa, này thiện nam! Giống như khi La-hầu A-tu-la nắm giữ mặt trời và mặt trăng, các chúng sinh ấy cho là A-tu-la kia ăn mặt trăng, vị kia bỏ mặt trăng xong họ cho là vị kia nhả mặt trăng. Atu-la kia ngăn ánh trăng không hiện ra ở thế gian, họ bèn dấy lên ý tưởng thực. Vị kia bỏ mặt trăng xong, mặt trăng xuất hiện trở lại ở thế gian, họ cho là vị kia bỏ mặt trăng. Thế nhưng mặt trăng kia khi ẩn mất khi lộ rõ, thật ra không có thêm bớt. Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cũng như thế, giống như ông Điều-đạt kia làm tổn thương hủy hoại thân Phật, gây ra những nghiệp vô gián cho đến hạng Nhất-xiển-đề, đều là vì các chúng sinh trong đời sau mà thị hiện làm thương tổn thân Phật, hoại Pháp, phá Tăng. Thật sự pháp thân Như Lai không có sự thương tổn hủy hoại, cho dù số ma trời có hàng ức trăm ngàn, cũng không thể nào dứt bỏ Pháp và phá hoại Tăng được. Cho nên pháp thân Như Lai chân thật không có sự tổn thương và hủy hoại, Ta thị hiện tướng tổn hoại là thuận theo thế gian.

Ví như hai người đánh nhau, tùy theo sự tổn thương và hủy hoại của họ mà so lường tội nhẹ hay nặng. Chư Phật Như Lai cũng như thế, các vị thị hiện tướng tổn thương hủy hoại, biểu hiện tội vô gián là nhằm chế ra pháp luật để răn dạy người đời sau.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như người thầy thuốc giỏi khéo chỉ dạy con mình, khiến cho nó học cách thức chữa bệnh, nhận biết các thân rễ, hoa lá, mùi thơm, màu sắc, hình dạng của cây thuốc, ông đều khiến cho nó hiểu rõ. Sau khi vị lương y qua đời, người con ấy nối tiếp sự gây dựng, khéo biết phương pháp chữa bệnh. Chư Phật Như Lai cũng như thế, các vị biến hóa đủ mọi cách để điều trị chúng sinh, thị hiện năm tội trái ngược với đạo lý và bôi nhọ chê bai kinh pháp, ngay cả hạng Nhất-xiển-đề, chư Phật cũng đều hóa hiện là vì chúng sinh đời sau. Sau khi Phật vào Nê-hoàn, khiến cho các vị Tỳ-kheo thuận theo kinh luật. Giống như lời của Như Lai nói, các vị ấy biết tội nặng nhẹ để tự mình thận trọng dè chừng.

Lại nữa, này thiện nam! Như mặt trăng ở nhân gian, nguyệt thực một lần sáu tháng, thế mà ở trên cõi trời, chư Thiên thấy nguyệt thực vào ban ngày, hoặc lại thấy nguyệt thực trong giây lát. Vì sao? Vì ngày tháng ở cõi trời thì dài, còn ở nhân gian thì ngắn. Chư Phật Như Lai cũng như thế, hoặc cho là chư Phật sống lâu như sáu tháng nguyệt thực, cho đến chư Phật vào Nê-hoàn trong phút chốc. Vì ma phiền não, ma ấm, ma chết, ma cõi trời Tự tại, hàng ức trăm ngàn loại vốn không thể nào phá hoại, Ta thị hiện vô lượng sự sinh ra là thuận theo thế gian. Tuổi thọ của Như Lai thật sự không có đo lường nổi, do đó Như Lai là pháp thường trụ.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như vầng trăng sáng ngời, tất cả chúng sinh thảy đều yêu thích. Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cũng như thế, đem lại pháp an vui, chúng sinh đều ưa thích, an lạc.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như mặt trời mọc có ba mùa thay đổi, mùa xuân, mùa hạ, mùa đông khác nhau. Ngày mùa đông thì ngắn, ngày mùa xuân ở mức trung bình, ngày mùa hạ rất dài. Mặt trời Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cũng như thế, thị hiện ba thứ tuổi thọ. Ta thị hiện tướng thọ mạng ngắn ngủi cho các chúng sinh, Thanh văn và Duyên giác, hạng này thấy Ta diệt độ rồi thì trong lòng buồn bã than thở: “Sao mà kỳ lạ vậy, tuổi thọ của Như Lai ngắn ngủi quá”. Ta vì các Bồtát mà thị hiện tuổi thọ bậc giữa, hoặc đến một kiếp, hoặc hơn một kiếp. Chỉ có Phật xem xét Phật thì tuổi thọ ấy không lường nổi.

Lại nữa, này thiện nam! Giáo pháp vi diệu bí mật Phương đẳng Đại thừa do Như Lai nói, thị hiện tuôn trận mưa pháp lớn cho thế gian, nếu có chúng sinh ở đời sau này đem phẩm Ma-ha-diễn chánh pháp này để khai thị thế gian, thì nên biết hạng người này là Bồ-tát chân thật giống như cơn mưa vào mùa hạ. Cũng như ngày mùa đông, có nhiều nỗi lo lạnh rét khiến tuổi thọ của con người giảm bớt, hàng Thanh văn và Duyên giác nghe giáo pháp phương tiện vi diệu bí mật của Phật, Phật thị hiện báo thân thọ mạng ngắn ngủi cho những vị ấy, giống như ngày mùa đông. Những hàng Bồ-tát thành tựu trí tuệ vi diệu, thế rồi Phật thị hiện thường pháp của bậc Như Lai cho những vị kia, ví dụ như ngày mùa xuân. Như thế, Như Lai thuận theo thế gian thị hiện thọ mạng ba mùa.

Ví như ban ngày, những vì sao không hiện ra, kỳ thật chúng chẳng mất. Như thế, Như Lai cùng với các Thanh văn và Phật-bích-chi đều xuất hiện ở đời và đều thị hiện Nê-hoàn, không phải riêng một mình tất cả Thanh văn và Duyên giác có sự vô thường vậy. Nên biết đó cũng là pháp thường trụ giống như các ngôi sao vào ban ngày vậy.

Lại nữa, này thiện nam! Cũng như bầu trời râm, mặt trời và mặt trăng không hiện ra, người phàm ngu si nói rằng, mặt trời và mặt trăng lặn mất, thời kỳ chánh pháp của Như Lai diệt hết, Ba ngôi báu hiện giờ ẩn mất cũng như thế, không phải là diệt mãi mãi. Nên biết Như Lai chính là pháp thường còn, cũng chẳng thay đổi, cũng chẳng phai mờ tiêu diệt, không phải các lỗi lầm kia có thể làm nhiễm ô.

Lại nữa, này thiện nam! Chỉ như sao Đẩu và mặt trăng vào lúc cuối đêm sắp hết, giữa lúc tranh tối tranh sáng, tạm thời hiện ra ánh sáng, mọi người trông thấy rồi, chẳng bao lâu liền diệt mất trở lại. Mọi người cho rằng ánh sáng ấy tắt mất song thật ra không diệt. Như thế, này thiện nam! Giống như thời kỳ chánh pháp Như Lai diệt hết, các hàng Phật-bích-chi xuất hiện ở đời, khai thị giáo hóa vô lượng chúng sinh, kiến lập chánh pháp, rồi chẳng bao lâu các vị ấy liền diệt độ, kỳ thật các vị ấy tồn tại lâu dài mà chẳng diệt độ mãi mãi, nhưng mà các chúng sinh không thể nào thấy biết được.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như mặt trời mọc thì mọi sự tăm tối đều tiêu trừ. Như thế, Thiện nam Kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này xuất hiện ở thế gian, nếu có người nghe, thì tội nghiệp vô gián tích tụ vô lượng thảy đều tiêu diệt. Như thế, Thiện nam! Cảnh giới hết sức sâu xa của Ma-ha-diễn Đại Bátnê-hoàn này không thể nghĩ bàn, khéo nói tính vi diệu của Như Lai. Nếu thiện nam hay thiện nữ nào muốn biết Như Lai là pháp thường trụ, chánh pháp không có sự cùng tận, ngôi báu Tăng không bao giờ mất được, nên chăm chỉ phương tiện tu học kinh này, ta nói người này là được gần gũi với địa vị Phật.

QUYỂN 6

Phẩm 17: HỎI VỀ BỒ TÁT

Ca-diếp bạch Phật:

– Hạng người nào là Đại Bồ-tát? Phật bảo Cadiếp:

– Người đã phát ý và chưa phát ý, hết thảy đều gọi là Bồ-tát. Này thiện nam! Ví như ngày mùa đông, dầu bơ đông đặc không có trơn nhuần, như thế người tu tập khế kinh và các Tam-muội khác, phát tâm mong cầu quả vị Bồ-đề, hạng người ấy gọi là chưa phát ý đạo, không thể chóng thành đạo quả của Bồ-tát. Vì sao? Vì không có phương tiện siêng năng thì giống như ngày mùa đông. Thiện nam! Lại còn như ngày mùa xuân, trời nóng gắt gao, tất cả thứ dầu bơ thảy đều trơn nhuần, còn lại những thứ bị đóng băng, hết thảy đều tan chảy, nước trong những ao hồ cũng lại khô cạn hết. Như thế, Ca-diếp! Nếu thiện nam và thiện nữ, người trong đạo hay kẻ ngoại đạo, hoặc giả có tâm rất mực chân thành, cho đến kẻ ưa thích tiếng tăm và lợi dưỡng, nghe qua tai hoặc cất giấu trong lòng kinh Phương Đẳng Đại Bát-nê-hoàn này, có người phát tâm Bồ-đề hoặc là người chưa phát tâm, như những hạng người này, hết thảy trong thân họ đều trơn nhuận làm nhân Bồ-đề, cho nên Ta nói rằng, thiện nam và thiện nữ đó đều trở thành Bồ-tát. Công đức tích tụ và giác tuệ vô tận của kinh Phương Đẳng Đại Bát-nê-hoàn như thế, cho nên Ta nói tên gọi là sự thấm nhuần của mùa xuân. Vì sao? Vì kinh này mở mang phát huy pháp thường trụ của Như Lai.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như ánh sáng mặt trời và mặt trăng soi chiếu, các ánh sáng khác đều không hiện ra nữa. Như thế, ánh sáng kinh Đại thừa Bát-nê-hoàn soi chiếu, thì ánh sáng công đức của các khế kinh khác cho đến các Tam-muội đều không hiện ra nữa. Cho nên, thiện nam và thiện nữ nào nghe Phương Đẳng Đại Bát-nê-hoàn này, tuy rằng họ chưa thể phát tâm đạo vô thượng, song ánh sáng mặt trời Nê-hoàn đã vào trong thân làm nhân Bồ-đề, do đó gọi là Đại Bát-nê-hoàn.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh ắt hẳn có nhân duyên Bồ-đề nhập vào trong thân là do nguyên cớ gì? Bạch Thế Tôn! Nói rằng người phạm bốn pháp đọa, gây ra tội vô gián, phỉ báng kinh pháp, cho đến hạng Nhất-xiển-đề đều làm gai độc ở trong chánh pháp chăng? Như điều Phật nói, nếu người chưa phát ý và người có nhân Bồ-đề, có sự khác biệt gì? Bốn hạng người kia phải là người không có tội lỗi hung ác chăng?

Phật bảo Ca-diếp:

– Trừ hạng Nhất-xiển-đề ra, các chúng sinh còn lại, trong số đó có người nào nghe khế kinh Phương Đẳng Đại Bát-nê-hoàn này, làm nhân Bồđề, nên biết hạng người ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, cho nên được nghe kinh này, còn các tội khác không có năng lực để làm vậy. Vì sao? Vì sức phương tiện lớn lao Ma-ha-diễn này mở mang phát huy tất cả Như Lai tánh.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Người chưa phát tâm không có sự ưa thích hướng về, nghe thì quay lưng vứt bỏ, làm sao có thể làm nhân Bồ-đề được?

Phật bảo Ca-diếp:

– Người chưa phát ý tuy không ưa thích hướng về mà quay lưng bỏ đi, song vẫn còn nhớ lại kinh này, lòng chẳng quên mất, thì trong giấc mơ khi nằm ngủ, người ấy thấy đại quỷ thần hiện ra tướng khủng bố rồi bảo: “Ô hay, Thiện nam! Ông nên nhớ nghĩ Bồ-đề, nếu không ưa thích hướng về ta, thì ta sẽ giết nhà ngươi”. Lập tức người kia liền sợ hãi bèn nhớ nghĩ Bồ-đề, cho đến khi thức rồi, tâm vẫn còn nhớ nghĩ liên tục. Lại nữa, sau khi mạng sống chấm dứt, người kia đọa vào trong địa ngục, thấy tội báo của mình cũng lại nhớ nghĩ, đọa vào trong ngạ quỷ cho đến sinh lên cõi trời cũng đều nhớ nghĩ: Đối với tâm Bồ-đề mà người kia có thể phát, đối với kinh Đại thừa Bát-nê-hoàn này, tâm không ưa thích từ đây mãi mãi tiêu diệt, như thế chính là nhân của Bồ-đề. Làm nhân như thế, làm duyên như thế, tức là dựng lập Bồ-đề.

Lại nữa, này thiện nam! Giống như trong hư không nổi lên đám mây lớn và mưa xối xả, trời mưa xuống khắp cả quả đất, nước mưa ấy không trụ lại ở chỗ cây khô, đá núi và các vùng cao nguyên mà chảy xuống tưới mát đồng ruộng, ao hồ đều tràn ngập. Chúng sinh thọ dụng trận mưa pháp Ma-ha-diễn Đại thừa này, mưa xuống hạng Nhấtxiển-đề giống như mưa xuống vùng đất cao nguyên, cây khô, đá núi; không thọ nhận sự thấm ướt của nhân duyên Bồ-đề.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như rang hạt giống làm cho nó cháy khô, tuy trời mưa hợp thời trở đi trở lại trăm ngàn muôn kiếp đi nữa, hạt giống cũng không thể mọc mầm. Hạng Nhất-xiển-đề cũng như thế, đối với kinh Phương Đẳng Bát-nê-hoàn này, dù cho họ có nghe kinh trải qua trăm ngàn kiếp đi nữa, cuối cùng cũng không thể phát mộng đâm chồi Bồ-đề. Vì sao? Vì giống như hạt giống lúa cháy, căn lành bị diệt mất.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như viên ngọc sáng cho vào trong nước vẩn đục, tức thì nước lắng trong; ném nó vào bùn, không thể khiến cho bùn trong. Kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này cũng như thế, đặt vào trong nước đục các chúng sinh gây ra năm tội vô gián hay phạm bốn pháp đọa, vẫn còn có khả năng lắng trong mà phát tâm Bồ-đề; nếu ném vào trong bùn Nhất-xiển-đề, dù qua trăm ngàn muôn năm đi nữa, cũng không thể khiến cho nó trong, khởi lên nhân Bồ-đề. Vì sao? Vì hạng đó không có cội rễ tốt lành vậy.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như cây thuốc tên là Dược vương, không có bệnh gì mà không trị được, nước là hương của thân rễ hoa lá của thuốc, hoặc có người uống, hoặc lại xoa vào mình mẩy, hoặc chỉ cần ngửi mùi thơm, ý ưa thích hay chẳng ưa thích, bệnh của người ấy đều trừ diệt. Chỉ trừ bệnh ắt phải chết, thì không thể làm cho khỏi bệnh. Như thế, này thiện nam! Kinh Ma-Ha-diễn Bát-nêhoàn này, đối với bệnh nặng nghiệp ác của hết thảy chúng sinh, đều có thể điều trị. Nếu người phạm bốn pháp đọa, tội nghiệp vô gián, cho đến các người ngoại đạo không ưa thích Bồ-đề, một khi nghe kinh Phương đẳng này qua tai, thì đó gọi là nhân Bồ-đề. Vì sao? Vì kinh Ma-ha-diễn Bát-nêhoàn này đối với tất cả các điều ác, không gì mà kinh này chẳng trị được, chỉ trừ hạng Nhất-xiểnđề. Vì sao? Vì hạng ấy không có nhân Bồ-đề. Giống như thân người có chỗ thương tổn, thuốc cỏ bính được ngấm vào thì trừ được mọi tật bệnh, nếu không bị thương tổn hư hoại thì thuốc trở thành vô dụng. Hạng Nhất-xiển-đề cũng như thế, không thể thương tổn hư hoại để thọ nhận nhân Bồ-đề.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như kim cương có năng lực phá hoại mọi thứ báu, nhưng sức không thể phá hoại sừng linh dương màu trắng. Kinh Maha-diễn Bát-nê-hoàn đều có thể phá hoại pháp thành tựu tất cả các điều ác, dựng lập nhân Bồ-đề, chỉ không thể phá hoại việc ác của hạng Nhất-xiểnđề để khởi lên nhân Bồ-đề.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như các cây cối, nếu chặt đứt thân cây và cành của nó, thì chúng lại mọc ra như cũ. Như thế, chúng sinh gây ra các tội nghiệp, nghe kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn thì sinh ra nhân Bồ-đề, nhưng chặt đứt cây Đa-la thì thân và cành chẳng mọc ra lại, hạng Nhất-xiển-đề cũng như thế, cuối cùng không thể nảy sinh cành lá Bồ-đề.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như giữa hư không nổi lên đám mây và mưa lớn, thế nhưng giọt mưa kia chẳng trụ giữa không trung. Kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này mưa xuống trận mưa pháp khắp nơi, đối với hạng Nhất-xiển-đề thì mưa không trụ lại.

Không tu chân thật cũng không đến
Chỗ rốt ráo kia không thể thấy
Gọi nghiệp chẳng tốt các ác kia
Là rất quê kệch của thế gian.

Người tu điều thiện ấy gọi là tu Bồ-đề. Không đến là nếu tự mình không tu, thì cuối cùng không thể tự mình chứng đắc. Chân thật là hành nghiệp thù thắng vi diệu bí mật, hành nghiệp thù thắng như thế, đối với người nào không đến gọi là hạng Nhấtxiển-đề, mãi mãi xa lìa tâm thiện gọi là Nhất-xiểnđề, các hạng Nhất-xiển-đề, tăng thượng mạn lấy gì làm gốc? Nghiệp bất thiện phỉ báng kinh pháp, lấy đó làm gốc. Phỉ báng kinh pháp, hung nghịch, tàn hại bạo ngược, nên biết hạng người như thế làm cho kẻ trí sợ hãi. Ví như con đường nguy hiểm có nhiều giặc cướp, kẻ phàm phu ngu si kiêu mạn bạo ngược chẳng biết sợ hãi, cố tình đi thẳng đến đó thì bị giặc làm hại. Đấng Pháp vương có sức mạnh lớn lao đi dạo chơi ở con đường này thì không có nỗi sợ hãi. Không thấy chỗ rốt ráo là mãi mãi không thấy nghiệp ác rốt ráo của hạng Nhất-xiển-đề kia, cũng chẳng thấy chỗ rốt ráo vô lượng sinh tử của họ. Ta nói rút gọn việc tích tụ các điều ác kia, nếu nghe đầy đủ thì rất đáng sợ hãi. Cho dù khiến tất cả chúng sinh phát tâm một lúc thành đạo vô thượng, các bậc Chánh giác này vẫn còn không thấy các việc ác rốt ráo của hạng Nhất-xiển-đề kia. Lúc thành chánh giác, các vị ấy lại không thấy sự rốt ráo đối với những điều gì? Hết thảy chúng sinh phá hoại sự sống chết đều thành Phật đạo, chẳng thấy Vô dư Nê-hoàn của chư Phật, vô thường diệt tận như ánh đèn tắt. Gọi các nghiệp ác kia là việc rất hèn kém của thế gian, nghĩa là hạng Nhất-xiểnđề vĩnh viễn xa lìa công đức nhân duyên Bồ-đề, những kẻ này gọi là hạng bỉ lậu trong thế gian. Đối với Đại thừa sau cùng này mà giác ngộ được làm Phật, đó cũng gọi là bỉ lậu, pháp tự nhiên của chư Phật là như vậy.

Kẻ đã gây nghiệp ác
Như tát xà bơ sữa
Người ngu khinh bị đốt
Như tro phủ trên lửa.

Có hạng Nhất-xiển-đề tựa như bậc A-la-hán mà có hành vi trái với đạo lý, có bậc A-la-hán tựa như hạng Nhất-xiển-đề mà thực hành lòng từ. Có hạng Nhất-xiển-đề tựa như bậc A-la-hán, ấy là những chúng sinh phỉ báng Phương đẳng; có bậc A-la-hán tựa như hạng Nhất- xiển-đề là hạng chê bai Thanh văn, nói Phương đẳng một cách rộng rãi, vị ấy nói với chúng sinh: “Ta và các ông đều là Bồ-tát. Vì sao? Vì tất cả chúng ta đều có Như Lai tánh”. Thế nhưng chúng sinh kia cho họ là hạng Nhất-xiển-đề mà nói rằng, Như Lai trao cho chúng ta lời quyết đoán, ông cũng như thế, tôi và các ông đều sẽ lìa khỏi vô lượng phiền não và nghiệp ác của chúng ma như đập vỡ bình nước. Đối với khế kinh này ắt hẳn thành Bồ-đề, chớ phát sinh lòng nghi ngờ nữa. Ví như bậc liệt sĩ vâng theo mệnh lệnh của nhà vua sai đi sứ, người ấy đến bên trong nước khác để khen ngợi đạo đức của nhà vua, thà chịu mất thân mạng chứ chẳng thay đổi. Hôm nay chúng ta cũng như thế, Như Lai nói lời ghi nhận tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, chúng ta phải không tiếc thân mạng, ở trong người phàm phu ngu si mà giảng nói kinh này một cách rộng rãi, đó gọi là hạng chúng sinh có tấm lòng lớn tựa hồ Nhất-xiển-đề.

Nếu kẻ ngu si không có trí ở chốn tịch mịch vắng vẻ, dáng hình giống như bậc A-la-hán mà chê bai Phương đẳng, hạng phàm phu ngu đần cho kẻ ấy là bậc A-la-hán chân thật mà gọi đó là bậc Đại sĩ. Hạng Tỳ-kheo xấu ác ấy thị hiện ở nơi yên ắng A-luyện-nhã mà tự xử trí tựa hồ bậc A-la-hán chân thật, đối với hạnh A-luyện-nhã mãi mãi người ấy không thuận theo, rồi tạo ra lý thuyết quái lạ, khởi lên bốn nhân duyên. Họ nói rằng kinh Phương đẳng đều là do ma nói, nói rằng Ma-ha-diễn chính là lưỡi kiếm đâm vào chánh pháp của những người thông minh trí tuệ, chư Phật Thế Tôn đều sẽ vô thường mà nói là thường trụ. Nên biết đó là tướng hủy diệt chánh pháp và phá Tăng, người nói lời như thế gọi là hạng Nhất-xiển-đề, cho nên nói:

Kẻ đã gây nghiệp ác
Như tát xà bơ sữa
Người ngu khinh bị đốt
Như tro phủ trên lửa.

Như thế, này thiện nam! Nên biết kinh Phương Đẳng Bát-nê-hoàn là lời nói quyết định của chư Phật Như Lai. Ma-ha-diễn là vô thượng tối cao giống như viên ngọc ma-ni sáng chói sạch trong lìa mọi dơ bẩn.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như hoa sen, ánh sáng mặt trời chiếu rọi rồi, không có hoa nào là không nở rộ, tất cả chúng sinh cũng như thế, kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này, một khi đã nghe qua tai, nếu người chưa phát ý, chẳng ưa thích Bồ-đề, thì những điều đó nhất định là nhân của Bồ-đề. Hạng Nhất-xiển-đề kia sở dĩ đoạn tuyệt mãi mãi đối với Như Lai tánh, đây là do sự phỉ báng và gây ra nghiệp ác lớn lao, giống như loài tằm kia dệt tơ tự ràng buộc mình mà không có chỗ thoát ra. Hạng Nhất-xiển-đề cũng như thế, đối với Như Lai tánh, họ không thể khai phát làm khởi dậy nhân Bồ-đề, cho đến tất cả cõi sinh tử cùng tột.

Lại nữa, này thiện nam! Giống như hoa Ưubát-la, Bát-đàm-ma, Câu-mâu-đầu, Phân-đà-lợi mọc lên ở trong bùn lắng mà không bị bùn lắng kia làm vấy bẩn. Nếu có chúng sinh tu tập kinh Maha-diễn Bát-nê-hoàn cũng như thế, họ không bị phiền não làm ô nhiễm. Vì sao? Vì tính của Như Lai không chịu sự lây nhiễm.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như ở đất nước nọ, ngọn gió mát mẻ nổi lên, những lỗ chân lông trong thân thể của hết thảy chúng sinh gặp được ngọn gió này đều trừ diệt hết sự nóng bức. Như thế, này thiện nam! Pháp vị cam lộ của kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này, tất cả chúng sinh không ai là không được thấm nhuần phát khởi nhân Bồ-đề, trừ hạng Nhất-xiển-đề.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như vị lương y hiểu rõ tám thứ phương thuật thì tất cả các bệnh thảy đều có thể điều trị, chỉ trừ bệnh a-tát-xà. Như thế này, Thiện nam! Tất cả khế kinh và các Tam-muội có năng lực trị hết thảy các bệnh phiền não dâm dục, tức giận, ngu si v.v..., nhưng không thể nào trị được kẻ phạm vào bốn giới cấm nặng và tội nghiệp vô gián.

Này thiện nam! Lại có vị lương y hiểu hơn tám thứ phương thuật, các tật bệnh của chúng sinh mắc phải mà số mạng và tuổi thọ chưa hết đều có khả năng trị liệu, chỉ có số mạng và tuổi thọ hết thì không thể khiến cho người ấy khỏi bệnh. Kinh Maha-diễn Bát-nê-hoàn này cũng như thế, những bệnh hoạn phiền não của tất cả chúng sinh, cho đến người không ưa thích Bồ-đề mà chưa phát tâm, thảy đều có thể điều trị khiến cho họ phát Bồ-đề, chỉ trừ hạng Nhất-xiển-đề.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như người mù chẳng thấy năm màu sắc, vị thầy thuốc tài giỏi có khả năng điều trị khiến cho mắt mở sáng, chỉ có điều là không thể nào chữa cho người mù bẩm sinh kia. Kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này cũng như thế, hết thảy chúng sinh, Thanh văn, Duyên giác không ưa thích Bồ-đề mà chưa phát tâm, thảy đều trị liệu làm cho họ mở con mắt tuệ và phát tâm Bồđề, chỉ trừ hạng Nhất- xiển-đề bị mù bẩm sinh.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như vị lương y giỏi hơn tám thứ phương thuật, tất cả chúng sinh mắc tật bệnh, thầy thuốc viết chú thuật ấy dán vào trên thân thể, có thể khiến cho các bệnh tật đều được trừ khỏi. Kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này cũng như thế, các phiền não họa hoạn của tất cả chúng sinh, người không ưa thích Bồ-đề mà chưa phát ý, cho đến phạm bốn giới cấm nặng và tội nghiệp vô gián, đều có thể trừ diệt và an lập Bồ-đề.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Người phạm vào bốn giới cấm nặng và tội vô gián giống như chặt đứt cây Đa-la, cho đến người không ưa thích Bồ-đề mà chưa phát tâm, làm thế nào có thể khiến cho họ phát khởi nhân Bồ-đề?

Phật bảo Ca-diếp:

– Các chúng sinh đó hoặc ở trong giấc mơ, hoặc khi mạng sống chấm dứt, đọa vào trong địa ngục mà sinh lòng hối hận, rằng xót thương thay, chúng ta hủy phạm chánh pháp, tự mình chuốc lấy tội này, mà phát sinh tâm thề nguyện, ở đây được khỏi phải sinh về nơi khác, ở bất cứ nơi đâu đều cần phải phát tâm làm đạo Bồ-tát, vì đó là sức uy thần của kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn. Những hạng chúng sinh ấy sinh vào trong cõi trời hay loài người, ắt hẳn được phát tâm làm nhân Bồ-đề, cho nên Ta nói người phạm bốn điều cấm nặng cho đến nghiệp vô gián đều được phát tâm làm nhân Bồ-đề.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như người thầy thuốc giỏi hòa hợp các phương thuốc tên là A-giàđà, vị thuốc hay như thế tích chứa ở chỗ nào, thì tất cả các thứ độc hại thảy đều tiêu tán, chỉ trừ một loại rắn độc tăng thượng, không thể nào tiêu phục. Kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này cũng như thế, tất cả bốn rắn độc kiêu mạn, người phạm bốn điều cấm nặng cho đến nghiệp vô gián, người không ưa thích Bồ-đề và chưa phát ý, kinh này đều an lập họ ở đạo Bồ-đề. Vì sao? Vì kinh Ma-ha-diễn Bát-nêhoàn này là phương thuốc hay bậc nhất không gì hơn được, chỉ trừ hạng Nhất-xiển-đề rắn độc tăng thượng.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như người thầy thuốc giỏi hợp các vị thuốc để bôi lên chiếc trống của mình, nếu có chúng sinh đánh nhau bị thương, họ nghe tiếng trống kia, tất cả vết thương đều lành lại, chỉ trừ người hết số mạng thì ắt phải chết. Âm thanh trống pháp của kinh Ma-ha-diễn Bát-nêhoàn này cũng như thế, tất cả chúng sinh nghe âm thanh ấy, thì mũi tên dâm dục, tức giận, ngu si; người không ưa thích Bồ-đề và chưa phát ý, kẻ phạm bốn pháp đọa cho đến tội vô gián, tất cả đều trừ khỏi bệnh, chỉ trừ hạng Nhất-xiển-đề ra.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như đêm tối, tất cả công việc nhà của người ở cõi Diêm-phù-đề thảy đều bỏ dở để nghỉ ngơi, khi ánh mặt trời ló dạng rồi, các dân chúng ấy mới có thể sửa sang công việc gia đình. Như vậy, chúng sinh nghe các khế kinh và các Tam-muội giống như đêm tối, họ nghe giáo pháp bí mật vi diệu của kinh Đại thừa Bát-nêhoàn này giống như mặt trời mọc thấy các chánh pháp, như người làm ruộng kia gặp trời tuôn mưa vào mùa hạ. Trong kinh Ma-ha-diễn, vô lượng chúng sinh thảy đều được ghi nhận sự quyết định hiện bày Như Lai tánh; ở kinh Pháp Hoa, tám ngàn vị Thanh văn được Phật ghi nhận các việc ở đời vị lai, chỉ trừ hạng Nhất-xiển-đề băng giá mùa đông.

Lại nữa, này thiện nam! Giống như có người bị loài phi nhân nắm giữ, nếu bị độc ác mà được người thầy thuốc tài giỏi, hoặc sai khiến chú thuật, hoặc sai khiến chú dược, thì tai họa kia liền tiêu trừ. Như thế, này thiện nam! Kinh Ma-ha-diễn Bátnê-hoàn này, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cho đến kẻ ngoại đạo ở khắp mọi nơi, nếu họ viết chép và diễn nói cho mọi người, trong số đó có chúng sinh hoặc đọc hoặc nghe, những việc này đều là nhân của Bồđề. Những sự độc ác tà vạy, việc chẳng ưa thích Bồ-đề, chưa phát sinh ý đạo, cho đến bốn điều cấm nặng, năm tội nghịch đọa vào ngục vô gián thảy đều tiêu diệt, chỉ trừ hạng Nhất-xiển-đề.

Lại nữa, này thiện nam! Giống như trong thân thể của vị đại vương có loài trùng bí mật ăn thịt của mình mà vị vua ấy chưa hay biết, bấy giờ có vị lương y biết tướng bệnh của vị vua ấy, bèn nói với nhà vua kia: “Trong thân thể của ông có bệnh, hãy nên mau chóng chữa trị bệnh ấy”. Khi ấy nhà vua chẳng tin, không muốn ra lệnh chữa trị. Người thầy thuốc ấy sợ hãi không dám cho vua dùng thuốc, bèn bí mật gia trì chú thuật khiến cho loài trùng tự nhiên lọt ra. Nhà vua thấy bệnh rồi mới tin lời nói của thầy thuốc và đãi ngộ trọng hậu. Các hàng chúng sinh cũng như thế, họ nghe kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn song không ưa thích Bồ-đề và chưa phát ý, chư Phật Bồ-tát phương tiện nói cho họ, tuy rằng họ không lĩnh thọ ngay lập tức, nhưng ở trong giấc mơ hoặc khi kết thúc mạng sống, họ liền tự giác ngộ và phát ra nhân Bồ-đề, trừ hạng Nhấtxiển-đề.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như người thầy thuốc giỏi khéo chỉ dạy cho đứa con của mình học tám thứ phương thuật, phương thuật bí mật cốt yếu hàng đầu thì ông giấu kín mà chưa truyền thụ, người con biết tám thứ phương thuật và khéo thông đạt rồi, sau đó ông mới chỉ dạy toàn bộ phương thuật bí mật cốt yếu hàng đầu. Cũng như thế, Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác dạy bảo cho Pháp vương tử, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưubà-di, trước tiên học tập cách diệt trừ vô lượng phiền não, tu tập quán tưởng không bền chắc đối với thân, mọi khổ não tích tụ, vô thường biến hoại, trống rỗng và không có ngã sở. Như Lai lại còn dạy bảo học chín bộ khế kinh, khiến cho họ khéo thông hiểu một cách sắc bén, rồi sau mới dạy bảo học tập kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này, khiến cho biết chúng sinh có Như Lai tánh chính là pháp thường trụ, đều phát khởi cái nhân Bồ-đề vô thượng, trừ hạng Nhất-xiển-đề ra. Như thế, này thiện nam! Kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này vô lượng vô số không thể nghĩ bàn, nên biết kinh này là phương thuật vô thượng, là bí mật cốt yếu của vị lượng y.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như người làm nghề lái đò đáp thuyền đưa người qua sông, đến bờ bên kia rồi, người ấy trở lại đưa người khác. Cũng như thế, chư Phật Như Lai đáp thuyền Ma-ha-diễn Bátnê-hoàn, tùy theo chúng sinh kia cần phải nhận lĩnh sự giáo hóa mà tế độ họ. Bát-nê-hoàn xong, chư Phật lại đến nơi khác để độ các chúng sinh, cho nên Như Lai tên là Đại Thuyền Sư, cho nên Như Lai là pháp thường trụ, vì cứu độ mọi người cho nên thị hiện có sự xuất hiện và tàng ẩn.

Lại nữa, này thiện nam! Giống như người đáp thuyền muốn vượt qua biển cả, nếu được gió thuận lợi thì người ấy đến bờ bên kia nhanh chóng; nếu không được thuận gió, hoặc trải qua bao năm, hoặc có thể bị chết đuối. Như vậy, chúng sinh được gió Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn, mau chóng vượt qua sinh tử, đến bờ Bồ-đề. Nếu như không được thuận gió, thì mãi mãi chìm đắm trong biển khổ sống chết luân hồi.

Lại nữa, này thiện nam! Giống như người vào biển gặp phải làn sóng cả, toan tính không có cách nào cứu giúp, bèn ngồi ngay ngắn chờ cái chết. Bỗng dưng, người ấy gặp ngọn gió lớn thổi đến một nước, không ngờ mình đến đây một cách âm thầm, người ấy vui mừng khôn xiết, nảy sinh ý tưởng lạ lùng. Như thế, kinh Ma-ha-diễn Bát-nêhoàn này là ngọn gió lớn lao, chúng sinh không biết mà chẳng ưa thích hướng về để phát tâm Bồđề. Ngọn gió Bát-nê-hoàn kín đáo thổi khiến cho họ đến cảnh giới Bồ-đề, mới biết sự chân thật và sinh ra ý tưởng lạ lùng.

Lại nữa, này thiện nam! Giống như con rắn lột da, lại đi sang nơi khác song thật ra nó không chết. Như thế, Thiện nam! Như Lai Nê-hoàn bỏ thân cũ kia như lột bỏ da, cho nên Như Lai tên là Thiện Thệ, bỏ thân phương tiện cây thuốc độc, hoặc lại phương tiện thị hiện sự giáo hóa ở cõi Diêm-phùđề khác, cho nên này thiện nam, nên biết Như Lai là pháp thường trụ.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như người thợ vàng được loại vàng thật và tốt, tùy ý người ấy có thể tạo ra những đồ trang nghiêm, đủ mọi thứ đồ phục sức. Cũng như thế, chư Phật Như Lai tùy theo sự thâu giữ giáo hóa kia ở hai mươi lăm cõi, các Ngài đều có thể hiện thân mà độ thoát họ, cho nên Như Lai gọi là Vô lượng thân, cũng gọi là thường trụ.

Lại nữa, này thiện nam! Giống như cây am-la và cây diêm-phù thay đổi ở ba mùa, có mùa lá cây tốt tươi, có mùa đơm hoa kết trái, có mùa úa rụng, không phải là cây kia khô rồi mọc lại. Như thế, Thiện nam! Thân phương tiện của Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, vì sự giáo hóa cho nên cũng hiện ra ba thời kỳ. Như Lai thị hiện có sự sinh ra, thành Phật, thị hiện Bát-nê-hoàn, kỳ thật Như Lai thường còn mà chẳng diệt tận.

Lại nữa, này thiện nam! Thân bí mật của Như Lai là như thế, mật khẩu của Như Lai và mật giáo phương tiện cũng lại khó biết. Thiện nam tử! Mật giáo phương tiện là ví như vị đại vương mệnh lệnh cho các quần thần cũng có lời dạy bảo giấu kín như thế. Như có lúc vua nói: “Hãy cầm tiên-đà-bà đến”. Thế nhưng, tiên-đà-bà là một tên gọi mà có bốn nghĩa thực: một là muối, hai là chậu tắm, ba là ngựa, bốn là kiếm. Đó là bốn thứ vật đều gọi là tiên-đà-bà. Nếu khi vua dùng bữa, ông ra lệnh cho người hầu hạ hai bên của mình để đòi tiên-đà-bà, các bầy tôi của vua nên biết rằng, nhà vua ắt hẳn đòi muối. Nếu nhà vua ăn xong rồi mà đòi tiên-đàbà, các bầy tôi cần phải biết rằng, nhà vua nhất định đòi chậu tắm. Vua muốn đi đến khu cây cảnh mà đòi tiên-đà- bà, những bầy tôi phải nên biết rằng, chắc chắn nhà vua đòi ngựa. Khi lâm trận đánh nhau mà vua đòi tiên-đà-bà, các bầy tôi phải nên biết rằng, ắt hẳn nhà vua đòi gươm bén. Vua có lời nói bóng khó hiểu như thế, các bầy tôi của vua cũng cần phải biết ý nghĩa ấy.

Như thế, này thiện nam! Giáo pháp bí ẩn Maha-diễn này cũng có bốn thứ. Như nói sự vô thường, điều đó các thiện nam nên biết, Như Lai sinh ra ở cõi Diêm-phù-đề, nên sẽ phải thị hiện Nêhoàn, ấy là tu tập quán tưởng vô thường của Maha-diễn. Nếu Như Lai nói chánh pháp sẽ diệt, thì điều ấy các đệ tử cần phải biết thế này, Như Lai nói sự khổ để tu hành quán tưởng sự khổ của Ma-hadiễn này. Như Lai nói thân là đồ chứa đựng mọi họa hoạn, lại nói ngôi báu Tăng cũng sẽ trở về sự diệt tận, những điều đó các đệ tử hãy nên biết thế này, Phật nói không có cái ta, thì tu quán tưởng vô ngã của Ma-ha-diễn này. Nếu nói vô tưởng, không, vô sở hữu và giải thoát, những điều đó các đệ tử hãy nên biết thế này, Ma-ha-diễn này nói hai mươi lăm cõi mà được giải thoát, cho nên nói không. Mọi nỗi khổ đều diệt nên nói không có sở hữu. Cõi Vô tưởng hết sức vui sướng, sự vô thường biến đổi vốn không thể nào hủy hoại, cho nên gọi là thường trụ, không phải pháp biến đổi, nên biết sự giải thoát tức là Như Lai, Như Lai ấy chính là Như Lai tánh, trong thân của tất cả chúng sinh đều có, người nào biết như thế chính là đệ tử của Ta, khéo hiểu rõ giáo pháp bí mật vi diệu của Như Lai.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như trời hạn hán, cỏ thuốc, hoa thơm, quả ngọt, cây cối thảy đều héo tàn, không kết thành quả trái. Tất cả các cây cỏ mọc ở trên cạn dưới nước khác cũng đều bị khô cạn mà không tươi tốt, lại thêm vào sang năm, cây khó sinh trưởng được nữa. Như thế, này thiện nam! Kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này, sau khi Ta diệt độ, các người đệ tử ấy giống như trời hạn hán, hoa quả không thể nào kết thành trái, như tòa thành bị giặc cướp mất của báu chân thực, chỉ gom giữ trấu cám. Chúng Tỳ-kheo xấu ác đã mất của báu rồi, họ sao chép qua loa, gom góp biên soạn, mà không khéo giải thích ý nghĩa buông thả, kiêu mạn, thoái chuyển. Xót thương thay! Mối hiểm nguy lớn! Trong đời sau này rất đáng sợ hãi. Vui sướng thay! Sự lợi ích lớn! Chúng sinh ở đời sau được nghe qua kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này, tùy theo điều được nghe trong kinh mà thọ trì, phúng tụng, hiểu rõ ý nghĩa và mục đích của kinh ấy rồi giảng nói rộng rãi cho mọi người, nhờ những việc này vị ấy sẽ được Bồ-đề chân thật.

Lại nữa, này thiện nam! Như có đất nước, thành ấp, thôn xóm, ở đó có người bán sữa. Có người đem thứ nước táp-nham để lừa dối người khác mà cầu tiền của, người bán sữa ấy cũng như thế, lấy nước táp-nham bán hết người này qua người khác mà lừa bịp nhau, người mua ăn uống thứ đó song không có mùi vị sữa. Như thế, này thiện nam! Sau khi Ta Nê-hoàn, chánh pháp chưa diệt còn hơn tám mươi năm, ở cõi Diêm-phù-đề kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này lưu hành ở đời. Những vị Tỳkheo xấu ác buông thả biếng nhác, gây bè kết đảng với chúng ma, phá hoại và làm rối loạn chánh pháp. Họ tự tạo ra kinh luận, làm bài kệ tụng khen ngợi, lấy trái cho là phải, lấy phải cho là trái, sao chép lược bỏ, thêm bớt. Vì sự lợi dưỡng nên họ muốn tích chứa nhiều của cải phi pháp, phá hoại và làm rối loạn mùi vị chính khiến cho pháp nhạt nhẽo, lại còn thêm văn tự không chính đáng của học thuyết xằng bậy nữa. Người nhận sự học tập lầm lẫn cũng chẳng tôn trọng và cung kính cúng dường, bên trong ôm lòng nịnh nọt gian tà, vì sự lợi dưỡng nên họ thị hiện tướng ưa thích pháp. Vào lúc đó, kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này sẽ bị những hạng người này làm hủy nhục.

Lại nữa, này thiện nam! Do ý nghĩa này, cho nên thiện nam hay thiện nữ đối với kinh Ma-hadiễn Bát-nê-hoàn hãy nên siêng năng phương tiện lập chí trượng phu. Vì sao? Vì Như Lai tánh là pháp trượng phu. Ý chí của người nữ là đối với tất cả pháp phần nhiều sinh ra sự bám víu, sức không gánh vác nổi để phát khởi ý vị vi diệu của kinh Maha-diễn sâu sắc.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như thân thể con muỗi và con ve tiết ra nước dãi thấm ướt, song không thể nào khiến cho quả đất này thấm ướt. Pháp nữ nhân ấy dường như quả đất nhiều những sự khao khát ái dục. Ví như biển cả, trời đổ mưa xuống và mọi dòng nước chảy của trăm con sông, tất cả đều trở về với biển, thế nhưng biển lớn kia chưa hề tràn đầy. Pháp của nữ nhân cũng như thế, tham lam thụ hưởng năm thứ dục mà không có sự chán đủ. Cho nên, này Ca-diếp! Nếu thiện nam hay thiện nữ muốn được phương tiện lìa khỏi pháp nữ nhân, thì hãy nên chăm chỉ tu tập kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này. Vì sao? Vì kinh Ma-ha-diễn Bátnê-hoàn này nói về pháp trượng phu của Như Lai tánh. Nếu có chúng sinh không biết tự thân có Như Lai tánh, thì thế gian gọi họ là người nữ. Nếu người nữ có thể biết tự thân có Như Lai tánh, thì tuy thế gian gọi họ là người nữ, song Ta nói hạng người này là người nam vậy.

Như thế, này thiện nam! Kinh Ma-ha-diễn Bátnê-hoàn tích tụ vô lượng vô biên công đức, nói rõ chúng sinh có Như Lai tánh. Nếu thiện nam hay thiện nữ muốn được mau chóng thành tựu Như Lai tánh, thì hãy nên chuyên cần phương tiện tu tập kinh này.

Ca-diếp bạch Phật:

– Quý hóa thay! Bạch Thế Tôn! Nay con tu tập kinh Bát-nê-hoàn, ban đầu con biết tự thân có Như Lai tánh, nay mới quyết định chính là nam tử vậy.

Phật bảo Ca-diếp:

– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Này thiện nam! Hãy nên chăm chỉ phương tiện học pháp sâu xa này, giống như con ong chọn lấy hoa, hãy lấy hết vị ngon của diệu pháp sâu xa. Này Ca-diếp! Ví như nước bọt của loài muỗi không thể nào khiến cho quả đất lớn này thấm ướt. Như thế, này thiện nam! Trong đời sau này, chúng Tỳ-kheo xấu ác phá hoại và gây rối loạn kinh pháp, vô số vô lượng như ruộng cạn trên cao, không phải kinh Đại Thừa Bátnê-hoàn này vốn có thể thấm ướt. Vì sao? Vì nên biết rằng, khi chánh pháp diệt tận thì tướng suy hiện ra.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như cuối mùa hạ đầu mùa đông, mưa thu đổ liên miên không ngớt, nước ngập che khuất ao đầm. Như thế, này thiện nam! Kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này, sau khi Ta vào Nê-hoàn, chánh pháp suy diệt. Vào lúc đó, kinh này lưu truyền khắp cả phương Nam, bị mây mưa phi pháp của những học thuyết quái lạ không chính đáng làm chìm đắm trôi giạt. Bấy giờ, vị Bồtát hộ pháp ở phương Nam kia sẽ nắm giữ khế kinh này đi đến nước Kế-tân để cất giấu trong lòng đất, cho đến hết thảy những khế kinh Ma-ha-diễn Phương đẳng ở đây rồi biến mất. Thương thay, lúc ấy tướng pháp diệt tận, mây mưa phi pháp tràn đầy thế gian, người tu tập được thấm nhuần ân đức mưa pháp của Như Lai, Bồ-tát hộ pháp và kẻ hùng mạnh trong loài người thảy đều ẩn náu.

Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Tánh của chư Phật Như Lai, Thanh văn, Duyên giác không có sự sai biệt, xin mong Như Lai giảng nói rộng rãi, khiến cho tất cả chúng sinh đều được mở rộng sự hiểu biết.

Phật bảo Ca-diếp:

– Ví như có người nuôi nhiều bò sữa, làm thành đàn bò với đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng khác nhau. Khi sắp làm lễ tế trời, người ấy tập trung tất cả con bò lại rồi vắt hết sữa của chúng, tích chứa trong một đồ đựng cùng một màu ngọc kha như nhau. Như thế, này thiện nam! Chư Phật Như Lai, Thanh văn, Duyên giác, tính của các vị ấy thanh tịnh đều cùng một màu. Vì sao? Vì các vị ấy cùng dứt bỏ hết mọi phiền não giống nhau.

Ví như người thợ vàng chọn lấy quặng kim loại đủ các thứ màu sắc khác nhau, rồi đem quặng ấy nung chảy và tinh luyện thành một thứ vàng óng không pha tạp. Vì sao? Vì vô lượng vô số quặng thô phiền não đều tiêu diệt, do đó phải nên tin tưởng kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này, tất cả chúng sinh đều có tính chân thật của Như Lai, thảy đều cùng một sắc như nhau.

Ca-diếp bạch Phật:

– Như lời Thế Tôn nói, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh mà không có sự sai biệt. Đối với điều này con chưa được rõ, tạm thời để yên ổn chúng sinh, như Thế Tôn nói, Thanh văn, Duyên giác và các Bồ-tát không được Đại Bát-nê-hoàn, chỉ có Như Lai mới được Đại Bát-nê-hoàn này. Vì thế, phải biết rằng, không phải Thanh văn, Duyên giác và các Bồ-tát giống như Như Lai. Nếu không có sự sai biệt, thì tại sao chỉ có một mình Thế Tôn tu hành phương tiện và tích lũy công đức ở vô lượng a-tăng-kỳ kiếp?

Phật bảo Ca-diếp:

– Điều Ta nói trước đây, đó chính là giáo pháp bí mật phương tiện của Như Lai, nói rằng các Thanh văn chẳng được Nê-hoàn, do đó nên biết rằng, tất cả đều nhờ kinh Đại Bát Nê Hoàn này mà vào Nê-hoàn, chỉ có cảnh giới của Phật, vì thế kinh này tên gọi là Đại Bát-nê-hoàn.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Đó chính là sự khác lạ. Như điều Phật nói,

Thanh văn, Duyên giác và các Bồ-tát đều sẽ trở về sự Nê-hoàn của Như Lai, giống như trăm con sông đổ dồn về biển cả là pháp thường trụ.

Phật bảo Ca-diếp:

– Ta là tối thường trụ vậy. Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Sao gọi là tính của Như Lai không khác mà khác chăng?

Phật dạy:

– Có sự khác nhau. Ca-diếp bạch Phật:

– Sao gọi là khác? Phật bảo Ca-diếp:

– Ví như sữa bò, tánh Như Lai của tất cả Thanh văn cũng như thế; giống như sữa tươi trở thành sữa cô đặc chế, tánh Như Lai của tất cả Duyên giác cũng như thế; giống như sữa cô chế thành bơ, tánh Như Lai của Đại Bồ-tát cũng như thế; giống như đề hồ, tính ấy của chư Phật Như Lai cũng vậy. Như thế, này thiện nam! Đó là bốn thứ sai biệt của kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Tánh ấy của tất cả chúng sinh là thế nào? Phật bảo Ca-diếp:

– Như sữa chưa thành mà hòa hợp cùng với nước và máu, vô lượng phiền não che lấp tính chân thực của Như Lai.

Ca-diếp bạch Phật:

– Như lời Thế Tôn nói, thành Câu-di có người thuộc hạng Chiên-đà-la tên là Hoan Hỷ, người ấy sẽ thành Phật đạo trong số một ngàn Đức Phật ở thế giới này. Thế Tôn ghi nhận, một khi phát khởi ý niệm trong chốc lát thì người ấy liền thành Phật đạo. Vì những cớ gì mà Thế Tôn không ghi nhận Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên v.v... chóng thành Phật đạo?

Phật bảo Ca-diếp:

– Hoặc giả có Thanh văn, cho đến Phật-bíchchi, các Bồ-tát không phát nguyện mau chóng; có người phát nguyện mau chóng để hộ trì chánh pháp, vì hạng người này phát nguyện có sự chênh lệch, nên nhờ sức Bồ-đề, Thế Tôn thụ ký cho người ấy chóng thành Phật đạo.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như người buôn bán chở ngọc báu ma-ni, đi qua đường sá xóm làng của người quê mùa để rao bán đồ quý báu. Những hạng người quê mùa nghe tiếng rao bèn đến nhìn xem của báu song chẳng nhận biết, họ liền cười khanh khách cho đó là gạch đá. Như thế, này thiện nam! Như Lai ghi nhận cho các hàng Thanh văn sẽ thành Phật đạo, được chỗ tốt đẹp hơn hẳn. Vào đời sau này có các Tỳ-kheo phóng túng biếng nhác, không nhận biết của báu chân thật giống như người quê mùa, họ xuất gia với sự nghèo nàn, khốn khổ và tật bệnh, lòng tin nông cạn, làm những việc bị giới luật cấm để mà sinh sống, dua nịnh quanh co. Nếu họ nghe Như Lai trao lời ghi nhận cho hàng Thanh văn nhất định sẽ thành Phật, tức thời họ cười lớn, nên biết hạng đó là người có hình dáng Sa-môn song không phải là Sa-môn chân thật. Cho nên, này thiện nam! Hoặc có người phát nguyện chóng nắm giữ chánh pháp, lại còn có người chẳng phát nguyện chóng nắm giữ nữa, cho nên Như Lai tùy theo sự nhanh hay chậm ấy mà trao lời ghi nhận cho người kia.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát sẽ được quyến thuộc bất hoại?

Phật bảo Ca-diếp:

– Chăm chỉ tu tập phương tiện hộ trì chánh pháp, ấy là Đại Bồ-tát hùng mạnh trong loài người, là quyến thuộc bất hoại.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Những hạng chúng sinh nào không biết sáu mùi vị?

Phật bảo Ca-diếp:

– Không biết Ba ngôi báu tồn tại lâu bền từ đầu đến cuối, đó là những hạng chúng sinh không biết sáu mùi vị. Như người bị đớ miệng nên không biết sự sai khác của sáu mùi vị là ngọt, đắng, cay, chua, mặn, nhạt, hết thảy chúng sinh cũng như thế, họ ngu si không có trí, chẳng biết Ba ngôi báu là pháp trường tồn, cho nên gọi là người không biết mùi vị. Lại nữa, này thiện nam! Những chúng sinh ấy chẳng biết Như Lai là pháp thường trụ, Ta nói hạng người này là mù bẩm sinh. Chúng sinh mắt thịt biết tính của Như Lai chính là thường trụ, Ta nói hạng người ấy tên là Thiên nhãn. Nếu có chúng sinh nghe Ma-ha-diễn mà có thể tin tưởng và ưa thích, Ta nói hạng người ấy cũng gọi là Thiên nhãn. Cho dù chúng sinh có thiên nhãn đi nữa, nhưng không biết Như Lai là pháp thường trụ, Ta nói hạng người này là nhục nhãn. Vì sao? Vì tính của Như Lai thường trụ chân thật, mà người kia không thể chăm chỉ tu tập.

Lại nữa, này thiện nam! Nên biết Như Lai vì tất cả chúng sinh mà làm cha mẹ. Vì sao? Vì Như Lai đều có thể hóa hiện đủ mọi thứ hình loại của tất cả chúng sinh, cùng chung cảnh giới với chúng sinh mà nói pháp cho họ. Như Lai dùng một âm thanh mà thuyết pháp, mọi loài khác nhau kia, mỗi loài đều tự hiểu được. Chúng khen ngợi: Quý hóa thay! Đức Như Lai dùng âm thanh của ta mà nói pháp.

Lại nữa, này thiện nam! Giống như người sinh ra đứa con mới mười sáu tháng, lời nói không đúng. Thế nhưng cha mẹ kia muốn dạy cho con tiếng nói của mình, thì trước tiên họ phải nói giống như âm thanh của con, rồi dần dần chỉ dạy cho con học. Nên biết, cha mẹ không phải thật sự không đúng. Chư Phật Như Lai cũng như thế, vì sự giáo hóa nên chư Phật cùng một hình loại, âm thanh và ngôn ngữ như họ, thế nhưng thực ra Như Lai ấy không giống với họ, mà là phương tiện thị hiện thuận theo thế gian.

Phẩm 18: VUI THEO

Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ gương mặt của mình phóng ra ánh sáng đủ màu sắc chiếu khắp bốn chúng. Ánh sáng chiếu xong, trưởng giả Thuần-đà liền mau chóng kính dâng lễ vật cúng dường Như Lai và đại chúng lần sau cùng.

Lúc này, Thuần-đà cùng với những người quyến thuộc được niềm vui sướng lớn lao, bèn than:

– Thương thay! Thật là hiếm có! Ta cúng dường Như Lai và khó gặp lại lần nữa.

Ông liền lấy cái bát làm bằng đủ các thứ quý báu dựng đầy cơm có mùi vị thượng hạng, rồi cầm bát hướng đến Đức Phật. Đúng vào lúc ấy, có vị trời Đại uy thần như ngăn che trước mặt và bảo với Thuần-đà:

– Ông chớ tùy tiện cúng dường, nguyện xin để cho chúng tôi lại được trông nhìn Đức Như Lai trong giây lát nữa.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại phóng ra ánh sáng chiếu rọi vị Thiên tử kia. Khi ấy, vị thiên thần kia vâng theo thánh chỉ của Đức Phật để cho Thuầnđà tiến lên phía trước. Bấy giờ, hàng trời, người và các chúng sinh lẫn lộn đủ mọi loài, ai nấy đều dùng âm thanh khác nhau, ấp ủ mối bi cảm trong lòng, than khóc xót thương làm chuyển động mặt đất. Họ cùng với Thuần-đà đều dâng cúng Phật và Tăng, cúng dường Đàn Ba-la-mật sau cùng.

Lúc ấy, vì muốn khiến cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheoni và các chúng đến hội họp biết thời giờ đã đến, Đức Thế Tôn lại phóng ra ánh sáng soi chiếu toàn bộ các chúng trong hội. Khi ấy, các Tỳ-kheo biết thời giờ đã đến, ai nấy đều chỉnh đốn uy nghi, nắm giữ đồ ứng khí, giống như phép nhận sự bố thí.

Trưởng giả Thuần-đà bày biện đủ mọi thứ giường nằm và ghế ngồi làm bằng các thứ quý báu dâng lên Đức Phật và Tăng, treo thắt phướn lọng, hương hoa, chuỗi ngọc.

Bấy giờ, ba ngàn đại thiên thế giới cực kỳ trang nghiêm tốt đẹp, giống như đất nước Cực lạc ở phương Tây. Trưởng giả Thuần-đà đứng ở trước Đức Phật, lòng lo buồn tấm tức, bạch Phật một lần nữa:

– Xin nguyện Thế Tôn hãy vì những kẻ đáng xót thương mà sống lâu một kiếp hoặc hơn một kiếp.

Phật bảo Thuần-đà:

– Ông muốn khiến Ta ở lâu trong đời, thì chắc có lẽ ông biết, lúc này hãy nên mau chóng bày biện đồ cúng dường Đàn Ba-la-mật sau cùng.

Thuần-đà bạch Phật:

– Thưa vâng! Bạch Thế Tôn!

Lúc ấy, hết thảy các loài chúng sinh khác nhau, trời, người, Bồ-tát đồng thanh xướng lên:

– Kỳ lạ thay! Thuần-đà làm việc bố thí sau chót. Kỳ lạ thay! Thuần-đà làm việc bố thí hết sức lớn lao, nhưng hiện nay vật dụng cúng dường của chúng ta bày ra ở đây bèn trở thành vật vô dụng.

Ai nấy đều than thở, ân hận, lo buồn, khổ não.

Bấy giờ, tự thân Đức Thế Tôn, mỗi một lỗ chân lông đều hiện ra vô lượng hóa Phật, mỗi một vị hóa Phật đều có quyến thuộc Tỳ-kheo, đáp ứng cho tất cả những vị kia khiến họ được cúng dường. Khi ấy, hết thảy chúng sinh đều rất vui mừng. Lúc ấy, các thức cúng dường do Thuần-đà bày biện được nhờ uy thần của Phật, những vị đến hội họp đều được đầy đủ. Thuần-đà vui mừng rồi suy nghĩ: “Hôm nay, Đức Như Lai và tất cả đại chúng thảy đều nhận sự cúng dường sau chót của ta, rồi sau đó Như Lai sẽ nhập Nê-hoàn”. Những chúng sinh khác cũng suy nghĩ: “Hôm nay, Đức Như Lai cùng với các đại chúng thọ nhận bữa cơm cúng dường sau cùng của ta, rồi sau mới nhập Nê-hoàn, không nhận sự thỉnh cầu nào khác”. Lúc ấy, cạnh khu rừng Kiên-cố, vùng đất ấy nhỏ hẹp, do nhờ thần lực của Phật, nên chỗ như mũi kim đều có vô lượng chư Phật và quyến thuộc ngồi dùng bữa ở trong đó. Bấy giờ, chúng trời người và A-tu-la đều rất vui mừng, nói: “Hôm nay, Đức Như Lai thọ nhận bữa cơm cúng dường sau cùng của ta, rồi sẽ vào Nê-hoàn. Chúng ta sẽ phụng sự chỗ nào nữa đây? Xót thương thay! Chúng ta côi cút không có sự trông nom che chở.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền vì tất cả mọi người mà nói bài kệ:

Các ông chớ buồn than
Phép chư Phật phải thế
Tuy nói là Nê-hoàn
Cũng chưa tận tột cùng.
Pháp thường trụ Như Lai
Ở mãi an ổn nhất
Những kẻ có hồ nghi
Lắng nghe nay Ta nói.
Ta đã lìa tưởng ăn
Thân không hoạn đói khát
Nay Ta sẽ vì ông
Nói pháp vui theo ấy.
Khiến tất cả chúng sinh
Được yên ổn an lạc
Tính chư Phật Như Lai
Pháp thường trụ chân thật.
Nay các ông nghe xong
Nên chăm tu phương tiện
Như quạ và diều hâu
Tính chúng rất trái nhau.
Có thể đi cùng đàn
Đêm dừng vui lẫn nhau
Như Lai coi tất cả
Giống như La-hầu-la.
Cần phải bỏ từ bi
Vào mãi ở Nê-hoàn
Hay khiến đầy rắn độc
Lưới thỏ cùng huyệt ấy.
Như Lai bỏ từ bi
Vào mãi ở Nê-hoàn
Hay khiến cây y lan
Đồng hoa hương trăm lá.
Như Lai bỏ từ bi
Vào mãi ở Nê-hoàn
Hay khiến quả ca-lưu
Vị giống đam-ma-la.
Như Lai bỏ từ bi
Vào mãi ở Nê-hoàn
Hay khiến Nhất-xiển-đề
Đều thành Bình đẳng giác.
Như Lai bỏ từ bi
Vào mãi ở Nê-hoàn
Nếu tất cả chúng sinh
Thành Phật đạo một lúc.
Như Lai bỏ từ bi
Vào mãi ở Nê-hoàn
Giả sử nước muỗi mòng
Thấm hoại đất đai này.
Trăm sông đều chảy tràn
Biển cả đều đầy ắp
Như Lai bỏ từ bi
Vào mãi ở Nê-hoàn.
Các ông những chúng sinh
Vì rất ưa chánh pháp
Bảo Như Lai diệt mãi
Lo buồn rồi than thở.
Từ nay với Như Lai
Đừng niệm tưởng phi thường
Nên biết Như Lai tánh
Trường tồn chẳng biến đổi.
Pháp Tăng cũng thế thôi
Đều không phải pháp diệt.

Như thế, này thiện nam! Ba pháp này là lời nói chân thật, chắc chắn, thường trụ không thay đổi.

Tất cả chúng sinh gặp phải các sự sợ hãi, thuyết chân đế này có năng lực khiến họ yên ổn. Muốn độ tất cả sự hiểm nạn ở đồng trống, thuyết chân đế này có thể khiến cho được độ, thuyết chân đế này có thể làm cho cây khô mọc hoa lá lại. Nếu bốn chúng này nghe ba pháp thường trụ ấy rồi vui theo người nói, giả dụ họ chưa phát ý và không ưa thích hướng về, thì những việc ấy đều là nhân của Bồ-đề. Ba pháp thường trụ, đó gọi là thuyết vui theo một cách chân thành vi diệu nhất của Như Lai. Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni có khả năng hiểu rõ và giảng giải ba pháp thường trụ cho tất cả chúng sinh, nên biết những người ấy có thể thọ lãnh sự cúng dường của tất cả La-hán, nếu khác điều này thì không thể thọ nhận được. Cho đến hết thảy hạng Chiên-đà-la ưa thích nghe thuyết Như Lai tùy hỷ, cũng lại được lìa khỏi các sự lo lắng sợ hãi.

Bấy giờ, hàng trời, người, A-tu-la v.v... nghe nói Như Lai là pháp thường trụ, tâm được vui vẻ, dịu dàng, chân thật, lìa khỏi sự tích tụ và che lấp, tâm được thanh tịnh, vẻ mặt dáng dấp vui vẻ hớn hở như hoa sen nở xòe ra. Họ rải các hoa trời, đốt mọi thứ hương nổi tiếng, đánh trống trời và tấu kỹ nhạc cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo Ca-diếp:

– Này thiện nam! Ông thấy những việc hiếm có gì? Ca-diếp bạch Phật:

– Thưa vâng! Bạch Thế Tôn! Con thấy việc lạ lùng chưa từng có. Con thấy tất cả chư Thiên, dân chúng, A-tu-la bày biện các thức cúng dường, ai nấy đều được Như Lai và các đại chúng thọ nhận thức ăn thức uống của mình. Con lại thấy trong ấy, vùng đất nhỏ hẹp của họ chứa đựng giường nằm và ghế ngồi của các Đức Như Lai và đại chúng. Chỗ một mũi kim nhọn mà lại có vô lượng quyến thuộc chư Phật, rồi các vị thọ nhận sự cúng dường và nói bài kệ vui theo. Những chúng sinh kia, mỗi người chẳng biết nhau, rồi họ cho là Như Lai nhận lời mời của một mình ta. Thế nhưng, nay Thế Tôn và các đại chúng thương xót Thuần-đà mà thọ nhận Đàn Ba-la-mật sau cùng, nhờ thần lực của Phật nên khiến cho đại chúng ở đây đều được đầy đủ, nhưng thực ra Thế Tôn chẳng dùng tay nắm cơm thành nắm để ăn. Chỉ có các vị Đại Bồ-tát, Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi là những bậc hùng mạnh trong loài người mới có thể biết sự phương tiện hiện hóa của Như Lai, vì sự việc lạ lùng chưa từng có này vốn là điều mà hàng Thanh văn và Duyên giác không thể biết. Kỳ lạ quá! Bạch Thế Tôn! Vô số vô lượng Như Lai là pháp thường trụ.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo Thuần-đà:

Ông có thấy sự việc kỳ lạ chưa từng có hay không? Thuần-đà bạch Phật:

– Thưa vâng, con đã thấy. Xưa nay con thấy ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Như Lai trang nghiêm sắc thân, vô lượng vô số Như Lai như thế, cùng với các quyến thuộc Bồ-tát vây quanh. Nay con thấy thân chân thật của Thế Tôn một mình ở giữa đại chúng giống như cây thuốc, cùng với các vị Bồ-tát người trước kẻ sau đi vòng quanh.

Phật bảo Thuần-đà:

– Trước đây chư Phật đều là biến hóa thị hiện, vì sự thương xót và làm an vui cho tất cả chúng sinh mà các Ngài tỏ ra ý ấy, nên khiến cho công đức kia không thể hết được, bèn làm ra sự biến hóa thị hiện này. Thế nhưng các chúng sinh đều không thể biết, chỉ có các vị Bồ-tát thành tựu vô lượng công đức của Bồ-tát, bậc hùng mạnh trong loài người mới có thể biết Như Lai phương tiện biến hóa thị hiện. Thuần-đà, nay ông cũng lại thành tựu công đức của Bồ-tát, thực hành mười địa.

Thuần-đà bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Như thế chúng con đều phải nên tu tập tất cả sự vui theo của Bồ-tát.

Phật bảo Thuần-đà:

– Đừng tùy theo quả tham như khế kinh khác.

Thuần-đà bạch Phật:

– Các khế kinh khác là không phải kinh chăng?

Phật bảo Thuần-đà:

– Những kinh kia nói về Hữu dư.

Thuần-đà bạch Phật:

– Nghĩa ấy thế nào?

Phật bảo Thuần-đà:

– – Giống như điều Ta nói:

Tất cả khen bố thí
Không quở trách người thí
Thí phạm giới phước ít
Thí giữ giới phước tăng.

Ta nói đó là Khế kinh, tuy khen ngợi tất cả sự bố thí, song sự bố thí có chỗ thua kém chênh lệch. Bố thí cho người phạm giới thì không có một tí phước, bố thí cho người giữ giới thì được quả lớn ấy, không phải giống nhau hết thảy.

Thuần-đà bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Tại sao Thế Tôn lại nói bài kệ này, tất cả khen ngợi công đức bố thí?

Phật bảo Thuần-đà:

– Trừ một hạng người khen ngợi tất cả sự bố thí.

Thuần-đà bạch Phật:

– Trừ hạng người nào khen ngợi tất cả sự bố thí?

Phật bảo Thuần-đà:

– Trừ hạng Nhất-xiển-đề, người phạm giới và phỉ báng giáo pháp, còn lại đều khen ngợi tất cả sự bố thí.

Thuần-đà bạch Phật:

– Hạng người nào gọi là Nhất-xiển-đề?

Phật bảo Thuần-đà:

– Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bàdi phỉ báng kinh pháp, miệng nói lời ác, mãi mãi chẳng ăn năn và sửa lỗi, đối với các kinh pháp thì tâm họ không có sự quay về và nương tựa, những hạng người như thế là hướng về con đường Nhấtxiển-đề. Nếu lại có chúng sinh phạm bốn tội nặng và gây ra tội vô gián, tự mình chẳng ăn năn hối lỗi mà không có sự hổ thẹn; đối với chánh pháp, người kia mãi mãi không có sự hộ trì quý trọng, không cùng với người hộ pháp để làm bậc hiểu biết; đối với các việc thiện, họ chưa hề ca ngợi. Nếu lại tà kiến, cho là không có Phật, Pháp, Tăng, Ta nói hạng người này hướng về con đường Nhất-xiểnđề, trừ những loại người này khen ngợi tất cả sự bố thí.

Thuần-đà bạch Phật:

– Sao gọi là phạm giới?

Phật bảo Thuần-đà:

– Phạm bốn giới cấm nặng, năm nghiệp vô gián và phỉ báng chánh pháp.

Thuần-đà bạch Phật:

– Như tội nặng này có sự chênh lệch chăng? Phật dạy:

Có sự chênh lệch. Người kia tuy phạm giới, vẫn còn mặc pháp y mà sinh lòng hổ thẹn: “Ôi chao! Nay ta phạm tội nặng này, kỳ lạ biết bao, sao ta gây ra sự khổ sở to lớn này?”. Thế rồi người ấy ôm nỗi sợ hãi, phát sinh tâm hộ pháp. Ta nên khen ngợi những người hộ pháp. Lại nữa, Ta phải hàng phục những điều phi pháp, đối với kinh Phương đẳng và các thiền Tam-muội, phương tiện, họ chăm chỉ tu tập, nếu như thế thì Ta nói hạng người này là người không phạm giới. Vì sao? Vì giống như ánh sáng mặt trời xuất hiện, thì bụi bặm ngăn che thảy đều chẳng hiện. Như thế, tu tập khế kinh Ma-ha-diễn này như ánh sáng mặt trời, vô số vô lượng những tội tích tụ thảy đều tiêu diệt. Cho nên kinh này nói, người hộ pháp được quả báo lớn, nếu không như vậy thì gọi là phạm giới lớn nhất. Nếu bố thí cho hạng người này thì không có một chút phước.

Lại nữa, này thiện nam! Người phạm bốn điều giới cấm nặng nhưng có thể biết tính của Như Lai chân thật, khởi tâm hộ pháp. Nếu bố thí cho hạng người này, sở dĩ được quả báo lớn lao là thế nào? Ví như có người mẹ, do đất nước rối ren, nên đem một đứa trẻ sơ sinh muốn đi đến nước khác, giữa đường gặp phải trận ngập lụt lớn, nước lũ dâng lên chảy lan tràn, người ấy ôm đứa con mà lội qua, dập dềnh trôi nổi giữa dòng nước chảy xiết, không rời bỏ đứa con mình, cả mẹ và con đều chết đuối. Thế nhưng, người mẹ kia đã từng gây ra việc ác lớn, nhờ công đức bảo vệ đứa con mà được sinh lên cõi trời sau khi thân mạng kết thúc. Như thế, này thiện nam! Người phạm bốn giới cấm nặng và tạo năm nghiệp vô gián, tự hối hận và trách mình một cách sâu xa, khởi tâm hộ pháp. Người ấy vốn gây ra nghiệp không tốt lành, tạo các việc ác, vì sự hộ pháp nên được làm ruộng phước, có thể nhận lãnh đồ vật bố thí của người thiện tín, công đức ủng hộ chánh pháp cũng được quả báo lớn lao.

Thuần-đà bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu hạng Nhất-xiển-đề phát sinh lòng tin trở lại và sám hối tội lỗi với ba bậc tôn quý, nếu người ta bố thí cho người ấy thì được quả lớn hay không?

Phật bảo Thuần-đà:

– Ông chớ nói năng như thế, ví như có người ăn quả am-la, đồng thời lấy hạt của quả ấy chẻ ra rồi mới ăn. Người ấy đem hạt trống rỗng kia gieo vào trong đất, tuy lại tưới tắm, song rốt cuộc cây chẳng mọc được. Cũng như thế, hạng Nhất-xiểnđề kia phá hoại hạt giống tốt lành, muốn khiến cho họ ăn năn hối lỗi để phát sinh lòng tốt của mình, lẽ nào có cái lý đó? Cho nên gọi là hạng Nhất-xiểnđề. Bố thí cho người giữ giới được quả lớn là kết quả cũng không giống nhau. Vì sao? Bố thí cho hàng Thanh văn và Phật-bích-chi, vốn được quả báo đều có sự sai khác nhau. Chỉ có điều là bố thí cho Như Lai thì thu được quả cao nhất, cho nên nói rằng, không phải tất cả sự bố thí đều được quả báo lớn lao.

Thuần-đà bạch Phật:

– Cớ sao Thế Tôn lại nói bài kệ này?

Phật bảo Thuần-đà:

– Có nhân, có duyên. Bấy giờ, ở thành Vươngxá có người Ưu-bà-tắc không có niềm tin, ông ta phụng sự phái Ni-kiền mà lại đến hỏi Ta về ý nghĩa của việc bố thí, Ta thu nhận người kia nên nói bài kệ này cho ông ta. Nên biết rằng, Như Lai phương tiện nói bí mật là vì Bồ-tát, không phải là tất cả đều có thể biết rõ. Cho nên Bồ-tát là bậc hùng mạnh trong loài người, sẽ đối với lời nói hữu dư của Như Lai mà phân biệt nghĩa ấy, hàng phục tất cả những người phạm giới, giống như trừ bỏ cỏ đề và cỏ kê làm hại lúa non tốt tươi.

Lại nữa, này thiện nam! Như bài kệ Ta nói:

Tất cả sông ngòi ắt ngoằn ngoèo
Hết thảy rừng rậm hẳn trồng cây
Tất cả nữ nhân ắt dối nịnh
Hết thảy Đại lực hẳn an vui.

Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục để làm lễ Đức Phật, rồi nói bài kệ:

Không phải mọi sông ắt ngoằn ngoèo
Chẳng phải mọi rừng hẳn trồng cây
Không phải người nữ đều dối nịnh
Chẳng phải Đại lực đều an vui.

Như thế, Đức Thế Tôn nói sơ lược pháp môn không phải là lời nói quyết định. Vì sao? Vì cõi Diêm-phù-đề khác ở ngoài cõi Diêm-phù-đề trong ba ngàn thế giới này có dòng sông ngay thẳng, sự ngay thẳng ấy như sợi dây, từ biển phía Tây ấy thẳng đến biển Đông, như trong Phương Đẳng và A-hàm nói, đó là thuyết hữu dư của Như Lai. Tất cả rừng rậm ắt hẳn trồng cây cối cũng là nói hữu dư. Vì sao? Rừng có hai thứ, cũng có rừng cây báu, vàng, bạc, lưu ly. Tất cả người nữ ắt hẳn nịnh bợ và giả dối cũng là thuyết hữu dư, có các người nữ giữ giới thanh tịnh, tâm của họ chất phác ngay thẳng. Tất cả vị Đại lực ắt hẳn an vui cũng là thuyết hữu dư, Pháp vương Như Lai là vị Đại lực cao nhất, tên gọi là An Lạc, Chuyển luân Thánh vương và các thiên thần cũng gọi là Đại lực, song họ chẳng an lạc. Do đó nên biết rằng, không phải hết thảy những vị Đại lực đều là an lạc. Chỉ có thường trụ, không phải pháp biến đổi, Đại lực Nê-hoàn an ổn diệu lạc. Ví như vị lương y cho người bệnh kia uống vị đề hồ, khi ấy người bệnh kia xin với vị lương y: “Xin ông lại cho tôi thêm thuốc, tôi có thể ăn được”. Người thầy thuốc trả lời: “Chỉ ăn độ chừng như thế, tiêu hóa xong lại ăn nữa. Nếu ăn ngay lập tức mà không tiêu, thì có lẽ có khả năng giết chết người”. Bấy giờ, vị thầy thuốc giỏi kia vì thực sự thương xót người bệnh, sợ người ấy chết, Như Lai cũng vậy, do từ bi thương xót, muốn trừ diệt tâm cao ngạo kiêu mạn của vua Ba-tư-nặc, đại thần và phu nhân, nên nói bài kệ:

Tất cả sông ngòi ắt ngoằn ngoèo
Hết thảy rừng rậm hẳn trồng cây
Tất cả nữ nhân ắt dối nịnh
Hết thảy Đại lực hẳn an lạc.

Nên biết, lời nói của Thế Tôn không có sót quên, như quả đất lớn này có thể làm cho lật ngược, lời nói của Như Lai rốt cuộc không có sự lầm lẫn. Cho nên tất cả hữu dư và vô dư đều là nguyên cớ thâu giữ chúng sinh của Như Lai.

Phật dạy:

– Quý hóa thay! Vì Văn-thù-sư-lợi thương xót tất cả các chúng sinh, cho nên giảng nói rộng rãi về hữu dư và vô dư của Như Lai.

Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi lại ở trước Đức Phật mà nói bài kệ:

Khéo thuận theo người khác
Không quán làm chẳng làm
Chỉ tự quán thân hành
Nhìn kỹ thiện, bất thiện.

Như thế, bạch Thế Tôn! Con nói chánh pháp này cũng lại không phải là lời nói rốt ráo. Vì sao? Chúng ngoại đạo tà kiến đều hướng về địa ngục, thế nhưng Đức Phật Thế Tôn dạy các đệ tử đều hướng về Nê-hoàn. Nếu sinh lên cõi trời thì đây gọi là nói lời chê bai và khen ngợi. Đủ các thứ như thế, Thế Tôn nói chẳng thuận theo. Bạch Thế Tôn!

Tại sao trong bài kệ nói: “Đối với người khác, hãy khéo thuận theo”.

Lúc ấy, Phật bảo Văn-thù-sư-lợi:

– Sở dĩ Ta nói khéo thuận theo là có nhân và có duyên. Khi ấy, vua A-xà-thế làm hại vua cha rồi, bèn đi đến chỗ Ta rồi hỏi: “Bạch Thế Tôn! Tại sao gọi là Nhất thiết trí song không phải Nhất thiết trí? Nếu Nhất thiết trí, thì ở trong trăm ngàn đời, Đềbà-đạt-đa thường ôm lòng ác độc đối với Như Lai, tại sao Như Lai lại cho phép ông ấy được xuất gia?”. Ta liền nói bài kệ này cho vua: “Đối với người khác hãy khéo thuận theo”. Vua A-xà-thế có tội làm hại cha mà chẳng tự mình thức tỉnh. Như Lai muốn khiến cho vua tự tỉnh ngộ lỗi lầm của mình nên làm cho tội ấy nhẹ, nên nói: “Chỉ tự xem xét hành động của bản thân, nhìn kỹ càng là thiện hay không thiện”. Hôm nay, tại sao ông thấy mà không thuận theo? Nếu có người tu hành giữ giới đem lòng từ bi mà quán xét lỗi lầm kia, thì đó chính là pháp của chư Phật Như Lai, muốn làm cho bản thân mình và các chúng sinh thảy đều an lạc, vì thế cần phải quán xét người khác làm hay không làm, bản thân mình cũng vậy, người nào thường quán xét như thế, chính là đệ tử của Ta.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói với Văn-thù-sưlợi:

– Như bài kệ của Ta nói:

Tất cả đều sợ chết
Ai cũng sợ đớn đau
Ví như tha thứ mình
Đừng giết đừng đánh gậy.

Lúc ấy, Văn-thù-sư-lợi lại ở trước Đức Phật mà nói bài kệ:

Không phải đều sợ chết
Tất cả sợ đớn đau
Không ví dụ cho mình
Tha thứ chúng sinh kia.

Như thế, bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói lược pháp môn cũng không phải rốt ráo. Vì sao? Như vật quý báu của A-la-hán và Chuyển luân Thánh vương là đại thần, voi ngựa, ngọc nữ; nếu các hàng trời, người và chúng sinh khác có năng lực làm hại thì thật là vô lý. Dũng sĩ, liệt nữ, ngựa đồng hoang, vua trong loài thú, Tỳ-kheo giữ giới, tuy có đối phó hết sức nhưng không sợ hãi. Tất cả đều sợ chết, không ai là không sợ đau đớn do gậy gộc đánh, đó chính là thuyết hữu dư.

Lại nữa, không thể đem mình để ví dụ người kia. Vì sao? Nếu bậc A-la-hán lấy mình để ví dụ người kia thì gọi là mạng tưởng. Nếu mạng tưởng thì đây không phải bậc thượng sĩ. So đo suy tính về mạng tưởng là kẻ phàm phu ngu si và tà kiến hướng về cửa nơi cõi ác.

Lại nữa, bậc La-hán, ta và chúng sinh rỗng lặng không có sở hữu, thì ai chết, ai giết, người nào khởi ý tưởng làm hại, lẽ nào có cái lý đó? Thế những điều người kia nói mà ta làm ví dụ, là dụ có ngã, hay là dụ không có ngã? Nếu đó là dụ ngã thì gọi là thấp kém. Nếu dụ không có ngã thì đó là bậc Ala-hán, không có thí dụ. Nhưng Đức Phật Thế Tôn không căn cứ vào sự việc không có nguyên nhân mà thuyết pháp xằng bậy. Tại thành Vương-xá có người thợ săn hành nghề giết sinh vật, ông ta cúng thí mời Phật và chư Tăng, chỉ có niềm ước mong chư vị thương xót thọ nhận. Thế nhưng, Đức Phật Thế Tôn chưa hề ăn thịt, xem hết thảy là bình đẳng như La-hầu-la, lập tức Phật nói bài kệ này cho người thợ săn:

Phật dạy:

Nên xem người sống lâu
Vì không hại chúng sinh
Tất cả đều sợ chết
Ai cũng sợ đánh đau
Ví như tha thứ mình
Đừng giết, đừng đánh gậy.

– Này Văn-thù-sư-lợi! Ông là tiên trong loài người, làm an ổn cho chúng sinh, khéo nói giáo pháp bí mật phương tiện của Như Lai.

Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi lại nói kệ:

Cung kính với cha mẹ
Tăng thêm sự cúng dường
Vì duyên đạo hiếu này
Chết đọa ngục Vô trạch.

Bạch Thế Tôn! Bài kệ này nói lấy sự vô minh ân ái làm cha mẹ, chúng sinh thuận theo khiến cho nó tăng trưởng rồi gây tạo các nghiệp xấu ác. Khi chết lập tức sẽ đọa vào địa ngục Vô trạch.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói với Văn-thù-sưlợi:

– Như bài kệ Ta nói:

Tất cả khổ do thế lực khác
Hết thảy sức mình vui tự tại
Tất cả thế kiêu mạn làm hại
Hết thảy hiền thiện được người thương.

Văn-thù-sư-lợi lại nói bài kệ:

Không phải mọi khổ do tha lực
Chẳng phải sức mình vui tự tại
Không phải kiêu mạn là hung bạo
Chẳng phải hiền thiện được người thương.

Đây quả là Thế Tôn nói sơ lược pháp môn hiện thời, chứ không phải rốt ráo. Vì sao? Giống như con cái hạng thường dân theo thầy học, việc cúi ngửa hay tiến lên, dừng lại đều do ở nơi thầy. Đạo đức và nghệ thuật đã hoàn thành thì mãi mãi được an lạc, như con cái hạng vương giả, sức lực của mình tự tại, không theo sự dạy bảo của người khác, ngu tối thường khổ. Sở dĩ Như Lai nói bài kệ này là vì những chúng sinh ấy bị ma nắm giữ, chẳng được tự tại. Như Lai vì những người kia mà nói bài kệ này, do đó nên biết rằng, không phải vì tất cả tha lực cho nên khổ, cũng chẳng phải vì tất cả sức lực của mình cho nên vui. Tất cả thế lực kiêu mạn làm hại, đây cũng là thuyết hữu dư, không phải hết thảy sự kiêu mạn là làm hại hoàn toàn. Giống như có người kiêu mạn, phách lối tục tằn, người ấy xuất gia học đạo, hoặc suy tính phước đức giữ giới thanh tịnh, nên biết rằng, hạng người này tuy là kiêu căng ngạo mạn, song không phải là bạo hại. Tất cả sư hiền thiện là điều mọi người yêu mến cũng là thuyết hữu dư, như người phạm bốn điều cấm nặng trong giáo pháp của mình, song có thể tự cố gắng nắm giữ uy nghi, tuy tu hạnh nghiệp của bậc Hiền thánh, nhưng do phá hoại chánh nghiệp nên mọi người chẳng yêu thương. Nguyên nhân nào mà Đức Thế Tôn nói bài kệ này?

Bấy giờ, Phật bảo Văn-thù-sư-lợi:

– Chư Phật Như Lai không căn cứ theo sự việc không có nguyên nhân mà thuyết pháp xằng bậy. Khi ấy, tại thành Vương-xá có người con gái của Câu-lân (biệt danh của A-nhã Kiều-trần-như) tên là Tu-bạt-đà-la chán ghét thế tục, bèn đi đến chỗ Phật muốn cầu xin xuất gia. Phép tắc của người con gái không được tự tại, hạn chế bởi người con trai, nên người con gái ấy tự quay về với Ba ngôi báu. Phật biết ý của người ấy, cũng biết chính lúc ấy mà nói bài kệ này, tất cả nỗi khổ là do thế lực của người khác. Hay thay! Hay thay! Văn-thù-sưlợi là tiên ở trong loài người, có thể hỏi về giáo pháp bí mật phương tiện của Như Lai.

Văn-thù-sư-lợi lại nói kệ:

Tất cả loài chúng sinh
Đều sống nhờ ăn uống
Hết thảy những trẻ thơ
Không có tâm bủn xỉn.
Tất cả các thế gian
Ăn cơm nắm thêm bệnh
Hết thảy người hành pháp
Cùng dừng, được an lạc.

Như thế, bạch Thế Tôn! Nay Thế Tôn thọ nhận bữa cơm cúng dường của ông Thuần-đà, sẽ không tăng thêm bệnh hoạn.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại vì Văn-thù-sư-lợi mà nói kệ:

Không phải mọi chúng sinh
Đều sống nhờ ăn uống
Không phải mọi trẻ thơ
Không có tâm bủn xỉn.
Chẳng phải mọi thế gian
Ăn cơm nắm thêm bệnh
Không phải mọi hành pháp
Cùng dừng được an lạc

Này Văn-thù-sư-lợi! Ông mắc bệnh như Ta mắc bệnh. Các A-la-hán, cho đến Phật-bích-chi, Bồ-tát, Như Lai thảy đều không dùng tay nắm cơm thành nắm để ăn, đây chính là phép tắc nhất định của chư Phật Như Lai. Nếu nói rằng, La-hán và Phật-bích-chi, Bồ-tát, Như Lai đã từng dùng tay nắm cơm thành nắm để ăn là phá hoại ý nghĩa Đại sĩ mà thọ nhận trăm ngàn sự bố thí của chúng sinh, Ta khen ngợi tất cả công đức bố thí, vì muốn cứu giúp chúng sinh, đưa họ qua biển khổ không bờ của ba con đường ác. Mặc dù không ăn bằng cách vo thành nắm, nhưng Ta thường ca ngợi sự bố thí, muốn khiến cho chúng sinh thành tựu Đàn Ba-lamật. Ta ngồi trang nghiêm dưới gốc cây, sáu năm tu khổ hạnh, lẽ nào nói rằng không ăn mà hình dáng gầy còm chăng? Đừng cho rằng Như Lai và chúng sinh cùng số mạng. Như Lai đã vượt qua các dòng ái dục, không giống như cảnh giới hành xử của người đời. Cảnh giới của Như Lai không thể nghĩ bàn, hàng đệ tử Thanh văn cũng như thế, nói rằng ăn bằng cách vo thành nắm ấy là thuyết hữu dư. Tất cả trẻ sơ sinh xa lìa sự keo kiệt, cũng là thuyết hữu dư, bởi vậy mới có vô lượng kẻ mãi mãi lìa khỏi tâm bủn xỉn, không có sự tán động trong tâm và được khoái lạc. Tất cả những ai ăn bằng cách vo thành nắm tăng thêm bệnh cũng là thuyết hữu dư, bệnh tật từ bên ngoài đưa vào như vết thương do kiếm đâm, số ấy vô lượng. Hết thảy pháp tu hành cùng dừng lại chỗ an vui cũng là thuyết hữu dư của Như Lai. Pháp ấy có nhiều loại, cũng có việc tu tập pháp thiện của thế tục. Nghiệp thân, miệng, ý đủ các thứ pháp thanh tịnh, đủ mọi lòng tin, thế nhưng cùng dừng lại giống nhau và chẳng thuận theo với nhau. Bởi thế hãy nên biết rằng, chư Phật Như Lai không căn cứ vào sự việc không có nhân duyên cho nên nói trái với ý nghĩa, vì sự giáo hóa nên phương tiện thuyết pháp.

Khi ấy, có vị Phạm chí Bán-đầu và những người bạn cùng nhau chấm dứt việc tu tập phép chay ở đền thờ các vị thần thuộc cõi trời Đại tự tại, họ đi đến chỗ Phật. Để hàng phục những người kia, khiến cho họ buông bỏ kiến giải khác lạ, Ta nói bài kệ này.

Bấy giờ, Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế Tôn dạy thế nào, các khế kinh khác đều là thuyết hữu dư của Như Lai chăng? Phật dạy:

– Không phải vậy. Này thiện nam! Nếu chúng sinh có công đức thành tựu và khéo hiểu rõ giáo pháp sâu xa, Như Lai sẽ vì người đó mà nói pháp thường trụ an lạc vô dư. Các chúng sinh khác ưa thích nghe pháp, Như Lai sẽ vì những người kia mà giảng, hoặc là thuyết hữu dư, hoặc là thuyết vô dư.

Ca-diếp rất vui mừng bạch Phật:

– Kỳ diệu thay! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn xem chúng sinh đều bình đẳng dường như đứa con một. Phật bảo Ca-diếp:

– Quý hóa thay! Này thiện nam! Cần phải hiểu kỹ pháp cực kỳ huyền diệu như thế.

Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Xin ước mong Như Lai hãy nói về công đức sở đắc của kinh Phương Đẳng Bátnê-hoàn này.

Phật bảo Ca-diếp:

– Kinh Ma-ha-diễn Bát-nê-hoàn này, người nghe tên kinh ấy là đã có được công đức, không phải là hàng Thanh văn và Phật-bích-chi mới có thể nói một cách rốt ráo. Công đức của kinh Maha-diễn Bát-nê-hoàn này phát sinh không thể nghĩ bàn, chỉ là cảnh giới của chư Phật Như Lai.

Bấy giờ, chư Thiên, người đời và A-tu-la liền ở trước Đức Phật, một lòng đồng thanh ca tụng bằng kệ:

Như Lai Thiên Trung Thiên
Sâu xa khó nghĩ bàn
Điều Như Lai giảng nói
Kinh Phương Đẳng Nê-hoàn.
Sinh ra các công đức
Cũng chẳng thể nghĩ bàn
Chánh pháp khó nghĩ bàn
Ngôi báu Tăng cũng thế.
Xin mong Thiên Trung Thiên
Thương xót ở ít lâu
Vị Thượng tọa Ca-diếp
Quyến thuộc đến chốc lát.
Tôn giả A-nan-đà
Đại tiên sĩ nghe nhiều
Và Ma-kiệt-đề vương
Quốc vương A-xà-thế.
Họ đối với Như Lai
Đệ tử thân mật nhất
Các hạng Chánh sĩ kia
Ắt hoài nghi tưởng lầm.
Vì Như Lai Nê-hoàn
Gánh vác đời lâu bền
Tâm hạng này hoài nghi
Do đâu mà quyết định.
Nguyện thường trụ chốc lát
Đợi họ đến quyết nghi.

Lúc này, Đức Thế Tôn vì các đại chúng mà nói kệ:

Những người ôm nghi hoặc
Các ông chớ âu lo
Pháp Ta sinh con trưởng
Thượng tọa Đại Ca-diếp.
Bậc nghe nhiều A-nan
Chốc lát nữa họ đến
Cần cho họ gặp Ta
Ta sẽ vào Nê-hoàn.
Như bậc trí tuệ này
Xem đôi chân Như Lai
Họ tự biết thân Ta
Thường, vô thường chân thật

Bấy giờ, hết thảy đại chúng và quyến thuộc cúng dường hàng tơ lụa cõi trời và chiếc lọng trang sức bằng hoa cho Đức Như Lai, đốt các loại hương thơm nổi tiếng, tấu kỹ nhạc cõi trời, số ấy vô lượng không thể lấy gì làm ví dụ được. Cúng dường Đức Phật xong, các hàng chúng sinh đông bằng muôn lần số cát sông Hằng phát tâm A-nậu-đa-la-tammiệu-tam-bồ-đề, trụ ở trụ địa đầu tiên của hàng Bồtát. Trưởng giả Thuần-đà vui mừng hớn hở, như lấy cam lộ Bồ-đề để rót lên đỉnh đầu của mình.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo Pháp vương tử Vănthù-sư-lợi, Bồ-tát Ca-diếp và Bồ-tát Thuần-đà:

– Này thiện nam! Các ông hãy tự tu tâm mình, cẩn thận chớ buông lung. Nay Ta đau lưng, cả mình mẩy đều nhức nhối, Ta cần muốn nằm yên.

Này Văn-thù-sư-lợi! Ông nên thuyết pháp cho tất cả bốn chúng, chánh pháp của Như Lai nay Ta giao phó cho ông, ngay cả Thượng tọa Ma-ha Cadiếp và A-nan-đà, ông nên giảng thuyết rộng rãi. Ngay sau đó, vì sự giáo hóa chúng sinh, Đức Thế Tôn thị hiện thân thể mắc bệnh, hông bên phải chạm đất, thu thúc ý niệm theo tư tưởng sáng suốt


[Đầu trang]


[Mục lục bộ Niết Bàn][374][375][376][377][378][379][380][381][382][383][384][385][386][387][388][389][390][391][392][393][394][395][396]


[Mục lục tổng quát]