TẠNG
KINH
BỘ NIẾT BÀN (374 - 392)
SỐ 387 - KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG VÔ TƯỞNG
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Tam tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm, người Thiên Trúc.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vương-xá cùng với chín vạn tám ngàn vị Tỳkheo Tăng, đứng đầu là Tôn giả Đại Ca-diếp. Tất cả những vị này đều là những bậc A-la-hán, đã chấm dứt các lậu hoặc, đều được tự tại, tâm điều hòa thuận hợp như Hương tượng vương, noi theo đường lành tâm được giải thoát, trí tuệ vô ngại, đã lìa bỏ gánh nặng, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sinh, tu tập giới cấm thanh tịnh vi diệu, đạt tới bờ kia, oai đức vời vợi, tiếng tăm vang xa, thành tựu đầy đủ tám giải thoát.
Hàng ngày, vào buổi sáng sớm, những vị ấy thường xuất thiền định, đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt lễ Phật, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong rồi, lui ra ngồi một bên.
Lại có chúng Tỳ-kheo-ni gồm sáu vạn năm ngàn vị, đứng đầu là Tỳ kheo-ni Ma-ha Ba-xà-bađề, cũng hàng ngày vào buổi sáng sớm, xuất thiền định, đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có chúng Đại Bồ-tát gồm sáu vạn tám ngàn vị, tất cả đều là những bậc đại Hương tượng vương. Đó là:
– Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng. Đại Bồ-tát Đại Vân Đắc Chí.
Đại Bồ-tát Đại Vân Điện Quang. Đại Bồ-tát Đại Vân Lôi Chấn.
Đại Bồ-tát Đại Vân Cần Tạng.
Đại Bồ-tát Đại Vân Ái Lạc.
Đại Bồ-tát Đại Vân Hoan Hỷ.
Đại Bồ-tát Đại Vân Tánh.
Đại Bồ-tát Đại Vân Kim Cang Thủ.
Đại Bồ-tát Đại Vân Bảo Thủ.
Đại Bồ-tát Đại Vân Hống.
Đại Bồ-tát Đại Vân Danh Xưng.
Đại Bồ-tát Đại Vân Nguyện Hoa.
Đại Bồ-tát Đại Vân Thí Vũ.
Đại Bồ-tát Đại Vân Bất Khinh.
Đại Bồ-tát Đại Vân Cần Hành.
Đại Bồ-tát Đại Vân Sư Tử Hống Vương.
Đại Bồ tát Đại Vân Mãn Vũ Tâm Vương.
Đại Bồ tát Đại Vân Phổ Quang.
Đại Bồ tát Đại Vân Chánh Kiến.
Đại Bồ-tát Đại Vân Biến Vũ Vương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Thân Thông Vương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Thượng Diệu.
Đại Bồ-tát Đại Vân Tự Tại.
Đại Bồ-tát Đại Vân Đại Hải.
Đại Bồ-tát Đại Vân Nhất Thiết Tự Tại.
Đại Bồ-tát Đại Vân Phước Điền.
Đại Bồ-tát Đại Vân Nhất Thiết Thí An.
Đại Bồ-tát Đại Vân Nhật Quang.
Đại Bồ-tát Đại Vân Nguyệt Quang.
Đại Bồ-tát Đại Vân Lưu Ly Quang.
Đại Bồ-tát Đại Vân Vô Lượng Giả.
Đại Bồ-tát Đại Vân Thường Kiến.
Đại Bồ-tát Đại Vân Ngã Kiến.
Đại Bồ-tát Đại Vân Tịnh Kiến.
Đại Bồ-tát Đại Vân Lạc Kiến.
Đại Bồ-tát Đại Vân Vô Ngại.
Đại Bồ-tát Đại Vân Thường Thắng.
Đại Bồ-tát Đại Vân Tịnh Quang.
Đại Bồ-tát Đại Vân Đắc Xưng.
Đại Bồ-tát Đại Vân Ái Mạng.
Đại Bồ-tát Đại Vân Giả Chủ.
Đại Bồ-tát Đại Vân Thuận Sư.
Đại Bồ tát Đại Vân Hiện Đạo.
Đại Bồ tát Đại Vân Hộ Tử.
Đại Bồ tát Đại Vân Thắng Phân Đà Lợi.
Đại Bồ-tát Đại Vân Hỏa Quang.
Đại Bồ-tát Đại Vân Ba Đầu Ma.
Đại Bồ-tát Đại Vân Ưu Bát La Hương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Uy Đức Vương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Động Dao.
Đại Bồ-tát Đại Vân Vô Sở Úy.
Đại Bồ-tát Đại Vân Đa Ma La Bạt Thọ Diệt Lương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Xích Chiên Đàn Thọ Lương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Cực Thâm.
Đại Bồ-tát Đại Vân Tri Thiện Sư.
Đại Bồ-tát Đại Vân Na La Diên Đại Hỷ.
Đại Bồ-tát Đại Vân Đại Ngưu Vương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Đại Thọ Vương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Đại Pháp Phân Đà Lợi Phu.
Đại Bồ-tát Đại Vân Chấp Trì Pháp Quang.
Đại Bồ-tát Đại Vân Xưng Vương Môn.
Đại Bồ-tát Đại Vân Kim Sơn Hữu Đức Vương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Vô Bố Vương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Đại Y Vương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Đại Thân Vương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Hư Không Vương.
Đại Bồ tát Đại Vân Tu Phát Vương.
Đại Bồ tát Đại Vân Hoại Vân Vương.
Đại Bồ tát Đại Vân Hoại Phong Vương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Hoại Vũ Vương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Tỷ Nghê Vương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Đoạn Ám Vương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Đoạn Bạc Vương.
Đại Bồ-tát Đại Vân Ca Diếp.
Các vị Đại Bồ-tát Đại Vân như thế, cũng vào sáng sớm, xuất thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có năm vạn tám ngàn Đồng tử Lê-xa, như:
– Lê-xa Sư Tử Quang.
Lê-xa Pháp Đức.
Lê-xa Pháp Tiện.
Lê-xa Thích Đức.
Lê-xa Thích Tràng.
Lê-xa Thích Phan.
Lê-xa Sư Tử Hống.
Lê-xa Bảo Linh Thanh.
Lê-xa Ái Đức.
Lê-xa Danh Quý Đức.
Lê-xa Kim Cang Tu.
Lê-xa Phật Nô.
Lê-xa Như Lai Nô.
Lê-xa Thế Tôn Nô.
Lê-xa Bà Già Bà Nô.
Lê-xa Chánh Giác Nô.
Lê-xa Thế Tôn Nguyệt Nô.
Lê-xa Đại Thủ.
Lê-xa Đại Tinh Tiến.
Lê-xa Hằng Hà Đắc.
Lê-xa Văn Thù Sư Lợi.
Lê-xa Di Lặc.
Lê-xa Đại Long.
Lê-xa Long Hộ.
Lê-xa Pháp Hộ.
Lê-xa Quảng Xưng.
Lê-xa Hư Không Vân.
Lê-xa Hằng Hà Hộ.
Lê-xa Kim Hoa.
Lê-xa Điện Quang.
Lê-xa Đại Quảng Diện.
Lê-xa Tánh Quảng.
Lê-xa Tự Tại Đắc.
Lê-xa Tự Tại Địa.
Lê-xa Địa Man.
Lê-xa Phương Đẳng Nô.
Lê-xa Kim Cang Nô.
Tất cả những Đồng tử Lê-xa này đều phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng, giữ gìn Đại thừa, ưa thích Đại thừa, những ai được giáo hóa đều hướng về Đại thừa. Chư vị cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Đức Thế Tôn, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có bốn vạn bốn ngàn vua trời như:
– Vua trời Ái Kiến.
Vua trời Nhất Thiết Ái.
Vua trời Nguyệt Phát.
Vua trời Nhật Sắc.
Vua trời Trường Nhĩ. Vua trời Thanh Sắc Vua trời Tinh Tấn.
Vua trời Thâm Mục.
Vua trời Đại Hắc.
Vua trời Viễn Tuệ.
Vua trời Hư Không Mục.
Vua trời Ái Đức.
Vua trời Ái Tu.
Vua trời Ái Xưng Quang.
Vua trời Ái Diện Quang.
Vua trời Nhất Thiết Hỷ Niệm.
Vua trời Lưu Ly Quang.
Vua trời Quang Ái.
Vua trời Bán Nguyệt.
Vua trời Đại Thanh Vi Diệu.
Vua trời Dũng Hoại Phiền Não.
Vua trời Nhất Thiết Ái.
Vua trời Đồng Tử Ái.
Vua trời Mạn Đà La Hoa. Vua trời Vô Thường.
Vua trời Thuộc Mão Tinh.
Những đại Thiên vương như thế đều ưa thích Đại thừa, rộng nói pháp Đại thừa, giữ gìn Đại thừa, thọ trì tất cả pháp Tam-muội tổng trì, ban phát những việc an lạc cho chúng sinh. Chư vị cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có ba vạn tám ngàn vua rồng, như:
– Vua rồng Liên Hoa.
Vua rồng Đức Xoa Ca. Vua rồng Ca Ca La.
Vua rồng Hòa Tu Kiết.
Vua rồng Ái Đức Tu.
Vua rồng Đại Địa.
Vua rồng Nha Lợi.
Vua rồng Tịnh Mục.
Vua rồng Sư Tử.
Vua rồng Loa Thanh.
Vua rồng Cổ Thanh.
Vua rồng Kim Quang.
Vua rồng Kim Sắc.
Vua rồng Hắc Tu.
Vua rồng Trì Đại Vũ.
Vua rồng Đại Hải.
Vua rồng Chỉ La Bà.
Vua rồng Phạm.
Vua rồng Nguyện Ái.
Vua rồng Y La Bát.
Vua rồng Đà Tỳ La.
Vua rồng Hằng Hà.
Vua rồng Hạnh Đầu.
Vua rồng Bác Xoa.
Vua rồng Tư Đà.
Vua rồng Hữu Đức.
Vua rồng A Nậu Đạt.
Vua rồng Bát Thụ Na.
Vua rồng Nhân.
Vua rồng Phi Nhân.
Vua rồng Nhân Đầu.
Vua rồng Kiết.
Vua rồng Huân Luật.
Vua rồng Tỳ Xá La.
Vua rồng Loa.
Vua rồng Hoàng Sắc.
Vua rồng Nan Đà.
Vua rồng Ưu Ba Nan Đà.
Vua rồng Tỳ Lâu Lặc Xoa.
Đề Đầu Lại Trá.
Vua rồng Tỳ Sa Môn.
Vua rồng Bán Xà La.
Vua rồng Ma Na Tư.
Những vua rồng như thế đều ưa muốn nghe nhận kinh điển Đại thừa, được nghe liền muốn trình bày rộng rãi, phân biệt cho tất cả, muốn giữ gìn chánh pháp, che chở bảo bọc chánh pháp. Vì muốn che chở chánh pháp nên những vua rồng này đã giữ gìn giới cấm một cách bền chắc, gánh vác trách nhiệm nặng nề của giáo pháp. Chư vị cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có ba vạn sáu ngàn vua thần Dạ-xoa. Đó là:
– Vua quỷ Tỳ Sa Môn. Vua quỷ Hư Không.
Vua quỷ Ái Đức. Vua quỷ Tất Thí.
Vua quỷ Đại Anh Lạc Trang Nghiêm.
Vua quỷ Nhất Hướng Thị.
Vua quỷ Động Đại Địa.
Vua quỷ Thiện Mao.
Vua quỷ Thiện Ái Gia.
Vua quỷ Ma Ni Bạt Đà.
Vua quỷ Mãn Thành.
Vua quỷ Liên Hoa Quang.
Vua quỷ Xa Luân Đài.
Vua quỷ Đại Hải Thắng.
Các vua quỷ Dạ-xoa này đều thực hành theo con đường của Như Lai A-súc, che chở chánh pháp, giữ gìn giới cấm. Các vị cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có bốn vạn chín ngàn vua chim cánh vàng. Đó là:
– Vua chim cánh vàng Lực Đẳng Hương Tượng. Vua chim cánh vàng Kiên Cố.
Vua chim cánh vàng Cổ Thanh.
Vua chim cánh vàng Hoại Nhất Thiết Long Vương Lực.
Vua chim cánh vàng Hỏa Quang.
Vua chim cánh vàng Ban Sí.
Vua chim cánh vàng Luân Diện.
Vua chim cánh vàng Ác Tánh.
Vua chim cánh vàng Hoại Hòa Tu Kiết Long Vương Quyến Thuộc.
Vua chim cánh vàng Đại Hỷ.
Vua chim cánh vàng Thật Kiến.
Vua chim cánh vàng Hỷ Thuyết Đại Từ.
Vua chim cánh vàng Pháp Hỷ.
Vua chim cánh vàng Kim Sí Ái.
Tất cả những vua chim cánh vàng như thế đều không còn sự kiêu mạn, buông lung, đều đạt được tâm ưa thích, che chở pháp Đại thừa, bảo bọc che chở tất cả chánh pháp của chư Phật. Những vị này, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có sáu vạn tám ngàn vua Càn-thát-bà. Đó là:
– Vua Càn-thát-bà Hỷ.
Vua Càn-thát-bà Tự Tại Ca.
Vua Càn-thát-bà Hiện Tại Ái.
Vua Càn-thát-bà Ngưu Vương Đắc.
Vua Càn-thát-bà Vân Phú.
Vua Càn-thát-bà Mạng Mạng.
Vua Càn-thát-bà Các Các Thanh.
Những vị vua Càn-thát-bà này, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có chín vạn tám ngàn vua Khẩn-na-la, đó là:
– Vua Khẩn-na-la Thiện Kiến.
Vua Khẩn-na-la Trường Tỷ.
Vua Khẩn-na-la Dẫn Tâm.
Vua Khẩn-na-la Thê Ái.
Vua Khẩn-na-la Hoại Phiền Não.
Vua Khẩn-na-la Hoại Oán.
Vua Khẩn-na-la Ma Vương Nữ Ái Vua Khẩn-na-la Hoại Ma Quyến Thuộc.
Vua Khẩn-na-la Tuệ Tạng.
Vua Khẩn-na-la Thâm Mục.
Vua Khẩn-na-la Tịnh Quý Đức.
Vua Khẩn-na-la Điều Căn.
Vua Khẩn-na-la Viễn Kiến.
Các vị vua Khẩn-na-la này, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có một vạn tám ngàn vua La-sát, như:
– Vua La-sát Chử Khôi.
Vua La-sát Thủy Ngưu Đầu.
Vua La-sát Hoàng Phát.
Vua La-sát Sai Xỉ.
Vua La-sát Long Lâu Nhĩ.
Vua La-sát Tham Mật.
Vua La-sát Mật Sắc.
Vua La-sát Đại Yết.
Vua La-sát Đại Ẩm.
Vua La-sát Dĩ Phát Phú Thân.
Vua La-sát Đại Lực.
Vua La-sát Khả Úy Sắc.
Những vị vua La-sát này đều đã dứt trừ sự nghĩ tưởng của La-sát, chuyên dùng pháp Đại thừa chế phục tâm mình. Chư vị cũng vào sáng sớm, rời khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có ba vạn tám ngàn vua thần Đà-na-bà, như:
– Vua Đà-na-bà Tượng Diện.
Vua Đà-na-bà Nha.
Vua Đà-na-bà Phản Túc.
Vua Đà-na-bà Lư Thanh.
Vua Đà-na-bà Hoa Nhĩ.
Vua Đà-na-bà Bảo Nhĩ.
Vua Đà-na-bà Thử Đắc.
Vua Đà-na-bà Ly Đắc.
Vua Đà-na-bà Thử Lang Nghi.
Vua Đà-na-bà Di Hầu Diện.
Vua Đà-na-bà Nguyệt Diện.
Những vị vua Đà-na-bà này, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, đầu mặt đảnh lễ, cung kính chấp tay, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có bảy vạn tám ngàn vua Cưu-bàn-trà, đó là:
Vua Cưu-bàn-trà Tượng Nhĩ. Vua Cưu-bàn- trà Ky Nhĩ.
Vua Cưu-bàn-trà Đại Phì.
Những vị vua Cưu-bàn-trà này, đều đã lìa bỏ mọi sư suy nghĩ của loài Cưu-bàn-trà, cũng vào sáng sớm, những vị này ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có ba vạn tám ngàn vua ngạ quỷ đói. Đó là:
– Vua Điện Quang Minh. Vua Đại Thí.
Vua Nhất Thiết Canh. Vua Tiễn.
Vua Đại Hải Đào Ba.
Tất cả vua ngạ quỷ này đều ưa thích kinh điển Đại thừa, thọ trì chánh pháp, thường trình bày rộng rãi, phân biệt cho chúng sinh. Họ khát ngưỡng Đại thừa, mong mỏi Đại thừa, hâm mộ Đại thừa, chuyên dùng Đại thừa để tự trang nghiêm, thường phát đại nguyện đắc giới đắc tuệ. Những vị ấy cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có tám vạn tám ngàn vua A-tu-la. Đó là:
– Vua A-tu-la Tỳ Ma Chất Đa. Vua A-tu-la Phú Lâu Na.
Vua A-tu-la Niệm Quốc.
Vua A-tu-la Tịnh Hằng Hà Tỳ Nữu.
Vua A-tu-la Lợi An.
Vua A-tu-la Tượng Yết.
Vua A-tu-la Tam Giác Sơn.
Vua A-tu-la Hôi Phát.
Vua A-tu-la Đại Ác Tánh.
Vua A-tu-la Hỏa Quang.
Tất cả vua A-tu-la này đều lìa bỏ sự suy nghĩ của loài A-tu-la, tâm được điều phục, lìa hẳn mọi kiêu mạn, không còn buông lung. Những vị ấy cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, cung kính chấp tay, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có sáu vạn năm ngàn vua Đại thần chú. Đó là:
– Vua Bảo Trì.
Vua Vô Tận Tài.
Vua Vô Ngại.
Vua Bất Đối.
Những vua Đại thần chú này, yêu kính pháp Đại thừa, ưa nói Đại thừa, ủng hộ Đại thừa, mong mỏi Đại thừa, đạt định Đại thừa, đủ hạnh bình đẳng, thường muốn dứt trừ mọi nghi ngờ nơi tâm, che chở chánh pháp, vâng giữ tịnh giới. Những vị ấy, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có chín vạn chín ngàn Tiên nhân chứng năm thần thông. Đó là:
– Tiên nhân Na La Tha. Tiên nhân Nhuệ Phù
La.
Tiên nhân Bạt Di Ca.
Tiên nhân Thiện Nô.
Tiên nhân Kiệt Già.
Tiên nhân Thái Bạch.
Tiên nhân Huỳnh Hoặc.
Tiên nhân Lộc Giác.
Tiên nhân Lộc Mục.
Tiên nhân Ly Mạn.
Tiên nhân Bà Tư Tra.
Tiên nhân Hoan Hỷ.
Tiên nhân Ngũ Ấm.
Tiên nhân Kiếp Sơ.
Tiên nhân Đại Vân Sắc Y.
Tiên nhân Thiên Y.
Tiên nhân Kiều Thi Ca. Tiên nhân Phả La Đọa.
Tiên nhân Long Thanh.
Tiên nhân Hữu Đức.
Tiên nhân Đoạn Nhục.
Tiên nhân Thí Nhất Thiết Mạng.
Tất cả Tiên nhân chứng năm thần thông đó, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ
Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có Thiên Đế thích cùng vô lượng vô số chúng trời Tam Thập Tam, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có Tứ Thiên vương, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, cung kính chấp tay, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có vua Ba-tư-nặc - chủ nước Xá-vệ - cùng các tiểu vương trang nghiêm bốn thứ binh. Những vua này đều yêu kính pháp Đại thừa, ưa nói Đại thừa, mong mỏi Đại thừa, che chở chánh pháp, thọ trì tịnh giới. Các vị ấy cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có năm vạn ba ngàn đại Trưởng giả, như: Trưởng giả Tu-đạt-đa v.v..., đều là những vị đã thọ năm giới, đã phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng, yêu kính Đại thừa, mong mỏi Đại thừa, hâm mộ Đại thừa, che chở Đại thừa, vâng giữ tịnh giới, vì các chúng sinh tùy thuận Bồ-đề. Những vị ấy, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có chủ nước Chiêm-bà, tên Nguyệt Hộ cùng các tiểu vương thọ trì năm giới, cùng phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng.
Những vị ấy cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có mười sáu nước lớn, như:
– Nước Ương-già-đà.
Nước Ma già-đà.
Nước Ca-thi.
Nước Câu-tát-la.
Nước Bạt-kỳ.
Nước Ma-la.
Nước Phân-đà.
Nước Tu-ma.
Nước A-ma.
Nước A-bàn-đề.
Nước Câu-lưu.
Nước Bán-thời-la.
Nước Bạt-sai.
Nước Thủ-la-tiên-na.
Nước Dạ-bàn-na.
Nước Kiếm-phổ-xà.
Mọi chúng sinh trong mười sáu nước lớn này đều phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có phu nhân Mạt-lợi cùng một vạn sáu ngàn phu nhân khác, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có một vạn tám ngàn chúng Ưu-bà-di như Bà-tỳ-xá-khư v.v... Tất cả chúng Ưu-bà-di này đều phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng, ưa thích Đại thừa, mong mỏi Đại thừa, ủng hộ chánh pháp, vâng giữ tịnh giới, vì muốn tập hợp, trợ giúp đạo pháp nên tu đạo Bồ-đề, tất cả đều đạt được tâm không thoái chuyển, vì hóa độ chúng sinh nên thị hiện thọ thân nữ, thường thích tuyên thuyết kinh điển Đại Thừa, và cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có Thiên tử Tự Tại cùng vô lượng thiên chúng hiện thần biến lớn phóng ra ánh sáng năm màu, đem các loại hoa như núi Tu-di: hoa Ưu-bátla, Bát-đầu-ma, Câu-vật-đầu, Phân-đà-lợi, hoa hương, hoa đại hương, hoa vi diệu, hoa đại vi diệu, hoa ái kiến, hoa đại ái kiến, hoa thời, hoa thường, hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, cùng các thứ hương như: hương chiên-đàn, hương hoa, hương phức-ca, với các thứ kỹ nhạc, các loại hoa lớn như bánh xe. Những vị trời ấy, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có hàng vạn Phạm thiên như Phạm thiên Loa-kế v.v... vô lượng Phạm thiên này, đều phóng ra ánh sáng năm màu, có năng lực phá tan mọi tham dục hắc ám của chúng sinh hiện có nơi núi Kỳ-xà- quật. Các vị Phạm thiên ấy đem vô số loại hương tạp, hoa, kỹ nhạc đi đến chỗ Phật ở tại rừng Trúc Ca-lan-đà, núi Kỳ-xà-quật, trong đại thành Vương-xá. Tại đây, đất đai ngang dọc một do-tuần, các y trời trải kín khắp mặt đất, như: y Kiều-thi-ca, y Ca-lăng-già, y Sô-ma, y Câu-nhuệ-bà; lại dựng tòa sư tử bảy báu, cao một trăm vạn tám ngàn dotuần, bày biện những vật cúng dường xong, các Phạm thiên đều nhiễu quanh Như Lai đủ ba mươi vòng, rồi cởi y báu mang nơi thân, phủ lên trên Như Lai và nói:
– Cúi xin Như Lai hãy vì các chúng sinh mưa xuống cơn mưa pháp.
Lúc đó, từ nơi không trung phát ra âm thanh lớn:
– Bạch Thế Tôn! Mặc dù được nghe nói về pháp thường, lạc, ngã, tịnh, nhưng tất cả chúng sinh không thể nào hiểu được. Cúi mong Như Lai hãy trình bày, giảng nói.
Lại có vô lượng Nga vương, như Nga vương Sư Tử v.v... đem đầy đủ những thứ cúng dường như các loại hoa hương để cúng dường tòa sư tử báu.
Lại có vô lượng Khổng tước vương như Thiện Mục v.v... đem các loại hương hoa, những kỹ nhạc vi diệu cúng dường Phật.
Lại có vô lượng Điểu vương Câu-chỉ-la, như Điểu vương Thiện Hạnh v.v... cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có Điểu vương Ca-lan-đà trên núi Tuyết, như Điểu vương Liên Hoa v.v... đem các hương hoa, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có vô lượng Điểu vương Mạng mạng, như Điểu vương Vô Ngại v.v... cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có vô lượng vua thần núi, đứng đầu là vua thần núi Tu-di, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Lại có vua các loài cỏ thuốc ở Hương sơn, như vua Nhẫn Nhục v.v... cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.
Bấy giờ, mọi cây cối hiện có đều trổ hoa quả. Mọi kỹ nhạc không tấu tự nhiên phát ra âm thanh vi diệu. Mọi loài thú dữ như sư tử v.v... trong núi Tuyết đều phát khởi tâm từ, xem nhau như mẹ với con.
Lại có tất cả các loài trùng độc như muỗi, nhặng v.v... đều đạt tâm từ xem nhau như con một. Các loài chim dữ cũng lại như vậy.
Lại có bốn loại rắn độc, đó là: loại rắn độc nhìn, loại rắn độc phì hơi, loại rắn độc cắn, loại rắn độc xúc chạm v.v... cũng đều đạt được tâm từ.
Cả đến mười sáu loại luật nghi xấu ác cũng đều như vậy. Các chúng sinh ác thảy đều thọ năm giới. Khi đó, tất cả đại chúng cùng đều thọ trì giới hạnh thanh tịnh, ưa muốn nghe thọ kinh điển Đại thừa, cung kính Đại thừa, ủng hộ Đại thừa, những kẻ chê bai hủy báng Đại thừa, khi thấy việc như thế cũng đều thọ trì, cung kính cúng dường.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng liền từ tòa ngồi đứng dậy, trịch bày vai phải, đảnh lễ Phật, quỳ dài, chấp tay, bạch:
– Bạch Thế Tôn! Chư đại chúng ở đây đều có lòng hồ nghi. Nay con có điều muốn hỏi, cúi xin Thế Tôn cho phép.
Đức Phật nói:
– Tốt lắm! Hay lắm! Này thiện nam! Ta có thể phá tan sự nghi ngờ nơi tâm của đại chúng. Có điều gì, ông cứ thưa hỏi.
Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng hỏi:
– Bạch Thế Tôn! Bậc Đại Bồ-tát làm sao tu hành đạt được Đà-la-ni?
Làm sao có khả năng đạt được Tam-muội đại hải?
Làm sao có khả năng giải thích những lời bí mật của chư Phật?
Làm sao đạt được sự nhận biết đầy đủ về pháp vị?
Làm sao thấy được Tạng kín đáo?
Làm sao hội nhập vào nơi an ổn thấy được sự tồn tại mãi mãi của Như Lai?
Làm sao có khả năng đạt được Tạng báu của Như Lai?
Chấm dứt vĩnh viễn mọi bần cùng khốn khổ của chúng sinh?
Làm sao có khả năng giải thích được nghĩa lý sâu xa của chư Phật Như Lai?
Làm sao có khả năng đến được bờ biển giải thoát của chư Phật Như Lai?
Làm sao Bồ-tát hội nhập vào cảnh giới của chư Phật Như Lai?
Làm sao Bồ-tát lại hộ trì mọi pháp huyễn của chư Phật?
Làm sao Bồ-tát đạt được pháp của Như Lai, khi đạt rồi lại có khả năng diễn nói?
Làm sao có khả năng biết được tất cả pháp giới?
Làm sao đạt được thân tuệ tinh, thân nguyệt, thân nhật (thân sao chổi, thân mặt trời, thân mặt trăng) của Phật?
Làm sao đạt được biên vực tận cùng của Như Lai?
Làm sao có khả năng đạt được nghiệp thanh tịnh của chư Phật?
Làm sao đạt được con đường hành hóa của Như Lai đi?
Làm sao đạt được ao thanh tịnh thâm diệu của Phật?
Làm sao được hoa Phân-đà-lợi của Phật?
Làm sao đạt được sức tự tại của Phật?
Làm sao có khả năng đạt được tài sản của chư Phật?
Làm sao có khả năng thấy được thật tướng của Như Lai?
Làm sao thấy được sự thường trụ bất biến của Phật?
Làm sao có khả năng đạt được màu sắc vàng ròng của Như Lai?
Làm sao Bồ-tát đạt được ngôi vị Pháp vương của Phật?
Làm sao có khả năng đạt được pháp thân kim cương?
Làm sao đạt được thường thân, thường thanh của Phật?
Làm sao Bồ-tát đến được nơi an ổn của Như Lai mà không có tưởng an ổn?
Làm sao thấy được thường, lạc, ngã, tịnh của chư Phật Như Lai mà chẳng phải là ác kiến?
Thế nào là pháp thân chân thật, sinh thân chân thật của Như Lai?
Thế nào là thân kim cương của Như Lai xua tan mọi tạp thân?
Thế nào là thấy thân hoại mà gọi là cái thấy chân chánh?
Thế nào là thân Như Lai không được gọi là thân do máu, thịt, gân, xương kết hợp thành, hay là có những thân như thế?
Thế nào là quán không khi nghe Như Lai nói pháp? Thế nào là những điều đã đạt được?
Thế nào là khi nói pháp lại nghe đầy đủ về pháp vô sở hoạch, hoặc vô sở hữu?
Thế nào là được nói về cái thường, chân thật của Như Lai? Thế nào là nhập Niết-bàn hoặc không nhập Niết-bàn?
Thế nào gọi là giới thật ngữ hoặc không tịnh uế?
Tại sao khen ngợi việc trì giới là pháp Phật không bị diệt?
Tại sao nói pháp diệt, lại nói khi pháp diệt có nhiều người phá hủy giới cấm? Tánh tịnh của Phật Như Lai là thượng tịnh, là cứu cánh tịnh chăng? Tánh của những người hủy hoại giới cấm cũng như vậy phải không?
Thế nào là ưa thích sinh tử?
Thế nào là chư Bồ-tát thường nói về cái vui của sinh tử?
Thế nào là chư Bồ-tát lại ưa thấy tánh của Như Lai?
Thế nào là sự thường hằng của phiền não?
Thế nào là ưa phiền não?
Thế nào là lại nhập vào được tất cả cửa phiền não?
Thế nào là có khả năng tu được tất cả nghiệp của cõi Phật?
Thế nào là khéo biết được gốc rễ của phiền não?
Thế nào là các Bồ-tát có khả năng khéo diệt trừ được tâm nghi ngờ về thường, lạc, ngã, tịnh đối với Phật, hoặc là không có tâm hồ nghi? chết?
Thế nào là sợ sống chết, hoặc là có sự sợ hãi đối với sự sống
Thế nào là ưa đắm chấp?
Thế nào là đạt được con đường của Phật?
Thế nào là chuyển bánh xe chánh pháp?
Thế nào là hướng dẫn cho chúng sinh nhận biết Phật tánh không thể bị đoạn trừ?
Thế nào là đối trị chúng ma, khiến lìa cảnh giới ma?
Thế nào là đưa chúng sinh vượt qua biển khổ lớn sống chết?
Thế nào là nói về sống chết, chỉ dẫn con đường sống chết?
Thế nào là đạt được biển cả vô lượng của sự sống chết?
Thế nào là cầu sống chết, khát khao con đường sống chết?
Thế nào là tham sống chết, nuối tiếc không buông bỏ?
Thế nào là mở bày sự sống chết giống như Phân-đà-lợi?
Thế nào là sự ràng buộc của phiền não giống như bốn biển lớn?
Thế nào là các phiền não thường khởi lên giống như sự phát nguyện?
Thế nào là có được tâm địa ngục?
Thế nào là thường cầu tâm địa ngục?
Thế nào là tu tập giới cấm địa ngục?
Thế nào là chấm dứt hết thân địa ngục do nghiệp hành của địa ngục đao, kiếm, cung, tên, dùi, vòng lửa...?
Thế nào là có khả năng phá tan quả địa ngục của chúng sinh?
Thế nào là tạo sự an lạc cho chúng sinh ở địa ngục?
Thế nào là giáng cơn mưa lớn xuống dập tắt ngọn lửa địa ngục?
Thế nào là thân ở địa ngục nhưng không chịu hình phạt?
Thế nào là làm người chèo thuyền dẫn dắt cho địa ngục?
Thế nào là làm vị thuốc hay, lớn cho địa ngục? Thế nào là có khả năng bít lấp con đường địa ngục?
Thế nào là làm ngọn đuốc tuệ phá tan sự u ám nơi sinh tử?
Thế nào là không bị vấy bẩn do sự độc hại của phiền não sinh tử? Tuy trụ nơi vô sở trụ mà không đồng với không trụ, lại có khả năng tiêu trừ mọi phiền não, như mặt trời phá tan tuyết, thấy được thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai, tâm an trụ như núi Tu-di, không lay động, không chuyển dời, giống như cây cờ của Đế thích. Như Lai thật sự không có Niết-bàn cứu cánh, cũng nói Như Lai nhập vào Niết-bàn, tâm ấy không hoại, giống như kim cang?
Thế nào là có được sự xấu hổ?
Thế nào là đạt được thân tướng tốt đẹp?
Thế nào là lại có khả năng đạt thân được mọi người ái kính?
Thế nào là đạt được không tham lam?
Thế nào là đạt được không giận dữ?
Thế nào là có khả năng đạt được ánh sáng vi diệu?
Thế nào là đạt được tánh chân chánh?
Thế nào là đạt được sự tự tại?
Thế nào là có khả năng đạt được quyến thuộc của đại chúng?
Thế nào là có khả năng đạt được quyến thuộc không hoại, không lui, không mất, không tham ăn uống, thường tu hạnh biết vừa đủ, trọn không ăn thịt, thường sinh lòng yêu mến đối với các chúng sinh, thường được thế gian cung kính, tôn xưng là bậc đại thí chủ cho tất cả, bậc đại lực (sức lực mạnh mẽ), bậc kiện hành (bước đi vững chắc), bậc có lòng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, đại tuệ tổng trì, tùy thuận theo thế gian làm an lạc cho thế gian?
Thế nào là đạt được sự vô thượng của thế gian, vô thắng của thế gian, vô biên của thế gian; thường thực hành chánh ngữ, tu hành phạm hạnh; thực hành hạnh đại bi, hạnh hỷ, thánh hạnh; thấy cõi pháp không rồi tùy thuận diễn nói, thấy cõi bất không nói cũng như vậy; nói tướng pháp Phật, thấy pháp chân chánh của Phật, đạt được sự tự tại trong sạch; giữ gìn giới tài, đức tài, pháp tài và bất thực tài, vì chúng sinh nghèo đạt được tài vật chứa nơi thân; vì các chúng sinh đạt được ba loại định: không, vô tướng, vô nguyện; muốn sinh tịnh độ thì đạt thân theo nguyện. Tuy vì các chúng sinh phải thọ ấm thân này nhưng không vì vậy mà cầu chúng sinh phải báo đáp ân đức, ca ngợi việc tu trì giới, quở trách việc phá giới, không bị đám người tà vạy cản trở, quấy phá. Tuy đọc ngoại điển nhưng không theo nghĩa lý, những lời thuyết giảng về cú nghĩa không dứt. Tuy được mệnh danh là Sa-môn, Bà-la-môn nhưng hoàn toàn không phát sinh ý tưởng của Sa-môn, của Bà-la-môn. Tuy tỏ tường về toán số, chú thuật nhưng tâm chưa từng có ý nghĩ lệ thuộc. Tuy vì chúng sinh hiện vào thiên tự, cung kính cúng dường, y chỉ lễ bái nhưng trong tâm thường y vào pháp giới. Hiện tại làm mười điều ác, kỳ thật là hành phạm hạnh, được chư Phật hộ niệm, xem như con một. Hay khéo hộ trì pháp thân chư Phật, có khả năng chuyển tất cả bánh xe chánh pháp của chư Phật; thấy một cách sâu xa về tướng chân thật cùng pháp giới thâm diệu của chư Phật, tu hành tất cả mọi hành của chư Phật, đạt được vô lượng thân cùng vô lượng hạnh, khéo giải thích mọi mật ngữ của chư Phật, cùng trừ bỏ kiêu mạn giống như chư Phật; khéo nói nghĩa lý sâu kín của pháp giới. Tuy nói kiêu mạn nhưng không có ý tưởng kiêu mạn, cũng không dạy người khác kiêu mạn. Tâm không tham, sân, si, sợ hãi, giống như chư Phật, hạnh nguyện vô lượng, sự kín đáo vô lượng, chư pháp vô lượng, ưa nói vô lượng, tánh tướng vô lượng, chân thật vô lượng, thấy chân, thấy thật, thấy tánh, thấy pháp. Vì muốn đoạn trừ phiền não cho chúng sinh nên diễn nói pháp, thường được tri kiến của chư Phật Thế Tôn, vượt hẳn biển cả của mọi sự ràng buộc theo phiền não. Vì muốn độ chúng sinh nên nói pháp vượt biển cả của mọi sự ràng buộc nơi phiền não. Đối với những người tự mình được độ, đã độ, chưa độ, những người tự mình được thoát, đã thoát, chưa thoát, những người tự mình được an, đã an, chưa an và những người chưa được Niết-bàn thì đều khiến đạt được sự Niết-bàn, tự thấy pháp giới một cách rõ ràng chân thật; hoặc vì chúng sinh nói thật – không thật. Trải qua vô lượng kiếp đã phá tan bốn loại ma, vì các chúng sinh nên hiện ở nơi cây đạo hàng phục chúng ma. Tri kiến thật bên trong từ lâu đã phá tan các ma, vì các chúng sinh nên nói nay phá trừ, dùng phương tiện khéo léo chuyển bánh xe chánh pháp, dùng phương tiện khéo léo để hiện nhập Niết-bàn?
Thế nào là có khả năng đạt được thần thông của chư Phật?
Thế nào là đạt được ngôi Pháp vương của Phật Như Lai?
Thế nào là đạt được tạng pháp bí mật của Phật?
Thế nào là đạt được sự không thể nghĩ bàn của Phật?
Thế nào là có khả năng đạt được sự vô lượng, vô xưng, vô số, vô thắng, vô biên của chư Phật?
Thế nào là có khả năng ban phát vị cam lồ cho tất cả chúng sinh?
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Vì muốn tạo an lạc cho chúng sinh ở thế gian, ông đã nêu ra những câu hỏi này, là những câu hỏi rất có ý nghĩa. Tất cả chúng sinh do bị vô minh làm cho tăm tối nên không thể biết được mọi công đức chân thật của chư Phật.
Này thiện nam! Nay ông muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều đạt được con mắt trí tuệ thường nhãn, thường quang, vượt hẳn qua sông lớn phiền não sinh tử, hiểu rõ hạnh Bồ-đề của chư Phật; muốn phá tan màn kết vô minh cho chúng sinh, chỉ dẫn hạnh Bồ-đề vô thượng, hay ưa diễn nói về không thường, không lạc, không ngã, không tịnh của tất cả chúng sinh, thế mà nay muốn mở bày về thường, lạc, ngã, tịnh. Như Lai rốt ráo nhập vào Niết-bàn không thường, không lạc, không ngã, không tịnh, thế mà nay muốn mở bày về việc chư Phật Thế Tôn không rốt ráo diệt, thường trụ bất biến.
Này thiện nam! Tất cả chúng sinh thường vọng sinh phân biệt về pháp giới, thế nhưng tánh của pháp giới thật sự không phân biệt. Nay nêu câu hỏi, tức ông muốn hỏi về ý nghĩa không phân biệt.
Này thiện nam! Tất cả chúng sinh thường bị cấu nhiễm do các thứ tà độc. Như Lai Thế Tôn là bậc đại lương y, ý ông muốn bậc y vương Như Lai ra toa trao thuốc, trị mọi thứ bệnh khổ cho chúng sinh.
Này thiện nam! Giống như Phạm chí Già-la-ca cùng các Bà-la-môn Ni-kiền-tử, thật sự chẳng phải là A-la-hán mà khởi lên ý tưởng của La-hán.
Chẳng phải là bậc Thánh mà khởi lên ý tưởng của bậc Thánh. Chẳng phải là hàng trời mà khởi lên ý tưởng của hàng trời.
Thật chẳng phải là pháp thường, lạc, ngã, tịnh mà khởi lên ý tưởng của thường, lạc, ngã, tịnh.
Nay vì muốn nhổ mũi tên tà độc, cởi bỏ sự ràng buộc tà vạy, phá địa ngục tà, ra khỏi lưới tà, ban phát vị cam lồ, ngủ yên nơi bốn thiền, thoa hương tịnh giới, bốn đẳng làm hoa, hổ thẹn làm áo mặc cho chúng sinh, ông đã nêu ra câu hỏi này.
Này thiện nam! Tất cả chúng sinh không biết tổng tướng, không biết biệt tướng, tướng, không tướng, chẳng phải tướng, chẳng phải là không tướng, chẳng phải là tướng tướng, chẳng phải là không tướng tướng.
Không thể biết, chẳng phải là không thể biết. Chẳng phải bên này, chẳng phải bên kia.
Chẳng phải tay, chẳng phải ngón tay. Chẳng phải bên này, bên kia, chính giữa.
Chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác. Chẳng phải chỉ bày, chẳng phải không chỉ bày.
Chẳng phải nguyên nhân, chẳng phải không nguyên nhân. Chẳng phải mau chóng, chẳng phải không mau chóng.
Chẳng phải nhận biết, chẳng phải không nhận biết. Chẳng phải hiểu biết, chẳng phải không hiểu biết. Chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ.
Chẳng phải tối, chẳng phải sáng. Chẳng phải tướng, chẳng phải danh. Chẳng phải nhẹ, chẳng phải nặng. Chẳng phải yếu, chẳng phải mạnh.
Chẳng phải nơi chốn, chẳng phải không nơi chốn. Chẳng phải sạch, chẳng phải không sạch.
Chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi.
Chẳng phải có, chẳng phải không.
Chẳng phải có thể nói, chẳng phải không thể nói.
Chẳng phải lấy, chẳng phải bỏ.
Không sinh không lui.
Chẳng phải thật, chẳng phải hư.
Chẳng phải chánh, chẳng phải tà.
Chẳng phải rốt ráo, chẳng phải không rốt ráo.
Chẳng phải ruộng phước, chẳng phải không ruộng phước.
Chẳng phải thời gian, chẳng phải không thời gian.
Chẳng phải có thể sạch, chẳng phải không thể sạch.
Chẳng phải tạo tác, chẳng phải có khả năng tạo tác.
Chẳng phải sinh, chẳng phải diệt.
Chẳng phải lạnh, chẳng phải nóng.
Chẳng phải ấm, giới, nhập, chẳng phải kết nhân, chẳng phải nghiệp nhân.
Chẳng phải sinh, chẳng phải đọa.
Chẳng phải trưởng, chẳng phải tăng trưởng.
Chẳng phải có đọa lạc, rốt ráo không đọa.
Chẳng phải là pháp hữu, dứt hẳn các hữu.
Chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai.
Chẳng phải thật, chẳng phải không thật.
Chẳng phải tánh, chẳng phải không tánh.
Chẳng phải sắc, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức.
Chẳng phải tận, chẳng phải bất tận, cũng không thể tận.
Chẳng phải đẳng, chẳng phải vô đẳng, cũng không cùng đẳng.
Chẳng phải đất, nước, gió, lửa.
Tất cả pháp giới thật không có thân, tướng của thật tướng là rốt ráo chân thật. Đó gọi là Như Lai được thành tựu từ các đại công đức vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Thân như vậy tức là chân pháp thân của chư Phật. Ý nghĩa sâu xa không thể nghĩ bàn.
Pháp giới của Như Lai sâu kín thâm diệu, không dời đổi chốn gốc. Tuyên nói chánh pháp khiến chư Phật trong mười phương thảy đều nghe biết. Vì sao? Vì nẻo hành hóa của Như Lai hiện bày thần lực tự tại. Những điều sâu kín như thế, các hàng Thanh văn, Duyên giác không sao nghe được.
Này thiện nam! Tại sao chư Phật lại không vì các hàng này mà giảng nói khiến họ được nghe?
Này thiện nam! Ngay cả nghĩa của một chữ, các hàng Thanh văn, Duyên giác cũng không thể nào giải thích được. Họ giống như kẻ cuồng loạn, sinh ra bị mù, uống thuốc độc, như tằm trong kén, như trúng tên độc, như người bệnh ho đàm khi uống nước. Vì thế, chư Phật không giảng nói cho họ biết, Này thiện nam! Tất cả chúng sinh bị các kiết sử phiền não gây bệnh. Chư Phật Như Lai có năng lực ban cho pháp dược, dùng chú thuật mầu nhiệm nhổ mũi tên độc, trừ bệnh đau vai. Chúng sinh thật sự không biết Như Lai thường trụ bất biến. Như Lai đốt ngọn đuốc pháp trí tuệ vì muốn khiến cho chúng sinh thấy được thường, lạc, ngã, tịnh. Ví như mặt trời xuất hiện có thể khiến cho mọi chúng sinh thấy khắp được mọi tướng trạng cao thấp của mặt đất. Như Lai cũng vậy, tất cả chúng sinh không biết phương đẳng, cũng không thể đạt được Tam-muội tổng trì, không biết thời giờ của Phật, không biết tài sản của Phật, không thấy thân Phật, không hiểu tướng trạng Niết-bàn của Như Lai, không biết sự diệt cùng không diệt của Phật pháp, mà lại cho rằng: Như Lai vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh; mũi tên phiền não là thức ăn tạp độc. Thế nên, Ta diễn nói pháp thường, lạc, ngã, tịnh của chư Phật là muốn dứt trừ sự tối tăm u ám của vô minh cho những người ấy.
Này thiện nam! Các hàng Thanh văn, Duyên giác chưa từng được nghe về nghĩa lý của một chữ, nay vì muốn cho họ được nghe, ông đã nêu ra những câu hỏi ấy. Hãy lắng nghe, lắng nghe và suy nghĩ thật chín chắn, Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói.
Có kinh vương Đại Phương Đẳng cam lồ khai mở kho báu lớn chẩn cấp cho người nghèo khổ, khai phát kho công đức của chư Phật. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tánh ấy vô tận, xưa nay nó bị che lấp. Nay chư Phật Như Lai muốn hiển thị nên đã thắp ngọn đèn trí tuệ lớn soi sáng, khiến cho chúng sinh thấu hiểu rõ ràng, nhận thấy minh bạch. Này thiện nam! Ta định nói, ông liền nêu bày câu hỏi.
Trước đây ông đã phát thệ nguyện chưa?
Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng nói:
– Bạch Thế Tôn! Thật sự xưa nay con không phát nguyện này, mà đây chính là do sức thần thông, lòng đại từ bi của Đức Thế Tôn và vì muốn độ thoát chúng sinh nên con mới nêu ra câu hỏi như thế. Đó chính là do con muốn phá tan sự khốn khổ, bần cùng của chúng sinh, muốn cho chúng sinh được tâm ý vô tận. Nay Như Lai giảng nói tức có khả năng tiêu diệt mọi sự tối tăm bao trùm của vô minh cho tất cả chúng sinh, khiến họ đạt được vật báu trí tuệ, khiến thấy rõ Phật tánh, thấy được pháp thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai chăng?
Phật đáp:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Nay vì muốn giúp chúng sinh vượt qua biển sinh tử, vì muốn truyền bá rộng rãi kinh điển Phương Đẳng, vì khiến cho chánh pháp luôn thường trụ, ban phát tất cả pháp vị cam lồ, trừ dứt mọi sự khốn khổ, bần cùng cho chúng sinh nên ông đã nêu ra những câu hỏi như vầy, ý nghĩa của nó rất là sâu xa. Hãy lắng nghe, ghi nhận, Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói, khiến cho các chúng sinh đạt được sự an ổn, vui vẻ. Nay ông nên vì tất cả chúng sinh khéo giữ gìn nghĩa này.
Này thiện nam! Tất cả các Như Lai - đấng Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn - đều có thể một pháp gọi là pháp giới. Dựa vào pháp giới này, chư Phật Thế Tôn đều có thường tuệ, dùng nước thường tuệ tắm sạch bản thân, uống vị nước cam lồ và cùng đem ban bố cho tất cả muôn loài, khiến họ tu tập theo nẻo hành hóa của chư Phật. Ông nên uống vị nước cam lồ này. Khi đã uống xong, ông nên ban phát. Nay Ta sẽ nói, ông khéo lắng nghe. Những điều Ta nói thảy đều tốt đẹp, nghĩa lý chân thật, lời lẽ nhiệm mầu, âm thanh thanh tịnh, thuần chất không xen tạp, đầy đủ tướng trạng của phạm hạnh thanh bạch.
Này thiện nam! Có kinh Đại Vân là biển lớn tổng trì, là biển lớn Tam-muội, chính là pháp ấn của Như Lai, là thành pháp của chư Phật, là pháp giới hết mực thâm diệu, thường trụ bất biến, là thường, lạc, ngã, tịnh, không thể nghĩ bàn.
Này thiện nam! Nếu ai thọ trì, biên chép, đọc tụng, giảng nói, thì người ấy có khả năng phá tan phiền não cho chúng sinh, đoạn trừ mọi bần cùng, khốn khổ. Nhằm lúc đói khát, đồng ruộng tiêu điều, nước non quý hiếm v.v... nếu đọc tụng kinh này thì sẽ được mùa màng thêm tươi, đất đai trù phú. Hoặc lúc hạn hán, trời không giáng mưa, hoặc có lúc khát khao pháp thực, đọc tụng kinh này thì sẽ đạt được vị pháp cam lồ tổng trì.
Nếu ai muốn có đầy đủ đại thần thông thì nên thọ trì kinh này.
Nếu muốn tuôn trận mưa pháp thấm nhuần cây khô thì nên đọc kinh này.
Nếu có bệnh hoạn cũng nên thọ trì kinh này.
Vì sao? Vì kinh này là thần dược cho mọi thứ bệnh hoạn. Kinh này có năng lực đoạn trừ mọi độc hại, là đại Đà-la-ni, là đại Tam-muội. Kinh này là những hương thoa, hương bột, hương đốt, là hoa thanh tịnh vi diệu.
Này thiện nam! Nay ông đốt lên ngọn đèn trí tuệ, phá tan sự tối tăm, cuồng ngu cho chúng sinh, thế nhưng các chúng sinh thường nói: “Pháp vô thường, vô ngã, vô tịnh của Như Lai là pháp hoại diệt”, chúng sinh như vậy tức là uống nước độc, bị mũi tên cực độc, vết thương lở lói, cuồng say, mất tâm, bị vô minh che lấp. Hàng Thanh văn, Duyên giác giống như loài bò già yếu đuối. Vì thế, ông nên tuyên nói rộng rãi, phân biệt công đức của Như Lai, dùng dầu thật tướng làm sáng tỏ thêm ngọn đèn trí tuệ, khai phát mắt tuệ, trừ bỏ sự tối tăm của vô minh.
Nếu ai nói Như Lai thật sự sinh ra nơi vương gia Du-đầu-đàn, xuất gia học đạo, tu tập khổ hạnh, phá trừ quân ma, ngồi nơi đạo tràng thành đạo Bồđề, thì nên biết, đấy là kẻ hủy báng Phật. Thà bị chặt đầu, nhổ đứt cả lưỡi, chớ nên phát ra những lời nói hư vọng như vậy. Vì sao? Vì chẳng thể khéo giải thích được những lời nói bí mật của chư Phật Như Lai. Nếu trong kinh có chép: “Sa-môn Cùđàm”, thì nên biết đó là mật ngữ.
Này thiện nam! Nếu vì chúng sinh thị hiện thần túc thì nên biết đó là đứa con chân chánh của Phật. Này thiện nam! Ông vì đạt được quả báo lớn nên đã trao cho các hàng Thanh văn, Phật-bích-chi những thứ thuốc như thuốc khiến nôn tháo ra, thuốc làm giảm đau, thuốc xông, thuốc uống, thuốc trị các bệnh. Những thuốc ấy là gì? Đó là kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng. Ông nên biết: Kinh này tức là Chuyển luân Thánh vương trong các kinh. Vì sao? Vì trong kinh điển này có chép: “Thật tánh, Phật tánh của chúng sinh thường trụ trong tạng pháp. Chúng sinh không hiểu rõ cả đến một câu một chữ”. Nay ông nên lắng nghe, lắng nghe rồi tức đấy sẽ là tạng pháp của ông. Ông lại nên quán cảnh giới của kinh này.
Này thiện nam! Kinh này có pháp môn gồm bốn trăm thứ giải thoát không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ-tát.
Này thiện nam! Kinh này có môn Tam-muội Thần thông vương trong tạng báu của các pháp.
Này thiện nam! Kinh này có môn Đà-la-ni nơi tạng báu trong ba mươi sáu trí tuệ không thoái chuyển của chư Phật, Bồ-tát.
Này thiện nam! Kinh này lại có pháp môn gồm ba mươi ba loại phương tiện giải thoát theo đại hạnh hội nhập mọi âm thanh chúng sinh của chư Phật, Bồ-tát.
Này thiện nam! Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại thần túc đại hạnh quang vương hội nhập tạng mật hạnh của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại từ cảnh giới đạo hành nghiệp sinh tử, đạt được tâm định giải thoát theo tuệ nguyện tạng của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười trí bất diệt nhập vào tư duy theo thần thông vương của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại tạng pháp tư duy không sinh, có thể hội nhập nơi thần túc của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười trí thâm diệu hội nhập vào hạnh pháp vương vô úy của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại Đại vân thấy tạng công đức không thể nghĩ bàn nơi giáo pháp của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn nhập vào mười loại ngôn ngữ của chúng sinh, tu pháp hạnh lớn theo phương tiện không dứt bỏ giải thoát của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại thần thông hội nhập nơi sinh hành, hữu hành, hành tạng quang vương của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại Tammuội tâm trụ nơi hạnh nghiệp sinh tử phiền não giải thoát theo pháp tạng thệ nguyện của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại trí hội nhập vào thần túc vương không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại thần túc vương không sinh, không thể nghĩ bàn, thông đạt mật tạng của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười trí sâu rộng hội nhập nơi hạnh tinh tấn của chư Phật, Bồtát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười trí Đại vân tạo các pháp hòa hợp nơi thần túc vương của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn Đại vân với nhãn mục quang minh của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm đủ mười thứ ánh chớp tỏa sáng của Đại Vân hội nhập nơi hạnh của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn Đại vân xiển dương kinh Đại thừa của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn thần túc biến hiện đèn sáng của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn giảng nói mười loại mưa pháp nhập vào thần túc vương của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười trí kim cang hội nhập nơi tạng pháp của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại tánh chánh hạnh là chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát. Kinh này lại có pháp môn gồm mười hạnh vô tận hội nhập nơi thần thông vương của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại hành nghiệp vô cùng vi diệu là nẻo hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại sư tử hống là nơi chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười hạnh sinh khởi hòa hợp hội nhập nơi tâm hộ trì nghiệp thế gian của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười thần thông báu là chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười thần thông của chim cánh vàng là chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười đại thí vi diệu vương của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười đại lực thần thông vô sở úy là nẻo hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười hạnh rộng lớn như biển lớn là chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại chí tâm là nơi chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười đại lực vi diệu, dũng mãnh vương là chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại thiện hành đại thần thông vương, là chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười hai tạng thần thông được khai thị của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười trí tạng báu của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mọi hành nơi cảnh giới mười trí là chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười chánh trí vi diệu nơi tạng báu của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm hạt giống nơi mười thứ ruộng phước của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn gồm mười thứ thần thông chân thật vua của mọi sự an lạc, là chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.
Này thiện nam! Ông quán kinh này là không thể nghĩ bàn, cảnh giới của công đức cũng là không thể nghĩ bàn. Đây chính là tạng pháp không thể lường, không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ-tát.
Cũng là tạng báu vô tận, không thể nghĩ bàn của chúng sinh.
Lại nữa, này thiện nam! Cảnh giới của kinh này là không thể nghĩ bàn.
Này thiện nam! Kinh này lại có pháp môn là Tạng Đà-la-ni của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn là Như Lai tạng vi diệu bí mật của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn là Như Lai đại hải (Biển lớn của Như Lai) của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn là Như Lai thời tạng pháp (Tạng thời gian của Như Lai) của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn là Như Lai thế tạng (Tạng thế gian của Như Lai) của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn là Như Lai nhật tạng (Tạng mặt trời của Như Lai) của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn là Như Lai nguyệt tạng (Tạng mặt trăng của Như Lai) của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn là Như Lai cảnh giới (Cảnh giới của Như Lai) của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn hết mực sâu xa của chư Phật, Bồ-tát. Kinh này lại có pháp môn là Như Lai vô sở úy của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn là Như Lai dũng kiện của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn là Như Lai địa của chư Phật, Bồ-tát. Kinh này lại có pháp môn là Như Lai của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có pháp môn là A-lê-ha của chư Phật, Bồ-tát. Kinh này lại có pháp môn là Như Lai tụ của chư Phật, Bồ-tát.
Này thiện nam! Ông quán xét về đại pháp Đàla-ni của kinh này, chính là tạng phước vô tận của tất cả chúng sinh, là pháp môn Đà-la-ni, Tam-muội giải thoát không thể nghĩ bàn của chư Phật. Đây chẳng phải là cảnh giới mà các ông có thể nhận biết được. Chư Phật Thế Tôn tùy theo thế gian mà nói, nghĩa lý hết mực sâu xa, khó có thể thấu đạt, chỉ có Như Lai mới thấy biết được. Từ xưa tới nay, đối với những việc như vầy, ông chưa từng được nghe, thậm chí đến cả một câu, một chữ. Vì thế, hôm nay Ta sẽ giảng nói về cảnh giới vô cùng sâu xa này của Như Lai. Ông phải chí tâm lắng nghe, ghi nhận.
Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Thật đúng như lời của bậc Thánh dạy. Bạch Thế Tôn! Con khác nào loài nhặng, loài kiến, thường bị vô minh bao phủ tối tăm. Cúi xin Như Lai mở lòng thương xót, hãy vì khắp tất cả chúng sinh mà giảng nói rõ về một câu, thậm chí một chữ. Như Lai là đấng Pháp vương không thể nghĩ bàn.
Bạch Thế Tôn! Các hàng Thanh văn, Duyên giác giống như loại bò già mù, điếc, câm, ngọng, khác nào như đứa trẻ nhỏ. Con cũng như vậy, xưa nay con thật chưa từng nghe được một câu, thậm chí đến chỉ một chữ. Cúi mong Như Lai hãy vì chúng sinh mà mở rộng lòng thương lớn. Mọi cảnh giới hiện có của chư Phật Như Lai là không thể nghĩ bàn, thường trụ không đổi, thông đạt các pháp. Cúi xin Như Lai hãy vì chúng con cùng các chúng sinh mà giảng nói rõ về tạng bí mật ấy, thậm chí chỉ cần nghĩa lý của một câu hay một chữ, khiến cho chúng con cùng các chúng sinh thấy biết được sự thường hằng bất biến của Như Lai.
Phật nói:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Hôm nay ông đã khéo lãnh hội những lời bí mật hiện có của chư Phật. Thiện nam! Kinh Phương Đẳng này là không thể nghĩ bàn. Những thệ nguyện của ông cũng là không thể nghĩ bàn. Pháp Đà-la-ni của chư Phật Như Lai là không thể nghĩ bàn. Cảnh giới của kinh này cũng là không thể nghĩ bàn. Ánh sáng của trí thâm diệu cũng không thể nghĩ bàn.
Thiện nam! Theo như ông nói: “Đối với kinh này, mình giống như hạng bò già, đứa trẻ mù, điếc, câm, ngọng, không thể nào hiểu rõ. Thiện nam, ông chớ nên sinh lòng hồ nghi, sầu muộn.
Thiện nam! Trong mọi trường hợp, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc nằm, hoặc ngồi, ông thường phải luôn nhớ nghĩ tới kinh điển này. Hoặc giả gặp các nạn: nước, lửa, trộm cướp... cũng nên kiên trí cẩn thận, chớ buông bỏ. Vì sao? Vì trong kinh điển này có năm văn tự, nghĩa lý rất sâu xa:
-Như Lai. -Thường. - Lạc. -Ngã. -Tịnh.
Đây được gọi là công đức vô thượng của Như Lai không thể nghĩ bàn.
Lại nữa, này thiện nam! Giả sử trong lửa dữ bùng cháy khắp Hằng hà sa thế giới trong mười phương, có người nhớ nghĩ tới kinh này, thì lửa dữ không thể thiêu đốt họ, vậy nên luôn cúng dường, tôn trọng Tam bảo, đừng khiến tâm quên mất. Nay ông có được mọi công đức vi diệu, đó là do ông đã từng tán thán chư Phật, đã hay hỏi về chỗ chưa từng nghe nơi nghĩa lý sâu xa của một câu, một chữ. Không bao lâu, các ông cũng sẽ đạt được sự thấy biết về diệu nghĩa ấy.
Nếu muốn biết sự thường hằng bất biến của Như Lai, ông phải nên thọ trì kinh này, đọc tụng biên chép, giảng nói nghĩa kinh. Vì sao? Vì những điều được nói trong kinh ấy là không thể nghĩ bàn. Như Lai thường hằng, không có biến đổi, trọn không rốt ráo nhập vào Niết-bàn. Ông nên trình bày giảng nói về thường, lạc, ngã, tịnh cho khắp tất cả chúng sinh. Chư Phật Như Lai không có vị nào rốt ráo nhập vào Niết-bàn. Pháp bảo, Tăng bảo thường trụ cũng không diệt tận.
Khi ấy, Tỳ Lam Đại Tỳ Lam Phong Vương - người được thọ hưởng quả báo vui sướng giống như cõi trời - phóng ra cơn gió mát suốt thời không đổi, khiến cho hoa quả thường có, không lúc nào tạm ngừng. Rồi ông đem đầy đủ những đồ cúng dường đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng và lui ra ngồi một bên.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng sức thần thông cho nổi lên bốn đám mây đen, nước ngọt tuôn khắp, phát lên ba thứ sấm, nghĩa là cả tầng trên, tầng giữa, tầng dưới đều phát ra âm thanh cam lồ giống như kỹ nhạc ở cõi trời, tất cả chúng sinh đều vui thích nghe.
Lúc đó, Đức Thế Tôn liền nói chú:
– Kiệt đế, ba ly kiệt đế, tăng kiệt đế, ba la tăng kiệt đế, ba la ty la diên để, tam ba la ty la diên để, bà la bà la, ba ta la, ba bà la, ma văn xà, ma văn xà, giá la đế, giá la để, ba giá la để, tam ba la giá la để tỳ đề hy ly hy lê, tát lệ ê, tất lệ ê, phú lô phú lô sa ha.
Nếu có các vị rồng nào nghe thần chú này mà không cho mưa ngọt xuống, đầu sẽ bị vỡ ra làm bảy mảnh.
Cùng lúc mười vạn ức na-do-tha a-tăng-kỳ thế giới chư Phật đều chấn động đủ sáu cách. Bấy giờ, nhân nơi đại địa chấn động các chúng sinh khắp chốn mỗi mỗi đều thấy nhau, lần lượt cùng nhau giao động, cho đến cõi trời Tịnh Cư. Trời Tịnh Cư động rồi thì Long vân đều động. Khi Long vân động thì mưa xuống cơn mưa lớn, chín vạn tám ngàn dòng sông lớn hiện có trong cõi Diêm-phùđề đều chứa đầy bảy báu. Tất cả ao, suối có đủ các vị thượng dược. Mặc dù mưa suốt bảy ngày nhưng không làm thương tổn ai. Chúng sinh vui sướng như được uống cam lồ. Các con sông chứa đầy nước tám công đức, đó là: ngon, lạnh, nhẹ, mềm, trong sạch, thơm tho, khi uống lan khắp cơ thể, uống rồi không bệnh. Những loại trùng trong nước đều phát ra âm thanh vi diệu.
Tại núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vương-xá, bảy báu trải kín khắp mặt đất, từ nơi không trung lại mưa xuống bảy báu, kết thành những loại hoa: hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lợi. Những loài thủy tộc đều phát tâm cầu đạt đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Những chúng sinh thuộc hàng súc sinh thì ham thích Đại thừa, khao khát Đại thừa, lòng từ hướng nhau, xem nhau như một, đều cùng phát tâm cúng dường Đức Phật. Lúc đó, đại chúng và các chúng trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, đem đầy đủ những đồ cúng dường như: hoa, hương, kỹ nhạc v.v... cúng dường Đức Phật. Từ không trung lại mưa xuống các loại hương, hoa, y báu, kỹ nhạc, cờ phướn v.v... cúng dường Đức Thế Tôn.
Thiện nam! Kinh này chính là chỗ thành tựu của vô lượng công đức, thế nên, có khả năng hiện bày những điềm như vậy.
Bấy giờ, cả đại chúng cùng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Hôm nay con mới biết được thường, lạc, ngã, tịnh của chư Phật Như Lai. Cúi xin Như Lai hãy từ bi thương xót nhận y Ưu-đa-latăng của chúng con dâng cúng. Sau đó toàn thể đại chúng dùng kệ tán thán:
Như Lai chân thật thường
Thành từ vô lượng đức
Nay con vì thường lạc
Nên cúi đầu đảnh lễ.
Chư Phật bỏ vô thường
Mới đạt thân vô biên
Thiên Trung Thiên vô thượng
Đại lực khó nghĩ bàn.
Như Lai thường không đổi
Dốc tiến thân vô biên
Vì chúng mưa pháp vũ
Giống như Đại Vân vương.
Phật tự đạt an lạc
Vì chúng nói an lạc
Tự đạt các công đức
Khuyên bảo đại chúng theo.
Như Lai, tuệ vô thắng
Thường trụ như hư không
Vì chúng làm ruộng phước
Thường hành hạnh bậc Thánh.
Thương xót các chúng sinh
Biết được nghiệp của họ
Mở bày tạng bí mật
Mát mẻ như trăng non.
Nay nói kinh Đại Vân
Đoan nghiêm như trăng tròn
Định biết vô lượng chúng
Phát khởi tâm Bồ-đề.
Thế Tôn bậc Pháp vương
Đối pháp, đạt tự tại
Nên mệnh danh chân ngã
Thành tựu lạc vô thượng.
Như Lai lên tòa báu
Cất tiếng sư tử gầm
Tuyên nói các chúng sinh
Tất cả có Phật tánh.
Ví như trong núi Hương
Thường sinh cỏ nhẫn nhục
Như Lai với sức thần
Khiến cho khắp cả chúng.
Thấy núi Thứu-đầu này
Đều do bảy báu thành
Bấy giờ, trong chúng hội
Thấy rồi rất vui thích.
Giống như Tứ Thiên vương
Ưa trụ núi Tu-di
Như Lai đại phước điền
Thần lực không thể lường.
Phá trừ chúng sinh kiết
Phiền não, mọi u ám
Tất cả các chúng sinh
Không thoái tâm Bồ-đề.
Giống như chư Thế Tôn
An lạc không lay động
Chúng sinh đoạn nghiệp ác
Thành tựu giới thiện diệu.
Tu hành hạnh Bồ-đề
Quyết định thấy Phật tánh
Nếu được nghe kinh này
Chỉ đến nghĩa một chữ.
Tức đắc đạo Bồ-đề
Tùy thuận hành phạm hạnh
Cúi mong đấng Vô thượng
Diễn nói cho một câu.
Khiến khắp tất cả chúng
Đều được hiểu nghĩa lý
Các chúng sinh chúng con
Chậm lụt, không trí tuệ.
Như Lai hãy thương xót
Khai mở, khiến được hiểu
Tất cả các chúng sinh
Nghèo thiếu đói pháp thực.
Cúi mong đại từ bi
Ban bố khiến đủ đầy khắp
Chúng con được nhận rồi
Lại sẽ chuyển cho người.
Cũng khiến tất cả chúng
Thảy đều được đầy đủ
Tất cả các chúng sinh
Nghèo nàn không phước đức.
Không thường, không có ngã
Cũng không chỗ quy y
Như Lai đã thành tựu
Đại công đức vô thượng.
Cúi mong đấng đại từ
Ban con cùng tất cả
Như Lai là Pháp vương
Như biển, vua các sông.
Chúng sinh không biết dựa
Nay con được nương tựa
Vì chúng làm nương tựa
Giống như cha mẹ lành
Ban chúng vị cam lồ
Khiến khắp dứt phiền não.
Thế Tôn Như Lai Chánh Giác không thể nghĩ bàn, sự thương xót chúng sinh cũng không thể nghĩ bàn, nhưng lời nói bí mật khó thể lường tính.
Chư Phật Thế Tôn là Tam-muội vương, là đại thuyền sư vương, không thể xưng kể, không thể tính lường.
Cảnh giới như vậy chẳng phải là nơi mà các hàng Thanh văn, Duyên giác biết được.
Như Lai là đấng Nguyệt vương, thường không có sự tăng giảm, là tướng đại mãnh của các công đức, là nơi tích tụ vô lượng phước báo chân thật, là Nhật vương vô thượng đại quang minh, xem các chúng sinh ngang đồng La-hầu-la, sức mạnh đạt được đều đem ban bố cho tất cả. Tự mình không còn sự sợ hãi, lại khiến cho chúng sinh cũng đạt được vô sở úy. Tự bản thân phá tan vô minh, lại trừ bỏ cho chúng sinh sự tối tăm, u ám của vô minh. Bạch Thế Tôn! Con bị vô minh ngăn chận nên cũng không biết, không biết được thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai. Tất cả chúng sinh bị vô minh che lấp nên vọng cho Như Lai là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Vì thế họ mới chịu sự trôi lăn trong ba nẻo ác. Nếu ai cho Như Lai diệt độ hoàn toàn nơi Niết-bàn, nên biết kẻ ấy ắt phải đọa vào địa ngục.
Bạch Thế Tôn! Hôm nay con mới biết được chư Phật Như Lai không rốt ráo diệt độ. Biết được vậy, con đạt được vật báu lớn vô thượng. Dựa vào Phật lực, con lại biết được bản tánh thật sự của chư Phật, lại được uống pháp cam lồ vô thượng, dứt hẳn tất cả mọi ràng buộc của phiền não. Những người xưa nay bị cuồng điếc, câm, ngọng, ngày nay thảy đều được chữa lành.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng nói:
– Bạch Thế Tôn! Sự giác ngộ chân chánh của Như Lai là không thể nghĩ bàn. Nay Thế Tôn nói kinh này khiến cho vô lượng chúng sinh phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Cảnh giới của kinh này là không thể nghĩ bàn, chính vì tất cả vô lượng chúng sinh mà hiện đại thần thông, mưa các vị báu. Chúng sinh nào được nghe tất được gặp mưa pháp cam lồ vô thượng. Thế nên Như Lai là không thể nghĩ bàn, cảnh giới của kinh này cũng không thể nghĩ bàn. Tất cả chúng sinh thành tựu đại công đức mới gặp được. Nghiệp báo của chúng sinh là không thể nghĩ bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngày nay chúng sinh được sự an lạc giống như cái vui ở bậc thiền thứ ba, hình mạo quý lạ như cõi trời không khác. Hôm nay, Như Lai nói tạng kinh này tức là nói đến tạng vô tận của chúng sinh, tuôn mưa đại pháp, đó là pháp tổng trì Tam-muội, thường trụ bất biến của Như Lai.
Nói “Vân” tức là nói các vị Đại Bồ-tát.
Nói “sấm rền vang” tức là nói phá tan mọi hành động tạo sự ràng buộc của phiền não.
“Ánh chớp lóe sáng” nghĩa là nói các chúng sinh đều có Phật tánh.
“Âm thanh” tức nói các Bồ-tát vì chúng sinh mà giảng nói pháp hữu vi, pháp vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh.
“Mưa đá” tức là tám phần Thánh đạo có khả năng phá hủy tất cả mọi ràng buộc của phiền não.
“Lại nói có mưa đá” nghĩa là kinh này có năng lực phá hủy tâm của hàng Thanh văn, Phật-bíchchi. Đó tức gọi là tuôn đại mưa pháp, làm cho những chúng sinh đói khát, túng thiếu được no đủ, nghĩa là Như Lai thường trụ không đổi, ấy gọi là mưa cam lồ.
Phật nói:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Hôm nay ông đã khéo giảng nói về mưa pháp như vậy. Thiện nam! Nếu các Bồ-tát nào muốn mưa pháp làm thấm nhuần đem lại lợi ích cho chúng sinh thì nên thọ trì kinh này, tu hành, đọc tụng, biên chép, cúng dường, giảng nói nghĩa kinh.
Này thiện nam! Hãy lắng nghe, lắng nghe và ghi nhớ. Trong kinh điển không thể nghĩ bàn này có trụ giải thoát nhập bảo tạng. Thần túc pháp vương cùng bốn trăm Tam-muội. Nay Ta sẽ giảng nói.
Này thiện nam! Kinh này lại có Tam-muội Thâm mãnh đại hải nhãn mục của chư Phật, Bồtát. Nếu Bồ-tát nào thành tựu đầy đủ Tam-muội này thì đạt được đầy đủ đa văn đại hại, đa văn tạng báu của Bồ-tát, tâm không còn sự hồ nghi đối với đạo quả Bồ-đề Vô thượng.
Nói “vô ngại” tức nói thân không bị ngăn ngại, có thể sinh khắp các thế giới tịnh diệu của chư Phật.
Lại nói “vô ngại” tức đạt Túc mạng trí, ví các chúng sinh xoay chuyển năm hữu.
Lại, “vô ngại” tức không tham chấp nơi nghiệp nhưng lại đạt được quả báo.
Nói “vô ngại” nghĩa là hễ một lần thấy Phật, tâm sinh hoan hỷ, thì vào đời sau đạt được thân đoan nghiêm, thân được mọi người yêu mến, thân không tham, thân không ác, thân lớn, thân thượng tộc, thân đại phú, thân quyến thuộc không hoại, thân không bị phá hoại, thân không thoái, thân không diệt.
Những hạnh nguyện tu tập, niệm vui tạo nghiệp, đều hướng đến đạo quả Bồ-đề Vô thượng, thành tựu được sự hổ thẹn phá tan mọi kiêu mạn, chăm tu tinh tấn, từ - bi - hỷ - xả, đem không - vô tướng - vô nguyện huân nhập nơi tâm.
Lại nữa, “vô ngại” tức là nguyện sinh cõi khác, liền được vãng sinh. Mọi tà thuyết dị kiến đều không thể hủy hoại được. Những gì mà người này muốn nói về cú nghĩa vô tận, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn cũng không thể mê hoặc làm rối loạn, khiến tâm họ dao động.
Tuy đọc ngoại điển nhưng tâm không tham vướng, không ham muốn thân của hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già. Lại không tham vướng những thứ như: phòng xá, ngọa cụ, y phục, ẩm thực. Thiên ma Ba-tuần không sao xen tay hại được. Những pháp thiện họ thực hành trọn không quên mất.
Phàm những lời người này giảng nói đều được mọi người kính thọ. Tâm họ thoáng đạt giống như đại hải. Trí tuệ của họ cũng như thế, viên mãn trọn đủ giống như trăng tròn, như mặt trời, ngọn đuốc có khả năng phá tan sự u ám, tối tăm, như tánh của hư không không thể nào nắm bắt được, không đắm chấp nơi thế gian, như hoa ở dưới nước. Đối với tất cả hữu, tâm không tham vướng, có khả năng hủy hoại pháp giới, giống như kim cương, giữ cõi các pháp giống như núi Tu-di, bản tánh thanh tịnh giống như ngọc báu lưu ly, đạt được giới của Như Lai tâm niệm nơi tuệ luôn sáng tỏ, tánh lực như huyễn hóa, không động không trụ.
Này thiện nam! Kinh này lại có Tam-muội Tràng báu giải thoát thâm diệu bậc nhất. Nếu Bồtát nào có đầy đủ Tam-muội ấy thì được mệnh danh là bậc đa văn đại hải, đa văn tạng báu, tâm không nghi ngại, cho đến huyễn hóa cũng không động, không trụ.
Này thiện nam! Kinh này lại có Tam-muội Pháp môn tịnh trí hết sức thâm diệu. Nếu Bồ-tát nào có đầy đủ Tam-muội này thì được mệnh danh là bậc đa văn đại hải, đa văn tạng báu, tâm không nghi ngại, cho đến huyễn hóa cũng không động, không trụ.
Này thiện nam! Kinh này lại có: Tam-muội
Phật căn hương tượng vương giải thoát. Tam-muội
Thủ lăng nghiêm. Tam-muội Dũng lực. Tam-muội Dũng thắng. Tam-muội Kiền dũng. Tam-muội Hảo hương. Tam-muội Chánh quang. Tam-muội Vô ngã quang. Tam-muội Thậm thâm hạnh tạng. Tammuội Hành thâm giải thoát. Tam-muội Hành lực giải thoát. Tam-muội Nhất thiết pháp hạnh. Tammuội Hằng hà sa đẳng hạnh. Tam-muội Nhất thiết giải thoát. Tam-muội Nhất thiết Tam muội vương. Tam-muội Chánh thượng. Tam-muội Đại hải triều. Tam-muội Bản giải thoát. Tam-muội Hoại ma ức chúng. Tam-muội Trụ giới điện quang. Tam-muội Hỏa quang. Tam-muội Vô tận ý vương. Tam-muội Vô tận ý. Tam-muội Hải vương thần túc. Tammuội Đại cao ý. Tam-muội Chủng tử. Tam-muội Trụ đại hải. Tam-muội Vô ngại. Tam-muội Vô ngại giới. Tam-muội Cao giải thoát. Tam-muội Nhân duyên ý. Tam-muội Nghiệp tác. Tam-muội Kiền hành vương. Tam-muội Đại lực. Tam-muội Thậm thâm lưu ly vương. Tam-muội Tu-di sơn. Tam-muội Sư tử hống. Tam-muội Cam lồ vị. Tammuội Trang nghiêm. Tam-muội Hỏa quang. Tammuội Liên hoa quang. Tam-muội Quốc thổ hỷ.
Tam-muội Nhất thiết thân. Tam-muội Động đại hải vương. Tam-muội Động đại địa vương. Tam-muội Nhất thiết Tam muội mẫu. Tam-muội Hoại nhất thiết nữ thân. Tam-muội Sư tử hạnh vương. Tammuội Viên vương. Tam-muội Tế hạnh. Tam-muội Cổ thanh vi diệu. Tam-muội Đoạn hữu. Tam-muội Lưu. Tam-muội Quảng tuệ. Tam-muội Biến hóa. Tam-muội Quang minh. Tam-muội Hoại ám. Tammuội Đại hải trí tuệ. Tam-muội Tán thán. Tammuội Đại tán thán. Tam-muội Thời. Tam-muội Đại thời. Tam-muội Hiện tại giải thoát. Tam-muội Hợp tán. Tam-muội Phân-đà-lợi hoa. Tam-muội Khinh. Tam-muội Đại lạc. Tam-muội Hư không. Tammuội Giải thoát thân. Tam-muội Đoạn ngữ. Tammuội Đoạn thanh. Tam-muội Vô ái. Tam-muội Vô thắng. Tam-muội Nhất thiết. Tam-muội Man. Tam-muội Long vương. Tam-muội Phong. Tammuội Phong hành vương. Tam-muội Vô biên. Tam-muội Vô sắc. Tam-muội Vô biên sắc. Tammuội Pháp ý. Tam-muội Vi diệu hương. Tam-muội Thân ý. Tam-muội Thủ lăng nghiêm. Tam-muội Hoại ác. Tam-muội Liên hoa ý. Tam-muội Đại lực xí. Tam-muội Hoại vô minh. Tam-muội Bồ đề thọ. Tam-muội Bảo mạng mạng. Tam-muội Đại lực mạng. Tam-muội Nhật quang. Tam-muội Nguyệt quang. Tam-muội Đại hải môn. Tam-muội Nhất thiết pháp giới. Tam-muội Kiết sử căn. Tam-muội Giới vũ. Tam-muội Giới vân. Tam-muội Am-la quả. Tam-muội Am-la hoa. Tam-muội Tịnh. Tammuội Thủy. Tam-muội Loa. Tam-muội Thời. Tammuội Thời vương. Tam-muội Chúng. Tam-muội Vô thân. Tam-muội Giới. Tam-muội Thiện giới. Tam-muội Địa. Tam-muội Địa thần túc. Tam-muội Thủy đẳng. Tam-muội Thanh liên hoa. Tam-muội Cam lồ vị. Tam-muội Vô hệ. Tam-muội Uyên ương. Tam-muội Xa luân. Tam-muội Chuyển luân Thánh vương. Tam-muội Bất động. Tam-muội Bất khinh. Tam-muội Bất trường. Tam-muội Lân mẫn. Tam-muội Tịnh ý. Tam-muội Nhất thiết công đức ý. Tam-muội Y-la-bát-la. Tam-muội Vô nghĩa giải thoát. Tam-muội Phong thần túc vương. Tammuội Vô lượng tràng. Tam-muội Hư không giới. Tam-muội Vô tuệ tinh. Tam-muội Quang bảo. Tam-muội Bạc thời. Tam-muội Đồng tử. Tammuội Vương tử. Tam-muội Đoạn độc. Tam-muội Pháp đăng. Tam-muội Quốc thổ vượng. Tam-muội Thí thế giới. Tam-muội Pháp quý đức. Tam-muội Pháp lực. Tam-muội Thượng hoa. Tam-muội Hỷ. Tam-muội Đại hỷ. Tam-muội Tri đại lực. Tammuội Tấn-đầu-ca quả. Tam-muội Tinh tấn. Tammuội Xưng. Tam-muội Bạch nga vương. Tammuội Thân quang. Tam-muội Vô tận lực. Tammuội Vô tận lực giải thoát. Tam-muội Tăng trưởng danh. Tam-muội Đoan chánh. Tam-muội Năng phá hoại. Tam-muội Ma-lâu-ca hoa. Tam-muội Thiện hạnh vương. Tam-muội Thiện quang. Tammuội Bảo địa. Tam-muội Bạch. Tam-muội Bạch chủng. Tam-muội Tịnh hạnh ý. Tam-muội Ái quang minh. Tam-muội Hư không tâm. Tam-muội Thiên quan. Tam-muội Chuyển luân Thánh vương quan. Tam-muội Niệm Bồ tát. Tam-muội Hộ ý. Tam-muội Hộ thậm thâm. Tam-muội Lực thừa. Tam-muội Lực thừa quang. Tam-muội Lực sĩ. Tam-muội Lực sĩ tinh tấn. Tam-muội Diêm phù quốc. Tam-muội Thố ngư. Tam-muội Mãng xà. Tam-muội Cảnh giới vương. Tam-muội Tịnh cảnh giới. Tam-muội Sử tâm. Tam-muội Triêu thanh. Tam-muội Hữu đức ý. Tam-muội Đại thanh. Tammuội Đại hải sắc. Tam-muội Đại an. Tam-muội Huyên. Tam-muội Vô huyên. Tam-muội Kim cương ý. Tam-muội Thế Tôn mục. Tam-muội Tudi sơn vương. Tam-muội Tuyết sơn vương. Tammuội Thế Tôn hiện hạnh. Tam-muội Thắng. Tammuội Liên hoa. Tam-muội Câu-vật-đầu hoa. Tammuội Nguyệt tạng. Tam-muội Hoa phu. Tam-muội Địa man. Tam-muội Hiện tại niệm Thế Tôn vương. Tam-muội Thắng trụ. Tam-muội Thiện trụ. Tammuội Thiện hạnh. Tam-muội Đại hải. Tam-muội Nhất thiết nhập bình đẳng. Tam-muội Nhập nhất thiết nghi. Tam-muội Đại dược. Tam-muội Đại dược lực. Tam-muội Cam lồ dược vương. Tammuội Đại dược vương. Tam-muội Đại lãnh. Tammuội Đại hải. Tam-muội Đại lãnh vương. Tammuội Vô lãnh vô nhiệt. Tam-muội An. Tam-muội An lực. Tam-muội Nhất thừa. Tam-muội Thích tuệ tinh. Tam-muội Hữu đức. Tam-muội Bảo viên vương. Tam-muội Vô định sắc. Tam-muội Định hoa. Tam-muội Lục nhập chân tịnh. Tam-muội Đại giới. Tam-muội Năng hoại dục giới. Tam-muội Anh lạc. Tam-muội Kim sắc. Tam-muội Trí ái. Tam-muội Trí viên vương. Tam-muội Trí tử. Tammuội Phân-đà-lợi hoa. Tam-muội Nhật quang vương. Tam-muội Nguyệt ái. Tam-muội Quang vương. Tam-muội Quang viên vương. Tam-muội Tịnh quang vương. Tam-muội Quang tạng. Tammuội Thanh quang. Tam-muội Thời quang. Tammuội Đoạn ám. Tam-muội Quang triêu. Tam-muội Tiễn quang. Tam-muội Nhất thiết thiện căn. Tammuội Bà-la-na hương tượng vương. Tam-muội Vị sinh ác vương. Tam-muội Điều nhu. Tam-muội Năng hoại kiêu mạn. Tam-muội Diệu đức. Tammuội Diệu thanh. Tam-muội Tham vị. Tam-muội Viện địa vương. Tam-muội Thần thông vương. Tam-muội Thần thông căn. Tam-muội Chuyển luân Thánh vương phan. Tam-muội Chuyển luân Thánh vương tràng. Tam-muội Sư tử đầu. Tammuội Nhật thần thông. Tam-muội Pháp hộ. Tammuội Quảng. Tam-muội Tri nghiệp thần thông vương. Tam-muội Cao. Tam-muội Vô thượng. Tam-muội đăng vương. Tam-muội Xá trạch. Tammuội Đa hỷ. Tam-muội Sơ địa. Tam-muội Giới địa. Tam-muội Đại hải hỷ vương. Tam-muội Đại hải từ vương. Tam-muội Đại hải bi vương. Tammuội Đại hải xả vương. Tam-muội Nhẫn nhục vương. Tam-muội Nhẫn nhục lực giới vương. Tam-muội Thần thông chí tâm. Tam-muội Bát giải thoát môn. Tam-muội Pháp giới tất cánh. Tammuội Vô giới. Tam-muội Vô tánh. Tam-muội Đại điền chủng tử. Tam-muội Trí từ. Tam-muội Hải. Tam-muội Hải lực. Tam-muội Phật nhãn. Tammuội Phật môn. Tam-muội Trí hạnh. Tam-muội Phật diện. Tam-muội Nhất thiết thân. Tam-muội Nhất thiết phước đức vương. Tam-muội Hư không tạng. Tam-muội Hư không huyễn. Tam-muội Phật huyễn. Tam-muội Ác tánh. Tam-muội Trị độc. Tam-muội Miên. Tam-muội Giác. Tam-muội Mộng. Tam-muội Đắc. Tam-muội Thần thông vương. Tam-muội Vô ngã thần thông. Tam-muội Thắng kiến. Tam-muội Thắng hỷ. Tam-muội Tùy thế. Tam-muội Phật diện trụ. Tam-muội Chánh kiến. Tam-muội Nhất thiết vi trần. Tam-muội Ngữ vô ngại. Tam-muội Tịnh. Tam-muội Thân quang. Tam-muội Thân đăng. Tam-muội Bất si. Tammuội Bất cuồng. Tam-muội Nhất thiết thắng quang. Tam-muội Thủy ý. Tam-muội Phiêu. Tammuội Thủy mạt. Tam-muội Vô thắng. Tam-muội Vô thắng trí. Tam-muội Vô thắng thân. Tam-muội Tinh tấn. Tam-muội Hằng hà sa đẳng thắng vương. Tam-muội Tri kiến viên quang vương. Tam-muội Đoạn súc sinh. Tam-muội Nguyện sinh súc sinh hữu. Tam-muội Súc sinh thần thông. Tam-muội Lạc súc sinh. Tam-muội Bất nhiễm súc sinh nghiệp. Tam-muội Nhập địa ngục. Tam-muội Bất nhiễm địa ngục nghiệp. Tam-muội Bất nhiễm địa ngục nghiệp hành thần thông vương. Tam-muội An lạc hạnh thể. Tam-muội Hữu đức hà. Tammuội Hữu đức hải. Tam-muội Tịnh hà. Tam-muội Tịnh hạnh công đức. Tam-muội Phước đức. Tammuội Phước đức thanh. Tam-muội Tịnh phước đức văn. Tam-muội Hữu đức mộng. Tam-muội Tán thán. Tam-muội Hữu đức mộng đắc. Tam-muội Hữu đức mộng hạnh. Tam-muội Chánh hữu đức. Tam-muội Tịnh tăng trưởng. Tam-muội Trí vũ. Tam-muội Phong đồng hành. Tam-muội Cát. Tammuội Cát trang nghiêm. Tam-muội Cát thần thông. Tam-muội Cát thần thông vương. Tam-muội Vô giới. Tam-muội Tạp sắc. Tam-muội Thọ giới. Tam-muội Tán giới. Tam-muội Giới thật. Tammuội Trí đăng. Tam-muội Đắc giới thật. Tammuội Thường giới. Tam-muội Thường giới nhập tạng kiến. Tam-muội Tâm. Tam-muội Tâm vương. Tam-muội Thường giới hỷ. Tam-muội Thường lạc giới. Tam-muội Giới anh lạc. Tam-muội Giới thiên quan. Tam-muội Giới cụ túc. Tam-muội Giới man. Tam-muội Giới hương. Tam-muội Giới hoa. Tammuội Giới đồ mạt hương. Tam-muội Giới thần thông vương. Tam-muội Nhất thiết vị. Tam-muội
Nhất thiết hoa. Tam-muội Nhất thiết hương túy.
Tam-muội Đoạn nhất thiết hư không. Tam-muội Thọ an lạc. Tam-muội Đoạn nhất thiết thế pháp vương. Tam-muội Thường. Tam-muội Hằng. Tam-muội Bất biến. Tam-muội Địa. Tam-muội Vô thích địa. Tam-muội Vô thạch sa. Tam-muội Địa đẳng. Tam-muội Đại vân lưu ly vương. Tam-muội Thanh cổ. Tam-muội Đại vân điện. Tam-muội Đại vân bộc thủy. Tam-muội Đại vân thủy tạng. Tammuội Đại vân thủy man. Tam-muội Đại vân an thủy. Tam-muội Đại vân thủy ngưng. Tam-muội Đại vân trí hải. Tam-muội Đại vân thắng lực. Tammuội Đại vân thủy quang trì vương. Tam-muội Đại vân thủy triều hải. Tam-muội Đại vân hải chủng. Tam-muội Đại vân bất động thủy. Tam-muội Đại vân thủy bất động thần thông vương. Tam-muội Đại vân đoan chánh vương. Tam-muội Đại vân nhất vị. Tam-muội Đại vân nhất thừa. Tam-muội Đại vân an thủy lưu. Tam-muội Đại vân đa thủy lưu. Tam-muội Đại vân lãnh thủy. Tam-muội Đại vân bất lãnh bất nhiệt thần thông vương. Tammuội Đại vân nguyệt vương. Tam-muội Đại vân hữu đức. Tam-muội Đại vân sơ lực. Tam-muội Đại vân khát. Tam-muội Đại vân lạc. Tam-muội Đại vân thủy hành vương. Tam-muội Đại vân hư không hành. Tam-muội Đại vân thủy bảo. Tammuội Đại vân hỷ. Tam-muội Đại vân bảo chủng.
Tam-muội Đại vân hộ. Tam-muội Đại vân thủy tịnh vương. Tam-muội Đại vân thủy quy y ấn.
Tam-muội Đại vân pháp ấn. Tam-muội Đại vân thủy tịnh quang. Tam-muội Đại vân đại thủy tạng vương. Tam-muội Đại vân thủy định. Tam-muội Đại vân liên hoa. Tam-muội Đại vân thủy giới. Tam-muội Đại vân thủy đẳng. Tam-muội Đại vân dạ hành. Tam-muội Đại vân thủy thanh. Tam-muội Đại vân hải vô tận ý. Tam-muội Đại vân phóng quang. Tam-muội Đại vân tạng. Tam-muội Đại vân thủy tụ. Tam-muội Đại vân thủy trụ. Tammuội Đại vân sư tử vương. Tam-muội Đại vân lạc. Tam-muội Đại vân tịnh. Tam-muội Đại vân tham. Tam-muội Đại vân tràng. Tam-muội Đại vân thậm thâm. Tam-muội Đại vân lôi. Tam-muội Đại vân tăng trưởng thủy. Tam-muội Đại vân dược vương. Tam-muội Đại vân túy vị. Tam-muội Đại vân sư tử hạnh. Tam-muội Đại vân đại hương tượng vương. Tam-muội Đại vân an lạc. Tam-muội Đại vân phong. Tam-muội Đại vân thủy hành bất động. Tam-muội Đại vân vô úy. Tam-muội Đại vân thủy thuận. Tam-muội Đại vân vô tận ý. Tam-muội Đại vân lậu nan sổ. Tam-muội Đại vân lôi đại lực. Tam-muội Đại vân thủy hỷ. Tam-muội Đại vân hải thủy viên. Tam-muội Đại vân thủy phan. Tammuội Đại vân cam lồ vũ. Tam-muội Đại vân chiên đàn lương. Tam-muội Đại vân cát. Tam-muội Đại vân tất cánh. Tam-muội Đại vân vô chung thỉ. Tam-muội Đại vân la võng. Tam-muội Đại vân bảo vũ. Tam-muội Đại vân bí mật. Tam-muội Đại vân tuệ tinh. Tam-muội Đại vân ý mật. Tam-muội Đại vân đại động. Tam-muội Đại vân diệt. Tammuội Đại vân vi diệu âm. Tam-muội Đại vân hằng hà sa đẳng. Tam-muội Đại vân thủy kiện. Tammuội Đại vân nga vương. Tam-muội Đại vân thủy hành. Tam-muội Đại vân mạng. Tam-muội Đại vân cuồng vương. Tam-muội Đại vân cuống. Tammuội Đại vân Thủ lăng nghiêm. Tam-muội Đại vân mã vương. Tam-muội Đại vân phách thọ. Tam-muội Đại vân vô tận vân. Tam-muội Đại vân nhất thiết đẳng đại. Tam-muội Đại vân nhất thiết vũ. Tam-muội Đại vân nhất thiết hòa hợp. Tammuội Đại vân Am la thọ quả. Tam-muội Đại vân sơn phụ. Tam-muội Đại vân kiên tiên. Tam-muội Đại vân mật hạnh. Tam-muội Đại vân mật thật. Tam-muội Đại vân nga vương hạnh. Tam-muội Đại vân bất khả tư nghì. Tam-muội Đại vân nhập trụ thần thông vương.
Này thiện nam! Nếu Bồ-tát nào có đầy đủ các loại Tam-muội như thế thì đạt được đa văn đại hải, đa văn bảo tạng của Bồ-tát. Đối với đạo quả Bồ-đề Vô thượng, tâm không còn nghi ngại, trọn không còn bị đọa nơi ba cõi ác, không sinh nơi biên địa, đạt được trí túc mạng, tạo nghiệp sinh tử, vui với sinh tử, thường được gặp Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng; thậm chí ngay trong mộng cũng không lìa bỏ, được thân đoan nghiêm, thân được mọi người yêu mến, thân không tham, thân không ác, thân lớn, thân chủng tánh, hàng quyến thuộc thì hòa hợp, không ngăn trở phá hoại, không lui, không diệt, không đọa, không mất.
Đối với việc tu hành, thâm tâm niệm tuệ, đều hướng tới đạo quả giác ngộ vô thượng được sức hổ thẹn, đoạn trừ kiêu mạn, chăm tu tinh tấn, từ bi hỷ xả, huân tập nơi tâm không - vô tướng - vô nguyện, nguyện sinh tịnh độ tức khắc vãng sinh. Mọi tà thuyết dị kiến không thể phá hoại. Thuyết pháp có thứ lớp, cú nghĩa dồi dào. Tuy đọc ngoại điển nhưng tâm không tham vướng, hoàn toàn không nguyện cầu thân trời, thân rồng, thân Dạ-xoa, cho đến thân của Chuyển luân vương, cũng không tạo tác nghiệp hạnh sinh tử, không cầu sự cung kính chúng sinh của thế gian, hộ trì chánh pháp, khiến ma không thể tùy tiện thao túng. Thấy người trì pháp thì phát tâm cung kính sâu xa, trí tuệ đạt được giống như đại hải, không tăng không giảm, như trăng tròn đầy, như ánh mặt trời, như ngọn đuốc sáng trừ bỏ sự tối tăm cho chúng sinh, giống như hư không không bị phiền não, không nhiễm phiền não; như hoa dưới nước, như hư không, trụ nơi không trụ; như kim cang nguyên chất phá tan các pháp, giữ gìn tất cả pháp; giống như núi Tuyết, định biết Như Lai thường trụ không biến đổi, trí tuệ thanh tịnh như ngọc báu lưu ly, đạt được giới Như Lai, uy lực như đại hải, tấm lòng từ ái thương xót chúng sinh, không động, không chuyển, như cây cờ của Đế thích, hoại các pháp ác, đắc vị thượng diệu, giống như quả Ca-đà-ca thơm ngon, tùy thuận thế pháp không chỗ ngược trái.
Này thiện nam! Đây chính là môn Tam-muội.
Này thiện nam! Nếu ai thành tựu đầy đủ bốn trăm Tam-muội như vậy thì nên biết, người ấy khéo hộ trì tạng pháp.
Bấy giờ, trong chúng hội có một Thiên tử tên Tịnh Mật cùng với một vạn tám ngàn các Thiên tử bước tới chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, cung kính chấp tay, mưa các hoa trời, hương thơm, cờ phướn, ca nhạc v.v... cúng dường Đức Thế Tôn, nhiễu bên phải ba vòng rồi nói kệ ca ngợi:
Như Lai không nghĩ bàn
Pháp, Tăng cũng như vậy
Con thấy mưa Tam-muội
Như đời gặp cam lồ.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu chúng sinh nào chưa nhập vào kinh Phương Đẳng này thì nên biết, những chúng sinh ấy giống như kẻ bị mù, điếc.
Trong kinh này có ba mươi sáu loại trí báu bất thoái, vô biên tâm hành ý nhập nơi môn Đà-la-ni, tức là pháp môn đầu tiên của tất cả pháp. Cúi mong Như Lai hãy vì chúng con mà rộng nói phân biệt.
Phật nói:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Nay Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông phải lắng nghe, suy nghĩ cho thật kỹ.
Kinh này có pháp môn Đà-la-ni bất thoái bảo luân tạng của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có Đà-la-ni Đại vân bất thoái thanh tịnh mật thủy của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có Đà-la-ni Đại vân bất thoái bí mật quang minh của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có Đà-la-ni Đại vân bất thoái đại vũ của chư Phật, Bồ-tát.
Kinh này lại có Đà-la-ni Đại vân bất thoái lưu thủy của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân bất thoái tâm ý của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân bất thoái điện quang của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân bất thoái lương điện của chư Phật, Bồ-tát. tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân bất thoái tịnh quang của chư Phật, Bồ- Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ý tuệ tinh của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ý sáng rỡ nơi tạng bi kín của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ý chú lớn của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ý có đức của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển vua tạng hư không của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển vua đại dược của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển vua đại vũ của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển xứng ý của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ý núi Chỉ-la-bà của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ý hành của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển vua cao tột của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển vua thủy triều của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển mắt nga vương của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển trí biển lớn của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển sự siêng năng nơi vua ý thâm diệu của chư Phật, Bồtát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển vũ chủng của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển địa man của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển sự vui vẻ của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ý thế của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ý không động của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển quả vị của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển chứa nhóm của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ánh sáng nơi nước của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển tạng nước vô tận của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ánh sáng trăng nơi tánh nước của chư Phật, Bồ-tát. Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển bản thể ánh sáng nơi nước của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển vua biển lớn không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồtát.
Này thiện nam! Đây chính là ba mươi sáu pháp Đà-la-ni bất thoái trí bảo vô biên “tâm hành ý nhập”.
Bấy giờ, trong chúng hội có Thiên nữ tên Bảo Man bay vụt lên không trung cao bảy cây Đa-la, mưa xuống các loại hoa, hương thoa, hương bột, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Đức Phật rồi nói kệ tán thán:
Như Lai – Đại Y vương
Thân kim cang không hoại
Các ý tuệ thù thắng
Giới tịnh, thương chúng sinh.
Trừ dứt các phiền não
Như mặt trời trừ tối
Nay nói Đà-la ni
Như mây tuôn mưa lớn.
Khi ấy, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh bị vô minh làm cho mù tối. Cúi xin Như Lai rộng khai, hiển thị mật ngữ của chư Phật, đốt ngọn đèn trí tuệ sâu xa làm ánh sáng lớn dẫn đường.
Phật nói:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ vì ông đốt lên ngọn đèn đại pháp. Lắng nghe, ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ! Trong kinh này có hai mươi ba môn giải thoát đạo tích mật ngữ nhập vào phương tiện đại pháp nơi hành tỉnh giác của chư Phật, Bồ-tát.
Môn hành giải thoát nhập vào mật ngữ đoạn ngã và ngã sở.
Môn hành giải thoát nhập vào mật ngữ sắc đáng sợ, sắc không đáng sợ, sắc thấp kém.
Môn hành giải thoát nhập vào mật ngữ tham cầu không được. Môn Mật ngữ: Cõi đoạn, cõi có, cõi không.
Môn Mật ngữ: Vô minh có, vô minh không, vô minh có – không. Môn Mật ngữ: Có người tham, không người tham, đoạn dứt sự tham.
Môn Mật ngữ: Người có ái, không ái, đoạn dứt sự ái.
Môn Mật ngữ: Có người trói buộc, không trói buộc, đoạn dứt sự trói buộc.
Môn Mật ngữ: Có người sân hận, không sân hận, đoạn dứt sự sân hận. lợi.
Môn Mật ngữ: Có tối tăm, không tối tăm, có ánh sáng.
Môn Mật ngữ: Có chậm lụt, không chậm lụt, có lanh lợi, đại lanh
Môn Mật ngữ: Có phá, có bẻ, có hoại.
Môn Mật ngữ: Có khổ, có vui, có người không cảm thọ khổ vui.
Môn Mật ngữ: Có lòng từ, không lòng từ, không sự thương xót.
Môn Mật ngữ: Có đại thí chủ, có người ban phát nhưng không có người nhận.
Môn Mật ngữ: Có người mắng, không người nhận, dứt trừ sự mắng.
Môn Mật ngữ: Có sự thanh tịnh, không sự thanh tịnh, cắt đứt tất cả sự thanh tịnh.
Môn Mật ngữ: Có sự ngang bằng, không sự ngang bằng, cắt đứt tất cả sự ngang bằng.
Môn Mật ngữ: Có sự buông lung, không sự buông lung, đoạn dứt buông lung, không sự buông lung.
Môn Mật ngữ: Như Lai không, bất không, phi không, phi bất không.
Môn Mật ngữ: Như Lai thường, không thường, phi thường, phi không thường.
Môn Mật ngữ: Như Lai ngã, không ngã, phi ngã, phi không ngã. Môn Mật ngữ: Như Lai ái, không ái, phi ái, phi không ái.
Thiện nam! Đó là hai mươi ba môn giải thoát Mật ngữ đạo tích nhập vào phương tiện đại pháp nơi hạnh tỉnh giác của chư Phật, Bồ-tát. Khi ấy, trong chúng hội có Thiên tử tên Chúng Ái cùng với vô lượng Thiên tử bay lên không trung cao mười bảy cây Đa-la, mưa xuống các loại hoa, hương thơm, cờ, lọng, ca nhạc để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:
Như Lai lời thâm mật
Nhị thừa không hiểu được
Tuyên nói cho mọi người
Khiến đều được an lạc.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn thần thông hành nhập vào hành tạng hữu sinh quang vương vi diệu. Cúi mong Như Lai phân biệt giảng nói rộng.
Phật bảo:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt rộng nói cho ông. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh này có pháp môn Hữu sinh lạc vương của chư Phật, Bồ-tát.
Lại có pháp môn Hữu sinh cầu hỷ. Lại có pháp môn Hữu sinh hư khát. Lại có pháp môn Hữu sinh lạc thuyết. Lại có pháp môn Hữu sinh an.
Lại có pháp môn Hữu sinh nguyện. Lại có pháp môn Hữu sinh xứng.
Lại có pháp môn Hữu sinh thể vương. Lại có pháp môn Hữu sinh thiện vương.
Lại có pháp môn Hữu sinh vô thiện bất nhiễm hành tạng vi diệu pháp vương.
Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn Thần thông hành nhập hành tạng hữu sinh quang vương vi diệu.
Lúc này, trong đại chúng có Thiên nữ tên Ái Quang đem các loại hoa trời, các loại hương, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi ca ngợi:
Nay con cúi đầu lạy
Không sinh nơi các Hữu
Phương tiện trong các nẻo
Khắp vì tất cả chúng.
Như Lai, tâm tự tại
Thế nên thân ấy thường
Vì chúng chuyển sinh tử
Như hoa không nhiễm vướng.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nghiệp nhân sinh tử phiền não đạt nguyện tạng tâm định. Cúi xin Như Lai hãy vì tất cả chúng sinh phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ mở bày giảng nói cho ông rõ. Phải lắng nghe và suy nghĩ kỹ.
Trong kinh này có: Pháp môn Đắc nhân quả thật sinh tử phiền não.
Lại có pháp môn Sinh tử nhân lạc vương.
Lại có pháp môn Sinh tử trang nghiêm trụ tâm.
Lại có pháp môn Sinh tử hỷ địa.
Lại có pháp môn Sinh tử kỳ địa.
Lại có pháp môn Sinh tử chánh kiến.
Lại có pháp môn Sinh tử huyễn.
Lại có pháp môn Sinh tử y phục.
Lại có pháp môn Sinh tử cửu trụ.
Lại có pháp môn Sinh tử quang minh.
Thiện nam! Đây chính là mười pháp môn
Nghiệp nhân sinh tử phiền não đạt nguyện tạng tâm định.
Khi đó, trong đại chúng có Long vương tên Vô Độc đem các loại hương, các loại hoa thượng diệu, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:
Vì các loài chúng sinh
Hiển thị nghĩa sinh tử
Phật không phiền não nghiệp
Vì chúng sinh đến đây.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười thứ pháp môn Trí cuồng không thể nghĩ bàn nhập vào thần thông vương. Cúi mong Như Lai hãy mở bày phân biệt rộng.
Phật bảo:
– Lành thay! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ.
Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh này có:
Pháp môn Đắc đại an ẩn.
Pháp môn Vô thắng thắng thần thông vương.
Pháp môn Vô xứng xứng quang sở nhập.
Pháp môn Vô lượng lượng quang sở nhập. Pháp môn Bồ-đề thời.
Pháp môn Kỳ quang. Pháp môn Cao thê. Pháp môn Khoan phước.
Pháp môn Trì nhất thiết chúng sinh. Pháp môn Hiện tại quang.
Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn Trí cuồng không thể nghĩ bàn nhập vào thần thông vương.
Lúc này, trong đại chúng có Thiên nữ tên Thiện Man đem các loại hoa, các loại hương thượng diệu, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói kệ khen ngợi:
Tâm Phật khó nghĩ bàn
Thân trí cũng như vậy
Vì hóa độ chúng sinh
Rộng mở pháp môn này.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn Trí thâm diệu nhập vào pháp vương hành vô úy. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt rộng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh có:
Pháp môn Giải thoát tất cả pháp ác. Pháp môn Hư không tạng.
Pháp môn An nhập hết mực thâm diệu. Pháp môn Tế châm.
Pháp môn Hải bất động. Pháp môn Trí đăng.
Pháp môn Thân khẩu. Pháp môn Đoạn nhập tất cả phiền não.
Pháp môn Kiên ý nhập. Pháp môn Tịnh ý vô ngại.
Thiện nam! Đây gọi là mười pháp môn Trí thâm diệu nhập pháp vương hành vô úy.
Lúc ấy, trong đại chúng có Thiên nữ tên Kim Quang Minh đem các loại hoa, các thứ hương thượng diệu, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói kệ tán thán:
Như Lai thân sắc vàng
Trí báu là anh lạc
Nơi báu, pháp lành tụ
Như cây cỏ Tu-di.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn Đại vân kiến lưu tạng báu công đức không thể nghĩ bàn.
Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ vì ông mà phân biệt diễn thuyết. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh này có:
Pháp môn Lạc từ tạng. Pháp môn Lạc bi tạng.
Pháp môn Lạc hỷ tạng. Pháp môn Lạc xả tạng.
Pháp môn Bảo thủy lưu tạng. Pháp môn Đại hải hành.
Pháp môn Như Lai sở thuyết pháp lưu. Pháp môn Thời nhập tạng.
Pháp môn Tưởng ý bảo tạng nhập. Pháp môn Nhất thiết đại pháp tụ.
Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn Đại vân kiến lưu tạng báu công đức không thể nghĩ bàn.
Lúc này, trong đại chúng có Thiên tử tên Trí Ái Lạc đem các loại hoa trời, các thứ hương thượng diệu, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói lời ca ngợi:
Như Lai không sinh diệt
Pháp Phật khó xét lường
Vô minh che chúng sinh
Nêu rộng nơi pháp giới.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn Vũ lưu tạng công đức không thể nghĩ bàn. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ tuyên nói rộng rãi, phân biệt cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ thật kỹ.
Này thiện nam! Có pháp môn Vũ võng.
Pháp môn Bảo vương. Pháp môn Vũ đại hải vương.
Pháp môn Vũ trần. Pháp môn Vũ đoạn độc.
Pháp môn Vũ mãn an lạc. Pháp môn Vũ thể.
Pháp môn Vũ chủng chủng chánh kiến.
Pháp môn Vũ công đức. Pháp môn Vũ lương dược.
Này thiện nam! Đó chính là mười loại pháp môn Vũ lưu tạng công đức không thể nghĩ bàn.
Lúc này, trong đại chúng có Thiên tử tên Hư Không Lôi đem các loại hoa, các thứ hương thượng diệu, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói lời ca ngợi:
Chư Phật Như Lai nói
Tạng vi mật thượng diệu
Khiến cho tất cả chúng
Vượt hẳn dòng phiền não.
Đoạn diệt khổ sinh tử
Hết thảy chẳng còn gì
Tự mình đạt giác ngộ
Niết-bàn luận đủ lạc – thường.
Như Lai, Thiên Trung Thiên
Thành tựu vô lượng đức
Nay nói kinh Đại Vân
Vì chúng phát tâm đạo.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười loại pháp môn về Đại vân đắc hư không định. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh có:
Pháp môn Thiện pháp vương. Pháp môn Kiến tánh.
Pháp môn Trí vô thắng vương. Pháp môn Vô kiêu mạn.
Pháp môn Vô tận ý.
Pháp môn Bất khả tư nghì. Pháp môn Vô ngại.
Pháp môn Thậm thâm. Pháp môn Chất trực.
Pháp môn Hư không tướng.
Này thiện nam! Đây chính là mười loại pháp môn.
Khi ấy, trong đại chúng có Thiên nữ tên Diệu Tộc Tánh đem các loại hương hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi tán thán:
Như Lai tạng sâu kín
Chúng sinh không hiểu được
Cúi mong vì tất cả
Phân biệt khiến tỏ bày.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười loại pháp môn nói về Đại vân điện quang. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ ghi nhận. Trong kinh có:
Pháp môn Sáu thông. Pháp môn Công đức. Pháp môn Bảo quang.
Pháp môn Hư không tinh tiến. Pháp môn Tạng.
Pháp môn Giới điều. Pháp môn Công đức tạng.
Pháp môn Đoạn nghi.
Pháp môn Lưu ly ý. Pháp môn Thanh tịnh.
Pháp môn công đức thâm diệu đại hải. Pháp môn Hoại nhất thiết kiến.
Pháp môn Kim cấu.
(Chương 12, bản Phạn dư 3 pháp môn)
Này thiện nam! Đây chính là mười loại pháp môn.
Lúc đó, trong đại chúng có Thiên nữ tên Thiện Hỷ đem các loại hoa, hương, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi tán thán:
Như Lai Đại Y vương
Không: thân, thân phương tiện
Vô ngại như hư không
Rộng nói kinh Đại Vân.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Bảo điện hành. Cúi mong Như Lai mở bày, phân biệt.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh có:
Pháp môn Điện quang bảo vương. Pháp môn
Lợi trí tuệ.
Pháp môn Trí tuệ năng hoại. Pháp môn Sơ trí.
Pháp môn Trí hải. Pháp môn Pháp nghi.
Pháp môn Cát tường. Pháp môn Pháp cổ.
Pháp môn Tu di sơn. Pháp môn Năng hoại ám.
Pháp môn Phong đẳng hạnh.
(Chương 14, bản Phạn dư 1 pháp môn)
Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.
Khi ấy, trong đại chúng có Thiên nữ tên Hằng Hà Thần đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi ca ngợi:
Tâm vô úy, vô ngã
Vô tham, thương chúng sinh
Sử dụng đại phương tiện
Mà vì tất cả đời
Như Lai, sức công đức
Khiến cho con biết được
Thân vô thượng vô biên
Không thể suy nghĩ, bàn
Con nghe kinh này rồi
Đoạn hẳn mọi phiền não.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười loại pháp môn nói về Đại vân điện quang huyễn. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt rộng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:
Pháp môn Điều huyễn. Pháp môn Điều tạng.
Pháp môn Lạc pháp.
Pháp môn Cầu pháp. Pháp môn Thiêu kiết.
Pháp môn Sinh nhất thiết pháp. Pháp môn Đoạn chư tranh tụng.
Pháp môn Năng tiêu phiền não. Pháp môn Thượng cao.
Pháp môn Niệm vô tận. Pháp môn Độ nhất thiết chúng sinh.
(Chương 14, bản Phạn dư 1 pháp môn)
Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.
Lúc ấy, trong đại chúng có Thiên nữ tên Đại Hỷ đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:
Như Lai, đại thần thông
Thân Ngài không động chuyển
Vì chúng, đoạn sinh tử
Nên nói kinh Đại Vân.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Đại thần thông. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ thật kỹ. Trong kinh có:
Pháp môn Bảo bạc. Pháp môn Bạc đẳng.
Pháp môn Bạc trang nghiêm vương. Pháp môn Bạc đăng.
Pháp môn Bạc dược. Pháp môn Bạc đồng.
Pháp môn Bạc vô tận ý. Pháp môn Bạc thượng thượng.
Pháp môn Bạc thượng dung. Pháp môn Bạc thậm thâm.
Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.
Khi đó, trong đại chúng có Thiên nữ tên Nghiêm Sức Tự Hỷ đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói lời ca ngợi:
Như Lai, đại bạc vương
Thiên Trung Thiên mưa khắp
Biết các nghiệp phiền não
Và dứt trừ sạch chúng.
Phàm phu kiết vô biên
Xoay vòng chịu sinh tử
Bồ-tát không phiền não
Nên không đến các nẻo.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Trí kim cang hành nhập trí. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ ghi nhận. Trong kinh có:
Pháp môn Thần thông bảo tụ. Pháp môn Hỷ vương.
Pháp môn Thần thông bình đẳng. Pháp môn Bạch nga thanh.
Pháp môn Hư không vô ngại. Pháp môn Dược vương.
Pháp môn Pháp tràng. Pháp môn Đại hải thậm thâm.
Pháp môn Bất động. Pháp môn Vô biên quang. Pháp môn Bất khả tư nghì. Pháp môn Vô lượng kiếp.
(Chương 16, bản Phạn dư 2 pháp môn)
Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.
Lúc này, trong đại chúng có Thiên nữ tên Thâm Trí Ái đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói lời ca ngợi:
Như Lai, vô thượng vương
Không sinh cũng không diệt
Vì các loại chúng sinh
Mà thị hiện sinh diệt.
Chân thật, thường, không đổi
Vì chúng nói vô ngã
Thân Phật như kim cang
Không thể bị ngăn, hoại.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Vô tận ý hội nhập thần thông. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt nói rộng.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ. Trong kinh có:
Pháp môn Cam lộ ý nhập. Pháp môn An bảo.
Pháp môn Lạc. Pháp môn Hỷ.
Pháp môn Tinh tấn thậm thâm. Pháp môn Ý hạnh.
Pháp môn Vô tận lạc. Pháp môn Thường hỷ lạc. (Chương 17, bản Phạn thiếu 2 pháp môn) Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.
Khi ấy, trong đại chúng có Thiên nữ tên Đại Bảo Luân đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói lời ca ngợi:
Như Lai không giàu nghèo
Thân Ngài không trở ngại
Vì thương xót tất cả
Vui nói kinh Đại Thừa.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Chánh đạo. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:
Pháp môn Thâm quảng hạnh. Pháp môn Kiện hành.
Pháp môn Hiện lực. Pháp môn Kiện thắng.
Pháp môn Nhất thiết thiên nhân. Pháp môn Nhập nhất thiết thời. Pháp môn Bất nhiễm nhất thiết thời. Pháp môn Nhất thiết đạo hỷ.
Pháp môn Đoạn nhất thiết cõi ác. Pháp môn Đại hải thường triều. Pháp môn Đại hải thần thông.
(Chương 18, bản Phạn dư 1 pháp môn) Này thiện nam! Đây là mười pháp môn.
Lúc ấy, trong đại chúng có Thiên nữ tên Thiện Đắc đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi ca ngợi:
Như Lai đấng vô thượng
Tu tập đạo chân chánh
Tuy thành kho vững chắc
Tâm dứt mọi lo sợ.
Thương xót các chúng sinh
Và cũng vì chúng con
Ngay nơi bảo tòa này
Tuyên nói kinh như vậy
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Hành sư tử hống thâm diệu hết mực. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:
Pháp môn Nhất thiết vị hống. Pháp môn Nhất thiết vị hỷ.
Pháp môn Thời thần thông vương. Pháp môn Liên hoa.
Pháp môn Hỷ địa.
Pháp môn Đại hỷ địa. Pháp môn Tứ oai nghi.
Pháp môn Thánh hạnh. Pháp môn Tịnh.
Pháp môn Nhất thiết pháp thể.
Thiện nam! Đây là mười pháp môn.
Khi ấy, trong đại chúng có Thiên nữ tên Vi Diệu Thanh đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi ca ngợi:
Trí vô thượng vi diệu
Giống như nước biển cả
Diệu lực khó nghĩ bàn
Nên như sư tử gầm.
Vì các loại chúng sinh
Sinh khởi lòng thương xót
Nay nói kinh Phương Đẳng
Tâm ý không còn sợ.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Thần thông của sư tử hống. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:
Pháp môn Quang. Pháp môn Pháp phong. Pháp môn Pháp cổ.
Pháp môn Pháp bảo. Pháp môn Pháp tạng. Pháp môn Pháp lực. Pháp môn Pháp động. Pháp môn Pháp tạp. Pháp môn Đại địa.
Pháp môn Nan cận.
Pháp môn Nhất thiết anh lạc.
(Chương 20, bản Phạn dư 1 pháp môn) Này thiện nam! Đây là mười pháp môn.
Lúc này, trong đại chúng có Thiên tử tên Sư Tử Hống đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi ca ngợi:
Như Lai không nhân dụ
Không hơn, không biên vực
Vì các loài chúng sinh
Phương tiện sư tử gầm.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về việc Nhập vào phương tiện của thế gian. Cúi mong Như Lai phân biệt nói rộng.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh có:
Pháp môn Sinh vương nhập.
Pháp môn Cứu cánh đa phương tiện nhập. Pháp môn Tín tâm nhập.
Pháp môn Sư tử thần thông. Pháp môn Thế giới phi thế giới. Pháp môn Thời nhất nhập.
Pháp môn Thiện bất thiện. Pháp môn Năng điều ác nhân. Pháp môn Hữu đức vương nhập.
Pháp môn Đắc nhất thiết cung kính. Pháp môn Hạ nghiệp lành.
(Chương 21, bản Phạn dư 1 pháp môn) Này thiện nam! Đây là mười pháp môn.
Lúc ấy, trong chúng hội có Thiên tử tên Bà-laha-ca đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi ca ngợi:
Như Lai phương tiện nhập Niết-bàn
Thân Ngài không động, cũng không diệt
Nhập vào thiền định khó nghĩ bàn
Chúng sinh không hiểu, cho mất hẳn.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Thần thông hội nhập nơi bảo tạng. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có: Pháp môn Pháp châu la.
Pháp môn Đại thần thông. Pháp môn Bảo hương tạng. Pháp môn Sư tử hống nhập tụ. Pháp môn Phá pháp tướng.
Pháp môn Chiên đàn hương. Pháp môn Vô tướng.
Pháp môn Vô ngữ. Pháp môn Liên hoa. Pháp môn Xưng.
Này thiện nam! Đây là mười pháp môn.
Lúc này, trong đại chúng có Thiên tử tên Tăng Trưởng Hữu Đức đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:
Tam thiên đại thiên cõi
Phật tự tại trong pháp
Pháp thân không thể thấy
Vì chúng hiện tướng tốt.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Chỗ hội nhập thần thông của kim sí điểu. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh có:
Pháp môn Năng hoại Long vương Bà-tu-cát lực thần thông vương.
Pháp môn Tự tại lực nhập. Pháp môn Hỷ nhập. Pháp môn Khai dũng nhập. Pháp môn Đại hải thời nhập.
Pháp môn Năng hoại đại sơn. Pháp môn Năng hoại phong lực.
Pháp môn Trường kiến. Pháp môn Năng hoại nhất thiết độc.
Pháp môn Đắc bảo tuyển. Thiện nam! Đây là mười pháp môn.
Khi ấy, trong đại chúng có Thiên tử tên Thâm Tịnh Hạnh đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi ca ngợi:
Như Lai đại Pháp vương
Tuệ nhãn ví ngàn nhật
Định căn tay kim cang
Diệt hết các phiền não.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Đại xả thời thần thông vương vi diệu. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:
Pháp môn Vô ngại lực thâm diệu. Pháp môn
Giới trụ.
Pháp môn Giới quảng vương. Pháp môn Giới giới vương.
Pháp môn Bảo nhũ lưu.
Pháp môn Công đức lưu vi diệu. Pháp môn Từ lực lưu.
Pháp môn Nhẫn nhục lưu.
Pháp môn Hỷ lực lưu. Pháp môn Xả lực lưu.
Thiện nam! Đây là mười pháp môn.
Khi đó, trong đại chúng có Thiên tử tên Bảo Quý Đức đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi ca ngợi:
Lễ Phật, sức vô lượng
Thân thường trụ không hoại
Vì các loài chúng sinh
Nên nói các pháp giới.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Đại lực vô sở úy là chỗ hội nhập của thần thông. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh có:
Pháp môn Vô sở úy lực thần thông. Pháp môn Bất hy lạc căn.
Pháp môn Bảo tụ. Pháp môn Thập hữu đức.
Pháp môn Tịnh hoàn. Pháp môn Tịnh quang hạnh.
Pháp môn Tịnh bảo quang. Pháp môn Hỷ nhập.
Pháp môn Tịnh đẳng. Pháp môn Điện quang.
Này thiện nam! Đây là mười pháp môn.
Khi ấy, trong đại chúng có Thiên tử tên Bảo Tuệ đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi tán thán:
Tạng bí mật Như Lai
Sâu xa như biển lớn
Vì các loài chúng sinh
Hành tịnh nơi pháp giới
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Nhập hạnh. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:
Pháp môn Nhập tạng. Pháp môn Chánh hạnh. Pháp môn Chánh thật. Pháp môn Cát xưng.
Pháp môn Xưng. Pháp môn Thường hỷ. Pháp môn Nhật tu.
Pháp môn Bi lực. Pháp môn Nhẫn nhục.
Pháp môn Thường tịnh.
Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.
Lúc ấy, trong đại chúng có Thiên tử tên Bảo Chánh Quang đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:
Biển trí tuệ Như Lai
Sâu xa thật khó lường
Vì khắp các chúng sinh
Nay nói kinh Đại Vân.
Chương 27: CHÍ TÂM
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn Chí tâm sở nhập. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:
Pháp môn Trụ thiện giới. Pháp môn Đại hại trí. Pháp môn Trí triều. Pháp môn Thần thông hạnh.
Pháp môn Hư không thần thông. Pháp môn Vô nhiệt.
Pháp môn Sơ thành. Pháp môn Tùy hành.
Pháp môn Thí hỷ. Pháp môn Thiện chí tâm.
Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.
Khi ấy, trong đại chúng có Thiên tử tên Ba-đầuma-trí đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:
Đảnh vô kiến Như Lai
Không hơn, không gì trên
Nay phóng ánh sáng lớn
Khắp vì các chúng sinh.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Dũng vương đại lực vi diệu. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:
Pháp môn Kiền thắng điền hạnh. Pháp môn Thủ lăng nghiêm.
Pháp môn Dũng kiện thần thông. Pháp môn Kiện lực.
Pháp môn Kiện quy. Pháp môn Chúng sinh cụ túc.
Pháp môn Trí kiên kiền hành. Pháp môn Hoại lại đọa.
Pháp môn Quảng lực. Pháp môn Kiện điều quang. Pháp môn Kiện ý.
(Chương 28, bản Phạn dư 1 pháp môn)
Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.
Lúc này, trong đại chúng có Thiên tử tên Dũng Vũ đem các thứ hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:
Quyến thuộc không thể hoại
Giống như kim cang báu
Hàng phục quyến thuộc ma
Vì chúng nói kinh này.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn Thiện hạnh đại thần thông vương sở nhập. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:
Pháp môn Thiện bảo điều. Pháp môn Thiện tụ.
Pháp môn Thiện đường. Pháp môn Thiện hạnh.
Pháp môn Thiện ý. Pháp môn Thiện đức.
Pháp môn Thiện tịnh. Pháp môn Thiện điều quang.
Pháp môn Nhất thiết thiện hạnh anh lạc.
(Chương 29, bản Phạn thiếu 1 pháp môn) Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.
Lúc đó, trong đại chúng có Thiên nữ tên Thiện Hộ đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:
Thành tựu được tướng lành
Ngồi an tòa thiện diệu
Khắp vì các chúng sinh
Diễn bày pháp vô thượng.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười ba pháp môn nói về Tạng thần thông được khai thị. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt chỉ bày cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:
Pháp môn Lạc thần thông quật. Pháp môn Hỷ thần thông quật.
Pháp môn Đại hỷ thần thông quật. Pháp môn Hành thần thông quật.
Pháp môn Sư tử thần thông quật. Pháp môn Đẳng thần thông quật.
Pháp môn Thị thần thông quật. Pháp môn Bi thần thông quật.
Pháp môn Xả thần thông quật.
(Chương 30, bản Phạn thiếu 4 pháp môn)
Này thiện nam! Đây chính là mười ba pháp môn.
Lúc này, trong đại chúng có Thiên nữ tên Đại Hải Ý đem các thứ hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:
Cây Bồ-đề thường trụ
Đệ tử thích nương tựa
Gốc yên không lay động
Nên sinh được mầm định
Được trái thường không đổi
Do vậy, cúi đầu lạy.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn Trí sơ hạnh. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:
Pháp môn Pháp tăng trưởng. Pháp môn Hỷ thực.
Pháp môn Vô tận ý.
Pháp môn Tham thần thông. Pháp môn Thí đơn.
Pháp môn Bất lạc thế gian. Pháp môn Trang nghiêm địa.
Pháp môn Trang nghiêm giới. Pháp môn Lạc điều.
Pháp môn Trụ thời. Thiện nam! Đó chính là mười pháp môn.
Khi ấy, trong đại chúng có Thiên nữ tên Tu Man Na Hoa, đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:
Giới Như Lai vô thượng
Trí tuệ vô thượng thượng
Vì thương xót chúng sinh
Rộng nói kinh Đại Vân.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Trí bảo tạng. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:
Pháp môn Thiện trì bảo tạng. Pháp môn Pháp trì.
Pháp môn Cung kính. Pháp môn Tâm trì.
Pháp môn Điều vương. Pháp môn Chánh tinh tiến. Pháp môn Đại hải bảo tạng. Pháp môn Lạc cát.
Pháp môn Trí quả. Pháp môn Đại cát.
Pháp môn Thành tựu công đức. Pháp môn Đoan chánh.
Pháp môn Trì giới tinh tấn.
(Chương 32, bản Phạn dư 3 pháp môn) Thiện nam! Đó chính là mười pháp môn.
Lúc này, trong đại chúng có Thiên nữ tên Liên Hoa Man đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:
Biển đại trí Như Lai
Nay con chí tâm lạy
Tạng bí mật định sâu
Đấng đại bi tuyên nói.
Như Lai đã tự chứng
Cả thường, lạc, ngã, tịnh
Cũng lại khiến chúng sinh
Đều đạt được như mình.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Chánh tri tạng báu vi diệu. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:
Pháp môn Bảo tạng. Pháp môn Tịnh tạng. Pháp môn Tịnh lạc.
Pháp môn Thí lạc. Pháp môn Thí mục. Pháp môn Thâm tạng.
Pháp môn Thâm pháp trang nghiêm. Pháp môn Chánh kiến.
Pháp môn Mẫn nhất thiết chúng sinh.
(Chương 33, bản Phạn thiếu 1 pháp môn)
Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.
Khi đó, trong đại chúng có Thiên nữ tên Pháp Bảo Lạc, đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:
Như Lai đại thí chủ
Trang nghiêm “tụ đại thí”
Ban tất cả chúng sinh
Không quán ruộng chẳng ruộng.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Chủng tử của ruộng phước. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:
Pháp môn Bảo hạnh thắng. Pháp môn Bảo lưu vũ.
Pháp môn Bảo hạnh tụ. Pháp môn Bảo công đức tụ.
Pháp môn Bảo chánh ý. Pháp môn Bảo mục. Pháp môn Bảo ý.
Pháp môn Bảo quang. Pháp môn Bảo đăng.
Pháp môn Bảo điện.
Pháp môn Vô tận ý. Pháp môn Bảo trụ. Pháp môn Nhất thiết bảo điền.
(Chương 34, bản Phạn dư 3 pháp môn) Này thiện nam! Đó chính là mười pháp môn.
Lúc ấy, trong đại chúng có Thiên tử tên Bảo Vũ đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:
Chư Phật Đẳng Chánh Giác
Là ruộng phước ở đời
Đại từ bi thương xót
Tất cả các chúng sinh
Tỏ rõ ruộng chẳng ruộng
Nên gọi A lê ha.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Chân thật thần thông an lạc vương sở nhập. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:
Pháp môn Bất động. Pháp môn Trụ mạo. Pháp môn Bất động lạc.
Pháp môn Thâm trụ. Pháp môn Bất khả tư nghì tụ.
Pháp môn Bất khả tư nghì tụ giải thoát. Pháp môn Lạc ý.
Pháp môn Bất khả tư nghì trụ. Pháp môn Như
Lai trí ấn.
Pháp môn Nhất thiết đại hải vô tận ý.
Này thiện nam! Đó chính là mười pháp môn.
Lúc này, trong đại chúng có Thiên tử tên Đại Quang đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v... để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:
Chư Phật, Bà-già-bà
Nói giáo pháp vi diệu
Vì các loài chúng sinh
Đều thật khó nghĩ bàn.
Bấy giờ, trong chúng hội có vị vua Đại Phạm tên Kiện Hành, đem nhiều thứ để cúng dường Phật, rồi cung kính chấp tay, nhiễu bên phải ba vòng, vọt lên không trung cao bảy cây Đa-la, bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Kinh điển Đại Thừa gồm có mấy loại tổng trì Tam-muội? Tạng bí mật của đạo tu hành, cảnh giới ưa giảng nói vô ngại của Như Lai, quốc độ thế gian có bao nhiêu thứ? Vì Như Lai có lòng đại từ thương xót tất cả nên hôm nay con mới nêu ra câu hỏi này. Cúi xin đấng Nhị Túc thương xót mà giảng nói rõ. Khi nghe Phật nói rồi, con sẽ lãnh nhận, thọ trì.
Lúc ấy, trong đại chúng có Thiên tử tên Vô Tận Ý, nương vào uy thần của Phật vì các hàng Phạm thiên nói kệ:
Lành thay! Vua Đại Phạm
Hỏi Phật nghĩa chân thật
Phật sẽ đáp như thật
Độ khắp các chúng sinh.
Nên phải hết lòng nghe
Cung kính và tôn trọng
Từng phần kinh Phương Đẳng
Hằng sa nghĩa khó hiểu.
Như Lai – Đại Pháp vương
Mở bày rộng pháp giới
Phật đắc pháp tổng trì
Nhị thừa chẳng thể đạt.
Đức Phật dạy:
– Này Đại Phạm! Nghĩa của kinh Đại Thừa chẳng phải chỉ một mà cả đến hàng vạn thứ. Giả sử có người trí như Tôn giả A-nan, sống lâu đến như số cát sông Hằng cũng không thể nào thọ trì nhận biết được hết nghĩa lý ấy.
Lại có thể khiến cho người ấy miệng nói rất nhanh, trải qua thời gian như số cát sông Hằng cũng không thể nào nói hết được. Vì sao? Vì nghĩa lý của kinh Đại Thừa rất thâm thúy, không thể nghĩ bàn, không thể xưng lường, là cảnh giới khó nhận biết.
Cả chư Phật ở quá khứ, hiện tại, vị lai giảng nói về nghĩa lý, câu cú trong kinh cũng không thể hết được.
Này Phạm thiên! Ví như vị thầy thuốc chữa bệnh, đối với tác dụng của thuốc cũng không thể nào nói hết được. Chư Phật Thế Tôn cũng như vậy.
Này Phạm thiên! Ví như người nữ chỉ có mỗi một đứa con, vì muốn cho con mau lớn nên hết lòng chăm sóc, nuôi dưỡng. Chư Phật, Thế Tôn cũng như vậy.
Này Phạm thiên! Ông đã vì hàng chúng sinh nêu ra câu hỏi này.
Tôi sẽ hết lòng nghe nhận nghĩa lý ấy.
Khi ấy, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Trong kinh này có bốn trăm Tam-muội, nghĩa lý rất sâu xa, thật khó hiểu được.
Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Theo như ông nói, vì nhằm trị bệnh cấu uế tạp ác của chúng sinh, khiến đạt được tâm chánh tín nhẫn nhục, tâm chánh tinh tấn, tâm niệm, tâm định, vì muốn cho những người phước ít ở đời sau sinh khởi phước đức nên ông đã nêu ra những vấn đề ấy.
Này thiện nam! Nếu như có người thuộc bốn bộ chúng, ở nơi các xóm làng, thành ấp, quốc độ, thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh này thì sáng sớm trời mưa, mưa xong thì dừng.
Này thiện nam! Tùy theo sự thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh này của những chúng sinh nơi quốc độ ấy, nên biết những người ấy đạt được thân kim cang. Vì sao? Là do trong kinh điển này có thần chú. Vì các hàng chúng sinh mà chư Phật nơi ba đời đã cùng nói ra thần chú này:
“Ức cứu lệ, mâu cứu lệ, đầu để, tỷ đầu để, đà ni yết để, đà na lại để, đà na tăng tháp hề”.
Nếu bốn bộ chúng nào đọc tụng chú này thì được chư Phật khen ngợi. Nếu quốc độ nào muốn cầu mưa thì vị vua nước ấy vào sáu ngày trai nên tắm rửa sạch sẽ, cúng dường Tam bảo, tôn trọng, tán thán, xưng danh Long vương. Thiện nam! Tính chất của bốn đại có thể khiến biến đổi. Tụng trì chú này, nếu trời không mưa xuống, chắc chắn không có việc đó.
Đầu tiên, ông đã hỏi về nghĩa lý của bốn trăm Tam-muội, vậy hãy chí tâm lắng nghe, Ta sẽ giảng nói cho ông rõ.
Này thiện nam! Trong kinh có Tam-muội Tịnh thủy đại hải thậm thâm của chư Phật, Bồ-tát. Các hàng Thanh văn, Duyên giác chẳng thể nào biết được, nên gọi là thâm diệu hết mực.
Tam-muội này có năng lực đoạn dứt tất cả sự đói khát, thiếu thốn của sinh tử nên gọi là tịnh thủy. Biên giới của Tam-muội này là không thể nắm bắt nên gọi là đại hải. Chư Phật, Thế Tôn đều cùng bình đẳng với nhau nên gọi là Tam-muội.
Nếu Bồ-tát nào có đầy đủ Tam-muội này thì đạt được thân:
Thường, lạc, ngã, tịnh, đạt được thân đa văn hải, đa văn bảo tạng, thân không còn sự động chuyển, bất thoái đối với tâm Bồ-đề, thân Phật tuệ thường trụ, không còn sự thay đổi, tâm không nghi ngại, không lìa pháp vũ, thường gặp Tam bảo, gặp tri thức thiện, thành tựu tất cả phước đức chân chánh.
Này thiện nam! Ông nên thọ trì Tam-muội này, thọ trì sẽ được thành tựu đầy đủ vô lượng công đức. Lại nữa, này thiện nam! Lại có Tam-muội Tịnh thủy đại hải sở nhập thậm thâm.
Không có Tam-muội nhưng có thể bày rõ về tướng Tam-muội, nên gọi là thâm diệu tột bậc.
Vì rửa sạch sinh tử nên gọi là nước.
Không thể dò tới đáy nên gọi là đại hải.
Đạt được thân bất động thường, lạc, ngã, tịnh nên gọi là nhập.
Vì rốt ráo nên gọi là Tam-muội.
Này thiện nam! Nếu Bồ-tát nào đạt đầy đủ Tam-muội này thì có khả năng biến hóa thành các hình dáng của chư Thiên.
Thấy sự việc về Phạm thiên, liền biến thành hình dạng Phạm thiên.
Vì phá trừ sự việc Phạm thiên nhưng tâm không đắm chấp.
Thấy sự việc về Tự Tại thiên, liền biến thành hình dạng Tự Tại thiên.
Thấy sự việc về Bát tý, liền biến thành hình dạng Bát tý. Thấy sự việc về Kiến đà, liền biến thành hình dạng Kiến đà.
Thấy sự việc về Thiên mẫu, liền biến thành hình dạng Thiên mẫu.
Thấy sự việc về quỷ liền biến thành hình dạng quỷ.
Tuy hiện ra các loại hình dạng như thế, nhưng vì để phá bỏ cái thấy sai lầm, tâm thật không mê chấp.
Thấy kẻ đồ tể, liền hiện thành hình dạng đồ tể là vì muốn giáo hóa họ không sát sinh.
Kể từ quán rượu cho đến hình dạng của Chiênđà-la cũng đều như vậy.
Gặp nơi bài bạc, đùa cợt liền hiện thành hình dạng như thế là nhằm đoạn trừ sự bần cùng.
Dẫu hiện hình dạng súc sinh, vợ con, nô tỳ, tôi tớ, nhưng bên trong tâm thường tu phạm hạnh.
Tuy đeo những đồ trang sức quý báu nhưng tâm thường thanh tịnh.
Tuy thị hiện ăn uống những món ngon ngọt, nhưng bên trong thường lấy cái vui của pháp để tự làm no đủ, thấm đượm.
Tuy vào nơi dâm dục nhưng vì để giáo hóa những kẻ bất thiện muốn làm việc xấu.
Hiện các loại thân như: bậc trí thức, thầy bói, chim thứu, cho đến tất cả tạp loại súc sinh; cũng lại hiện nhập vào những hình dạng thấp kém, thân không đầy đủ là nhằm nói rõ về cái đáng lo của thân.
Thậm chí hiện chín mươi lăm loại tà đạo, tùy theo sự thị hiện từng mỗi hình dạng ấy mà phá trừ kiến chấp của họ.
Thị hiện bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh nơi thân là muốn trị mọi bệnh cả trong lẫn ngoài cho chúng sinh.
Hiện đọc tụng ngoại thư, hiểu tất cả ngôn ngữ, thị hiện hình dạng nô tỳ, tôi tớ già trẻ trai gái, cùng thọ trì với hình dạng sinh, già, bệnh, chết là muốn điều phục các chúng sinh.
Hiện có khả năng hiểu được ngôn ngữ của các loài chim, thú, hiện ra các loại hoa, hương, thuốc cỏ, quả cây, quả cỏ. Hoặc là hiện hình dạng thân vua, thân các vương tử, đại thần, trưởng giả. Hoặc hiện dạng thân Sa-môn, Bà-la-môn, Đế thích, Thiên vương, Chuyển luân Thánh vương, mặt trời, mặt trăng v.v... sở dĩ thị hiện ra dạng thân Tứ Đại Thiên vương là vì muốn ủng hộ bốn cõi thiên hạ.
Thị hiện thần thông tự tại của chư Phật, trọn không rốt ráo nhập vào Niết-bàn.
Biến ra các màu sắc nhưng không làm ảnh hưởng đến tính chất của màu sắc.
Tuy được vãng sinh tịnh độ của chư Phật, nhưng hoàn toàn không phân biệt hình tướng của các quốc độ ấy.
Đạt được Tam-muội thâm diệu của chư Phật, nhưng đối với pháp giới hoàn toàn không có phân biệt.
Làm chủ cả hàng trời, người nhưng tâm không kiêu ngạo. Tuy nói về việc mộng nhưng lại không thấy tướng mộng. Bên ngoài hiện việc ma, nhưng thật sự không có nghiệp ma.
Hành động trong thế gian nhưng không bị cấu nhiễm theo thế pháp. Chẳng khác nào như hoa sen ở nơi cấu bẩn mà không bị nhiễm ô.
Thiện nam! Đạt như vậy gọi là thành tựu được Tam-muội Sở nhập đại hải thậm thâm (Tam-muội với đối tượng hội nhập là biển thâm diệu).
Bấy giờ, trong chúng hội có Bà-la-môn tên Thiện Đức, bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Giáo pháp của Như Lai là vô cùng sâu xa bí mật, Thế Tôn đã phân biệt diễn nói cho các chúng sinh.
Thế nhưng Đề-bà-đạt-đa ngu si căn độn phước mỏng kia, đã không nghe, không nhận, không biết ơn nghĩa, lại chỉ thuần hành động đồng với đám lục quần Tỳ-kheo xấu ác, làm tăng trưởng nẻo địa ngục, làm thân Phật chảy máu, phá hoại chúng Tăng. Sinh vào dòng họ Thích nhưng lại càng tăng thêm kiêu mạn, thật gượng gọi là người, nhưng chẳng phải là người, vì xét hành vi của họ, chẳng khác nào súc sinh. Lại đã từ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp thường sinh tâm ác nghịch đối với Như Lai. Những ai bố thí cho họ thì chẳng được quả báo, việc tu tập pháp thiện cũng không thành tựu, chẳng khác nào Ni-kiền-tử. Ni-kiền-tử nói không nhận, không cho, Đề-bà-đạt-đa cũng như thế. Đúng là bè nhóm của ma, chẳng phải là quyến thuộc của Phật. Vì sao? Vì thường khởi tâm hại đối với Như Lai. Tuy gọi là Sa-môn nhưng thật chẳng đúng nghĩa Sa-môn, giống như bên trong áo ca-sa có che đậy dao bén. Thật là kẻ ngu tối, đáng gọi là kẻ vô mạng. Đồ chúng hiện có của ông ta cũng như vậy. Thật chẳng phải là Thế Tôn, nhưng lại sinh tưởng Thế Tôn. Nếu Thế Tôn, Như Lai là bậc Nhất thiết trí, thì do Đâu-lại chấp nhận cho kẻ xấu ác ấy cạo tóc xuất gia, thọ giới cụ túc? Những điều Như Lai giảng nói đều khiến khắp chúng sinh phát sinh căn lành thì vì sao chỉ một mình người ấy lại không phát sinh? Như Lai từ bi thường giảng nói những điều an lạc, rộng nói chánh pháp cho tất cả chúng sinh. Hễ nghe, người ngu tối đều được thấm đượm, căn lành mở bày. Thế tại sao Đề-bà-đạt-đa không được hưởng sự lợi ích ấy? Như Lai tánh tịnh, thân tịnh, tâm tịnh, quyến thuộc nên tịnh, tại sao trong chúng lại có những người này?
Khi ấy, nương theo thần lực của Phật, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng bảo với Thiện Đức:
– Lành thay! Lành thay! Này đại Bà-la-môn!
Đối với sự việc này, các hàng Thanh văn, Phậtbích-chi đều không thể nói. Thế mà nay ông lại có thể thưa về nghĩa ấy, vậy thì ông hãy chí tâm lắng nghe, ta sẽ nương theo đạo lực nơi uy thần của Phật mà nói rộng cho ông rõ.
Ông không nên cho Đề-bà-đạt-đa không biết ơn nghĩa. Đây là người biết ơn, chứ không phải là không biết ơn. Tuy hành động đồng với lục quần Tỳ-kheo nhưng không gọi là ác được. Đề-bà-đạtđa là không thể nghĩ bàn. Nghiệp hạnh tu tập của ông ta tu đều đồng với
Như Lai. Nghiệp hạnh của Như Lai cũng chính là nghiệp hạnh của Đề- bà-đạt-đa. Tất cả chúng sinh không thể khai hiển công đức chân thật của Như Lai Thế Tôn. Thế mà Đề-bà-đạt-đa lại có khả năng khai thị cho người, khiến cho vô lượng atăng-kỳ chúng sinh an trụ nơi căn lành. Nghiệp hạnh của Như Lai chẳng phải hạt giống của địa ngục, thế sao ông lại cho Đề-bà-đạt-đa là người của địa ngục? Ông cho rằng hạnh đồng với lục quần, nhưng ông nay nên biết lục quần Tỳ-kheo thật chẳng phải là pháp hạnh xấu ác mà là đồng với hạnh Phật.
Này Đại Bà-la-môn! Máu nơi thân Như Lai thật sự không chảy ra. Đề-bà-đạt-đa cũng không thể làm cho chảy ra. Nếu nói: bóng cây có thể làm cho chảy máu thì việc đó hoàn toàn không có. Thân Như Lai cũng như vậy. Nếu nói làm cho thân chảy máu thì nên biết đấy tức là phương tiện thiện xảo không thể nghĩ bàn.
Này Đại Bà-la-môn! Chủng tánh của Đức Thích Ca Như Lai thanh tịnh như ngọc lưu ly xanh biếc. Các đệ tử hiện có của Như Lai không hủy giới cấm. Ta cũng không thấy có đệ tử nào của Như Lai phá giới cả. Chánh pháp vô thượng được Như Lai giảng nói thật sự khiến cho người nghe phát sinh căn lành, chứ chẳng phải là không phát sinh. Đại chúng của Như Lai thành tựu trì giới, đều nhập vào cảnh giới của chư Phật. Đồ chúng quyến thuộc như rừng cây chiên-đàn, chỉ toàn chiên-đàn bao vây xung quanh, không thể phá hoại, như núi Kim cương. Cũng không thấy có người có khả năng phá hoại. Có sự sợ hãi tức là có thể phá hoại. Đệ tử của Như Lai hoàn toàn không có sợ hãi. Nếu đã không còn sợ hãi, sao cho là có thể phá hoại? Không thể phá hoại, chẳng khác nào như đàn sư tử. Như Lai là vị Pháp vương, là vua sư tử, chỉ toàn sư tử là quyến thuộc của mình. Quyến thuộc như vậy thật khó có thể lường xét. Đây chẳng phải là cảnh giới của hàng Thanh văn, Duyên giác. Không thể hủy diệt, giống như lửa âm ỉ dưới tro tàn. Như Lai là bậc Nhất thiết trí vô thượng, một khi đã chấp nhận cho ai đó thế phát thọ giới cụ túc, thì người ấy hoàn toàn không còn hủy hoại giới cấm. Tất cả chúng sinh đều nhập vào cảnh giới nơi đối tượng được nhận biết của Như Lai nên Như Lai được gọi là Nhất thiết trí. Đề-bà-đạt-đa đầy đủ những yếu tố như vậy nên không gọi là phá hoại Tăng.
Này Đại Bà-la-môn! Giả sử đến như ngàn vạn vô lượng chúng ma cũng không thể phá hoại được. Nếu nói Đề-bà-đạt-đa xấu ác, phá hoại Tăng chúng thì nên biết đấy là phương tiện thiện xảo. Vì sao lại cho rằng hạnh đồng súc sinh? Đề-bà-đạt-đa thật sự là sinh trong dòng họ thanh tịnh của Như Lai Thích Ca, không phải sinh trong loài súc sinh. Nếu nói dòng họ Thích làm các điều ác, chuyện ấy hoàn toàn không thể xảy ra. Sở dĩ Đề-bà-đạt-đa thực hành hạnh ác là vì muốn hiển thị diệu lực nơi công đức của Như Lai Thích Ca. Sinh trong dòng họ Thích mà gọi là kẻ ngu tối, hoàn toàn không có chuyện đó. Đề-bà-đạt-đa hay khéo hộ trì giới tịnh giải thoát, thế sao lại nói như Ni-kiền-tử được? Người nào ham muốn điều ác thì người ấy gọi là kẻ ác. Đề- bà-đạt-đa tâm không ham muốn điều ác, thế sao lại nói là Tỳ-kheo ác? Người tu hành theo phương tiện thiện xảo của Như Lai, người ấy chính là Đề-bà-đạt-đa.
Này Đại Bà-la-môn! Nếu có người nói Đề-bàđạt-đa nhóm tập nghiệp địa ngục thì nên biết, nghiệp ấy là nghiệp Bồ-tát. Nghiệp Bồ-tát tức là thần thông, vì để giáo hóa chúng sinh nên mới ở trong địa ngục, và nên biết thật ra cũng không ở trong địa ngục. Ví như có hai người cùng đi trên đường, về sau mỗi người chia đi mỗi ngã, người thì hướng Đông, kẻ đi hướng Tây. Nếu nói hai người này hòa hợp, chuyện đó không có xảy ra. Hoặc nói Như Lai và Đề-bà-đạt-đa hoàn toàn cách xa nhau, điều đó cũng không có.
Này Đại Bà-la-môn! Người nào sát sinh, tạo ra nghiệp ác thì phải chịu quả nơi địa ngục trong vô lượng trăm ngàn đời.
Người nào tu pháp thiện thì sẽ được hưởng quả trên cõi trời trong vô lượng trăm ngàn đời.
Nếu người nào tu thiện mà thọ quả ở địa ngục, hoặc tạo ác mà thọ báo nơi cõi trời, thì đây chính là cảnh giới của chư Phật Như Lai, các hàng Thanh văn, Duyên giác không thể nào biết được.
Như Lai thành tựu vô lượng công đức vi diệu chân thật, vậy sao có thể nói Đề-bà-đạt-đa có khả năng hủy hoại thân Phật? Thật ra trong vô lượng kiếp, ở nơi trú xứ của Như Lai từng sinh tâm ác nghịch, nhưng Đề-bà-đạt-đa thật sự không có tâm sát hại. Vì sao? Vì người này đã có được sự quyết định chân thật hiểu rõ về quả báo thiện ác, biết được chỉ cần một niệm ác cũng phải chịu quả báo ở địa ngục suốt vô lượng kiếp.
Do đó, Đề-bà-đạt-đa chắc chắn không tạo nghiệp ác.
Từ vô lượng kiếp, Như Lai đã dứt hẳn mọi niệm ác, thế tại sao các chúng sinh lại còn dấy khởi tâm ác đối với Như Lai? Nếu nói Đề- bà-đạt-đa là người của địa ngục thì sao lại đồng cùng một chủng tánh với đấng Pháp vương Như Lai? Chúng sinh ở địa ngục cùng được làm hàng quyến thuộc với Như Lai, chuyện ấy cũng không thể có.
Nếu nói Đề-bà-đạt-đa đã tạo việc ác trong vô lượng kiếp thì phải chịu quả báo ở địa ngục suốt vô lượng kiếp, vậy tại sao lại được cùng ở chung một chỗ với Như Lai? Nếu cùng ở chung một chỗ với Như Lai thì nên biết đấy chẳng phải là người xấu ác. Nếu Đề-bà-đạt-đa thật sự là người xấu ác, thế tại sao lại được hòa hợp cùng với Như Lai?
Như Lai là người đi đường kia, lộ trình theo mỗi hướng Đông – Tây trái nhau, đúng lý là không hòa hợp. Đề-bà-đạt-đa vâng theo lời Phật dạy bảo thế nào thì làm thế ấy, không hề chống trái, thế sao lại gọi là người của địa ngục? Nếu bảo lên hướng Đông mà trái lại đi ngược hướng Tây thì không được gọi là kẻ phi địa ngục. Nếu nói Đề- bà-đạt-đa là người của địa ngục thì đấy là người không ác. Vì sao? Vì địa là chỉ cho người, mà ngục chỉ cho trời. Qua lại trong hàng trời, người thì gọi là người của địa ngục.
Lại nữa, địa là thường, ngục là vô tướng. Đềbà-đạt-đa vừa thường, vừa vô tướng nên được gọi là địa ngục.
Lại nữa, địa là lạc, mà ngục là đoạn. Ưa đoạn sinh tử nên gọi là địa ngục.
Lại nữa, địa là phương tiện thiện, mà ngục là năng thuyết. Năng thuyết phương tiện thiện nên gọi là địa ngục.
Này Đại Bà-la-môn! Như Lai Thế Tôn có phương tiện thiện, lại có thể giảng nói nêu bày thì không gọi là địa ngục. Tại sao gọi Đề-bà-đạt-đa là người của địa ngục? Thật ra, mọi cảnh giới của Đềbà-đạt-đa hàng Thanh văn, Duyên giác đều chẳng thể nào biết hết được.
Này Đại Bà-la-môn! Như Lai Thế Tôn thường khen ngợi Hoàng Đầu Đại sĩ, vị Đại sĩ này chính là Tỳ-kheo Đề-bà-đạt-đa, còn lục quần Tỳ-kheo cũng là những vị Đại Bồ-tát. Đề-bà-đạt-đa cùng hạnh với họ, sao lại có thể gọi là người của địa ngục?
Như cây chiên-đàn, chiên-đàn vây quanh. Như bước chân của loài voi quý thì bước chân lừa không thể bì kịp. Chỉ có loài voi quý hiếm mới có thể khoan dung cho tất cả.
Này Đại Bà-la-môn! Như Lai Thế Tôn là đại Hương tượng vương (voi quý) cũng như vậy. Những giáo nghĩa sâu xa được nói ra, hàng Nhị thừa chẳng thể nào biết hết được. Chỉ có các vị Đại Bồ-tát Hương tượng mới có khả năng thọ trì. Đềbà-đạt-đa thành tựu vô lượng công đức như vậy, ông nên sám hối, cung kính cúng dường, tôn trọng, tán thán.
Này Đại Bà-la-môn! Các hàng Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều có thể biết được công đức của Đề-bà-đạt-đa một cách rõ ràng, không nghi ngờ. Ông nên biết, Đề-bà-đạt-đa đích thực là đệ tử Phật, đã đạt được một trong hai phần công đức của Phật, đạt được một con mắt của Phật, đạt được một nửa thân thể Phật.
Này Đại Bà-la-môn! Tất cả chúng sinh đều không thể biết được hết mọi công đức hiện có của Đề-bà-đạt-đa. Đối với mọi cảnh giới hiện có nơi công đức của Như Lai, tất cả chúng sinh cũng đều không thể nhận biết hết được. Lại cũng không thể nào thấy được pháp thân của Như Lai.
Này Đại Bà-la-môn! Đề-bà-đạt-đa thật sự biết được mọi công đức vi diệu của Như Lai. Hàng Thanh văn, Duyên giác chẳng thể biết hết được. Thế mà chỉ có Đề-bà-đạt-đa hiểu rõ, không nghi ngờ, lại có khả năng chỉ dạy cho chúng sinh như Như Lai đã làm, biết được mọi quốc độ của chư Phật Như Lai. Đề-bà-đạt-đa chính là một vị đại trượng phu. Bất cứ nơi nào Như Lai đến, Đề-bàđạt-đa cũng đều đi theo. Do đó nên gọi là đại trượng phu.
Tất cả cảnh giới của chư Phật Như Lai sâu xa, lời lẽ bí mật không thể nghĩ bàn, chỉ có Tỳ-kheo Đề-bà-đạt-đa mới có khả năng hiểu được. Hôm nay, Như Lai sẽ mở bày mật ngữ, các Nhân giả nên cố gắng lắng nghe.
Khi ấy, đại chúng đều cùng lời ca ngợi:
Giả sử ma Ba-tuần
Với số chúng vô lượng
Đem hết sức thần thông
Không thể hoại chúng sinh.
Như Lai, đấng vô thượng
Lòng đại từ thương xót
Vì các hàng chúng sinh
Thị hiện quả báo nghiệp.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng:
– Lành thay! Lành thay! Hôm nay ông đã nói thông suốt về công đức chân thật của Đề-bà-đạt-đa - công đức mà các hàng Thanh văn, Phật-bích-chi v.v... đều không thể hiểu được. Vì nhằm đem uy lực nơi công đức của Đại Thừa Phương Đẳng để phá trừ lòng nghi ngờ cho tất cả chúng sinh, ông đã khai hiển công đức của Bồ-tát Đề-bà-đạt-đa.
Lại nữa, này thiện nam! Kinh này lại có Tammuội Thâm tiến đại hải thủy triều của chư Phật, Bồ-tát. Nếu có Bồ-tát nào thành tựu đầy đủ Tammuội này thì có năng lực thổi tan nát núi chúa Tudi cao lớn vững chắc. Ví như vi trần bám vào rau, trấu, không vì thế làm cho rau, trấu tăng thêm trọng lượng. Tứ Đại Thiên vương không sợ hãi, không phá, không hoại, cũng không tự biết được nơi an ổn. Trời Tam Thập Tam cũng như vậy.
Này thiện nam! Đó gọi là Bồ-tát thành tựu đầy đủ Tam-muội Thâm tiến đại hủy thủy triều.
Lại nữa, này thiện nam! Nếu Bồ-tát nào thành tựu đầy đủ Tam-muội này thì có khả năng đem nước bốn biển rót vào một lỗ chân lông, vẫn khiến cho những loài thủy tộc như: giải, đà, rùa, rồng, cá, ba ba v.v... không bị quấy nhiễu và cuộc sống vẫn như thường, không bị ảnh hưởng. Các hàng Long vương, A-tu-la, Càn-thát-bà không tự biết được nơi mình đến. Người thành tựu đầy đủ Tam-muội này có khả năng đem ba ngàn đại thiên thế giới đặt vào lòng bàn tay phải, đoạn lấy đại địa như người thợ gốm quay vòng xe rồi ném đến phương khác cách Hằng hà sa cõi. Những chúng sinh trong đó hoàn toàn đều không biết cũng không có tưởng về qua lại. Đem thế giới kia đặt ở cõi nầy cũng như vậy.
Bấy giờ, Bà-la-môn Thiện Đức đem các loại hương, hoa, phướn, lọng, kỹ nhạc cúng dường Phật, rồi chấp tay cung kính, bạch:
– Bạch Thế Tôn! Với lòng đại bi Thế Tôn thương yêu tất cả chúng sinh như La-hầu-la. Nay con muốn thưa hỏi, cúi xin Thế Tôn chấp nhận.
Khi ấy, Đức Thế Tôn im lặng không trả lời.
Lúc đó, trong chúng hội có Đồng tử Lê-xa tên Nhất Thiết Chúng Sinh Lạc Kiến nói với Bà-lamôn Thiện Đức:
Như Lai im lặng là đã không chấp nhận. Nay tôi sẽ tùy theo những điều ông hỏi mà trả lời.
Bà-la-môn nói:
– Này Lê-xa! Tôi đã từng nghe Như Lai giảng nói nghĩa như vậy: “Nếu có thể cúng dường xá-lợi của Như Lai – dù chỉ nhỏ bằng hạt cải thì phước báo đạt được sẽ được làm chủ cõi trời Đao-lợi”. Lê-xa! Nghĩa lý của kinh Đại Vân này rất sâu xa, mật ngữ của Như Lai khó có thể hiểu được. Đây chẳng phải là những điều mà các hàng Thanh văn, Duyên giác biết được, huống gì chúng ta là những kẻ biên địa. Đã từ lâu, tôi thường có ước nguyện là muốn được cung kính lễ bái xálợi của Như Lai – dù chỉ bằng hạt cải – để rồi được đến cõi trời Đao-lợi làm chủ nơi đó.
Khi ấy, Lê-xa liền nói kệ:
Giả sử trong sông Hằng
Giữa dòng mọc hoa sen
Chim trắng Câu-chỉ-la
Xá-lợi mới đạt được.
Giả sử rùa mọc lông
Lấy làm Tăng-già-lê
Mùa đông làm tiêu nước
Xá-lợi mới thể được.
Giả sử chân con muỗi
Dùng lấy làm cầu đường
Đưa mọi người qua lại
Xá-lợi mới thể được.
Giả sử đỉa trong nước
Bỗng nhiên mọc răng trắng
Lớn như răng hương tượng
Xá-lợi mới thể được.
Giả sử thỏ mọc sừng
Dùng lấy làm thang cấp
Cao đến trời Tịnh Cư
Xá-lợi mới thể được.
Giả sử những sâu, chuột
Leo lên thang sừng thỏ
Lên tới mà ăn nguyệt
Xá-lợi mới thể được.
Giả sử ruồi uống được
Chén đá thấm rượu ngon
Mê cuồng rồi túy lúy
Xá-lợi mới thể được.
Giả sử môi miệng lừa
Hình như quả Tần-bà
Hay khéo ca, vịnh, múa
Xá-lợi mới thể được.
Giả sử quạ và cú
Cùng đậu nơi một cây
Ăn uống không lìa nhau
Xá-lợi mới thể được.
Giả sử lá cây gai
Trải khắp cả tam thiên
Trên đại thiên thế giới
Xá-lợi mới thể được.
Giả sử ghe thuyền nhỏ
Chở được núi Tu-di
Vượt qua dòng biển lớn
Xá-lợi mới thể được.
Giả sử tiêu ô thước
Riêng ngậm núi Đại Hương
Dời đến một nơi khác
Xá-lợi mới thể được.
Bà-la-môn bèn nói kệ đáp lời Lê-xa:
Lành thay, ông Lê-xa!
Khéo biết phương tiện sâu
Nay nên hết lòng nghe
Tôi nói công đức Phật.
Cảnh Phật khó nghĩ bàn
Đạt được đã rốt ráo
Chư Phật thường không đổi
Vì thế không nơi sinh.
Chư Phật, sắc bình đẳng
Ấy là cõi pháp Phật
Như Lai chẳng tác pháp
Cũng lại chẳng có sinh.
Thân kim cương Như Lai
Không thể nào hủy hoại
Vì thế nên xá-lợi
Chân thật chẳng đạt được.
Như Lai không xá-lợi
Thậm chí như hạt cải
Không có máu thịt xương
Sao lại có xá-lợi?
Như Lai vì chúng sinh
Hiện thọ thân phương tiện
Thân chư Phật thường trụ
Pháp giới cũng như vậy.
Tùy theo các chúng sinh
Mà phương tiện nói pháp
Cũng tùy chỗ thích nghi
Mà hiện ra mỗi thân.
Nếu Phật có thương xót
Khắp thảy các chúng sinh
Tại sao không được thấy
Phân thân ban xá-lợi?
Lúc đó, trong đại chúng có Thiên nữ tên Tịnh Quang đem hương, hoa, phướn, lọng, kỹ nhạc cúng dường Phật, rồi cung kính chấp tay bạch:
– Bạch Thế Tôn! Hai vị Hiền giả thành tựu trí tuệ vi diệu sâu xa, có khả năng khai tạng bí mật của Như Lai, từ đâu tới vậy? Cúi xin Thế Tôn hãy giảng nói.
Phật dạy:
– Lành thay! Này Thiên nữ! Nàng đã vì chúng sinh mà thưa hỏi nghĩa này. Vậy thì hãy lắng nghe, Ta sẽ giảng nói. Hai người này chính là hai người con chân chánh của Phật, như Hương tượng vương, là bậc đại trượng phu, vì chúng sinh nên vui ở nơi sinh tử, tri ân báo ân về sự hộ niệm của Ta, khéo có thể hộ trì chủng tánh của chư Phật, vì chư Phật mà chịu trọng trách đốt lên ngọn đèn pháp.
Thiên nữ! Vào thời quá khứ xa xưa vô lượng ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp về trước, lúc đó có Phật ra đời hiệu là Đồng Tánh Đăng gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Cõi Diêm-phù-đề lúc ấy có vô lượng vô biên chúng sinh không thể tính đếm, những chúng sinh này đều thành tựu sự an ổn vui vẻ, không còn những bận tâm về đói khát, khổ não. Đất đai nơi ấy rộng rãi, thanh tịnh, ngang dọc sáu vạn tám ngàn do-tuần. Thành quách có nhiều đến bảy vạn tám ngàn tòa, mỗi một đại thành đều được hình thành từ bảy báu. Bốn phía vách thành có chín vạn lần đẩy lùi quân địch. Đại thành lúc đó tên là Bảo tụ, tức nay là thành Vương-xá. Trong thành Bảo tụ có tám vạn ngàn ức người. Đức Phật Đồng Tánh Đăng sinh ra tại thành này. Tất cả vô lượng chúng sinh trong thành ấy đều phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng thành tựu được thần thông, là tượng vương trong loài người.
Thiên nữ! Bấy giờ ở giữa đại chúng, Đức Như Lai cất lên tiếng sư tử gầm, rồi tuyên nói kinh điển
Đại Vân này. Thời ấy, trong thành có vị vua tên Đại Tinh Tấn Long Vương, vua có phu nhân tên Hộ Pháp, có một đại thần tên Pháp Lâm Tụ.
Lúc này, vua cùng phu nhân với vị đại thần kia đi đến chỗ Phật, cung kính cúng dường, chấp tay lễ bái, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lui ra ngồi một bên. Khi đó, Đức Phật Đồng Tánh Đăng biết được những suy nghĩ nơi tâm của Đại Tinh Tấn Long Vương, bèn phóng ra luồng ánh sáng lớn có tên Vô sở úy, khi gặp luồng ánh sáng này, lòng vua đạt được pháp hỷ. Lúc ấy, nương thần lực của Phật, vị đại thần của vua, bạch: “Bạch Thế Tôn! Xá-lợi của Như Lai có thể đạt được chăng?”. Đức Thế Tôn im lặng không trả lời.
Thiên nữ! Vị đại vương ấy vì chánh pháp nên đã cùng vị đại thần thay phiên nhau luận giảng về xá-lợi. Nghe thế, Phật khen ngợi: “Lành thay! Lành thay!”.
Trong chúng của vị Phật ấy có một vị đại đệ tử tên Ma-ha-nam, tâm sinh thiện dục, thầm nghĩ: “Thật tốt thay, vị đại vương này đã khéo giải pháp giới hết sức thâm diệu của Như Lai”. Thế rồi Đức Phật liền giảng nói về những diệu nghĩa của giáo pháp sâu xa mà vua đã giải thích cho chúng hội nghe. Đại chúng nghe rồi đều sinh lòng kinh sợ, nghi ngờ. Phật liền bảo đại chúng: “Công đức của vị vua này là không thể nghĩ bàn, sâu xa không thể lường xét. Đây chẳng phải là những điều mà các ông có thể lãnh hội được”.
Nghe Phật khen ngợi công đức của mình như thế, vị đại vương hết sức vui mừng, liền đứng dậy nhiễu quanh theo phía bên phải ngàn vòng, đem hoa báu cúng dường, tung rải lên trên Phật, rồi ca ngợi, phát nguyện: “Vào đời vị lai, khi Đức Như Lai Thích Ca xuất hiện ở đời, lúc dùng đại phương tiện chỉ bày sự diệt vong của giáo pháp, lúc đó, con sẽ xuất gia tu đạo, thọ trì tịnh giới đủ đại uy lực. Hễ thấy có Tỳ-kheo hành ác phá giới nào, con sẽ xua đuổi họ đến những nơi biên địa, nơi không có pháp Phật, và vì chánh pháp, con sẵn sàng không tiếc thân mạng mình”.
Vị đại thần kia cũng lại phát nguyện: “Khi Đức Như Lai Thích Ca dùng đại phương tiện thị hiện Niết-bàn, vào lúc ấy con sẽ làm một vị đại quốc vương hộ trì chánh pháp vô thượng của Như Lai. Hễ thấy Tỳ-kheo ác nào, con sẽ ra lệnh đuổi đi. Còn đối với những vị trì pháp, con sẽ hết lòng cung kính cúng dường”.
Vị phu nhân kia cũng lại phát nguyện: “Khi Đức Như Lai Thích Ca xuất hiện, khiến cho uy lực của con có khả năng hàng phục tà kiến”.
Vị đệ tử Ma-ha-nam cũng phát nguyện: “Con xin nguyện vào lúc ấy được làm vị đại đệ tử của Đức Như Lai, đạt được thần thông lớn, đối với công đức của Phật, con có khả năng cất lên tiếng sư tử gầm”.
Thiên nữ! Ngày hôm nay, bốn vị này đã nhận trọng trách gánh vác giáo pháp của Ta. Không chỉ hôm nay mà mãi đến về sau, bốn người đó cũng sẽ hộ trì chánh pháp của Ta.
Lúc ấy, Thiên nữ liền bạch:
– Nay con chưa biết bốn vị ấy là ai. Cúi mong Như Lai hãy nói tên những vị ấy.
Phật đáp:
– Lành thay! Này Thiên nữ! Cô hãy chí tâm lắng nghe, Ta sẽ phân biệt giảng nói cho cô rõ. Vị đại thần thuở đó, nay chính là Bà-la-môn Thiện Đức đây. Một trăm hai mươi năm, sau khi Ta diệt độ, ông ấy sẽ làm vua ở cõi Diêm-phù-đề, trụ trong thành Ba-lê-phất-la, tên là A-thúc-ca, họ Vô Tà, là bậc Chuyển luân vương. Ông đã đạt được một trong hai phần phước đức, được đại tự tại trong cõi Diêm-phù-đề, hộ trì chánh pháp gầm lên tiếng sư tử, truyền bá giáo pháp khắp chốn được nhiều xálợi, cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán. Gặp Tỳ-kheo xấu ác thì sửa trị, khiến tu thiện.
Thiên nữ lại nói:
– Xin Như Lai hãy giảng nói thêm. Phật bảo Thiên nữ:
– Hãy chờ một chút, Ta sẽ nói về nhân duyên của cô trước.
Nghe Phật nói thế, Thiên nữ cảm thấy xấu hổ, cúi mặt xuống đất.
Phật bèn khen:
– Lành thay! Xấu hổ tức là y phục pháp thiện của chúng sinh. Thiên nữ! Vị phu nhân của vua thời ấy chính là nàng đấy. Vào thời vị Phật ấy, do vì được nghe một lần về bản kinh Đại Niết Bàn mà nay nàng đạt được thân của cõi trời, gặp lúc Ta xuất hiện ở đời, lại được nghe giáo nghĩa sâu xa xả bỏ hình hài cõi trời này, liền dùng thân nữ làm vua một nước, được làm Chuyển luân vương, thống lãnh một trong bốn cõi, được đại tự tại, thọ trì năm giới, làm một Ưu-bà-di giáo hóa cho những nam nữ lớn nhỏ nơi các xóm làng, thành ấp của mình, khiến họ thọ trì năm giới, giữ gìn chánh pháp, hàng phục những ngoại đạo, các tà thuyết dị kiến. Lúc ấy, nàng đích thực là một Bồ-tát, nhưng do vì để giáo hóa chúng sinh nên đã thị hiện thọ thân nữ.
Còn vị vua thuở đó nay là vị Đồng tử Lê-xa Nhất Thiết Chúng Sinh Lạc Kiến. Do đã thông đạt giáo nghĩa thâm diệu của chánh pháp nên vị này có khả năng mở tạng pháp bí mật của Như Lai, hộ trì Phật pháp không cho thiếu mất.
Còn vị Ma-ha-nam ấy, nay là Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng. Vị Bồ-tát này đã đạt được một trong hai phần chân thật của Ta, đã tri ân báo ân, hộ trì chánh pháp, có khả năng giải đáp nghĩa lý sâu xa không hề vướng mắc.
Thiên nữ! Ngay cả những vị thượng trí như Tôn giả Đại Ca-diếp trong chúng của Ta cũng không thể nào biện nói được nghĩa lý sâu xa này như Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng.
Bấy giờ, trong đại chúng có một Thiên tử tên Kỳ Tài cùng với một ngàn Thiên tử liền đứng dậy, hướng về Phật, đem các loại hoa, hương, phướn, lọng, kỹ nhạc cúng dường rồi cung kính chấp tay nói kệ tán thán:
Biển cả có thể lường
Tu-di có thể biết
Cảnh giới pháp Như Lai
Thật khó thể nghĩ bàn.
Lúc Đức Phật giảng nói pháp này, có vô số ngàn người phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng.
Lúc ấy, Đức Như Lai bảo Bà-la-môn Thiện Đức:
– Lành thay! Lành thay! Này Đại Bà-la-môn! Nay ông khéo phát tâm hoan hỷ nên được quả báo vô thượng.
Này Đại Bà-la-môn! Cách đây về hướng Nam, khoảng ba mươi vạn hằng hà sa thế giới, có một thế giới Tu-man-na, nơi ấy có vị Phật hiệu Tịnh Quang Bí Mật gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, vì hóa độ chúng sinh nên thường trụ ở đời, chuyển bánh xe chánh pháp.
Từ nơi đây về hướng Nam, cách khoảng năm mươi vạn hằng hà sa thế giới, có một thế giới tên Pháp Hỷ Bảo, vị Phật ở cõi đó hiệu là Pháp Tạng gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, vì hóa độ chúng sinh nên thường trụ ở đời, chuyển bánh xe chánh pháp.
Từ đây về hướng Nam, lại cách khoảng sáu mươi vạn hằng hà sa thế giới, có thế giới tên Nhất Thiết Trì, Đức Phật ở cõi ấy hiệu là Sư Tử Hống Thần Túc Vương gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, vì nhằm hóa độ chúng sinh nên thường trụ ở đời, chuyển bánh xe chánh pháp.
Lại từ đây hướng về phía Nam, cách hơn ba mươi sáu vạn hằng hà sa thế giới, có thế giới tên Hoa Phan, Đức Phật nơi cõi ấy hiệu Cao Tu Di, mười tôn hiệu gồm đủ cho đến chuyển bánh xe chánh pháp.
Lại từ đây hướng về phía Nam, cách hơn tám mươi vạn hằng hà sa thế giới, có thế giới tên Bảo Thủ, Phật hiệu là Pháp Hộ, mười tôn hiệu gồm đủ cho đến chuyển bánh xe chánh pháp.
Này Đại Bà-la-môn! Thế giới của chư Phật như thế được trang nghiêm thanh tịnh, không có núi, ụ, gò, đồi, đá, cát, các thứ cấu uế xấu ác. Đất nơi ấy mềm mại như y Ca-lăng-già. Đời không có năm trược, cũng không có người nữ, không có những người thuộc hàng Nhị thừa, thậm chí cả đến tên gọi của những người này cũng đều không có. Nơi ấy chỉ toàn là các Đại Bồ-tát vui thích Đại thừa, hộ trì Đại thừa, ưa giảng nói Đại thừa.
Này Đại Bà-la-môn! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì danh hiệu chư Phật ấy mà còn bị đọa vào ba nẻo ác thì hoàn toàn không có chuyện đó. Trái lại, chắc chắn sẽ đạt được đạo quả Bồ-đề Vô thượng.
Này Đại Bà-la-môn! Do ý nghĩa ấy, sau khi Ta Niết-bàn, kinh này sẽ lưu truyền rộng rãi ở các nước phía Nam và khi chánh pháp sắp mất, hơn bốn mươi năm sẽ truyền đến phương Bắc.
Tại phương Bắc, có vị vua tên An Lạc, khi thấy những ai thọ trì, biên chép kinh quyển, đọc tụng, giảng nói, ông liền tùy thời đem bốn việc cung cấp, không để cho thiếu. Vào lúc ấy, ở phương Bắc có tám vạn bốn ngàn chúng sinh thọ trì kinh này.
Này thiện nam! Nếu có người nào nghe kinh này rồi lại buông bỏ, xa lìa thì hoàn toàn không có chuyện ấy. Nếu thiện nam, thiện nữ nào hết lòng cung kính, thọ trì danh hiệu chư Phật, mà vẫn bị nạn binh đao, độc hại, lửa, nước, giặc cướp, thì hoàn toàn không có chuyện đó, ngoại trừ túc nghiệp của người ấy.
Lại nữa, này Đại Bà-la-môn! Nếu trong bốn bộ chúng và các chúng sinh bên ngoài vì cúng dường, vì sợ hãi, vì muốn cho chánh pháp không bị hủy hoại mà phụng trì danh hiệu của chư Phật thì trọn không còn đọa vào ba nẻo ác. Nếu vẫn bị rơi vào ba nẻo ác thì chuyện này không bao giờ có.
Khi ấy, Bà-la-môn Thiện Đức thưa:
– Bạch Thế Tôn! Có những chúng sinh nghe tên kinh này hãy còn đạt được vô lượng thiện lợi như vậy huống chi là những người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói. Nếu ai được nghe danh hiệu chư Phật kia thì người ấy đã đạt được bảo lớn vô thượng, quả vị Bồ-đề Vô thượng đã ở trong tầm tay của họ. Chư Phật Như Lai đã đến nhà họ. Đất nơi ấy là kim cang, thân họ cũng vậy, tâm vững chắc không động, không thể di chuyển.
Bạch Thế Tôn! Nay con cũng sẽ cung kính cúng dường những người như vậy.
Phật nói:
– Lành thay! Lành thay! Này Đại Bà-la-môn! Ông nay đã khéo nhận biết, khéo lãnh hội diệu lực công đức của Như Lai. Nếu có chúng sinh nào nghe danh hiệu Phật mà cung kính, tin tưởng, không nghi, không sợ, thì chúng sinh ấy sẽ không còn các nỗi sợ hãi như: nỗi sợ hãi của vua, nỗi sợ hãi của con người, nỗi sợ hãi của loài quỷ; không còn các thứ bệnh tật, thường được làm đệ tử học đạo của chư Phật, được tám bộ quỷ thần cùng quyến thuộc che chở, được chư Phật nghĩ đến.
Lúc ấy, trong chúng hội có vua Càn-thát-bà tên Hỷ Kiến, liền rời khỏi tòa ngồi đứng dậy, bước tới chỗ Phật, cung kính chấp tay, bạch:
– Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, những chúng sinh nào có khả năng thọ trì kinh này và truyền bá rộng rãi? Những chúng sinh nào không có khả năng thọ trì và khiến pháp bị hủy diệt?
Đức Như Lai im lặng không trả lời.
Khi đó, Tôn giả Đại Ca-diếp bảo Hỷ Kiến:
– Này thiện nam! Như Lai thật sự không có Niết-bàn, giáo pháp thật sự không bị diệt mất. Vậy sao có thể nói là sau khi Như Lai diệt độ, ai có khả năng thọ trì kinh này?
Vua Hỷ Kiến nói:
– Thưa Đại đức! Tất cả chúng sinh do cuồng ngu, vô trí, cúi xin Đại đức hãy tuyên nói lý do Như Lai không diệt độ. Tất cả chúng sinh bị ngu si u ám che lấp, cúi xin Đại đức hãy thắp ngọn đèn chánh pháp để được bừng sáng. Vào đời vị lai, con cũng sẽ rộng vì tất cả chúng sinh mà khai phát ý nghĩa này. Cúi xin Đại đức thương xót giảng nói rõ.
Tôn giả Đại Ca-diếp nói:
– Này thiện nam! Pháp thân của Như Lai không gọi là nhục thân. Thân Phật là kim cương, chẳng phải là thân bị hủy hoại. Thân ấy đã thành tựu đầy đủ vô lượng công đức. Còn thân phương tiện, không gọi là thực thân. Thân như vậy sao nói là diệt độ?
Vua Hỷ Kiến nói:
– Thưa Đại đức! Nay con biết chắc là Như Lai Thế Tôn chỉ là phương tiện vào Niết-bàn chứ chẳng phải diệt độ một cách rốt ráo.
Tôn giả Đại Ca-diếp khen:
– Lành thay! Thật đúng như ông nói. Thiện nam! Biển cả có thể đo lường, nhưng công đức của Như Lai thì không thể lường tính.
Vua Hỷ Kiến hỏi:
– Khi nào Như Lai sẽ rốt ráo diệt độ? Tôn giả Đại Ca-diếp đáp:
– Giả sử tất cả mọi chúng sinh cho đến những loài như: muỗi, kiến v.v... thảy đều đạt quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nhập vào Niếtbàn, thì khi ấy Như Lai mới Niết-bàn.
Vua Hỷ Kiến hỏi tiếp:
– Thưa Đại đức! Như Lai thành tựu công đức vô lượng vô biên như vậy, thế tại sao tất cả chúng sinh không phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng? Đúng là khổ thay! Vì phước mỏng, chúng sinh không biết thân kim cang thường trụ bất biến của Như Lai chẳng phải là thân tạp thức. Đại đức! Với thân như vậy, ngoài Phật ra các hàng Thanh văn, Duyên giác chẳng thể nào biết được.
Tôn giả Ca-diếp lại nói:
– Này thiện nam! Tất cả chúng sinh đều có tánh Phật, đạt được tâm Bồ-đề.
Khi thuyết giảng phần pháp này, có hai vạn hai ngàn Thiên tử đều phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng, tất cả dị khẩu đồng âm cất lời nói kệ:
Như Lai không Niết-bàn
Chân pháp không có diệt
Vì các hàng chúng sinh
Thị hiện có diệt độ.
Như Lai thường, chẳng diệt
Vì chúng, phương tiện nói
Như Lai không nghĩ bàn
Pháp, Tăng cũng như vậy.
Bấy giờ, từ Hắc Sơn ở phương Nam, có vô lượng các Thiên tử đi đến chỗ Phật, đem các loại hương, hoa, phướn, lọng, kỹ nhạc v.v... cúng dường, đầu mặt lễ bái, nhiễu bên phải ba vòng, rồi bạch:
– Bạch Thế Tôn! Hôm nay Như Lai giảng nói kinh điển này, vô lượng vô biên Hằng hà sa chư Phật Thế Tôn ở thế giới phương Nam cũng giảng nói kinh này. Bạch Thế Tôn! Tên của kinh điển này là gì?
Phật đáp:
– Này thiện nam! Kinh điển này gồm có ba tên: Một là Đại Vân, hai là Đại Bát Niết Bàn và ba là Vô Tưởng.
Vì do Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa hỏi nên gọi là Đại Vân.
Như Lai thường trụ, không có rốt ráo nhập Niết-bàn, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, cho nên gọi là Đại Bát Niết Bàn.
Thọ trì, đọc tụng kinh điển như vầy, tất đoạn trừ tất cả tưởng nên gọi là Vô Tưởng.
Này thiện nam! Có người thân cận vô lượng Hằng hà sa chư Phật Thế Tôn, thọ trì tịnh giới của chư Phật, cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán, thành tựu đại công đức rồi sau đó mới được nghe kinh điển này. Tuy được nghe nhận nhưng không rộng nói cho người khác. Hoặc là ở nơi Hằng hà sa chư Phật Thế Tôn không thể tính, không thể đếm, thọ trì tịnh giới cho đến thành tựu đại công đức, nghe kinh này rồi, lại có khả năng phân biệt rộng nói cho mọi người.
Này thiện nam! Vào lúc chánh pháp sắp diệt, kinh này sẽ lưu hành rộng trong cõi Diêm-phù-đề.
Vào bốn mươi năm đầu, sau khi Phật Niết-bàn, kinh này cũng được lưu truyền rộng khắp.
Và hơn bốn mươi năm trước khi chánh pháp sắp diệt, kinh này cũng được lưu hành rộng rãi.
Vào khi hành ác được ưa chuộng, kinh Phương Đẳng bị hủy báng. Khi vua ác cai trị, khi các đệ của Ta hủy hoại giới cấm, khi gặp phải người đời mê loạn khinh chê, khi bốn bộ đệ tử không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu tuệ, vô minh cuồng si theo thói buông lung, khi những hành vi của con người đồng với súc sinh, khi không còn nghe theo lời chỉ dạy của Hòa thượng, sư trưởng, và khi có sự chống trái với các vị Thượng tọa trưởng lão kỳ túc, thì khi đó, các đệ tử của Ta đối với kinh này không có khả năng tin nhận, lại cười cợt, cật vấn, xem thường.
Tại sao tà kiến nói là Phương Đẳng? Người cạo đầu gọi là Sa-môn? Tại sao trở lại đọc kinh điển tà kiến, thật chẳng phải lời dạy của Phật, mà vì lợi dưỡng nên nói đó là lời Phật dạy, ngang nhiên ở giữa chúng nói: “Như kinh đây chính là tà kiến, chẳng phải do Phật nói, cẩn thận, chớ đọc tụng, biên chép, thọ trì”.
Khi ấy, đại chúng liền cùng đáp: “Đại đức, chớ nói như vậy.
Nghĩa tướng của kinh này thật sự do Phật nói”. Nay Ta vì kinh này nên cùng nêu bày, đệ tử ấy của Ta vì cần được cúng dường mà không có tín tâm để thọ trì, đọc tụng, giảng nói, thì đó gọi là diệt pháp.
Lại nữa, này Thiên tử! Vào thời vị lai, khi chánh pháp sắp diệt, bốn bộ chúng của Ta phước mỏng, trí ít, không biết chán đủ, lui mất thiện căn, nghèo đói pháp tài, không có tâm thân gần Tam bảo Phật, Pháp, Tăng, chỉ vì việc ăn mặc mà cạo đầu, nhuộm y. Tâm họ thô ác như hàng tại gia cạo tóc, nuôi dưỡng nô tỳ, chứa cất vàng bạc, của cải, châu báu như: kha bối, lưu ly, pha lê; tích trữ lúa gạo, bò, ngựa, súc sinh, ruộng vườn, phòng xá, tọa cụ đủ màu, ăn thịt, ham mùi vị, trái bỏ chư Phật, tạo thành mười sáu thứ luật nghi bất thiện, gần gũi quan quyền hào phú, trưởng giả, nhận lãnh sứ mạng thông tin liên lạc với lân quốc; nhận người cúng dường mà lại sinh tâm ác, gây tạo tất cả pháp phi Sa-môn, pháp phi Bà-la-môn.
Này Thiên tử! Vào thời xấu ác, Tỳ-kheo xấu ác như vậy, Ta sẽ có một đệ tử trì giới thanh tịnh, thiểu dục tri túc như Tôn giả Đại Ca-diếp, khéo có thể giáo hóa chúng sinh nơi cõi Diêm-phù-đề. Đối với những kẻ hành ác trong đám đệ tử của Ta, vị ấy sẽ nói những lời chân chánh, không tiếc thân mạng, mở rộng tạng bí mật sâu xa của Như Lai, tán dương những người trì giới, hành Đầu-đà, thành tựu đầy đủ Ba-la-đề-mộc-xoa, khen ngợi hạnh tri túc, mặc y phấn tảo, khắp vì kẻ xấu ác mà nói như vầy: “Chư Đại đức! Thế Tôn không cho phép nhận chứa tất cả những đồ bất tịnh, tham vị, ăn thịt. Như Lai thường khen việc trì giới, quở trách việc phá giới. Đại đức, nay nếu thầy không chịu nghe lời tôi, tôi có đại uy lực, có khả năng điều phục thầy”.
Vị đệ tử này của Ta, do diệu lực của phước đức, đều khiến cho tất cả tin phục, không chống trái. Vì sao? Vì vị ấy đã từng thân gần vô lượng chư Phật Thế Tôn, rộng tu từ bi, ham thích Đại thừa, hộ trì chánh pháp.
Lúc ấy, thường có năm vạn tám ngàn các quỷ thần thiện theo bảo vệ vì nhằm hộ trì chánh pháp của Phật.
Thiên tử lại thưa:
– Bạch Thế Tôn! Vào đời vị lai, chúng con cũng sẽ hộ vệ những Tỳ-kheo trì pháp này.
Phật nói:
– Lành thay! Lành thay! Này Thiên tử! Như lời ông nói, khi pháp sắp diệt cần phải hộ trì.
Này Thiên tử! Lúc đó, Ta cũng có thể dùng uy thần nơi đạo lực hàng phục ma ác, trị các Tỳ-kheo ác. Khi ấy, vô lượng chư Phật trong mười phương cũng đồng tán thán vị đệ tử ấy của Ta.
Thế rồi, tất cả Thiên tử ở phương Nam lại đem hoa, hương cúng dường Đức Thế Tôn, rồi bạch:
– Bạch Thế Tôn! Vị đệ tử này tên gì, ở đâu và chừng nào xuất hiện?
Phật đáp:
– Này thiện nam! Khoảng một ngàn hai trăm năm, sau khi Ta
Niết-bàn, tại Nam Thiên Trúc có một đại quốc vương tên Ta-da-bà-a-na, vào thời gian hơn bốn mươi năm khi giáo pháp sắp diệt mất, người này xuất hiện, giảng nói kinh điển Phương Đẳng Đại Thừa, cứu giúp, làm hưng khởi giáo pháp sắp diệt, truyền bá rộng rãi kinh này ở đời, dạy người chấp trì đầy đủ, đọc tụng, biên chép, giảng giải, nghe nhận nghĩa lý của kinh. Nếu lúc ấy không thể thọ trì, giảng nói kinh điển này như vậy thì nên biết:
Người ấy chẳng phải là đệ tử của Ta mà là quyến thuộc của ma.
Bấy giờ, vua Càn-thát-bà Lạc Kiến, bạch:
– Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn thương xót mà giảng nói về vị đệ tử trì pháp như Tôn giả Cadiếp ở đời vị lai, thành tựu đại từ, đầy đủ tịnh giới, quyến thuộc, chủng tánh không thể chê trách.
Phật đáp:
– Này thiện nam! Hãy lắng nghe, Ta sẽ nói cho ông rõ. Vị đệ tử này của Ta giữ gìn chánh pháp, duy trì chủng tánh của Phật, là người tất cả chúng sinh đều ưa nhìn thấy.
Này thiện nam! Tại Nam Thiên Trúc có một nước nhỏ tên Tu-lại-trá, trong nước ấy có một con sông tên Thiện Phương Tiện, cạnh sông có thôn tên Hoa-man, nơi thôn nầy có Bà-la-môn sinh một đồng tử tức nay là Nhất Thiết Chúng Sinh Lạc Kiến Lê Xa. Thời sau lại gọi là Chúng Sinh Lạc Kiến. Vị Đại Bồ-tát này là bậc đại Hương tượng vương luôn được tất cả mọi người cung kính cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Đến năm hai mươi tuổi, xuất gia tu đạo, có nhiều đồ chúng tu trì tịnh giới, xưng tán kinh điển Đại Thừa của chư Phật, hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng. Các đệ tử của vị Tỳkheo này cũng như vậy. Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheoni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào nghe Tỳ-kheo này giảng nói chánh pháp thì nhất định sẽ đạt được quả vị Bồ-đề Vô thượng. Hàng quốc vương, đạt được, trưởng giả, cho đến tất cả mọi người đều vì kinh điển này mà cúng dường, cung kính vị Tỳ-kheo trì pháp. Diệu lực của kinh này đã khiến cho quốc vương đạt được đại uy lực, mọi nước khác không thể xâm lấn. Còn vị đệ tử của Ta thì quân ma không sao quấy nhiễu được.
Vào lúc ấy, nếu có người thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này thì được gọi là Đại Bồ-tát, là ruộng phước trong số các tịnh tăng.
Này Càn-thát-bà vương! Các đệ tử của Ta vào thời bấy giờ phần nhiều tin nhận kinh điển như thế, những người đạt được giải thoát cũng không phải là ít.
Này thiện nam! Nếu ai có khả năng thành tựu bốn việc thì có thể thọ trì kinh điển như vậy: Thứ nhất: Được nghe Tam-muội Thâm tấn đại hải thủy triều.
Thứ hai: Được nghe danh hiệu chư Phật ở phương Nam. Thứ ba: Thân gần bậc tri thức thiện. Thứ tư: Hết lòng tin vào Phật, Pháp, Tăng.
Nếu lúc ấy có người không thể tin nhận kinh điển này thì kẻ đó là quyến thuộc của ma. Còn nếu tin nhận thì đó là đệ tử của Phật.
Này thiện nam! Vào đời vị lai, người nào có tín tâm thì gọi là thân gần chư Phật Thế Tôn. Vì sao? Vì kinh điển như vậy là do chư Phật ấn phong. Nói ấn có nghĩa là tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, Như Lai thường trụ, không có biến đổi.
Này thiện nam! Nếu ai có khả năng tin tưởng kinh này thì nên biết người ấy chính là đệ tử của Phật. Nếu ai có khả năng cung kính vị trì pháp ấy, vào đời vị lai, người đó sẽ được làm quyến thuộc, đồ chúng của chư Phật. Vì sao? Vì vô lượng chư Phật đã sinh tâm hy hữu đối với người này. Vì sao? Vì Tỳ-kheo trì pháp ấy là không thể nghĩ bàn, ở quá khứ đã cùng Phật Nhiên Đăng phát đại thệ nguyện: Nơi đời vị lai, khi giáo pháp của Đức Như Lai Thích Ca sắp bị diệt, vào lúc ấy con sẽ xuất gia tu đạo, hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng.
Vua Đại Tinh Tấn Long Vương khi đó, nay tức là Lạc Kiến Lê Xa. Lạc Kiến Lê Xa này sẽ là Tỳkheo hộ pháp ở mai sau.
Này thiện nam! Ông nên khéo quan sát công đức ở đời vị lai nơi các vị đệ tử của Ta. Nếu ai có thể cung kính cúng dường vị đệ tử này của Ta, thì nên biết người ấy đã cung kính đối với chư Phật ở ba đời trong mười phương.
Nếu ở đời vị lai, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheoni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di tin nhận những lời diễn nói của vị Tỳ-kheo trì pháp này, tức là tin nhận những lời giảng nói của chư Phật trong mười phương.
Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưubà-di nào ái kính việc không tiếc thân mạng của vị Tỳ-kheo trì pháp ấy tức là đã ái niệm sự tăng trưởng thọ mạng của chư Phật nơi ba đời trong mười phương.
Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bàdi nào ở đời sau, cung kính cúng dường Tỳ-kheo trì giới pháp ấy, chuyên tâm buộc niệm, lắng nghe những điều vị Tỳ-kheo này giảng nói, không tìm cầu những thiếu sót, thì sẽ được chư Phật nơi ba đời trong mười phương tìm kiếm, hộ niệm, giữ gìn như La-hầu-la hộ niệm giới cấm.
Này thiện nam! Đối với các chúng sinh phước mỏng ở đời sau, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nói như vầy: Than ôi! Các chúng sinh như vậy là ưa thích được thấy Tỳ-kheo nhưng thật sự chẳng phải là Tỳ-kheo mà tạo ra hình dáng Tỳ-kheo, xa lìa kinh điển của chư Phật giảng nói, tự cho mình tạo ra kinh Đại Vân, xa lìa những giới cấm do chư Phật chế, lại tự mình chế giới cấm cho chúng sinh.
Chư Đại đức! Các vị hãy lắng nghe. Nếu nói chứa nhóm vàng bạc, châu báu tức là phá giới, ai không chứa nhóm thì được gọi là trì giới. Như Lai ở nơi chốn nào giảng nói những lời ấy? Đây chẳng phải là lời Phật nói mà cho là lời Phật nói. Tại sao tôi phải không tiếc thân mạng để cung kính cúng dường những người ác như vậy? Nói lời ác mà cho đó là lời của Phật! Xướng nêu giới ác mà cho là giới của Phật.
Chư Đại đức! Tôi thật sự không thể tin nhận những lời của Tỳ-kheo ác này nói. Nếu ai cúng dường cho những người như vậy thì chỉ tốn công, hoàn toàn không có quả báo. Còn ai nghe những lời nói ấy, mọi tín tâm đều bị hoại diệt. Nếu ai tin nhận những lời ác này thì nên biết người đó từ chỗ tối lại bước vào chỗ tối. Còn nếu không tin nhận thì người này từ chỗ sáng bước vào chỗ sáng.
Này thiện nam! Ai tùy thuận theo lời ác này, kẻ ấy là quyến thuộc của ma. Còn ai không tùy thuận theo, đó mới chính là đệ tử của Ta.
Này thiện nam! Nghĩa lý của kinh Đại Vân này sâu kín, thâm diệu khó có thể lãnh hội. Nếu như bốn bộ chúng ở đời vị lai phước đức thuần thục, đạt được tâm Bồ-đề, siêng năng tu hành, nói như vầy: Lành thay! Tỳ-kheo chính là đệ tử của Phật, khéo trụ vào đại địa, là bậc Đại Bồ-tát, vị Đại sĩ dũng mãnh, chẳng phải là người thấp kém. Kẻ thấp kém không thể xoay chuyển trong biển cả như vậy. Chư Đại đức, các thầy có thể cùng nhau đến cúng dường Tỳ-kheo như thế!
Chư Đại đức! Nay tôi thấy Tỳ-kheo trì pháp này tức là quả báo của vô lượng công đức nơi đời quá khứ. Tùy theo chỗ ở của vị Tỳ-kheo ấy, nên biết đất đai cùng chúng sinh tại đó, công đức cũng được trọn vẹn, an lạc, không sự lo lắng. Nếu ai thấy được Tỳ-kheo này, nên biết người ấy đã đạt đầy đủ thiên nhãn, pháp nhãn. Ta vì người ấy mà không tiếc thân mạng.
Nếu nghe những lời ấy, thà bỏ thân mạng, trọn không để quên mất. Ta thà vì một người như vậy mà không tiếc thân mạng chứ hoàn toàn không thể vì trăm ngàn vạn kẻ kết bè nhóm hành phi pháp mà xả bỏ thân mạng.
Này thiện nam! Một khi pháp ác như vậy xuất hiện, vào lúc đó, vị đệ tử này của Ta sẽ hộ trì giáo pháp của Như Lai.
Này thiện nam! Vào đời vị lai lúc giáo pháp sắp diệt, nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưubà-di nào vì hộ trì chánh pháp mà không tiếc thân mạng thì người ấy được gọi là người thắp lên ngọn đèn trí tuệ, độ thoát chúng sinh, tu hành tất cả mọi hạnh của chư Phật, chắp cánh cho giáo pháp, phá trừ cảnh giới của ma, thân được tự tại, tâm được tự tại, là không thể nghĩ bàn, được hết thảy chúng sinh ái kính.
Này thiện nam! Vị Tỳ-kheo trì pháp này vào lúc giáo pháp sắp diệt, suốt sáu thời trong một ngày một đêm bảo với các chúng sinh: Các người nên cùng nhau thọ trì chánh pháp.
Các Tỳ-kheo xấu ác nghe nói thế, tâm không vui vẻ. Vì không vui nên mới nói: Đại đức! Pháp tà như vậy ai sẽ tin nhận? Im lặng là tốt. Còn nếu không im lặng được thì sẽ chấm dứt thọ mạng của ông!
Vị Tỳ-kheo trì pháp ấy lại nói: Ta thà xả bỏ thân mạng chứ trọn không im lặng.
Thế rồi, các Tỳ-kheo ác kia cùng nhau tìm đến hại vị Tỳ-kheo trì pháp ấy.
Này thiện nam! Người như vậy là đệ tử trì pháp cuối cùng của Ta. Ông nên biết, lúc ấy giáo pháp của Ta bị diệt. Nếu nói khi đó trong số đệ tử của Ta lại có người hộ trì pháp như thế thì hoàn toàn không thể có.
Vua Càn-thát-bà hỏi:
– Vị trì pháp ấy bỏ thân này rồi lại được thân gì? Phật đáp:
– Này thiện nam! Xả bỏ thân này, vị ấy sẽ đạt được thân Phật, thân vô biên.
Vua Càn-thát-bà nói:
– Cúi xin Thế Tôn hãy vì các chúng sinh giảng nói rõ vị Tỳ-kheo ấy tại sao xả bỏ thân lại được thân Phật?
Phật đáp:
– Này thiện nam! Lành thay! Ông hãy lắng nghe, Ta sẽ giảng nói về công đức của vị đệ tử trì pháp ấy.
Trải qua Hiền kiếp này, sau khi một ngàn vị Phật diệt độ, trong suốt thời gian sáu vạn hai ngàn kiếp, hoàn toàn không có vị Phật nào xuất hiện ở đời. Thời gian này chỉ có vô lượng ức na-do-tha các vị Phật-bích-chi đang giáo hóa ở thế gian. Trải qua số kiếp như thế thì có bảy vị Phật xuất hiện. Và khi bảy vị Như Lai này nhập Niết-bàn rồi, cõi nước ấy lúc đó đổi tên là Hỷ Quang.
Tại cõi nước Hỷ Quang này có một vị Phật xuất hiện, hiệu là Trí Tụ Quang gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Người dân hiện có tại thế giới của vị Phật ấy hình dáng đoan nghiêm, thành tựu tín tâm.
Nếu người nào ở trong giáo pháp của ta, xả bỏ thân mạng để hộ trì, thì sẽ được sinh vào thế giới của vị Phật ấy và làm đại đệ tử. Đại đệ tử có nghĩa là Đại Bồ-tát, là đại trượng phu đích thật, là bậc đại Hương tượng vương. Dân chúng trong cõi đó đều không có tham dục, sân hận, si mê, tất cả đều thành tựu tín tâm thanh tịnh.
Đức Phật Trí Tụ Quang sống lâu đến mười lăm trung kiếp. Đức Phật đã vì các hàng đệ tử mở bày giáo pháp ba thừa. Tuy mở bày ba thừa nhưng phần nhiều nói về hạnh Nhất thừa của Bồ-tát. Khi ấy, tuy có Ma vương và con của ma nhưng tất cả đều phát tâm Bồ-đề. Hết thảy chúng sinh đều có đủ tâm đại từ đại bi, thảy đều xa lìa các khổ não của ba đường ác, không còn tám nạn. Thế giới thường thanh tịnh, giống như cõi Uất-đan-việt ở phương Bắc. Thiên ma Ba-tuần không thể thao túng tùy tiện và đã dứt hẳn tà kiến.
Khi Đức Phật Như Lai ấy nhập Niết-bàn, giáo pháp tồn tại đến ngàn ức năm sau đó mới diệt mất. Nghe Phật giảng nói xong, tất cả đại chúng, các hàng trời, rồng, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, đem các loại hương hoa vi diệu, kỹ nhạc cúng dường Phật. Các vị đại đệ tử như Tôn giả Đại Ca-diếp v.v... vui mừng tán thán, cung kính đảnh lễ. Các vị Đại Bồ-tát lại đem hoa vi diệu lớn như núi Tu-di cúng dường Phật, rồi cùng nhau phát nguyện: Nguyện con sau này sinh vào thế giới của vị Phật ấy.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng bạch:
– Bạch Thế Tôn! Cúi xin Như Lai hãy vì những chúng sinh phước đức mỏng ở đời sau mà diễn nói Tam-muội Thâm tấn đại hải thủy triều.
Phật đáp:
– Này thiện nam! Nay ông chớ nên nói như vậy. Vì sao? Gặp Phật ra đời đã là khó. Nghe được kinh Đại Vân này cũng đã khó. Nếu có người biên chép, thọ trì, đọc tụng một câu, một chữ lại càng khó hơn. Vì sao phải thiên vị người đời sau? Ta sẽ mở rộng phân biệt cho khắp tất cả chúng sinh trong ba đời.
Này thiện nam! Ta vì những chúng sinh phước mỏng, tội căn sâu nặng ở đời vị lai nên mới giảng nói kinh này, mong sẽ được truyền bá rộng rãi vào đời sau.
Này thiện nam! Vào đời vị lai nếu ai có khả năng, có lòng tin, không nghi ngờ, đọc tụng một bài kệ trong kinh Đại Vân này thì người như thế rất là hiếm có.
– Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai lại nói như vầy?
– Này thiện nam! Ta cũng chẳng riêng vì đời sau mà nói. Tại sao lại phải sinh tâm nghi như vậy? Nếu ai có khả năng nghe một câu, một kệ do Như Lai giảng nói mà không sinh tâm nghi ngờ, thì người ấy thật là hiếm có trong ba đời. Vì sao? Vì chúng sinh trong ba đời khó đạt được các môn Tam-muội, Đà-la-ni tri ân báo ân. Chúng sinh đời vị lai không tri ân, cũng không thể báo ân. Do không tri ân nên tín tâm khó đạt. Tín tâm khó đạt nên Ta mới nói: Giảng nói kinh này vì đời vị lai. Nếu ai có thể đọc tụng, thọ trì một câu, một bài kệ của kinh này thì người ấy thật là hiếm có. Chúng sinh đời sau phước mỏng tội nặng nên lại nói: Nói kinh này vì đời vị lai.
Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng nói:
– Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát nào an trụ vào Tam-muội Thâm tấn đại hải thủy triều thì sẽ thành tựu được vô lượng vô biên công đức. Đây chẳng phải là những điều mà các hàng Thanh văn, Duyên giác nhận biết được.
Phật nói:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Trụ vào Tam-muội này, các vị Bồ-tát ấy đạt được chỗ thật sâu xa, không thể lường tính. Ví như đại hải là nơi các dòng sông chảy về, số lượng không thể lường hết.
Này thiện nam! Đại hải như vậy còn có thể tính đếm, chứ các vị Bồ-tát thì thật không thể lường tính được. Vì sao? Vì do an trụ vào Tam-muội sâu xa ấy.
Lại nữa, này thiện nam! Nếu Bồ-tát nào trụ nơi Tam-muội này thì có năng lực dùng một sợi lông chân nhấc các đại thế giới của Hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới, cao đến vô lượng thế giới ở phương Trên, khiến cho các chúng sinh không còn có tưởng sợ hãi. Tất cả chúng sinh ở phương khác đều thấy được sự hóa độ ấy, cả đến mọi chúng sinh trong mười phương cũng đều như vậy.
– Bạch Thế Tôn! Tam-muội như thế chính là được thành tựu từ vô lượng vô biên công đức. Thế nên, Phật nói vì khắp cả chúng sinh trong ba đời.
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Thật đúng như những gì ông nói. Này thiện nam! Ví như đại hải thâu gồm tất cả nguồn nước từ các sông suối. Kinh Đại Vân này cũng như vậy, thâu gồm hết thảy vô lượng kinh điển.
Lại nữa, này thiện nam! Nếu các kinh điển nào có những Tam-muội không vướng mắc như vậy, nên biết kinh ấy đã thâu gồm tất cả Tam-muội mà các hàng Thanh văn, Phật-bích-chi đạt được. So với Tam-muội này thì các Tam-muội kia không thể sánh bằng. Vì sao? Vì Thanh văn, Duyên giác không có thường, lạc, ngã, tịnh, còn Tam-muội không vướng mắc này rộng mở bày thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai không có biến đổi. Vì thế, không thể so sánh giữa hai loại Tam-muội ấy.
Này thiện nam! Nếu ai nghe Như Lai là thường hằng không biến đổi mà có tín tâm thanh tịnh nên biết người ấy đã đạt được tâm Bồ-đề Vô thượng tu đạo Bồ-đề.
Này thiện nam! Nếu người nam hoặc người nữ nào muốn đạt được thường trụ, không có biến đổi, thì phải nên thọ trì, đọc tụng, biên chép, diễn nói kinh này.
Nếu ai có khả năng thọ trì, diễn nói kinh này như thế, nên biết người ấy không bao lâu sẽ đạt được quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
Nếu ai có sinh tâm nghi ngờ, sợ hãi khi nghe nói Như Lai thường trụ, không biến đổi, nên biết người ấy không thể thấy được tướng chân thật của Như Lai. Nói tướng chân thật có nghĩa là Như Lai thường hằng bất biến, an trụ một cách yên lặng. Do vậy, người nghe không nên hồ nghi, sợ hãi, mà nên thọ trì, rộng nói cho người khác. Giảng nói như vậy nên biết pháp Phật sẽ tồn tại, không bị diệt mất.
Này thiện nam! Giống như dấu chân của tất cả chúng sinh nằm trọn trong dấu chân voi. Cũng vậy, tất cả Tam-muội cũng đều nhập vào trong kinh này.
Này thiện nam! Như tất cả núi, sông, cây cối, rừng rậm trong cõi Diêm-phù-đề, cho đến toàn bộ núi sông, cây cối, nhật, nguyệt, tinh tú trong bốn cõi thiên hạ đều nằm trọn trong ba ngàn đại thiên thế giới. Cũng vậy, hết thảy mọi công đức hiện có của các hàng phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, các vị Phật, Bồ-tát, hết thảy các thiền định Tammuội cũng đều nằm trọn trong kinh Đại Vân này.
Nếu chúng sinh nào, ngay trong một niệm, niệm về sự thường trụ bất biến của chư Như Lai, nên biết, chúng sinh ấy tức đạt được quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
Này thiện nam! Ví như ánh trăng mùa thu không bị mây mù che lấp. Hoặc khi bầu trời trong lành, mặt trời mới xuất hiện, ánh sáng đoan nghiêm, mọi người đều ưa thích, vì phá trừ mọi u ám tối tăm. Kinh Đại Vân này cũng như vậy, diễn ra ánh mặt trời dũng mạnh, thường hằng bất biến của Như Lai, ở tại hư không là mật ngữ thanh tịnh, phá trừ mọi ám chướng vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh của chúng sinh. Đoan nghiêm, ưa thích là dụ cho Như Lai trọn không rốt ráo nhập Niết-bàn.
Lại nữa, này thiện nam! Ví như có người thân nhẹ, đi nhanh giống như Tứ phong vương, thọ mạng đầy đủ vô số ngàn năm, bay đi khắp các thế giới trong mười phương. Đi khắp nơi xong, người ấy liền trở về chỗ cũ. Như vậy, những nơi đi qua, anh ta đều dùng bảy báu và cả thân mình cúng dường Tam bảo suốt vô số ngàn năm.
Này thiện nam! Phước đức như vậy có thể tính lường được chăng?
– Bạch Thế Tôn! Không thể tính lường!
– Này thiện nam! Phước đức như vậy không sánh được với người chỉ trong một niệm nhớ nghĩ về Như Lai thường trụ, Pháp, Tăng không diệt.
Này thiện nam! Nếu lại có người nào vì lợi dưỡng, vì sợ hãi, vì thân gần mà diễn nói một câu, một chữ về sự thường hằng bất biến của Như Lai, phước đức đạt được so với công đức nêu trước thì công đức nêu trước kia không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần vạn, cho đến cả toán số thí dụ cũng không thể nào kịp.
Này thiện nam! Ví như cây thuốc, nếu có chúng sinh lấy nhánh, hoặc lấy thân, lá, hoa, quả, vỏ v.v... thì cây này cũng không sinh niệm: lấy nhánh, chớ lấy thân; lấy thân chớ lấy lá; lấy lá chớ lấy hoa; lấy hoa chớ lấy quả; lấy quả chớ lấy vỏ; mà ngược lại, tùy theo cách dùng cho từng loại người bệnh, khiến bệnh tình của tất cả chúng sinh càng mau chóng bình phục. Hoặc là trộn với nước, hoặc là trộn với sữa, hoặc nghiền thành bột, hoặc vo thành viên, hoặc bôi, hoặc uống, thảy khiến lành bệnh.
Kinh Đại Vân này cũng như vậy. Không quán chúng sinh hoặc nêu lên một bài kệ, hoặc nửa bài kệ, một tên, một nghĩa, một câu, nửa câu, tin nhận hai chữ, hoặc nói Như Lai thường, cũng không quan sát chúng sinh có tu Tam-muội Thâm tấn đại hải thủy triều, hoặc có tu đại từ, đại bi hay không, thảy đều khiến đoạn dứt các bệnh khổ nơi ba cõi ác.
Như Lai cũng không quan sát: Chúng sinh lấy một bài kệ, không nên lấy nửa bài kệ; lấy nửa bài kệ, không nên lấy tên; lấy tên, không nên lấy nghĩa; lấy nghĩa không nên lấy câu; lấy câu không nên lấy nửa câu; lấy nửa câu cho đến hai chữ v.v... mà Như Lai đều khiến cho bốn bộ chúng xa lìa ba nẻo ác.
Này thiện nam! Người đời sau không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu tuệ, khinh chê, vì tìm lỗi lầm, cho đến do lợi dưỡng, ít đọc tụng, biên chép, nghe nhận... cũng được xa lìa vô lượng nghiệp ác, dứt hẳn các thứ bệnh tham dục, sân hận, ngu si.
Này thiện nam! Giống như khi ánh dương xuất hiện phá tan băng tuyết, kinh Đại Vân này cũng như vậy, nói Như Lai thường trụ có khả năng phá tan tất cả băng tuyết vô thường.
Lại nữa, này thiện nam! Ví như gió mạnh nổi lên giữa hư không, thổi qua thân chúng sinh, nhập vào các lỗ chân lông, có khả năng trừ hết chứng bệnh nóng bức, thân được thư thái. Hư không dụ như kinh Đại Vân. Gió mạnh nổi lên dụ cho Như Lai thường trụ. Gió nhập vào lỗ chân lông dụ cho các chúng sinh đều có Phật tánh. Trừ bệnh nóng bức dụ cho đoạn dứt tâm của hàng Thanh văn, Phật-bích-chi.
Lại nữa, này thiện nam! Nếu ai có khả năng đọc tụng, thọ trì kinh điển này, hoàn toàn không vì quả vị Tu-đà-hoàn. Hộ trì giới cấm hoàn toàn không vì hướng Tư-đà-hàm hay đạt quả vị Tư-đà-hàm, hướng A-na-hàm hay đắc quả vị A-na-hàm, hướng A-la-hán hay đắc quả vị A-la-hán. Hộ trì giới cấm nếu là hướng Phật đạt lấy quả vị Vô thượng, thì người ấy được gọi là người trì giới cấm chân chánh, chứ chẳng phải vì ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp mà hộ trì giới cấm.
Nếu vì sự không thể nghĩ bàn của Như Lai mới gọi là hộ giới. Như Lai chẳng phải vì trụ tâm, tu tập vô lượng Tam-muội, cũng không vì trụ tâm tu tập cùng với chư Phật, cũng lại không vì trụ tâm tu tập vô lượng nhân quả, không vì trụ tâm tu tập vô lượng công đức của chư Phật. Như Lai trụ nơi không chỗ trụ, gọi là thật tướng.
Nếu xem thường ấn chứng vô thượng của Như Lai thì không gọi là hộ giới. Nếu nói Như Lai vì ấn này mà gọi là người hộ giới, thì đối với việc ấy ông nên cẩn thận, chớ sinh lòng nghi ngờ.
Như Lai vô tướng nên gọi là hộ giới. Nếu nói Như Lai vì tướng ấy mà gọi là người hộ giới, ông cũng đừng sinh lòng nghi ngờ.
Như Lai vô chủng hảo nên nên gọi là hộ giới. Nếu nói Như Lai vì chủng hảo mà gọi là người hộ giới, ông cũng đừng sinh lòng nghi ngờ.
Như Lai chẳng phải là nhân duyên thần thông nên gọi là hộ giới. Như Lai chẳng phải là mật tạng nên gọi là hộ giới.
Như Lai chẳng phải là ruộng phước vô thượng nên gọi là hộ giới. Như Lai chẳng phải là tạng Như Lai nên gọi là hộ giới.
Như Lai vì đoạn trừ tất cả sự khổ não bức bách của sinh, già, bệnh, chết nơi chúng sinh nên gọi là hộ giới.
Vì muốn đem lại an lạc cho các chúng sinh nên gọi là hộ giới.
Vì đoạn dứt sự ràng buộc của sinh tử cho chúng sinh nên gọi là hộ giới.
Vì khiến cho chúng sinh chuyên hướng đến đạo Bồ-đề vô thượng nên gọi là hộ giới.
Vì các chúng sinh mà đạt quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng nên gọi là hộ giới.
Vì các chúng sinh mà chuyển bánh xe pháp nên gọi là hộ giới.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đạt danh tự Thánh tăng nên gọi là hộ giới.
Vì khiến cho chúng sinh không đoạn chủng tánh bậc Thánh của Như Lai nên gọi là hộ giới.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh không đoạn Pháp, Tăng nên gọi là hộ giới.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc Tammuội thiền định, trí tuệ, giải thoát nên gọi là hộ giới.
Vì khiến cho chúng sinh đều đắc tịnh giới đầy đủ không thiếu nên gọi là hộ giới.
Như Lai vô giới nên gọi là hộ giới. Đoạn tất cả giới nên gọi là hộ giới.
Như Lai chẳng có giới này nên gọi là hộ giới. Chẳng phải không có giới này nên gọi là hộ giới. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu nói Như Lai không hộ giới, nghĩa ấy như thế nào? Nếu nói Bồ-tát trụ vào Tam-muội Thâm tấn đại hải thủy triều, không hộ giới, nghĩa ấy như thế nào? Như Lai chẳng phải vì ấn vô thượng nên gọi là hộ giới, nghĩa ấy như thế nào?
Phật đáp:
– Này thiện nam! Vị Đại Bồ-tát kể từ lúc trụ vào Tam-muội này trở đi, ban đầu chưa từng trụ vào nơi pháp hữu vi nên thành tựu đầy đủ tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì Tam-muội này đều đã thâu gồm tất cả pháp Phật.
Này thiện nam! Giống như đại bảo tụ có ngọc lưu ly xanh, màu sắc thanh tịnh, hễ ai nhìn vào không sinh lòng hồ nghi. Vị Đại Bồ-tát kể từ lúc được trụ vào Tam-muội ấy trở đi tức thấy Phật tánh một cách rõ ràng, không còn sự hồ nghi. Vì sao? Khi đã thấy rõ ràng mà còn hồ nghi, điều ấy không thể nào có được. Cảnh giới của Như Lai là không thể nghĩ bàn. Thiện nam! Bồ-tát trụ vào Tam-muội này thì thành tựu đầy đủ công đức của chư Phật.
– Bạch Thế Tôn! Vị Đại Bồ-tát trụ vào Tammuội này có được rốt ráo không?
– Này thiện nam! Ông không nên hỏi vị Bồ-tát này có được rốt ráo không? Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đắc Tam-muội này thảy đều thành tựu rốt ráo tận cùng quả vị Bồ-đề Vô thượng rồi, sao lại hỏi Bồ-tát này có được rốt ráo hay không?
– Bạch Thế Tôn! Như vậy, Tam-muội ấy thật là hiếm có. Nếu các chúng sinh không được nghe nhận, thật là đáng tiếc. Nếu ai được nghe thì nên biết người ấy đạt được lợi ích lớn lao.
Phật nói:
– Lành thay! Lành thay! Nếu ai nghe tên Tammuội này thì nên biết người ấy là bậc trên trong loài người. Ví như vương tử Tộc Tánh đoan nghiêm, uy nghi dũng mãnh, hào phóng, trì giới thanh tịnh, không thể chê trách, mọi người đều yêu mến, quyến thuộc kính trọng, thống lãnh đất nước, dân chúng quy thuận. Vị Đại Bồ-tát trụ vào Tammuội này cũng như vậy, đều thành tựu công đức của chư Phật.
Này thiện nam! Giống như hàng Chiên-đà-la hoàn toàn không thể làm vua. Nếu họ làm vua, việc ấy không thể có. Vì sao? Vì họ sẽ bị các tộc họ trên chê cười, chế nhạo. Cũng vậy, nếu có chúng sinh không hay thọ trì, đọc tụng, biên chép Tam-muội này, mà muốn thành tựu mọi công đức vi diệu của chư Phật thì không thể có được. Vì sao? Vì người ấy sẽ bị tất cả chư Bồ-tát chê cười.
Này thiện nam! Nay ông nên quán các vị Bồtát an trụ vào Tam-muội này, có khả năng biết được Như Lai thường hằng bất biến. Nếu ai không thể trụ vào Tam-muội ấy thì không thể biết được Như Lai thường hằng không biến đổi. Vị Đại Bồtát nào vì các chúng sinh mà thọ trì, đọc tụng Tammuội này thì sẽ đạt được đầy đủ Đàn Ba-la-mật. Vì sao? Vì Bồ-tát này thấy ai cầu xin thì tùy theo sự yêu cầu mà ban cho, hoặc đầu, mắt, tủy, não, các bộ phận tay chân, hoặc quốc thành, vợ con, nô tỳ, hầu bộc, voi, ngựa, bảy thứ châu báu... cả đến thân thể còn cho huống gì là những của báu bên ngoài. Khi cho thì vui vẻ, cho rồi không hối tiếc.
Đối với quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng – dù đắc hoặc không đắc – tâm không nghi ngờ, lo lắng, hoàn toàn không vì quả báo mà hành bố thí, nên nếu nói: Vì quả báo mà bố thí, thì không thể có được. Không vì tham mà hành bố thí, trái lại, vì thương xót mà ban ơn, bố thí, vì Như Lai là thường hằng, vì hộ pháp, vì muốn đầy đủ Đàn Bala-mật, diễn nói sự thường hằng bất biến của Như Lai mà ban ơn, bố thí.
Lại nữa, này thiện nam! Vị Bồ-tát nào trụ vào Tam-muội ấy rồi thì có thể biết tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, Như Lai thường hằng, không có biến đổi. Khi trụ vào Tam-muội ấy, vị Đại Bồ-tát thường quán như vầy: “Nay thân này của ta là không, là không thật có, đã đạt lợi ích lớn lao vô thượng. Nay ta đem mọi bộ phận tay, chân, đầu, mắt, tủy, não, da trong, da ngoài, máu, thịt... bố thí cho người để đời sau đạt được quả vị Bồ-đề Vô thượng.
– Bạch Thế Tôn! Vị Đại Bồ-tát trụ vào Tammuội ấy, tại sao lại quán thân như vậy?
– Này thiện nam! Vị Đại Bồ-tát ấy không thấy thân này có tới lui, ngồi nằm, chỉ giống như bình rỗng. Thế nên Bồ-tát quán thân là vắng bặt, máu thịt, xương tủy gọi là thân không. Chư Bồ-tát trụ vào Tam-muội ấy, đạt được thân phi máu thịt xương tủy, thành tựu pháp thân không gọi là thực thân.
– Bạch Thế Tôn! Pháp thân của Như Lai không gọi là thực thân, nghĩa ấy là sao? Pháp thân không hình dáng, không thể nhìn thấy, thế làm sao giáo hóa được chúng sinh? Như Lai thường nói trong các kinh ví như chim bay trong hư không, không để lại dấu vết. Pháp thân của Như Lai cũng như vậy, không tới, không lui, không chuyển, không nói, không thể hủy hoại.
Đức Phật dạy:
– Này thiện nam! Ông chớ nói như vậy.
– Như Lai thường hóa ra thân chúng sinh nên gọi là Hóa thân, nghĩa ấy như thế nào?
Bạch Thế Tôn! Như Ngài đã nói: Trụ vào Tammuội này thì đạt được Pháp thân, thế tại sao lại nói là thân biến hóa? Pháp thân của Như Lai nếu vì giáo hóa mà làm thân tạp thực, tại sao thân này chẳng phải là hư vọng? Chân pháp thân tại sao làm thân tạp thực? Nếu nói là thân tạp thực, nghĩa ấy thật chẳng phải vậy.
Phật đáp:
– Thôi, thôi! Chớ nói thế. Nếu Đại Bồ-tát nào trụ vào Tam-muội ấy mà có hóa thân thì thân ấy được gọi là huyễn thân.
– Bạch Thế Tôn! Tại sao điên đảo đem thân chẳng phải thân này gọi là thân? Gọi vật không phải vật là huyễn? Nếu nói là thân huyễn, tại sao lại được làm thân chúng sinh không lừa dối?
Phật đáp:
– Này thiện nam! Chớ quán như vậy. Trụ vào Tam-muội ấy vị Đại Bồ-tát không có thân trụ. Tuy không thân trụ nhưng cũng như cây thuốc chúa, như cây cỏ, gạch ngói. Thân Ta cũng vậy. Vì sao? Vì thân Ta không ngã, không ngã sở, không mạng, không ngữ, không tâm, không thật, không ấm, giới, nhập. Giống như cây thuốc có khả năng tiêu trừ tất cả bệnh khổ của chúng sinh, thân Ta cũng vậy, trừ diệt vô lượng bệnh khổ của chúng sinh. Vì sao? Vì thân như huyễn không thật.
Lại nữa, này thiện nam! Ví như cây thuốc hoàn toàn không sinh ý niệm: Ngắt lá, đừng bẻ cành của tôi”. Đại Bồ-tát cũng như vậy, hoàn toàn không sinh tâm niệm: “Lấy tay, chớ lấy chân của tôi”. Vì sao? Vì Tam-muội này có năng lực trừ dứt tất cả bệnh tham dục, sân hận, ngu si của chúng sinh. Trụ vào Tam-muội ấy, vị Đại Bồ-tát không có thân bên trong, không có thân bên ngoài, không thân trong ngoài, không thân sinh tử mà đạt được thân cam lồ. Thân cam lồ có năng lực dứt trừ bệnh tham, sân, si của chúng sinh.
Lại nữa, này thiện nam! Trụ vào Tam-muội ấy, Đại Bồ-tát biến ra hóa thân, là vì đoạn tất cả các loại chim muông ác, cùng ba nẻo ác, giống như cây thuốc. Nếu có ai nói các loài chim muông ác gặp thân Bồ-tát mà bị đọa vào ba đường ác thì điều ấy không thể có. Nếu nói xả thân chuyển đến cõi trời, người, gặp được chư Phật, điều ấy thật sự là có.
Lại nữa, này thiện nam! Nếu nói bốn bộ chúng trụ vào Tam-muội ấy, được thân gần vô lượng chư Phật, điều đó là đúng.
Lại nữa, này thiện nam! Các hàng Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nếu muốn tu tập Tam-muội ấy, trước hết nên tư duy: “Như Lai thường hằng, không có biến đổi, pháp Phật không diệt, không có rốt ráo nhập vào Niết-bàn”. Lại nghĩ như vầy: “Tất cả chúng sinh cần những thứ gì, ta sẽ cung cấp cho những thứ ấy, hoặc là chân, hoặc là tay, hoặc đầu, hoặc mắt... Vì chánh pháp, ta đều xả bỏ tất cả. Khi xả bỏ thì vui vẻ, không hối tiếc. Vì sao? Vì thân này của ta giống như cây thuốc”.
Nếu ai có khả năng khởi một niệm tư duy như vậy thì nên biết, không bao lâu người ấy đạt được Tam-muội này.
Lại nữa, này thiện nam! Ví như tuấn mã bờm đuôi mịn dài, vào ngày mười lăm bố-tát, ở trong đại hải cất lên ba tiếng kêu đầy tình thương: “Ai muốn qua biển, ai muốn qua biển?”.
Hoặc có những người cỡi trên lưng, hoặc nắm đuôi, bờm, trán, cổ, đầu, cẳng v.v... tất cả đều đến được bờ kia của biển cả.
Kinh Đại Vân này cũng như vậy. Nếu ai có khả năng thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép cho đến chỉ một câu, một chữ, thì tất cả đều vượt qua bờ kia của biển ba ác, hoàn toàn được giải thoát.
Lại nữa, này thiện nam! Nếu có Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào được nghe tên Tam-muội này thì đời đời thường được làm Chuyển luân Thánh vương, Đế thích, Phạm vương, hoàn toàn không thoái chuyển, thường được thân gần Phật, Pháp, Tăng; đối với tâm Bồ-đề vững chắc không lay động, không rời bỏ kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng.
– Bạch Thế Tôn! Tại sao Bồ-tát trụ vào Tammuội này đối với tất cả pháp có được nhận thức chân chánh?
– Này thiện nam! Nếu có ai thành tựu được Tam-muội này, thấy Như Lai vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, rốt ráo Niết-bàn, thì không được gọi là sự thấy biết chân chánh.
Nếu thấy Như Lai thường, lạc, ngã, tịnh, trọn không rốt ráo nhập vào Niết-bàn, như vậy mới gọi là sự thấy biết chân chánh.
– Bạch Thế Tôn! Như Ngài đã nói: Nếu thấy Như Lai thường, lạc, ngã, tịnh, ý nghĩa ấy như thế nào?
– Này thiện nam! Thường, lạc, ngã, tịnh tức là tánh chân thật của Như Lai.
– Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy, tất cả phàm phu cũng có thể thành tựu thật tánh như vậy. Vì sao? Vì kẻ phàm phu cũng chấp vào thường, lạc, ngã, tịnh.
– Này thiện nam! Nay ông không nên nói như thế. Ta nói: Bồ-tát đạt đủ Tam-muội ấy mới có thể thấy được thường, lạc, ngã, tịnh. Vì vậy, chớ nên nói chỗ chấp điên đảo của hàng phàm phu về thường, lạc, ngã, tịnh.
– Bạch Thế Tôn! Như Ngài nói: Nếu ai thấy các pháp vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh thì người ấy thấy được thượng đạo, hạ đạo, đắc quả Tu-đàhoàn, cho đến đắc quả vị Bồ-đề Vô thượng. Nếu như thấy các pháp thường, lạc, ngã, tịnh thì không thể nào đạt được quả Tu-đà-hoàn, cho đến quả vị Bồ-đề Vô thượng. Thế tại sao Thế Tôn nói: Bồ-tát thành tựu Tam-muội này thì thấy được thường, lạc, ngã, tịnh?
Lại như Phật nói: Giải thoát đích thật giống như hư không. Như vậy, giải thoát tức là Niết-bàn, tại sao Như Lai nói: Niết-bàn thường, lạc, ngã, tịnh? Tất cả chúng sinh cũng như hư không, không trăng dưới nước, mộng huyễn, như cây chuối, mây, ánh chớp, không, vô tánh, tướng, không được tạm trụ, giống như vẽ trong nước, vẽ đâu hợp đó, thấy hiểu vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Thấy tướng như vậy gọi là cái thấy chân chánh. Người thấy chân chánh đạt được quả vị Tu-đà-hoàn cho đến quả vị
Bồ-đề Vô thượng, tại sao Như Lai lại nói: Bồ-tát thành tựu Tam-muội này mới thấy được thường, lạc, ngã, tịnh?
Như Ngài đã nói ở trước, chư Phật Như Lai quán tất cả pháp vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, không có thọ mạng, sĩ phu, chúng sinh, hoàn toàn không có gì cả. Đó gọi là tánh chân thật của các pháp. Thế mà nay Ngài lại nói: Thấy tất cả pháp thường, lạc, ngã, tịnh. Vậy nghĩa là sao?
– Này thiện nam! Thôi, thôi! Chớ nói như vậy.
Này thiện nam! Nếu Bồ-tát nào thành tựu đầy đủ Tam-muội này thì không còn hòa hợp với các pháp nữa. Không hòa hợp nên gọi là hộ giới, tu tập Tam-muội. Đại Bồ-tát không thấy tướng đoạn, tướng thường của các pháp. Không thấy đoạn nên không sinh vui vẻ. Không thấy thường nên không sinh lo buồn. Vì biết pháp ấn chẳng là hộ giới, cũng không được gọi là tu tập Tam-muội.
Như Lai không chấp trước nơi hộ giới hay hủy giới, thường hay vô thường, hiểu hay không hiểu, làm hay không làm, tịnh hay không tịnh, không hay bất không, giới hay chẳng phải giới, biết hay chẳng phải biết, danh hay chẳng phải danh, lấy hay chẳng phải lấy, sợ hay chẳng phải sợ, hãi hay chẳng phải hãi, nhân hay chẳng phải nhân, diệt hay chẳng phải diệt, Bồ-đề hay chẳng phải Bồ-đề, giải thoát hay chẳng phải giải thoát, Niết-bàn hay chẳng phải Niết-bàn...
Tất cả các pháp không có sợ hãi, vì giải thoát nên hộ trì giới cấm, tu tập Tam-muội. Tất cả các pháp không có lui mất. Bồ-tát biết vậy, tâm tư an vui, tu Tam-muội này, giảng nói cho các chúng sinh. Phật Như Lai là thường hằng, bất biến, chánh pháp không diệt mất, thế nên hộ giới, tu tập Tammuội.
Lại nữa, này thiện nam! Nếu ai muốn đạt được Tam-muội này phải nên tu tập tưởng về thường, tưởng về ngã, thường về mạng, tưởng về nhân. Tu tập những tưởng này thì thành tựu đầy đủ Tammuội ấy. Do đó, nếu nói không đạt được thì không có chuyện đó.
– Bạch Thế Tôn! Như Lai hoặc nói vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, hoặc có khi lại nói thường, lạc, ngã, tịnh. Nghĩa ấy như thế nào?
– Này thiện nam! Đạo thế tục lầm thấy các pháp là thường, lạc, ngã, tịnh nên Ta mới nói là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh.
– Bạch Thế Tôn! Pháp xuất thế có thường, lạc, ngã, tịnh không?
– Này thiện nam! Nếu Bồ-tát trụ vào Tam-muội này, khi muốn nói về ngã thì trước hết phải nói năm việc:
Hạt (cốc tử).
Cây (thọ tử).
Vị béo (phì vị).
Ẩn núp (phục tàng).
Da rắn (xà bì).
Này thiện nam! Như hạt, khi nẩy mầm, khi ra thân, khi ra lá, khi trổ hoa, gọi là vô thường. Nếu thu lấy quả, hạt, chúng sinh thọ dụng được, gọi là thường.
Đại Bồ-tát nào nếu chưa thành tựu Tam-muội này thì gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu đã thành tựu thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Chưa có khả năng độ thoát tất cả chúng sinh, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng độ thoát thì được gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Không có khả năng phá trừ tất cả tà kiến, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng phá trừ tất cả tà kiến gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Không có khả năng dứt hẳn mọi phiền não, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Này thiện nam! Đó gọi là Hạt (Hạt thóc, lúa).
Lại nữa, này thiện nam! Như cây Am la khi chưa ra quả, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu ra quả, chúng sinh lấy dùng được, thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Đại Bồ-tát nào chưa thành tựu được Tam-muội này thì gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu thành tựu được, gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Nếu chưa có khả năng độ thoát các chúng sinh, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng độ thoát, gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Không có khả phá trừ tất cả tà kiến, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng phá trừ tất cả tà kiến thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Không có khả năng dứt hẳn mọi phiền não, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng dứt hẳn thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Này thiện nam! Đó gọi là Cây.
Lại nữa, này thiện nam! Như hạt hồ ma khi chưa thành dầu, không thể tiêu trừ bệnh khổ cho chúng sinh, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu thành dầu rồi, có khả năng tiêu trừ mọi bệnh khổ cho chúng sinh thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Đại Bồ-tát nào chưa thành tựu được Tam-muội này thì gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu thành tựu được, gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Nếu chưa có khả năng độ thoát các chúng sinh, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng độ thoát thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Không có khả phá trừ tất cả tà kiến, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng phá trừ tất cả tà kiến thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Không có khả năng dứt hẳn mọi phiền não, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng dứt hẳn thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Này thiện nam! Đó gọi là Vị béo (Phì vị)
Lại nữa, này thiện nam! Như kho báu ẩn núp trong lòng đất, không thể làm thấm nhuần lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu ra khỏi lòng đất, chúng sinh lấy dùng, được lợi ích lớn thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Đại Bồ-tát nào chưa thành tựu được Tam-muội này thì gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu thành tựu được, gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Nếu chưa có khả năng độ thoát các chúng sinh, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng độ thoát, gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Không có khả phá trừ tất cả tà kiến, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng phá trừ tất cả tà kiến thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Không có khả năng dứt hẳn mọi phiền não, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng dứt hẳn thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Này thiện nam! Đó gọi là Bảo tạng (Phục tàng) Lại nữa, này thiện nam! Giống như da rắn, khi chưa lột da gọi là gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu lột da rồi thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Đại Bồ-tát nào chưa thành tựu được Tam-muội này thì gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu thành tựu được, gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Nếu chưa có khả năng độ thoát các chúng sinh, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng độ thoát, gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Không có khả phá trừ tất cả tà kiến, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng phá trừ tất cả tà kiến thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Không có khả năng dứt hẳn mọi phiền não, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng dứt hẳn thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Lại đoạn dứt bốn thứ tâm nghi ngờ nơi chúng sinh đã khởi lên đối với Phật, gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Này thiện nam! Đó gọi là Xà bì (da rắn).
Này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ Tam-muội này dựa vào năm việc ấy mà diễn nói Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh, có thể nói về ngã, nhân, thường, chúng sinh, sĩ phu. Có khả năng thấy như vậy gọi là chánh kiến.
– Bạch Thế Tôn! Như Lai đã nói về năm việc ấy, nghĩa đó không phải như vậy. Vì sao? Như Lai thường nói trong các kinh, các pháp là vô thường như năm việc vừa nêu, nhân cũng vô thường, quả cũng vô thường. Nếu khiến Bồ-tát trụ vào Tammuội này như năm việc ấy thì cũng phải là vô thường. Do ý nghĩa đó, tất cả các pháp đều là vô thường.
Bạch Thế Tôn! Có nhân tất có quả, có quả tất có nhân. Tất cả chúng sinh cùng với các vị Bồ-tát cũng như vậy. Có sinh ắt có tử, có tử ắt có sinh. Nếu như thế thì thường cũng vô thường, vô thường cũng là thường. Do ý nghĩa đó, tất cả các pháp đều có hai tánh: thường và vô thường. Chớ nên khẳng định thế pháp vô thường, pháp xuất thế là thường. Như Lai nói lời chân thật, tại sao lại phát ra những lời hư vọng ấy?
– Này thiện nam! Tại sao ông nay như con tằm tự trói buộc mình trong kén vậy?
Này thiện nam! Nếu có ai nói: “Người đoan nghiêm giống như mặt trăng tròn. Hương tượng đẹp trắng giống như núi Tuyết”, người thật ra chẳng phải mặt trăng, voi chẳng phải là núi Tuyết, phần nào có điểm giống nhau nên dẫn làm ví dụ.
Này thiện nam! Năm việc thế gian cũng như vậy, có phần nào đó là thường nên dẫn làm ví dụ. Thật ra, chư Phật Như Lai là không thể ví dụ. Giống như là dẫn ví dụ để làm ví dụ.
– Bạch Thế Tôn! Nếu Như Lai thường thì tại sao Như Lai lại nói trong các kinh khác là giống như ngọn đèn tắt mất. Giải thoát cũng vậy?
Bạch Thế Tôn! Nếu Như Lai thường, sao gọi là diệt mất? Còn diệt mất, sao gọi là thường? Nếu Như Lai nói: Cũng vừa thường, cũng vừa diệt thì đấy há chẳng phải là lời nói hư vọng sao?
Lại nữa, như Ngài đã nói: Tất cả các pháp giống như ánh trăng dưới nước, nếu các pháp là thường thì tại sao lại nói giống như ánh trăng dưới nước?
– Này thiện nam! Ta nói pháp hữu vi như ánh trăng dưới nước, thế nên Ta mới có pháp thường, có pháp vô thường:
Nếu có chúng sinh nào chưa được giải thoát, chưa đoạn trừ phiền não, chưa dứt bỏ danh, tướng, chưa đoạn dứt tướng chúng sinh, chưa đạt pháp tướng, chưa được tu tập Tam-muội này thì gọi là vô thường. Còn nếu chúng sinh nào đã được giải thoát, đã dứt hẳn phiền não, danh, tướng, tướng chúng sinh; đã đạt được pháp tướng, đã tu tập được Tam-muội này thì gọi là thường.
Vì vậy, mới nói có pháp thường và pháp vô thường.
– Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thì tại sao Như Lai nói Phật Niết-bàn giống như ngọn đèn tắt mất? – Ngọn đèn tắt mất là dụ cho thân diệt, là dụ cho sự ràng buộc bị diệt. Giống như dầu không lìa đèn và đèn cũng không lìa dầu. Chúng sinh cũng vậy, thân không lìa sự ràng buộc, sự ràng buộc cũng không lìa nơi thân.
– Vậy tại sao nói là diệt? Phật đáp:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Nếu thấy như vậy, gọi là cái thấy chân chánh.
Này thiện nam! Thân có hai loại: Thân phiền não và Pháp thân. Thân phiền não diệt, giống như ngọn đèn tắt mất, thế nên Ta nói là có pháp vô thường.
Pháp thân không diệt, giống như hư không, thế nên Ta nói là có pháp thường.
Đoạn trừ mọi thứ phiền não chất chứa gọi là giải thoát. Được giải thoát khỏi thân vô thường thì chư Phật Thế Tôn là đoạn kiến.
Nếu các thứ phiền não chất chứa là thường không diệt, thì chư Phật Thế Tôn là thường kiến.
Do trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp đoạn hai kiến chấp này, nên chư Phật Thế Tôn chắc chắn không còn hai kiến: thường – đoạn.
Nếu Như Lai có tướng chúng sinh thì phải là vô thường. Như Lai đã trải qua vô lượng kiếp đoạn tướng chúng sinh. Nếu nói Như Lai có tướng chúng sinh thì hoàn toàn không có chuyện đó.
Này thiện nam! Ví như đại vương xuất cung đi tuần. Khi ở ngoài cung, thì trong cung không thể thấy. Trong cung tuy không thấy, nhưng không thể nói là không có vua. Bên ngoài cũng như vậy.
Đại Bồ-tát trụ vào Tam-muội này thì đã đoạn vô thường. Do vì chúng sinh nên mới thọ thân vô thường. Nếu nói thân Như Lai vô thường, hoàn toàn không có chuyện đó.
Do vậy, Ta nói thường cùng với vô thường, nói ngã với vô ngã, nói chúng sinh với phi chúng sinh, nói nhân với phi nhân, nói mạng với phi mạng, nói sĩ phu với phi sĩ phu. Như Lai thường nói pháp hữu vi đều là vô thường, chứ không nói là thường. Nếu nói thường, chuyện đó hoàn toàn không có.
Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ vào Tam-muội này, đoạn trừ các thứ kiến chấp của thế gian, kiến chấp về thọ mạng, kiến chấp của hàng Nhị thừa, không có tham ái, không lấy, không cầu, thường hằng không biến đổi, thành tựu an trụ, được vô sở úy, không có kiêu mạn, không bị cấu nhiễm.
Vì thế, Ta nói là thường, lạc, ngã, tịnh.
Này thiện nam! Ta nói Thanh văn, Phật-bíchchi thừa, tất cả người đời không thể nào lãnh hội được. Mặc dù họ không hiểu nhưng rốt cuộc cũng không thể thủ đắc.
Nói về trí tệ cũng như vậy. Người đời tuy thấy Như Lai vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, nhưng cũng không thể nói là người có trí tuệ, tức giống với kiến chấp kia.
Những kẻ phước mỏng, căn tánh chậm lụt, hành theo tà đạo, lại nói như vầy: “Như Lai vô thường, vĩnh viễn diệt độ, Niết-bàn”. Nếu nói Như Lai vĩnh viễn diệt độ, nên biết người ấy không lìa khỏi ba nẻo ác.
Này thiện nam! Ví như trong hồ nước vẩn đục sâu rộng kia có ngọc báu, thế nhưng mọi người không ai thấy được. Có người nói: “Trong hồ nước đục kia có ngọc báu”. Nghe thế, mọi người liền vội vàng tìm kiếm. Có người tìm được ngói, đá, cát, sỏi, hoặc là cỏ cây, nhưng hoàn toàn không ai tìm được ngọc báu. Do tìm không được nên liền cho là dối trá.
Thế rồi có một người khéo léo, biết cách đem bỏ hạt châu vô giá xuống hồ nước đục ấy, nước tức thì trong lại, nhân đó, mọi người đều thấy châu báu.
Này thiện nam! Các hàng Thanh văn, Duyên giác không hiểu diệu lực của Tam-muội này, nên nói: Như Lai vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, trống rỗng, không thật có. Họ không biết Như Lai thường hằng bất biến, dù luân chuyển trong sinh tử. Đại Bồ-tát trụ vào Tam-muội này khéo giải những mật ngữ của Như Lai. Thế nên đem hạt châu vô giá ấy để dụ cho Tam-muội.
Này thiện nam! Nếu người nam, người nữ nào muốn thấy Như Lai thường hằng bất biến thì phải nên tu tập Tam-muội này. Đại Bồ-tát nào trụ vào Tam-muội ấy thì thấy được Như Lai thường hằng bất biến. Sự giải thoát cũng như vậy.
Này thiện nam! Ví như bóng cây, người đi đường dựa vào đó để nghỉ ngơi. Các vị Bồ-tát trụ vào Tam-muội này cũng như vậy, vì các chúng sinh mà làm bóng mát phủ che.
Thiện nam! Nếu có ai nói Như Lai vô thường, vĩnh viễn vào Niết-bàn thì kẻ ấy chính là đệ tử của ma. Nếu không phải như vậy, người đó mới đích thật là đệ tử của Ta.
Nếu ai nói Như Lai rốt ráo nhập vào Niết-bàn, nên biết kẻ ấy làm ô nhục pháp của Ta. Nếu ai tin nhận những lời như vậy thì thật là đáng thương.
Khi Đức Phật giảng nói xong phần pháp nầy, bốn phía chúng hội liền phát ra ánh sáng lớn. Ánh sáng màu vàng ấy chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, lấn át cả ánh sáng của Phạm thiên, mặt trời, mặt trăng, chỉ không thể lấn át được ánh sáng của Phật, ngoài ra, mọi ánh sáng khác thì bị lu mờ, không hiện. Từ núi Tu-di lớn nhỏ, rừng rậm, cỏ cây, khoảng giữa hai nước, những nơi tối tăm không nơi nào là không có ánh sáng ấy chiếu tới. Những chúng sinh nơi địa ngục gặp được ánh sáng ấy, mọi thống khổ đều chấm dứt, thân được an lạc. Bấy giờ, phía trước đại chúng liền xuất ra sáu vạn ức hoa sen. Hoa ấy màu sắc vi diệu, hương thơm đầy đủ, ngàn cánh đầy đặn, làm bằng bốn báu. Mỗi một hoa sen phát ra hương thơm thù thắng lan khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Nơi các thế giới ấy, ngửi được mùi hương này, các hàng Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Calâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Thích, Phạm, Ma, Sa-môn, Bà-la-môn... tất cả chúng sinh thảy đều đạt sự ưa thích giáo pháp, tâm ưa Đại thừa, mong muốn nghe pháp, dứt mọi phiền não. Hoa này thành tựu hương thơm công đức vi diệu như vậy.
Lúc ấy, ngồi trong chúng hội, thấy những thần biến như thế, Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng liền đứng dậy chấp tay, cung kính bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đây là hình tướng gì? Diệu lực nơi công đức ấy là của ai, khiến nơi đại hội này xuất hiện hoa vi diệu phát ra hương thơm vô lượng?
Khi ấy, Thiên nữ Tịnh Quang nói với Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng:
– Này thiện nam! Tất cả các pháp thảy đều vô tướng, tại sao lại hỏi: “Đây là hình tướng gì?”. Các pháp đều như mộng, sao lại điên đảo hỏi như kẻ mê loạn?
Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng nói:
– Lành thay! Lành thay! Này Thiên nữ! Chẳng phải tôi không thấy các pháp như mộng, nhưng vì tôi muốn cắt đứt sự lệ thuộc vào tướng kia nên mới hỏi như vậy.
Thiên nữ nói:
– Đại đức! Vì sao Bồ-tát thấy sự lệ thuộc vào tướng mà nêu ra câu hỏi này vậy?
– Thiên nữ! Như ta đã nói, vì muốn khiến cho chúng sinh được độ thoát nên mới hỏi như thế.
– Đại đức! Nếu không tự mình đoạn dứt cái thấy của ta, cái nghi của ta thì làm sao có thể độ thoát chúng sinh được? Nếu không tự mình đoạn dứt cái thấy của ta, cái nghi của ta, mà muốn đoạn trừ cái thấy, cái nghi cho chúng sinh, điều đó hoàn toàn không thể có.
Phật nói:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Thật đúng như những gì Thiên nữ nói. Đại Bồ-tát trụ vào Tam-muội ấy thì chỉ thấy vô tướng.
Này thiện nam! Nếu người nam, người nữ nào muốn thấy vô tướng, phải nên tinh tấn tu Tammuội này. Đại Bồ-tát trụ vào Tam-muội này thì có khả năng hiện các loại thân trong ba ngàn đại thiên thế giới.
– Bạch Thế Tôn! Vì sao các vị Bồ-tát trụ vào Tam-muội này, có khả năng hiện các thân trong ba ngàn đại thiên thế giới?
– Này thiện nam! Nếu có huyễn sư hoặc đệ tử của ông ta, ở giữa đại chúng có khả năng biến hóa ra đủ loại hoặc nam hoặc nữ, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc sống hoặc chết, hoặc tới hoặc lui, hoặc nhà hoặc rừng, hoặc voi hoặc ngựa, hoặc cắt hoặc dứt, hoặc phá hoặc hoại, hoặc kết hoặc đoạn trừ... đại chúng nhìn thấy không sinh lòng kinh ngạc. Vì sao? Vì mọi người đã thấu rõ sự huyễn hóa.
Đại Bồ-tát cũng như vậy. Trụ vào Tam-muội này, tu tập chánh đạo, hóa hiện ra các thân trong ba ngàn đại thiên thế giới là vì muốn độ thoát chúng sinh, nên mới trụ vào Tam-muội ấy. Các vị Bồ-tát thấy sự biến hóa này không sinh lòng kinh ngạc, không có tâm nghi ngờ, tùy thuận theo nghĩa, không có trái ngược. Vì sao? Vì biết chắc rằng đây chính là diệu lực của Tam-muội ấy.
Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ vào Tam-muội này có khả năng hiện thân từng nơi, tùy theo vô số thứ loại hành vi của các chúng sinh nơi ba ngàn đại thiên thế giới.
Hoặc là hiện ở trong thai mẹ tại cõi Diêm-phùđề. Tất cả chúng sinh thật thấy Bồ-tát ở nơi thai mẹ nhưng thật sự Bồ-tát này không ra khỏi thai. Hoặc tại cõi Diêm-phù-đề, hiện ra khỏi thai mẹ, chúng sinh cũng thấy Bồ-tát ra khỏi thai mẹ nhưng thật sự Bồ-tát này không phải ra khỏi thai.
Hoặc tại cõi Diêm-phù-đề, hiện ban đầu xuống tóc, tạo mọi thứ vui đùa, tất cả chúng sinh đều thấy như vậy, nhưng thật sự Bồ-tát không có tướng này. Hoặc tại cõi Diêm-phù-đề, hiện đến học đường học các kỹ nghệ, thư sớ, toán số, tất cả chúng sinh đều thấy Bồ-tát ban đầu mới học tập, nhưng thật ra Bồ-tát này đã tu học trải qua vô lượng kiếp ở quá khứ.
Hoặc tại cõi Diêm-phù-đề hiện hành vi như người, sư tử, ngỗng trống... tất cả chúng sinh đều thấy Bồ-tát hiện hành vi như người, sư tử, ngỗng trắng... nhưng thật ra Bồ-tát đều không có tướng này.
Hoặc tại cõi Diêm-phù-đề thị hiện có vợ con, vui thú năm dục; tất cả chúng sinh đều thấy tướng ấy, nhưng Bồ-tát đã xa lìa nó từ kiếp xưa, chỉ lấy pháp lạc làm niềm vui thích cho chính mình.
Hoặc tại cõi Diêm-phù-đề thị hiện đại tiện tiểu tiện, tất cả chúng sinh cũng thấy tướng này, nhưng vị Bồ-tát này đắc pháp thân đích thật chẳng phải thân tạp thực.
Tại sao lại có đại tiện lợi, tiểu tiện lợi, nhấm ngậm dương chi, mặc áo, rửa tay, chân mang giày dép, tay cầm dù lọng, thân đeo anh lạc, ăn uống, đói khát, sinh, già, bệnh, chết, hành đàn Ba-la-mật, được làm Chuyển luân vương, nô tỳ, nô bộc, nam nữ lớn nhỏ, hoặc làm người, trời, khổ hạnh Đầuđà, hiện làm Tỳ-kheo tạo phước lợi cho chúng sinh, hiện quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-nahàm, quả la-hán, phá hoại chúng Tăng, nghe pháp, nói pháp, ăn nuốt cơm độc, phạm bốn trọng cấm, gây tội ngũ nghịch, hiện thân Thanh văn, Phậtbích-chi, xuất gia học đạo, bên gốc Bồ-đề chuyển bánh xe chánh pháp, hiện đại thần túc nhập vào Niết-bàn, hoặc làm Thích, Phạm, Ma Ba-tuần, lưu chuyển các cõi giống như bánh xe cũng như vậy.
Này thiện nam! Tuy Đại Bồ-tát tùy thuận mọi hành vi của thế gian mà làm như vậy, đó là vì muốn độ thoát, hoàn toàn không sinh tướng chúng sinh, thường tu pháp tướng. Vì sao? Là vì diệu lực của Tam-muội ấy.
Đại Bồ-tát không có nơi đắm chấp, không chấp vào Thanh văn, không chấp nơi Duyên giác, vì lòng thương xót tất cả thế gian nên muốn độ thoát chúng sinh, bất kỳ nơi đâu, tùy theo sự ưa thích của họ mà hiện ra thân ấy. Thế nên Bồ-tát tu tập vô tướng, thấy vô tướng. Nếu ai có khả năng thấy vô tướng như vậy, thì gọi là chánh kiến. Thiên nữ Tịnh Quang cũng tu vô tướng. Chư Phật Thế Tôn trụ vào Tam-muội ấy, do đó là không thể nghĩ bàn.
– Bạch Thế Tôn! Thiên nữ Tịnh Quang này đã thành tựu đầy đủ trí tuệ thâm diệu. Nếu cảnh giới vô tướng không thể nghĩ bàn thì những ai tu tập cũng không thể nghĩ bàn.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười. Từ nơi kim diện phát ra vô lượng ánh sáng năm màu tỏa chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới. Ánh sáng ấy trên chiếu đến cõi trời Phạm Thế, biến khắp tất cả, xoay quanh thân ba vòng rồi thu nhập vào miệng.
Khi ấy, đại địa chấn động đủ sáu cách, trang nghiêm thanh tịnh như cõi Uất-đan-việt. Ba ngàn đại thiên thế giới cũng như vậy. Nhờ vào thần lực của Phật, tất cả chúng sinh thảy đều được thấy.
Lúc này, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng lại đứng dậy, sửa lại y phục, cung kính chấp tay bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì phóng ra ánh sáng này? Phật đáp:
– Này thiện nam! Ông đã thưa hỏi, Ta đã trả lời, nên mới phóng ra ánh sáng đoan nghiêm này.
Này thiện nam! Về phương Tây của cõi nầy có một thế giới tên An lạc. Vị Phật nơi cõi ấy hiệu là Vô Lượng Thọ, nay ở đời này thường vì chúng sinh giảng nói chánh pháp, đã bảo một vị Bồ-tát: “Này thiện nam! Tại thế giới Sa Bà, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì các chúng sinh phước ít, căn chậm lụt mà giảng nói kinh Đại Vân. Ông hãy đến nơi đó, hết lòng nghe, nhận”.
Thế rồi, vị Bồ-tát ấy muốn đến nơi đây, nên trước hết hiện bày tướng đoan nghiêm.
Này thiện nam! Ông quán tại thế giới đó, thân tướng của các vị Bồ-tát đầy đủ năm vạn sáu ngàn do-tuần.
– Bạch Thế Tôn! Vị Bồ-tát ấy danh hiệu là gì? Vì sao lại đến đây? Có lẽ chẳng phải vì độ thoát chúng sinh mà đến? Cúi xin Như Lai hãy vì các chúng sinh mà phân biệt nói rõ.
– Này thiện nam! Vị Bồ-tát nơi thế giới đó vì muốn lãnh hội việc được thọ ký của Thiên nữ Tịnh Quang và vì muốn cúng dường Tam-muội này nên mới đến đây. Thiện nam! Vị Bồ-tát ấy tên Vô Biên Quang, thông đạt phương tiện, có khả năng khéo dạy dỗ, hướng dẫn.
– Bạch Thế Tôn! Cúi xin Như Lai nói về vị Thiên nữ này đã phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng vào thời Đức Phật nào? Và lúc nào sẽ chuyển được thân nữ?
– Này thiện nam! Nay ông không nên hỏi về việc chuyển thân nữ. Thiên nữ trải qua vô lượng atăng-kỳ kiếp vì chúng sinh nên hiện thân nữ. Ông nên biết, đây chính là thân phương tiện, chẳng phải là thân nữ thật sự. Tại sao nói là khi nào sẽ được chuyển thân nữ này?
Này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ vào Tam-muội ấy, thân được tự tại, có khả năng tạo ra vô số các thứ phương tiện tùy nghi. Mặc dù mang thân hình nữ, nhưng tâm không tham chấp, không bị cấu nhiễm theo tham dục.
– Bạch Thế Tôn! Cúi xin Như Lai hãy vì chúng sinh mà giảng nói về những việc đời sau của Thiên nữ.
– Này thiện nam! Ông hãy lắng nghe, Ta sẽ nói về việc đó: Vào bảy trăm năm sau khi Ta dùng phương tiện nhập Niết-bàn, tại Nam Thiên Trúc này có một nước nhỏ tên Vô Minh. Nước ấy có sông tên Hắm Ám. Hướng bờ phía Nam có thành tên Thục Cốc. Thành đó có vua tên Đẳng Thừa. Phu nhân của vua này sinh được một công chúa tên Tăng Trưởng, hình dáng đoan nghiêm, được mọi người yêu mến, hộ trì giới cấm, siêng năng không biếng nhác.
Do sinh nàng công chúa này, đất nước của vị vua ấy luôn được mùa, lúa gạo sung túc, vô cùng an vui. Dân chúng đông đúc, không một mảy may bệnh khổ, lo buồn, sợ hãi, hoạn nạn, thành tựu đầy đủ tất cả việc tốt đẹp. Các vua lân cận đều đến quy thuận.
Pháp hữu vi là vô thường biến đổi, nên nhà vua bỗng nhiên băng hà. Khi ấy, các vị đại thần bèn tôn công chúa lên kế vị vua. Công chúa này nương theo lẽ phải, uy đức hàng phục khắp thiên hạ. Hết thảy các nước trong toàn cõi Diêm-phù-đề thảy đều tuân theo, không có chống đối.
Nữ vương tự tại, thu phục tà kiến. Vì muốn cúng dường xá-lợi Phật, nữ vương bèn cho xây tháp bảy báu khắp cõi Diêm-phù-đề, đem những vải lụa đủ màu, phướn lọng thượng diệu, hương chiên-đàn để cúng dường khắp cả. Thấy những ai hộ pháp, trì tịnh giới, nữ vương cung kính cúng dường. Thấy những ai phá giới, hủy hoại chánh pháp, nữ vương quở trách, xử trị, khiến chấm dứt, không còn tái phạm.
Nữ vương tu tập đầy đủ mười Ba-la-mật, thọ trì năm giới, cứu giúp kẻ bần cùng, dẫn dắt, dạy dỗ vô lượng chúng sinh, giảng nói kinh Đại Vân để điều phục tâm họ. Hễ ai nghe kinh Đại Thừa Phương Đẳng thì cung kính cúng dường, tôn trọng, tán thán.
Trọn hai mươi năm thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Đại Vân này, sau đó mạng sống chấm dứt, vào lúc ấy mới chuyển thân nữ. Vì hàng phục chúng sinh, nữ vương thị hiện đại thần thông và cũng vì muốn cúng dường Đức Phật Vô Lượng Thọ nên đã sinh vào thế giới của vị Phật ấy.
– Bạch Thế Tôn! Vị nữ vương này vào đời vị lai có đắc đạt được quả vị Bồ-đề Vô thượng không? – Này thiện nam! Vào đời vị lai, trải qua vô lượng kiếp, nữ vương này sẽ thành Phật, hiệu là Tịnh Bảo Tăng Trưởng gồm đủ mười tôn hiệu:
Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Bấy giờ, thế giới Ta-bà này trở nên trong sạch, sáng sủa. Khi ấy, có thành tên Thanh Tịnh Diệu Hương, chỉ toàn dùng bảy báu trang nghiêm, vô lượng tối thắng, giống như cung trời Đao-lợi. Trong thành gồm có chín vạn ức người, đất đai bằng phẳng, không có gai gốc, sỏi cát, ngói đá. Dân chúng nơi ấy không sinh tà kiến, ái trọng Đại thừa, không có tên Thanh văn, Duyên giác, tất cả chỉ thuần là Bồ-tát Đại sĩ, tu tập tâm từ, bi, hỷ, xả, thành tựu nhẫn nhục, thọ mạng vô lượng. Này thiện nam! Nếu có chúng sinh nào nghe danh hiệu của Đức Phật Như Lai này, sẽ không còn bị đọa nơi ba nẻo ác, chuyển sinh nơi hàng trời, người.
Khi Đức Phật giảng nói kinh này xong, vô lượng chúng sinh đắc quả vị Bất thoái chuyển.
[Mục lục bộ Niết Bàn][374][375][376][377][378][379][380][381][382][383][384][385][386][387][388][389][390][391][392][393][394][395][396]