TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ NIẾT BÀN (374 - 392)

SỐ 384 - KINH BỒ TÁT TÙNG ĐÂU THUẬT THIÊN GIÁNG THẦN MẪU THAI THUYẾT QUẢNG PHỔ

(KINH BỒ TÁT XỬ THAI)

Hán dịch: Đời Diêu Tần, Sa-môn Trúc Phật Niệm, người đất Lương Châu.

MỤC LỤC

QUYỂN 1

Phẩm 1: THIÊN CUNG

Phẩm 2: DU BỘ

Phẩm 3: THÁNH ĐẾ

QUYỂN 2

Phẩm 4: PHẬT THỌ

Phẩm 5: TAM THẾ ĐẲNG

QUYỂN 3

Phẩm 6: TƯỞNG - VÔ TƯỞNG

Phẩm 7: TRỤ - BẤT TRỤ

Phẩm 8: BÁT CHỦNG THÂN

Phẩm 9: TOÀN THÂN XÁ LỢI

Phẩm 10: THƯỜNG - VÔ THƯỜNG

QUYỂN 4

Phẩm 11: TÙY HỶ

Phẩm 12: NGŨ ĐẠO TẦM THỨC

Phẩm 13: CHƯ PHẬT HÀNH TỀ VÔ SAI BIỆT

Phẩm 14: HÀNH ĐỊNH BẤT ĐỊNH

QUYỂN 5

Phẩm 15: CHÚNG SINH NHẬP LỤC ĐẠO

Phẩm 16: CHUYỂN PHÁP LUÂN

Phẩm 17: NĂM THẦN THÔNG

Phẩm 18: THỨC TRỤ XỨ

Phẩm 19: THIỆN QUYỀN

QUYỂN 6

Phẩm 20: VÔ MINH

Phẩm 21: KHỔ HẠNH

Phẩm 22: TỨ ĐẠO HÒA HỢP

Phẩm 23: Ý

Phẩm 24: ĐỊNH Ý

Phẩm 25: QUANG ẢNH

QUYỂN 7

Phẩm 26: PHÁ TÀ KIẾN

Phẩm 27: VĂN THÙ THÂN BIẾN HÓA

Phẩm 28: BÁT HIỀN THÁNH TRAI GIỚI

Phẩm 29: NĂM LẠC

Phẩm 30: KHẨN ĐÀ LA

Phẩm 31: HƯƠNG ÂM THẦN

Phẩm 32: ĐỊA THẦN

Phẩm 33: NGƯỜI

Phẩm 34: HÀNH

Phẩm 35: PHÁP TRỤ

Phẩm 36: PHỤC BẢN HÌNH

Phẩm 37: XÂY THÁP

Phẩm 38: XUẤT KINH


QUYỂN 1

Phẩm 1: THIÊN CUNG

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật ở giữa rừng Song Thọ, phía Bắc thành Già-tỳ-la-bà-đâu, thuộc dòng họ Thích-ca, sắp xả thân mạng để nhập Niết-bàn. Vào giữa đêm mồng tám tháng hai, Đức Phật đích thân gấp các y Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng và An-đà-labạt-tát làm ba lớp, trải trong kim quan rồi nằm lên trên, chân xếp chồng lên nhau, lấy bát, tích trượng trao cho Tôn giả A-nan.

Tám vua ở nước lớn đều đem năm trăm tấm vải trắng tẩm hương chiên-đàn đặt hết vào trong kim quan, dùng năm trăm tấm vải quấn kim quan lại rồi đem năm trăm cỗ xe chở hương tô-du để rưới trên vải trắng.

Bấy giờ, Đại Phạm Thiên vương đưa các Phạm chúng đứng bên phải, Thích-đề-hoàn-nhân dẫn chư Thiên Đao-lợi đứng bên trái, Đại Bồ-tát Di-lặc và các Bồ-tát có thần thông ở mười phương đứng ở phía trước.

Khi sắp nhập Tam-muội Kim cang “Toái thân xá-lợi”, Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Lành thay pháp không thể nghĩ bàn! Ta đã chuyển pháp chân thật ấy ở thế giới Ta-bà”.

Sau khi suy nghĩ như vậy, thế giới khắp mười phương đều chấn động đủ sáu cách. Lúc này, Đức Thế Tôn từ trong kim quan duỗi cánh tay sắc vàng ròng ra bên ngoài, hỏi Tôn giả A-nan:

– Tỳ-kheo Ca-diếp đã đến chưa? Tôn giả A-nan thưa:

– Bạch Thế Tôn! Chưa. Đức Thế Tôn lại hỏi:

– Tỳ-kheo Ngưu-thi đã đến chưa? Tôn giả Anan thưa:

– Bạch Thế Tôn! Vị ấy đã nhập Niết-bàn trên cõi trời, chỉ đem đến ba y và bình bát.

Phật bảo bốn chúng:

– Nay Ta vĩnh viễn diệt độ.

Ngài liền vén vải vào trong kim quan, im lặng không nói, như vậy ba lần, rồi đưa tay ra hỏi Tôn giả A-nan và bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cùng tám vua nước lớn, tám bộ chúng Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tula, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân và phi nhân:

– Thế nào, này Tôn giả A-nan! Kinh Phương Đẳng Đại Thừa Ma Ha Diễn mà Ta trước sau đã đưa ra, ông có thông đạt hết chăng?

Tôn giả A-nan thưa:

– Bạch Thế Tôn! Con biết.

Đức Phật nói như vậy ba lần và hỏi Tôn giả Anan:

– Khi ở cung trời Đao-lợi, Ta giảng nói pháp cho mẫu hậu Ma-da, ông cũng biết chăng?

Tôn giả A-nan thưa:

– Bạch Thế Tôn! Con không biết. Phật hỏi Anan:

– Thế nào, này A-nan! Khi ở Long cung, Ta giảng nói pháp cho Long vương, có vô số ức ngàn Long chúng đều đắc đạo, lưu lại toàn thân xá-lợi một trăm ba mươi trượng, ông có biết không?

Tôn giả A-nan thưa:

– Bạch Thế Tôn! Con không biết. Đức Phật dạy:

– Thế nào, này A-nan! Ta ở trong thai mẹ mười tháng, đã giảng nói cho các Bồ-tát về pháp Bất thoái chuyển khó có, là hạnh không thể nghĩ bàn, ông có biết không?

Tôn giả A-nan thưa:

– Bạch Thế Tôn! Con không biết. Phật dạy Anan:

– Ông hãy lắng nghe cho rõ và suy nghĩ cho thật kỹ. Bây giờ Ta sẽ phân biệt rõ ràng từng chi tiết và hạnh khó có của Bồ-tát Đại sĩ.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con xin muốn được nghe. Phật dạy A-nan:

– Cách đây về phương Đông nam một ức một vạn một ngàn sáu mươi hai Hằng hà sa cõi, có thế giới tên Tư Lạc, Phật ở cõi ấy hiệu là Hương Diễm gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hiện nhập Niết-bàn mà đến cung trời Đao-lợi này, trải qua vô số a-tăng-kỳ kiếp đã ba mươi sáu lần làm Đại Phạm Thiên vương, ba mươi sáu lần làm thân Đế thích, ba mươi sáu lần làm Chuyển luân vương, chúng sinh được hóa độ không rơi vào hàng Nhị thừa và các đường ác. Vì sao? Vì tất cả đều do thần thông trí tuệ của Phật chiêu cảm tạo được.

Thế nào, này A-nan! Như Lai có ở trong thai hay không ở trong thai? Tôn giả A-nan thưa:

– Bạch Thế Tôn! Thân Như Lai không ở trong thai. Phật dạy A-nan:

Nếu Như Lai không ở trong thai thì làm sao nói Như Lai mười tháng ở trong thai để chỉ dạy giảng nói pháp?

A-nan thưa:

– Bạch Thế Tôn! Có ở trong thai cũng là vắng lặng, không ở trong thai cũng lại là hoàn toàn vắng lặng.

Khi ấy, Đức Thế Tôn dùng thần túc hiện ra mình đang ở trong thân của mẫu hậu Ma-da, đang nằm, ngồi, kinh hành, trải đại cao tòa ngang rộng tám mươi do-tuần, lan can bằng vàng bạc, dùng lụa trời, lọng trời treo trên hư không, trỗi những kỹ nhạc không thể tính kể. Lại dùng thần túc đi từ phương Đông đến thế giới Ta-bà này có cả một vạn tám ngàn cõi, Bồ-tát Đại sĩ đều vân tập đến.

Phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng cũng như vậy.

Ở phương dưới có sáu mươi hai ức cõi, các Bồtát dùng thần thông đến dự đại hội.

Phương trên có bảy mươi hai ức không giới Bồtát cũng đến tập hợp ở trong thai.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi từ tòa ngồi đứng dậy, đến bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại sĩ Bồ-tát vân tập đến đây là muốn nghe Thế Tôn giảng nói pháp không thể nghĩ bàn, các môn Tam-muội, các môn Đà-lani. Tam-muội Nhất tướng, Tam-muội Không, Tam-muội Đạo tánh, Tam-muội Chân thật, Tammuội Hư không vương, Tam-muội Thệ tập tự, Tam-muội Thọ tánh, Tam-muội Hành tích, Tammuội Hàng ma, Tam-muội Trừ uế ô... Cả ức ngàn na-do-tha Tam-muội như vậy thì hôm nay Như Lai nhập vào Tam-muội nào ở nơi thai để nói pháp không thể nghĩ bàn cho các Đại sĩ?

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù:

– Ông hãy quan sát Bồ-tát nơi các quả vị Nhất trụ, Nhị trụ, cho đến Thập trụ - Nhất sinh bổ xứ, tất cả đều đứng theo quả vị của mình, không có lẫn lộn. Vì sao? Vì nay Ta sắp giảng nói pháp không thể nghĩ bàn cho các Đại sĩ nên đại chúng này đều thanh tịnh, không xen tạp, cũng không ô uế.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn với pháp âm thanh tịnh, nói kệ:

Xưa nay vô số kiếp
Thành vô số thân Phật
Nay nhập lại bào thai
Nhằm độ các chúng sinh.
Thân hành tịnh, không ác
Khẩu hành không dối trá
Ý hành luôn từ bi
Đạo Bồ-tát thanh tịnh.
Thương xót loài chúng sinh
Luôn ở bốn sông lớn
Chấp thường và đoạn diệt
Hồi hướng đạo Bồ-đề.
Được thân này rất khó
Đừng sinh tưởng ô uế
Nghĩ thân như gò mả
Nơi dã can rình rập.
Kẻ ngu quá chấp trước
Đắm vào ái không bỏ
Thân này không trở lại
Ngày đêm dục rúc rỉa.
Chín khổ là then chốt
Như bình đẹp đựng phân
Bị khát dục hành hạ
Vì sao sinh khổ não.
Như biển chứa các sông
Kẻ ngu cho là thật
Thân chẳng phải kim cang
Đừng làm nhiều hạnh ác.
Thọ thân thì phải chết
Sao không mau hành đạo
Nếu người sống ức kiếp
Họ còn phải bỏ dục.
Huống sống chẳng đủ trăm
Sao không biết dừng lại?
Người ngu luôn khen mình
Thân này nhờ phước trời.
Mình nên hưởng vui thích thú
Nhưng chưa vui liền chết
Dục này không lâu dài
Người trí không nắm giữ.
Người nào muốn bỏ dục
Tuệ quán mười vô tưởng
Dục là pháp chẳng thật
Sinh diệt như bọt nước.
Là vật ảo thuật tạo
Biến hiện rất nhiều hình
Kẻ ngu cho là thật
Tìm sự thật không được.
Tánh không vốn tự không
Đầu cuối không sinh diệt
Phân biệt định vô tưởng
Dẹp sạch lậu chúng sinh.
Văn-thù! Ông nên biết
Hội vô lậu mười phương
Ta nhập định lưu ly
Giảng rộng pháp Phương Đẳng.
Hà sa Phật mười phương
Nói như Ta không khác
Thương các loài quần manh
Ở mãi trong nhà lửa.
Ra khỏi thai, vào lại
Chết đây lại sinh kia
Chư Bồ-tát mười phương
Chứa hạnh hằng sa kiếp.
Dù ở cõi Ta-bà
Kiếp năm trược khổ não
Như mười phương cõi Ta
Phương ấy bằng cõi này.
Xoay tròn trong năm đường
Thọ tội khổ đau dữ
Giải không tướng vô định
Cũng không có bản tế.
Nghĩa hoàn toàn một tướng
Tánh nó vốn vắng lặng
Luôn tưởng không sinh diệt
Hữu dư và vô dư.
Xưa Ta phát nguyện lớn
Thọ thai khắp năm đường
Trong hóa, thấp, noãn, thai
Cũng nói pháp hiếm có.
Ai chấp trước năm ấm
Dạy họ vô sở hữu
Mười hai pháp kết nhau
Si, hành gốc sinh tử.
Rơi trong bốn điên đảo
Dạy họ bốn chân thật
Khổ đế không có đế
Tập, tận, đạo cũng vậy.
Dục, ngã, giới, kiến, thọ
Cũng giống như bốn ái
Phân biệt tánh chân thật
Như hư không vắng lặng.
Tuy qua bờ sinh tử
Không trụ vào Niết-bàn
Nay ở trong thai mẹ
Nói pháp độ quần sinh.
Trong quốc độ Ta-bà
Vô số hằng hà sa
Ở trong thai nói pháp
Cứu độ a-tăng-kỳ.
Hư không, không ranh giới
Cõi Phật cũng như vậy
Chúng sinh thọ thần thức
Tánh chân thật khác nhau.
Đem tuệ sáng giáo hóa
Tùy theo loại mà độ
Hoặc hiện thân để độ
Nghe tiếng được giải thoát.
Hoặc tư duy về khổ
Tập đế tận gốc đạo
Tư duy bốn ý chỉ
Đoạn ý, bốn thần túc.
Năm căn và năm lực
Lấy bảy giác làm hoa
Tám phẩm đạo Hiền thánh
Dùng để trang nghiêm thân.
Phân biệt ngã không kia
Vô tưởng tuệ tịch tĩnh
Không mong có chốn cầu
Luôn trụ không, vô tuệ.
Sơ nhập định hữu giác
Quán ba mươi bất tịnh
Nghịch thuận đều tỉnh giác
Nhập định giải không quán.
Chín định nhập lần lượt
Phân biệt không giác quán
Lại vui diệt tận đạo
Sơ định đủ năm pháp.
Ý hỷ lạc đã diệt
An ổn nhập bốn pháp
Các Đại sĩ trí tuệ
Không hành theo điều này.
Vì các thứ phiền não
Ứng trực trước chúng sinh
Qua nhiều kiếp thiền định
Thân gầy như cây khô.
Xông ướp hương tam thiền
Năm chi không rời rã
Tuệ Phật không thể lường
Nơi có cũng chẳng có.
Bậc Chánh giác Vô thượng
Không sinh, cũng không tử
Khi thành Phật đến nay
Ta du quán Tam thiền.
Nếu nhập vào Tứ thiền
Không nói nhưng được độ
Ta quán cõi hư không
Chúng sinh không chỗ tựa.
Thần, lực, trí chư Phật
Mới biết tận nguồn gốc
Những vị học đoạn lậu
Chưa phân biệt được hết.
Phẩm đạo rất thâm diệu
Nhị thừa không thể biết
Ta quán bằng thiên nhãn
Tuệ nhãn và Phật nhãn.
Do bốn thức thọ hình
Nếu hóa hiện trong đó
Địa, thủy, hỏa hình sắc
Cũng không thể quán thấy.
Chư Phật có thần lực
Đều khiến đến bờ kia
Các cõi Phật mười phương
Hằng sa a-tăng-kỳ.
Lấy đạo tuệ làm gốc
Dạo ở cõi hư không
Nếu như dùng nhục nhãn
Quán không giới chúng sinh.
Miệng thở hơi vào khắp
Vô số chúng sinh vào
Khi ấy những loài này
Đều được thành kiến đạo.
Nên biết pháp thân Phật
Chân thật không nghĩ bàn
Phật chủ tướng ba cõi
Thương cứu thảy chúng sinh.
Cõi Dục, Sắc, Vô sắc
Để chứng được đạo tuệ
Không còn lòng dâm, nộ
Và dòng họ nhà si.
Thấy hình liền nhập đạo
Đâu cần học, vô học
Vô lượng các cõi Phật
Thành đạo đều khác nhau.
Có vị từ hữu tưởng
Có vị từ vô tưởng
Không tu tập lại nữa
Chân như bốn Thánh đế.
Bồ-tát quán thanh tịnh
Nhập thiền không chướng ngại
La-hán, Phật-bích-chi
Nhập định đều khác nhau.
Đời đời không còn sinh
Thì đâu có gốc sinh
Kẻ ngu si chấp trước
Cho sinh đó là ngã.
Chúng ta tự xưng ngã
Không thấy có ngã sở
Bồ-tát hành Tứ thiền
Duyên giác không thể biết.
Bồ-tát nhập Sơ thiền
Ba mươi hạnh vô lậu
Trăm bảy định Tam-muội
Thở ra vào đều đặn.
Nhị định bảy mươi hai
Tự quán vô ngã tưởng
Dù qua bao kiếp khổ
Cũng không lìa thiền hành.
Bốn trụ đoạn các lậu
Mới đạt Nhị thiền này
Vì do dự sáu trụ
Nhập định như sóng nước.
Tám vạn bốn ngàn hạnh
Vẫn còn không kìm chế
Ta vốn đối sáu trụ
Thoái chuyển mười hai kiếp.
Luôn sinh khởi tưởng lạc
Luân hồi vực sinh tử
Được Đức Phật Định Quang
Ký biệt tâm kiên cố.
Lập chí không thoái lui
Nên mới đạt Tam thiền
Đoạn trừ bảy vạn cấu
Diệt sạch hết gốc rễ.
Sư tử vô úy bước
Xiển dương đại pháp điển
Dạo hết các cõi Phật
Lễ lạy, thờ cung kính.
A-tăng-kỳ quá khứ
Chư Phật các Thế Tôn
Đều ở cõi của mình
Thệ nguyện làm Phật sự.
Dù tâm không thoái chuyển
Luôn sợ đọa nẻo kém
Cả ức ngàn chúng sinh
Không làm động mảy lông.
Hành vượt qua bất trụ
Thẳng vào đạo Bồ-đề
Những thú vui tham đắm
Diệt hẳn, không tưởng nhớ.
Trừ thầy, tổ, cha mẹ
Còn lại không luyến nhớ
Mới thành hành Nhất thiền
Gọi: Thí độ vô cực.
Hành quán không ai bằng
Cửu địa thông bản tuệ
Không nhập vào diệt tận
Đến nơi tòa thành Phật.
Làm duyên cho chúng sinh
Đi đến nơi cây Phật
Độ cả a-tăng-kỳ
Tập hợp tại đạo tràng.
Mười phương vô lượng cõi
Chư Đức Phật Thế Tôn
Đều duỗi thả tay phải
Lành thay Đại sư tử!
Mười lực, vô sở úy
Nhập sâu vào Tứ thiền
Thương xót đến muôn loài
Xin mau ra khỏi thiền.
Để độ người chưa độ
Cứu thoát người chưa thoát
Bốn thức xứ tối tăm
Khao khát vị thiền duyệt.
Không trái lời Phật dạy
Rồi liền tự khen ngợi
Lại tự mình suy nghĩ
Do thân này tạo ra.
Chắc chắn nhập Niết-bàn
Để độ cho chúng sinh
Chư Phật đều hiện ra
Lành thay Thích Ca Văn!
Lập ý nguyện lớn lao
Đừng sinh tâm thoái lui
Chuyển pháp luân vô thượng
Đánh vào trống đại pháp.
Người nghe mau giải thoát
Qua kiếp số không khó
Trí nhanh, trí vô ngại
Trí biện, trí thông đạt.
Trí đạo, trí minh tuệ
Trí đoạn, trí vô sinh
Trí diệt tận bất khởi
Trí tiêu, trí chín bậc.
Trí sư tử vô úy
Trí điện hống âm hưởng
Trí đoạn tọa bất động
Trí đại bi vô ngại.

Trí thân tướng trang nghiêm

Trí bạt khổ mẫn hộ

Trí kiến giải vô phược

Trí thọ biệt thủ chứng.

Trí hàng ma phá quân

Trí thành vô ngã mạn
Trí ý dũng tinh tấn
Trí thí bất vọng báo.
Trí hành nhẫn thọ nhục
Trí kim cang thập lực
Trí trụ kiếp bất động
Trí tập chúng hòa hợp.
Trí tối thượng đạo sư
Trí tàm quý pháp phục
Trí Bồ-tát thệ nguyện
Trí thần túc biến hiện.
Trí cảnh giới vô ngại
Trí đoạn ý diệt kiết
Trí thanh tịnh chiếu minh
Trí tự thức túc mạng.
Trí huyền giám tha tâm
Trí phụ mẫu chân tịnh
Trí phân thân sát độ
Trí xử thai vô uế.
Trí thức định bất loạn
Trí nhất hướng tín thọ
Trí nhập định quan sát
Trí phân biệt thân tướng.
Trí tam thập bất tịnh
Trí diệt tai trừ hoạn
Trí Bồ-tát thứ đệ
Trí siêu việt giáo hóa.
Trí diệt thập nhị duyên
Trí Duyên giác thời ngộ
Trí Thanh văn thọ hóa
Trí xuất thập nhị thập.
Trí quán tuệ vô ngại
Trí thọ đạo huyễn giám
Trí nhất dạ vi kiếp
Trí dĩ kiếp vi nhật.
Trí niệm Phật Phật hiện
Trí sát độ thanh tịnh
Trí vô hữu Nhị thừa
Trí độc bộ vô úy.
Trí duyệt khả chúng ý
Trí sở tác dĩ biện
Trí bất tạo tiền hậu
Trí diệt cố vô tận.
Trí nhập định trừ tưởng
Trí quán nội ngoại thân
Trí Như Lai thọ tuệ
Trí Hiền Thánh mặc nhiên.

Đức Phật nói kệ này xong, cả ức trăm ngàn vô lượng chúng sinh đều phát tâm tiến hết vào địa Tín. Lại có mười hai na-do-tha Bồ-tát ở nơi địa Quán hạnh, không trụ vào Tam trụ mà thành tựu cõi Phật. Ở phía bên phải có bảy vạn bảy ngàn ức chúng sinh đạt đến bậc Bất thoái chuyển.

Phật lại nói với Văn-thù:

– Nay nơi pháp hội này không một người nào cấu bẩn, ô uế xen lẫn, bị thoái chuyển. Vì sao? Vì tất cả đều là những hàng lợi căn, không còn sinh tử, không còn bị trói buộc, không vướng mắc, không diệt, không sinh, tu đạo thanh tịnh, thọ chứng thành tựu, mong muốn ưa thích nghe chánh pháp không thể nghĩ bàn của chư Phật. Các vị đã chiến thắng chúng ma, khử trừ tâm kiêu mạn. Bên ngoài mặc dù giáo hóa a-tăng-kỳ chúng sinh trong các cõi Phật, nhưng bên trong tâm hiện bày diệu dụng nơi vô lượng trăm ngàn Tam-muội. Những Tam-muội ấy là: Tam-muội Sư tử phấn tấn. Tammuội Siêu hành đăng vị. Tam-muội Quảng tấn siêu bộ. Tam-muội Đồng chân lạc pháp. Tam-muội Tứ đạo sinh diệt. Tam-muội Vô tưởng đẳng hành. Tam-muội Vãng nghệ bất thoái đạo tràng. Tammuội Quan sát chúng tâm. Tam-muội Niệm nhất sinh bổ xứ. Tam-muội Vô hình tượng. Tam-muội Địa trung dũng xuất. Tam-muội Giải phược chiến đấu. Tam-muội Đảnh thọ tối thắng. Tam-muội Chúng sinh hỷ kiến. Tam-muội Nhập bất tư nghì. Tam-muội Phật giới bất tư nghì. Tam-muội Pháp giới trừ uế bất tư nghì. Tam-muội Thánh chúng bất tư nghì. Tam-muội Chúng sinh khởi diệt bất tư nghì. Tam-muội Long lực hưng giáng bất tư nghì. Tam-muội Tại chúng thượng trung vương bất tư nghì. Tam-muội Dũng mãnh hàng phục oán bất tư nghì. Tam-muội Thọ mạng vô lượng bất tư nghì.

Tam-muội Tại ngũ đạo năng thọ khổ bất tư nghì. Tam-muội Chư Phật hiện tại bất tư nghì. Tammuội Tứ sự cúng dường bất tư nghì.

Các vị ấy trang nghiêm thân với một ức một ngàn Tam-muội như vậy.

Lại có Tam-muội Tốc tật bất tư nghì, trong một ngày, xuất gia hành đạo, đến nơi gốc cây thành

Phật, giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật.

Lại có Tam-muội Lưu trú đãi duyên bất tư nghì, Như Lai duyên nơi Tam-muội nầy, thọ mạng vô lượng a-tăng-kỳ kiếp. Chúng sinh nào có duyên thì được độ vào cảnh giới Niết-bàn Vô dư, nhưng Như Lai không vào Niết-bàn, mà lại tạo nhân duyên để hành đạo Bồ-tát.

Lại có Tam-muội Phật lực bất tư nghì, từ cõi Phật này đến cõi Phật kia, trong khoảng thời gian chốc lát như người khảy móng tay mà đã thọ ký cho vô lượng Hằng hà sa chúng sinh và cũng làm cho họ trong ngày đó đều thành Phật.

Đó là thần lực của Bồ-tát ở trong thai.

Phẩm 2: DU BỘ

Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa pháp y, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, thưa Thế Tôn:

– Lành thay! Lành thay! Như Lai đã giảng nói pháp không thể nghĩ bàn. Nay trong chúng đây có vị thấy đạo, có vị chưa thấy đạo, có vị trụ vào địa Tín, có vị chưa trụ vào địa Tín, có Bồ-tát từ cõi trời Quang Âm, trời Hạp, trời Ba Lợi Đà, trời A Ba Na Ma, trời A Hội Đản Tu, trời Đạo A, trời Tu Càn, trời Tu Thất Kỳ Nhục, trời Kiết Na, cho đến trời Nhất Cứu Cánh, trời Hóa Tự Tại, trời Tha Hóa Tự Tại. Hoặc có Bồ-tát ở Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, cho đến Phi tưởng, phi phi tưởng xứ. Các vị ấy làm sao nhập vào thai để giáo hóa?

Đức Thế Tôn dạy:

– Ông chớ nên hỏi như vậy. Vì sao? Vì Như Lai không bao giờ giảng nói nghĩa như thế. Ta nay hỏi ông, ông hãy trả lời ngay. Thế nào, này Bồ-tát Di-lặc! Hư không có hình chất hay không có hình chất?

Bồ-tát Di-lặc trả lời:

– Bạch Thế Tôn! Không có hình chất. Đức Thế Tôn hỏi:

– Thế nào, này Bồ-tát Di-lặc! Nếu hư không không có hình chất thì tại sao chúng sinh có sinh, có già, có bệnh và có chết?

Bồ-tát Di-lặc thưa:

– Thưa Thế Tôn! Với nhất nghĩa đế thì không có sinh, già, bệnh, chết. Do đó mà hư không không có hình chất.

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Nếu không có hình chất thì những chúng sinh này sao được thọ ký, ai là người được thọ ký? Vì sao Bồ-tát đến bên gốc cây, có lúc kinh hành, có lúc nhập định? Làm sao Bồ-tát quán thân tướng mình và quán thân tướng của người khác? Làm sao Bồ-tát hiện bày đi bảy bước, tự xưng là thành Phật, chiến thắng quân ma? Và làm sao Bồ-tát tu tập nơi đạo tràng để độ chúng sinh trong mười phương?

Bồ-tát Di-lặc thưa:

– Bạch Thế Tôn! Đây cũng là vắng lặng không hình chất nên thân tướng của Như Lai cũng là giả danh, cho đến nghĩa nhất cứu cánh đều không và không có sở hữu.

Phật hỏi Bồ-tát Di-lặc:

– Nếu Bồ-tát hành về “không” thì làm sao đi đến mười phương để giáo hóa chúng sinh?

Bồ-tát Di-lặc thưa:

– Bạch Thế Tôn! Bồ-tát hành “không” thì không thấy quốc độ, cũng không thấy có Phật. Chính Phật là không Phật thì làm sao có Phật, có địa, thủy, hỏa, phong và thức giới? Vì ngã, người, thọ mạng đều là vắng lặng, do đó nên không có thai phần.

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Ông ở cõi trời Ba Mươi Ba giảng nói pháp “không hành” cho các thiên chúng, trong số đó có ai thấy đạo và ai chưa thấy đạo?

Bồ-tát Di-lặc thưa:

– Bạch Thế Tôn! Chúng trời ấy do tưởng về thường, tưởng về lạc, tưởng về tịnh, chấp ngã là tưởng về ngã, cho nên không có sự thấy đạo và cũng không có bậc thấy đạo.

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Chư Thiên kia hành ấm hữu sắc hay hành ấm vô sắc? Ấm có báo ứng hay không báo ứng? Có ấm phá hữu hay không phá hữu? Có ấm thọ nhập hay không thọ nhập? Có ấm thanh hưởng hay không thanh hưởng? Có ấm trung gian hay không trung gian? Có ấm bỉ thử hay không bỉ thử? Có ấm cứu cánh hay không cứu cánh? Có ấm mặc nhiên hay không mặc nhiên? Thế nào, này Bồ-tát Di-lặc! Ở cõi trời giảng nói pháp chân thật cho chúng trời, ông có nói về danh hiệu của các ấm ấy hay không?

Bồ-tát Di-lặc thưa:

– Bạch Thế Tôn! Không. Đức Thế Tôn dạy:

– Thế nào, này Bồ-tát Di-lặc! Chư Phật mười phương đã thọ ký cho ông thành tựu đạo quả Chánh chân vô thượng, như vậy có đạo Chánh chân hay không có đạo Chánh chân?

Bồ-tát Di-lặc thưa:

– Bạch Thế Tôn! Không có đạo Chánh chân. Nói có đạo Chánh chân thì đây cũng là giả danh.

Gọi là Di-lặc cũng là giả danh. Như bản tế của tự tánh cũng là giả danh. Sắc thân của Như Lai, tự thân ấy là không tướng, tự tướng cũng không, gốc ngọn thì gốc ngọn không, bỉ thử thì bỉ thử cũng không. Vậy làm sao biết chắc có danh hiệu là Dilặc? Nói tánh thì tánh tự không, nói hữu thì chính hữu là không. Nói vô thỉ chính vô là không. Vô tự thường trụ, làm sao khiến nó bất trụ? Nói trụ thì chính trụ là không. Nói tự tướng thì tự tướng là không. Nói ấm thì chính ấm là không. Nói thai thì chính thai ấy là không, cho đến đạo tràng nói hành thì hành ấm không. Bạch Thế Tôn! Do đó không thấy đạo và chưa ai thấy đạo.

Phật lại bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Sự thấy đạo và sự không thấy đạo thì có quả chứng hay không có quả chứng? Là tánh hữu vi hay chẳng phải tánh hữu vi? Là tánh vô vi trong hữu vi hay tánh vô vi trong vô vi? Là tánh vô lậu trong hữu lậu hay tánh vô lậu trong vô lậu? Là tánh hữu tận trong cõi Dục hay tánh vô tận trong cõi Dục? Là tánh hữu tận trong cõi Sắc, cõi Vô sắc hay là tánh vô tận trong cõi Sắc, cõi Vô sắc? Không giới là tánh diệt thức hay không giới chẳng phải là tánh diệt thức? Cho đến hữu vi không, vô vi không, tự tánh không. Hữu cho hữu là không, vô cho vô là không, đại không, thủ không, một tướng, vô tướng không, Niết-bàn hữu dư không, Niết-bàn vô dư không, là tánh chứng đắc hay chẳng phải là tánh chứng đắc?

Bồ-tát Di-lặc thưa:

– Bạch Thế Tôn! Pháp chứng đắc chẳng phải là pháp, phi pháp cũng không phải là pháp chứng đắc. Đức Phật dạy:

– Thế nào, này Bồ-tát Di-lặc! Nếu pháp hữu vi chẳng phải là vô vi, pháp vô vi chẳng phải là hữu vi, vậy sao ông nói pháp có chứng đắc là không chứng đắc và pháp không chứng đắc cũng không chứng đắc?

Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Theo đệ nhất nghĩa thì trong pháp hữu tướng, vô tướng, tìm cầu hữu vi chẳng phải là vô vi hay tìm cầu vô vi chẳng phải là hữu vi?

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Nay Ta hỏi ông: Căn luận chân thật, chẳng phải vô căn luận, vậy thì hữu vi, vô vi từ đâu sinh?

Nếu có thì tên nó là gì?

Bồ-tát Di-lặc thưa:

– Bạch Thế Tôn! Hư không là tánh tịch diệt. Chữ nghĩa, tên gọi đều chẳng phải là chân thật, đó là vô căn luận, chứ chẳng phải hữu căn luận.

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Vậy làm sao nghĩa căn sinh ra vô căn luận? Bồ-tát Di-lặc thưa:

Bạch Thế Tôn! Đối với nghĩa thế tục thì căn là pháp tánh, vô căn là chứng tịnh, bất động cũng không phải là bất động, là một tướng, vô tướng, cho đến pháp hữu vi - vô vi, pháp hữu lậu - vô lậu, pháp hữu đối - vô đối, pháp sắc - pháp vô sắc, pháp khả kiến - pháp bất khả kiến, bất trụ cũng không phải bất trụ. Đó là nghĩa của vô căn.

Đức Phật dạy:

– Bồ-tát hành về không đã hiểu rõ về vô căn, bất sinh cũng không phải bất sinh; vị lai chưa đến, hiện tại không trụ, quá khứ đã diệt; không chấp trước, không đoạn, không trụ, cũng không phải không trụ.

Khi ấy, trong pháp hội có Bồ-tát tên Phân Biệt Thân Quán, bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con nghe Như Lai nói nghĩa vô căn: Nói có thân tướng, nói không có thân tướng; nói có tự tánh không, nói không có tự tánh không. Vậy nói về nghĩa vô căn là từ trong Như mà sinh hay không phải từ trong Như sinh ra? Nghĩa vô căn có sinh diệt hay không có sinh diệt? Pháp hữu đối hay chẳng phải pháp vô đối? Pháp hữu sắc hay pháp vô sắc? Pháp hữu vi hay pháp vô vi? Pháp hữu lậu hay pháp vô lậu? Pháp hữu tướng hay pháp vô tướng? Có thân quán hay không thân quán?

Phật bảo Bồ-tát Phân Biệt Thân Quán:

– Này Bồ-tát Thân Quán! Cái gì là thân? Cái gì là quán? Thân làm sao để hành quán này?

Bồ-tát Phân Biệt Thân Quán thưa:

– Thưa Thế Tôn! Địa, thủy, hỏa, phong là thân ấm. Thức phân biệt gọi là quán.

Đức Phật dạy:

– Nói địa thì tự thể của địa là không, nói thủy thì tự thể của thủy là không, nói hỏa thì tự thể của hỏa là không, nói phong thì tự thể của phong là không, nói thức thì tự thể của thức là không, nói không thì tự thể của không là không thì cái gì là thân, cái gì là quán?

Bồ-tát Thân Quán thưa:

– Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Theo như lời của Thế Tôn nói: Nếu pháp giới hư không đều vắng lặng, không có Phật mà nói Phật, không có Pháp mà nói Pháp, không có Tăng mà nói Tăng, không có đời này, đời sau, không có tội, không có phước thì sẽ khác với Đại sư dạy không?

Phật bảo Bồ-tát Phân Biệt Thân Quán:

– Này Bồ-tát Thân Quán! Khi nhập vào định diệt tận, ông thấy có nhãn quán sắc, cho đến ý quán pháp không?

Bồ-tát Thân Quán thưa:

– Bạch Thế Tôn! Không. Vì sao? Vì trong định diệt tận không sinh cũng không diệt.

Phật bảo Bồ-tát Thân Quán:

– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói thì: Nhãn quán sắc. Sắc chẳng phải sắc của ngã, ngã chẳng phải sắc của nó. Thức chẳng phải thức của ngã, ngã chẳng phải thức của nó cho đến xúc.

Thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng đều như vậy. Vì pháp chẳng phải pháp của ngã, ngã cũng chẳng phải pháp của ngã nên đối với nghĩa vô căn nó không tăng, không giảm.

Nếu căn thanh tịnh thì đạo cũng thanh tịnh. Nếu tướng không mà thanh tịnh thì cho đến cứu cánh không cũng đều thanh tịnh. Nếu một mà thanh tịnh thì không có hai. Nếu năm ấm tịnh, hành tịnh thì đạo cũng thanh tịnh. Nếu hữu đối tịnh, vô đối tịnh, sắc tịnh thì đạo cũng thanh tịnh. Nếu Bồ-tát tịnh, sáu trần tịnh thì đạo cũng thanh tịnh. Nếu quyến thuộc tịnh, dòng họ tịnh thì đạo cũng thanh tịnh. Nếu địa tịnh, trụ tịnh thì đạo cũng thanh tịnh. Đó là nghĩa vô căn của Đại Bồ-tát.

Phật bảo Bồ-tát Thân Quán:

– Này Bồ-tát Thân Quán! Nếu khổ tịnh, không khổ không lạc tịnh thì đạo cũng thanh tịnh. Nếu môn tịnh, chủng tịnh, sinh tịnh thì đạo cũng thanh tịnh. Đó là nghĩa vô căn của Đại Bồ-tát.

Phật bảo Bồ-tát Thân Quán:

– Này Bồ-tát Thân Quán! Nếu đạo tràng tịnh, quốc độ tịnh, chúng sinh tịnh thì đạo cũng thanh tịnh. Đó là nghĩa vô căn của Đại Bồ-tát. Nếu căn tịnh, lực tịnh, giác ý tịnh, đạo phẩm tịnh thì đạo cũng thanh tịnh.

Thế nào, này Bồ-tát Thân Quán! Nay Ta hỏi ông, ông hãy trả lời cho Ta: Như Lai tu tập nơi đạo tràng, ngồi bên gốc cây thọ vương, làm thế nào để phân biệt những loài chúng sinh theo pháp hữu ký hay pháp vô ký? Nếu pháp hữu ký là cấu uế của phiền não, còn pháp vô ký cũng là cấu uế của phiền não. Vậy chẳng lẽ nên lấy vô ký để thọ ký cho chúng sinh sao?

Bồ-tát Thân Quán thưa:

– Bạch Thế Tôn! Pháp hữu ký chẳng phải là cấu uế của phiền não, mà pháp vô ký cũng chẳng phải là phiền não. Vì sao? Vì cấu uế của phiền não là pháp thấp kém mà pháp hữu ký, vô ký là pháp thượng tôn. Vậy không thể lấy vô ký mà đối trị với phiền não. Vì sao? Vì pháp phiền não là hạt giống của Như Lai.

Phật bảo Bồ-tát Thân Quán:

– Thôi, thôi! Ông chớ nói như vậy. Ông nói phiền não là pháp sinh tử, sao bây giờ lại nói là hạt giống của Như Lai?

Bồ-tát Thân Quán thưa:

– Bạch Thế Tôn! Thân của Như Lai là biến hóa chứ chẳng phải là chúng sinh. Nếu là biến hóa thì không có cõi chúng sinh trong phiền não. Giả sử từ chúng sinh mà có thân Như Lai thì cấu uế của phiền não chẳng phải là hạt giống của Như Lai sao?

Phật bảo Bồ-tát Thân Quán:

– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì mượn danh hiệu tên chữ để có phiền não nhưng trong đệ nhất nghĩa thì không có phiền não.

Phật lại nói với Bồ-tát Thân Quán:

– Này Bồ-tát Thân Quán! Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn thường dùng thiên nhãn quán ý thức sinh niệm trong một a-tăng-kỳ của chúng sinh khắp mười phương thế giới: Có người nhiều tâm dục, có người ít tâm dục; có người nhiều tâm sân, có người ít tâm sân; có người nhiều tâm si, có người ít tâm si; người có tâm giải thoát, người không có tâm giải thoát; người có tăng thượng mạn, người không có tăng thượng mạn; người dễ đạt tới cứu cánh, người khó đạt đến cứu cánh. Những hạng người này Bồ-tát đều biết, đều quán hết tất cả rồi đến độ họ.

Làm thế nào mà Bồ-tát dùng thiên nhãn quán biết người dục ít, biết người dục nhiều? Nghĩa là trong số người ấy, Bồ-tát hiện hình dâm nữ nói việc dâm dục với họ, tạo mọi hoan lạc khó quên, nhìn không nhàm chán, khiến cho ý dục của họ càng thêm vui thích. Sau đó, từ từ nói với họ: “Thân là ô uế, vô thường, vô ngã, khổ, không, chẳng phải là thân; dục là hầm lửa thiêu cháy tâm thức...” để họ nhàm chán, lo sợ, không còn tham dục nữa. Những chúng sinh này ở trong thai liền được thọ ký đạo vô thượng.

Này Bồ-tát Thân Quán! Ông nên biết: Nếu như chúng sinh này không sân giận, ngu si, đoạn dục thì được đạo. Hoặc có Bồ-tát kết bạn cùng với đám người ấy, nói nghiệp sát sinh để họ vui thích khó quên: “Ôi, vui thay! Sát sinh là làm giảm tuổi thọ của ông, còn tôi thì tăng tuổi thọ”. Sau đó từ từ nói cho họ nghe: “Sát sinh thì mắc tội rất nặng”, nói cho họ một trăm lẻ tám tội nặng sát sinh rất là khổ não, rồi dẫn dắt họ vào đạo, không còn chút dục si. Những người này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

Có Bồ-tát kết bạn cùng với đám người kia giảng nói mười đạo bất thiện, thân giáo, khẩu giáo, ý giáo đều bất thiện, cho chân thật là hư ngụy, vô thường cho là thường, không cho là thật có, không có thân nói rằng có thân, khổ cho là vui, không có thế gian nói rằng có thế gian. Sau đó, từ từ nói với họ về vô lượng biện tài, trí sâu rộng lớn, thấu triệt hết tất cả pháp, dựng cờ pháp cho họ rồi từ từ dẫn vào rừng trí tuệ: “Các người nên biết, nếu có ai còn nghi ngờ về ta thì nên lấy lửa trí tuệ đốt tâm nghi ngờ của người ấy. Nếu người bố thí tay cầm của cải, có người thọ nhận mà hiểu rõ ba việc ấy là không, không có sở hữu, người này ở trong thai liền thành đạo vô thượng”.

Thấy người giữ giới, giới phẩm thành tựu, không phạm một mảy may nào, hiểu rõ tất cả là vắng lặng, không có sở hữu, người này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

Hoặc có chúng sinh tâm luôn nhẫn nhục, không sân giận, nếu có người đến cắt, xẻ, giết, nhưng tâm không khởi chút tưởng giận, cho đến đầu, mắt, tủy, não bị cắt xẻ vẫn không chút luyến tiếc oán giận. Người này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

Có chúng sinh tâm như kim cương, không gì có thể hủy hoại được, giả sử có người dùng lời dịu ngọt dẫn dụ: “Kiếp số khó lường, luân hồi trong sinh tử khó có thể tránh khỏi, sao không tự độ mà lại thay thế chịu khổ nhọc cho chúng sinh” nhưng tâm Bồ-tát ấy vẫn tiến lên, không bao giờ thoái chuyển để rơi vào sinh tử. Người này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

Có người hành thiền, tâm thức bất động, ma Ba-tuần ở trên hư không làm sấm sét dữ dội, nhưng tâm Bồ-tát không bị lay động một mảy lông nào cả, huống chi là làm cho vị ấy thoái bỏ đạo thiền. Vị này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

Nếu có chúng sinh phân biệt các hành, điều này có thể hành, điều kia không thể hành. Nếu người nào tham đắm, yêu mến thân thì liền nói cho họ về bốn pháp ý chỉ, phân biệt rõ ràng về kho tàng cốt yếu của các pháp, nêu bày, giảng nói về vô lượng pháp giới. Người này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

Có Bồ-tát nhập vào Tam-muội Từ, thấy các loài chúng sinh đầy khắp cả vô lượng vô hạn atăng-kỳ hằng hà sa cõi ở phương Đông, rồi đem lòng từ bi thương xót muốn họ được giải thoát. Ví như lấy từng hạt cát trong sông Hằng đi qua hằng hà sa cõi thả xuống một hạt, như vậy cát sông Hằng tận nhưng tâm từ không tận. Bồ-tát phát nguyện kiên cố khó lay động. Giả sử có người đến lấy thân Bồ-tát, tháo cắt xẻ từng miếng để đầy khắp ba ngàn đại thiên quốc độ, nhưng Bồ-tát thấy máu biến thành sữa, giống như mẹ yêu con. Đó là Bồ-tát hành Tam-muội Từ, người này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

Có Bồ-tát nhập Tam-muội Bi với lòng từ bi thương xót, muốn các loài chúng sinh trong vô lượng vô hạn a-tăng-kỳ hằng hà sa cõi ở phương Nam được giải thoát, lấy từng hạt cát trong sông Hằng đi qua hằng hà sa cõi thả xuống một hạt, như vậy cát sông Hằng tận nhưng tâm bi không tận; kham chịu thay những chúng sinh bị khổ kia. Tất cả đều là sự thệ nguyện kiên cố của Bồ-tát. Chúng sinh nào thấy với tâm thanh tịnh thì xa lìa các khổ, đoạn hẳn vọng tưởng, vị này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

Có Bồ-tát nhập vào Tam-muội Hỷ, với lòng nghĩ nhớ đến hỷ, muốn cho các loài chúng sinh nơi vô lượng vô hạn a-tăng-kỳ hằng hà sa cõi ở phương Tây được giải thoát, lấy từng hạt cát trong sông Hằng, cứ qua hằng hà sa cõi thả xuống một hạt, như vậy cát sông Hằng tận nhưng tâm hỷ không tận. Nếu chúng sinh ấy nhập vào tâm hỷ thì tự mình vui thích. Đây đều là Bồ-tát phát tâm kiên cố. Vị ấy ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

Có Bồ-tát nhập vào Tam-muội Xả, lo sợ cho vô lượng vô hạn a-tăng-kỳ hằng hà sa chúng sinh ở phương Bắc có hạnh thiếu sót, phân tán, liền nuôi dưỡng, ủng hộ, không cho họ bị chìm đắm; lấy từng hạt cát trong sông Hằng, cứ đi qua hằng hà sa cõi thả xuống một hạt, như vậy cát sông Hằng tận nhưng tâm xả không tận. Đây đều là Bồ-tát thệ nguyện kiên cố. Vị này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

Đối với lòng đại từ đại bi, tu pháp chân thật của Bồ-tát thì chẳng phải là nẻo hành hóa của La-hán, Phật-bích-chi. Bồ-tát muốn cho tất cả chúng sinh khắp bốn phương một khi nghe âm thanh liền tìm tiếng mà đến. Đây đều là thệ nguyện kiên cố của Bồ-tát. Vị này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

Phẩm 3: THÁNH ĐẾ

Phật nói với các Đại Bồ-tát, Tỳ-kheo, Tỳ-kheoni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tám bộ chúng Trời, Rồng, Quỷ thần, Cưu-bàn-trà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩnna-la, Ma-hầu-la-già, Tỳ-xá-già, Phú-đan-na, Maniệu-xá, A-ma-niệu-xá:

– Nay Ta sẽ giảng nói cho các người về Hiền Thánh đế của Đại Bồ-tát. Hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ. Vì sao? Vì từ số a-tăng-kỳ kiếp, Ta tu tập đạo quả, chết đây sinh kia, luân hồi trong năm đường nhưng không bao giờ bỏ Hiền Thánh đế của Bồ-tát.

Bồ-tát tu tập Thánh đế như thế nào? Nghĩa là có Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến khi ngồi nơi đạo tràng tu hành pháp vô ngại, không chấp vào sự chứng thiền, diệt tận các tưởng về ác.

Hoặc có Bồ-tát nhập vào cảnh giới Sơ thiền, thấy hạnh thanh tịnh, xấu hổ để rồi nhàm chán, xả bỏ để tiến tới, sắp bước lên Lục trụ, siêng năng tinh tấn đạo nghiệp, nhập vào cảnh giới Nhị thiền, tâm hoát nhiên đại ngộ, giống như trăng sáng xua tan mây. Tự quán trong thân mình, tâm phát thệ nguyện là kiên cố hay không kiên cố. Tự đem tâm mình quán tâm chúng sinh, ai dễ độ, khó độ cũng đều biết tất cả. Lúc này, tâm Bồ-tát rất là vui vẻ: “Ta chắc chắn sẽ thành Phật, không có nghi ngờ, quốc độ được thanh tịnh, trừ dứt cấu uế cho chúng sinh, chiến thắng quân ma, chuyển pháp luân Hiền thánh vô thượng. Ôi, vui thay! Phước báo sở nguyện ta đều được thành tựu!”.

Bấy giờ, Bồ-tát nhập vào định Bất loạn, lấy tâm cân nhắc tâm, đem thân cân nhắc thân, liền được thành tựu Thánh đạo thần túc. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, lễ lạy thờ phụng cúng dường chư Phật Thế Tôn, nghe thọ pháp thâm diệu không chút trở ngại, không lo sợ, rồi đến nhập vào Tam thiền, quán các sắc tướng đều là không, không có sở hữu. Khi trụ vào Tam thiền, quán các loài chúng sinh đều có thể phân biệt được rõ ràng: Họ chết đây sinh kia, chết kia sinh đây; tự biết đời trước và cũng biết họ từ đâu đến; đây là dòng Sát-lợi hay dòng Bà-lamôn, dòng cư sĩ hay trưởng giả; người tu hành, người không tu hành; đáng thọ quả, không đáng thọ quả; hơi thở ra vào, chẳng phải hơi thở ra vào; đây là bốn ý chỉ, bốn ý đoạn, căn lực, thần túc, giác ý, tám thánh đạo. Người này nhất định ở nước ấy, chỗ ấy, trong chúng sinh ấy mà thành Phật. Tất cả hạng người trên, Bồ-tát đều biết cả. Đó gọi là Bồtát ở cảnh giới Tam thiền đắc tâm thanh tịnh.

Lại nữa, Đại Bồ-tát ở nơi cảnh giới Tam thiền mong muốn Bát trụ, tuy trông mong nhưng không đắc. Ngày đêm siêng năng tinh tấn cầu cho tâm được thanh tịnh, nhập vào Tứ thiền, trước mắt tự thấy chư Phật mười phương nói cho nghe pháp bất thoái chuyển của Tứ thiền, giải thoát vô ngại, hành bốn thần túc, có thể phân một thân thành vô số thân, lấy vô số thân hợp lại thành một thân, nhập vào Tam-muội Hỏa quang, biến khắp ba ngàn đại thiên thế giới, làm cho chúng sinh ấy thấy Tammuội Hỏa quang nên tâm rất đỗi kinh sợ, tự đến chỗ Bồ-tát mà quy y. Nhờ lực của Tam-muội mà được giải thoát.

Bấy giờ, trong Tứ thiền phân biệt chân như, pháp tánh, tâm lui trở lại tu tập hạnh Lục trụ. Bồtát tự nghĩ: “Nay ta chưa đắc địa Bất thoái chuyển thì làm sao đắc Bát trụ?”. Thế rồi ở trong Tứ thiền siêng năng tu tập, làm thanh tịnh hạnh của chúng sinh, thay thế chịu khổ cho họ. Mặc dù hành pháp như vậy nhưng không tự khen ngợi, trừ bỏ tâm kiêu mạn, không còn chấp ngã, tu sáu tư niệm. Mặc dù hành đạo ở chín nẻo chúng sinh nhưng tâm không đắm nhiễm, quyến luyến sinh tử, tâm hoát nhiên đại ngộ, đạt được Bất thoái chuyển. Đó là Đại Bồtát đối với Thánh đế mà đắc tâm thanh tịnh.

Thế rồi Bồ-tát nhập vào Tam-muội Không xứ, quán tâm thức của loài chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới này, tu pháp thanh tịnh, xa lìa những sự trói buộc, không còn thương tiếc gì cả, có thể tự mình sống một kiếp, hai kiếp, cho đến vô số kiếp. Ở trong vô số kiếp ấy giáo hóa chúng sinh, người sống người chết từ từ hướng dẫn họ đạt đến đạo thanh tịnh. Vị này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

Có Bồ-tát nhập vào Tam-muội Thức xứ, quán cõi đi đến của các thần thức trong ba ngàn đại thiên thế giới này, dù là cõi trời, cõi người, cõi ngạ quỷ, cõi súc sinh, cõi địa ngục, người dễ độ, khó độ, vị Bồ-tát này đều biết cả. Vị này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

Có Bồ-tát nhập vào Tam-muội Bất dụng xứ, quán các loài chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới là xanh, vàng, đỏ, trắng, nhiều hay ít thì tự nhàm chán không muốn ở lâu. Vị này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

Có Bồ-tát nhập vào Tam-muội Phi tưởng phi phi tưởng xứ, quán cõi đi đến của các thần thức nơi chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới này: người sống, người chết, xanh vàng đỏ trắng, cao thấp đều làm cho các chúng sinh ấy biết sự chấm dứt của thọ mạng. Vị này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

Thế rồi Bồ-tát nhập vào Tam-muội Đại hư không, Đại tịch tĩnh, quán cõi đi về của các loài chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới này, trên đến vô biên vô tận cõi, tư duy phân biệt tất cả pháp là không có. Đó gọi là Đại Bồ-tát ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

Rồi Bồ-tát nhập vào Tam-muội Vô hình giới, quán khắp các loài chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới, mọi sự trói buộc của tâm không còn bị trói buộc nữa, thần thức không có hình tướng nên thức được quán cũng không có hình tướng. Với pháp vô hình, ở trong thai liền thành đạo vô thượng.

QUYỂN 2

Phẩm 4: PHẬT THỌ

Sắp nhập vào cảnh giới Niết-bàn Vô dư, Đức Thế Tôn cho nhóm họp các Bồ-tát có thần thông, đức lớn và dùng thần thông biến hóa, giảng nói pháp không thể nghĩ bàn:

– Ta có thể biến hóa làm cây bảy báu vượt qua sông dài này. Người nào bị chìm đắm trong sinh tử thì được giải thoát. Rồi liền nhập vào định Lưu ly, Tam-muội Vô hình.

Về phương Đông, cách cõi Ta-bà này sáu mươi bốn ức hà sa cõi, Ta biến hóa cây bảy báu đầy khắp trong đó. Thân, nhánh, cành, lá, quả trên các cây báu ấy đều có cung điện bảy báu. Mỗi cung điện có một Đức Phật. Chư Phật đều giảng nói bốn pháp vô thường. Đằng sau có vườn và ao với nhiều loài chim tụ tập, dạo chơi trong vườn ấy, thật hoan lạc không gì tả nổi. Trong ao mọc hoa sen Ưu-bát, hoa Tu-càn-đề, hoa Mạt-càn-đề. Trên bờ có hoa

Chiêm-bặc, hoa Tu-mạn-la với mùi hương Ngưuđầu-chiên-đàn, hương vụn. Cờ phướn, lụa trời treo đầy hư không.

Khi ấy, vua thần gió tên Tùy Ý phóng gió đại hương thổi lá cây bảy báu đưa qua đưa lại, mềm mại dịu dàng, làm lay động cành lá chạm vào nhau phát ra tám loại âm vang. Kỳ lạ nữa là phóng ra ánh sáng lớn. Tám loại âm thanh của Như Lai là nhằm độ người chưa độ. Ai thấy điềm ứng ấy liền nói: “Xưa kia ta không nghe như thế và cũng không thấy tướng sinh diệt vô thường, đâu phải là huyễn hóa chăng?”.

Bấy giờ, trong cung điện trên cây bảy báu, chư Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác phát ra âm thanh lớn, xiển dương pháp không thể nghĩ bàn khó có, giảng nói trong Bát địa làm trang nghiêm các cõi Phật. Giống như có người thích nhìn nước của biển cả, cách biển một trăm do-tuần không thấy các cây cối đâu cả, gặp được một sông lớn liền nếm vào thì biết biển còn xa. Khi ấy, tự mình làm phương tiện để qua biển. Đến lúc không còn thấy hình tướng, niệm định như hư không thì mới đến bờ biển. Dùng tâm vô úy để tự trang nghiêm thân và nói: “Lành thay đại Thánh, những gì con mong muốn nay đã đạt được, thật là sung sướng vui mừng không mệt mỏi”.

Ngay khi ấy, người này xả bỏ hết những gì trong cuộc sống để vào biển. Những ước nguyện xưa đều hiện ra trước mặt. Đại Bồ-tát cũng vậy, dứt bỏ Nhất trụ để lên đến địa Lục trụ, dẹp trừ các kiết sử cho chúng sinh, không còn vướng lại một chút nào cả. Nay ta thành Phật, tất nhiên không nghi ngờ. Đó gọi là ở trong thai Đại Bồ-tát trang nghiêm cây giác ngộ.

Lại nữa, Đại Bồ-tát tự mình muốn thân tướng trang nghiêm, đầy đủ ba mươi hai tướng chân thật của đại nhân không. Từ đỉnh đầu xuống đến chân, chân có ngàn bánh xe, mỗi bánh xe có ngàn căm hoa, mỗi căm hoa có ngàn tướng, mỗi tướng có sáu độ vô cực tạo thành. Không thấy đảnh tướng tức là phá núi kiêu mạn, đắc thành tướng nhục kế.

Từ vô số a-tăng-kỳ kiếp, ta đã được quả báo không phạm dâm dục nên được tướng mã âm tàng. Tướng mã âm tàng có công năng phá trừ các tà kiến và phóng tướng ánh sáng khắp hằng hà sa cõi trong mười phương, mỗi ánh sáng đều có hóa Phật, mỗi hóa Phật đều ngồi nơi tòa cao bảy báu phát ra âm thanh diễn nói sáu độ vô cực như pháp mà chư Như Lai thường nói là khổ, tập, diệt, đạo, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ Ba-la-mật, dùng phương tiện thiện xảo làm cho hiểu rõ các pháp: Không không, đại không, vô lượng không, nội không, ngoại không, tối không, hành không, tướng không, báo không, diệt tam tai không, tam minh báo không, tam tuệ không, tam đạt không, tam đẳng không, tam thế không, ba phần pháp thân không, ba cõi tịch tĩnh không; quá khứ, hiện tại và vị lai không. Đó là tướng quả báo do không dâm dục của Đại Bồ-tát.

Từ a-tăng-kỳ kiếp đến nay, ta luôn tu miệng thanh tịnh, không đến người kia nói chuyện người này, không đến người này nói chuyện người kia, nên đắc tướng lưỡi dãi rộng biến khắp a-tăng-kỳ hằng hà sa cõi trong mười phương, phóng ánh sáng từ tướng lưỡi, mỗi ánh sáng đều có hóa Phật, mỗi hóa Phật đều ngồi trên tòa bảy báu dùng âm thanh thanh tịnh diễn nói vô lượng khẩu hành. Do nghiệp báo thanh tịnh chân thật tạo ra nên thành tựu bốn vô úy, hiểu rõ các pháp không đến, không đi, âm vọng thanh tịnh, vượt qua nỗi sợ sinh tử không chướng ngại, phân biệt rõ ràng mỗi âm thanh vọng lại của chúng sinh, diễn nói với vô lượng trí tuệ biện tài, vượt qua vực sâu trong năm đường, mỗi pháp mỗi pháp đều được thành tựu, lấy chín giải thoát để tự làm anh lạc, đầy đủ mười lực không tánh vô hình, không thể nào cản trở phá hoại được. Người nào nghe pháp đều được tin hiểu. Đó gọi là quả báo nơi tướng lưỡi miệng thanh tịnh của Đại Bồ-tát.

Từ vô số a-tăng-kỳ kiếp, ta đạt được tướng âm vang biến khắp ba ngàn đại thiên quốc độ, lời nói nhẹ nhàng, hòa nhã, không thô bạo, xuất ngôn đều thành tựu, không do người khác dạy bảo. Ai nghe âm vang ấy đều vui vẻ. Trong âm vang này cũng có vô số âm vang thanh tịnh được nói ra, như pháp mà chư Như Lai thường nói là mười hai nhân duyên: si, hành... sinh tử. Tự quán thân mình, quán thân người, quán trong ngoài thân, hơi thở dài cũng biết, hơi thở ngắn cũng biết. Giáo hóa chúng sinh đạt đến chứng đắc nhưng cũng không trụ vào chỗ chứng đắc. Âm vang ấy phát ra tướng ánh sáng, mỗi ánh sáng đều có hóa Phật, mỗi hóa Phật đều ngồi trên tòa cao bảy báu và giảng nói vô lượng pháp môn cho chúng sinh. Tâm đạt đến giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Quán rõ các pháp đều vô sở hữu. Thường lấy bốn việc từ, bi, hỷ, xả, bốn thiền, bốn đế, pháp môn chúng trí, pháp môn đắc tổng trì, pháp môn nhanh nhạy, pháp môn ứng thanh, pháp môn biện tài, vô lượng pháp môn luôn hiện tiền. Tâm thường hiện bày diệu dụng nơi vô lượng trăm ngàn Tam-muội. Đó gọi là quả báo tướng âm vang của Đại Bồ-tát.

Từ vô số a-tăng-kỳ kiếp, ta luôn tu tâm thanh tịnh, nhất tâm chánh niệm, biết hổ thẹn, giữ tâm một chỗ, không nghĩ đến một việc gì khác, dòng tư tưởng không vướng mắc trần cấu. Nếu có người nào đến hủy nhục cũng không có tâm lo buồn. Giả sử được khen ngợi cũng không lấy làm vui, tâm không bao giờ chuyển đổi. Làm việc gì đều chắc chắn, giống như đất khó lay động. Từ vô số kiếp từng phụng thờ chư Phật, giảng nói pháp vi diệu cho chúng sinh. Việc làm không dối trá, một lòng hướng về đạo. Nơi nào có Phật, Pháp, Tăng thì đích thân đến giáo hóa, giảng nói, bàn luận vô lượng pháp môn tổng trì. Những pháp bàn luận đó là những bộ luận: Thí luận, Giới luận, sinh thiên, dục là bất tịnh, Niết-bàn là an lạc. Hướng dẫn chúng sinh nhập vào định, Tam-muội, phân biệt về khổ đế để lìa bỏ bốn trói buộc, diệt trừ pháp tập, diệt hết đại phần kiết sử. Đạo là trừ những tạp uế, chứng pháp nhẫn Vô sinh, trụ vào Bất thoái chuyển, đắc quán thanh tịnh, biết tâm của chúng sinh nghĩ gì và tùy theo mỗi loại để khai thị, giáo hóa, đắc thành đạo quả, giống như tấm vải trắng tinh mới sản xuất thì rất dễ nhuộm màu. Thường tự thâu giữ tâm, không chê trách khuyết điểm của người khác, thường thích nơi yên tĩnh, không ở chỗ ồn ào. Nhập vào chúng Tỳ-kheo thì oai nghi đầy đủ. Nếu nhập vào thiền định thì gắn chặt tâm ý vào ánh sáng. Kinh hành qua lại tâm không biếng nhác, ngã mạn. Ở trong đại chúng có tài năng như sư tử hống, phân biệt không tánh đều vô sở hữu. Đó là tâm thanh tịnh của Đại Bồ-tát.

Từ vô số a-tăng-kỳ kiếp, ta từng tu pháp môn tổng trì không trở ngại, hư hoại. Nghe một được trăm, nghe trăm đắc ngàn, nghe ngàn đắc vạn, nghĩa của từng câu từng chữ mà chư Phật nói ra đều nằm lòng không quên mất. Đó là Đại Bồ-tát thành tựu pháp môn tổng trì.

Từ vô số a-tăng-kỳ kiếp, ta thường tu tập quán hành vô thường. Tất cả các pháp đều quy về luật vô thường, có sinh thì có diệt. Ở đâu, nơi nào cũng đều làm hưng thịnh chánh pháp để trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Những gì nói ra đều chân thật chắc chắn. Tự mình biết những nơi từng sống trong đời trước, thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, tâm thức kiên cố, có thần thông vô úy không thể nghĩ bàn. Từ vô số kiếp đã chứa nhóm các hạnh khổ. Những thệ nguyện đã phát không bao giờ trái với bản hạnh. Hiện bày tiếp cận các pháp tự tại không nghi ngờ. Đó là Đại Bồ-tát thành tựu pháp môn Tổng trì.

Từ vô số a-tăng-kỳ kiếp, ta từng tu Nhãn thần thông, biết hết tất cả các loài chúng sinh trong mười phương: Hạng hợp với không hành hay không hợp với không hành, hạng có tâm định hay không có tâm định, hạng có tâm loạn hay không có tâm loạn, hạng có ý chí như kim cang hay không có ý chí như kim cang, hạng có định tư duy hay không có định tư duy. Cõi trời, cõi người, cõi ngạ quỷ, cõi súc sinh, cõi địa ngục, với thiên nhãn ta đều thấy biết tất cả: Thấy chúng sinh này hướng đến Niết-bàn Vô dư hay Niết-bàn vô dư y; cũng biết chúng sinh này ở trong thân trung ấm chứng Niết-bàn, biết chúng sinh kia hướng về Tu-đà-hoàn đắc quả Tu-đà-hoàn, hướng về Tư-đà-hàm đắc quả Tư-đà-hàm, hướng về A-na-hàm đắc quả A-nahàm, hướng về A-la-hán đắc quả A-la-hán, hướng về Phật-bích-chi đắc quả Phật-bích-chi. Cũng quán chúng sinh xuất gia tu khổ hạnh không bỏ lời nguyện xưa, cạo bỏ râu tóc, thân đắp pháp phục nhập vào Tam-muội Sư tử du bộ, ở bên gốc cây Thọ vương tư duy quán, trải qua một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày; hoặc một năm, hai năm, cho đến bảy năm; hoặc một kiếp, hai kiếp, cho đến bảy kiếp. Đó là Đại Bồ-tát thành tựu Thiên nhãn thông.

Từ vô số a-tăng-kỳ kiếp, ta từng tu Nhĩ thần thông, nghe hết thảy quả báo của chúng sinh trong mười phương: đen có quả báo đen, trắng có quả báo trắng, không đen không trắng có quả báo không đen không trắng, hữu lậu có quả báo hữu lậu, vô lậu có quả báo vô lậu. Nghe âm vang thanh tịnh của chúng sinh ấy, tiếng không phải nam, tiếng không phải nữ, tiếng dịu dàng không phải nam không phải nữ, tiếng không dài không ngắn, không phải tiếng phi nhân, tiếng Phạm âm, tiếng thanh tịnh, tiếng hòa nhã của Già-la-tỳ la, tiếng không thô, tiếng không tế. Lại dùng thiên nhĩ nghe chúng sinh ấy trừ bỏ trần cấu, đoạn diệt các trói buộc, không trụ vào tướng quá khứ, hiện tại và vị lai. Trụ cũng không trụ, không trụ cũng không trụ. Ta không trụ, không trụ cũng chẳng phải không trụ, người thành Phật hay không thành Phật, người thành đạo hay không thành đạo, người sinh thiên hay không sinh thiên, người sinh làm người hay không làm người, người sinh vào cõi ngạ quỷ hay không sinh vào cõi ngạ quỷ, người sinh vào cõi địa ngục hay không sinh vào cõi địa ngục, người sinh vào cõi súc sinh hay không sinh vào cõi súc sinh, phân biệt năm đường với thiên nhĩ thông đều nghe biết hết tất cả. Đó là Đại Bồ-tát thành tựu Thiên nhĩ thông.

Từ vô số a-tăng-kỳ kiếp, ta từng tu Tỷ thần thông, ngửi hết thảy vô lượng mùi của chúng sinh trong mười phương: biết rõ ràng mùi thiện mùi ác, mùi thô mùi tế, mùi trong mùi ngoài, mùi thế tục, mùi đạo cho đến mùi Bồ-tát ngồi bên gốc cây Thọ vương, mùi giới, mùi định, mùi tuệ, mùi giải thoát, mùi giải thoát tri kiến, mùi chỉ dạy chúng sinh với đại bi vô biên, mùi thương xót chúng sinh, mùi vui vẻ dịu dàng, mùi buông xả bao la, mùi thần thông vô úy, mùi giác lực căn bản, mùi phá mạn tự cao, mùi tự nhiên xông ướp tất cả, mùi trang nghiêm Phật đạo, mùi hướng đến ba môn giải thoát, mùi tướng thù thắng, mùi quả báo minh hạnh, mùi phân biệt vi trần, mùi ánh sáng chiếu xa, mùi nhóm chúng hòa hợp, mùi năm tụ thanh tịnh, mùi trì nhập bất khởi, mùi diệt trừ các cấu bẩn, mùi quán diệt các cấu bẩn, mùi nghe giới bố thí, mùi hổ thẹn không kiêu mạn, mùi thắng pháp của tiên nhân, mùi nói pháp vô ngại, mùi xá-lợi lưu hành khắp, mùi phong ấn Phật tạng, mùi bảy báu vô tận.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Núi Ma-già xuất hiện
Hoa hương và chiên-đàn
Tất cả hương ba cõi
Không bằng hương của giới.
Hương giới diệt các cấu
Đến đâu đều hiện quán
Bồ-tát bất thoái chuyển
Hướng Niết-bàn bậc nhất.
Ví như người bắn giỏi
Ngước bắn lên hư không
Lực tên vút trên cao
Rồi rơi lại xuống đất.
Đức hương xa cùng tận
Không bao giờ trở lại
Nay nói hương thân Phật
Giới, định, tuệ, giải thoát.
Qua ức ngàn vạn kiếp
Không sao hết hương Phật
Nếu qua ngàn vạn kiếp
Phật khen công đức Phật.
Đại Thánh không thể tận
Thân Phật hương giới đức
Pháp oai nghi chư Phật
Trước thọ ký bổ xứ.
Năm mùi thơm trong miệng
Trên đến trời Đao-lợi
Trở lại đến chỗ Phật
Nhiễu thân Phật bảy vòng.
Chư Thiên rải hoa hương
Khen ngợi chưa từng có
Hương định tỏa rất xa
Cứu độ a-tăng-kỳ.

Khi Đức Thế Tôn nói kệ này xong, trong hội có hai mươi na-do-tha chúng sinh tâm thức được khai ngộ và đều phát tâm: Nguyện muốn sinh về cõi Phật Hương Tích. Đó là Đại Bồ-tát thành tựu Tỉ thông.

Từ vô số a-tăng-kỳ kiếp, ta từng tu thần thông về khẩu nghiệp, nói năng qua lại không bao giờ ngưng trệ giữa chừng. Tất cả mỗi lời nói nói ra đều có ánh sáng: Môi có ánh sáng của môi, răng có ánh sáng của răng, lưỡi có ánh sáng của lưỡi. Giữa đại chúng, Như Lai giảng nói pháp thâm diệu, tất cả pháp ấy đồng một tên là A. A là vô. Vô có ngàn vạn nghĩa, trong ngàn vạn nghĩa lấy một nghĩa. Vô, nghĩa là độ vô lượng chúng sinh.

Hai tên là La. La là trừ cấu. Trừ cấu có ngàn vạn nghĩa. Trong ngàn vạn nghĩa lấy một nghĩa trừ cấu, nghĩa là trừ cấu uế cho vô lượng chúng sinh.

Ba là Ba giá. Ba giá còn tên là Quả thục. Quả thục có ngàn vạn nghĩa, lấy một nghĩa Quả thục, tức khiến cho vô lượng chúng sinh đều đắc quả thành thục.

Bốn tên là Na. Na là nghĩa phi thường. Nghĩa phi thường có ngàn vạn nghĩa. Trong ngàn vạn nghĩa lấy một nghĩa phi thường, tức khiến cho họ vô lượng chúng sinh đều hiểu rõ không có thường. Năm tên là Trà. Trà là vô tận. Nói về vô tận nghĩa là nói có thì không có, nói không thì cũng không không. Nghĩa vô tận có ngàn vạn nghĩa. Trong ngàn vạn nghĩa lấy một nghĩa vô tận, tức khiến cho chúng sinh được hiểu rõ sự cùng tận. Đó là nghĩa tận của Trà.

Vô lượng Hằng hà sa chư Phật trong mười phương về oai nghi thọ thực thì dưới từ Diêm-phùđề trên đến mười tám cõi trời đều thấy Như Lai thọ thực. Bồ-tát từ Nhất trụ đến Tứ trụ thấy yết hầu lưu ly của thân Như Lai. Bồ-tát bất thoái chuyển cho đến cửu địa thấy trời Kiện Tật dâng thức ăn cho Như Lai, rồi đến phương khác thi hành Phật sự. Đó là quả báo về khẩu thần thông của Như Lai. Như Lai hiện tại có ăn mùi vị này đến mùi vị khác nhưng mùi vị bất động, không nuốt không nhai. Khi Thế Tôn đưa bánh vào miệng thì nghĩ nhớ đến chúng sinh trong mười phương đều cũng có mùi vị này. Theo sự nhớ nghĩ đó mà tất cả đều được no đủ, giống như Tỳ-kheo đắc chín thứ thiền, tâm nhu hòa dịu dàng, luôn thấy no ngon. Đó là Đại Bồ-tát với khẩu thông thanh tịnh.

Xưa kia trải qua vô số a-tăng-kỳ kiếp, ta từng tu thân thần thông, phân biệt rõ ràng trong thân tưởng tịnh hay bất tịnh, tưởng bất tịnh hay tịnh, ba mươi sáu thứ cấu uế tiết ra ngoài không thật. Tóc, móng tay, răng, xương, máu, nước mắt, tư duy xuôi ngược, đem pháp thân của mình quán thân chúng sinh cũng như vậy. Tự hóa thân của mình sình trướng lên, hôi thối nát rữa, máu mủ chảy ra. Hoặc hiện thân với xương trắng màu tro, màu xanh ứ bầm, màu đen điu giống như màu đất. Thấy thân này, vô lượng chúng sinh đều sinh suy nghĩ tưởng đến vô thường, khổ, không, vô ngã. Hoặc giảng nói pháp nghiệp báo của thân cho chúng sinh: “Thân này chẳng phải là thân, vậy thì cái gì là thân? Mỗi mỗi phân biệt rõ ràng từ đầu xuống chân đều vô sở hữu. Do không có thân nên không có thức”. Nghe điều này, chúng sinh suy nghĩ tư duy về thân ô uế bất tịnh, giống như cõi trời Quang Âm thanh tịnh quán xuống đến sự ô uế hôi thối trong cõi Diêmphù-đề. Mùi hôi thối xông lên đến cả bảy ngàn vạn dặm. Vì thế Bồ-tát không sinh lên cõi trời Quang Âm. Với thân thần thông, Bồ-tát nhập vào Tammuội Kim cang, nghiền nát thân như bụi trần, mỗi hạt bụi đều là một hóa Phật, cứu vớt vô lượng atăng-kỳ loài chúng sinh mà hiện tướng sắc thân. Trên thân ra lửa, dưới thân ra nước; dưới thân ra lửa, trên thân ra nước. Phía Đông nổi lên, phía Tây chìm xuống. Phía Tây nổi lên, phía Đông chìm xuống. Hiện mười tám loại thần biến, Như Lai làm cho các chúng sinh đều thấy Như Lai biến hóa và ngay lúc ấy tất cả đều giác ngộ, đoạn trừ sạch các kiết sử và nhập vào đạo vô vi. Mỗi hạt bụi hóa ra Phật, hiện thân để giáo hóa, cứu độ vô lượng atăng-kỳ chúng sinh. Đó là thân Như Lai giáo hóa mật kín nhưng không nói pháp.

Từ vô số a-tăng-kỳ kiếp, ta từng tu tập ý thức, thành tựu thần thông của Bồ-tát, thâu giữ tâm nhập định, dạo đến vô lượng cõi Phật, giống như lực sĩ co duỗi cánh tay, trong khoảnh khắc đã về lại chỗ cũ. Ý thức của Bồ-tát cũng nhập vào hóa sinh, thai sinh, thấp sinh và noãn sinh, hiện ra thần biến không thể nghĩ bàn để giáo hóa, lập tức ngay chỗ đó thành đạo vô vi. Đối với các thần thông, ý thức Bồ-tát rất tối thượng, chẳng phải điều mà Phậtbích-chi, A-la-hán suy nghĩ, luận bàn. Vì sao? Vì chẳng phải là cảnh giới của họ.

Phẩm 5: TAM THẾ ĐẲNG

Khi ấy, trong pháp hội có một vị Bồ-tát tên Hỷ

Kiến, với biện tài vô ngại, bước vào Thập trụ. Những gì Như Lai hành, vị ấy đều nắm vững. Bồtát ấy đứng dậy, rời khỏi tòa, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay đến trước Phật, thưa:

– Lành thay! Bạch Thế Tôn! Hôm nay con nghe pháp thật chưa từng có này. Vậy vô số Hằng hà sa Như Lai ở quá khứ có nhập Niết-bàn hay không nhập Niết-bàn? Nếu nhập Niết-bàn thì chúng sinh ở cõi Dục làm sao được độ? Nếu Như Lai không nhập Niết-bàn thì chư Như Lai ấy trụ vào cảnh giới Phật nào?

Phật bảo Bồ-tát Hỷ Kiến:

– Lành thay! Lành thay! Ông có khả năng ở trước Như Lai gầm lên tiếng gầm sư tử. Ông hãy nghe thật kỹ, suy nghĩ đúng đắn điều ấy. Nay Ta sẽ phân biệt rõ ràng từng chi tiết cho ông.

Bồ-tát Hỷ Kiến thưa:

– Bạch Thế Tôn! Con rất thích được nghe. Đức Phật dạy:

– Hằng hà sa chư Phật Thế Tôn trong quá khứ với giả danh gọi, không thể ghi nhớ hết, cũng như chúng sinh được đời đời không diệt mất, vô biên, không có biên vực, cũng không có đầu mối. Chư Phật chú trọng tập trung, tâm như không giới. Niếtbàn tức là chúng sinh, cho nên Như Lai không nhập Niết-bàn. Vì sao? Vì là chúng sinh.

Bồ-tát Hỷ Kiến bạch Phật:

– Chúng sinh mà Đức Thế Tôn ở quá khứ đã độ có diệt độ hay không diệt độ?

Phật bảo Bồ-tát Hỷ Kiến:

– Thế nào, này Bồ-tát Hỷ Kiến! Từ vô số atăng-kỳ kiếp ông luôn phụng thờ chư Phật, lễ lạy cúng dường hương hoa, cờ phướn, lọng báu, ông có thấy Như Lai thủ Bát-niết-bàn không?

Bồ-tát Hỷ Kiến thưa:

– Thưa không! Đức Phật dạy:

– Này Bồ-tát Hỷ Kiến! Ta hiệu là Thích Ca Văn Vô Thượng Bồ Đề. Nay ở trong thai mẹ là Niếtbàn hay chẳng phải Niết-bàn?

Bồ-tát Hỷ Kiến thưa:

– Bạch Thế Tôn! Chẳng phải. Đức Thế Tôn dạy:

– Này Bồ-tát Hỷ Kiến! Chúng sinh, Bồ-tát được thọ ký sẽ thành đạo Chánh chân vô thượng, là đạo chân thật hay chẳng phải chân thật?

Bồ-tát Hỷ Kiến thưa:

– Đạo ấy chẳng phải đạo chân thật. Vì sao? Vì có Phật, có nói pháp thì thấy giáo hóa chúng sinh, cho nên đạo ấy chẳng phải đạo chân thật.

Duyên vào duyên chúng sinh là đạo, duyên vào duyên tận cùng chúng sinh là đạo chân thật.

Duyên quá khứ duyên vào tận cùng chúng sinh đối với hiện tại chẳng phải đạo chân thật.

Duyên hiện tại duyên vào tận cùng chúng sinh đối với quá khứ chẳng phải đạo chân thật.

Duyên quá khứ, hiện tại duyên vào tận cùng chúng sinh đối với vị lai chẳng phải đạo chân thật. Duyên vị lai duyên vào tận cùng chúng sinh đối với quá khứ, hiện tại chẳng phải đạo chân thật. Vì sao? Vì đạo ấy chẳng phải đạo chân thật.

Duyên quá khứ duyên vào tận cùng chúng sinh, duyên hiện tại duyên vào tận cùng chúng sinh, duyên vị lai duyên vào tận cùng chúng sinh, đạo ấy là đạo chân thật.

Đại Bồ-tát biết và thấy điều đó nhưng không nơi nào là không có mặt. Vì sao? Giống như chín hành bất tận. Chín hành ấy là:

Thượng thượng, thượng trung, thượng hạ.

Trung thượng, trung trung, trung hạ.

Hạ thượng, hạ trung, hạ hạ.

Duyên thượng thượng tận, duyên thượng thượng trung bất tận thì chẳng phải là đạo chân thật.

Duyên thượng trung tận, duyên thượng hạ bất tận, chẳng phải đạo chân thật.

Duyên thượng hạ tận, duyên trung thượng bất tận, chẳng phải đạo chân thật.

Duyên trung thượng tận, duyên trung trung bất tận, chẳng phải đạo chân thật.

Duyên trung trung tận, duyên trung hạ bất tận, chẳng phải đạo chân thật.

Duyên trung hạ tận, duyên hạ thượng bất tận, chẳng phải đạo chân thật.

Duyên hạ thượng tận, duyên hạ trung bất tận, chẳng phải là đạo chân thật.

Duyên hạ trung tận, duyên hạ hạ bất tận, chẳng phải đạo chân thật.

Duyên hạ hạ tận là đạo chân thật.

Đối với tánh chân thật, Đại Bồ-tát không nắm bắt, không buông xả, không trụ, chẳng phải là không trụ.

Quá khứ, hiện tại và vị lai như nhau, đạo như nhau, Niết-bàn như nhau, tất cả đều như nhau, không có hai pháp.

Tánh như nhau, tướng tự nhiên như nhau, chúng sinh như nhau, cấu như nhau, năm ấm như nhau, duyên như nhau, si hành như nhau, đạo hạnh thanh tịnh không một, không hai.

Hành duyên cõi Dục tận, chẳng phải hành duyên cõi Sắc tận. Hành duyên cõi Sắc tận, chẳng phải hành duyên cõi Vô sắc tận. Hành duyên cõi Vô sắc tận, hành duyên cõi Sắc tận, hành duyên cõi Dục tận, đó gọi là Bồ-tát như nhau, chẳng phải một, chẳng phải hai.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Kiến:

– Ông có muốn biết cõi chư Phật quá khứ diệt hay không diệt không?

Thế rồi Thế Tôn dùng thần lực nhập vào Tammuội Vô úy không giới, khiến cho tất cả mọi người đều thấy rõ thân Thích Ca Văn im lặng không nói, với thân tướng đầy đủ.

Đức Thế Tôn bảo:

– Bồ-tát nên biết! Thân quá khứ của Ta rất nhiều, không thể tính, không thể lường.

Nói xong, Thế Tôn dùng thần thông hòa vào cảnh giới thấp sinh đầy đủ với các tướng, y như chúng và nói pháp cho vô số a-tăng-kỳ chúng sinh, khiến loài thấp sinh tùy theo sở nguyện đều được giải thoát.

Thế Tôn lại dùng thần thông hòa vào chúng hóa sinh, hiện tướng sắc thân y như chúng và nói pháp cho vô số a-tăng-kỳ chúng sinh, khiến cho loài hóa sinh tùy theo sở nguyện đều được giải thoát.

Thế Tôn lại dùng thần thông hòa vào chúng noãn sinh, hiện tướng sắc thân y như vậy, nói pháp cho vô số a-tăng-kỳ chúng sinh, khiến cho loài noãn sinh tùy theo sở nguyện đều được giải thoát.

Thế Tôn lại dùng thần thông hiện thế giới đương lai, hòa vào bốn sinh của cõi người, hiện tướng sắc thân nói pháp cho vô số a-tăng-kỳ chúng sinh, khiến chúng sinh bốn sinh ấy tùy theo sở nguyện đều được giải thoát.

Giống như ngày nay Ta ở trong thai mẹ nói pháp Bất thoái chuyển khó có cho các Bồ-tát đạt thần thông trong mười phương và lại dùng thần thông bốn sinh của cõi trời, bốn sinh của địa ngục, bốn sinh của ngạ quỷ, bốn sinh của súc sinh. Trong bốn sinh thì hai loại hóa và thai lậu dứt hết mau, còn hai loại thấp và noãn thì lậu dứt hết chậm. Hóa sinh và thai sinh là hàng lợi căn, còn thấp sinh và noãn sinh là hạng độn căn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại dùng thần thông hiện cảnh giới tịch tĩnh để đại chúng ấy đều thấy biết, cũng không nói tên của khổ, tập, diệt, đạo. Vì sao?

Vì chúng sinh nơi cõi đó đều là hạng lợi căn, thuộc thai sinh và hóa sinh.

Phật lại dùng thần thông hiện thế giới nơi phương dưới, chiếu sáng thấy chúng sinh ấy giữ gìn đọc tụng, trải qua kiếp số mới thành đạo quả và biết chúng sinh thấp và noãn này là hạng độn căn.

Phật lại dùng thần thông hiện cõi bất tử để đại chúng biết chúng sinh kia không nghe tên chết. Biết chúng sinh này có đại bi thệ nguyện, là hạng căn tối thắng trong hạng lợi căn.

Phật dùng thần thông hiện cõi chết yểu để đại chúng đều thấy biết. Thấy chúng sinh ấy có người chết yểu vì họ tự tạo gốc khổ, vốn tuổi thọ xưa kia rất dài, nay tuổi chuyển lại ngắn. Vua cõi ấy tên Trừ Ưu, lột da người chết để làm trống, một trăm năm đánh một lần để chúng sinh ấy đều biết tên chết, tuổi thọ giảm dần còn một trăm tuổi thì Ta xuất hiện. Nay Ta xả bỏ thọ mạng hơn tám mươi bốn tuổi, ra khỏi thai sinh, hóa sinh trong đời năm trược, đó là phần lợi căn của Ta.

Các ông nên biết, mạng sống không tồn tại lâu dài, thần lực của Phật không thể lưu lại được. Thân này như bong bóng nước, không trụ lâu. Thân như sương móc, thường làm loạn tư tưởng con người. Thân như mộng, làm tăng thêm sân giận. Thân như huyễn, lừa gạt mê hoặc người đời. Thân như tiếng vọng, tìm kiếm nhưng vô hình. Thân như mắt quáng thấy không rõ. Như vậy, thân Ta đây là lần diệt tận cuối cùng, không còn sinh lại nữa.

Bất sinh là gì? Là không sinh vào cõi Diêmphù-đề này nữa. Lại khi hành Phật sự ở ba mươi hai vạn vạn cõi Phật khắp mười phương, đây chẳng phải ở quá khứ. Do đó, duyên vào duyên tận, duyên vào duyên bất tận thì không có Niết-bàn.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Di-lặc liền đứng dậy, sửa pháp phục, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, bạch Phật:

– Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh trong thế giới không giống nhau. Quả báo của việc làm thiện, ác đều khác nhau. Vậy, Như Lai nói pháp không, không tịch mịch, không thể nghĩ bàn thì nhập vào Tam-muội nào mà có oai thần cảm động khó lường như vậy?

Chúng sinh có thức đều có thể dễ giáo hóa, còn như núi, sông, tường, đá, cây, cỏ đều biến làm người thì chúng sinh có thức hay chúng sinh không có thức?

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Xưa kia Ta cùng ông băng qua sông núi, ông có thấy một con thú dữ muốn ăn thịt vị Bồ-tát Thập Trụ không?

Bồ-tát Di-lặc thưa:

– Bạch Thế Tôn! Không. Vì sao? Giả sử thú dữ đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới muốn ăn thịt vị Bồ-tát thì điều đó không thể được.

Đức Phật dạy:

– Xưa kia Ta khuyên ông: Ai có khả năng tiến lên trước? Ông và Bồ-tát Văn-thù đều nói không có can đảm. Ngay khi ấy Ta dùng thần lực lấy vị cam lồ bảo thú đói kia biết: “Nếu giữ tâm kiên cố thì được thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Ông nói rồi lui dần ra phía sau. Như vậy tất cả đều là loài giáo hóa có thức, chứ chẳng phải giáo hóa vô thức.

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Ông chẳng nhớ vô số a-tăng-kỳ kiếp xa xưa, cách về phương Tây bắc này sáu mươi hai hằng hà sa cõi, có Phật hiệu là Bình Đẳng, nước tên Vô Hình. Phật ấy hiện đang thuyết pháp. Cõi đó không có Phật-bích-chi, Thanh văn thừa; không có mặt trời, mặt trăng, thời tiết, kiếp số nhiều ít. Phật ấy giáo hóa hết một cõi Phật. Chúng sinh cõi đó đều được thành Phật và không dời đổi qua ở thế giới Phật khác. Này Bồ-tát Di-lặc! Có thể gọi Phật ấy là quá khứ, hiện tại, vị lai không?

Bồ-tát Di-lặc bạch:

– Bạch Thế Tôn! Vừa quá khứ, hiện tại và vị lai. Vì sao? Vì tất cả đều từ các cõi đi đến cõi đó. Các duyên tận thì chúng sinh tận. Vì được độ thoát nên hiện có hiện tại.

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Hiện ông ở hiện tại chăng? Bồ-tát Di-lặc thưa:

– Bạch Thế Tôn! Không phải. Mặc dù nói hành hiện tại nhưng không phải hiện tại, vì hành trước đã qua và hành sau thì chưa đến. Thức niệm tư duy ba việc thành tựu cho nên không có hiện tại.

Phật liền hỏi Bồ-tát Di-lặc:

– Tâm có bao nhiêu niệm? Mỗi niệm ấy có bao nhiêu tưởng? Bồ-tát Di-lặc thưa:

– Khoảng bằng khảy móng tay thì có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm. Niệm niệm thành hình, mỗi hình đều có thức. Niệm của thức rất vi tế, không thể nào nắm giữ được, chỉ có oai thần của Phật nhập vào thức vi trần đó mới đo lường được. Như vậy giáo hóa có thức chứ chẳng phải vô thức. Lại nữa, thức rất nhỏ, nhỏ hơn bụi trần. Thức bụi trần này không thể thấy được, chỉ có oai thần của Như Lai nhập vào sự giáo hóa ấy thì mới lường xét được.

Đức Phật dạy:

– Bồ-tát Di-lặc nên biết, đừng có hồ nghi điều đó. Thức vi trần này cũng nhận bốn khí, cũng có bốn sinh. Vì sao? Vì chúng sinh vô biên, mà biên cũng vô biên. Như Lai cũng vô biên, đạo cũng vô biên. Tất cả nói hữu, hữu cũng vô hữu. Vô giới, vô xứ, vô trụ cũng đều không có người dạy bảo, giáo hóa chúng sinh. Đây gọi là nghịch thuận Tammuội. Không trụ, không phải không trụ, một tướng, vô tướng. Không vướng mắc, không trói buộc, cũng không có chân tế, tu tập nơi đạo tràng, làm thanh tịnh cõi Phật, quyền biến vô số chẳng phải những điều mà kẻ thấp kém sánh kịp.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn giải thích sự hồ nghi cho Bồ-tát Di-lặc nên liền hiện sắc thân mềm mại đẹp đẽ, với sắc nhìn không nhàm chán, sắc trong ngoài thanh tịnh không tỳ vết.

Từ vô số a-tăng-kỳ kiếp, Ta từng tu nhãn thanh tịnh, trong ngoài không bị chướng ngại nên nay được sắc thân này: Thân không phải thân, sắc cũng không phải sắc.

Nếu biết thân không, sắc không, thì thân - sắc đều không. Biết thân - sắc đều không thì không này là không không.

Biết vô thân không, vô sắc không, thì biết vô thân - vô sắc đều không. Ai biết vô thân - vô sắc đều không thì không này là không không.

Biết thân quá khứ không, biết sắc quá khứ không, thì biết thân - sắc quá khứ đều không. Ai biết thân - sắc quá khứ đều không thì không này là không không.

Biết thân hiện tại không, biết sắc hiện tại không, thì biết thân - sắc hiện tại đều không. Ai biết thân - sắc hiện tại đều không thì không này là không không.

Biết thân vị lai không, biết sắc vị lai không, thì biết thân - sắc vị lai đều không. Ai biết thân - sắc vị lai đều không thì không này là không không.

Biết vô thân quá khứ không, biết vô sắc quá khứ không, thì biết vô thân vô sắc quá khứ đều không. Ai biết vô thân vô sắc quá khứ đều không thì không này là không không.

Biết vô thân hiện tại không, biết vô sắc hiện tại không, thì biết vô thân vô sắc hiện tại đều không. Ai biết vô thân vô sắc hiện tại đều không thì không này là không không.

Biết vô thân vị lai không, biết vô sắc vị lai không, thì biết vô thân vô sắc vị lai đều không. Ai biết vô thân vô sắc vị lai đều không thì không này là không không.

Biết thân dục giới không, biết sắc dục giới không, thì biết thân dục giới, sắc dục giới đều không. Ai biết thân dục giới, sắc dục giới đều không thì không này là không không.

Biết thân sắc giới không, biết sắc sắc giới không, thì biết thân sắc giới, sắc sắc giới đều không. Ai biết thân sắc giới, sắc sắc giới đều không thì không này là không không.

Biết thân vô sắc giới không, biết sắc vô sắc giới không, thì biết thân vô sắc giới, sắc vô sắc giới đều không. Ai biết thân vô sắc giới, sắc vô sắc giới đều không thì không này là không không.

Biết vô thân dục giới không, biết vô sắc dục giới không, thì biết vô thân dục giới, vô sắc dục giới đều không. Ai biết vô thân dục giới, vô sắc dục giới đều không thì không này là không không. Biết vô thân sắc giới không, biết vô sắc sắc giới không, thì biết vô thân sắc giới, vô sắc sắc giới đều không. Ai biết vô thân sắc giới, vô sắc sắc giới đều không thì không này là không không.

Biết vô thân vô sắc giới không, biết vô sắc vô sắc giới không, thì biết vô thân vô sắc giới, vô sắc vô sắc giới đều không. Ai biết vô thân vô sắc giới, vô sắc vô sắc giới đều không thì không này là không không.

Biết thân duyên duyên không, biết sắc duyên duyên không, thì biết thân – sắc duyên duyên đều không. Ai biết thân – sắc duyên duyên đều không thì không này là không không.

Biết vô thân duyên duyên không, biết vô sắc duyên duyên không, thì biết vô thân vô sắc duyên duyên đều không. Ai biết vô thân vô sắc duyên duyên đều không thì không này là không không.

Biết thân thai sinh không, biết sắc thai sinh không, thì biết thân thai sinh, sắc thai sinh đều không. Ai biết thân thai sinh, sắc thai sinh đều không thì không này là không không.

Biết vô thân thai sinh không, biết vô sắc thai sinh không, thì biết vô thân thai sinh, vô sắc thai sinh đều không. Ai biết vô thân thai sinh, vô sắc thai sinh đều không thì không này là không không. Biết thân hóa sinh không, biết sắc hóa sinh không, thì biết thân hóa sinh, sắc hóa sinh đều không. Ai biết thân hóa sinh, sắc hóa sinh đều không thì không này là không không.

Biết vô thân hóa sinh không, biết vô sắc hóa sinh không, thì biết vô thân hóa sinh, vô sắc hóa sinh đều không. Ai biết vô thân hóa sinh, vô sắc hóa sinh đều không thì không này là không không. Biết thân thấp sinh không, biết sắc thấp sinh không, thì biết thân thấp sinh, sắc thấp sinh đều không. Ai biết thân thấp sinh, sắc thấp sinh đều không thì không này là không không.

Biết vô thân thấp sinh không, biết vô sắc thấp sinh không, thì biết vô thân thấp sinh, vô sắc thấp sinh đều không. Ai biết vô thân thấp sinh, vô sắc thấp sinh đều không thì không này là không không. Biết thân noãn sinh không, biết sắc noãn sinh không, thì biết thân noãn sinh, sắc noãn sinh đều không. Ai biết thân noãn sinh, sắc noãn sinh đều không thì không này là không không.

Biết vô thân noãn sinh không, biết vô sắc noãn sinh không, thì biết vô thân noãn sinh, vô sắc noãn sinh đều không. Ai biết vô thân noãn sinh, vô sắc noãn sinh đều không thì không này là không không.

Biết thân vị chí định là không, biết sắc vị chí định không, thì biết thân vị chí định, sắc vị chí định đều không. Ai biết thân vị chí định, sắc vị chí định đều không thì không này là không không.

Biết vô thân vị chí định là không, biết vô sắc vị chí định không, thì biết vô thân vị chí định, vô sắc vị chí định đều không. Ai biết vô thân vị chí định, vô sắc vị chí định đều không thì không này là không không. Biết thân Sơ thiền không, biết sắc Sơ thiền không, thì biết thân Sơ thiền, sắc Sơ thiền đều không. Ai biết thân Sơ thiền, sắc Sơ thiền đều không thì không này là không không.

Biết vô thân Sơ thiền không, biết vô sắc Sơ thiền không, thì biết vô thân Sơ thiền, vô sắc Sơ thiền đều không. Ai biết vô thân Sơ thiền, vô sắc Sơ thiền đều không thì không này là không không.

Biết thân trung gian thiền không, biết sắc trung gian thiền không, thì biết thân trung gian thiền, sắc trung gian thiền đều không. Ai biết thân trung gian thiền, sắc trung gian thiền đều không thì không này là không không.

Biết vô thân trung gian thiền không, biết vô sắc trung gian thiền không, thì biết vô thân trung gian thiền, vô sắc trung gian thiền đều không. Ai biết vô thân trung gian thiền, vô sắc trung gian thiền đều không thì không này là không không.

Biết thân Nhị thiền không, biết sắc Nhị thiền không, thì biết thân Nhị thiền, sắc Nhị thiền đều không. Ai biết thân Nhị thiền, sắc Nhị thiền đều không thì không này là không không.

Biết vô thân Nhị thiền không, biết vô sắc Nhị thiền không, thì biết vô thân Nhị thiền, vô sắc Nhị thiền đều không. Ai biết vô thân Nhị thiền, vô sắc Nhị thiền đều không thì không này là không không. Biết thân Tam thiền không, biết sắc Tam thiền không, thì biết thân Tam thiền, sắc Tam thiền đều không. Ai biết thân Tam thiền, sắc Tam thiền đều không thì không này là không không.

Biết vô thân Tam thiền không, biết vô sắc Tam thiền không, thì biết vô thân Tam thiền, vô sắc Tam thiền đều không. Ai biết vô thân Tam thiền, vô sắc Tam thiền đều không thì không này là không không. Biết thân Tứ thiền không, biết sắc Tứ thiền không, thì biết thân

Tứ thiền, sắc Tứ thiền đều không. Ai biết thân Tứ thiền, sắc Tứ thiền đều không thì không này là không không.

Biết vô thân Tứ thiền không, biết vô sắc Tứ thiền không, thì biết vô thân Tứ thiền, vô sắc Tứ thiền đều không. Ai biết vô thân Tứ thiền, vô sắc Tứ thiền đều không thì không này là không không. Biết thân Không xứ không, biết sắc Không xứ không, thì biết thân Không xứ, sắc Không xứ đều không. Ai biết thân Không xứ, sắc Không xứ đều không thì không này là không không.

Biết vô thân Không xứ không, biết vô sắc Không xứ không, thì biết vô thân Không xứ, vô sắc Không xứ đều không. Ai biết vô thân Không xứ, vô sắc Không xứ đều không thì không này là không không.

Biết thân Thức xứ không, biết sắc Thức xứ không, thì biết thân Thức xứ, sắc Thức xứ đều không. Ai biết thân Thức xứ, sắc Thức xứ đều không thì không này là không không.

Biết vô thân Thức xứ không, biết vô sắc Thức xứ không, thì biết vô thân Thức xứ, vô sắc Thức xứ đều không. Ai biết vô thân Thức xứ, vô sắc Thức xứ đều không thì không này là không không. Biết thân Bất dụng xứ không, biết sắc Bất dụng xứ không, thì biết thân Bất dụng xứ, sắc Bất dụng xứ đều không. Ai biết thân Bất dụng xứ, sắc Bất dụng xứ đều không thì không này là không không. Biết vô thân Bất dụng xứ không, biết vô sắc Bất dụng xứ không, thì biết vô thân Bất dụng xứ, vô sắc Bất dụng xứ đều không. Ai biết vô thân Bất dụng xứ, vô sắc Bất dụng xứ đều không thì không này là không không.

Biết thân Phi tưởng phi bất tưởng xứ không, biết sắc Phi tưởng phi bất tưởng xứ không, thì biết thân Phi tưởng phi bất tưởng xứ, sắc Phi tưởng phi bất tưởng xứ đều không. Ai biết thân Phi tưởng phi bất tưởng xứ, sắc Phi tưởng phi bất tưởng xứ đều không thì không này là không không.

Biết vô thân Phi tưởng phi bất tưởng xứ không, biết vô sắc Phi tưởng phi bất tưởng xứ không, thì biết thân Phi tưởng phi bất tưởng xứ, vô sắc Phi tưởng phi bất tưởng xứ đều không. Ai biết vô thân Phi tưởng phi bất tưởng xứ, vô sắc Phi tưởng phi bất tưởng xứ đều không thì không này là không không.

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Nay Ta sẽ giảng nói cho ông về nghĩa phát sinh và nghĩa căn bản. Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ.

Sinh nghĩa là gì? Sinh là bảy chín. Căn là nghĩa liên kết lại. Như Lai không chấp trước dĩ tri, vị tri, vô tri.

Dĩ tri căn là quá khứ, hiện tại, vị lai.

Vị tri căn là sự chướng ngại của kiết sử.

Vô tri căn là Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác.

Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai thành tựu căn này và phân biệt các căn. Vô căn cũng không phải vô căn, vô thuyết, vô nghĩa. Phân biệt các nghĩa của chữ là không, không sở hữu. Đó là nghĩa căn.

Từ lúc mới phát tâm cho đến ngồi bên gốc cây

Thọ vương chuyển pháp luân vô thượng, nhóm tập các pháp môn, hành pháp môn vô hành, pháp môn tư nghì, pháp môn tổng trì căn, pháp môn hư không pháp tàng. Đây là những Tam-muội mà chư Phật thâu nhập.

Bồ-tát Di-lặc nên biết! Ta thọ ký cho ông năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm sau sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác bên gốc cây Thọ vương.

Ta sinh từ hông phải, còn Bồ-tát Di-lặc thì sinh từ đỉnh đầu.

Ta sống một trăm tuổi, Bồ-tát Di-lặc sống tám vạn bốn ngàn tuổi. Cõi của Ta bằng đất, cõi của Bồ-tát Di-lặc bằng vàng.

Đất nước của Ta thì khổ, còn đất nước của Bồtát Di-lặc thì vui. Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Đấng Như Lai Thập Lực
Hư không không biên giới
Nghiệp lực phước nhẫn tuệ
Sức thệ nguyện tối thắng.
Ông sinh nước an lạc
Không khổ như cõi Ta
Ông nói pháp rất dễ
Ta nói pháp rất khó.
Đầu: nói chín mươi sáu
Hai: nói chín mươi bốn
Ba: nói chín mươi hai
Đầu: Ta nói mười hai.
Hai: nói hai mươi bốn
Ba: nói ba mươi sáu
Ba hội người ông dạy
Ta đã giáo hóa trước.
Cha ông: Phạm Ma Tịnh
Tám vạn bốn ngàn tướng
Chẳng phải Ta dạy trước
Những người ông hóa độ.
Chín mươi sáu ức người
Thọ năm giới của Ta
Chín mươi bốn ức người
Thọ trì ba quy y.
Chín mươi hai ức người
Chỉ xưng: “Nam-mô Phật”
Trước nói: ngàn Tỳ-kheo
Hai mươi bốn ức trời.
Ba: ba mươi sáu ức
Các chúng sinh diệt độ
Ông vui, Ta khổ cực
Ông lười, Ta tinh tấn.

Khi Phật đang nói kệ này, có bảy mươi hai ức chúng sinh khổ hạnh ngồi yên bất động, đắc pháp nhẫn Bất khởi (pháp nhẫn Vô sinh).

QUYỂN 3

Phẩm 6: TƯỞNG - VÔ TƯỞNG

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với Bồ-tát Di-lặc:

– Trong chúng hội hôm nay đều cùng một hạng thuần là Nhất sinh bổ xứ. Nay Ta sẽ nói về thức, tưởng, thọ; vô thức, vô tưởng, vô thọ. Lúc ấy, Bồtát nói thức, tưởng, thọ như thế nào? Thế nào là Bồ-tát phân biệt nói về thức, tưởng, thọ?

Thức chẳng phải tưởng, chẳng phải thọ. Tưởng chẳng phải thọ, chẳng phải thức. Thọ chẳng phải thức, chẳng phải tưởng.

Thức chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai. Tưởng chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai. Thọ chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai.

Phi thức chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai.

Phi tưởng chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai.

Phi thọ chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai.

Vì sao thức chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai? Lúc Bồ-tát nhập định vô ngại giáo hóa chúng sinh có thọ, thức. Từ địa Hữu trụ đến địa Vô trụ, thức này chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai.

Đại Bồ-tát lại giáo hóa chúng sinh có tưởng từ địa Trụ đến địa Vô trụ.

Bồ-tát giáo hóa chúng sinh có thọ từ địa Trụ đến địa Vô trụ.

Bấy giờ, Tôn giả Đại Ca-diếp liền đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Ý tâm thức thọ tưởng có gì khác nhau? Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

– Biết thân là biết có sai khác. Vì chúng sinh từ chân lên đến đầu có những chi tiết đều có tên riêng của nó. Như đã nói trong kinh ví dụ về cây, thì rễ, vỏ, thân, cành, lá đều gọi là cây. Vậy thì tâm ý thức thọ tưởng cũng thế.

Tôn giả Đại Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Tưởng là pháp bên ngoài, thọ là pháp bên trong.

Vậy sao cho là một?

Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

– Tưởng là bên ngoài đến, từ bên trong ra. Tôn giả Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Tưởng từ bên ngoài đến, làm sao biết được? Nếu bên ngoài vô hình thì bên trong tưởng do đâu mà sinh? Nếu vật bên ngoài không hại, thì bên trong làm sao biết đau?

Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

– Việc này không phải như vậy. Vì sao? Vì thức ấy chẳng phải ở bên ngoài, chẳng phải ở bên trong, chẳng phải hai bên, chính giữa. Chỗ thức trụ chẳng phải chỗ thức trụ. Ngoại tưởng, ngoại thọ tức là pháp bên trong, chẳng phải pháp bên ngoài. Nếu Đại Bồ-tát nào tin hiểu một cách sâu xa về pháp bên trong, bên ngoài, chính giữa thì mới có thể thấu rõ chỗ thức trụ. Đây là chúng sinh, đây là phi chúng sinh, cho đến pháp hữu - vô chẳng phải đây chẳng phải kia, liền nhập vào Tam-muội vô ngại độc bộ.

Tôn giả Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Hôm nay nghe thuyết pháp, lòng con càng thêm nghi ngờ. Vì sao? Vì theo Phật đã nói thì tưởng cũng là thọ, thọ cũng là tưởng. Pháp thức phân biệt về thức cũng là tưởng, cũng là thọ tưởng. Tưởng từ không thọ. Thọ từ không thức. Thức từ không tưởng. Không chẳng phải là thức không, thức không chẳng phải là thọ không, thọ không chẳng phải là tưởng không. Như dụ về cây thì điều này luôn đúng.

Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

– Ta sẽ đem ví dụ khác nói cho ông. Người trí theo ví dụ này đều được hiểu rõ.

Thuở xưa có vị vua tên là Đặc Vị. Vua có bốn người con: một tên Hỷ Duyệt, hai tên Trường Thọ, ba tên Bách Tuế và bốn tên Vô Úy.

Đứa con Hỷ Duyệt thì thân thể mọc đầy mụt nhọt, ai thấy đều ghê tởm, cha mẹ rất lo lắng, luôn luôn buồn rầu.

Đứa con Trường Thọ ấy chưa đầy một tháng thì đã qua đời. Đứa con Bách Tuế thì chưa tới một trăm ngày lại qua đời.

Đứa con Vô Úy thì môi sứt, mũi hỉnh, răng thì không trật tự, ai thấy đều phát sợ.

Như vậy, thọ, tưởng, thức cũng thế, không khác nhau bao nhiêu. Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

– Ta sẽ nói cho ông về thức, tưởng, thọ và phân biệt từng pháp một:

Chín mươi mốt kiếp về quá khứ có vị vua tên

Trí Tuệ, chuyên thực hành mười thiện, lấy chánh pháp để trị dân. Ông ta không phiền não, theo dõi ý hành của chúng sinh. Khi biết chúng sinh kia có những ý niệm không giống nhau, ông liền sai Thị thần đi tra xét đất nước. Những ai bị mù thì đưa hết họ vào cung điện. Sau khi nhận lệnh vua, vị quan Thị thần đi tuần tra đất nước và đưa được năm trăm người mù về trong sân cung điện. Vua lại dắt năm trăm con voi xếp trước điện và sai mỗi người mù tự mình rờ voi.

Những người mù khi ấy, người thì rờ mũi voi, người thì rờ tai voi, người thì rờ đầu voi, người thì rờ chân voi, người thì rờ bụng voi, người thì rờ đuôi voi.

Vua hỏi các người mù: Con voi giống như cái gì? Người rờ vòi thì nói voi như cái sừng.

Người rờ đầu thì nói voi như cái vò. Người rờ tai thì nói voi như cái sàng. Người rờ bụng thì nói voi như cái giỏ tre. Người rờ chân thì nói voi như cây trụ.

Người rờ đuôi thì nói voi như cây chổi.

Khi ấy, những người mắt sáng đứng bên cạnh thấy vậy đều cười cho những người mù kia không biết được hết tướng của voi. Những người mù ở chỗ vắng cùng nhau bàn luận và họ đều cho mình là nói đúng rồi cùng tranh cãi. Chúng sinh kia cũng vậy, thấy pháp thức, thọ, tưởng đều không giống nhau.

Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

– Ví như có người bày ra một trăm vị thức ăn, nào: tấm, gạo, đậu, lúa mạch lớn nhỏ, mè... Người nào ăn trúng tấm, gạo, thì không biết có loại thuộc đậu hay lúa mạch khác. Này Ca-diếp! Đây cũng vậy, pháp thức, thọ, tưởng đều khác nhau, nhưng quán về pháp của chúng thì không sai không khác. Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói với Tôn giả Cadiếp bằng kệ:

Thấy trán biết có đầu
Thấy khói biết có lửa
Thấy mây biết có mưa
Quán hành biết thể tánh.
Hư không không vết chân
Bóng nước không bắt được
Pháp sư nói cùng tận
Kiết sử tận Niết-bàn.
Tưởng tận trong vô tưởng
Thọ diệt cũng không thọ
Thức diệt không có thức
Đạo phạm hạnh vô thượng.
Ta từ vô số kiếp
Thường bị thức lừa gạt
Đời này và đời sau
Không gặp chỗ an lạc.
Hiện Ta ở trong thai
Phân biệt tướng các pháp
Không thấy nên tưởng thọ
Huống sẽ có pháp thức.

Khi Đức Thế Tôn nói kệ này có năm trăm Tỳkheo đắc pháp nhẫn Bất khởi. Có ngàn chúng sinh tâm vui thích về không hành, tâm được tự tại trong cảnh giới Niết-bàn Vô dư y.

Phẩm 7: TRỤ - BẤT TRỤ

Bấy giờ, trong chúng hội có Bồ-tát tên Vô Trụ Pháp Hành đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay bạch Phật:

– Lành thay! Lành thay! Đại chúng trong pháp hội này đều thích được thiện lợi, được nghe nghĩa pháp vô lượng của Như Lai. Những gì xưa kia con thệ nguyện, nay mới được nghe.

Và ở trước Phật nói kệ khen ngợi:

Hư không, không biên giới
Diễn giảng nghĩa vô lượng
Hữu – vô không sinh diệt
Vắng lặng không thọ tưởng.
Chư Phật ở quá khứ
Tu thí, giới, nhẫn nhục
Nhập định, tâm không loạn
Tuệ quang chiếu thế gian.
Đức ấy không thể lường
Phi hữu cũng phi vô
Âm vọng rất thanh tịnh
Vô thượng không sánh bằng.
Mật âm thấu vạn ức
Do đấy được thành Phật
Tiếng trống pháp nghe xa
Mỗi tiếng đều khác nhau.
Giống như vua Chuyển luân
Nghĩ liền mưa bảy báu
Tiếng Phật vang rất xa
Mưa báu bảy giác ý.
Sửa sang đạo tràng Phật
Trang hoàng cây quả đạo
Bất trụ không bất trụ
Từ bi cứu chúng sinh.
Tâm niệm ứng với thân
Không từ nan kiếp khổ
Chỉ Như Lai mười phương
Ban ấn mở kho pháp.
Chúng ta nay được nghe
Được trụ bờ vô vi
Lành thay! Lực Như Lai
Rộng lớn không bờ đáy.
Không còn chỗ mở buộc
Pháp chân tế thật tướng
Đời phiền não cõi dục
Giáo hóa người ngu si.
Phật chứa nghĩa sâu kín
Hiện lưu hành chúng sinh
Cương giới không biên vực
Đều đắc đạo vô thượng.

Sau khi dùng kệ khen Đức Phật xong, Bồ-tát Vô Trụ ở trước Phật thưa:

Thưa Thế Tôn! Năm ấm quá khứ, hiện tại, vị lai thanh tịnh là không trụ hay chẳng phải không trụ, cho đến ba mươi bảy phẩm phạm hạnh không trụ hay chẳng phải không trụ? Cảnh giới trước, sau, giữa, cứu cánh tịnh, bất tịnh là không trụ hay chẳng phải không trụ. Ta không tạo tác, chẳng phải không tạo tác, chẳng phải phạm hạnh, chẳng phải không phạm hạnh. Cúi xin Đức Thế Tôn giảng nói về trụ bất trụ.

Phật bảo Bồ-tát Vô Trụ:

– Tướng sắc là bất trụ không phải bất trụ. Tướng thọ là bất trụ không phải bất trụ. Tướng tưởng là bất trụ không phải bất trụ. Tướng hành là bất trụ không phải bất trụ. Tướng thức là bất trụ không phải bất trụ.

Pháp bên trong thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ. Pháp bên ngoài thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Pháp trong ngoài thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Từ lúc mới phát tâm cho đến ngồi nơi đạo tràng luôn đoạn trừ các vọng tưởng, làm thanh tịnh Nhất thiết trí là bất trụ không phải bất trụ.

Trừ sạch cấu bẩn cho chúng sinh thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Nhập Tam-muội kim cang, giữ ý chí kiên cố thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Làm nát xá-lợi thân thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Hiện bày diệu dụng nơi trăm ngàn Tam-muội thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Không dừng ở cảnh giới phàm phu, không vào nhà Hiền thánh là bất trụ không phải bất trụ.

Không tự khen ta đã thành đạo quả thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Ba mươi hai tướng đại sĩ, phóng ra ánh sáng lớn chiếu xa đến vô lượng thế giới khắp mười phương, tất cả chúng sinh tìm đến ánh sáng ấy đều được nghe pháp thâm diệu của Như Lai, theo ý nghĩ của họ mà có lời nói thượng, trung, hạ khiến cho tất cả đều đầy đủ để phân biệt rõ các pháp trụ là trụ cũng bất trụ mà bất trụ cũng bất trụ.

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, mười hai nhân duyên, bốn vô ngại tuệ, không, vô tướng, vô nguyện, bốn thiền, bốn vô lượng tuệ thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Dùng lực thần túc vào trong năm đường thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Nhập vào môn giải thoát, giới thân, định thân, tuệ thân, giải thoát thân, giải thoát tri kiến thân thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

– Ta sẽ nói ao tám vị pháp cam lồ thanh tịnh. Thế nào là tám? Như Ta ngày nay ngồi tự tại nơi giảng đường, phía Đông thấy ao thanh tịnh, xung quanh có hành lang bằng bảy báu. Lúc ấy, Ta cũng không nói khổ, tập, diệt, đạo cho chúng sinh. Ai uống được nước ao này thì đều thành đạo quả. Đó gọi là do thần lực của Bồ-tát làm ra. Ở phương Nam, Tây, Bắc cũng như vậy.

Ta xưa thành Phật thì bốn phương theo bên phải, chứ chẳng phải theo bốn góc mà thành Phật. Bốn góc thành Phật là thị hiện thành Phật không thật. Vì sao? Vì trải qua vô số a-tăng-kỳ kiếp đã thành tựu tám vị pháp. Thế nào gọi là tám?

Một là: vị hỷ. Hai là: vị tận. Ba là: vị định. Bốn là: vị đáo. Năm là: vị tịnh. Sáu là: vị tướng.

Bảy là: vị bất động. Tám là: vị bất cứu cánh. Đó là tám vị trong ao.

Nếu Đại Bồ-tát nào uống nước cam lồ này thì không rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, sẽ thành đạo vô thượng. Từ lúc mới phát tâm cho đến khi ngồi nơi gốc đạo thọ rửa sạch tâm cấu bẩn, vĩnh viễn không còn gì cả. Ai có nước tám giải thoát trong ao bảy giác ý từ lúc mới phát tâm đến giải thoát: Chưa đến, khoảng giữa, đã đến mà ở giữa của hai địa, thì mới gọi là Bồ-tát.

Nếu Bồ-tát từ ao nước tám vị mà phân biệt hỏi mùi vị của nó: Đây là vị chẳng phải vị, đây là đạo chẳng phải đạo, tai không phân biệt tiếng, mũi không phân biệt hương, lưỡi không phân biệt mùi vị, phân biệt rõ ràng là vô sở hữu, vì các pháp vốn vắng lặng, đó là Đại Bồ-tát tịnh tu hạnh thanh tịnh.

Phẩm 8: BÁT CHỦNG THÂN

Đức Phật dạy:

– Các Đại Bồ-tát bậc học, vô học và bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đến đây hội họp đều được tất cả chúng sinh cúng dường.

Hoặc có chúng sinh ở địa Kiến, địa Bạc, địa Tịnh, địa Như Lai, địa Phật-bích-chi, địa Bất thoái chuyển, địa Đạo tràng, địa Thuyết pháp. Nhờ tám địa này mà thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Địa Kiến là gì? Là Bồ-tát phát tâm hướng lên ngôi Bồ-đề vô thượng.

Lại có Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến lúc ngồi bên cội cây Thọ vương, tự điều phục tâm dục của mình, chiến thắng quân ma thì nhập định Tammuội ngay chỗ ngồi. Tam-muội ấy là:

Tam-muội Khử tật đố.

Tam-muội Tâm thắng.

Tam-muội Bí tàng.

Tam-muội Trừ si.

Tam-muội Oai thần phục.

Tam-muội Như chư Phật Thế Tôn vô ngôn giáo.

Tam-muội Thị hiện biến hóa.

Khi ấy, ma ác Ba-tuần đến quấy nhiễu Phật. Nếu không phải sức của chính mình để đến thì đều nhờ oai thần của Như Lai ấy cảm vời tạo ra. Vì sao? Vì muốn biểu hiện pháp thế tục yếu kém, còn pháp đệ nhất nghĩa thì thù thắng. Vì sao? Vì nếu ma ác Ba-tuần nổi sân giận, la hét làm chấn động mặt đất thì Phật dùng Tam-muội Nhẫn nên không sao bị lay động, còn khiến cho vô số ma ác Ba-tuần ngã lăn ra đất, giống như dế, kiến và ruồi không thể nào hành động được. Đám ma ác Ba-tuần y như vậy. Nếu ma nào có đến cũng không thể nào động đến mảy lông Ta được.

Lúc này, Đức Thế Tôn dùng oai thần nhập vào định, Tam-muội, làm chấn động đến ma ác trong cảnh giới của một Đức Phật. Các ma ác này tuyên bố:

– Sa-môn Cù-đàm tâm rất yếu mềm, không phải ý chí của hàng trượng phu, vậy mà ở chỗ rất đáng sợ này lại muốn cầu Phật đạo.

Phật dạy đại chúng:

Ma ác Ba-tuần ấy là do Ta tạo ra. Tâm ma ấy là tâm thiện hay tâm ác?

Lúc đó có vị trời tên Câu-tỳ bạch Phật:

– Phật chiến thắng ma không phải là lực của ma, mà là thần lực của Phật. Vì sao? Vì loài chúng sinh ấy không hiểu pháp thế tục mà lại dùng pháp đạo. Vì muốn giáo hóa các chúng sinh ấy nên cần hàng phục đối với ma đến. Trong đó chúng sinh thấy các ma, lòng không ưa thích nhìn thấy rõ ràng sự việc. Cả ngàn vạn chúng sinh thiết lập tâm bất thoái chuyển.

Lại nữa, Đại Bồ-tát từ trời Đao-lợi sinh vào mười phương cõi, không sinh theo thấp sinh, noãn sinh, hóa sinh, thai sinh mà giáo hóa chúng sinh. Những Bồ-tát này thành tựu căn vô ký nên chúng sinh được giáo hóa cũng thành tựu căn vô ký. Vì sao? Vì là cảnh giới của Phật A-súc.

Hoặc có Đại Bồ-tát từ thế giới Nhẫn sinh vào cõi Phật nơi Bắc Phương là Quang Ảnh, thành tựu căn hữu ký và vô ký. Chúng sinh được giáo hóa cũng đều thành tựu căn hữu ký và vô ký. Đó là chúng sinh ở cõi Phật Diệu Quang của thế giới Dục Lạc.

Hoặc có Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến lúc thành Phật, giữ tâm một bề không có tư tưởng nào cả và không sân, không giận, mong muốn sinh vào cõi Phật Vô Lượng Thọ. Tất cả chúng sinh đều sinh vào cõi đó. Bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheoni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều cùng một màu vàng ròng.

Về phương Tây, cách cõi Diêm-phù-đề này mười hai ức na-do-tha có cõi nước tên là Giải Mạn, dân trong quốc độ ấy ưa thích ca hát; y phục, trang sức, hương hoa, trang hoàng giường cửa bằng bảy báu. Đưa mắt về phía Đông thì giường báu cũng chuyển theo, nhìn về phía Tây, Nam, Bắc đều cũng chuyển như vậy. Tất cả chúng sinh đều phát tâm muốn sinh về cõi Phật A-di-đà, nhưng họ đều bị đắm nhiễm vào cõi Giải Mạn nên không thể nào tiến lên để sinh vào cõi Phật A-di-đà. Trong ức ngàn vạn người có một người có thể sinh vào cõi Phật A-di-đà. Vì sao? Vì tâm họ không chấp trước, biếng trễ, ngã mạn. Những chúng sinh này tự mình không sát sinh, cũng không bảo người khác sát sinh. Do có những phước báo như vậy nên họ sinh vào cõi Vô Lượng Thọ.

Hoặc có Đại Bồ-tát đầy đủ sáu độ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và giải thoát trí tuệ, sinh vào cõi Phật Dũng Dược ở phương Nam, cách cõi Diêm-phù-đề này một ức cõi Phật. Những chúng sinh ấy không có tư tưởng si, ái, dâm, dục. Vì sao? Vì họ đã đoạn diệt hết ba mươi sáu hành động dâm dục ở cõi Dục, chủng tánh được thành tựu, việc làm đều thanh tịnh, giống như ánh sáng mặt trời không bị mây che.

Chúng sinh nơi cõi này hành mười hai hạnh Đầu-đà. Mười hai hạnh ấy là gì? Là ngày đêm ba thời, kinh hành, ngồi thiền không sai giờ giấc, ngồi bên gốc cây, ở trong gò mả, ở nơi đất trống, ở chỗ hang đá không có người, sống chỗ nguồn suối, có lúc ăn một bữa, không ăn, mặc pháp phục tề chỉnh không mất oai nghi, có lúc nói pháp, có lúc không nói pháp, kinh hành xoay vòng biết vừa đủ, pháp để nói là: “Thiểu dục là chân đạo, đa dục là phi đạo, dừng tâm định ý, hiểu pháp không, vô tướng, vô nguyện”. Đó là những sự tu hành của Đại Bồtát ở cõi Dũng Dược. Chúng sinh ấy chuyên học về Nhất thừa, không có La-hán, Phật-bích-chi thừa, có đầy đủ tướng tốt, ca ngợi chánh pháp, hiểu về không, vô ngã.

Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Tất cả hành đã diệt
Thức là pháp bên ngoài
Có sinh đều có diệt
Niết-bàn rất an lạc.
Cúi lạy Phật Dũng Dược
Đấng Pháp vương đệ nhất
Ngồi nơi cây Diêm-phù
Ban đầu phá lưới dục.
Nói pháp độ quần sinh
Cúng dường các ruộng phước
Ngồi nơi cây tư duy
Phạm thiên đến khuyến thỉnh.
Xin Phật ra khỏi thiền
Thương xót kẻ ngu si
Khi ấy Phạm Thiên vương
Tay cầm đàn lưu ly.
Ca ngợi công đức Phật
Giọng êm ả dịu dàng
Với ức trăm ngàn kiếp
Có người phát tâm đạo.
Tâm đạo gốc Bồ-tát
Ức kiếp có một lần
Xin mau ra khỏi thiền
Chuyển pháp luân vô thượng.
Như hoa Ưu-đàm-bát
Lâu xa có một lần
Có Phật chiếu thế gian
Trừ tăm tối phiền não.
Thế giới Phật Dũng Dược
Nghe thí, giới thanh tịnh
Không giống cõi Năng Nhẫn
Cứng cỏi khó giáo hóa.
Tư duy đạo thiền định
Diệt thân không thọ chứng
Ba chuyển, năm ngại pháp
Dây mười hai mắc xích.
Đạo nghiệp ba mươi mốt
Mười sáu tâm từ bi
Tỏa phóng ánh sáng lớn
Chiếu khắp các cõi Phật.

Sau khi nói kệ xong, Đức Phật bảo đại chúng trong chúng hội:

– Về phương Đông bắc, cách thế giới Năng Nhẫn này năm trăm Hằng hà sa cõi có nước tên Quả Thục, Phật hiệu Hoa Anh, đầy đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hiện đang thuyết pháp, lời nói đầu đều thiện, lời nói giữa đều thiện, lời nói cuối cũng đều thiện, ý vị thâm thúy, đồng tu phạm hạnh. Chúng sinh cõi ấy không có thai sinh, hóa sinh, thấp sinh và noãn sinh. Tất cả đều sinh từ hoa sen, có từ, bi, hỷ, xả, một trăm lẻ bảy thần túc định ý khó có và đều cùng nhau tu tập Tam-muội Vương Tammuội. Tam-muội ấy là:

Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Tam-muội Giác đạo.

Tam-muội Oai nghi giới cấm.

Tam-muội Trừ chúng sinh khổ bản.

Tam-muội Tự chiếu quang minh.

Tam-muội Giác vị chúng sinh.

Một trăm lẻ bảy Tam-muội như vậy.

Quán thân bên trong, quán thân bên ngoài, quán thân trong ngoài; pháp trong, pháp ngoài, pháp trong ngoài; định trong, định ngoài, định trong ngoài; tư duy phân biệt, quán rõ vô hình, vô tưởng, vô niệm. Đại Bồ-tát nhập vào môn giải thoát, quán tất cả pháp đều không tịch vô hình. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Hư không, không biên giới
Âm vang nói diệu pháp
Bồ-tát cõi Quả Thục
Đấng tối thắng Hoa Anh.
Không sinh bốn bào thai
Mà sinh từ hoa sen
Tưởng không ta, không người
Tuổi thọ không thể lường.
Quốc độ bằng bảy báu
Cũng như Diêm-phù-đề
Vua Chuyển luân bảy báu:
– Voi, ngựa, ngọc nữ báu.
Giữ kho, bốn bộ binh
Ma-ni, xe báu vàng
Đi đâu cũng không ngại
Ma-ni báu cõi ấy.
Chiếu khắp một cõi Phật
Chiếu vô biên cũng vậy
Cõi ấy không nhật nguyệt
Tinh tú và lửa sáng.
Phân biệt bốn diệu đế
Đạo vô thường, khổ, không
Khiến các chúng sinh ấy
Vô sinh đoạn diệt tưởng.

Nói kệ xong, Đức Phật bảo đại chúng:

– Về phương Tây bắc, cách cõi Diêm-phù-đề này bảy vạn Hằng hà sa cõi, có cõi nước tên Bảo Lưu Ly, Phật hiệu Tuệ Thành Tựu, gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn hiện đang giảng nói pháp, lời nói đầu thiện, lời nói giữa thiện, lời nói cuối cũng thiện. Chúng sinh nơi cõi ấy có tánh nhu hòa, quán đạo vô thường, xa lìa ba tai hại, không dâm - nộ - si, không có ba đường ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ với đại chúng:

Các nhập đường phiền não
Gây bốn loại điên đảo
Tất cả đều diệt tận
Như hư không không tướng.
Tuổi thọ đến vô số
Không có ai chết yểu
Hành bốn pháp vô úy
Chứng quả không lay động.
Ai sinh trong cõi ấy
Hành từ chứng Tam-muội
Như Ta – Thích Ca Văn
Dũng mãnh vượt kiếp số.
Cho nước, của, vợ con
Không tưởng, không luyến tiếc
Này Phật tử các ông
Phát nguyện sinh cõi ấy.
Không có pháp Thanh văn
Rõ nhân duyên thành Phật
Ở trong trăm ngàn kiếp
Siêng năng tu đạo đức.
Trong mười sáu phần này
Chưa đạt được một phần
Quán tánh pháp các pháp
Tuệ thông đạt vô ngại.
Diệt sạch tâm chấp ngã
Liền trụ địa Vô sinh
Các chúng sinh cõi ấy
Lập chí rất kiên cố.
Phá hữu, không trụ hữu
Pháp bổ xứ đã học
Này Phật tử các ông
Hiểu rõ không chỗ hành.
Xả thiền, nhập Sơ thiền
Mới biết khổ chúng sinh
Trung gian chín vô ngại
Tướng thiền không thể lường.
Tâm chúng sinh thanh tịnh
Ý niệm không giống nhau
Đã lìa vực năm đường
Phật nhật chiếu ba cõi.
Lành thay được lợi lớn
Cảm động các cung trời
Đồng chân Nhất thiết trí
Giáo hóa không mỏi mệt.
Chúng sinh đắc tâm từ
Luyến mộ đạo vô thượng
Trải qua vô số kiếp
Bỏ thân, lại thọ thân.
Luân hồi trong sinh tử
Được thoát khỏi trói buộc
Hương chiên-đàn tứ đế
Hương cây Mật-tế-bặc.
Sức Tam-muội trí tuệ
Phá trừ chúng binh ma
Hết một niệm quá khứ
Lấy Tam-muội gì đoạn.
Hết hai niệm vị lai
Trừ bằng định, đạo nào
Hết ba niệm hiện tại
Diệt tận cốt còn gốc.
Hết một niệm quá khứ
Chín vạn ức trần cấu
Do không định tịch tĩnh
Đạt đến không, không bờ.
Vị lai dứt chín kiết
Tâm định không niệm tưởng
Tịch nhiên đạt Phật đạo
Luôn trụ vô sở trụ.
Ba chín kiết hiện tại
Cầu pháp không chướng ngại
Diệt trừ tâm ý thức
Dần dần trụ vô ngại.

Nói kệ xong, Đức Phật bảo đại chúng:

– Về phương Tây nam, cách thế giới Năng Nhẫn này ba mươi hai Hằng hà sa cõi, có nước tên Vô Tưởng, Phật hiệu Nhất Trụ gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hiện đang giảng nói pháp, lời nói đầu thiện, lời nói giữa thiện, lời nói cuối cũng thiện, ý nghĩa thâm thúy, phân biệt rõ về năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, sáu tình, sáu trần, tu tướng vô thường, chánh niệm tỉnh thức. Pháp ban đầu là tư duy về thân bị hủy hoại. Thân này chẳng thật có, cho bốn rắn là nhà. Thân này như độc hủy hoại đạo thiền của con người. Thân này như voi, tâm không vừa đủ. Thân này như rồng thích ở vực sâu. Đạo Phật vô vi, thanh tịnh không tỳ vết, như hoa sen trong nước không nhiễm bùn dơ, như mặt trời chiếu khắp trời đất che lấp tất cả ánh sáng của đom đóm. Trong các núi cao, núi Tu-di là trên hết. Trong ánh sáng của các vì sao thì ánh sáng mặt trăng là trên hết. Như Lai hiện ra đời vì đèn pháp là đệ nhất.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Đoạn cấu, diệt trừ tưởng
Tâm trói buộc được mở
Ý niệm định tịch nhiên
Tịnh hạnh được đầy đủ.
Trong một ý một niệm
Đoạn diệt cấu kiết sử
Trừ bỏ hẳn kiếp khổ
Chấm dứt không tái sinh.
Đạo không tịch vô thượng
Như có, như không có
Người, ta và các thức
Tưởng như mộng, ảnh, huyễn.
Bồ-tát tu khổ hạnh
Kiếp số khó lường được
Muốn nói hết căn bản
Chẳng một, chẳng hai hình.
Nếu có người trí tuệ
Giảng nói vô lượng nghĩa
Một nghĩa có ức câu
Mỗi câu đều khác nhau.
Hư không lấp đầy được
Nhưng nghĩa ấy không cùng
Ta từ xưa đến nay
Hành sáu độ vô cực.
Bố thí trừ keo kiệt
Thiền định cũng như vậy
Kiếp thiêu, tâm không động
Không đến cõi Phật khác
Nhờ thần lực cảm vời
Trụ kiếp mà giáo hóa.

Nói kệ này xong, Đức Thế Tôn liền dùng định ý để tự trang nghiêm thân, nói với đại chúng:

– Về phương Đông nam, cách thế giới Năng Nhẫn này ba mươi ba Hằng hà sa cõi, có cõi nước tên Lưu Ly, Phật hiệu Tín Giải gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hiện đang giảng nói pháp, lời nói đầu đều thiện, lời nói giữa đều thiện, lời nói cuối cũng đều thiện, phân biệt hạnh kiết tường của bốn đạo. Bảy lần sinh, còn lại ba lần không sinh trở lại thì ở ngay hiện đời mà nhập Niết-bàn, đoạn khổ, tập, diệt, thủ đạo chứng đắc.

Khi ấy, có vị trời tên Nhãn Tịnh ở trong chúng còn hồ nghi: “Nay ta nên hỏi Như Lai về ý nghĩa đó để cho bạn đồng tu của mình đều được khai ngộ”. Thế rồi Thiên tử đứng dậy, quỳ gối chấp tay bạch Phật:

– Cúi xin Đức Thế Tôn nói cho chúng con về nghiệp dâm - nộ - si của Đại thừa bình đẳng. Quá khứ, hiện tại, vị lai những chúng sinh si ám nào nhập môn giải thoát?

Phật bảo Nhãn Tịnh:

– Lành thay! Lành thay! Đây chính là con mắt khai thị tất cả. Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ, Ta sẽ phân biệt rõ ràng cho ông. Thế nào, nhãn là sắc phải không?

Thưa:

– Không phải. Phật lại hỏi:

– Là phi sắc chăng? Thưa:

– Không phải. Phật hỏi:

– Là sắc, là phi sắc chăng? Thưa:

– Sắc không có chỗ trụ. Phật bảo Nhãn Tịnh:

– Như vừa rồi ông nói: Sắc ấy chẳng phải sắc, là sắc, là phi sắc, sắc không có chỗ trụ thì vì sao đặt danh từ để nói là sắc?

Nhãn Tịnh thưa:

– Tánh sắc hư mục, hiện tại diệt không trụ, quá khứ không hiện. Đời này qua đời sau vĩnh viễn đoạn tận không còn nữa, cho nên nói Niết-bàn Vô dư.

Phật hỏi Nhãn Tịnh:

– Thức này từ xưa đã có hay từ đâu sinh? Ngày nay bốn chúng diệt cấu bẩn ba đời, vậy thì đi về đâu?

Nhãn Tịnh thưa:

– Xưa vốn từ không mà đến, nay trở về không. Trước không, sau không thì có thay đổi gì khác không?

Đức Phật dạy:

– Không. Ông nên biết: Thật tướng của các pháp trước không thể cùng, sau không thể tận.

Phật dạy Nhãn Tịnh:

– Ta từ vô số a-tăng-kỳ kiếp luôn tu hành phước nghiệp, nghĩ đến tất cả chúng sinh bị đắm chìm mà thương xót cho sự đau khổ của họ, muốn độ họ giải thoát. Vì sao? Vì nay ở trong thai, dục mà Ta diệt thì Ta đã diệt sạch hoàn toàn, kết quả nguyện thành ngày nay đã đạt được. Chúng sinh nơi cõi ấy không lấy việc thành Phật hay không thành

Phật cho đấy là mối khổ lụy. Vì sao? Vì chúng sinh nơi cõi ấy lập ý dũng mãnh, không ở hữu thai, không ở vô thai, không ở hóa sinh, công đức thành tựu, chẳng phải giác, chẳng phải phi giác.

Thế nào là giác và thế nào là phi giác? Tất cả chúng sinh ngu si Ta đều giác ngộ cho họ, đó gọi là giác. Tất cả những người giác ngộ đoạn trừ hết kiết sử, đó gọi là phi giác.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Biết Phật hiện nơi đời
Phóng xa ánh sáng lớn
Khổ tập diệt kiết sử
Đứng yên không dám gần.
Giả sử đất chấn động
Ba cõi nát như bụi
Thâu tâm nhập định ý
Các tướng đều khác nhau.
Niệm Như Lai Chí Chân
Trừ tưởng không nhập định
Vào trở lại chúng sinh
Tạo nhân lại tạo duyên.
Tinh tấn trí tuệ lớn
Giáo hóa kẻ ngu si
Hướng dẫn chúng sinh này
Để độ kẻ chưa độ.

Phẩm 9: TOÀN THÂN XÁ LỢI

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo đại chúng:

– Ta nhớ công đức xưa kia Ta đã hành xả thân lại thọ thân chẳng phải một chẳng phải hai. Nay Ta sẽ nói cho các ông về pháp nhất hành. Sao gọi là pháp nhất hành?

Đại địa chủng này dày tám mươi bốn vạn ức dặm mới có gió lớn dày tám mươi bốn vạn ức dặm, dưới gió có lửa dày tám mươi bốn vạn ức dặm, dưới nước có lửa dày tám mươi bốn vạn ức dặm, dưới lửa có cát dày tám mươi bốn vạn ức dặm, dưới cát có cõi Kim cang dày tám mươi bốn vạn ức dặm. Toàn thân xá-lợi của chư Phật đều ở trong cõi Kim cang ấy.

Cõi Kim cang dày tám mươi bốn vạn ức dặm, phía dưới có xá-lợi thân vụn nát của chư Phật đều ở trong cõi ấy. Cõi ấy có cõi Phật Diệu Âm, Phật hiệu Bất Trụ Như Lai, đầy đủ mười tôn hiệu, hiện đang giảng nói pháp, lời nói đầu thiện, lời nói giữa thiện, lời nói cuối cũng thiện, tịnh tu phạm hạnh, thành tựu quốc độ. Xá-lợi Phật ấy rất nhỏ, có thể hiện thân Phật có quyến thuộc đệ tử vây quanh để giáo hóa. Như ngày nay, Ta ở trong thai giảng nói pháp, chúng sinh ấy không thấy Ta. Chúng sinh của Ta không thấy cõi kia, phá hữu đến vô, luôn luôn vắng lặng, tánh trụ vào chỗ vô ngại. Đó gọi là do một xá-lợi chiêu cảm ra.

Phật lại bảo các đại chúng:

– Phía dưới thân vụn xá-lợi dày tám mươi bốn vạn ức dặm có cõi tên Thanh Tịnh, Phật hiệu Biến Quang, có đầy đủ mười tôn hiệu. Phật ấy hiện đang thuyết pháp, lời nói đầu, giữa, cuối đều thiện, tịnh tu phạm hạnh. Mỗi màu sắc ánh sáng của Phật ấy khác nhau, mỗi ánh sáng đều hóa thành mỗi Đức Phật, mỗi Đức Phật đều nói hết sáu độ vô cực.

Sáu độ đó là gì? Là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Đức Phật dùng phương tiện thiện xảo điều phục tâm thức, không ngu si, không dâm, không ham muốn; quan sát rất rõ về các pháp giống như trăng xua tan mây; tự quán thân mình như ta không khác, tâm đắc không định, đều được thành tựu tất cả; ngồi ngay thẳng nơi đạo tràng, ca ngợi xiển dương chánh pháp, tâm không sợ hãi.

Cách cõi Phật Quang Minh này về phương dưới tám mươi bốn vạn ức dặm có cõi tên Thí Vô Tận Tàng, Phật hiệu Quán Trợ Như Lai, đầy đủ mười tôn hiệu, hiện đang thuyết pháp, lời nói đầu, giữa, cuối đều thiện, luôn tu phạm hạnh, bố thí tài vật. Người nào tuân theo đều đắc đạo quả. Đó gọi là sự bố thí hiếm có của Như Lai.

Dưới thế giới Vô Tận có thế giới Pháp Cổ dày tám mươi bốn vạn ức dặm, có Phật hiệu Thiện Kiến, đầy đủ mười tôn hiệu, hiện đang thuyết giảng pháp. Chúng sinh nơi cõi Phật ấy không có nhiều tên, đều cùng một chữ, một họ, nghe pháp hiểu ngay không cần phải suy nghĩ lại. Chính cõi ấy mới có toàn thân xá-lợi. Ức ngàn vạn Đức Phật ở quá khứ đều lưu xá-lợi lại nơi đây. Xá-lợi ở cõi ấy Ta cũng có phần, chẳng phải một chẳng phải hai. Xálợi Phật ấy không có trụ xứ, cũng chẳng phải không trụ, qua lại xoay vần trong hằng hà sa cõi; tướng ánh sáng đầy đủ, theo căn cơ của chúng sinh mà giáo hóa, không có ai biếng trễ, đoạn diệt ba mươi mốt ức kiết sử và hai vạn hai ngàn vọng tưởng ràng buộc; có mười tám pháp bất cộng thù thắng, thị hiện giáo hóa, thọ chứng vô úy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Ta từ vô số kiếp
Qua lại đường sinh tử
Xả thân lại thọ thân
Không lìa sinh bào thai.
Nghĩ việc Ta trải qua
Nhớ rõ không sai sót
Thường làm thân chó trắng
Xương chất ức Tu-di.
Lấy kim đâm xuống đất
Đều gặp thân thể Ta
Huống gì chó màu khác
Số ấy không thể lường.
Ta luôn giữ tâm mình
Không cho nó buông lung
Như người đứng Tu-di
Giữ bình thuốc bất tử.
Người ở dưới nâng bình
Rót thuốc không rớt ngoài
Trong lúc gian nan ấy
Bị thổi theo gió núi.
Thân phàm phu như bụi
Chỉ trừ người bát trụ
Hai người giữ bình này
Ai là người tối thắng.
Người ở dưới chánh niệm
Luôn sợ ngã hai bên
Thọ lạc không mất nghĩa
Nên gọi đạo thần túc.
Người trên đại từ bi
Nói ngay không tra cứu
Ý thức đều khác nhau
Thành đạo cũng như vậy.
Ta ở cõi khổ nhẫn
Thành Phật giống người dưới
Tích hạnh a-tăng-kỳ
Mới đạt thành Phật đạo.
Cõi này đến cõi kia
Trải ngàn ức như vậy
Như kim quăng xuống biển
Thò tay liền lấy được.
Không tuệ cầu tháo nước
Nhiều kiếp không lấy được
Người ngu si thế gian
Không phân biệt thiện, ác.
Núi Tu-di bốn báu
Nói là đống than khói
Đại bàng vua loài chim
Lại cho là ve, muỗi.
Trùng ở dấu chân bò
Không thấy biển rộng lớn
Nhật quang là dợn nắng
Người ngu cho ngọn lửa.
Pháp ấy Ta đâu tạo
Người ngu tự làm ra
Thức ra vào liên tục
Tinh luyện thuật đạo thành.

Khi ấy, Đức Thế Tôn liền đọc chú:

– Y nhĩ ma nhĩ, trà thệ ly thệ thuần đồng xí ly xí ly.

Bấy giờ, Đại Thiên vương Tỳ-sa-môn liền đứng dậy, đầu mặt đảnh lễ nơi chân Phật, thưa:

– Thưa Thế Tôn! Con luôn ủng hộ thiện nam, thiện nữ, người thiện hành pháp, ủng hộ ba ánh sáng ba bóng của thân người ấy. Ba ánh sáng ba bóng là gì? Như ngày nay con thống lãnh chúng La-sát, là bóng của thân, bóng thân của thân, bóng của bóng. Ảnh của thân là gì? Bóng thân của thân là gì? Bóng của bóng là gì?

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Thân do bốn đại hợp
Địa, thủy, hỏa, phong thành
Qua lại ở xoay vần
Ở cũng không thấy ở.
Thân và thân của thân
Hết đời lại thoát thân
Nghĩa ba câu bóng bóng
Như Phật lưu thần quang.
Vải gói thuốc ma kỳ
Cách xa mùi vẫn thơm
Pháp giải thoát của Phật
Thanh tịnh không tỳ vết
Bóng thân thân giáo hóa
Độ người không được độ.
Ai thấy pháp thân tướng
Nhập định niệm thân thân
Bóng bóng không hồ nghi
Đều thành đạo vô thượng.

Khi ấy, Thiên vương Đề-đầu-lại-trá muốn ủng hộ các pháp sư liền nói chú:

– Y hê, ma hê, diêm phù, diêm lam phù đột đột lặc xí. Ta sẽ ủng hộ pháp sư trong ức ngàn trăm vạn do-tuần để không có ai quấy nhiễu vị ấy được. Thiên vương Tỳ-lâu-lặc-xoa liền đứng dậy thưa Phật:

– Con cũng sẽ ủng hộ Pháp sư chân thật. Và liền nói chú:

– Già lê, già lê, ni trĩ, cứu bát trĩ, làm cho trong ức trăm vạn do-tuần không có ai làm hại quấy nhiễu cả.

Thiên vương Tỳ-lâu-bác-xoa liền đứng dậy, đầu mặt lạy sát chân Phật và thưa:

– Bạch Thế Tôn! Con sẽ ủng hộ vị pháp sư chân chánh. Và liền nói chú:

– Xá nhĩ, xá nhĩ, bát bà thiên ma lâu hê, khiến cho trong trăm ức do-tuần, không có ai đến quấy nhiễu.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Hoa thơm sắp tuyệt đẹp
Cảm động các cõi Phật
Do Phật không tưởng niệm
Thành Phật trọn vẹn đạo.
Sức nhẫn không biên giới
Phá hữu – vô ba thừa
Tướng toàn thân xá lợi
Rất nhỏ như bụi trần.
Cứu giúp cả hằng sa
Không đọa ba đường ác
Phật hiện kiếp cần khổ
Che chở hành đại bi.
Chúng sinh không biên giới
Để thành đạo vô thượng.

Khi ấy, trong pháp hội có ba mươi hai ức chúng sinh liền phát tâm Bồ-đề cầu đạt đạo quả vô thượng bình đẳng.

Phẩm 10: THƯỜNG - VÔ THƯỜNG

Bấy giờ, trong đại chúng có Bồ-tát tên Quán Kiến Vô Thường đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay thưa Phật:

– Lành thay! Lành thay! Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn hãy mau giảng nói nghĩa này. Chánh pháp của chư Phật không thể nghĩ bàn. La-hán, Phậtbích-chi không thể nào theo kịp. Vốn nó không có chân tánh, không thể cùng tận. Như Lai hiện thân ra một vào một, biến hóa đủ cách, khi làm nát thân xá-lợi, hoặc giữ toàn thân xá-lợi, hoặc ẩn mất không hiện, hoặc lưu hành khắp trong thế gian, hoặc hiện cảnh giới một Đức Phật, hoặc hiện ở rất nhiều cảnh giới chư Phật, thần thông biến hóa, đạo lực tự tại, kỳ lạ đặc biệt như cõi hư không. Thường cũng là vô thường, vô thường cũng vô thường. Trụ cũng vô trụ, vô trụ cũng vô trụ. Biến đổi chẳng phải một. Nguyện muốn nghe Như Lai giảng nói về nghĩa thường, vô thường. Như ngày nay con ở trong cửu địa là thường hay vô thường?

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Quán Kiến Vô Thường:

– Nay Ta hỏi ông, ông hãy đem tánh chân thật để trả lời cho Ta.

Thế nào, này Tộc tánh tử! Sắc là thường phải không?

Trả lời:

– Thưa không. Đức Thế Tôn hỏi:

– Sắc là vô thường phải không? Trả lời:

– Thưa không. Đức Thế Tôn hỏi:

– Sắc chẳng phải thường, chẳng phải vô thường phải không?

Trả lời:

– Thưa không. Đức Thế Tôn hỏi:

– Thế nào, này Tộc tánh tử! Sắc là hữu dư phải không? Trả lời:

– Thưa không. Đức Thế Tôn hỏi:

– Sắc là vô dư phải không? Trả lời:

– Thưa không. Đức Thế Tôn hỏi:

– Sắc là hữu dư, vô dư phải không? Trả lời:

– Thưa không. Đức Thế Tôn hỏi:

– Sắc chẳng phải hữu dư, chẳng phải vô dư phải không?

Trả lời:

– Thưa không. Đức Phật dạy:

– Tộc tánh tử! Thọ, tưởng, hành, thức là thường phải không?

Trả lời:

– Thưa không. Đức Thế Tôn hỏi:

– Thọ, tưởng, hành, thức là vô thường phải không? Trả lời:

– Thưa không. Đức Thế Tôn hỏi:

– Thọ, tưởng, hành, thức là thường, là vô thường phải không?

Trả lời:

– Thưa không. Đức Thế Tôn hỏi:

– Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường, chẳng phải vô thường phải không?

Trả lời:

– Thưa không.

Đức Thế Tôn hỏi:

– Thọ, tưởng, hành, thức là hữu dư phải không?

Trả lời:

– Thưa không. Đức Thế Tôn hỏi:

– Thọ, tưởng, hành, thức là vô dư phải không?

Trả lời:

– Thưa không. Đức Thế Tôn hỏi:

– Thọ, tưởng, hành, thức là hữu dư, vô dư phải không? Trả lời:

– Thưa không. Đức Thế Tôn hỏi:

– Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải hữu dư, chẳng phải vô dư phải không?

Trả lời:

– Thưa không.

Phật hỏi Bồ-tát Quán Kiến Vô Thường:

– Niết-bàn là tịnh phải không? Trả lời:

– Thưa không. Đức Thế Tôn hỏi:

– Niết-bàn là bất tịnh phải không? Trả lời:

– Thưa không. Đức Thế Tôn hỏi:

– Niết-bàn là tịnh, bất tịnh phải không? Trả lời:

– Thưa không.

Phật bảo Bồ-tát Quán Kiến Vô Thường:

– Thật tánh của Niết-bàn thật sự trụ ở chỗ nào?

Trả lời:

– Trụ mà không có chỗ trụ. Phật hỏi:

– Phi hữu chúng sinh, phi vô chúng sinh phải không? Trả lời:

– Thưa không. Phật dạy:

– Duyên vị đoạn từ năm tụ tánh cho đến ba mươi bảy phẩm, không, vô tướng, vô nguyện.

Duyên vị đoạn không lìa, chẳng phải không lìa, không sinh chẳng phải không sinh, cho nên trụ mà không có chỗ trụ.

Vì sao? Vì tánh tự nhiên là không. Đây không, kia không, trong không, ngoài không, Niết-bàn không, Như Lai xuất hiện nơi đời năm trược không thấy có sinh diệt chấp đoạn, không thấy có định có loạn, không thấy trì giới phạm giới, không thấy có nhẫn có sân, không thấy tinh tấn biếng trễ, không thấy có phiền não định tâm, không thấy có ngu si trí tuệ, không thấy có ý thức tư tưởng, không thấy đạo – tục - Ba-la-mật, không thấy cõi Phật thanh tịnh, không thấy tịnh tu đạo tràng, không thấy có chúng sinh đoạn cấu. Đó gọi là Bồ-tát trụ mà không có chỗ trụ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Phạm hạnh tâm thanh tịnh
Phá trừ cảnh giới ma
Sức nhẫn đạo vô thượng
Yên định không nghĩ bàn.
Ta từ vô số kiếp
Luôn trụ không chỗ trụ
Một lòng nhập không tuệ
Thân trang nghiêm các tướng.
Đương lai Tộc tánh tử
Và những người hiện tại
Sẽ trụ không chỗ trụ
Hiểu tánh thường vô thường.
Các trần các chướng ngại
Hoại nghiệp thiện của Ta
Rửa sạch hết trần cấu
Như vàng không tỳ vết.
Tuệ là tướng thế gian
Hướng dẫn người mắt mù
Khiến cho người ngu si
Hiểu rõ pháp chân như.
Đạo nhân duyên vô vi
Thông đạt sáu thần thông
Kho đại pháp vô tận
Ban bố người thấp kém.
Thích thọ ba giải thoát
Ba đời không chấp trước
Hiện tại tất cả pháp
Hết cấu, nhập định Phật.
Đại tuệ quang Như Lai
Đoạn trừ pháp nghi ngờ
Tướng si trong lặng tịnh
Hiểu đạo không, vô thường.
Bao nhiêu người cho thường
Dính chặt trong sinh tử
Không lìa pháp hữu vi
Bị phiền não trói buộc.
Pháp sáu độ ba tuệ
Châu báu và vợ con
Dứt ái không thương tiếc
Xuất gia đạt thành đạo.
Người có niệm thiện, ác
Những hạng sơ, trung, hạ
Luân chuyển trong năm đường
Tánh sinh diệt không thật.
Khổ vốn vô lượng số
Đời đời không dừng nghỉ
Trống pháp vang ngàn cõi
Chấn động cảnh giới ma.
Loài quần sinh các ngươi
Nương tựa sáu thần thông
Thân tùy theo tâm niệm
Đến chỗ không chướng ngại.
Năm tháng tu đạo hạnh
Ngày đêm không trái thời
Chứa đức như Tu-di
Thành tựu chứng quả Phật.
Sinh diệt như huyễn hóa
Cũng như bóng trong gương
Thọ nhập ba mươi sáu
Nhập định mới thành tựu
đạo. Tánh chân thật Như
Lai Không nhiễm không chấp trước
Hành từ vượt bảy độ
Các báu tự anh lạc.
Ba mươi hai ức kiết
Trói buộc không thể mở
Cốt dùng kiếm trí tuệ
Chặt dứt không còn gì.
Lại lấy tám giải thoát
Như vị pháp cam lồ
Để kẻ khát ái kia
Sung mãn không còn nghĩ.
Xưa Ta chưa thành thiền
Luôn ở trong ngu si
Kết chặt bốn điên đảo
Cầu giải thoát khó được.
Nhập bốn vô ngại thiền
Tự tại không sợ sệt
Định tâm ý vững chắc
Tận đời không tái sinh.

Khi Đức Thế Tôn nói kệ xong, có tám mươi bốn ức chúng sinh phát tâm cầu đạo quả Chánh chân vô thượng, đối với tín hành không thoái chuyển.

QUYỂN 4

Phẩm 11: TÙY HỶ

Khi ấy, trong pháp hội có Bồ-tát tên Đảnh Vương dẫn hai vạn năm ngàn người từ thế giới An Trụ ở phương Đông đến, bước tới trước chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ Đức Phật và lui qua ngồi một bên, bạch:

– Bạch Thế Tôn! Con nghe Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn ở trong thai giáo hóa với vô lượng thần biến, có cung điện bảy báu được trang hoàng rất nhiều vật báu, được chư Phật Thế Tôn tôn trọng cung kính. Chư Phật Thế Tôn quá khứ, hiện tại và vị lai chưa từng giảng nói pháp khó có này. Tướng pháp của chân tế không thể cùng tận, luôn thực hành những hạnh khổ cực từ vô số kiếp. Trong thời gian đó cũng có sinh có diệt. Con muốn nghe biết tất cả những quốc độ khác nhau mà thần đức của Như Lai đã giáo hóa, luôn hành bình đẳng nhập vào đạo vô vi, bát giải đồng chân, phạm hạnh thanh tịnh để cho chúng con không còn nghi ngờ.

Đức Phật dạy:

– Lành thay! Lành thay! Này Đại sĩ Đảnh Vương! Những điều ông hỏi thật sâu xa khó nghĩ, có nhiều lợi ích, cứu độ những người mê lầm, phước nhiều không thể tận.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền dùng diệu lực của thiền định, Tam-muội, duỗi cánh tay vàng xuống hai mươi hai ức cõi Phật ở phương dưới bưng thần tháp bảy báu của Như Lai Thi Khí. Tháp ấy ngang rộng một vạn tám ngàn do-tuần, bên ngoài vách tháp có hành lang bảy báu.

Nước ao, vườn, trái cây cũng đều bằng bảy báu. Ao sau vườn có bờ bằng vàng bạc. Trong ao ấy tự nhiên có nước cam lồ tám vị, có vô số trăm ngàn loại chim kỳ lạ: uyên ương, nhạn, le le. Tiếng chim kêu rất hay và mọi người cùng nhau vui chơi rất thú vị.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ với Bồ-tát Đảnh Vương:

Thức Khí quá khứ Phật
Thần pháp bằng bảy báu
Cây hoa rất nhiều màu
Hoa vàng, thân bằng bạc.
Ao nước có tám vị
Người đói khát no đủ
Phước cúng được quả báo
Đạt công đức trong thai.
Lại sau Phật diệt độ
Đấng bản nguyện Tùy Thức
Tháp bảy báu Phật ấy
Khắp cả hằng sa cõi.
Có rất nhiều châu báu
An lạc cũng khó lường
Đức Phật thủ diệt độ
Bậc tối thắng đệ nhất.
Cũng có tháp bảy báu
Đầy khắp cõi hư không
Người mắt sáng hiểu biết
Cung phụng tâm cung kính.
Dẹp mạn, không cao ngạo
Không tham đắm lợi dưỡng
Quả báo ao bảy báu
Dứt tưởng không chấp trước.
Cũng trong thai giáo hóa
Lưu hành vô số kiếp
Thần đức đại thông đạt
Độ thoát hơn ba Phật.
Giáo hóa các đệ tử
Ba thừa không dứt đoạn
Rời khỏi phương Đông này
Trong thai hiện biến hóa.
Khuyến khích kẻ hậu lai
Dẫn dắt vào nhãn tịnh
Lại Phật Ca Diếp Tôn
Ngồi thẳng ức trăm kiếp.
Chư Thiên làm quyến thuộc
Tịch tĩnh không lay động
Cũng có tháp bảy báu
Ở cõi Phật Kim Cang.
Cứu độ kẻ đọa lạc
Không rơi vào đường tà
Ta nay Thích Ca Văn
Dũng mãnh hiện một mình.
Chuyên tâm giữ ý chí
Không vướng đường sinh tử
Cõi Phật tuy xấu ác
Nhưng độ không thể lường.
Nay ở bào thai mẹ
Lấy thần biến làm vui
Chúng sinh cõi dục giới
Đọa lạc vào vạc dầu
Dìu dắt họ ra khỏi
Giống như con thiêu thân.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng thần lực biến ba ngàn đại thiên thế giới sáng rực màu vàng ròng khiến cho đại chúng trong pháp hội đều thấy thế giới An lạc. Các Bồ-tát ở đó đều ngồi trên hoa sen bảy báu. Đệ tử quyến thuộc ở đây đều màu vàng ròng, họ ăn uống bằng thiền định giải thoát, giới luật oai nghi chưa từng sai trái.

Thế nào, này Bồ-tát Đảnh Vương! Ai đến cõi Phật vừa hiện để du hóa cúng dường, phụng thờ thì phước ấy nhiều không?

Bồ-tát Đảnh Vương thưa:

– Rất nhiều, rất nhiều, bạch Thế Tôn! Vì sao? Vì cúng dường một cõi Phật phước ấy khó lường, huống chi là nhiều cõi Phật như vậy.

Đức Phật dạy:

– Nếu có Bồ-tát vượt qua Bất thoái chuyển ở Nhất sinh bổ xứ, ở trong thai hiện thần thông biến hóa, ai cung kính Bồ-tát này thì đức ấy rất tối thắng. Vì sao? Vì Bồ-tát này đã làm Phật sự không thể nghĩ bàn.

Phật lại dạy Bồ-tát Đảnh Vương:

– Nay Ta sẽ nói cho ông về tám đường chánh để trừ bỏ tám điên đảo.

Hằng hà sa các cõi Phật khắp mười phương xây đầy tháp bảy báu, nhưng không bằng cúng dường Bồ-tát Bát chánh đạo này với y phục, thức ăn uống, giường chiếu, thuốc thang, hương viên, hương bột, hương vụn, chiên-đàn, gấm lụa, vòng hoa, những vật trang hoàng nơi thân v.v... thì phước ấy rất nhiều.

Nếu có Đại Bồ-tát đối với bốn loài sinh: thai, hóa, thấp, noãn mà phân biệt về bốn ý chỉ trong một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày; một tháng, hai tháng, cho đến bảy tháng; một năm, hai năm, cho đến bảy năm; một kiếp, hai kiếp, cho đến bảy kiếp và nếu có chúng sinh phụng thờ cúng dường trước tháp bảy báu cho đến Bồ-tát tám chánh đạo thì không bằng người cúng dường cho Bồ-tát bốn ý chỉ này, phước ấy rất nhiều.

Nếu Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ ở trong thai chuyển pháp luân vô thượng bao hàm hết tất cả sự biến hóa, vô số đại sĩ thần đức qua lại xoay vần không bị chướng ngại, rồi trở về hợp lại nơi một người không giác tri và có chúng sinh cúng dường phụng thờ, không thương tiếc những gì của bản thân, giống như ngày nay Ta đã trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp đoạn trừ diệt tưởng, đây là thân cuối cùng vào thai để giáo hóa, chứng quả thần thông, đều được giải thoát.

Giống như quả chín, biến đổi không dừng, thân Phật là không, không có giới, định, tuệ, giải nhưng mùi hương của Ngài xông ướp bằng đức hạnh oai nghi, không làm mất mười hai hạnh Đầu-đà. Một phần khổ này là cảnh giới của Ta.

Khi ấy, Bồ-tát Đảnh Vương đến trước Phật nói kệ tán thán:

Thức là gốc sinh tử
Là đường đến Niết-bàn
Tự tại trong bào thai
Diệu dụng vô lượng cõi.
Bốn sinh thành cõi Phật
Biến mười sáu thần túc
Đạo vốn không một tướng
Thệ nguyện đều như nhau.
Chúng sinh bị trói buộc
Hiện có người tốt, xấu
Vô hình không thể thấy
Nay mới được quan sát.
Các thân Phật quá khứ
Dạy bảo không bờ bến
Pháp bát đạo vô thượng
Chuyên về độ quần mê.
Kinh pháp hình xá-lợi
Hiện thần thông nơi đời
Nay ta chỗ dẫn dắt
Được nghe không thể bàn.
Sáu thần pháp báu pháp
Kho báu, đài bảy báu
Mỗi mỗi phân biệt kỹ
Ý nghĩa không thể lường.
Xưa kia Phật hành đạo
Như không, không chấp trước
Nay ở bào thai mẹ
Thọ hóa chẳng phải một.
Đắc tánh chân như Phật
Cũng trụ tánh như thật
Trừ bỏ tâm kiêu mạn
Lạy đấng không, vô tánh.
Mỗi ánh sáng xá-lợi
Chiếu khắp các cõi Phật
Thọ hóa như hằng sa
Là do thần Đức Phật.
Quốc độ cách đây xa
Nhuận đạo cam lồ Phật
Nay muốn về cõi xưa
Tuyên dương pháp Như Lai.

Nói kệ xong, Bồ-tát Đảnh Vương đi nhiễu quanh Phật ba vòng và lạy Phật, lui ra.

Phẩm 12: NGŨ ĐẠO TẦM THỨC

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thị hiện chỗ thức sẽ đi đến là: Hướng đến thức đạo, thức tục, thức hữu vi, thức vô vi, thức hữu lậu, thức vô lậu, thức hoa, thức quả, thức báo, thức vô báo, thức trời, rồng, quỷ thần, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân và phi nhân, trên đến thức nơi cõi trời thứ hai mươi tám, dưới đến thức ngục Vô Cứu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn ở trong thai hiện dây móc xích bằng hài cốt đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới.

Phật bảo A-tư-đà:

– Ông có thể phân biệt thức của hài cốt này không? A-tư-đà thưa:

– Không phân biệt được. Vì sao? Vì chưa được thấu triệt, sức tu hành chưa đạt.

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Trong cõi trời này ông chưa đắc thần thông chăng? Bồ-tát Di-lặc bạch:

– Có điều thành tựu, có điều chưa thành tựu. Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Ông hãy quan sát dây móc xích hài cốt để cho tất cả chúng sinh biết nơi thức đến. Hãy phân biệt, xác định rõ ràng để không còn nghi ngờ.

Khi ấy, Bồ-tát Di-lặc liền đứng dậy, cầm gậy thần bảy báu kim cương gõ vào dây móc xích hài cốt để nghe tiếng của xương cốt. Lúc này, Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Người này qua đời vì nội kết sân giận quá nhiều nên thức đọa làm loài rồng.

Lại gõ vào xương và nói:

– Người này kiếp trước hành đầy đủ mười điều thiện nên được sinh lên cõi trời.

Lại gõ vào xương nói:

– Người này đời trước phá giới phạm luật nên sinh trong địa ngục. Cứ như vậy, Bồ-tát gõ xương: hữu lậu – vô lậu, hữu vi – vô vi, trên là hai mươi tám tầng trời, dưới đến địa ngục Vô Cứu và biết nơi thức đi đến, biết quả báo thiện ác, hành quả báo của nghiệp trắng đen; trong đó chỉ có một toàn thân xá-lợi là không hề bị hư hao.

Khi ấy, Bồ-tát Di-lặc lấy gậy gõ vào để suy tìm thức này nhưng không biết thức của ai. Gõ như vậy ba lần, Bồ-tát Di-lặc thưa Phật:

– Thần thức của người này con không thể biết được. Chẳng lẽ Như Lai nhập Niết-bàn rồi sao?

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Ông là người vào đời vị lai sẽ tiếp nối quả vị Phật, sẽ được thành Phật, đắc đạo vô thượng, vậy sao gõ vào xá-lợi mà không biết thức của ai?

Bồ-tát Di-lặc bạch:

– Phật không thể nghĩ bàn, không thể hạn lượng, vì chẳng phải cảnh giới của chúng con để có thể lường xét. Nay con có điều nghi ngờ, cúi xin Đức Thế Tôn hãy nói thần thức của năm đường để cho hết thảy mọi người được biết chỗ thiện ác mà họ đến để không còn ai nghi ngờ gì cả. Với Như Lai, nay xá-lợi này không có hư hao, xin Như Lai hãy nói thức ấy để chúng con biết.

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai đều lưu hành xá-lợi, chẳng phải cảnh giới của các ông phân biệt. Vì sao? Vì xá-lợi này tức là xá-lợi của Ta, làm sao có thể tìm kiếm thần thức của Như Lai được, nay Ta phân biệt rõ cho ông về thức thượng, trung, hạ của Như Lai. Dù là Bồ-tát nhưng đều khác nhau.

Bồ-tát Sơ trụ chưa tạo được sức căn đức mà chỉ đắc thần thông.

Bồ-tát Nhị trụ thì dùng thiên nhãn nhìn biết nơi thức hướng đến là thoái hay địa bất thoái. Cũng nhìn thấy người ở cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, hoặc nhìn thấy chúng sinh ở vô số hằng hà sa cõi Phật phương Đông cúng dường chư Phật, phụng thờ không bị chướng ngại. Còn biết kiếp số mà họ thọ ký là một kiếp, hai kiếp, cho đến trăm ngàn ức kiếp.

Hoặc có Bồ-tát ở địa Tam trụ nhìn thấy xá-lợi thì biết nơi thức đi đến là Niết-bàn hữu dư hay Niết-bàn vô dư. Như Lai không thấy chỗ đi đến của hành thức, tứ trụ.

Bồ-tát Tứ trụ thấy thức pháp của Sơ trụ, Nhị trụ, Tam trụ, nhưng không thấy chỗ đi đến thức pháp xá-lợi của bậc Ngũ trụ.

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Bồ-tát Ngũ trụ phân biệt phẩm hạ. Đối với Lục trụ thì thấy hoặc không thấy nơi thức đi đến. Bồ-tát Bất thoái chuyển lên đến Nhất sinh bổ xứ thì không biết ý nghĩa của Như Lai khi cất bước chân. Bồ-tát kế thấy Bát trụ, Thất trụ, Lục trụ nhưng lại không biết ý nghĩa của Nhất sinh bổ xứ khi cất bước chân, huống chi là muốn gõ vào móc xích xương cốt để phân biệt. Việc này không thể làm được.

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Ông nên biết điều này, mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật - Thế Tôn chỉ có Phật mới biết ý nghĩ theo thần thức của Phật. Khi ấy, Đức Thế Tôn dùng kệ nói với đại chúng:

Luân hồi vực năm đường
Thần thức ấy rất khổ
Tai, mũi, thân tâm dơ
Không thể nào xa lìa.
Thức tưởng kết thêm cấu
Lấy đao trí tuệ chặt
Tuệ chiếu chỗ tối tăm
Được đến trường vô úy.
Thức Phật đều thấy pháp
Những bộ xương xá-lợi
Giả sử nát như bụi
Rất nhỏ không thể thấy.
Như Lai biết rõ ràng
Pháp thiện ác báo ứng
Thức Phật rất vi diệu
Chẳng phải, chẳng không phải.
Vừa nói độ vạn ức
A-tăng-kỳ chúng sinh
Di-lặc lại thành Phật
Cũng sẽ bỏ xá-lợi.
Vốn do mẹ sinh ra
Thai pháp cũng như nay.

Nghe Phật nói xong, Đại Bồ-tát Di-lặc đi nhiễu quanh Phật bảy vòng, đầu mặt lạy sát chân Ngài rồi trở về chỗ cũ.

Phẩm 13: CHƯ PHẬT HÀNH TỀ VÔ SAI BIỆT

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền thị hiện tướng kỳ lạ đặc biệt: Biến tất cả Bồ-tát thành Phật có đầy đủ tướng ánh sáng. Tất cả mặc dù khác nhau nhưng đều thuyết pháp cùng một giọng nói, phân biệt vô thường, đời đời đều trở về không.

Đức của các vị khó lường được và cung kính tôn trọng nhau, có đầy đủ oai nghi và chỉ nói pháp vi diệu, không có bớt thêm, co, duỗi, cúi, ngước. Các vị đều ngồi nơi tòa cao bằng bảy báu cực đẹp, có màn trướng bằng the lụa.

Đầu tiên: Nói pháp độ vô số toàn là nam, không có nữ. Nói pháp lần thứ hai: Độ toàn nữ, không có nam.

Nói pháp lần thứ ba: Độ toàn người chánh kiến. Nói pháp lần thứ tư: Độ toàn người tà kiến.

Nói pháp lần thứ năm: Độ nam nữ chân chánh bằng nhau. Nói pháp lần thứ sáu: Độ tà chánh cũng bằng nhau.

Ngay khi ấy, tất cả pháp đều được thành tựu, không còn ngã sở và đạo quả được thành thục.

Theo pháp thường của chư Phật nói là nói về nghĩa lý.

Thần túc thứ ba có tám vạn bốn ngàn pháp môn không hành, tám vạn bốn ngàn pháp môn vô tướng, tám vạn bốn ngàn pháp môn vô nguyện. Mỗi pháp môn đều có vô lượng nghĩa. Giống như thân người trí tuệ có một ngàn cái đầu, mỗi đầu có ngàn cái lưỡi, mỗi lưỡi có một ngàn nghĩa. Nếu muốn đạt hoàn toàn nghĩa của ba pháp môn thì đối với trăm ngàn phần chưa đạt được một. Đây là kho tàng bí mật tinh túy của chư Phật. Được như vậy là đều nhờ kiếp trước đã thành tựu trong sự tu học.

Khi ấy, dù khác nhau nhưng chư Phật đều đồng thanh nói kệ:

Nguyện xưa của chúng ta
Nay đã được thành quả
Thân vàng, lời thanh nhã
Các tướng đều đầy đủ.
Muốn cầu tuệ vô cực
Thành tựu không còn nghi
Lành thay, đấng ba cõi
Tối thắng không ai bằng.
Xưa Ta ở Đâu-suất
Chọn lựa nơi thọ sinh
Giáng xuống vào thai mẹ
Kết duyên chư Như Lai.
Những chúng sinh không duyên
Nói Ta không thành đạo
Trong thai dạy chúng sinh
Trong thời gian thành Phật.
Kinh Ta nói trước sau
Tám mươi bốn ức voi
Sức voi và sức người
Chở vác không thể nổi.
Nay Ta phải hoan hỷ
Ghi nhớ đừng quên mất
Nói pháp chưa thành đạo
Trong thai giảng chánh pháp.
Phật hành không sai khác
Tất cả đều bình đẳng
Chỉ Phật mới biết Phật
Công đức nghĩa nhiều ít.
Muốn đắc từ nghì Phật
Việc làm phải kỳ diệu
Trải qua vô số kiếp
Không đạt được mảy lông.

Sau khi nói kệ này, Đức Thế Tôn thuyết pháp lần đầu tiên toàn là nam, không có nữ, và ngay trên tòa họ đắc Bất thoái chuyển, có lòng tin kiên cố, không thể nào làm trở ngại được.

Bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni thâu oai thần trở lại giống như trước và nói kệ:

Chứng quả tám chánh đạo
Không thầy tự nhiên ngộ
Một mình dạo ba cõi
Tự đạt đạo Niết-bàn.
Pháp vốn không một tướng
Đại biện tài mau lẹ
Nay Ta đã chứng quả
Dứt ái không chấp trước.
Vốn tánh pháp năm ấm
Không thấy có thiện ác
Dùng thần lực cứu khổ
Thản nhiên đạo tịch diệt.
Các ông trong hội này
Thệ nguyện đã thành tựu
Chưa đắc, nay đã đắc
Vui thay, nghiệp lành này.
Dây nhân duyên làm ngại
Trừ sạch không còn gì
Pháp la võng “Ta”, “Tôi”
Tự nhiên bị hủy hoại.
Ngu si không thấy chân
Tự đọa bốn sắc duyên
Chưa quan sát kỹ càng
Phân biệt gốc tướng khổ.
Như nay Ta thành đạo
Công phu nói không hết
Phật gầm tiếng sư tử
Kiếp lửa, kiếm ác cướp.
Đúc nặn chúng sinh khổ
Lấy màu nhuộm tơ trắng
Nhẫn nhục chịu khổ hại
Đến chết không trả thù.
Giữ tâm như hư không
Thay đổi không lâu dài
Đối với đời bấy giờ
Tội ngũ nghịch khổ não.
Khó dạy, không thể độ
Chư Phật không cứu được
Tìm gốc làm hiện duyên
Chỉ dẫn chỗ vô vi.
Phá tâm ương ngạnh ấy
Chuyên nhất được giải thoát
Giáo pháp nói lần đầu
Không sinh, không khởi diệt
Đều hướng về Phật đạo
Không ai bị đọa lạc.

Khi Phật nói kệ này xong, các chúng nam, chúng nữ, chúng chánh, chúng tà đều có lòng tin rốt ráo, đắc địa Bất thoái chuyển.

Phật bảo các Đại Bồ-tát:

– Các ông muốn thấy Như Lai dùng thần lực giáo hóa đạo không thể nghĩ bàn, pháp tánh thuần thục, không có người nam, người nữ, theo nghĩa phương tiện thiện xảo nói thọ thân người nữ, không được Phật thọ ký. Ma, Thích, Phạm vương không có tướng chân thật. Các ông có muốn biết bốn chúng này được thọ ký thành Phật không?

Khi ấy, Bồ-tát tên Vô Tận Ý đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay thưa Phật:

– Con chưa hề nghe Như Lai nói pháp về bốn hạng người này được thành Phật. Nay mới khai diễn đại nghĩa.

Và lại bạch Phật:

– Xả thân thọ thân liền thành Phật sao? Phật bảo Bồ-tát Vô Tận Ý:

– Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ, Ta sẽ phân biệt rõ ràng cho ông: Chín mươi mốt kiếp về quá khứ có Phạm Thiên vương tên Đại Biện Tài, thông suốt xưa và nay, thường thích nhàn cư, ngồi trong cung trời suy nghĩ: “Nay ta có thể giáo hóa cung nữ và các Phạm vương ở đây. Khi ta được thành Phật đều có chư Thiên đi theo, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, đồng thời thành Phật không vui sao?”.

Nghĩ như vậy xong, Phạm Thiên vương liền ở cung trời, đến cây Trú-độ, ngồi ngay thẳng tư duy, nhất ý nhất tâm, chánh niệm tỉnh giác, không có tưởng niệm gì khác, liền thành Phật với ba mươi hai tướng của bậc đại nhân và tám mươi vẻ đẹp.

Quyến thuộc của chư Thiên tu hành chánh pháp Tỳ-kheo, đắc A-la-hán và tất cả đều là hàng lợi căn. Chúng Thiên nữ ấy có người đắc Tu-đà-hoàn, Tưđà-hàm, A-na-hàm, không còn sinh trở lại thế gian này nữa, rồi liền nhập Niết-bàn. Đó gọi là Phạm Thiên vương không xả thân thọ thân mà thân hiện tại được thành Phật đạo.

Phật bảo Bồ-tát Vô Tận Ý:

– Bảy mươi sáu kiếp về quá khứ có Thiên vương thứ sáu - thống lãnh ba ngàn đại thiên thế giới – tên là Hại Ác. Từ tầng trời thứ sáu trở xuống đến tự tại vô ngại, ở cung trời ấy trải qua vô số sự tư duy, hối hận: “Những việc xưa kia hủy báng Tam bảo, ngăn cản đạo quả. Giả sử ta thọ báo, đọa vào ba đường, không rời khỏi đường ác, thì nay ta có thể sửa đổi tâm làm ác và cùng với quyến thuộc chư Thiên trong cung trời này tu phạm hạnh, cầu đạo vô thượng, tiến tới thành Phật, không phải vui sao?”.

Lại suy nghĩ: “Cảnh giới mà ta cai quản có vô lượng vô số Thiên nữ vui chơi, không gì vui hơn đây. Giả sử ta thành Phật thì cũng giống như cõi này, dần dần biếng trễ, kiêu mạn”.

Lại tới kiếp số loài ma có tri thức tu hành, bước lên quả vị Thập trụ, giảng nói công đức của Phật, xuất gia tu đạo, có các tướng đầy đủ. Tâm ma khai mở, sửa đổi, tâm tánh nhập vào thiền định, không có dấy nhiều tưởng niệm, căn tánh mau lẹ. Ngay đó, liền ở cung trời mà chứng đạt tam minh, trang nghiêm cõi Phật, không còn tái sinh nữa, liền thành Vô Thượng Chánh Chân Chánh Đẳng Chánh Giác, phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp tất cả cõi ma, không chỗ nào là không thấy.

Khi ma thành Phật, có ba ức Thiên tử tâm tự sinh niệm, cho rằng: Do ma huyễn hóa chứ chẳng phải đạo chân thật và hết thảy rút lui trở về cung.

Mười sáu ức Thiên tử đều đến thân cận, phụng thờ, cúng dường như Phật không khác. Và ngay nơi tòa chứng bốn quả. Đó là đại Thiên vương Hại Ác, không xả thân thọ thân mà thành Phật đạo.

Phật bảo Bồ-tát Vô Tận Ý:

– Sáu mươi mốt kiếp về quá khứ, ở phương Đông có Thích Thiên Tử tu thiên nhãn, tâm thanh tịnh, thích thiền định, luôn muốn xuất gia tiến đến Phật đạo. Pháp của chư Thiên ấy bị suy nên có điềm ứng và không bao lâu qua đời.

Chư Thiên từ từ giảm sút sự ham thích về ngủ nghỉ, thân thể dơ bẩn, hoa tự khô héo, không thích tòa báu, thức ăn không ngon, rồi liền đi ra sau vườn tắm rửa, giặt giũ. Với thân trời này, mắt thấy rất xa: “Làm thế nào có Phật để đến lễ lạy, viếng thăm, cung kính cúng dường, được thọ giới cấm của Phật và liền ngay thân này đắc thành Phật đạo”. Nghĩ như vậy xong, ngồi ngay thẳng tư duy, dùng thiên nhãn thấy phương trên có Phật hiệu Vô Lượng Không Hành, ở trong thế giới Thanh Tịnh, hiện đang giảng nói pháp, đầu, giữa, cuối hoàn toàn thiện.

Thế rồi Thích Thiên Tử dùng thần lực khoảng như người co duỗi cánh tay, đến chỗ Phật ấy lễ lạy sát chân, lui qua đứng một bên và nói kệ khen Phật:

Tướng sáng chiếu mười phương
Chiến thắng các ma oán
Giảng nói con đường đạo
Dứt nghi, không còn lầm.
Người phạm hạnh thanh tịnh
Đều nhờ hạnh tối thắng
Tùy cơ nói chân pháp
Không trái pháp bản hạnh.
Con là chủ chư Thiên
Muốn tu đạo thanh tịnh
Cúi xin Phật thương xót
Được đến chỗ an ổn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Thích Thiên Tử:

– Lành thay! Lành thay! Ông phát tâm rộng lớn, muốn được cứu vớt khổ của chúng sinh: người chưa đắc được đắc, người chưa đạt được đạt, người chưa thành tựu được thành tựu, muốn cho người mù được mắt sáng, người điếc được nghe, người gù lưng được thẳng, người không có tay chân được có tay chân. Ông hãy trở về bổn cung, ngồi nơi cây đạo, phân biệt các hành là pháp trụ hay pháp tán.

Nghe xong, Thích Thiên Tử lạy trước Phật. Khi ấy, ông ta biến mất, trở về cung trời. Quyến thuộc chư Thiên đều quy về nương tựa, làm cho công đức của ông ta càng tăng trưởng, tướng suy hao đã tiêu mất sạch. Ông ta ngồi thẳng thâu giữ thân, tâm, ý bất động, liền đắc thành Vô Thượng Chánh Chân Đẳng Chánh Giác, hướng dẫn chín mươi ba ức Thiên nữ chứng bốn đạo quả. Đó gọi là Thiên Đế thích không xả thân thọ thân mà thành Phật đạo.

Phật bảo Bồ-tát Vô Tận Ý:

– Năm mươi bốn ức hằng hà sa kiếp về quá khứ có thế giới tên Hỏa Diệm, Phật hiệu Vô Dục gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn giảng nói pháp độ người, khéo tu phạm hạnh, biết rõ về pháp Tứ đế, bố thí cho tất cả. Dân chúng cõi đó đều thọ thân nữ, hiểu rõ vô thường, khổ, không, vô ngã, phân biệt về thọ nhập, không còn phiền não, nhàm chán thân khổ này; cùng nhau phát thệ nguyện rộng lớn, mặc áo giáp vô úy muốn cứu độ chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật, trừ bỏ các xấu ác, lập ý chí kiên cố, đạt đến Bất thoái chuyển; cùng nhau thực hành hiểu rõ về pháp không, vô tướng, vô nguyện. Trong một lúc, trong một ngày thông đạt Tam đẳng, liền thành Phật đạo, các tướng đầy đủ, sống chết tự tại, lấy nhỏ nhập vào lớn, lấy lớn nhập vào nhỏ. Trong một ngày độ vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh, giáo hóa chúng sinh vào Niết-bàn vô dư y. Đó gọi là bất xả thân thọ thân mà thành Phật đạo.

Bấy giờ, muốn lặp lại nghĩa này, Đức Thế Tôn nói kệ:

Pháp tánh như biển lớn
Không nói có đúng sai
Kẻ phàm phu, Hiền thánh
Bình đẳng không cao thấp.
Chỉ do tâm cấu diệt
Thủ chứng như trở tay
Đạo thành vua ba cõi
Xiển dương tướng sư tử.
Phân biệt vốn không pháp
Không có hạnh nam nữ
Nay đời năm trược này
Hiện có phần thọ thân.
Đoạn diệt kẻ chấp thường
Làm chướng ngại kiếp số.

Khi Đức Thế Tôn nói kệ này xong, có tám vạn bốn ngàn ức chúng sinh lập chí kiên cố và tất cả đều nguyện thành Phật, không còn tái sinh.

Phẩm 14: HÀNH ĐỊNH BẤT ĐỊNH

Bấy giờ, trong chúng hội có Bồ-tát tên là Thường Tiếu, đạt sáu thần thông, có oai đức và thần lực tự tại, biện tài vô úy, chấm dứt phần sinh tử, không còn chấp trước việc gì, những điều nói ra đều được tin dùng, hiểu rõ các pháp không, như huyễn hóa, như mộng, như sóng nắng, như lá đỏ trong nước mà loài thú ngu si cho là nước thịt, cuối cùng không lấy được, như tiếng vọng trong núi; hiểu rõ các pháp không sinh, không diệt, muốn đoạn trừ tất cả sự nghi ngờ của chúng sinh, nên liền đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay thưa Phật:

– Cúi xin Thế Tôn, con có chút nghi ngờ. Nếu được cho phép con mới dám thưa. Trí tuệ của đại Thánh Như Lai vô ngại, trước biết do nhân duyên quá khứ trói buộc các hành, sau làm rõ nguyên lý thành bại và nhân duyên hợp tan của vị lai. Hành nghiệp thiện ác là do phát tâm khác nhau. Nay con nghe Như Lai ở trong thai giáo hóa chúng sinh là các hành có sai khác, có đối không đối, có quả báo không có quả báo, có hành đen trắng, không có hành đen trắng. Lại có chúng sinh từ khi mới phát tâm trải qua vô số kiếp mà không được thành tựu, hoặc có chúng sinh chỉ sáng phát tâm mà chiều liền thành Phật. Cúi xin Thế Tôn hãy giảng nói cho, con rất muốn nghe.

Đức Thế Tôn dạy Bồ-tát Thường Tiếu:

– Theo lý lẽ mà ông hỏi đều là do oai thần của Như Lai cảm vời tạo ra. Muốn thành tựu các pháp thì không đoạn thật tánh của Như Lai, trước cũng như sau. Vì sao? Vì pháp tánh của Như Lai không thể nào nắm bắt, giữ gìn được, cũng chẳng phải là phạm vi của A-la-hán, Phật-bích-chi biết được.

Khi ấy, Đức Thế Tôn dùng thần lực xuất ra tướng lưỡi rộng dài, ánh sáng nơi tướng lưỡi chiếu đến a-tăng-kỳ kiếp cõi Phật, tận cùng phương Đông, khiến cho chúng sinh nơi năm đường thấy ánh sáng ấy tìm đến chỗ Như Lai. Ngay giữa chặng mày, Đức Thế Tôn lại xuất ánh sáng tướng lông trắng, trên chiếu đến tám mươi bốn ức hằng hà sa cõi chúng sinh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ cho Bồ-tát Thường Tiếu:

Ba mươi mốt âm vang
Nghiệp báo được trong sạch
Bốn mươi tám trần cấu
Trời hành năm mươi năm.
Bồ-tát tóc bảy báu
Phát sinh tâm chúng sinh
Bốn loại cây đạo quả
Tâm thức định không loạn.
Kẻ thiếu trí vô phước
Mắc khẩu nghiệp rất nhiều
Ăn uống biết vừa đủ
Đi đứng đúng oai nghi.
Bình đẳng thương tất cả
Mới gọi đạo Bồ-tát
Đời năm trược ba cõi
Điên đảo vướng cõi ma.
Phá hoại gốc nghiệp thiện
Như bóng không rời hình
Căn tánh có lanh chậm
Tới lui lòng do dự.
Phát nguyện độ chúng sinh
Công đức trọn đầy đủ
Thành tựu thân mười lực
Pháp hữu vi thế tục.
Tư duy khó lường được
Vừa chết lại tái sinh
Như lửa cháy núi rừng
Tâm niệm đốt chánh pháp.
Lan đến a-tăng-kỳ
Thân mặc giáp thệ nguyện
Dũng mãnh độ kẻ dữ
Tiêu diệt chúng quân ma.
Lỗ chân lông thân người
Hơn sáu mươi bốn vạn
Người trí tuệ biết rõ
Các nghiệp báo nhỏ nhặt.
Người lợi căn Diêm-phù
Thọ thân rất xấu xí
Từ mỗi lỗ chân lông
Rịn chảy không kín đáo.
Thân kim cang Như Lai
Chân lông ba mươi bảy
Kín đáo không rịn chảy
Không bị lửa thiêu cháy.
Ma và quyến thuộc ma
Sa-môn, Bà-la-môn
Phạm thiên và chúng Thích
Thần lực các quỷ thần.
Muốn đụng lông tóc Phật
Việc này không thể được
Hư không thành địa giới
Nhật nguyệt có thể rơi.
Muốn đụng lông tóc Phật
Không thể nào làm được
Đây là nghiệp pháp tục
Chẳng phải tướng vô vi.
Thọ hành chịu nghiệp quả
Các tướng đều khác nhau
Thân Phật thể kim cang
Ngoài hành theo báo nghiệp.
Là quả báo thế tục
Lìa xa pháp vô vi
Tướng Phật pháp chân thật
Không hiện ra bên ngoài.
Muốn biết tướng trong Phật
Như khéo dùng thần túc.

Nói kệ xong, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Thường Tiếu:

Báo của duyên, báo của duyên
Báo của chí đạo vô ngại
Báo của Tam bảo chân tánh
Báo của hành thú Niết-bàn
Báo của thế tục vô trước
Báo của nhất hướng cứu cánh.

Đó là đệ nhất nghĩa của Đại Bồ-tát, không nhiễm, không chấp trước, không thể nắm bắt, không vướng vào cõi Dục cũng không lìa cõi Dục. Quá khứ có, hiện tại có, vị lai có. Chẳng phải quá khứ có, chẳng phải hiện tại có, chẳng phải vị lai có, không sinh, không diệt. Qua trăm ngàn kiếp, Đại Bồ-tát đã thông đạt, không còn chướng ngại, khiến cho mọi tầng lớp chúng sinh đều hiểu rõ không đó vốn có quả báo để thành tựu khẩu nghiệp, thông đạt tất cả âm thanh.

Hoặc có Đại Bồ-tát trong phút chốc có thể làm cho ba ngàn đại thiên thế giới hóa thành thủy giới, giống như Tỳ-kheo đắc thiền quán vô lượng thủy giới. Côn trùng, rùa, ba ba trong thủy giới ấy không xúc chạm nhau. Do chứa công đức nhiều kiếp nên không hư không hoại.

Đó gọi là Đại Bồ-tát nhập vào Tam-muội thủy giới.

Hoặc có chúng sinh thấy Bồ-tát nhập định cho là nước, rồi lấy gạch, ngói, đá, cây cỏ quăng vào. Bồ-tát nhập định, tâm như hư không, không biết có người đến xúc não. Đó là Đại Bồ-tát nhập vào lực của thủy giới.

Hoặc có Bồ-tát thiền định thâu giữ tâm nhập vào Tam-muội Hỏa giới, khiến cho ba ngàn đại thiên quốc độ này bùng cháy. Chúng sinh ngu si nói Bồ-tát gặp lửa kiếp thiêu, chạy tán loạn nhưng không tránh được lửa. Mặc dù lửa cháy đỏ nhưng Bồ-tát thấy mát mẻ không nóng. Đó là Đại Bồ-tát nhập vào Tam-muội Hỏa quang. Oai thần của Tam-muội này không thể lường xét. La-hán, Phậtbích-chi cũng không thể đạt được.

Hoặc có Bồ-tát nhập năm phần pháp thân, tâm định bất động, khiến ba ngàn đại thiên thế giới nào bò bay máy cựa cho đến trùng, kiến đều dùng oai thần tiếp đỡ chúng, nên chúng không gặp phiền não, bảy ngày được an ổn. Sau khi qua đời, tất cả đều sinh lên cõi trời. Trong một ngày nói pháp mà hóa hiện có mặt khắp mọi nơi, trong đó người nào thấy thần đức của Như Lai thì trần cấu đều được trừ sạch, muốn gì được nấy, hoặc sinh vào cõi chư Phật ở phương khác. Đó là nhờ Đại Bồ-tát nhập năm phần pháp thân định tâm ban cho.

Có Bồ-tát nhập vào Tam-muội Bất động sư tử phấn tấn, khiến cho ba ngàn đại thiên thế giới chấn động đủ sáu cách. Chúng sinh trong đó đều quy phục, tu hành thanh tịnh, mặc áo hổ thẹn, bỏ tâm kiêu mạn, hướng dẫn chúng sinh đến tám con đường chân chánh, trừ khử bảy mươi bảy tâm chấp ngã. Cấu nhiễm chất chứa lâu đời chỉ trong nhất thời đều trừ sạch cả. Đó là do Đại Bồ-tát nhập vào Tam-muội Phấn tấn vô úy cảm vời tạo ra.

Có Đại Bồ-tát nhập định Ý tán thân, phân biệt thức tụ từ đâu đến và đi về đâu. Mỗi mỗi đều phân biệt rõ ràng là không, vô tịch nhiên. Trước, sau, giữa đều không có đầu mối. Đó là do Đại Bồ-tát nhập Tam-muội Định ý tán thân mà cảm vời tạo ra. Có Đại Bồ-tát nhập Tam-muội Nhẫn đảnh, có thể làm thân này biến thành con trùng không có tay chân đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Chúng sinh thấy chẳng biết đó là gì nên nói là đống thịt. Nếu ai lấy ăn thì mùi vị như cam lồ và đều làm no đủ cho các chúng sinh bị đói khát. Đó là do Đại Bồ-tát nhập Tam-muội Nhẫn đảnh mà cảm vời tạo ra.

Có Bồ-tát dùng thần lực Tam-muội khiến núi, sông, đá, vách trong ba ngàn đại thiên thế giới này hóa thành cam lồ, giống như đường phèn, ăn vào không biết chán, khiến cho bốn chứng bệnh nặng kiết sử của chúng sinh vĩnh viễn lành hẳn không còn trở lại. Chúng sinh phát nguyện: “Nguyện muốn sinh về thế giới vô tận”. Đó là nhờ thần lực của Đại Bồ-tát cảm vời tạo ra.

Lại nữa, Đại Bồ-tát nhập vào Tam-muội Độc bộ, làm cho tất cả chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới này thấy Bồ-tát đi cất bước chân, hạ chân xuống. Ai gặp Bồ-tát đi bộ có thể ngăn chận người tội không còn địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Đây đều do thân, khẩu, ý của Bồ-tát thanh tịnh và phát nguyện cứu độ đạt đến cứu cánh, không bao giờ quay trở lại. Đó là nhờ vô lượng tâm nguyện phước lành của Đại Bồ-tát cảm vời tạo ra.

Lại nữa, Đại Bồ-tát dùng thần thông định nhập vào Tam-muội Nhạo pháp, khiến cho các loài chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới này đều quay về, đến chỗ Bồ-tát để cầu xin xuất gia, tu phạm hạnh vô thượng, phát tâm giống nhau, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, theo pháp thường của chư Phật về pháp oai nghi, giới cấm, giáo thọ trì thì có thể tức thời ở vào địa Minh tuệ. Địa Minh tuệ là nơi hành pháp của Bồ-tát Bát trụ, chẳng phải nơi Nhị thừa tu tập. Đó gọi là nhờ thần lực của Đại Bồ-tát cảm vời tạo ra.

Lại nữa, Đại Bồ-tát dùng đại bi của Phật nhập vào định vô ngại, khiến cho các loài chúng sinh mê tối trong ba ngàn đại thiên thế giới này cùng làm cha mẹ, anh em, bạn bè, dòng họ, tri thức, ai không có của cải thì cho của cải, cung cấp các vật cần dùng cho đến quốc thành, vợ con, voi ngựa, vàng bạc, châu báu, xe cộ, mã não, bạch châu, hổ phách, thủy tinh, lưu ly, chiếu khăn, thuốc thang, hương hoa, phấn xoa v.v... đều cho họ sung túc. Những người được sự giáo hóa trong đó đều đầy đủ, khiến chúng sinh phát tâm ở trong địa Nhạo pháp.

Sao gọi là địa Nhạo pháp? Nghĩa là ai hợp với đạo Tu-đà-hoàn thì có pháp chân thật cốt yếu để đoạn ba kiến pháp.

Ai hợp với đạo Tư-đà-hàm thì còn bảy đời nữa thành đạo.

Ai hợp với đạo A-na-hàm thì nói pháp thiện không có năm ấm che lấp.

Ai hợp với đạo A-la-hán thì nói Niết-bàn thọ chứng không trở ngại.

Ai hợp với đạo Bồ-tát thì nói pháp Lục độ đảnh nhẫn, phát tâm tiến lên.

Ai hướng đến Phật đạo thì nói Nhất thiết trí thanh tịnh rốt ráo trang nghiêm cõi Phật, giáo hóa chúng sinh. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cúng dường, lễ lạy, thờ phụng chư Phật Thế Tôn, được đắc sáu thần thông.

Mắt có thể thấy thấu triệt.

Tai có thể nghe thông suốt.

Tự biết đời trước.

Biết tâm người khác.

Thân có thể bay.

Các trần cấu đều đoạn sạch, không còn nghi ngờ về Phật, Pháp, Tăng.

Đó gọi là nhờ thần lực của Đại Bồ-tát nhập Tam-muội Nhạo pháp mà cảm vời tạo ra.

Có Đại Bồ-tát nhập vào Tam-muội Kim cang, khiến cho ba ngàn đại thiên thế giới biến thành bảy báu, cứu giúp, ban bố cho người nghèo khổ. Ai xin thức uống cho thức uống, ai xin thức ăn cho thức ăn và rồi nói cho họ về quả báo của sự tham lam bỏn xẻn. Hễ người nào tham lam bỏn xẻn thì chết đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nghèo khổ, áo không đủ che thân, bị người ghét bỏ, hoặc làm nô tỳ, làm người ở mướn, hoặc đọa làm súc sinh gánh vác mang nặng.

Bồ-tát nói cho họ về hạnh không dâm dục thì được sinh lên trời. Dâm là ô uế, chết đọa vào đường ác như núi đao, rừng kiếm, xe lửa, lò than, địa ngục thiết chủy, địa ngục hắc thằng, địa ngục phất thỉ, núi băng, cối giã v.v... chịu vô lượng khổ. Hoặc vào trong ngục hoa sen đỏ, gió thổi lửa đốt xương cốt phân ly.

Ở đấy Bồ-tát giảng nói về vô thường, thân không tồn tại lâu dài như đánh đá thấy lửa, như sấm sét qua trước mắt, huyễn hóa chẳng phải một thì vì sao chịu khổ, tinh thần suy sụp mà không mong cầu thoát khỏi.

Bồ-tát nói pháp chân thật cho họ như vậy để người chịu tội đều được hết khổ. Đó gọi là nhờ Đại Bồ-tát dùng Tam-muội định ý đại bi của Phật mà cảm động đến.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Chúng sinh muốn giải thoát
Cửa năm đường ba cõi
Tinh tấn không biếng trễ
An trụ đạo vô vi.
Như người xây nhà cửa
Không cây gỗ mà thành
Chủ yếu trước ban đất
Rồi dựng trụ, xây tường.
Phật đạo như hư không
Không do một hạnh thành
Giữ ý thật kiên cố
Ruộng tâm không quyến luyến.
Hằng sa Phật quá khứ
Vị lai cũng không tận
Có vị lần lượt thành
Có vị được siêu việt.
Ta dạy ngộ chưa ngộ
Khiến đến tám chánh đạo
Nghe rồi không thọ nữa
Pháp này do ai tạo.
Xưa ta xả tưởng thân
Kiếp số không cho khó
Không thầy mà tự ngộ
Là đạo sư tất cả.
Đạo sư hiện ra đời
Không duyên, không thần thông
Cốt độ người chưa độ
Thị hiện thành vô vi.

Khi Đức Thế Tôn nói kệ này xong, có năm mươi sáu ức hằng hà sa chúng sinh đoạn trừ vọng tưởng, không còn ưa thích nghiệp của thế tục và đồng thời phát nguyện cầu đạo vô thượng.

QUYỂN 5

Phẩm 15: CHÚNG SINH NHẬP LỤC ĐẠO

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhập vào pháp quán định ý vô lượng, quan sát đại chúng còn có điều nghi ngờ. Muốn giải nghi, Đức Thế Tôn hiện chân thật bằng cách nhấn ngón chân phải xuống đất, ngay lúc đó hiện ra chúng sinh trong sáu nẻo đứng xếp hàng ngay thẳng.

Đức Thế Tôn nói với đại chúng:

– Các ông có thấy chúng sinh trong sáu nẻo này không? Đại chúng đều thưa:

– Bạch Thế Tôn, có thấy!

Khi ấy, trong đại chúng có Bồ-tát tên Tự Tại đã đắc pháp môn Vô tận hư không tạng, có trí tuệ biện tài ứng đối vô ngại. Đây là vị đứng đầu trong mười sáu Thánh tử của Hiền kiếp này. Bồ-tát đi khắp mười phương cõi để thi hành Phật sự.

Bồ-tát Tự Tại từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai phải, chân phải quỳ sát đất, chấp tay bạch Phật: – Bạch Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn! Con rất muốn nghe nói về quả báo hành nghiệp của chúng sinh trong sáu đường. Những điều con hỏi hơi cạn cợt, cúi xin Như Lai chỉ dạy.

Khi ấy, giữa đại chúng, Đức Thế Tôn mỉm cười với khuôn mặt hiền hòa. Theo pháp thường của chư Phật Như Lai, Phật không phải cười suông, khi cười đều có nhân duyên:

– Nếu có chúng sinh nào sinh vào trời Phạm thì khi ấy Phật mỉm cười.

Có ai sắp làm Chuyển luân Thánh vương thì Phật mỉm cười.

Có ai làm ngục tốt hoặc làm vua Diêm La thì khi đó Phật cũng mỉm cười.

Có ai thọ thân ngạ quỷ, Phật cũng mỉm cười.

Có ai làm vua loài súc sinh, Phật cũng mỉm cười.

Bấy giờ, nơi giữa miệng Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng năm màu, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, rồi thâu trở lại nhập vào đỉnh đầu và bảo Bồ-tát Tự Tại:

– Những điều ông hỏi chính là do oai thần của Như Lai ứng tiếp, cũng là do chư Phật mười phương hộ trì nên có thể đưa ra câu hỏi như vậy.

Nay Ta sẽ phân biệt rõ ràng cho ông về nhân duyên hành nghiệp của chúng sinh trong sáu đường. Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ.

Bồ-tát Tự Tại thưa:

– Bạch Thế Tôn! Con xin được muốn nghe. Phật bảo Bồ-tát Tự Tại:

– Ông hãy đưa mắt nhìn về phương Đông, có cõi trời Phạm, trời Đại Phạm, trời Thanh Tịnh Phạm và cho đến trời Sắc Cứu Cánh. Các chúng sinh nơi cõi trời này đầu tiên tu hành phạm hạnh đều có chủng tử Phật, tu các công đức. Vì tham phước báo, đắm nhiễm, chìm theo năm dục. Đạo quả theo nhân duyên nên đều được thọ thân trời, tánh phước của Phạm thiên là rất nhiều. Nay Ta sẽ nói rõ ràng cho ông: Như Chuyển luân vương có bảy báu tùy tùng đầy cả ba ngàn đại thiên thế giới. Bảy báu đó là:

Voi báu: Có ba mươi hai ngà, màu lông trắng tinh, chân đạp trên hoa sen và có thể bay được.

Ngựa báu: Thân màu xanh biếc, lông cổ bờm ngựa màu đỏ, có thể bay được. Đi đến đâu đều không bị chướng ngại và biết tâm niệm của người. Châu báu: Ánh sáng thấu triệt khắp nơi, chiếu khắp cả hư không, cho đến chiếu khắp bốn cõi thiên hạ.

Luân báu (xe báu): Xe có ngàn căm, điêu khắc chạm vẽ không hình nào giống hình nào. Báu thứ tư này không có thức.

Ngọc nữ báu: Là người đẹp nhất trong phái nữ, tánh hạnh dịu dàng, thùy mị, hiếm có ở thế gian, không cao không thấp, không trắng không đen. Thân có mùi thơm Ưu-đàm-bát-la-liên-hoa, miệng có mùi thơm Ngưu-đầu-chiên-đàn, cung kính, khiêm nhường, từ tốn, biết tâm ý của Thánh vương. Thần báu giữ kho: Khi vua cần báu thì tay cầm khí cụ thần giơ lên hư không, viết lên thì thành báu, lấy hay thôi tùy vua.

Chủ binh báu: Khi Thánh vương xuất hành cần bốn bộ binh. Vua bảo chủ binh báu: “Nay ta muốn đi xem xét đất nước. Hãy mau tập hợp binh chúng trước cung điện của ta, chớ để trễ giờ”. Nhận lệnh vua, chủ binh báu quay nhìn về phía Đông thì binh voi đã tập hợp thẳng hàng ở phía Đông. Liếc mắt nhìn về phía Nam thì binh mã đã tập hợp thẳng hàng ở phía Nam. Quay nhìn lại phía Tây thì binh xa đã tập hợp thẳng hàng ở phía Tây. Quay nhìn phía Bắc thì bộ binh đã tập hợp thẳng hàng ở phía Bắc.

Chuyển luân Thánh vương tùy ý cỡi voi, hoặc ngựa đến các châu Phất-can-đề, Uất-đan-việt, Đềcâu-da, Ni-đề, dạo khắp bốn phương nhưng chân không đạp đất. Qua trăm năm, ngàn năm, ngàn trăm năm hưởng phước tự nhiên.

Thân của Chuyển luân Thánh vương đầy khắp cả bốn cõi thiên hạ nhưng không bằng thân Đế thích. Vì sao? Vì nơi Đế thích thống lãnh có cung điện bảy báu, có quyến thuộc, ngọc nữ ngồi trong điện đường bảy báu, hưởng thú vui cõi trời. Nhìn Đông quên Tây, nhìn Nam quên Bắc, hoan lạc không thể tả.

Dù thân Đế thích như vậy nhưng cũng không bằng Thiên vương thứ sáu. Thân có ba mươi tướng, thần đức tự tại, tùy theo tâm niệm biến hóa đủ thân hình, binh chúng tùy tùng không thể đếm xuể, công đức phước nghiệp bố thí vô ngại.

Như hạng Lục Thiên vương khắp bốn cõi thiên hạ nhưng không bằng một Đại Phạm Thiên vương, có công đức rộng lớn, trông coi ba ngàn đại thiên quốc độ. Chúng Phạm thiên nhiều vô lượng, không thể tính đếm, sống rất lâu, hơn một Hiền kiếp thọ mạng mới hết.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tự Tại:

– Ông đưa mắt nhìn về phương Nam thì sẽ thấy vô số Chuyển luân Thánh vương đứng sắp hàng ở phía Nam. Công đức của Chuyển luân Thánh vương rất nhiều, như đã nói ở trên. Họ giữ năm giới, mười điều thiện, cung kính phụng thờ bậc Hiền thánh, giữ giới của tiên nhân, bát trai thanh tịnh, căn tướng hợp nhau, thương xót mọi người, không có tâm làm tổn hại, hưởng quả báo của phước ấy khó lường, cho nên được kế thừa ngôi vị Chuyển luân vương.

Phật bảo Bồ-tát Tự Tại:

– Ông đưa mắt nhìn về phương Tây thì thấy Sư tử vương đứng thẳng ở phía Tây, theo sáu việc, đứng bất động, lông trắng tinh, ngực vuông vức. Đó là do phước báo từ đức hạnh của kiếp trước. Mặc dù thọ thân súc sinh nhưng phân biệt rõ về thiện ác. Chân đạp hoa sen không dính bụi đất. Không bao giờ sát sinh, ăn thịt, uống máu. Một khi sư tử gầm lên thì loài bay trên không đều rơi xuống đất, loài thú chạy phải nép mình. Trong năm giới, sư tử cũng không phạm quá ba, cho nên đạt được phước báo như vậy. Mặc dù đọa làm súc sinh nhưng khi chuyển xả thân đều được thành đạo.

Phật bảo Bồ-tát Tự Tại:

– Ông quay nhìn về phía Bắc thấy ngạ quỷ ở cung điện bảy báu, quyến thuộc tùy tùng đều tự nhiên ăn pháp vị cam lồ. Tuy gọi là ngạ quỷ nhưng đều theo ủng hộ loài người để tu thiện. Nó cũng có thần túc đi đến các cõi Phật, lễ kính chư Phật, vâng giữ chánh pháp, đứng biết đứng, đi biết đi, cảm động tùy thời, không chấp giữ pháp thường, dạo qua cõi Ta-bà để cùng hội họp với chúng thiện.

Không bao lâu chuyển xả thân thì thành đạo.

Phật bảo Bồ-tát Tự Tại:

– Ông quay nhìn xuống phương dưới thấy vua Diêm La lấy năm việc để cai trị, luôn luôn chân chánh. Năm việc đó là gì? Trước mặt tội nhận chất vấn hỏi: “Trong nhân gian có Phật, có Pháp, có Tỳkheo Tăng, có cha, có mẹ không?”. Tội nhân trả lời: “Thưa đại vương, thật có”. Khi ấy Thánh vương nói kệ hỏi:

Gông cùm xiềng xích sắt

Vạc dầu, trụ đồng cháy

Nước đồng sôi, kềm, xoa Đền trả không bao lâu.

Tự tạo gốc nhân duyên

Nghiệp báo chẳng phải ai Cả cha mẹ, anh em Chẳng ai thế chịu khổ.

Ta muốn học xuất gia

Giữ giới không vi phạm Hành chánh pháp bình đẳng Ngày vẫn ba lần nấu.

Hỏi năm việc xong, vua Diêm La liền ra lệnh và giao phó cho ngục tốt tùy theo tội nặng nhẹ mà xử trị.

Trong số tội nhân ấy, ai nghe tiếng Phật, Pháp, thì tội diệt phước sinh, trở lại làm người, tu hành thanh tịnh. Đó gọi là báo ứng của chúng sinh trong sáu đường.

Nghe pháp xong, Bồ-tát Tự Tại lạy sát chân Phật rồi trở về chỗ cũ.

Khi ấy, trong chúng hội có tám ngàn ức chúng sinh không thích ở nơi chốn khổ, bị đọa trong sáu đường, đều phát tâm cầu đạo vô thượng tịch diệt, không - vô và xa lìa sinh tử.

Phẩm 16: CHUYỂN PHÁP LUÂN

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì muốn thị hiện vô lượng di thể báo ứng của chư Phật khiến cho tất cả Bồ-tát có thần thông, bậc hữu học, vô học và bốn chúng - Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di - đều thấy rõ nên hiện sinh thọ báo chuyển đại pháp luân. Sự báo ứng này, Sa-môn, Bà-la-môn, Ma, Phạm thiên chẳng thể nào chuyển được. Đức Thế Tôn liền dùng thần lực, từ lỗ chân lông trên thân phóng ra ánh sáng chiếu xa đến các cõi Phật khắp mười phương, mỗi vầng ánh sáng đều có ba ngàn đại thiên cõi Phật, mỗi cõi Phật đều có hóa Phật, mỗi hóa Phật đều có ba ngàn đại thiên loài chúng sinh, mỗi chư Phật và chúng hội ấy giảng nói vô tận pháp tạng, có vô lượng điều kỳ diệu, không pháp nào sánh bằng. Pháp chân tế thâm diệu được nói ra, đầu giữa cuối đều thiện, diệt trừ dâm – nộ – si, lấy nước bát giải rửa trừ tâm cấu.

Khi ấy, trong ao, chư Phật hóa làm đài cao bảy báu, cách đất bảy nhận. Trên đài cao trải tòa cao báu, bốn góc đều treo linh vàng, ở giữa dùng đủ thứ báu treo xen lẫn nhau, treo lọng lụa, cờ phướn năm màu đỏ, vàng v.v... an lạc không thể tả. Ngay trên tòa, chúng sinh nghe tạng pháp vô tận, ngồi thẳng tư duy, tâm không tán loạn. Tất cả đều muốn nghe pháp bí mật tinh túy của Như Lai.

Theo pháp thường của chư Phật, Đức Thế Tôn lại phóng ra ánh sáng nơi nhục kế chiếu lên đến vô số ức cõi Phật. Cõi Phật trên không giới có Phật hiệu Bảo Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, thấy ánh sáng từ nhục kế của Đức Phật Thích Ca Văn, liền nói với các hội Bồtát nơi cõi mình:

– Phương Dưới có Phật hiệu Thích Ca Văn Ni Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,

Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hiện đang ở trong thai mẹ rộng giảng nói pháp tạng sâu xa vô thượng, hướng dẫn các Bồ-tát có thần thông khắp mười phương. Các ông hãy đến đó lễ lạy thăm hỏi và đem lời thăm hỏi của Ta đến Thích Ca Văn Ni: “Đức Phật giáo hóa có dễ dàng không? Đi lại có khỏe mạnh không? Chúng sinh ở đó có dễ độ không?”. Đến đó các ông phải giữ gìn, thâu giữ oai nghi. Chúng sinh nơi cõi đó nhiều phiền não, đầy lòng kiêu mạn.

Khi đó, các Bồ-tát ở cõi này cả mười bảy vạn vạn ức vị, mặc pháp phục đàng hoàng, lễ sát chân Phật rồi biến mất ở đấy, hiện đến cõi Ta-bà.

Đức Phật Thích Ca Văn Ni lại dùng thần lực định tâm làm cho các Bồ-tát này không thấy Đức Thích Ca Văn Ni và che xung quanh bốn mặt của đạo tràng thuyết pháp. Các Bồ-tát tìm kiếm Đức Thích Ca Văn Ni từ cõi Diêm-phù-đề đến khắp ba ngàn đại thiên cõi nhưng không thấy.

Các Đại Bồ-tát ấy nói với nhau:

– Ở nơi cõi thượng hư không của chúng ta cách đây rất xa, ánh sáng chúng ta thấy vừa rồi chẳng lẽ do Đức Phật Thích Ca Văn Ni nhập Niết-bàn nên đã phóng ra ánh sáng? Chẳng lẽ chúng ta đã mất thiên nhãn thông rồi chăng? Vì sao? Vì đã đi tìm khắp các thế giới trong mười phương mà không biết Đức Phật ở đâu cả.

Các vị Bồ-tát suy nghĩ: “Chúng ta đành phải trở về thôi”.

Nghĩ vậy xong, tất cả đều không thể nào đến cõi Phật của mình nên đều rất lo sợ, vì cho rằng đã mất thần túc, tâm chán nản, mệt mỏi, không thể tham cứu pháp môn tạng vô tận. Vì sao? Vì đó đều là oai thần của Đức Thích Ca Văn Ni khiến ra như vậy.

Biết rõ tâm của các Bồ-tát ấy, Đức Phật dùng thần túc tiếp các Bồ-tát ở trong thai mẹ. Bấy giờ, các Bồ-tát đều cung kính làm lễ, thưa hết những lời dạy thăm hỏi của Đức Phật nơi cõi mình và ngồi qua một bên.

Khi ấy, Đức Thích Ca Văn Ni Như Lai lại dùng thần túc phóng ra ánh sáng lớn chiếu sáng đến thế giới Diệm ở phương Đông, cõi nước tên là Kỳ Đặc, Phật hiệu Thâm Nghĩa gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hiện đang giảng nói pháp, đầu giữa cuối đều thiện. Thấy ánh sáng này, Phật ấy nói với các Bồ-tát:

– Các ông hãy chuẩn bị đi đến chỗ Đức Phật Thích Ca Văn Ni ở cõi Ta-bà để nghe tạng pháp vô tận, được nhiều lợi ích. Vì sao? Vì Bồ-tát nơi cõi đó đều là bậc Nhất sinh bổ xứ, chắc chắn có pháp kỳ diệu khó nghĩ bàn.

Các Đại Bồ-tát cung kính vâng lời Phật, lễ sát chân Phật rồi bỗng nhiên biến mất ở đấy, hiện đến chỗ Đức Phật Thích Ca Văn Ni ở cõi Ta-bà, đầu mặt lạy sát chân Ngài rồi lui qua một bên. Phật dùng thần đức cho mời ma Ba-tuần, do được cảm ứng nên khiến ma đến. Đức Thế Tôn biết chúng sinh tập hợp, chư Thiên trỗi nhạc ca tụng vô lượng phước nghiệp của Như Lai, Phật bảo Bồ-tát Vănthù-sư-lợi:

– Hãy ngưng nhạc của chư Thiên lại. Ta sắp giảng nói pháp. Phật bảo chúng hội từ xa đến:

– Khi Phật xuất hiện nơi đời ức vạn ngàn kiếp, khi ấy mới có hoa Ưu-đàm-bát. Đại Bồ-tát nào lậu tận, có thần thông, biết pháp căn bản, trừ vọng tưởng, bỏ ý niệm, thì gọi là hữu tận. Không thấy lậu tận, không tưởng pháp thì gọi là vô tận.

Đại Bồ-tát nghĩ do thân bị trói buộc, không đến bờ kia thì gọi là hữu tận; có thể bỏ tưởng về thân, không còn bỉ thử thì gọi là vô tận.

Đại Bồ-tát đã cởi bỏ trói buộc, không trụ vào chân tế thì gọi là hữu tận; không còn bị tưởng trói buộc, đạt được về tưởng là không – vô ngã thì gọi là vô tận.

Đại Bồ-tát luôn luôn quán các thế giới rõ ràng, không thật có thì gọi là hữu tận; phân biệt hư không không có thật, không thấy có độ, không độ, thế giới không như thế thì gọi là vô tận.

Đại Bồ-tát tu hành mười sáu pháp thù thắng, cứu độ a-tăng-kỳ chúng sinh thì gọi là hữu tận. Mười sáu pháp thù thắng tự tánh là không tịch, không thấy độ, không thấy không độ thì gọi là vô tận.

Đại Bồ-tát tu hành khắp nơi, chịu khổ cho chúng sinh mà không lấy làm mệt mỏi, đó gọi là hữu tận. Không thấy chúng sinh, quốc độ thanh tịnh, không một không hai, đó gọi là vô tận.

Đại Bồ-tát vâng giữ giới, tu pháp nhập ba môn giải thoát, đó gọi là hữu tận. Không thấy chúng sinh giới khuyết thiếu hay giới trọn vẹn, đó gọi là vô tận.

Đại Bồ-tát hiểu rõ, phân biệt nghĩa từng câu, nghĩa từng chữ, ứng phó không ngại, đó gọi là hữu tận. Không thấy nghĩa của câu, không phân biệt nghĩa chữ, đó gọi là vô tận.

Đại Bồ-tát phân biệt cõi trời, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, ở đó Bồ-tát cứu vớt hết thảy, khiến được giải thoát thì gọi là hữu tận. Mặc dù ở trong năm trược nhưng không nhiễm, không bị nhiễm cũng không chấp trước, đó gọi là vô tận.

Đại Bồ-tát bỏ tham lam, cao ngạo, không có tăng thượng mạn, cũng không tự ti, tu hành thanh tịnh thì gọi là hữu tận. Pháp tánh là không tịch, không có tâm tự đại, không thấy ngã mạn với pháp được mất, không thấy siêng năng thọ chứng đạo quả, đó gọi là vô tận.

Đại Bồ-tát làm trang nghiêm cây Bồ-đề, diễn xướng vô số âm thanh thanh tịnh vang khắp mười phương, phá trừ tham lam chấp trước để hành bố thí thì gọi là hữu tận, Không thấy thế giới thành tựu hoại, sinh diệt, có tham đắm thì gọi là vô tận.

Đại Bồ-tát dùng tâm kim cang phá kiết ba cõi, từ lúc mới phát tâm cho đến ngôi vị Bất thoái chuyển không thấy đoạn diệt làm chướng ngại chúng sinh, đó gọi là hữu tận. Sự chấp trước về ngã, không còn có ngã, không còn ngã sở. Thế nào là ngã? Là tự ngã không thật có; ngã cũng không có ngã, đó gọi là vô tận.

Đại Bồ-tát diệt trừ tên họ, không chấp vào pháp thế tục, nói đó là ngã sở chẳng phải ngã sở, là cha, là mẹ, là anh, là em, dòng họ của ta rất tối thắng, dòng họ của người khác không bằng, ta là Tộc tánh tử, còn kia chẳng phải là Tộc tánh tử v.v... người chấp danh hiệu ấy gọi là hữu tận. Từ khi mới phát tâm cho đến lúc thành Phật không thấy có chứng thành, cũng không thấy Phật. Giả sử tên tự danh hiệu cũng đều là không tịch, không thấy có không tịch. Thế nào là không? Ai tạo ra không này? Không tự nó không có không, thì làm sao nói không? Đó gọi là vô tận.

Pháp Đại Bồ-tát nói từng chữ, nói từng câu, nói từng nghĩa, từ vô minh đến hành, cho đến sinh tử. Vô minh, ái, thủ là pháp làm nhân duyên bất tận. Mê hoặc, điên đảo bị vô minh trói buộc, từ chỗ tối vào chỗ tối có thể cứu vớt ra được, đó gọi là hữu tận. Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu bi, khổ não. Sự trói buộc vướng mắc đều diệt trừ.

Không bị vướng mắc thì vô minh diệt, vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì tức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử, ưu bi, khổ não diệt.

Lão tử, ưu bi, khổ não duyên sinh, sinh duyên hữu, hữu duyên thủ, thủ duyên ái, ái duyên thọ, thọ duyên xúc, xúc duyên lục nhập, lục nhập duyên danh sắc, danh sắc duyên thức, thức duyên hành, hành duyên vô minh.

Lão tử, ưu bi, khổ não diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì thức diệt, thức diệt thì hành diệt, hành diệt thì vô minh diệt. Hiểu rõ pháp tánh diệt hay không diệt, cũng không thấy diệt, cũng không thấy không diệt. Sao gọi là diệt diệt? Không diệt, đó gọi là vô tận.

Đại Bồ-tát phân biệt hiểu rõ về pháp khởi, pháp tận; khởi không biết từ đâu đến, không biết đi về đâu. Khởi cũng không khởi, tận cũng không tận, đó gọi là vô tận.

Hiểu rõ khởi - tận đều không có xứ sở, giống như hư không, không vướng mắc. Sao gọi là vô trước? Vì không thấy vô trước, vô trước hoàn toàn không có, đấy là vô trước. Đó gọi là vô tận.

Đại Bồ-tát muốn chứng đắc Tam-muội tổng trì, bốn tuệ vô ngại, đêm ngày kinh hành, toàn thân nhẹ nặng, đầu tiên tập pháp quán cách mặt đất, ban đầu như quả A-ma-lặc, lần lần như quả Tỳ-hê-lặc, chuyển lần lên như quả Ha-lê-lặc, cách đất bằng bóng của ngón chân, từ từ cách đất bằng bóng của bảy người. Đây là thiền của thế tục mà kẻ phàm phu, tiên nhân học.

Đối với sự học ấy, Bồ-tát trụ vào thì gọi là hữu tận. Tâm thông suốt, không chướng ngại, không trụ vào năm thần thông, chẳng phải là không trụ năm thần thông, hiểu rõ pháp tánh của các pháp là tự nhiên, vô minh và chân tế đều tự nhiên, cũng không tự nhiên.

Sao gọi là tự nhiên? Là không thấy tự nhiên, không có tự nhiên.

Đó gọi là vô tận.

Đại Bồ-tát lấy không mà diệt tưởng, không thọ sắc, không bị mọi tầng lớp chúng sinh sai khiến, ở nơi thanh vắng ngồi tư duy, không thấy tạo sắc, không thấy không tạo sắc, một lòng chỉ hướng đến cửa Niết-bàn, đó gọi là hữu tận.

Niệm thân là vô thường, nên bố thí, trì giới, định tâm, không lo sợ bị đọa lạc, chìm đắm trong sinh tử. Mặc dù ở trong sinh tử nhưng giống như chim bay trên hư không, không thấy dấu vết, biết tất cả là vô sở hữu, đó gọi là lửa tắt, chỉ còn đống tro, không còn hơi nóng. Tìm người chủ và chất liệu của lửa không phải người, không phải ta, không phải thọ, không phải mạng. Quan sát phân biệt ai đã tạo tác. Thức cũng không phải thức, tìm nơi mười tám giới, nhập cũng không có nguồn gốc. Một trăm lẻ tám phiền não đều vô sở hữu, qua lại đều thông suốt, không thấy, không thể thấy, không nắm giữ, không thấy có người nắm giữ.

Thế nào là nắm giữ? Là nắm giữ mà không có gì để nắm giữ. Đó gọi là vô tận.

Lúc ấy, trong đại chúng có Bồ-tát tên Kim Sắc chứng đắc sáu thông, thấu triệt, thâm hiểu Phật tuệ, công đức vô lượng, quyền biến muôn hình vạn trạng, muốn hỏi Như Lai về nghĩa vô tận nên liền đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay thưa Phật:

– Bạch Thế Tôn! Sao gọi là vô tận? Phật bảo Bồ-tát Kim Sắc:

– Pháp vô tận của Đại Bồ-tát là không nói, không lời thì làm sao thấy, nghe, nói về pháp vô tận.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ nói với Bồ-tát Kim Sắc:

Hư không không hình tướng
Tìm sinh không nguồn gốc
Thai phần không thể lường
Như sông chảy vào biển.
Bảo tạng pháp vô tận
Cha mẹ Phật ba đời
Muốn tìm tận nguồn gốc
Chính là tâm mê hoặc.
Hiểu rõ pháp tướng không
Dứt sạch hết bụi trần
Thành Phật thân kim cang
Đầy đủ tướng trang nghiêm.
Phân biệt thân Phật không
Không chấp trước trong ngoài
Dầu giảng vô tận báu
Ức vạn không nói một.

Khi Đức Như Lai giảng nói về vô tận báu, các Bồ-tát bậc hữu học và vô học ngay nơi chỗ ngồi phát tâm hướng đến tạng pháp vô tận. chư Thiên, rồng, nhân và phi nhân đều phát tâm vô thượng an lập nơi quả vị Bất thoái chuyển.

Phẩm 17: NĂM THẦN THÔNG

Bấy giờ, trong pháp hội có Bồ-tát tên Diệu Thắng, hành trì đầy đủ sáu độ, đầy đủ phương tiện thiện xảo, giáo hóa chỗ nào cũng đều hoàn tất, vào nơi đâu ai nấy cũng vui vẻ, chánh quán định tâm làm ruộng phước cho thế gian. Nếu thiện nam, thiện nữ nào gặp Đại Bồ-tát này thì các ác đều được tiêu trừ sạch và sinh lòng vui thích.

Vị ấy tư duy về pháp môn bình đẳng bất nhị, luôn luôn coi pháp như huyễn, như hóa, như mộng, cứu độ quần sinh tu hành đạo Phật, không thấy có người và ta.

Khi ấy, Bồ-tát Diệu Thắng đứng dậy, chấp tay thưa Phật:

– Lành thay! Bạch Thế Tôn! Bồ-tát có năm thần thông làm sao biết được để phân biệt hành động ấy? Tu tập pháp gì để đắc đạo thần thông?

Phật bảo Bồ-tát Diệu Thắng:

– Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ, Ta sẽ phân biệt rõ ràng cho ông về trí tuệ thần thông.

Bồ-tát Diệu Thắng thưa:

– Cúi xin Đức Thế Tôn chỉ dạy, con rất muốn nghe. Phật bảo Bồ-tát Diệu Thắng:

– Trong cõi Dục này, thiện nam, thiện nữ không cần có nhãn thông mà vẫn có thể thấy thấu triệt các chúng sinh trong một cõi Diêm-phù-đề, đến cả thô tế, đẹp xấu, màu xanh, vàng, đỏ, trắng, thành quách, nhà cửa, núi cao, cây cối. Hoặc có người nam, người nữ với con mắt có thể thấy hai cõi thiên hạ, ba cõi thiên hạ, bốn cõi thiên hạ, không cần có nhãn thông cũng thấy.

Hoặc có người nam, người nữ không cần có nhĩ thông mà tai thông suốt, nghe tiếng nam, tiếng nữ, tiếng ngựa, tiếng xe trong thiên hạ, nghe âm thanh vọng lại đều có thể phân biệt biết được. Không cần nhĩ thông mà hiểu rõ một cách rõ ràng.

Hoặc có người nam, người nữ không tập không học mà tự mình biết được kiếp trước: “Ta từ chỗ đó đến sinh nơi thế gian này, cha ta họ đó, mẹ ta họ đó”. Anh chị em, dòng họ, chủng tộc nào cũng đều biết rõ.

Hoặc có người nam, người nữ không tu tập thần thông mà biết tâm người làm thiện hay hành ác: Người này đi đến đường ác, người kia đi đến đường thiện; người này sinh nơi cõi trời, người kia sinh vào cõi người; người này sinh vào ngạ quỷ, người kia sinh vào súc sinh; đây là chúng sinh hữu duyên, kia là chúng sinh vô duyên.

Hoặc có người nam, người nữ thân có thể bay được, vòng quanh qua lại. Không tu thân thần thông mà có thể bay không bị chướng ngại; đi trên hư không như đi trên đất, đi trên đất như đi trên hư không.

Phật bảo Bồ-tát Diệu Thắng:

– Năm loại người này chẳng phải thần thông chân thật, là chúng sinh đã thoái lui pháp.

Hoặc có người nam, người nữ tu nhãn thánh thông, trừ sắc đoạn cấu, niệm bất động rốt ráo về đạo môn. Đạo môn là gì? Là tam không định, có thể thấy được một cõi thiên hạ, hai cõi thiên hạ, ba cõi thiên hạ, bốn cõi thiên hạ.

Hoặc có người nam, người nữ tu nhĩ thánh thông tịch nhiên nhập định, nghe một cõi thiên hạ, hai cõi thiên hạ, ba cõi thiên hạ, bốn cõi thiên hạ, tiếng nam, tiếng nữ, tiếng voi, tướng ngựa, tiếng xe, tiếng chuông, tiếng trống, phân biệt rõ ràng, biết tiếng hay tiếng dở, biết tiếng sinh lên cõi trời, biết tiếng sinh làm người, biết tiếng sinh vào ngạ quỷ, biết tiếng sinh loài súc sinh, biết tiếng sinh vào địa ngục, biết tiếng chúng sinh có duyên, biết tiếng chúng sinh không có duyên v.v... Tất cả các thứ tiếng đều phân biệt, hiểu rõ một cách tường tận. Hoặc có người nam, người nữ tu đạo thanh tịnh, trừ khử mọi cấu uế của thức, trong ngoài không tỳ vết, đắc ý thánh thông, tự biết được đời trước một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, cho đến vô số a-tăngkỳ kiếp từ đâu đến. Cha mẹ, anh em, quốc độ thanh tịnh đều nhận biết rõ ràng.

Hoặc có người nam, người nữ tu sáu thần thông, biết về pháp tánh, nhớ mãi không quên, ý định giác ngộ đạo, phân biệt tam minh, tâm định không tán loạn, liền có thể biết được tâm niệm người khác một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, cho đến vô số a-tăng-kỳ kiếp từ đâu đến. Tất cả mọi sự đều biết rõ. Biết rõ cha mẹ, anh em, quốc độ thanh tịnh, tên họ, chủng tộc.

Hoặc có người nam, người nữ tư duy quán pháp, lấy tâm giữ thân, lấy thân giữ tâm, ăn biết vừa đủ, ngủ nghỉ tỉnh thức, ý tưởng như hư không, không để ý đến dâm - nộ - si, rõ thân này là vô ngã, tâm và pháp thanh tịnh. Ý thức theo định rồi mới có thể động thân tâm, tập định dần dần với một tiếng trống, hai tiếng trống, cho đến bảy tiếng trống; dạo đi một cõi thiên hạ, hai cõi thiên hạ, cho đến ba ngàn đại thiên thế giới; vào đất như đi trên không, không bị chướng ngại do núi, sông, tường đá.

Hoặc có người nam, người nữ sắp thành Phật thì dùng sức trí tuệ để trừ bỏ cấu uế của chúng sinh, ngồi thẳng tư duy bên gốc Thọ vương, tự phát thệ nguyện: “Nếu ta không thành Phật thì không đứng dậy”, như xưa kia Ta ngồi bên cây Diêm-phù, ba mươi tám ngày ngồi quán cây tư duy. Khi phát lời thệ này làm cảm động cả trời đất, khiến đại địa chấn động đủ sáu cách, ma ác Ba-tuần đem binh chúng đến mưa cát đá, sấm sét gầm thét... nhưng không thể nào làm lay động một sợi lông của Ta. Vì sao? Vì lòng từ bi thấm nhuần thương xót khắp chúng sinh cho nên được thành Phật với sáu thần thông siêu việt.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Thần thông phàm phu đắc
Giống như loài chim bay
Có lúc gần lúc xa
Nhưng không lìa sinh tử.
Thần thông Phật vô ngại
Chân thật không cấu bẩn
Niệm liền đến mười phương
Qua lại không mỏi mệt.
Vì thương xót chúng sinh
Đắc thần thông không ngại
Năm thông của tiên nhân
Thoái chuyển không thành tựu
Thần thông Ta kiên cố
Quyết vào cửa Niết-bàn.

Khi Đức Thế Tôn giảng nói pháp này cho Bồtát Diệu Thắng, có bảy mươi ức chúng sinh xả bỏ năm thần thông của thế tục, đạt được sáu thông tuệ.

Phẩm 18: THỨC TRỤ XỨ

Khi đó, trong đại chúng có Bồ-tát tên Phổ Quang - đầy lòng đại từ đại bi, có thần túc tự tại, ưa thích công đức sâu xa mầu nhiệm, đã thành tựu từ vô số a-tăng-kỳ kiếp, cứu vớt chúng sinh, nhổ đứt nguồn gốc khổ, đắc sáu thần thông, ở chỗ nào làm Phật sự đều không bị gián đoạn - liền từ tòa ngồi đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay thưa Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con đã nghe Như Lai phân biệt về sáu thần thông không chướng ngại, biến khắp cả mười phương thế giới chư Phật, làm cho chánh pháp của chư Thế Tôn bình đẳng không có sai biệt. Pháp thức này trụ hay không chỗ trụ? Thức của sáu thần thông, thức của pháp là một pháp hay nhiều pháp? Nếu thức là một pháp thì thân sắc Như Lai với thần túc đạo tràng được dạo qua các cõi Phật. Thức đưa đến thân hay thân đưa đến thức? Nếu thân đưa đến thức thì không có sáu thần thông. Nếu thức đưa đến thân thì đây gọi là một pháp, không thân không thức. Cúi xin Thế Tôn giảng nói cho con về nghĩa này.

Phật bảo Bồ-tát Phổ Quang:

– Theo nghĩa của ông hỏi là hỏi theo đệ nhất nghĩa hay hỏi theo nghĩa thế tục? Nếu hỏi theo nghĩa thế tục thì thức pháp rất nhiều, không có tướng nhất định. Còn hỏi về đệ nhất nghĩa thì không thân không thức. Vì sao? Vì nếu phân biệt về pháp thức thì tự tánh của nó là không tịch, không đến, không đi, cũng không nhiễm vướng. Ông hỏi về thân sắc vàng thì đây là pháp hữu vi do năm ấm thành tựu, chẳng phải pháp tự nhiên, chẳng phải đệ nhất nghĩa. Pháp sắc thân Phật đối với đệ nhất nghĩa thì không có mất. Nay Ta sẽ giảng nói cho ông về pháp tướng của thức:

Bồ-tát hành sáu thần thông, thân thức đều có một lượt, chẳng phải thức có trước thân có sau, chẳng phải thân có trước thức có sau. Vì sao? Vì pháp tướng tự nhiên, thức không lìa thân mà thân cũng không lìa thức.

Giống như hai con bò cùng chung một cái ách:

Nếu con bò đen đi trước, con bò trắng đi sau thì cày bừa trồng trọt không thành. Nếu như con bò trắng đi trước, con bò đen đi sau thì cày bừa trồng trọt cũng không thành. Chẳng phải bò đen đi trước, bò trắng đi sau; chẳng phải bò trắng đi trước, bò đen đi sau thì cày bừa trồng trọt mới thành.

Thần túc đạo quả cũng như vậy, thân và thức cùng sinh một lượt, không có trước sau hay chặng giữa. Sắc thân của Như Lai có trước có sau có chặng giữa. Đây là pháp thế tục chứ chẳng phải là đệ nhất nghĩa. Đối với pháp không tịch thì không có như thế.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Thể kim sắc Như Lai
Được ba đời cung kính
Làm trọng trách cho người
Đấng tôn quý vô thượng.
Các chúng trời Đao-lợi
Đêm ngày rải hoa hương
Phạm thiên và quyến thuộc
Trỗi nhạc để làm vui.
Ở trong trăm do-tuần
Khắp cả cõi hư không
Lớn tiếng khen: Lành thay!
Thức Phật không thể thấy.
Không có trong, ngoài, giữa
Vì kẻ ngu thế gian
Mà hiện pháp sáu thông
Vô số Phật quá khứ.
Tướng ánh sáng giống đây
Muốn cầu gốc thức pháp
Tịch diệt không thể thấy
Đạo sáu thông Bồ-tát.
Hiện tận không có tận
Niệm trong hơi thở ra
Không chấp hữu ba cõi
Quán trong ngoài thân tịnh.
Kim sắc: không, không chấp
Thức pháp cũng như vậy
Không khứ, lai, hiện tại
Tánh năm ấm thanh tịnh.
Không thân này, thân sau
Phân biệt tướng rõ ràng
Được đến nơi an ổn
Tướng thức có sáu điều.
Cũng gọi là sáu chứng
Sáu thức không chỗ trụ
Sinh diệt không cùng tận
Giống như bọt trên nước.
Vừa diệt lại sinh ngay
Thức pháp tự nhiên không
Theo dòng nước muôn nơi
Những gì xưa Ta tạo.
Thân thức đủ hai điều
Đi một mình không bạn
Nói pháp vô thượng đạo
Các pháp, thức là gốc.
Luôn luôn đi theo thân
Tuy trụ mà không trụ
Giáo hóa người khổ não
Mắt thấy sắc hiện tại.
Thức chướng ngại ở giữa
Chẳng phải sắc nhập nhãn
Không phải nhãn nhập sắc
Phân biệt pháp đây – kia.
Nhờ thức biết thiện ác
Tự thức không biết pháp
Nhĩ - thanh, tỷ - hương riêng
Sáu nghiệp duyên sinh riêng.
Nên tạo thành thiện ác
Thanh không đến với nhĩ
Tỷ, khẩu, ý cũng vậy
Nhân duyên tướng mỗi pháp.
Vô trước, không, vô pháp
Tám phẩm đạo Hiền thánh
Ba mươi bảy hành quán
Cõi hư không tịch nhiên.
Không tướng, không có nguyện
Nghiệp có quả trắng đen
Quả báo biết rõ ràng
Muốn cầu thật tướng thức.
Không thấy có chỗ trụ
Trang nghiêm quốc độ Phật
Bốn đẳng, vô sở úy
Hiểu rõ các pháp: không.
Thức diệt, hành cũng diệt
Bồ tát thành đạo quả
Pháp không, nay ba đời
Thức như đạo huyễn hóa.
Không trụ bên đây – kia
Thức diệt về hư không
Giả gọi không chân thật
Sơ nhập tứ không định.
Trừ tưởng không ràng buộc
Dựng cao ngọn cờ pháp
Xiển dương pháp tướng thức
Thức trước khác thức sau.
Cũng không xa lìa thức
Đấng đệ nhất ba cõi
Mới hiểu rõ tánh thức
Như người trên đỉnh núi.
Thấy thông suốt bốn phía
Phân biệt hạnh ác, thiện
Thiên nhãn thông đệ nhất
Thấy xa mười phương cõi
Người có mắt trí tuệ
Như xem ngọc trên tay.

Khi Đức Thế Tôn nói kệ này, có tám mươi bốn ức chúng sinh muốn được xả ly tướng sáu thức pháp, không muốn sinh tử luân hồi trong năm đường, phát tâm thệ nguyện lớn, trụ vào địa Vô thức.

Phẩm 19: THIỆN QUYỀN

Bấy giờ, trong đại chúng có Bồ-tát tên Cử Thủ bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con muốn nghe vô số quyền biến hóa hiện không thể tính kể của Đại Bồ-tát.

Đức Phật dạy:

– Đại Bồ-tát thường thực hành phương tiện thiện xảo, chẳng phải bên này, chẳng phải bên kia, chẳng phải hai bên, chẳng phải chặng giữa. Tùy theo sự giáo hóa thích hợp mà nói nghĩa, nói câu, tư duy nghĩa lý, trang nghiêm cõi Phật, sáu độ vô cực cho đến tưởng tri diệt, dùng phương tiện hướng dẫn không bị chướng ngại, không tự cao ngã mạn, dung mạo đoan nghiêm, đẹp đẽ, pháp phục tề chỉnh đàng hoàng, thọ nhận của tín thí biết vừa đủ, quang tướng trang nghiêm, nói năng thanh tịnh, làm cho một chúng sinh trụ được ức kiếp. Tất cả những gì để lại phía sau đến phương khác giáo hóa. Phân thân như vậy khó có thể nào lường được. Nơi chốn có thể du hóa là không thể nhận biết, hiện bày đại thần thông ở cảnh giới của quỷ thần và sai quỷ thần ấy hóa độ chúng sinh, truyền trao chỉ dạy lẫn nhau không làm mất đạo giáo.

Lại nữa, phương tiện thiện xảo làm hình tượng Phật có tướng ánh sáng rực rỡ, được thấy và nghe thuyết pháp, lời nói đầu, giữa, cuối đều tạo an ổn vui mừng, thiền định giác đạo, trí tuệ sáng suốt, giải thoát.

Khế kinh, kệ kinh, ký kinh, thọ quyết kinh, xử kinh, xuất yếu kinh, quảng trường kinh, tụ kinh, sinh kinh, quảng khổ kinh, vị tằng hữu, hiện kinh, chuyển kinh, thí dụ kinh, nhân duyên kinh, theo chân lý mà nói cho người nghe về pháp thâm diệu để họ hiểu về không và vô ngã. Tâm niệm của chúng sinh không giống nhau thì có thể làm cho tất cả nhập vào môn giải thoát.

Ví như suối nguồn, đê, ao, năm sông đều có mỗi tên nhưng tất cả đều chảy về biển cả, không còn cái tên xưa nữa. Cũng như núi Tu-di đứng sừng sững khó bị lay động, chim muông đủ màu sắc đến đó nương ở nghỉ ngơi thì đều hòa một màu, không còn màu sắc cũ nữa.

Đại Bồ-tát giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật cũng như vậy. Tâm thức của chúng sinh suy niệm không giống nhau, có rất nhiều tư tưởng nhưng đều có thể làm cho tất cả đạt đến môn giải thoát, tưởng định ý diệt. Lúc đó không còn niệm riêng mà là đồng một giải thoát như nhau. Đó gọi là Đại Bồ-tát quyền biến giáo hóa thích hợp không thể nghĩ bàn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Như nông phu làm ruộng
Chọn lựa đất màu mỡ
Gieo trồng đúng thời vụ
Tháo nước theo thời tiết.
Chăm bón mạ thành tựu
Không bị nạn sương, sâu
Cuối cùng thu hoạch quả
Cất chứa không lo sợ.
Pháp chân thật Bồ-tát
Ruộng sáu độ vô cực
Tiêu trừ tâm bỏn xẻn
Tưới bằng nước cam lồ.
Thiện quyền đạo phương tiện
Hiểu rõ pháp đến đi
Hướng dẫn loài chúng sinh
Được đến nơi bất diệt.
Sinh tử bệnh phiền não
Thiêu đốt căn tâm thiện
Thiện quyền phương tiện cứu
Hiểu rõ pháp đến đi.
Nếu người muốn xuất gia
Lấy giới cấm làm đầu
Không chấp pháp tốt đẹp
Hành quyền đạo Bồ-tát.
Mất mạng không tiếc thân
Không phạm, dù mảy lông
Thân như đống cỏ đất
Bị người ta vứt bỏ.
Nhẫn như núi An Minh
Kiên cố không chướng ngại
Hộ giới phương tiện đạo
Chê khen không tăng giảm.
Ra tối, ở chỗ sáng
Đạo thiện quyền Bồ-tát
Hiện thân nơi nhân gian
Vì thương xót tất cả.
Mà hiện thân rất nhỏ
Ra vào không trở ngại
Chư Phật ngồi đạo tràng
Diệt kiết sử không sinh.
Thì được đến đạo tràng
Trừ sạch các kiết sử
Cũng như đại đạo sư
Dẫn các người đi buôn.
Vào biển lấy châu báu
San hô, ngọc pha lê
Minh nguyệt báu tùy ý
Được an ổn về nước.
Cha me và anh em
Quyến thuộc, đám tôi tớ
Vui vẻ và sung sướng
Như định trừ bỏ tưởng.
Những Bồ-tát hành quyền
Tìm cầu tạng vô tận
Biết rõ châu báu đẹp
Làm anh lạc đeo thân.
Thiện quyền: đạo sư trưởng
Sáu độ là vợ con
Tâm bốn đẳng che chắn
Bụi trần không vướng lòng.
Đời rất nhiều kẻ ngu
Keo kiệt không bố thí
Chứa của ngàn vạn ức
Nói đó là của ta.
Đến khi sắp qua đời
Mắt thấy quỷ thần ác
Gió đao xẻ thân hình
Không còn thở ra vào.
Thức tham theo các ác
Thọ báo rất đau khổ
Dẫn đến chỗ nhận tội
Hối hận không kịp nữa.
Phật dùng quyền trí độ
Nói pháp cho người kia
Lợi căn tự xét tội
Tâm hối, không che giấu.
Nghe pháp được độ thoát
Đạo thiện quyền Bồ-tát
Như người mù bẩm sinh
Không biết màu đỏ vàng.
Gặp bậc thầy thánh giỏi
Điều trị bằng thuốc pháp
Xưa nghe có năm màu
Xanh, vàng, đỏ, trắng, đen.
Đã được biết mắt sáng
Không biết xanh, vàng, đỏ
Đạo thiện quyền Bồ-tát
Phân biệt đến cùng tột.
Dẹp sạch tám nạn pháp
Bất sinh cũng bất diệt.

Khi Đức Thế Tôn nói kệ này xong, có trăm ức cư sĩ hành đạo phương tiện thiện xảo hoàn toàn đạt đến vô vi, trụ vào địa Vô trụ.

QUYỂN 6

Phẩm 20: VÔ MINH

Bấy giờ, trong đại hội có Bồ-tát tên Trí Thanh Tịnh, phân biệt rõ về không, về không sinh già bệnh chết, về người dâm nộ si nhiều, người dâm nộ si ít, phân biệt rõ ràng chúng sinh có ba bậc khác nhau, trong hạng người đó có những bệnh nặng gì, bị bệnh nặng đó là tà kiến. Bồ-tát Trí Thanh Tịnh từ tòa ngồi đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay thưa Phật:

– Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác không việc gì là không nhận biết, không điều gì là không thấy, quá khứ hiện tại vị lai, từ loài người đến côn trùng, tâm nghĩ pháp gì, miệng nói lời gì, thân làm thiện ác, giới cấm sâu xa, oai nghi giới luật, biết nhiều biết ít, biết nặng biết nhẹ. Những gì con hỏi chẳng phải không, chẳng phải bất không; chẳng phải hữu, chẳng phải bất hữu; chẳng phải hữu không, chẳng phải hữu hữu. Chúng sinh thuộc ba tụ, ai là nhẹ, ai là nặng, ai là hiện báo, ai là sinh báo, ai là hậu báo. Thế nào là tưởng tri diệt, thế nào là Niết-bàn, thế nào là vô dư?

Phật bảo Bồ-tát Trí Thanh Tịnh:

– Lành thay! Lành thay! Ta rất vui mừng khi ông hỏi nghĩa này. Vì thương xót tất cả, được nhiều lợi ích mới ở trước Phật hỏi pháp bình đẳng. Ông hãy về lại chỗ ngồi, Ta sẽ giảng nói cho ông về cú nghĩa loại đầu, giữa, cuối. Nếu nghiệp ác thì thọ quả báo ác, nghiệp thiện thì thọ quả báo thiện. Ta sẽ phân biệt rõ ràng để ông biết.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Như người trồng cây trái
Hạt đắng, quả cũng đắng
Bị tội mắc báo ác
Chịu khổ vô số kiếp.
Giống ngọt, được quả ngọt
Trở lại thọ báo ngọt
Hương thơm rất ngon ngọt
Được hưởng báo thanh bạch.
Như người ở ao nước
Trong ngoài đều thanh tịnh
Không gió, không bụi dơ
Thơm đẹp được mát mẻ.
Có chúng sinh nào thấy
Ưa thích không thể xa
Phật đạo hạnh thanh tịnh
Giống như kia không khác.
Những chúng sinh báo ác
Đọa ba đường ác nạn
Theo dòng nước lên xuống
Nổi trôi chỗ ách khốn.
Khi ấy phiền não khổ
Tự chịu không ai thay
Chẻ xương thấu tủy não
Thiêu đốt không thể lường.
Đã đến ngục Vô cứu
Ý ngộ cầu giải thoát
Bị vô minh che lấp
Không thấy ánh sáng tuệ.
Như người đi lạc đường
Về Nam cho là Bắc
Suốt ngày tâm không ngộ
Tuy nghe cũng không tin.
Chịu tội khổ não nặng
Đau đớn càng tăng thêm
Lâu sau tội suy hết
Bị người đời khinh ghét.
Thân thể hôi, xấu xí
Như heo nằm vũng phân
Lần lượt vào vạc sôi
Chết rồi sống trở lại.
Vốn do ngu si tạo
Thọ báo như bóng hình
Thiện ác đều tương ứng
Phân loại theo chúng sinh.
Vô đạo, không bè nhóm
Hành cũng có cao thấp
Giữ giới sinh lên trời
Không thí, phước rất ít.
Ăn cơm sợ người thấy
Xấu hổ không lộ diện
Tuy có chúng Thiên nữ
Âm nhạc không hòa nhã.
Luôn luôn đi dạo chơi
Sợ gặp thiên thần đẹp
Nếu giới, thí đầy đủ
Cam lồ, y, thực đến.
Kỹ nhạc vây xung quanh
Như trăng sáng trong sao
Luôn luôn đi dạo chơi
Tùy tùng tự trang nghiêm.
Nhạc trời tự nhiên trỗi
Đây do ở nhân gian
Đủ trì giới, bố thí
Phước báo như hình bóng.
Chư Thiên tuy hưởng phước
Cũng có kiếp số nạn
Khi gần sắp qua đời
Mới biết pháp suy tàn.
Niệm thiện chuyển rất ít
Còn phải chịu làm thân
Luân hồi trong năm đường
Trải qua vô số kiếp.
Thiện ác chịu quả báo
Không riêng giàu hay hèn
Trong ấy bậc vượt lên
Như Ta, Thích Ca Văn.

Khi Đức Phật nói kệ này rồi, trong đại chúng có chư Thiên và người gồm bảy vạn bảy ngàn ức na-do-tha đều phát tâm cầu đạt đạo Chánh chân vô thượng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dạy Bồ-tát Trí Thanh Tịnh

– Đại Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ dùng quyền phương tiện sinh trong nhà bần tiện, muốn được thị hiện trừ kiết sử vô minh, ở trong thai mười tháng, khi mới sinh hiện không có tay chân, cha mẹ thấy vậy cho là quỷ nên đem quăng nơi đồng hoang, không muốn cho ai thấy. Vì sao? Vì Bồ-tát quyền hóa, muốn cho cha mẹ cùng quyến thuộc ngu si thấy được ánh sáng của đạo. Sau đó vài tháng, người mẹ lại mang thai, đủ mười tháng sinh một cậu bé đoan nghiêm tuấn tú, hiếm có trên đời, nhưng vừa mới sinh vào ban ngày thì đến tối chết. Cha mẹ kêu khóc đấm ngực, ngước lên trời kêu: “Thần núi, thần cây sao không thương tôi? Trước đây sinh một đứa con nhưng không có tay chân, đành phải quăng vào đồng hoang. Nay sinh một đứa con đẹp đẽ, tướng mạo không ai bằng, giống như thiên thần, nhưng mới sinh vào ban ngày thì đến tối chết. Ruột gan tôi đứt đoạn, phải làm sao bây giờ?”.

Qua vài tháng, người mẹ lại mang thai, đủ mười tháng sinh một bé trai, nhưng có ba đầu, tám chân, bốn mắt, tám tay, ai thấy cũng rợn tóc gáy. Cha mẹ quyến thuộc muốn bỏ mà đi, Bồ-tát quyền hiện cho họ không đi được. Cha mẹ hỏi: “Con là trời, là rồng, quỷ thần, A-tu-la, Càn-thát-bà, Calâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người hay là phi nhân?”.

Bấy giờ, cậu bé nói với cha mẹ bằng kệ:

Chẳng trời, quỷ, Dạ-xoa
Tu-luân, Ca-lâu-la
Vì trừ ngu cha mẹ
Quyền sinh nhà mẹ cha.
Con trước không tay chân
Cũng chính là thân con
Sáng sinh, chiều lại chết
Bậc bát trụ vô thượng.
Nay con thọ thân hình
Ba đầu, tám tay chân
Sao lại bỏ con đi?
Để đến cửa địa ngục.
Khổ địa ngục đầy đủ
Mười tám vạc dầu sôi
Mỗi vạc dầu sôi ấy
Có mười sáu vạc nhỏ.
Chịu khổ vô lượng kiếp
Muốn ra khỏi rất khó
Cha mẹ người ngu si
Không biết pháp chân tánh.
Tà kiến thờ cúng thần
Cho là thoát khổ nạn
Như ngọn lửa hừng hực
Lại thêm củi, cỏ khô.
Thiêu đốt gốc căn lành
Muốn diệt cũng chưa khó
Nay con làm thân lại
Hiện thân đẹp đẽ xưa.
Đạo vững tâm kiên cố
Tu tập ba thông tuệ
Từ a-tăng-kỳ kiếp
Thề độ người chưa độ.
Giữ giới, nguyện không quên
Thác sinh nhà cha mẹ
Trước sau bỏ thân mạng
Số ấy như vi trần.
Trải qua bao nhiêu chỗ
Đều nhờ phước giúp đỡ
Bao nhiêu loài quần sinh
Dấu chân đi khác nhau.
Sẽ hoan hỷ độ họ
Cũng độ bằng khủng bố
Tùy theo niệm chúng sinh
Để họ được toại nguyện.
Bệnh chúng sinh chẳng một
Cho uống thuốc cam lồ
Cho đi vào đường chánh
Không để vào đường tà.
Chư Thiên hưởng phước lạc
Cam lồ trừ bệnh: vui
Không trái Thánh giáo: vui
Giải thoát Niết-bàn: vui.

Khi Bồ-tát nói kệ này, cha mẹ dòng họ và những người trong hội đều phát tâm cầu đạt đạo Bình đẳng vô thượng.

Phẩm 21: KHỔ HẠNH

Bấy giờ, Như Lai quan sát các chúng hội Bồtát, trời, rồng, quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Calâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân và phi nhân, bậc hữu học, vô học và bốn bộ chúng Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, biết tâm niệm của các chúng sinh là muốn thưa thỉnh Như Lai giảng nói sự thành tựu rốt ráo về vô lượng khổ hạnh, làm thế nào để phát tâm được thành Phật đạo. Biết tâm niệm của họ, Đức Phật liền nói cho họ về hạnh khổ cực xưa kia.

Phật dạy các Bồ-tát:

– Hãy lắng nghe pháp tướng chân thật của Ta nói, không phải do thế tục mà đắc đạo, cũng không lìa thế tục mà đắc đạo; không phải theo chân đạo, cũng không lìa chân đạo. Vì sao? Vì trong cái đen có cái đẹp của trắng, vì trong tục có cái đẹp của đạo. Khổ vui cùng có. Vì sao? Vì xưa kia Ta học đạo rất trực tín, không nghi ngờ, được làm vua mặt trời, mặt trăng. Cung điện mặt trời ngang dọc năm mươi mốt do-tuần. Cung điện mặt trăng ngang dọc bốn mươi chín do-tuần. Mặt trời phóng ra ánh sáng một ức một ngàn ánh sáng. Mặt trăng tỏa ra một ức ánh sáng. Ta là Thiên tử của mặt trời, mặt trăng nên cho rằng thường trụ, không hư, không hoại, từng đi qua hằng hà sa ức vạn cõi, làm Thiên tử mặt trời, làm Thiên tử mặt trăng, đến khi mạng hết mới biết chẳng phải thật, chẳng phải chân.

Sau đó thọ mạng giảm dần, làm đại thần mặt trời, mặt trăng tên là Hà-già-la, cung điện ngang dọc hai mươi lăm do-tuần, kế làm Tỳ-lê-ha-ba-đề, cung điện ngang dọc hai mươi do-tuần.

Lại làm Ương-già-la, cung điện ngang dọc mười chín do-tuần.

Lại làm Hê-mỗ, cung điện ngang dọc mười chín do-tuần.

Lại làm Hàm-mi, cung điện mười lăm do-tuần. Năm đại thần này đứng hai bên mặt trời, mặt trăng.

Qua vô số trăm ngàn kiếp làm năm vì sao này đoạn tận rồi bị đọa lạc, cũng không chân thật, rồi thọ mạng của họ giảm dần.

Ta từng làm sao Mão cùng với bạn sáu người độ ba mươi.

Ta từng làm sao Tất với bằng nhóm năm người, độ bốn mươi lăm.

Ta từng làm sao Tuy, bè bạn ba mươi người, độ ba mươi.

Ta từng làm sao Sâm, đơn độc một mình, độ mười lăm.

Ta từng làm sao Tỉnh, bè nhóm hai mươi người, độ bốn mươi lăm.

Ta từng làm sao Quỷ, bè nhóm ba mươi người, độ bốn mươi.

Ta từng làm sao Liễu, bè nhóm bốn mươi người, độ mười lăm.

Bồ-tát nên biết, bảy vì sao này đứng ở phía Đông.

Ta từng làm sao Tinh, bè nhóm năm người, độ ba mươi.

Ta từng làm sao Trương, bạn bè hai mươi người, độ ba mươi.

Ta từng làm sao Dực, bạn bè hai mươi người, độ ba mươi lăm.

Ta từng làm sao Chẩn, bạn bè năm người, độ ba mươi.

Ta từng làm sao Giác, đơn độc một mình, độ ba mươi.

Ta từng làm sao Cang, cũng đơn độc một mình, độ mười lăm.

Ta từng làm sao Để, bạn bè hai mươi người, độ ba mươi lăm.

Bồ-tát nên biết, bảy vì sao này đứng ở phương Nam.

Ta từng làm sao Không, bạn bè bốn người độ ba mươi lăm.

Ta từng làm sao Tâm, bạn bè ba người, độ mười lăm.

Ta từng làm sao Vĩ, bạn bè ba người, độ ba mươi.

Ta từng làm sao Ky, bạn bè bốn người, độ ba mươi.

Ta từng làm sao Đấu, bạn bè ba người, độ ba mươi lăm.

Ta từng làm sao Ngưu, bạn bè ba người, độ mười sáu.

Ta từng làm sao Nữ, bạn bè ba người độ ba mươi.

Bồ-tát nên biết, bảy vì sao này đứng ở phương Tây.

Ta từng làm sao Hư, bạn bè bốn người độ ba mươi.

Ta từng làm sao Ách, đơn độc một mình, độ mười lăm.

Ta từng làm sao Thất, bạn bè hai người độ ba mươi.

Ta từng làm sao Bích, bạn bè hai người độ ba mươi lăm.

Ta từng làm sao Khuê, bạn bè hai người độ ba mươi.

Ta từng làm sao Lâu, bạn bè hai người độ ba mươi.

Ta từng làm sao Vị, bạn bè ba người độ ba mươi.

Bồ-tát nên biết, bảy vì sao này đứng ở phương

Bắc.

Từ vô số kiếp Ta làm vua mặt trời, mặt trăng, hoặc làm quan thần qua lại xoay tròn, hình hài khô bại, không phải đạo chân thật. Sau đó đến nhân gian làm vua Chuyển luân Thánh vương, vua nhỏ đủ miền, hoặc làm trưởng giả, cư sĩ cầu đạo thanh tịnh cho là chân thật. Nhưng tất cả đều là việc làm trống không, không hợp với đạo chân thật.

Xưa kia, có một thời, Ta vào núi cầu đạo, thấy các tiên học gồm năm người đều nhóm họp ở một chỗ:

– Có người co một chân, chấp tay đứng, chuyển thân nhìn theo mặt trời.

Hoặc có người thờ mặt trăng, chấp tay đứng, chuyển thân nhìn theo mặt trăng.

Có người nằm trên gai góc, hoặc nằm trên cát đá. Có người giữ giới học theo gà, bò, ngựa, nai.

Có người từ trên đỉnh núi gieo mình xuống vực sâu. Có người ôm đá, tự trầm mình xuống sông sâu. Có người dùng năm thứ lửa tự đốt thân để cầu được sinh lên trời. Có người xẻ từng bộ phận của thân để tìm chỗ ở của thần.

Có người mổ đỉnh đầu để lấy tủy não đốt đem cúng dường chư Thiên.

Có niệm quăng mình vào dầu sôi nước nóng.

Có người ở bên phải của dòng sông giết vô lượng chúng sinh.

Có người ở bên trái dòng sông đốt hương để cho những chúng sinh qua đời đó được sinh lên cõi trời.

Có người tự suy nghĩ: “Nay ta độ cha mẹ trước”, nên đem cha mẹ quăng trong lửa, rồi xướng lên: sẽ sinh lên cõi Phạm thiên.

Có người ăn phân bò, có người ăn hạt cỏ.

Có người bảy ngày ăn một lần, hoặc có khi không ăn, hình hài khô gầy.

Có người bện lá cây để làm y phục. Có người nối xương để làm y phục.

Có người lấy đầu lâu để làm đồ đựng thức ăn.

Có người nằm trên gai, kim nhọn, rồi chích vào tim để giữ tâm trụ.

Có người nhóm họp lại một chỗ, cùng nhau mổ bụng để rửa ruột trừ đi sự dơ bẩn, nói rằng để sinh lên cõi Phạm thiên.

Những sự khổ hạnh xưa kia của Ta không thể lường được, học đạo sáu năm bên gốc cây Thọ vương, mỗi ngày ăn một hạt mè, hạt gạo, chim chóc làm ổ sinh con trên đỉnh đầu của Ta. Loài rắn, trăn quấn lấy thân Ta. Người thợ săn quăng ném gạch đá, có lúc chặt chẻ phá hoại thân thể, có lúc dùng gậy đâm vào bụng cho đến rốn chịu trăm ngàn vạn khổ như vậy mà không cho là khổ. Vì sao? Vì bấy giờ Ta cho là đạo chân thật, nhưng thật ra chẳng phải là đạo chân thật.

Ở trên hư không có vị trời chấp tay thưa Bồ-tát: “Sức chịu đựng rất to lớn, có thể phá nát các kiết sử, xin Bồ-tát hãy nghĩ đến thành Phật, cẩn thận đừng thoái lui”.

Hằng hà sa chư Phật quá khứ không giống như Bồ-tát tuyệt thực để cầu đạo. Điều này làm cho thiên thần cảm động mới sai những cô gái dâng bát sữa. Uống xong, khí lực bình phục, tư duy bảy ngày chiến thắng quân ma. Phạm thiên xuống thỉnh: “Xin hãy thành Phật để xiển dương đại pháp, để nói đạo chân thật, đừng vào Niết-bàn”.

Niết-bàn là không sinh, già, bệnh, chết. Xưa kia Ta đã từng tu khổ hạnh như vậy.

Bấy giờ, trong chúng hội ca ngợi là điều chưa từng có và tất cả đều phát tâm cầu đạt đạo Bình đẳng vô thượng.

Phẩm 22: TỨ ĐẠO HÒA HỢP

Lúc ấy, trong chúng hội có Bồ-tát tên Biến Quang, trí tuệ thông đạt, trụ vào quả vị Bất thoái chuyển, tâm thệ nguyện rộng lớn không thể nào lường tính, được chư Phật khen ngợi chẳng phải một, chẳng phải hai, có công đức vô lượng với hằng hà sa Phật, chứa nhóm hạnh vô úy, thường dạo khắp vô lượng cõi Phật, cùng học với tám vị:

Bồ-tát Bất Tà Kiến.

Bồ-tát Trực Ý.

Bồ-tát Chúng Tướng.

Bồ-tát Khuất Thân.

Bồ-tát Giải Thoát.

Bồ-tát Giải Phược.

Bồ-tát Ấn Khả.

Bồ-tát Thệ Nguyện.

Từ vô số kiếp trụ vào địa Tận, đắc Bất thoái chuyển. Bấy giờ, Bồ-tát Biến Quang thưa Phật:

– Làm thế nào Đại Bồ-tát nhập vào bốn loại đạo mà không có trước sau, thành tựu đạo Vô Thượng Đẳng Chánh Giác? Bồ-tát ngày đêm tư duy thấy dục như lửa, tưởng tri niệm đều tận những hành pháp điên đảo; thấy lợi pháp đầu tiên được quả Ana-hàm, thì ngay ở cung trời ấy thủ đạo minh chứng. Như vậy không bao lâu, có lúc Bồ-tát ở quả vị trên quan sát xuống cõi Dục giống như đống bọt nước, đoạn trừ ba kiết sử, xa lìa ba ác đối với hữu, vô hữu. Hoặc có Bồ-tát đắc căn, đắc lực, lập chí tự tại, phá hữu diệt vô, không còn bốn đẳng tâm, kia đây đều bình đẳng không có tưởng ngã, chẳng quá khứ, hiện tại, vị lai, chẳng có Đẳng chánh giác. Vậy những vị ấy đối với đạo vô thượng có gì sai khác?

Đức Phật dạy:

– Lành thay! Những câu hỏi này Ta sẽ phân biệt rõ ràng đầy đủ cho ông.

Sao gọi là nhân duyên của nhân duyên Bồ-tát?

Sao gọi là nhân duyên của nhân duyên? Sự xúc chạm của vòng xuyến nơi hai tay gọi là nhân duyên của nhân duyên.

Người kia dạy ta tiếp thu nhờ nơi âm thanh, tiếng nói giáo hóa, gọi là Thanh văn, không có thầy, không có trí, không nhờ kia đây, nên gọi là Phật Duyên giác.

Lại nữa, đối với đạo này, đạo kia, Đại Bồ-tát học hỏi quyết nghi với nhau, được chứng hay không chứng đều trôi theo năm đường. Đó gọi là giác, cũng không thấy giác, cũng không thấy không giác, không một, không hai, đó là không hai nhập.

Đại Bồ-tát với bản hạnh tu tập hiểu rõ Duyên giác, với hữu dư, vô dư kiết sử đều đoạn hẳn, đó là không hai nhập.

Tất cả các loại chúng sinh hiểu rõ đều là vô thường. Thân chẳng phải của ta, trong ngoài đều là trống không. Đó là không hai nhập.

Ân đức của Phật lan rộng khắp nơi không bờ bến, lấy khổ tập đạo để đạt đến vô vi, đó là không hai nhập.

Bốn đẳng tâm đại bi che trùm hết tất cả, chúng sinh ngu si được đến với đạo chân thật, đó là không hai nhập.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Thanh văn, Phật-bích-chi
Là tên mượn để gọi
Như người đại chiến thắng
Thắng giặc là trên hết.
Không ai sánh bằng Phật
Một mình vào ba cõi
Điều tâm chiến thắng ma
Sức nhẫn đến Niết-bàn.
Luân chuyển khổ sinh tử
Mạng như lửa đá mài
Trải qua ức trăm ngàn
Không biết khi nào thoát.
Phật vốn không danh hiệu
Vì do người tôn trọng
La-hán, Phật-bích-chi
Chỉ một không có hai.
Như Phật Định Quang kia
Thọ ký Ta vô thượng
Sau chín mươi mốt kiếp
Ở trong Hiền kiếp này.
Bậc tối thắng thứ tư
Hiệu là Thích Ca Văn
Đời vạc sôi năm trược
Không hiếu thuận cha mẹ.
Sát hại A-la-hán
Không vâng lời Phật dạy
Những nơi Ta từng ở
Chẳng một, chẳng hai đường.
Trong sáu đường phiền não
Trải qua vô số kiếp
Đầu, giữa, cuối không ngủ
Kinh hành tu đức hạnh.
Kỉnh tâm tự giác ngộ
Lìa chấp trước ba hữu
Hạnh nguyện xưa của Phật
Không xả, thủ diệt độ.
Một thân, một thần thức
Giống mình không có khác
Cực khổ trong số kiếp
Tinh thần bị suy sụp.
Vì họ, không vì mình
Nên được thành Phật đạo
Ta là Nhất thiết trí
Dạy cho người chưa dạy.
Tuệ thông không chấp trước
Một tiếng dứt nghi ngờ
Ba đời Tu-đà-hoàn
Đạt đến đạo vô vi.
Huống chi người đệ nhất
Theo Phật không còn nghi
Các đệ tử của Ta
Hữu học và vô học.
Bốn đẳng cứu vớt khổ
Không khởi, không sinh diệt
Vốn do tư tưởng sinh
Lại do tư tưởng diệt.
Phi ngã tư tưởng sinh
Phi ngã tư tưởng diệt
Hành vốn do có căn
Trôi nổi chẳng một mối.
Căn đoạn dứt tư tưởng
Không còn niệm căn bản.

Khi Đức Thế Tôn nói kệ xong, có mười hai nado-tha chúng sinh đều phát tâm cầu đạt đạo Bình đẳng vô thượng.

Phẩm 23: Ý

Bấy giờ, trong chúng hội có Bồ-tát tên Căn Liên Hoa, tuệ thí vô ngại, thực hành bốn tâm bình đẳng kiên cố khó lay động, đi đứng nằm ngồi không mất oai nghi, lễ độ. Từ vô số kiếp đến nay, vị ấy luôn tu hành phạm hạnh, thiền định không tán loạn, phân biệt rõ ràng về thiện ác, quan sát chúng sinh có tâm dâm nộ si hay không có tâm dâm nộ si, dù nhiều hay ít gì cũng đều biết rõ, dạo qua các cõi Phật, cúng dường phụng thờ chư Phật Thế Tôn, khéo dùng phương tiện thị hiện vô thường, vô ngã, vô thân, vô thọ mạng, vô nhân; đi biết đi, đứng biết đứng và có lòng từ bi thương xót hết thảy mọi loài. Khi ấy, Bồ-tát Căn Liên Hoa từ tòa ngồi đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay thưa Phật:

– Lành thay! Bạch Thế Tôn! Ý của bốn đạo ở chỗ nào? Ý hữu vi hay ý vô vi?

Ý là quả hay ý là phi quả? Ý là hữu đối hay vô đối?

Ý có thể thấy hay không thể thấy?

Ý là quá khứ, hiện tại, vị lai hay chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai?

Ý là pháp của tiên nhân hay chẳng phải pháp của tiên nhân?

Ý là pháp hữu vi hay là pháp vô vi?

Ý là pháp hữu lậu hay là pháp vô lậu?

Đối với quả báo ba pháp thì ý ở đâu?

Ý ở trong đen hay quả báo đen?

Ý ở trong trắng hay quả báo trắng?

Ý ở trong không đen không trắng, hay trong quả báo không đen không trắng?

Ý ở hành pháp thô hay hành pháp tế?

Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Căn Liên Hoa:

– Lành thay! Lành thay! Này Bồ-tát Căn Liên Hoa! Nghĩa mà ông hỏi là thương xót tất cả, khai hóa pháp tâm ý thức cho chúng sinh, thị hiện ánh sáng cho người mù tối. Nay ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Tối thắng không ai bằng
Thanh tịnh không vết dơ
Mặt đẹp như hoa sen
Không bị bụi làm dơ.
Sống ở đời hữu vi
Bị khổ nạn ba cõi
Ta không, kia cũng không
Ý tịch không tâm thức.
Như nước trong đồ đựng
Tùy theo tướng của vật
Quá khứ vốn chẳng có
Hiện tại hành thiện ác.
Vị lai pháp sẽ hoại
Ý này vốn chẳng phải
Bồ-tát hành đại bi
Cũng hiện đối – vô đối.
Rửa trừ bệnh cấu uế
An ổn đạo cứu cánh
Người bị năm cái che
Khiến tâm bị chướng ngại.
Như trời chiếu thiên hạ
Thường bị năm việc che
Khói bụi trần tu luân
Bít lấp pháp căn môn.
Ý vốn không thiện ác
Theo hành động đã tạo
Tịch diệt, không, vô pháp
Như nhánh nhiều trái, gãy.
Ví như cây chuối ấy
Lột mãi không có lõi
Thân người do bốn đại
Tìm ý không ý căn.
Ý ở trong ba đời
Ba đời không có ý
Phân biệt thức tâm pháp
Tìm cầu không thật có.
Ý pháp không hình tướng
Không thể nói ý ấy
Tâm nghĩ rất nhiều điều
Sinh diệt không dứt đoạn.
Quá khứ nghĩ thiện ác
Vị lai sẽ thọ báo
Hiện tại hành đã đủ
Ý tạo chẳng phải ai.
Một niệm chín mươi ức
Nghiệp có thiện có ác
Chỉ một niệm tạo ra
Diệt trừ không thể hết.
Huống chi ngày tháng kiếp
Nghiệp thiện ác đã tạo
Người trí sẽ hộ thân
Kiên cố không lay động.
Như kẻ phạm tội kia
Bưng bát dầu đầy tràn
Nếu rớt một giọt dầu
Càng thêm bị tội lớn.
Hai bên trỗi âm nhạc
Sợ chết không dám nhìn
Bồ-tát tu quán tịnh
Giữ ý như kim cang.
Chê khen và não loạn
Tâm ý không lay động
Hiểu không xưa nay tịnh
Không kia, đây, chặng giữa.
Pháp chân như bốn đế
Hướng đến cửa Niết-bàn
Những việc xưa ta tạo
Kết nối gốc thân căn.
Chẳng tính thầy, đệ tử
Có thể tính đếm được
Vô số ức ngàn kiếp
Đem thân đền nợ tội.
Thân voi, ngựa, sáu súc
Không được sinh làm người
Dù được làm thân người
Bị điếc, đui, câm, ngọng.
Phật hiện chiếu thế gian
Biên địa không thấy Phật
Khổ năm vạc nước sôi
Thuần ác không nghe thiện.
Điên đảo theo pháp tà
Trong chân tánh đạo suy
Ta từ vô số kiếp
Giữ hạnh như bát dầu.
Yêu thân tự giữ gìn
Đưa đến chỗ vô úy
Chín mươi sáu loại đạo
Như đom đóm trong đêm.
Phật nhật chiếu thế gian
Trừ bỏ các tối tăm
Có Phật người đời vui
Có thuốc người bệnh vui.
Có báu người nghèo vui
Thành Phật Niết-bàn vui
Khổ hạnh nhẫn nhục vui
Ta không chấp sắc vui.
Tham lam bố thí vui
Giữ giới không phạm vui
Được nghe Phật dạy vui
Tư duy thiền định vui.
Hữu – vô bình đẳng vui
Khó gặp được gặp vui
Địa ngục tám nạn khổ
Vô cứu đệ nhất khổ.
Hạt giống mục nát khổ
Gieo mạ không lên khổ
Sinh thiên rồi đọa khổ
Chánh kiến đảo điên khổ.
Rồng Nan-đà-bạt khổ
Quấn núi Tu-di khổ
Kiếp thiêu lửa cháy khổ
Trạo hối cầu Phật khổ.
Nhất hạnh hướng nhất đạo
Nhất tâm không thoái lui
Một thân tu đức hạnh
Cuối cùng thành nhất thật.
Tu nhất, không lìa nhất
Đoan nghiêm nhất biết nhất
Giữ nhất, không lìa nhất
Nên nói đi một mình.

Phẩm 24: ĐỊNH Ý

Bấy giờ, trong chúng hội có Bồ-tát tên Trì Không, đầy đủ tướng tốt, nhập vào bốn pháp môn, biện tài bậc nhất, tu trì cõi Phật, mỗi cõi Phật đều lưu thân lại để giáo hóa, thị hiện sinh diệt tùy theo căn cơ cao thấp của con người, âm thanh nói năng có khi ngọt có khi đắng, nói rõ ràng về quá khứ, hiện tại, vị lai, trước mặt người hỏi thì một khi trả lời bằng vạn ý, ý nghĩa thâm thúy khó có thể lường được.

Bấy giờ, Bồ-tát Trì Không từ tòa ngồi đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, thưa Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn! Làm thế nào để độ chúng sinh khổ đau? Phật bảo Bồ-tát Trì Không:

– Bồ-tát làm thế nào để chúng sinh nghe tiếng khổ, hạnh khổ thì khổ đoạn, khổ diệt, không còn thấy nguồn gốc của khổ nữa. Con đường đưa đến khổ là do ân ái sinh ra, những sợi dây ân ái trói buộc tâm người. Lấy hai mươi pháp hạnh làm thuốc trị liệu, không còn theo gốc khổ, chất chứa hành nghiệp nhiều kiếp, diệt rồi sinh trở lại. Chúng sinh tà kiến cho là đạo chân thật, chuyển nhập định ý Tam-muội thanh tịnh. Thanh tịnh không vết dơ, không kia không đây. Tâm thức khai ngộ, dần dần được định ý. Lành thay sự lợi ích của Ta, an ổn diệu lạc không gì bằng. Tâm ý thức bị trói buộc lần lần mở ra, gọi đó là đạo chân thật, còn đây chẳng phải đạo chân thật. Vì sao? Vì pháp hư ngụy lừa dối chẳng phải bản hạnh của Phật. Những gì xưa kia chư Phật hành là chân thật. Ngoài Ta ra, không có pháp chân thật nào hơn những pháp mà Phật đã hành, đó là bốn bất tư nghì. Bốn bất tư nghì là gì?

Bồ-tát giữ ý có thể làm cho ba ngàn đại thiên thế giới nơi cõi Phật đều bằng bảy báu, rồi làm trở lại như cũ. Đó là bất tư nghì thứ nhất.

Như Ta ngày nay ở trong bào thai mẹ dẫn dắt cho vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh, người chưa độ được độ, người chưa đến được đến, trừ bỏ đi những cấu bẩn để đạt đến vô cấu. Đó là bất tư nghì thứ hai.

Xưa kia Ta thệ nguyện cốt yếu là độ người đau khổ để đến nơi không còn khổ. Một người khổ, chưa độ được thì Ta không bao giờ vào Niết-bàn. Đó là bất tư nghì thứ ba.

Thân Phật vô lượng, Đông, Tây, Nam, Bắc có thể dung chứa hết. Một mình không có bạn bè, tự tánh pháp không, quán chúng sinh rồi tự quán tánh của mình, đây đẹp kia xấu, đây tịnh kia bất tịnh, đây là địa thủy hỏa phong, đây là của ta kia chẳng phải là của ta, đây khổ kia không khổ, đây vui kia không vui, đây thường kia vô thường, đây là đời này kia là đời sau, làm phước được phước, tạo tội chịu tội.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Thân như tro, đất, phân
Do bốn đại tạo thành
Không phong, thủy trang nghiêm
Thì địa thủy ly tán.
Hỏa diệt trong chốc lát
Thí thức không chỗ trụ
Tội nhiều chứa gốc khổ
Đây do thức tạo nên.
Nay Ta biết bản thức
Bỏ ngươi, ngươi không thật
Vải năm màu rực rỡ
Làm hư hoại tâm người.
Như người thở ra vào
Hành pháp không dừng lâu
Hiểu biết vô thường, khổ
Không đây, kia, chặng giữa.
Một tiếng ứng vạn ức
Hiển bày giáo đệ nhất
Thân vô thường, khổ, không
Hiểu rõ các pháp tướng.
Trở về trụ sáu tịnh
Hiểu không, vô tướng, vô nguyện
Thân chẳng phải của ta
Như Phật dạy chúng sinh.
Thân còn tâm thức lìa
Nếu Phật không như vậy
Làm sao phân thân dạy
Báo tội phước theo trước.
Nguyện đều được thỏa mãn
Nay thọ, sau không thọ
Hiện tại cũng như vậy
Tội giết hại cha mẹ.
Cũng hiện, cũng không hiện
Giống như việc đánh cầu
Thần thức bị ô nhiễm
Hoặc nghịch hoặc hối hận.
Một lòng hướng Niết bàn
Bậc đại sư vô vi
Xả thân bỏ tục lụy
Pháp vốn không nhân duyên.
Quả báo như hình bóng
Như có cũng không có
Tà kiến nói chân thật
Bị lưới si quấn trói.
Từ đen vào lại đen
Không phân biệt pháp trắng
Giới nhẫn có năm hạnh
Không sợ, không bị sợ.
Định lực chấn đại thiên
Thắng ma như điều binh
Người cầu đạo vô thượng
Có người thoái, người tiến.
Như sông chảy về biển
Đến nhiều, đạt thì ít
Gặp được duyên đại bi
Thiện quyền vượt bờ kia.
Phật là Nhất thiết trí
Không nhiễm, không chấp trước
Ta vốn hành nghiệp khổ
Bỏ nước, thành, vợ con.
Quên cha mẹ, sư trưởng
Không tiếc thân mạng mình
Như người giữa đồng hoang
Khao khát cần nước uống.
Gặp sông, suối, ao, giếng
Lấy uống không còn khát
Người thọ thân bốn đại
Có định không định xứ.
Huống thức không thiện ác
Thức thọ báo rõ ràng
Nhà bảy báu trì giới
Có trăm vạn Thiên nữ.
Nhạc trỗi để vui chơi
Không bao giờ sầu ưu
Lực Phật Nhất thiết trí
Thấm nhuần khắp mọi người.
Trước đạt năm thần thông
Nhuần gội pháp cam lồ
Xưng dương bốn cú nghĩa
Không trước, sau, chính giữa.
Pháp này nối pháp khác
Thông pháp tánh trong ngoài
Những gì Ta đã tạo
Bị ác sử trói buộc.
Luân hồi trong năm đường
Mà cho là nhà cửa
Cảnh trời như lửa xẹt
Tìm kiếm không có thật.
Rùa mù tìm bọng cây
Có lúc còn được gặp
Một khi ta mất mạng
Ức kiếp khó lại được.
Biển rộng lớn sâu thẩm
Ba trăm ba mươi sáu
Nếu quăng kim vào biển
Tìm kiếm còn khi được.
Một khi ta mất thân
Khó được hơn đó nữa
Người giữ luật, trì giới
Ở đời khó gặp được.
Trong ức ngàn vạn kiếp
Phật như hoa Ưu đàm
Những chúng sinh hữu duyên
Được Phật giáo hóa đạo.
Đoạn trừ các kiết sử
Vĩnh viễn không bị vướng.

Khi Đức Phật nói kệ này xong, có hai mươi nado-tha chúng sinh lập tín căn kiên cố, không còn nghi ngờ và đều phát tâm cầu đạt đạo Chánh chân vô thượng.

Phẩm 25: QUANG ẢNH

Khi ấy, ở trong thai, Đức Thế Tôn giảng rộng về pháp Đại thừa không thể nghĩ bàn. Vì sắp diệt độ nên Thế Tôn thị hiện đức bóng ánh sáng, làm cho chúng hội đều cùng một màu, giống như màu vàng ròng của Phật không khác. Chư Thiên, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩnna-la, Ma-hầu-la-già, nhân và phi nhân cùng bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bàdi có người hướng đến quả, có người đã đắc quả cũng đều một màu. Ai nấy đều muốn nghe Đức Như Lai giảng nói về bóng ánh sáng nên định ý gây dựng công đức, giải thoát vô ngại, có bốn biện tài, ứng đối mau lẹ, tưởng tri đều diệt tận, phủi sạch gánh nặng cho mọi người, đi đứng nằm ngồi không mất oai nghi. Theo pháp chư Phật thường giảng nói về khổ, tập, diệt, đạo, dìu dắt chúng sinh vào bốn ý chỉ, thành tựu đoạn ý, giác lực, sư tử vô úy, tám con đường của bậc Thánh, không, vô tướng, vô nguyện.

Bấy giờ, trong chúng hội có Bồ-tát tên Hiền Quang, từ tòa ngồi đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay thưa Phật:

– Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn phóng ra ánh sáng này chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Ánh sáng được hóa này, có giống như Phật hóa không? Công đức của thần lực Phật chẳng phải một, chẳng phải hai, ánh sáng này tiếp xúc không thể cùng tận. Hai đức hạnh ấy có khác nhau không? Cúi xin Thế Tôn giải thích những mối nghi ngờ để cho người chưa tin dứt hẳn hồ nghi.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dạy Bồ-tát Hiền Quang:

– Những điều ông hỏi đều là do thần lực của Như Lai. Vì sao? Vì ánh sáng thần diệu của Như Lai hiện bày là để cứu độ chúng sinh nên không bị chướng ngại. Từ cõi Diêm-phù-đề lên đến trời Quả

Thật, ánh sáng chiếu xa, giảng nói sáu độ vô cực: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Đúng như thần lực của Phật độ thoát chúng sinh, không còn kia, không còn đây. Vô số a-tăngkỳ chúng sinh được cứu độ đều là nhờ ánh sáng mát dịu của Đức Phật che chở.

Khi ấy, ánh sáng tự nhiên vang tiếng nói kệ:

Quá khứ vô số Phật
Đều phóng ánh sáng này
Mỗi mỗi vầng ánh sáng
Nói sáu độ vô cực.
Giới, nhẫn, môn giải thoát
Thích pháp để tự vui
Trước nói ba không định
Kế tiếp thành tựu đạo.
Những người bị ba độc
Không trói, không bị trói
Bốn mươi tám kiết sử
Không cứu, không được cứu.
Chẳng thật người hành đạo
Những nơi đã trải qua
Sống an vui ba chỗ
Dấu chân thần rất quý.
Đi qua rất cao thượng
Đạt đến bờ vô vi
Lập hạnh không thoái chuyển
Vô úy sức oai thần.
Được thần quang tiếp độ
Hơn trăm ức vạn lần
Như mỗi ánh sáng kia
Phân làm số bụi trần.
Một bụi là các cõi
Vô số không thể lường
Sức Phật không cùng tận
Chẳng có cũng chẳng không.
Ánh sáng giảng nói pháp
Độ thoát a-tăng-kỳ
Pháp thân tự nhiên không
Trong ngoài hạnh thanh tịnh.
Tám vạn tư phiền não
Định tâm không tán loạn
Xưa Ta chín mươi hai
Kiếp số khó thể lường.
Ngồi thẳng dưới gốc cây
Hành đạo không thoái lui
Trời, người, tu luân, quỷ
Năn nỉ hỏi nghĩa Ta.
Ánh sáng lại tiếp độ
Độ thoát vô ương số
Quá khứ Phật Thức-khí
Phóng ánh sáng dạy sau.
Ai vào ánh sáng ấy
Tiêu diệt khổ ba độc
Tiếp Phật Duy-vệ-tôn
Thần đức không thể lường.
Cũng lại phóng ánh sáng
Cứu vớt người khổ não
Câu-na-hàm-mâu-ni
Đấng ra khỏi ba cõi.
Hiện ở núi tiên nhân
Ánh sáng luôn rực rỡ
Câu-lưu: trời trong trời
Không vướng, không bị nhiễm.
Tịch diệt nhập Niết-bàn
Phóng quang sau giáo hóa
Ca-diếp Bản Vô Tôn
Độ người không thể lường.
Cũng lấy đức ánh sáng
Độ người chưa được độ
Ta, Thích Ca Mâu Ni
Nói pháp ở trong thai.
Thân đây, ánh sáng kia
Biến khắp các cõi Phật
Đối với người tiểu tiết
Không thể nào lường nổi.
Chỉ Phật lường được Phật
Công đức không khác nhau
Chư Phật ở vị lai
Đều hiện phóng ánh sáng
Hiện để độ chúng sinh
Ánh sáng trước pháp sau.

Khi Đức Thế Tôn nói kệ xong, có bảy trăm bảy mươi ức chúng sinh nghe Phật giảng nói về thần đức quang minh này, ngay tại chỗ ngồi đều phát tâm cầu đạt đạo Bình đẳng vô thượng.

QUYỂN 7

Phẩm 26: PHÁ TÀ KIẾN

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhập chánh định Tammuội, phân thân biến hóa, phóng ra ánh sáng lớn để muốn cho các Đại Bồ-tát và bốn bộ chúng: Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di phá tan cảnh giới của ma, trụ vào chánh địa.

Đức Thế Tôn bảo đại chúng:

– Ta nhớ về quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp, Ta tu hành khổ hạnh trong núi cùng với Tôn sư và năm ngàn người ở phía Nam núi Tuyết, phía Bắc thành Thanh Tịnh. Ta là đệ tử nhỏ nhất trong chúng ấy, nhưng siêng tụng đọc kinh điển, toán số kỹ thuật, thiên văn địa lý đều thấu tỏ. Theo pháp thường của chúng ấy, nếu có đệ tử nào sở học đã thành tựu thì nên báo ân thầy.

Lúc ấy Ta một thân một mình, không có tiền của, vật báu để dâng lên thầy nên quỳ lạy, xin muốn xuống núi vào xóm làng đi xin. Thầy không cho phép. Xin nài ba lần như vậy nhưng thầy vẫn không cho. Vì sao? Vì Ta thông hiểu rõ ràng các kinh điển đứng đầu trong chúng. Thầy nói với Ta: “Ta có kho tàng kinh điển bí mật quý báu, ngươi chưa đọc tụng sao lại rời ta để vào nhân gian đi xin?”.

Khi ấy thầy đưa quyển kinh cứ một câu có năm chữ, bảo Ta tụng thuộc lòng. Chưa được vài ngày, Ta đã học thuộc và thưa trước thầy: “Thầy hãy cho phép con xuống núi đi xin để báo ân thầy”. Thầy cũng không cho và nói với Ta: “Ông nên học hỏi văn thư bí sấm về mặt trời, mặt trăng, sao, tai nạn, yêu quái, họa phước, núi lay đất chuyển.

Những điều này ông cũng chưa biết, sao lại muốn rời ta để vào nhân gian đi xin?”.

Rồi thầy đưa quyển kinh, cứ một câu kinh gồm một ngàn chữ, bảo Ta học thuộc. Chưa được mấy ngày, Ta đã thành tựu và bạch thầy đi xin để báo ân thầy. Thầy cũng không cho, nói: “Ta có quyển kinh, cứ một câu kinh gồm một vạn chữ. Những quý báu trong kinh ông cũng chưa đọc tụng, vì lý do gì mà muốn rời ta để đi xin?”.

Thế rồi thầy lại đưa kinh bảo Ta tụng đọc thuộc lòng. Chưa đến vài ngày Ta đã thấu đạt về kỹ thuật, phước họa, sự vận hành của các sao và tất cả đều được thông suốt. Khi ấy, thầy khuyên Ta nên ở lại và không còn kinh nào để đưa cho Ta học nữa.

Ta liền từ tạ thầy xuống núi, vào thôn xóm đi xin, thấy năm ngàn Phạm chí dị học ở một làng lớn, cùng nhau cúng tế trời.

Theo pháp cúng tế trời thì phải giết năm trăm con bò, năm trăm con dê, năm trăm con lạc đà, năm trăm con ngựa, voi mạnh nhất có sáu ngà, năm trăm người nữ, một cây gậy bằng vàng, một bồn rửa mặt bằng vàng, vải trắng một ngàn xấp, vàng bạc tiền đều phải năm vạn. Những vật báu này sau khi được cúng cho trời thì sẽ đưa cho thầy.

Bấy giờ, Ta xuống núi với y phục dơ nhớp, bụi bặm. Trước đây ở trong núi tu khổ hạnh lâu năm, mặc áo da nai, nghe năm ngàn vị Phạm chí dị học thiết đại lễ đàn nên Ta liền đến đó.

Khi ấy sư trưởng hỏi Ta: “Nếu kinh điển kỹ thuật nhiều thì mới cho ngồi trên, còn kinh điển ít thì cho ngồi dưới”.

Vị sư ấy không biết gì cả, không thông đạt bí yếu sấm ký nên cho Ta ngồi trên, nhưng sư ấy lại tức giận nói: “Đây là người như thế nào, đáng lẽ châu báu đủ mọi vật phải thuộc về ta, sao bị người này chiếm đoạt? Nếu đời sau gặp nhau, ta quyết phải báo thù, giống như đã chiếm đoạt của ta ngày hôm nay”.

Bấy giờ Ta liền nói: “Tà kiến điên đảo chẳng phải chân thật, phân biệt rõ ra thì chỉ có vô vi mới gọi là Niết-bàn, không sinh già bệnh chết, không đây, không kia, chặng giữa. Quán tự tướng của nó là thanh tịnh, bốn vô sở úy làm phước thì sinh lên trời, bị tội thì đọa vào địa ngục, tham lam bỏn xẻn thì làm ngạ quỷ, mắc nợ thì làm súc sinh, quả báo thiện ác giống như bóng theo hình”.

Khi ấy, tâm thức của năm trăm người được khai sáng, liền thỉnh Ta làm thầy. Những voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà v.v... sắp bị giết, Ta lại không giết. Còn gậy vàng, bồn rửa vàng, đáng lẽ Ta nhận nhưng Ta liền đem đưa cho vị Thượng tọa tức giận kia. Năm trăm người nữ được gởi trở lại cho chủ thờ cúng. Năm vạn tiền vàng Ta chỉ lấy năm trăm thôi. Năm vạn tiền đồng Ta cũng chỉ nhận năm trăm, còn lại gởi cho chủ thờ cúng.

Ta đi từ thôn này đến thôn khác, từ nước này qua nước nọ, dần dần đến bên ngoài cửa phía Đông của thành Thanh Minh. Ta thấy năm trăm Phạm chí tuổi cao đức lớn, học đạo ngày ngày đứng dưới lửa mặt trời thiêu đốt, thân thể xấu xí dơ bẩn. Ta liền lấy năm trăm tiền vàng đưa mỗi người một đồng, từ biệt họ vào thành. Ta thấy người trong thành lấy nước thơm rảy lên đất để khử trừ bụi dơ, treo cờ phướn, lọng báu và mọi người sắp thẳng hàng trong tư thế đoan nghiêm, chuẩn bị ra ngoài thành.

Đi tới một tí, Ta thấy một cô gái cầm bảy cành hoa. Khi ấy, Ta nhìn xung quanh tìm hương kiếm hoa nhưng không có. Ta hỏi cô gái ấy: “Tôi muốn hoa trên tay của cô”.

Cô ta trả lời: “Hoa này đã có chủ. Đức Phật sắp vào thành, tôi đem hoa này dâng lên Phật”

Không thể được rồi, Bồ-tát lại dùng quyền phương tiện nói với cô gái: “Tôi có năm trăm tiền báu, tôi mua mỗi hoa một trăm tiền, nếu được thì cô bán”.

Thế rồi Ta đưa tiền ra, cô ta tham của báu nên lấy năm cành hoa đưa cho Ta. Đi được khoảng mười bước, cô ta tự nghĩ: “Người này có tướng mạo đoan nghiêm mà lại mặc y phục bằng da nai, vì ham năm cành hoa của ta mà không tiếc tiền bạc. Điều này chắc chắn có lý do”.

Thế rồi cô ta quay lại kêu: “Này ông ơi, ông dùng hoa ấy để làm gì vậy?”.

Ta trả lời: “Để dâng lên Phật”.

Nghe đến danh hiệu Phật, cô ta liền lấy hai cành hoa còn lại đưa cho Ta. Ta ra khỏi thành, thấy Đức Phật đằng xa, chư Thiên và dân chúng đông nghẹt cả đường, không có một chỗ đất hở trống nào để lễ lạy. Trước Phật có một vũng nước, rộng bằng chỗ một người đứng.

Ta liền trải tóc trên vũng nước ấy và ca ngợi Phật với bài kệ:

Phá tâm ái kiêu mạn
Diệt được dục nộ si
Chân tướng sáng bậc nhất
Xin Phật thấu lòng con.
Thệ nguyện xưa con cầu
Ngày nay được thấy Phật
Nay rải năm cành hoa
Nguyện đắc Bất thoái chuyển.
Hai cành hoa còn lại
Cô gái gởi cúng Phật
Vô thượng đại Đạo sư
Thương xót đạp tóc con.

Khi ấy, Đức Như Lai Quang Minh thấy Ta tâm tịnh phát nguyện rộng lớn, không có gì có thể làm trở ngại, hủy hoại được, liền dùng kệ khen Ta:

Đồng tử phát tâm lớn
Rộng cứu độ muôn người
Nguyện lớn không tự có
Trồng nhiều gốc công đức.
Qua vô số kiếp sau
Đời năm vạn năm trược
Thành Phật độ chúng sinh
Danh hiệu Thích Ca Văn.
Ba mươi hai tướng sáng
Đấng kỳ diệu loài người
Thọ tuệ xưng Phật rồi
Đất chấn động sáu cách.
Chư Thiên, người thế gian
Thấy Ta được thọ ký
Thường muốn diệt các sử
Đều nguyện sinh cõi Ta.

Bấy giờ, Đức Như Lai Quang Minh liền đạp trên tóc Ta đi qua, Phật dùng thần lực nhận năm cành hoa của Ta và đem thân Ta để trên hư không.

Hai cành hoa còn lại Phật để trên hai bên vai. Xưa kia tu hành phá tất cả những vật dụng của năm ngàn Phạm chí cúng trời thờ lửa, dạy họ hành chánh kiến, tám pháp bình đẳng, ngồi nằm kinh hành mỗi bước đều làm lợi ích, độ thoát chúng sinh. Từ đó đến nay, chưa từng bị đọa vào ba đường, tám nạn, thế trí biện thông, biên địa, sau Phật.

Lúc này trên chỗ ngồi, chúng sinh cõi ma cho thường là đoạn diệt, nói khổ là vui, vô thường cho là hữu thường, không có thân nói rằng có thân, tu tập bốn điên đảo, không có trí tuệ để nhận biết rõ ràng, bị năm triền cái che lấp, tham đắm vào lợi dưỡng.

Muốn độ những người tà kiến này, Đức Thế Tôn nói kệ:

Tà kiến, đạo không thật
Như loài trùng Thiết thôi
Đục xương vào tủy não
Đau đớn vô số kể.
Lợi dưỡng hoại đạo đức
Người trí không làm vậy
Thân hành tâm kiên cố
Trừ sạch pháp vô minh.

Khi Đức Thế Tôn nói pháp chân thật về cú nghĩa, vị nghĩa, tự nghĩa cho những người tà kiến này thì có vô số trăm ngàn chúng sinh phát tâm cầu đạt đạo Chánh chân vô thượng.

Phẩm 27: VĂN THÙ THÂN BIẾN HÓA

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nhập vào Tam-muội Thượng tôn định ý, quan sát các Đại Bồ-tát quá khứ, hiện tại, vị lai có kiếp số nhiều ít, sẽ từ một kiếp, hai kiếp cho đến trăm ngàn vô số ức kiếp thủ Bát-niết-bàn.

Có Đại Bồ-tát cúng dường chư Phật, thành tựu công đức, giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật.

Có Đại Bồ-tát từ lúc đồng chân hành bát trụ, không có vợ con, dập tắt tư tưởng dâm dục, tự tại ở quả vị của mình, không cha mẹ, anh em mà đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Về thuở xưa cách đây bảy mươi chín kiếp, tại thế giới Hoa Quang, ông ở trong thai thuyết pháp toàn thân xá-lợi. Dân chúng cõi ấy cao ngàn dotuần, thân của Phật cao vạn do-tuần. Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc trên dưới rộng vô lượng, không có giới hạn, không thể tính kể, dù thầy tính, đệ tử tính cũng chẳng thể nào lường được, căn bản thanh tịnh, vốn ông ở nơi đó. Thân Phật phóng ra ánh sáng, thị hiện thần túc để cho đại chúng đồng loạt được thấy Như Lai làm lợi ích cho chúng sinh. Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Văn-thù vốn thành Phật
Trong thai hiện biến hóa
Thân cao vạn do-tuần
Tướng ánh sáng rực rỡ.
Mắt như hoa sen xanh
Môi miệng đỏ lửa sáng
Bốn mươi răng trắng thẳng
Mắt nháy ngước lên xuống.
Chư Thiên, rồng, quỷ thần
Đem hương hoa cúng lạy
Nay Ta ở thai này
So với cõi của ông.
Đối với mười sáu phần
Không bằng một mảy lông
Đức biến hóa Như Lai
Thông đạt không chướng ngại.
Hương giữ giới lan xa
Chư Phật đều khen ngợi
Các đại chúng đến đây
Muốn hỏi pháp khó có
Cúi đầu trước Như Lai
Để trừ lưới nghi ngờ.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ngay trên tòa ngồi, dùng định lực thần túc giống như người lực sĩ co duỗi cánh tay, tiếp thế giới Hoa Quang để bên trong thai thân mẫu của Phật Thích Ca Mâu Ni nơi cõi Ta-bà.

Thế giới của hai Đức Phật không chướng ngại nhau, vẫn hiện đầy đủ các tướng tốt của thân Phật, ngồi bên Thọ vương giảng nói pháp tối thắng thâm diệu.

Bồ-tát cõi ấy cũng đến gần gũi Đức Phật Thích Ca Văn, thừa sự cúng dường hương hoa, cờ phướn, lọng báu. Đệ tử Bồ-tát của Thích Ca Văn Ni cũng đến cõi kia cúng dường lễ bái.

Âm thanh nói pháp vi diệu sâu xa của hai vị Phật khai thông với nhau, không có chướng ngại. Đức Phật kia nói vô sinh thì ở đây cũng nói như vậy. Ta nói về tâm định thì bên kia cũng nói như vậy. Ý, đoạn, căn, lực, giác đạo hai bên giống nhau. Bên kia nói khổ, không, vô ngã, bên đây cũng vậy.

Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói kệ:

Quán trong ngoài thanh tịnh
Duyên diệt, tưởng cũng vậy
Các cõi Phật mười phương
Thần đức không khác nhau.
Đều do căn chúng sinh
Hiện có diệu, không diệu
Cho ta thành thân Phật
Cõi này rất là nhỏ.
Vì chúng có nghi ngờ
Hiện biến hóa trong thai
Thân ta như vi trần
Nay ở cõi Phật kia.
Ba mươi hai tướng sáng
Hiện khắp cả mọi nơi
Xưa làm thầy Năng Nhân
Nay lại làm đệ tử.
Đạo Phật rất rộng lớn
Thanh tịnh không tăng giảm
Ta muốn thấy thân Phật
Hai Ngài không cùng đứng.
Cõi này hiện giáo hóa
Cõi ta hiện thân Phật
Cõi kia có kiếp thiêu
Cõi ta không hư hoại.
Lực Phật biến khắp nơi
Tâm chúng sinh chẳng một
Chúng hội nghe ta nói
Ngoài đây ra còn có.
Cõi Phật tên Vô Khuyết
Phật hiệu Thăng Tiên Tôn
Quốc độ nhiều gấp bội
Thanh tịnh không cấu uế.
Quốc thành bằng bảy báu
Đất thủy tinh lưu ly
Ao bát giải cam lồ
Rửa sạch mọi trần cấu
Khiến trụ chốn vô ngại
Rực rỡ ánh sáng lớn
Đức Phật Thăng Tiên ấy
Chẳng phải người nào khác
Chúng hội ai muốn biết
Đó chính là thân Ta.
Ngoài đây lại còn có
Cõi nước tên Cứu Cánh
Phật hiệu Đại Trí Tuệ
Bồ-tát nhiều vô lượng.
Không có hàng Nhị thừa
Bích chi và Thanh văn
Bồ-tát Ma-ha-tát
Không còn dâm nộ si.
Gốc mục lá không sinh
Huống chi lại có trái
Tướng đại nhân đầy đủ
Cứu người trước, mình sau.
Mạnh như năm dòng sông
Năm sử năm trói buộc
Năm ấm luôn than thở
Luân hồi trong năm đường.
Bảy tên sứ trói chặt
Không lìa bảy chỗ sinh
Tám chánh đạo vô vi
Diệt trừ tám nghiệp tà.
Tám tuệ quán thanh tịnh
Trước lấy nước bát giải
Bát trụ bát trừ nhập
Tám đạo pháp hữu vi.
Pháp khổ có chín phần
Chúng sinh đi sáu đường
Trọn vẹn chín không ngại
Trang nghiêm cây Phật đạo.
Pháp mười lực, vô úy
Mặc áo thệ từ bi
Tay cầm kiếm trí tuệ
Phát sạch rừng kiết sử.
Các chúng sinh cõi này
Tham đắm sinh kiêu mạn
Bệnh nặng không thầy giỏi
Bệnh tình càng kịch liệt.
Giống như lửa đồng hoang
Thiêu đốt cả núi rừng
Núi cao gió thổi mạnh
Cháy rực bao giờ tắt.
Thế giới của chúng ta
Đại trí tuệ giảng rõ
Như thân ta ngày nay
Bậc Như Lai đại trí.

Sau khi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói kệ này, có vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh đều nguyện sinh về cõi Hoa Quang.

Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thâu thần túc lại, hiện đệ tử Bồ-tát của Đức Phật Thích Ca Văn. Bao nhiêu quốc độ đều trở lại nguyên như cũ.

Phẩm 28: BÁT HIỀN THÁNH TRAI GIỚI

Bấy giờ, trong chúng hội có Bồ-tát tên Trí Tích, vốn tạo nhiều công đức với chư Phật quá khứ, chiến thắng quân ma, với phương tiện thiện xảo làm trang nghiêm cõi Phật, tu hành nhẫn nhục trong vô số kiếp. Tâm nhẫn không sơ sót, không phế bỏ thiền hành, là tiếng gầm của sư tử trong đại chúng. Đi một mình trong ba cõi, lên xuống lúc nào cũng được, không điều gì là không thông suốt, ứng đối không trở ngại, có thể làm núi sông, tường đá biến thành bảy báu, đem bố thí cho những người nghèo khổ, giúp đỡ đầy đủ bốn việc cần dùng, hiểu rõ về quán không, pháp tánh đều thanh tịnh. Biết rõ ba đời, có oai nghi phép tắc. Quán pháp như huyễn, như hóa, như bóng trong gương, như sóng nắng, như tiếng vang trong hang. Quyến thuộc đi theo đều thành tựu căn bản, giữ gìn giới cấm không phạm một mảy nào.

Bồ-tát Trí Tích từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay thưa Phật:

– Vui thay, bạch Thế Tôn! Như Lai giáo hóa không chỗ nào là không thấu đạt. Tám bộ chúng trời, rồng, người, quỷ đều đến đạo tràng. Chúng sinh cõi không giới cho đến thai sinh, hóa sinh được cứu độ không thể lường. Cúi xin Thế Tôn hãy phân biệt về các hành thiện, ác trong sáu đường, oai nghi giới cấm đầu, giữa, cuối đều thiện. Phân biệt rõ ràng về những người chưa biết được biết.

Phật bảo Bồ-tát Trí Tích:

– Lành thay! Lành thay! Ông đã hỏi Như Lai về nghĩa sâu xa ấy. Nay Ta sẽ phân biệt cho ông về những kết quả của giới cấm thiện ác. Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ.

Thuở xưa vô số kiếp, có một thời Ta làm chim chúa cánh vàng, cung điện bằng bảy báu, ao sau vườn cũng đều xây bằng bảy báu, dạo chơi trong vườn thấy tâm được tự tại. Phép tắc thi hành giống như Chuyển luân Thánh vương. Phụ nữ trong cung nội giống như Thiên nữ. Trải qua trăm ngàn kiếp mới vào biển tìm rồng để ăn thịt.

Khi ấy, trong biển có rồng hóa sinh, vào các ngày: mồng tám, mười bốn, rằm thì thọ trai giới của Như Lai, gồm tám giới cấm:

Không sát sinh. Không trộm cắp. Không tà dâm.

Không nói dối, nói thêu dệt. Không uống rượu. Không nghe ca hát âm nhạc. Không thoa hương hoa phấn sáp. Không nằm giường cao rộng.

Không ăn phi thời.

Rồng hóa sinh vâng giữ tám pháp của Hiền thánh.

Chim cánh vàng dài tám ngàn do-tuần, mỗi cánh dài bốn ngàn do-tuần. Biển lớn ngang dọc ba trăm ba mươi sáu vạn dặm, Chim cánh vàng dùng cánh vẹt nước để bắt rồng. Nước chưa kịp hợp lại thì chim cánh vàng đã ngậm rồng bay lên.

Theo phép tắc của chim cánh vàng, khi muốn ăn rồng thì trước tiên ngậm đuôi đem đến phía Bắc núi Tu-di. Nơi đó có cây sắt lớn cao mười sáu vạn dặm. Chim cánh vàng ngậm rồng đến đó để chuẩn bị ăn, nhưng qua một ngày đêm tìm đuôi rồng không biết ở đâu. Sáng mai rồng lòi đuôi ra, nói với chim cánh vàng: “Rồng hóa sinh chính là ta đây. Nếu không giữ tám pháp trai giới thì ta sẽ bị ngươi ăn thịt rồi”.

Nghe vậy, chim cánh vàng hối hận, tự trách mình: “Oai thần của Phật sâu xa khó lường”, và nói: “Cung điện của tôi cách đây không xa, ông hãy cùng tôi đến đó để vui chơi”.

Rồng liền theo chim cánh vàng đến thăm cung điện.

Chim cánh vàng nói: “Quyến thuộc chúng tôi ở đây không nghe tám pháp trai giới. Cúi xin ông hãy chỉ dạy oai nghi giới cấm để sau khi qua đời, tôi được sinh làm người”.

Khi đó, rồng đem hết pháp giới cấm bảo chim cánh vàng đọc tụng. Lúc ấy, tại cung điện của chim chúa, rồng nói kệ:

Nhà cung điện bảy báu
Trang nghiêm rất thích thú
Do hành giới không đủ
Làm thân chim cánh vàng.
Tôi là con Long vương
Tu đạo bảy vạn kiếp
Lấy kim đâm lá cây
Phạm giới làm thân rồng.
Tôi không từ thai sinh
Thấp sinh hay noãn sinh
Chuyển thân không thoái chuyển
Làm sáng Phật, Pháp, Tăng.
Nay ông thọ tám giới
Giáo hóa quyến thuộc ông
Giữ giới không được phạm
Sẽ được sinh chỗ lành.
Cung điện tôi trong biển
Cũng làm bằng bảy báu
Châu ma-ni, pha lê
Châu minh nguyệt, vàng, bạc.
Hãy theo tôi đến đó
Thăm viếng tu Phật sự
Tăng thêm cội gốc lành
Từ bi thấm mọi nơi.

Nghe rồng nói, chim cánh vàng thọ tám pháp trai giới và tự nói: “Từ đây trở về sau, trọn đời không sát sinh, như chư Phật, chỉ dạy cho quyến thuộc chim cánh vàng”.

Sau khi thọ ba quy y, chim cánh vàng theo rồng về cung điện trong biển. Trong cung điện có tháp bảy báu, đó là kho tàng mà chư Phật đã giảng nói. Đặc biệt có hòm bằng bảy báu đựng đầy kinh Phật, như: Mười hai nhân duyên, Tam-muội Tổng trì v.v... Thấy vậy, rồng tử và rồng nữ đem hương hoa cúng dường, lễ bái, thừa sự, giống như cung điện vàng Đàn-bà-ma-la ở cõi trời, rồi nói với chim cánh vàng: “Tôi làm thân rồng đã trải qua kiếp số mà chưa hết, nhưng chưa từng sát sinh hay làm nhiễu loạn các loài thủy tộc”.

Bấy giờ, rồng nói kệ với chim cánh vàng:

Giết là nghiệp bất thiện
Giảm tuổi thọ, chết yểu
Thân như con thiêu thân
Thấy ánh sáng rồi chết.
Giữ giới, vâng lời Phật
Được sinh trời Trường Thọ
Tạo phước đức nhiều kiếp
Không đọa cõi súc sinh.
Nay tôi làm thân rồng
Giới đức hạnh trong sáng
Tuy đọa trong sáu súc
Nhưng có ngày thoát khỏi.

Sau khi rồng nói kệ này thì rồng tử và rồng nữ tâm bừng sáng, tâm ý thông suốt và sau khi qua đời tất cả đều sinh về cõi Phật A-di-đà.

Phật bảo Bồ-tát Trí Tích:

– Kiếp trước Ta đã hành giới đức trọn vẹn, thành Bồ-tát biến hóa tự tại, không chỗ nào là không vào, cũng làm chim cánh vàng, cũng làm loài rồng, cũng có khi biến hóa làm rùa, ba ba v.v...

Phẩm 29: NĂM LẠC

Bấy giờ, Đức Thế Tôn quan sát những suy nghĩ trong tâm thức của chúng sinh, là muốn biết những nơi đã từng trải qua của Như Lai, như từng sinh loài chim cánh vàng, được rồng giáo hóa. Những kẻ được độ nhiều vô lượng, không thể tính kể. Ngoài ra còn có những kiếp gì, nên muốn biết ý ấy. Thấu rõ tâm niệm của chúng sinh, Như Lai muốn thị hiện những pháp về thân, khẩu, ý xưa kia Ngài đã tu tập:

– Này các thiện nam, thiện nữ hãy lắng nghe Ta nói: Xưa kia có Thiên Đế thích, từ quá khứ đến nay trải qua vô số kiếp, luôn hưởng phước trời tự nhiên, là người tôn quý bậc nhất trong ba ngàn đại thiên thế giới của các trời Đế thích. Khi ấy, A-tu-la vương La Hầu sinh một cô con gái đẹp đẽ, đầy đủ nết na, có sáu mươi bốn tài năng, đi đứng tới lui không mất oai nghi, mặt như hoa đào, miệng tỏa ra mùi thơm như hoa Liên-ưu-bát, thân có mùi thơm Ngưu-đầu-chiên-đàn, không cao không thấp, không đen không trắng, không mập không ốm, trọn đủ tư cách của người nữ.

Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân suy nghĩ: “Thiên nữ trong cung điện của ta nhan sắc đẹp đẽ hơn các Thiên nữ khác, nhưng không bằng con gái của Atu-luân kia. Nay ta tập hợp binh chúng đến đánh với A-tu-luân để chúng phải nộp cô gái ấy cho ta”. Suy nghĩ thế rồi, Đế thích mời chư Thiên đến bàn luận về việc chiến đấu. Chư Thiên thưa Đế thích:

– Chư Thiên chiến đấu chắc chắn là thua chúng. Ta hãy chọn những người chuyên về nhạc cầm với cây đàn lưu ly chín mươi mốt dây và một thuyền, ca hát khen ngợi về cõi trời của ta thọ hưởng hoan lạc với vô lượng công đức.

Chư Thiên khen hay và làm theo ý kiến này.

Đế thích lập tức ra lệnh Bàn-giá-dực cầm nhạc trời chuẩn bị đầy đủ nhạc cụ rồi ở trên trời bỗng nhiên biến mất. Như kẻ lực sĩ co duỗi cánh tay, đã đến đứng trước mặt A-tu-la vương Bà-ha và đánh đàn với kệ:

Ta là trời Đế thích
Thầy đánh đàn tuyệt diệu
Tiếng ca khúc hòa nhã
Tiếng trong suốt rất hay.
Làm cho trời kia vui
Không còn tưởng buồn sợ
Nghĩ áo cơm, đến ngay
Cơm cam lồ bảy báu.
Giường vàng bạc, thuyền ngọc
Chuyển động thân quay tròn
Thấy vui không nhàm chán
Tôn quý nhất trong trời.
Nay sai chúng tôi đến
Muốn nói hạnh bất tịnh
Dâng thức ăn cam lồ
Muốn cầu việc hôn nhân.
Chủ ta có cung điện
Châu ngọc không thể lường
Thiên nữ làm quyến thuộc
Hơn ngàn vạn ức số.
Biết Bà-ha có con
Hãy giao cho chủ tôi
Còn như không bằng lòng
Thì đến lúc phải đánh.
Tu luân nghe lời này
Nổi tức giận đùng đùng
Vật nhỏ, ý muốn lớn
Vậy ngươi muốn làm gì?
Tuy không có cam lồ
Nhưng ta dự trữ đủ
Cũng có binh chúng mạnh
Đủ để chống cự nhau.

Nghe vậy, Bàn-giá-dực trở về nói lại cho trời Đế thích. Khi ấy, A-tu-la vương Bà-ha liền ra lệnh:

– Tất cả tập hợp binh chúng! Ta có việc phải đi chinh chiến. Ngay bây giờ hãy chuẩn bị đầy đủ, không ai nghi ngờ gì cả!

Và ra lệnh bằng kệ:

Thiên Đế thích hào quý
Sai sứ Bàn-giá-dực
Ca tụng bằng ngữ âm
Muốn ta việc hôn nhân.
Chúng nay chưa tập binh
Ta nên nhóm binh trước
Đến đánh không dùng sức
Thắng vạn không mất một.

Nghe vậy, vệ thần của A-tu-luân liền tập hợp binh chúng đến sườn núi Tu-di đánh phá cung trời, tiếp đánh phá cung Phong thiên, rồi đánh phá cung Mã thiên và đánh phá cung Trang nghiêm thiên.

Khi ấy, có vị trời tên Đại Lực đến nói với Thích-đề-hoàn-nhân:

– Đại vương nên biết: A-tu-luân Bà-ha tập hợp binh chúng đã phá tan bốn cửa trời. Đại vương! Bây giờ phải làm thế nào?

Thiên Đế thích liền nhớ lại bài tụng xưa kia, nên nói kệ:

Oai thần lực chư Phật
Cứu hộ nguy ách con
Nhẫn tuệ phá sân giận
Giải thoát đạt an ổn.
Xưa con không ngủ nghỉ
Chiều nay bỗng buồn ngủ
Điềm này không tốt lành
Tu-luân chiếm cõi con.

Thiên Đế thích nhớ đến công đức của Phật nên binh chúng A-tu-luân lần lần rút lui ra khỏi bốn cửa sau vườn và vào trong ao, trốn trong ngó sen.

Khi ấy, Thích-đề-hoàn-nhân ra lệnh đại thần:

– Các ông hãy mau tập hợp binh chúng đuổi theo binh chúng của A-tu-luân.

Nhận lệnh Thiên vương, các đại thần của Đế thích liền tập hợp chúng trời theo bốn cửa để tìm kiếm nhưng chỉ thấy áo giáp, cung tên trên đất mà chẳng thấy đám A-tu-luân đâu cả. Tiến dần tới trước thì gặp cung điện A-tu-luân nhưng chỉ thấy ngàn vạn chúng A-tu-luân Bà-ha nữ mà chẳng thấy thân của A-tu-luân.

Họ đem các chúng nữ trở về cung trời Đao-lợi. Thấy vậy, chúng A-tu-luân ra cầu xin quy mạng và nói với Thích-đề-hoàn-nhân:

– Chúng tôi ngu hoặc, không biết thần lực của đệ tử Phật cao vời như vậy. Trước đây tiên tổ chúng tôi tín thờ Như Lai, nghe Phật có giới không được lấy vật người khác. Nay Thiên vương Đế thích đem quyến thuộc của tôi về hết cung trời, thật chẳng phải là phép tắc của đệ tử Phật thực hành.

Nghe họ nói vậy, Thiên Đế thích rất buồn, không vui, nghĩ: “A-tu-luân nói vậy chứng tỏ là ta đã phạm vào giới không cho mà lấy. Ta nên phụng thờ giới cấm, không phạm tội trộm cắp” và liền cho các A-tu-luân nữ trở về.

Khi ấy, A-tu-luân liền đem cô gái mình yêu quý nhất dâng cho Thiên Đế thích. Thiên Đế thích đem cam lồ ngon ngọt mời A-tu-luân. Tu-luân cùng Đế thích hòa hợp tu hành pháp thiện: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, không mang hương hoa phấn sáp, không ăn phi thời, giữ gìn ba pháp quy y của Như Lai.

Những hành nghiệp xưa kia trải qua vô số đời, ta đã làm Chuyển luân Thánh vương, vô số đời làm Thiên Đế thích, vô số đời làm Phạm Thiên vương, phụng giữ tám pháp trai giới của Hiền thánh, độ những khổ nạn, cứu những tai ách. Giả sử trong bốn cõi thiên hạ bị lửa cháy giống như kiếp thiêu, mà ai nhất tâm quy y, xưng danh hiệu Như Lai, giữ gìn tám pháp trai giới, thân có rơi trong lửa nhưng không bị cháy. Nếu bị ngập nước, nước cũng không thể nhận chìm. Tám pháp trai giới là cha mẹ của chư Phật.

Phẩm 30: KHẨN ĐÀ LA

Khi ấy trong chúng hội có Bồ-tát Tín Giải Thoát, trong vô số a-tăng-kỳ kiếp về quá khứ đã làm Khẩn-na-la vương.

Qua phía Bắc núi Tu-di là núi Lưu Ly. Qua phía Bắc núi Lưu Ly là núi Tiểu Thiết Vi. Phía Bắc núi Tiểu Thiết Vi có núi Đại Hắc. Khẩn-na-la vương cai quản núi này. Quá khứ hằng hà sa chư Phật, ông ta không thấy cũng không nghe pháp, không được chúng Tăng giáo hóa, không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng và sao chiếu vào. Nhờ xưa kia tạo một phước bố thí nên được ở trong cung điện bảy báu và sống rất lâu. Vì sao? Vì lúc ở nhân gian gặp được ruộng phước: Có ông trưởng giả xây tháp Phật, Khẩn-đà-la vương này đã cúng dường một cây trụ để làm tháp. Lại còn đem thức ăn thanh tịnh bố thí cho người thợ xây. Sau khi qua đời, ông làm Hung Ức thần vương, ở giữa hai núi, cung điện nhà cửa bằng bảy báu.

Khi còn ở nhân gian, ông có của cải nhiều vô lượng. Có một Sa-môn vào buổi sáng ôm bát đi đến nhà ông khất thực. Biết có vị Sa-môn đang đứng ngoài cửa, vợ ông ta bưng cơm ra cúng dường. Thấy vợ đưa thức ăn cho vị Sa-môn, trưởng giả liền nổi giận, quát:

– Người đi xin này là ai mà dám dòm ngó vợ ta? Hãy làm cho người này tay chân đều đứt gãy.

Do đó, sau khi qua đời, ông ta bị thọ thân xấu xí. Qua bốn mươi tám kiếp luôn không có tay chân. Còn khi ở nhân gian, ta học pháp tiên nhân trong núi sâu, tụng tập chú thuật, có thể di chuyển mặt trời, mặt trăng, đổi đêm thành ngày, đổi ngày thành đêm. Trong khoảng hơi thở có thể nhổ ra vàng bạc bảy báu, có thể làm cây khổ phát triển cành lá hoa quả, có thể làm nước biển khô cạn, ở trong lửa cháy có thể bay được. Mắt có thể thấy thấu suốt, tự biết được đời trước, biết được tâm người, tai nghe rất xa. Ta có năm trăm đệ tử quyến thuộc, nghe Phật ra đời hiệu là Thanh Tịnh Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn nói pháp vi diệu, đầu giữa cuối đều thiện, ta dẫn các đệ tử ra khỏi núi sâu, bay ngang qua ao sau vườn cung vua. Thấy các thể nữ đang tắm trong ao bèn nhìn xuống và sinh tâm ái nhiễm. Thế là ta và các đệ tử đều mất thần túc, rơi xuống trong vườn. Khi ấy, ta tức giận cũng vì đi cầu Phật mà phải mất thần túc.

Thấy năm trăm đàn ông ở trong vườn, các thể nữ chạy vào thưa vua. Vua ra lệnh tùy tùng dẫn họ vào để hỏi. Họ đến nơi, vua hỏi:

– Các ông là ai? Trả lời:

– Chúng tôi là những người học đạo tiên trên núi. Trong núi tụng tập chú thuật, có thể di chuyển mặt trời, mặt trăng, đổi đêm thành ngày, đổi ngày thành đêm cho đến tai nghe tiếng rất xa. Năm trăm đệ tử quyến thuộc của tôi nghe Phật ra đời hiệu là Thanh Tịnh Quang, tôi đưa các đệ tử ra khỏi núi sâu, bay ngang qua ao tắm sau vườn vua, thấy các thể nữ liền sinh tâm ái nhiễm nên đều mất thần túc, phải ở lại trong vườn.

Vua hỏi:

– Các ông ở trong núi sâu học đạo tiên, đến nay là bao lâu? Trả lời:

– Đã hai mươi hai tiểu kiếp. Vua lại hỏi:

– Qua bao kiếp số học đạo, tâm như chết, không lay không động.

Vì sao còn tâm dục để phải mất thần túc?

Trả lời:

– Vì vốn cho rằng đạo chân thật là thần linh đệ nhất, vọt lên chìm xuống đều tự tại theo ý muốn. Không ngờ hôm nay bỗng nhiên mất đạo. Thật xấu hổ với Thánh vương! Tùy Thánh vương trị phạt, Vua nói:

– Ông vốn học đạo đã hai mươi hai tiểu kiếp, hình khô, tâm mỏi mệt mà sự tu tập không chân chánh. Giống như người ngu si tìm của báu trong hư không. Đối với pháp chân đế lại không đạt được thật tướng. Bậc thầy mà các ông đang tìm cầu là Như Lai Đẳng Chánh Giác, gần núi Nhạc Trĩ. Tôi sẽ đưa các ông đến chỗ Phật. Nếu Phật có dạy bảo gì thì hãy phụng hành làm theo.

Khi ấy đại vương sửa soạn đủ năm nghi vệ, dẫn quyến thuộc và năm trăm người học đạo tiên đến núi Nhạc Trĩ. Vua xuống xe, cởi kiếm, bỏ mũ, từ bỏ năm nghi vệ rồi đi bộ đến chỗ Phật, đầu mặt lạy sát chân Phật và ngồi qua một bên. Bỗng nhiên vua đến trước Phật thưa:

– Bạch Thế Tôn! Năm trăm người này học đạo tiên trên núi đã hai mươi hai tiểu kiếp, nghe Phật ra đời nên muốn đến diện kiến. Khi bay qua sau cung, vì tham đắm ái dục nên bị mất thần túc. Cúi xin Đức Thế Tôn nói pháp vi diệu để họ được năm đạo thần thông trở lại.

Phật bảo đại vương:

– Năm trăm người này đã tu căn lành, nhưng thành thì liền hoại, không bao giờ đạt cứu cánh. Vì xưa làm trưởng giả, thấy Tỳ-kheo khất thực mà sân giận rủa: “Khiến cho ông không có tay chân”. Qua vô số kiếp làm Hung Ức thần vương ở giữa hai núi Đại Thiết Vi và núi Hắc, bị quả báo không có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Trước đây còn ở nhân gian lấy cột trụ bố thí cho người, do ân huệ một lần cúng dường Phật-bích-chi, sau được làm người học đạo tiên trong núi. Do tâm dục phát khởi nên phải mất thần túc. Duyên này đã có từ lâu chứ chẳng phải mới hôm nay. Sau khi năm trăm người này qua đời đều sinh vào cõi Phật Vô Nộ. Phật ấy giảng cho họ về sinh, già, bệnh, chết, mười hai nhân duyên, khổ không có gốc khổ, tập, diệt, đạo quả cũng như vậy.

Sau khi nghe Phật dạy, ý vua bừng sáng và cũng muốn sinh vào cõi Phật Vô Nộ.

Bấy giờ, quốc vương và năm trăm tiên nhân liền đứng dậy lạy Phật rồi lui ra.

Phẩm 31: HƯƠNG ÂM THẦN

Biết tâm niệm của chúng hội, Đức Thế Tôn liền nhập định ý Tam-muội vô hình, theo âm tiếng của chúng sinh mà đến cứu hộ họ.

Xưa ở nhân gian, ta làm Hương Âm thần vương, coi giữ một cõi Diêm-phù-đề, hai cõi Diêm-phù-đề, cho đến hằng hà sa cõi Diêm-phùđề. Quyến thuộc nam nữ lấy hương thơm làm thức ăn. Áo mặc phục sức đều xông ướp hương thơm. Hoặc sinh vào cõi Uất-đan-việt ở phương Bắc, Câu-da-ni, Phất-vu-đãi, sinh nơi nào cũng làm Hương Âm thần vương, sống một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, cho đến vô số a-tăng-kỳ kiếp. Biết có Phật, có Pháp, có Tỳ-kheo Tăng, tâm luôn xa lìa, không tham muốn. Vì sao? Vì tham đắm năm dục, lấy hương thơm làm vui, trong hương thơm không nghe tiếng nào khác, chỉ nghe ca hát vui thích về năm dục, cả ngày lẫn đêm không biết nhàm chán. Có tri thức thiện xưa tu căn lành, từ đất vọt lên, hiện nửa thân người, nói với ta:

– Nơi này vui lắm sao mà tham đắm đến thế? Đây chẳng phải là hạnh chân thật thanh tịnh. Hãy vứt bỏ hương xông ướp để được chỗ an lạc. Hương thơm này là sóng nắng, là huyễn, là hóa. Nay Phật đang ở nơi đời, hãy đến thọ giáo để được hương thơm thanh tịnh bay tỏa khắp mọi nơi.

Nghe vậy, Hương Âm thần vương rất vui mừng, nói:

– Lành thay! Lành thay! Này bậc tri thức thiện, tôi muốn ông đưa tôi thấy hương thơm thanh tịnh. Nay trong lúc Phật còn ở đời hãy cùng nhau đến lễ lạy.

Khi ấy, Địa thần vọt lên khỏi đất, nói với Hương Âm thần vương:

Như Lai Vô Sở Trước
Nay đang ở phương Nam
Trong thai quán thanh tịnh
Quyến thuộc vô biên số.
Xông đốt các hương thơm
Treo cờ phướn, lọng báu
Cúng dường như hằng sa
Hương giới đức thâm diệu.
Bay tỏa khắp mười phương
Nếu ai ngửi hương ấy
Quyết đắc đạo vô thượng
Ông hãy đưa quyến thuộc.
Đi đến Diêm-phù-đề
Nhất tâm quy y Phật
Sẽ được diện kiến Phật
Đức của Phật mênh mông.
Đều theo các bản hạnh
Vừa nghe nghĩa ba câu
Thành đạo ngay tại chỗ
Định lực ba không tuệ.
Mười tám pháp bất cộng
Tướng đại nhân tốt đẹp
Sau ông cũng đạt được
Thân màu vàng ròng đỏ.
Mềm mại không dính bụi
Pháp thân định trí tuệ
Ông sẽ được đầy đủ
Đến đó chớ sợ sệt.
Chánh tâm, đừng nghi ngờ
Dũng mãnh không thoái lui
Nhanh như sư tử bước
Phân biệt quán thân tâm.
Hiểu đều không, tự tại
Nhãn thức vốn không sắc
Trừ đối không tạo cấu
Nên hành ba pháp môn.
Nay, sau và chặng giữa
Đắc tịnh ba thông tuệ
Pháp tổng trì vô ngại
Tưởng vô thường, vô lạc.
Kiếp số tạo bất thiện
Lửa tuệ thiêu chốt lát
Vàng bạc báu lưu ly
Tu-di bằng bảy báu.
Bị lửa kiếp thiêu đốt
Hành báo không thể mất
Như Lai giáo hóa đời
Thương họ, không vị kỷ.
Sinh bất cứ nơi nào
Diệt ràng buộc cho người
Như người bắn trên không
Cung tên rơi xuống đất.
Cúng dường các ruộng phước
Không chọn là Hiền thánh
Cũng như uống thuốc độc
Tìm thuốc giải khắp nơi.
Khí độ càng bốc mạnh
Không lâu liền qua đời
Có tri thức thiện xưa
Trao cho thuốc giải độc.
Lần lượt không chọn lựa
Gặp được pháp giải độc
Bố thí làm nghiệp phước
Không lựa chọn cao thấp.
Được bậc Thánh khen ngợi
Là tối tôn bậc nhất.

Nghe Địa thần vọt lên nói như vậy, Hương Âm thần vương tâm khai ý mở, lạy sát đất, nói:

Ông hãy làm thầy tôi, chỉ dạy sự tối tăm ngu dốt của tôi. Nay tôi ngu mê không phân biệt đâu là chân ngụy. Hãy nhận sự sám hối lo lắng ngu si của tôi.

Khi ấy, Địa thần liền vọt lên, hiện thân kim sắc Phật với ba mươi hai tướng, phóng ra ánh sáng lớn, dùng lực thần túc đón Hương Âm thần vương đến thai quán. Trong chúng hội chẳng ai hiểu biết gì cả. Phật bảo chúng hội:

– Từ vô số a-tăng-kỳ kiếp Ta từng là lớn là nhỏ, nhập vào chỗ vi tế mà không bị chướng ngại. Có lúc ở trên trời giáo hóa trong kiếp số. Có lúc ở loài người chịu khổ thay thế cho họ. Có lúc ở trong loài súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, phân thân giáo hóa, không chỗ nào mà không vào.

Khi ấy Hương Âm thần vương và bảy mươi hai ức quyến thuộc đều phát tâm vô thượng, trụ vào địa Bất thoái chuyển.

Phẩm 32: ĐỊA THẦN

Khi ấy, trong chúng hội có Bồ-tát tên Thiện Nghiệp, từ tòa ngồi đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay thưa Phật:

– Con có điều nghi ngờ, muốn thưa Như Lai nhưng không dám. Phật bảo Bồ-tát Thiện Nghiệp: – Ông cứ hỏi tự nhiên. Ta sẽ phân biệt rõ ràng cho ông. Bồ-tát Thiện Nghiệp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Trong sáu đại chúng thần, vị nào là tối diệu nhất? Địa, thủy, hỏa, phong, không hay là thức?

Đức Phật liền dùng thần túc làm cho Địa thần ấy từ dưới đất vọt lên, đứng trên đất. Thủy thần từ dưới nước vọt lên, đứng trong nước. Hỏa thần từ trong lửa vọt lên, đứng trong lửa. Phong thần từ gió vọt ra, đứng trong gió. Không thần từ hư không vọt ra, đứng trong hư không. Thức thần từ thức vọt ra, đứng trong thức.

Phật bảo Bồ-tát Thiện Nghiệp:

– Ông hãy đích thân đến hỏi sáu vị thần này đi.

Bồ-tát Thiện Nghiệp hỏi Địa thần:

– Trong sáu đại, ông là tối diệu phải không?

Địa thần trả lời:

– Trong sáu thần, tôi là tối thắng. Vì sao? Vì tôi sinh ra vạn vật, nào núi, sông, đá, tường, cây, cỏ, hoa quả v.v... tất cả đều nương vào tôi mà đứng. Tất cả chúng sinh loài hữu tình cũng nhờ tôi mà được tồn tại. Do đó tôi là tối thắng nhất.

Bồ-tát Thiện Nghiệp hỏi Thủy thần:

– Trong sáu thần, ông là tối diệu phải không? Thủy thần trả lời:

– Trong sáu thần, tôi là tối diệu. Vì sao? Vì nếu không có nước thì đất bị khô cạn, không được thấm nhuần, cây cỏ, hoa quả đều bị khô héo. Loài chúng sinh thuộc hữu tình sẽ bị chết khát. Vì thế, tôi là tối thắng.

Bồ-tát Thiện Nghiệp lại hỏi Hỏa thần:

– Trong sáu thần, ông là tối thắng phải không? Hỏa thần trả lời:

– Trong sáu thần, tôi là tối thắng. Vì sao? Vì nếu không có lửa thì chất nuôi dưỡng vạn vật phát triển làm sao chín được. Nếu gặp sương, mưa đá, băng lạnh, điện chớp... tất cả chúng sinh loài hữu tình sẽ bị chết cóng. Vì thế, tôi là tối thắng.

Bồ-tát Thiện Nghiệp lại hỏi Phong thần:

– Trong sáu thần, ông là tối thắng phải không? Phong thần trả lời:

– Trong sáu thần, tôi là tối thắng. Vì sao? Vì nếu không có gió thì thân, rễ, mầm, cây cối, hoa quả v.v... không thể nào phát triển được. Tất cả chúng sinh hữu tình tới lui, lay động đều nhờ vào gió của tôi. Vì thế tôi là tối thắng.

Bồ-tát Thiện Nghiệp lại hỏi Không thần:

– Trong sáu thần, ông là vi diệu phải không? Không thần trả lời:

– Trong sáu thần, tôi là vi diệu. Vì sao? Vì núi sông, tường đá, cây cối, hoa quả v.v... tất cả chúng sinh hữu tình tới lui, qua lại tôi đều dung nạp để tất cả được hòa nhau, qua lại thông suốt. Vì thế tôi là tối thắng.

Bồ-tát Thiện Nghiệp lại hỏi Thức thần:

– Trong sáu thần, ông là tối thắng phải không? Thức thần trả lời:

– Trong sáu thần, tôi là tối thắng. Vì sao? Vì năm thần trên là đầy tớ của tôi. Tôi là vua của họ. Đi tới, qua lại, đẹp hay xấu, nên tránh biết để tránh, nên đến biết để đến. Họ đều là đui mù, chỉ có tôi là mắt sáng. Vì thế tôi là tối thắng.

Bấy giờ, Địa thần thưa với Bồ-tát Thiện Nghiệp:

– Điều này không đúng. Vì sao? Vì luôn bị thần thức lừa gạt, không chỉ cho đường tắt. Ngã muốn được cứng rắn thì lại cho mềm mại. Khi ngã cần mềm mại thì lại đưa cứng cỏi. Ngã muốn đến phương Nam, lại dẫn đến phương Bắc. Trong các lũ giặc không gì bằng thức thần. Tự mình xưng là vua, điều này không như thế được.

Thủy thần thưa với Bồ-tát Thiện Nghiệp:

– Những gì thức thần nói đều không đúng. Vì sao? Vì nước có khả năng thấm nhuần, làm vạn vật phát triển. Tánh ngã cần lạnh, lại đưa cho ngã nóng. Đốt lửa làm tiêu băng giá, không còn tánh lạnh nữa, đó là do thức lừa gạt. Do đó nên thức nói không đúng.

Hỏa thần thưa với Bồ-tát Thiện Nghiệp:

– Thức nói không đúng gì cả. Vì sao? Vì lửa có thể làm cho vật chín, cũng cho ánh sáng và cây cối, hoa quả theo thời gian mà phát triển, nếu không có lửa thì thức nương vào đâu? Do đó mà thức nói không đúng.

Phong thần thưa với Bồ-tát Thiện Nghiệp:

– Thức nói không đúng. Vì sao? Vì vạn vật phát triển, đi tới qua lại, lay động mà thức ngăn chận không cho ngã chuyển động. Do đó mà thức nói không đúng.

Không thần thưa với Bồ-tát Thiện Nghiệp:

– Thức nói cũng không đúng. Vì sao? Vì pháp không của tôi thì không có vật nào là không được dung nạp. Dung nạp vạn loại tới lui, qua lại, thông suốt, không chướng ngại. Tất cả đều là không của tôi. Nếu không có không của tôi thì thức nương tựa vào đâu? Do đó mà thức nói không đúng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn hỏi Bồ-tát Thiện Nghiệp:

– Những gì mà sáu đại này bàn luận là có cú nghĩa hay không có cú nghĩa? Có vị nghĩa hay không có vị nghĩa? Có tự nghĩa hay không có tự nghĩa?

Bồ-tát Thiện Nghiệp thưa:

– Bạch Thế Tôn! Tánh của năm đại đều bằng nhau. Vì sao? Vì nếu địa giới nhiều mà thủy giới ít thì không thành tựu.

Nếu thủy giới nhiều mà hỏa giới ít thì không thành tựu. Nếu hỏa giới nhiều mà phong giới ít thì không thành tựu. Nếu phong giới nhiều mà không giới ít thì không thành tựu. Nếu không giới nhiều mà thức giới ít thì không thành tựu.

Nếu năm thức bằng nhau, thức không phân biệt được thì không thành tựu.

Bấy giờ, Bồ-tát Thiện Nghiệp nói kệ:

Pháp thức thần không hình
Lấy năm đại làm nhà
Phân biệt nghiệp thiện ác
Đến đi, chân ngụy khác.
Thức chỉ chỗ đường lành
Đi đến đường an ổn
Thức là vua thứ sáu
Các đại khác không bằng.

Phật bảo Bồ-tát Thiện Nghiệp:

– Những gì ông hỏi đều là do thần lực của Như Lai.

Khi ấy, trong chúng hội có một trăm bảy mươi ức chúng sinh hiểu biết pháp thâm diệu và tất cả đều phát tâm cầu đạo Chánh chân vô thượng.

Phẩm 33: NGƯỜI

Bấy giờ, trong chúng hội có Bồ-tát tên Pháp Ấn, nghe Như Lai giảng nói sáu đại chúng sinh thọ thân năm ấm, phân biệt trong ngoài hiểu rõ đều là không, hoàn toàn không thật có, trong lòng nghi ngờ rằng thức làm loạn tưởng, chẳng phải pháp chân thật. Ai là người? Sao gọi là người? Người từ đâu sinh? Phật bảo Bồ-tát Pháp Ấn:

– Lành thay! Lành thay! Những gì ông hỏi đều là do oai thần của chư Phật ứng tiếp. Vì sao? Vì vô số a-tăng-kỳ hằng hà sa chư Phật ở quá khứ và vô số hằng hà sa chư Phật ở vị lai đều phân biệt nguồn gốc con người với danh hiệu, tên họ không thể nghĩ bàn. Hàng Nhị thừa, La-hán, Phật-bích-chi không thể nào lường tính được. Nay ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ. Ta sẽ giảng nói cho ông.

Ví như thế giới Ta-bà ở cõi Diêm-phù-đề có hạt giống chúng sinh, điều này không đúng. Vì sao? Vì chẳng phải tánh chân, chẳng phải loài người.

Cõi Đông: Phất-vu-đãi cũng chẳng phải loài người. Cõi Bắc: Uất-đan-việt cũng chẳng phải loài người. Cõi Tây: Câu-da-ni cũng chẳng phải loài người.

Trừ cõi Phật Vô Lượng Thọ và cõi Phật A-súc, trừ cõi Trang Nghiêm, cõi Phật Hư Không, trừ các Bồ-tát trong chúng hội hôm nay của Ta, còn lại chẳng phải người.

Vì sao? Vì từ xưa đến nay, cho đến lúc thành Phật, trong thời gian ban đầu không tạo ác. Đây gọi là loài người.

Giống như có người tu khẩu nghiệp đối với người không tu, đó gọi là loài người.

Người thọ pháp ba quy đối với người không thọ, đó gọi là loài người.

Người phụng trì năm giới đối với người không phụng trì, đó gọi là loài người.

Người tu hành mười thiện đối với người không tu hành, đó gọi là loài người.

Người hướng Tu-đà-hoàn đối với người không hướng, đó gọi là loài người.

Người đắc Tu-đà-hoàn đối với người không đắc, đó gọi là loài người.

Người hướng Tư-đà-hàm đối với người không hướng, đó gọi là loài người.

Người đắc Tư-đà-hàm đối với người không đắc, đó gọi là loài người.

Người hướng A-na-hàm đối với người không hướng, đó gọi là loài người.

Người đắc A-na-hàm đối với người không đắc, đó gọi là loài người.

Người hướng A-la-hán đối với người không hướng, đó gọi là loài người.

Người đắc A-la-hán đối với người không đắc, đó gọi là loài người.

Người hướng Phật-bích-chi đối với người không hướng, đó gọi là loài người.

Người đắc Phật-bích-chi đối với người không đắc, đó gọi là loài người.

Người hướng Phật đạo đối với người không hướng, đó gọi là loài người.

Người đắc Phật đạo đối với người không đắc, đó gọi là loài người.

Cho nên nói Nhân Tôn Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn là loài người.

Phật bảo Bồ-tát Pháp Ấn:

– Hãy lắng nghe cho kỹ. Chư Phật quá khứ đối với hiện tại, vị lai, đó gọi là loài người.

Hiện tại đối với quá khứ, vị lai, đó gọi là loài người. Vị lai đối với quá khứ, hiện tại, đó gọi là loài người.

Đối với pháp ba đời thì hiện tại đối với quá khứ, vị lai là đệ nhất. Vì sao? Vì trong hiện tại, Như Lai có thể hành pháp quá khứ, vị lai. Vì sao? Vì quá khứ đã qua, vị lai chưa đến, còn pháp hiện tại thì tự nhiên. Chẳng phải quá khứ có thể diệt hiện tại, vị lai. Chẳng phải vị lai có thể diệt quá khứ, hiện tại.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Quá khứ Đẳng Chánh Giác
Dạy cứu độ chúng sinh
Phân biệt nguồn gốc người
Thượng, trung, hạ vi diệu.
Hiện tại Phật tối thắng
Rõ khứ, biết vị lai
Diệt trừ kiết trước sau
Chiếu sáng như mặt trời.
Những chúng sinh khổ hạnh
Hai chân và bốn chân
Giảng nghe pháp cam lồ
Đầy đủ trừ các tưởng.
Chư Thiên hành mười thiện
Từ một, hai mươi hai
Trên trời, dưới chẳng phải
Tạo công đức khác nhau.
Như Lai đủ các tướng
Hành thiện không cấu uế
Tánh đức như ánh sáng
Hạnh thanh tịnh không dơ.
Nếu ai sinh phỉ báng
Nói Phật đạo không thật
Chết đọa ngục A-tỳ
Chư Phật không cứu được.
Hơi miệng hôi tanh dơ
Thân bị phiền não đốt
Niệm ác theo bùng dậy
Đều do tội phỉ báng.
Hành thiện tu công đức
Thần thức đến cõi lành
Như người vào ao tắm
Sạch sẽ hết bụi dơ.
La-hán, Phật-bích-chi
Đoạn diệt không còn sinh
Không còn nghĩ thân ta
Xa lìa năm đường khổ.
Những pháp xưa Phật hành
Được chư Phật chấp thuận
Được mọi người tôn quý
Nên hiệu Tôn Trung Tôn.

Nói kệ xong, Đức Thế Tôn nói với Bồ-tát Pháp Ấn:

– Đó gọi là loài người.

Bấy giờ, Bồ-tát Pháp Ấn liền đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay thưa Phật:

– Lành thay! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói nghĩa ấy rất hay. Đối với Như Lai thì chúng con trong hội này chẳng phải là loài người. Vậy làm thế nào để thị hiện được làm loài người?

Phật bảo Bồ-tát Pháp Ấn:

– Hiểu biết các pháp là không, không có sở hữu, không có đây, không có kia, không thấy có đây – kia. Đó gọi là loài người.

Quan sát pháp tánh không có quá khứ, hiện tại và vị lai. Hiểu biết pháp tánh là không tịch, không hai. Đó gọi là loài người.

Đối với bốn đạo quả, có người thành tựu, có người không thành tựu, không thấy có một, không thấy có hai. Đó gọi là loài người.

Đối với tướng của các pháp, không thấy trang nghiêm, không thấy có trang nghiêm, hiểu rõ đều là không tịch, chẳng phải một, chẳng phải hai. Đó gọi là loài người.

Cõi Phật thanh tịnh, trừ sạch dâm nộ si, cũng không thấy tịnh, không thấy bất tịnh. Hai việc đều như hư không. Đó gọi là loài người.

Phân biệt ba mươi bảy phẩm trợ đạo có thành có bại, không thấy trong cõi dục có người, không có người. Đó gọi là loài người.

Phát tâm rộng lớn không vì riêng mình, làm an ổn cho chúng sinh, ở đâu đều không sợ, không thấy hữu trụ, không thấy vô trụ, hai việc đều bình đẳng. Đó gọi là loài người.

Phân biệt tâm không đắm nhiễm, giữ tâm giống như hư không, không bị lay chuyển; không thấy định, cũng không thấy không định. Đó gọi là loài người.

Hướng dẫn chỉ chỗ lành cho những chúng sinh tà kiến, lấy tám pháp chân chánh để rửa sạch tâm dơ; không thấy chánh, cũng không thấy không chánh. Đó gọi là loài người.

Đối với bốn bộ chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di có đạo tâm kiên cố, không bị tham đắm, không thấy giới hạnh có phạm hay không phạm. Đó gọi là loài người.

Như vậy, đối với pháp Như Lai thì pháp ấy càng làm lợi ích cho chúng sinh. Đối với Phật được trở lại tu các công đức, không luống qua một cách uổng phí.

Bấy giờ, trong chúng hội có bảy mươi ức chúng sinh đều phát tâm tâm cầu đạt Chánh chân vô thượng, đối với loài người tu hành Bất thoái chuyển.

Phẩm 34: HÀNH

Khi ấy, trong chúng hội có Bồ-tát tên Tạo Hạnh từ tòa ngồi đứng dậy, trịch bày vai phải, chấp tay thưa Phật:

– Lành thay! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói về loài người rất hay. Chẳng phải trước, chẳng phải sau, chẳng phải hai bên, chặng giữa. Vậy làm sao biết được quả báo của hành nghiệp?

Thân quá khứ chẳng phải hiện tại.

Thân hiện tại chẳng phải vị lai.

Thân vị lai chẳng phải quá khứ.

Hoặc bên trong tạo tác mà bên ngoài thọ quả báo.

Hoặc bên ngoài tạo tác mà bên trong thọ quả báo.

Thân phàm phu tạo tác mà thân Tu-đà-hoàn thọ quả báo.

Thân Tu-đà-hoàn tạo tác mà thân Tư-đà-hàm thọ quả báo.

Thân Tư-đà-hàm tạo tác mà thân A-na-hàm thọ quả báo.

Thân A-na-hàm tạo tác mà thân A-la-hán thọ quả báo.

Hoặc có chúng sinh đắc Tam-muội Từ mà không có Bi, Hỷ, Xả.

Có chúng sinh đắc Bi mà không có Từ, Hỷ, Xả.

Có chúng sinh đắc Hỷ mà không có Từ, Bi, Xả. Có chúng sinh đắc Xả mà không có Từ, Bi, Hỷ. Có chúng sinh từ địa Phàm phu, không hướng đến địa Tín, địa Pháp mà lại thủ Tu-đà-hoàn.

Có chúng sinh không hướng đến địa Tín, địa Pháp, Tu-đà-hoàn mà lại thủ Tư-đà-hàm.

Có chúng sinh không hướng đến địa Tín, địa Pháp, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm mà lại thủ A-nahàm.

Có chúng sinh không hướng đến địa Tín, địa Pháp, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm mà lại thủ A-la-hán.

Có chúng sinh không hướng đến địa Tín, địa Pháp, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-lahán mà lại thủ A-la-hán bỉ thử A-la-hán.

Có chúng sinh hướng đến Phật-bích-chi, rơi trở lại vào địa phàm phu.

Có chúng sinh hướng đến A-la-hán, rơi trở lại vào địa phàm phu.

Có chúng sinh hướng đến A-na-hàm, rơi trở lại vào địa phàm phu.

Có chúng sinh hướng đến Tư-đà-hàm, rơi trở lại vào địa phàm phu.

Có chúng sinh hướng đến Tu-đà-hoàn, rơi trở lại vào địa phàm phu.

Có chúng sinh từ địa Pháp rơi trở lại vào địa phàm phu.

Có chúng sinh từ địa Tín rơi trở lại vào địa phàm phu.

Những chúng sinh này đều có nghi ngờ với Như Lai.

Cúi xin Thế Tôn hãy phân biệt rõ ràng để các chúng hội hoát nhiên đại ngộ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn dạy Bồ-tát Tạo Hạnh:

– Lành thay! Lành thay! Những vấn đề ông hỏi đều là vị lai, hiện tại, quá khứ, cũng là quả báo hành nghiệp của chư Phật. Nay Ta sẽ phân biệt rõ ràng. Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ.

Thế nào, này Bồ-tát Tạo Hạnh! Ông muốn Như Lai nói về quả báo hành nghiệp trong vô lượng atăng-kỳ kiếp quá khứ hay muốn Như Lai nói về quả báo hành nghiệp trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp vị lai, hay muốn Như Lai nói về quả báo hành nghiệp trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp trong hiện tại?

Bồ-tát Tạo Hạnh bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Xin tạm gác quả báo hành nghiệp thuộc quá khứ, vị lai sang một bên. Con muốn nghe quả báo hành nghiệp hiện tại của thân Như Lai.

Phật bảo Bồ-tát Tạo Hạnh:

– Quả báo hành nghiệp của vô lượng a-tăng-kỳ kiếp quá khứ cũng ở hiện tại.

Quả báo hành nghiệp của vô lượng a-tăng-kỳ kiếp vị lai cũng ở hiện tại.

Quả báo hành nghiệp hiện tại tạo tác cũng là nhân duyên của quá khứ và vị lai thọ quả báo.

Nay Ta sẽ giảng nói cho ông về điều này.

Xưa kia Ta từng tu vô số khổ hạnh, tu hạnh thanh tịnh hoặc hạnh bất tịnh. Tu hạnh trời, tu hạnh người. Ban đầu cầu Phật đạo, các lậu đã đoạn tận, có thần thông biến hóa rồi bỗng nhiên đại ngộ. Ba cõi đều khổ, chỉ có Ta là vui. Tu khổ hạnh bên bờ sông Ni-liên sáu năm, mỗi ngày ăn một hạt mè, một hạt gạo. Đây là do lúc xưa Ta phạm bốn lỗi về miệng với một vị Duyên giác, đoạn tuyệt sự bố thí, nên nay thọ quả báo này.

Khi Ta thành Phật, có năm trăm đồng tử rêu rao, phỉ báng, mắng chửi và đến ngã tư ngõ hẻm nói: “Đạo Phật không chân thật”. Lúc đó, dân chúng trong nước có người tin, có người không tin. Người tin là hàng địa Tín, địa Pháp. Người không tin là hàng ngoại đạo phàm phu. Những người này căn lực đã thành tựu, không còn bị chướng ngại.

Phật ra đời chiếu sáng khắp nơi. Địa ngục được chấm dứt, ngạ quỷ được no đủ, súc sinh không còn mang vác, chở nặng. Ví như Ta bị Đề-bà-đạt-đa lấy đá ném làm ngón chân Phật chảy máu. Lúc ấy, Ta tránh né đi về phương Đông: đến cõi Phất-vu-đãi, phương Bắc: đến cõi Uất-đan-việt, phương Tây: đến cõi Câu-da-ni. Ta lại lánh từ cõi trời Đao-lợi lên đến trời Tam Thập Tam. Vậy mà viên đá ấy cứ vẫn theo Ta. Ta lại né trở về chỗ cũ và bị đá làm tổn thương.

Ta ở nước Ma-kiệt-đà, trong vườn Họa Ám thanh vắng mà kinh hành. Khi ấy có một trưởng giả tên Thi-lợi-quật thỉnh mời Ta để cúng dường. Ta liền nhận lời mời và dẫn Tôn giả A-nan đi theo. Nhà trưởng giả có bảy lớp cửa, mỗi cửa đều có người canh giữ. Theo thường pháp của chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai là im lặng thọ thỉnh chứ không nhận lời thỉnh bằng cách khác. Đệ tử xuất gia của Ta đạo hạnh cũng như vậy. Khi Ta đến cửa thì nghe bên trong nhà trưởng giả Thi-lợi-quật trỗi âm nhạc để vui chơi nên quên hẳn là Ta đã đến đứng bên ngoài một ngày một đêm rồi.

Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Ông hãy đi khất thực! Còn Ta đứng ở đây.

Lúc đó có Mã tướng đi ngang qua chỗ Phật, Phật theo xin thức ăn. Mã tướng nói:

– Tôi không có thức ăn, chỉ có lúa mạch chín, tôi sẽ đem đến cho ông.

Thế rồi Mã tướng lấy lúa mạch chín cúng dường Phật, Phật liền thọ thực. Thấy vậy, Mã tướng cho là Phật ăn.

Có vị trời tên Tinh Luyện đem thức ăn đi, mọi người cho là Phật ăn. Thật là Phật không ăn, chỉ vì độ người kia nên Phật hiện thọ thực và Phật đứng nơi cửa chín mươi ngày như vậy.

Tôn giả A-nan cũng đi khất thực chín mươi ngày.

Như Lai dùng oai thần không cho quốc vương và quần thần biết Phật đang đứng nơi ấy. Vì sao? Vì sợ họ sinh ngã mạn, phỉ báng. Nếu Phật không dùng oai thần thì người khác làm sao trông thấy được.

Khi ấy, trưởng giả Thi-lợi-quật có chút việc đi ra ngoài thành dạo chơi. Thấy Phật đứng ngoài cửa, ông ta thưa:

– Phật đến đây khi nào? Phật nói với trưởng giả:

– Trước đây ông đã thỉnh Ta, nên Ta mới đến. Ông ở trong vui chơi thích thú. Ta đến đây đã chín mươi ngày rồi. Ta định quay về lại vườn Họa Ám nhưng được Mã tướng cúng dường lúa chín của ngựa ăn.

Trưởng giả Thi-lợi-quật rất xấu hổ, năm vóc gieo xuống đất, thưa:

– Cúi xin Thế Tôn hãy rủ lòng tha thứ và đừng giận con. Hãy cho phép con sám hối lỗi lầm. Phật bảo trưởng giả:

– Duyên này đã có từ lâu, chứ chẳng phải mới đây đâu.

Khi ấy, trưởng giả thỉnh Phật vào trong nhà cúng dường tứ sự. Phật giảng pháp làm cho ông đoạn sạch các trần cấu và đắc pháp nhãn thanh tịnh.

Phật dạy:

– Vào thuở xưa, có một thời Ta ở tại thành Tỳxá-ly. Khi mới thành Phật chưa được bao lâu thì Lục sư ngoại đạo hưng thịnh. Ta có một ngàn hai trăm năm mươi người đệ tử. Một ngàn một trăm người đều đắc A-la-hán với sáu thông thấu triệt.

Lúc đó, có cô gái Chiên-già-ma-na-thị, là đệ tử của A-xà-la-sí- xá-khâm-bà-la, thọ minh giáo của thầy. Mỗi buổi sáng cô ta đến chỗ Phật, bên ngoài hiện pháp thanh tín nữ nhưng bên trong học giáo của tà sư. Thường xuyên qua lại, cố muốn cho mọi người thấy và lấy cỏ nhét vào bụng, càng ngày càng làm cho lớn dần. Sau đó, cô ta lấy bồn gỗ cột vào bụng, giống như người phụ nữ sắp sinh con.

Khi ấy, tà sư hỏi cô ta: “Người của thai này là ai?”.

Cô ta thưa: “Hàng ngày con đến chỗ Sa-môn Cù-đàm cho nên con có thai này”.

Tà sư liền tức giận, nói: “Dám lừa gạt đệ tử của ta à. Đệ tử này sắp sinh lên cõi trời Phạm thiên, vậy mà làm hủy nhục đệ tử ta đến nỗi như thế này”.

Nói rồi, tà sư dẫn các đệ tử và cô gái ấy đến chỗ Phật. Trong lúc Như Lai đang giảng pháp cho vô số chúng Tăng thì Phạm chí lớn tiếng nói: “Sa-môn Cù-đàm này đã phạm dâm dục, thật không phải là người đắc đạo mà tự xưng là đã đắc đạo. Những sự biến hóa đều là huyễn thuật, chẳng phải đạo chân thật”.

Rồi chỉ vào cô gái, Phạm chí nói tiếp: “Mọi người có thấy không?

Vì ông ta yêu thương cô gái này của tôi nên cô ta phải mang thai”.

Nói xong, ngay lúc đó Đế thích hóa làm một con chuột vàng, chui vào nơi người cô ta, cắn đứt dây làm bồn gỗ rơi xuống đất. Thấy vậy, mọi người quở mắng: “Đám đồ đệ của ông dám đến hủy báng Thánh nhân à. Hãy rút ra khỏi nước ngay”.

Xưa có một thời ở nước Cẩm-tỳ-lê, Ta ngồi thiền định, hành đạo bên một gốc cây, trải qua chín mươi ngày nhưng vẫn không dời đổi chỗ. Khi đó, có Lục sư tên Kim-na-kim-ly, có đệ tử nữ tên Tuân-đà-nan-đề nổi tâm ganh ghét và muốn làm chướng ngại công đức của Phật rồi tự khen ngợi đạo của thầy mình.

Cô ta nói: “Tôi có thể làm cho mọi người không ai đến cúng dường Phật, để danh tiếng của thầy tôi lan tràn ra bên ngoài”.

Cô ta nghĩ ra mưu kế: Hàng ngày đến chỗ Phật. Vào một ngày nọ, cô ta nhờ kẻ khác giết mình, đem chôn sau vườn của tinh xá. Sau đó tà sư đem tử thi ra nói: “Phật giết người”, làm cho tai tiếng hiềm chê lan ra ngoài, ai ai đều biết.

Thuở xưa, hông trái của Ta bị trúng gió độc nên sai Kỳ Vực đến trị. Kỳ Vực nói: “Cần phải có sữa bò, phân voi, xá-lợi Sa-tất-bát-thi-lợi-sa, hồ thục, nấu làm thuốc trị khỏi ngay”.

Thuở xưa, Ta ở trong một thôn nọ, du hành giáo hóa. Ta bị cọc ngựa đâm vào chân, từ trên thủng xuống làm cho đau đớn vô cùng và sai Kỳ Vực đến trị.

Một thuở nọ Ta bị đau đầu giống như bị hai núi Tu-di ép lại làm cho đầu nhức, đau đớn không thể tả nổi. Nay mặc dầu Ta đã thành Phật, chấm dứt các lậu, các điều thiện đã được chứa nhóm, nhưng bản hạnh vốn không mất.

Từ vô số kiếp, Ta đã tu hành thanh tịnh, quả báo của hành nghiệp khó có thể lìa. Thân Phật còn như vậy, huống chi là La-hán, Phật-bích-chi, làm sao tránh khỏi quả báo của hành nghiệp.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ với Bồ-tát Tạo Hạnh:

Bốn thành tựu tối thắng
Sống lâu vô số kiếp
Trời đất đều hủy hoại
Tu-di như tro bụi.
Hành nghiệp đi bên thân
Không chỗ nào trốn khỏi
Ta thành Tối Chánh Giác
Ba cõi không ai bằng.
Phải thọ chín quả báo
Nghiệp trước liên kết nhau
Ta có lực Tam-muội
Kim cang không ngăn được.
Không thể tránh nghiệp báo
Xả mà không thọ báo
Đời này Ta chấm dứt
Không có phân biệt nữa.
Vĩnh lìa đường tử sinh
Không tạo nghiệp ấy nữa
Người quá tham năm dục
Buông lung không cẩn thận.
Đời này và đời sau
Thường đọa chỗ hữu ái
Niết-bàn không chấp trước
Thị hiện pháp hữu vi.
Nếu không hiện giáo hóa
Chúng sinh khó độ được
Bát đẳng đạo vô vi
Đường đi của Hiền thánh.
Xa lìa các trói buộc
Không có pháp sinh diệt
Đạo là quán vô thường
Tư duy pháp bất tịnh.
Nhất tâm không lay động
Thành tựu các tướng tốt
La-hán, Phật-bích-chi
Đền trả nào do Ta.
Bị hành nghiệp đeo đuổi
Đi đâu để tránh khỏi
Xá-lợi Phật trí tuệ
Luôn hành công đức Phật.
Bị bệnh phải diệt độ
Đây chứng minh rõ ràng
Mục-liên có thần túc
Từng bước vượt Tu-di.
Phạm chí cầm cây đánh
Xương nát như hạt cải
A-la-hán Bà-kiệt
Chiến thắng rồng Nan-đà.
Khi sắp vào diệt độ
Tròng mắt rơi vô số
Tỳ-kheo-ni Kim Hoa
Thần đức khó thể lường.
Hóa làm vua Chuyển luân
Thống lãnh bốn thiên hạ
Qua đời nhập vô vi
Bị kiếm xẻ toàn thân.
Bích Chi tên Quang Minh
Đời không có pháp Phật
Theo đời, tuổi thọ hết
Vào vạc dầu diệt độ.
Hiện tại Ta đang nói
Nghiệp báo những người ấy
Nếu nói về quá khứ
A-tăng-kỳ hạnh Phật.
Kiếp này đến kiếp khác
Nghiệp báo không thể hết
Vị lai lại có Phật
Ở ngay trên tòa này.
Cũng sẽ nói nghiệp báo
Giống như nay không khác
Bồ-tát Ma-ha-tát
Tinh tấn không biếng trễ
Nên mau lìa nghiệp báo
Không cho chúng đi theo.

Nghe Phật nói kệ này, Bồ-tát Tạo Hạnh hết mực kinh sợ, nhàm sinh tử luân hồi trong năm đường và tất cả đều phát tâm vô thượng, trụ vào địa Bất thoái chuyển.

Phẩm 35: PHÁP TRỤ

Bấy giờ, thấy chúng hội tịch nhiên thanh tịnh, thuần nhất không tạp loạn, Đức Thế Tôn đưa lưỡi dài rộng đến hai tai, phóng ra ánh sáng lớn lên đến vô lượng a-tăng-kỳ cõi. Thấy ánh sáng, chúng hội rất vui mừng khôn xiết, ca ngợi là điều chưa từng có.

Khi ấy, Đức Thế Tôn thâu ánh sáng lại và nói với Đại Bồ-tát Di- lặc:

– Từ vô số kiếp đến nay, thân, khẩu, ý của Ta thanh tịnh, không có vết dơ, được quả báo với ánh sáng thật tướng này. Đây là do không nói dối.

Phật lại bảo Đại Bồ-tát Di-lặc:

– Nay Ta giao phó kinh điển Bồ Tát Thai Hóa này cho ông. Ông hãy tuyên giảng, lưu hành rộng rãi. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào đọc tụng kinh này, đem hương hoa cúng dường, nào hương vụn, hương bột, the lụa, cờ phướn, lọng báu, ca xướng âm nhạc v.v... thì công đức này rất nhiều, rất nhiều. Nếu có thiện nam, thiện nữ không thể rốt ráo sáng chiều đọc tụng, dù chỉ trong khoảng chốt lát tâm nghĩ nhớ đến kinh này thì phước đức ấy cũng không thể tính kể. Vì sao? Vì thai kinh này là cha mẹ của chư Phật, là đứng đầu trong các kinh. Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai cần y theo trong mẫu thai kinh mà giáo hóa, cứu độ chúng sinh quá hơn sắc thân trăm lần, ngàn lần, ức vạn lần cũng không thể tính kể được.

Phật lại bảo Đại Bồ-tát Di-lặc:

– Nếu có thiện nam, thiện nữ nào lễ bái cúng dường kinh điển này, muốn được diện kiến chư Phật nơi mười phương, nên nhất tâm quy mạng, không có tư tưởng nào khác, thì lập tức được thấy chư Phật khắp mười phương.

Nếu có thiện nam, thiện nữ nào phát đại thệ nguyện: “Con muốn làm cho địa ngục được chấm dứt, ngạ quỷ, súc sinh không còn bệnh phiền não”, rồi nhất tâm quy mạng đọc tụng kinh này thì các chúng sinh khổ não kia đều được giải thoát.

Phật bảo Đại Bồ-tát Di-lặc:

– Duyên Ta nay đã tận, không còn giáo hóa được nữa. Kinh này được lưu giữ ngàn năm, đến hai ngàn năm hoặc ba ngàn năm. Nay nên phân làm ba phần:

Một phần giao cho A-nan, đệ tử mà Ta để lại giáo hóa.

Một phần giao cho Long vương Nan-đà-ưubát-la.

Phần còn lại, Di-lặc cùng Ta giảng nói để cho tất cả chúng sinh đều được nghe biết, không được để gián đoạn.

Này Di-lặc! Khi ông thành Phật, ông nên giảng nói rộng rãi kinh này. Chúng sinh mười phương thiên hạ, cho đến loài côn trùng, loài người đều nhờ kinh này mà được giải thoát.

Này Di-lặc! Sau khi ông nhập Niết-bàn, kinh này lưu hành trên đời hai mươi mốt kiếp, sau đó mới đoạn mất. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào đọc tụng kinh này, tâm không tán loạn, phát đại thệ nguyện: “Muốn cho chúng sinh đều đồng một thệ nguyện như ta, đồng thời đều sinh vào nước Thanh Tịnh, phụng thờ lễ kính chư Phật Thế Tôn” thì đạt được nguyện ấy, không bị trở ngại.

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Ông nên vâng giữ giáo pháp của Ta. Hãy nghĩ đến ân Phật. Ai muốn báo đáp ân Phật thì phải nhất tâm phụng trì cúng dường kinh Thai Hóa, công đức phước lợi này là không thể nói hết được. Vì sao? Vì kinh Thai Hóa này là kho báu của các pháp, được chư Phật ấn chứng. Chỉ có Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn mới có thể mở bày làm rõ ấn phong này để thị hiện cho chúng sinh.

Này Di-lặc! Ông nên biết: Những gì mà Ta nói trước sau đều ở trong kinh thâm diệu Tam-muội tổng trì, nếu ông quên một chữ, một câu thì tội này còn nhẹ. Còn như với kinh này mà quên một câu, một chữ thì tội ấy rất nặng. Vì sao? Vì kinh này là cha mẹ của chư Phật Thế Tôn.

Sau khi Đức Thế Tôn nói xong, khắp mặt đất chấn động đủ sáu cách. Các Bồ-tát trong chúng hội nói với nhau:

– Đức Phật Thích Ca Văn lìa pháp tánh không lâu, chắc chắn sẽ hiện sắc tướng trở lại như cũ.

Khi ấy trong chúng hội có tám mươi bốn ức chúng sinh đều phát tâm vô thượng, trụ Bất thoái chuyển. Các Bồ-tát bỗng nhiên biến mất và đều lìa thai hóa, cúng dường kim quan xá-lợi của Phật Thích Ca Văn.

Phẩm 36: PHỤC BẢN HÌNH

Bấy giờ, Đức Thế Tôn thâu oai thần, trở lại trong kim quan, tịch nhiên im lặng. Chư Thiên đốt hương rải hoa cúng dường. Khi ấy, Tôn giả Đại Ca-diếp dẫn năm trăm đệ tử từ nước Ma-già-đà về chỗ Phật. Nghe hôm nay Đức Phật sẽ diệt độ nên đau buồn khóc lóc, không thể kiềm chế được.

Đức Thế Tôn dùng thiên nhãn thấy Tôn giả Đại Ca-diếp đến, liền từ kim quan duỗi hai chân ra.

Thấy vậy, Ca-diếp rờ vuốt, khóc lóc khôn tả.

Tôn giả Ca-diếp nói kệ:

Tất cả hành vô thường
Có sinh thì có diệt
Không sinh thì không diệt
Diệt này rất là vui.
Ai được Phật giáo hóa
Được độ khắp mọi nơi
Con hành đạo quá xa
Đau lòng không gặp Phật.
Pháp giới đều vô thường
Sắc thân cũng như vậy
Không có già, bệnh, chết
Vô vi không còn sinh.
Sống lâu trăm hà sa
Cũng sẽ phải diệt độ
Huống Thiên Tôn thầy con
Giữa chốn đầy bụi cấu.

Bấy giờ, Tôn giả Đại Ca-diếp và năm trăm đệ tử đi nhiễu quanh kim quan bảy vòng rồi đứng qua một bên.

Khi ấy, Tôn giả A-nan vịn góc Tây Bắc của kim quan, Nan-đà vịn góc Đông Bắc. Chư Thiên ở sau đứng trực phía Bắc, đưa ra khỏi Song thọ bốn mươi chín bước, an táng kim quan.

Theo pháp của Sa-môn, lấy hương Ngưu-đầuchiên-đàn để trên kim quan. Các Phạm Thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân dẫn thiên chúng ở trên hư không rải hoa cúng dường. Bấy giờ, Tôn giả Ca-diếp cầm lửa đốt củi chiên-đàn để hỏa thiêu.

Tám vua nước lớn tranh nhau phân chia xá-lợi, tùy theo sức mạnh mà lấy được nhiều ít. Tất cả đều đem về cúng dường.

Phẩm 37: XÂY THÁP

Bấy giờ, tám vua nước lớn: vua Ưu Điền, vua Đảnh Sinh, vua Ác Sinh, vua A Xà Thế.

Bốn đại binh mã chủ: Tối hào binh mã chủ, Dung nhan binh mã chủ, Xí thạnh binh mã chủ, Kim cang binh mã chủ.

Tám đại vương này cùng nhau giành xá-lợi.

Mỗi người thống lãnh binh chúng dàn ra một bên.

Tám đại vương nói:

– Xá-lợi Phật, ta phải lấy riêng cho bằng được. Có một đại thần tên Ưu-bà-cát khuyên can, nói với các đại vương:

– Đừng tranh giành xá-lợi Phật nữa, mà phân chia ra để cùng nhau cúng dường. Làm gì mà phải dấy binh chinh phạt nhau.

Khi ấy, Thích-đề-hoàn-nhân liền hiện làm người, nói với tám đại vương:

– Chư Thiên chúng tôi cũng phải có phần. Nếu cùng nhau ra sức tranh cãi thì sẽ có bên thắng bên bại.

Bấy giờ, Long vương A-nậu-đạt, Long vương Văn-lân, Long vương Y-na-bát nói với tám đại vương:

– Chúng tôi cũng phải có phần xá-lợi. Ưu-bàcát nói:

– Thôi, các ông hãy dừng lại, nên cùng nhau chia xá-lợi.

Rồi ông liền phân làm ba: một phần cho chư Thiên, một phần cho Long vương và một phần cho tám vua. Rồi ông ta lấy bồn bằng vàng chứa hơn một thạch. Vị quan này lén lấy mật bôi bên trong bồn và lấy bồn để lường, phân chia xá-lợi.

Chư Thiên được xá-lợi rồi, trở về trời xây tháp Du-bà bằng bảy báu.

Long vương được xá-lợi trở về long cung cũng xây tháp Du-bà bằng bảy báu.

Tám vua được xá-lợi trở về nước mình cũng xây tháp Du-bà bằng bảy báu.

Quan thần Ưu-bà-cát được phần xá-lợi dính trong bình vàng ba đấu và một lọ, cũng xây tháp Du-bà bằng bảy báu, lấy tro và đất xây bốn mươi chín ngọn tháp Du-bà bằng bảy báu.

Chỗ hỏa thiêu cũng xây tháp Du-bà bằng bảy báu, cao bốn mươi chín do-tuần, dùng hương hoa cúng dường, treo lụa cờ phướn, lọng báu, suốt ngày lẫn đêm trỗi âm nhạc không dứt đoạn.

Nhờ oai thần của Phật khiến cho tháp bảy báu đều có ánh sáng. Ban đêm tỏa ánh sáng như ban ngày, ban ngày phóng ra ánh sáng như ban đêm. Các thiên thần giữ tháp đều đến canh giữ, không có kẻ xấu ác đến xúc phạm.

Phẩm 38: XUẤT KINH

Sau khi Phật nhập diệt bảy ngày đêm, Tôn giả Đại Ca-diếp nói với năm trăm A-la-hán:

– Hãy đánh kiền chùy tập hợp chúng. Năm trăm vị đều đến từ thế giới chư Phật trong mười phương. Ai đắc A-la-hán, sáu thông thấu triệt thì tập hợp hết ở giữa song thọ cõi Diêm-phù-đề này. Nay Phật Thích Ca Văn đã đến tuổi thọ nhập Niết-bàn. Chỗ hỏa thiêu đã xây xong tháp bảy báu. Nay tập hợp đại chúng là muốn được giảng nói pháp thân chân tánh của Phật. Hãy mau tập hợp để chọn những lời nói vi diệu.

Khi ấy, năm trăm vị La-hán nghe lời chỉ bảo của Tôn giả Đại Ca-diếp, dùng sức thần túc, như người lực sĩ co duỗi cánh tay đến từ hằng hà sa cõi khắp mười phương. La-hán tập hợp được tám ức bốn ngàn vị đến cõi Kham Nhẫn để nghe thọ chánh pháp.

Thấy đại chúng đã tập hợp, Tôn giả Đại Cadiếp nói với Ưu-ba-ly:

– Ông làm Duy-na, hãy bảo Tôn giả A-nan đi ra.

Nhận lời chỉ giáo, Ưu-ba-ly bảo Tôn giả A-nan ra, nói:

– Ông là thị giả của Phật, nay có lỗi lớn với chúng tôi, ông có tự biết không?

Tôn giả A-nan thưa Tôn giả Đại Ca-diếp:

– Tôi xét thấy không có lỗi lớn nào với Thánh chúng cả. Tôn giả Ca-diếp bảo Tôn giả A-nan:

– Thế nào, này Tôn giả A-nan! Kinh được Phật giảng nói: Nếu có A-la-hán đắc đạo, sáu thông thấu triệt, tu bốn thần túc, tu nhiều, hành nhiều, có thể sống hơn một kiếp. Vì sao ông im lặng, không trả lời Phật?

Khi ấy, Tôn giả A-na-luật đưa Tôn giả A-nan ra ngoài, rồi bỗng nhiên kêu Tôn giả A-nan ra trước, lấy việc xưa mà quở trách A-nan. Khi ấy, Anan tâm hoang mang, tự suy nghĩ: “Phật diệt độ chưa bao lâu mà lại sỉ nhục ta đến như vậy”, liền tư duy bốn ý chỉ, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám thánh đạo, phân biệt về gốc của khổ là tập, về quả của diệt, đạo, tức ở trước đại chúng thành A-la-hán. Các trần cấu đã được diệt sạch và bỗng nhiên đại ngộ. Thánh chúng khen ngợi, chư Thiên ca hát. Ngay lúc đó, mặt đất chấn động đủ sáu cách, chư Thiên rải hoa, trỗi nhạc. Sắc thân diệt độ, còn pháp thân vượt ra khỏi thế gian, làm lợi ích cho chúng sinh, phần nhiều được thấm nhuần, rồi sai A-nan thăng tòa cao bằng bảy báu.

Tôn giả Ca-diếp nói với Tôn giả A-nan:

– Pháp Phật giảng nói, một chữ một lời phải nên cẩn thận, chớ có để thiếu sót. Tạng của Bồ-tát tập trung lại một chỗ. Tạng Thanh văn tập trung để một chỗ. Tạng Giới luật tập trung để một chỗ.

Khi ấy, Tôn giả A-nan nói lớn:

– Tôi nghe như vầy:

Một thời, là nói về chỗ Đức Phật ở thì Tôn giả Ca-diếp và tất cả Thánh chúng đều rơi nước mắt, khóc lóc không tự kềm chế được, than thở: “Già - chết như huyễn, như hóa. Hôm qua thấy Phật mà hôm nay nghe nói đã diệt độ rồi”.

Tạng kinh Thai Hóa được đưa ra đầu tiên.

Thứ hai: Tạng Trung Ấm.

Thứ ba: Ma Ha Diễn Phương Đẳng.

Thứ tư: Tạng Giới Luật.

Thứ năm: Tạng Bồ Tát Thập Trụ.

Thứ sáu: Tạp Tạng.

Thứ bảy: Tạng Kim Cang.

Thứ tám: Phật Tạng.

Đây là pháp kinh của Phật Thích Ca Văn, tập hợp đầy đủ. Mồng tám tháng hai: Thành Phật.

Mồng tám tháng hai: Chuyển pháp luân. Mồng tám tháng hai: Hàng phục quân ma. Mồng tám tháng hai: Nhập Niết-bàn.


[Đầu trang]


[Mục lục bộ Niết Bàn][374][375][376][377][378][379][380][381][382][383][384][385][386][387][388][389][390][391][392][393][394][395][396]


[Mục lục tổng quát]