TẠNG
KINH
BỘ NIẾT BÀN (374 - 392)
SỐ 379 - KINH TỨ ĐỒNG TỬ TAM MUỘI
Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Xà Na Quật Đa, người nước Kiền Đà La, Bắc Ấn Độ.
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn an tọa giữa Song thọ, rừng Ta-la thuộc vùng đất Lực sĩ nước Câuthi-la.
Khi ấy, Như Lai tư duy: “Nay đã đến lúc nhập Niết-bàn, Ta nên nhập diệt”. Ngay đêm hôm ấy, Trưởng lão A-nan nằm mộng dữ, vô cùng kinh hãi, buồn bã chạy đến chỗ Phật, chắp tay cung kính với vẻ sầu thảm nhìn chăm chăm Đức Thế Tôn. Phật dạy Trưởng lão A-nan Cù-đàm-di-tử:
– Vì sao ông nhìn Ta chăm chăm thế? A-nan thưa:
– Bạch Thế Tôn! Tối qua bỗng dưng con có mộng dữ, khiến con vô cùng sợ hãi đến nỗi dựng tóc gáy vì biết chắc đó là điềm báo trước Như Lai nhập Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Sau khi thấy mộng không tốt lành ấy, tâm con điên đảo rất sầu khổ, sợ Thế Tôn mau nhập Niết-bàn.
Phật dạy A-nan Cù-đàm-di-tử:
– Ông thấy mộng như thế nào mà biết đó là điềm báo trước Như Lai nhập Niết-bàn, lại sợ hãi đến nỗi như vậy?
Như Lai hỏi A-nan bằng kệ:
Ông thấy mộng ra sao
Giữa rừng cây Ta-la
Nói tướng sắp Niết-bàn
Hãy nói cho Ta biết?
A-nan cũng dùng kệ thưa:
Giấc mộng thấy tối qua
Sợ đến dựng tóc gáy
Lòng kinh hãi bàng hoàng
Xin Thế Tôn nghe cho.
Bỗng nhiên giữa thế giới
Hiện ra cây cao lớn
Tươi tốt rất thích nhìn
Có rất nhiều hoa quả.
Che khắp cõi chúng sinh
Bóng cây rất mát mẻ
Nếu ngồi dưới gốc cây
Thích thú không còn lo.
Nhìn cây mắt sáng suốt
Nghe tiếng tai thanh tịnh
Đạt được nhiều công đức
Cây cao đụng Hữu Đảnh.
Cây phát tiếng vi diệu
Nói đủ các pháp tướng
Đầy đủ nghĩa vi diệu
Làm an lạc chúng sinh.
Cây phát ra ánh sáng
Như Hằng hà sa số
Tràn đầy lợi như thể
Chiếu sáng khắp mọi nơi.
Mọi người khắp mười phương
Vô lượng khó nghĩ bàn
Ai bắt gặp ánh sáng
Chắc chắn được lợi ích.
Cây ấy tỏa hương thơm
Xông ướp mười phương cõi
Nếu ngửi hương thơm ấy
Không đọa các đường ác.
Cũng không đọa địa ngục
Lại không đọa súc sinh
Ngạ quỷ, A-tu-la
Đều đi vào cõi lành.
Cây tốt tươi như thế
Làm an lạc chúng sinh
Bị ngã đất lực sĩ
Nằm giữa chốn Song thọ.
Khi ấy hàng ngàn người
Nhiều không thể nghĩ bàn
Thấy cây ấy bị ngã
Buồn thảm kêu khóc lóc.
Bỗng nhiên không nghe tiếng
Và mùi thơm cây ấy
Không ai đứng dậy nổi
Con cũng ngã bất tỉnh.
Tối qua con thấy thế
Vô lượng tướng đáng sợ
Con thấy việc như vậy
Xin Phật dạy cho con.
Khi ấy, các trời ở cõi Tịnh Cư Đại Phạm Thiên vương, chủ cõi Ta-bà, Thương chủ Ma Vương Tử, Thiên chủ Kiều-thi-ca, Tứ Thiên vương cùng các quyến thuộc ở trụ xứ nghe đồn tướng báo trước Niết-bàn của Như Lai Thế Tôn, tất cả hơn tám mươi na-do-tha quyến thuộc trời chen chúc đua nhau đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, cùng nhau kêu gào khóc lóc thảm thiết và dùng kệ nói với A-nan: Ôi! Đau đớn quá thay! A-nan, ông đã biết
Như Lai sắp nhập diệt
Giữa Ta-la song thọ.
Làm đèn cho người tối
Chỗ trú người không nhà
Muốn nhập vào tịch tĩnh
Vô dư Đại Niết-bàn.
Thế rồi, Đức Thế Tôn dùng kệ nói với Tuệ mạng A-nan và các chúng trời:
Con ơi! Chớ buồn khổ
Đúng như điều đã thấy
Đêm nay Ta nhập diệt
Dưới rừng cây Song thọ.
Cây Song thọ to lớn
Thân cành không nghĩ bàn
Đủ ánh sáng, hương thơm
Bị ngã giữa Song thọ.
Phật cũng như cây ấy
Nay muốn đến chỗ đó
Nhập Niết-bàn vô dư
Như nước hết lửa lớn.
Xá-lợi, Mục-kiền-liên
Thần thông, trí đệ nhất
Hai vị đã diệt độ
Nay ông sao không biết.
Các hành đều như vậy
Pháp vô thường sinh diệt
Phật biết tướng như vậy
Rồi nói cho người khác.
A-nan, ông nên báo
Hàng Thanh văn của Ta
Thượng tọa Ni-lâu-đà
Vị thiên nhãn đệ nhất.
Thượng tọa Ca-chiên-diên
Thượng tọa Câu-hi-la
Phú-lâu, Tu-bồ-đề
Nan-kỳ và Ngưu-úc.
Du Da Mạc Dà Vương
Đắp mặc y phấn tảo
Nan-đà, La-hầu-la
Và các Thanh văn khác.
Hữu học và vô học
Cùng các phàm phu khác
Mau nói cho họ biết
Không lâu Ta nhập diệt.
Để sau khi Niết-bàn
Khỏi sinh lòng khổ não
Hữu học và phàm phu
Không thấy càng đau khổ.
Ta an ủi khuyên họ
Hiểu rõ chân pháp tướng
Các hành đều như mộng
Vô thường ông chớ buồn!
Đức Như Lai nói kệ xong, Tuệ mạng A-nan dùng kệ thưa Thế Tôn:
Bạch Phật! Con choáng váng
Toàn thân đều run rẩy
Nghe Phật sắp diệt độ
Con buồn khổ vô cùng.
Thân thể đều bất an
Lòng càng thêm đau buồn
Ly dục cũng như vậy
Vì sao Phật ra đi.
Báo Thượng tọa thế nào
Vị Thiên nhãn đệ nhất
Đấng Đại Bi hôm nay
Thấy rồi không thấy nữa.
Nay con thấy buồn khổ
Khổ ấy nói thế nào
Làm sao Thượng tọa nghe
Khổ não điều rất sợ.
Người học làm sao trụ
Và các phàm phu khác
Đau buồn như trúng tên
Xin Phật trụ một kiếp.
Làm sao giữa bốn chúng
Nói Thế Tôn diệt độ
Xin Thế Tôn nói cho
Xin Phật trụ một kiếp.
Ngọn lửa lớn tắt mau
Cả thế gian chìm đắm
Thế gian rất tối tăm
Thế gian luôn mờ ám.
Con không thể nói được
Việc rất khổ thế gian
Thế Tôn còn trụ thế
Không ai bị đau khổ.
Phật dạy A-nan Cù-đàm-di-tử:
– Ông chớ sầu khổ, tánh tướng của các hành đều vô thường. Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói kệ: Này A-nan, các trời
Nghe Phật sắp Niết-bàn
Đều bỏ cung điện trời
Rất âu sầu khổ não.
Ông thị giả chánh nghiệp
Hãy nói các Tỳ-kheo
Để khi Ta Niết-bàn
Đau buồn không thấy Ta.
Tuệ mạng A-ni-lâu-đà đang nói pháp cho cõi trời Ba Mươi Ba trên đỉnh núi Tu-di. Lúc ấy, A-nilâu-đà dùng thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân quán sát, thấy các chúng trời đại oai đức từ bỏ cung điện, lại nghe các trời khóc sầu thảm, đau buồn khóc lóc. Thấy vậy, đồ chúng quyến thuộc đều chạy tán loạn. Lúc này, A-ni-lâu-đà chánh niệm với thiên nhãn sáng suốt thâm sâu quán sát lần nữa, lại thấy các chúng trời và quyến thuộc xả bỏ dục lạc, âu sầu khổ não, vội vàng kéo nhau đi. ni-lâu-đà lại quán thấy núi chúa Tu-di và các ngọn núi cao trăm do-tuần, hai trăm do-tuần, ba trăm do-tuần, bốn trăm do-tuần đều sụp lở đổ xuống. Có ngọn năm trăm do-tuần, hoặc có vô lượng ngọn núi Tu-di sụp đổ rớt xuống biển lớn, nhưng chúng sinh ở đó không bị suy hại, không bị tổn thương. Với một chúng sinh còn không bị suy hại huống nữa có nhiều chúng sinh. Cũng không có một chúng sinh nào bị tổn thương huống nữa có nhiều chúng sinh. Tất cả các loài nương trú trong núi chúa Tu-di: Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nghe Như Lai sắp nhập Niết-bàn đều lo buồn khổ não, đồng thời vội vàng đi nhanh đến thành Câu-thi-na. Trong lúc đi nhanh thì núi Tu-di tự nhiên sụp đổ, làm chấn động vang ra tiếng như vầy:
– Thích Ca Như Lai Thắng Vương dòng họ Thích đã khổ hạnh, trải qua a-tăng-kỳ kiếp tu các căn lành. Nay ở giữa hai cây Ta-la của vùng đất Lực sĩ sắp nhập Vô dư Tịch diệt Niết-bàn, các trời người sẽ tối tăm.
Thế rồi, ai nấy đều vội vàng đi thật nhanh. Núi đại Tu-di và biển cả đều chấn động. Do đó, các ngọn núi và các hang núi lớn của núi chúa Tu-di đều sụp đổ rớt xuống biển lớn. Đang đứng trên đỉnh núi Tu-di, A-ni-lâu-đà nói lớn bài kệ:
Chủ buôn lớn thế gian
Ruộng phước lớn chúng sinh
Đem an lạc thế gian
Vị ấy nay Niết-bàn.
Xưa kia đã tạo công đức lớn
Là Đại Y vương trị các bệnh
Vứt bỏ không ngại không vướng mắc
Vị ấy nay sắp nhập Niết-bàn.
Thấy chúng sinh có nhiều ái dục
Luân hồi vô minh sinh già chết
Ở trong lao ngục, chấp điên đảo
Đem lòng từ bi mà nói pháp.
Quân ma bị động sân giận đến
Hung dữ dùng đao nhọn muốn hại
Hoặc cầm đá lớn đến sườn núi
Hiện ra đủ thứ việc sợ hãi.
Thấy những việc đáng sợ như vậy
Không hề rung động một mảy lông
Bậc tôn quý phá quân ma ấy
Nay giữa Song thọ sắp nhập diệt.
Tay phải duỗi ra chỉ xuống đất
Động vang cả rừng núi xóm làng
Vị Tự Tại Đại Pháp Vương ấy
Nay giữa Song thọ sắp Niết-bàn.
Như đánh đại địa phát tiếng lớn
Nghe khắp mười phương không nghĩ bàn
Bậc Đại Trí ấy rất siêu nhân
Nay sắp Niết-bàn giữa Song thọ.
Quân ma lúc trước rất đáng sợ
Đã đạt được nơi bình an vô sự
Bậc đại tiên giảng cho chúng sinh
Chuyển đại pháp luân nói bốn đế.
Hiện các thần thông không ai bì
Đặt hết thế giới đầu sợi lông
Chúng sinh không biết cũng không hiểu
Thế Tôn nay sắp nhập Niết bàn.
Hiện đã đến vùng đất Lực sĩ
Giữa cây Song thọ rừng Ta la
Nhập đại tịch tịnh trong Tam muội
Sắp vào Niết-bàn nước lửa tận.
Nói kệ xong, Tôn giả A-ni-lâu-đà nhờ thần lực của Phật nên trong cõi Diêm-phù-đề hết thảy Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di chỉ trừ Thượng tọa Ca-diếp và các vị đệ tử đồ chúng quyến thuộc, hơn hai trăm bốn mươi chúng Tỳkheo, ngoài ra có bốn bộ chúng cùng đến giữa rừng Ta-la Song thọ, tụ tập lạy sát chân Thế Tôn và nghĩ như vầy: “Hôm nay chúng ta được chiêm ngưỡng Thế Tôn lần cuối cùng”. Khi A-ni-lâu-đà nói kệ xong, tức thời các trời người có đại oai đức và các Thiên tử, Thiên nữ ở các cõi trời, các loài rồng, nam nữ Dạ-xoa, nam nữ Tỳ-xá-giá v.v... tất cả trời, người, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la-già, loài người và phi nhân từ các tinh tú đến. Hết thảy đại chúng đều kêu gào máu rẩy đầy đất, nước mắt đầm đìa, tâm mê muội gào khóc thảm thiết động cả trời đất, sầu khổ như trúng mũi tên độc, không nơi nương tựa, kêu van thảm thiết, các căn đờ đẫn, quằn quại trên đất, toàn thân run rẩy, tay chân rã rời rất khổ não. Trong đó có người nhìn nhau mà khóc; có người tự đánh vào đảnh đầu, vả vào mặt mà kêu khóc; có người trợn mắt, khụy gối mà kêu khóc; có người đấm vào đầu, làm rách cả mặt mày mà kêu khóc; có người chà hai bắp đùi như chân cẳng bị đốt mà kêu khóc; có người xướng lên “Phật-đà ơi! Phật-đà ơi!” mà gào khóc, có người lau mắt hoặc đánh vào mặt mà kêu khóc đau đớn như trúng tên, khóc lóc nghẹn ngào, đau buồn áo não không thể kiềm chế được. Vô lượng ngàn ức chúng sinh khóc như mưa than thở sụt sùi, ngất xỉu rồi tỉnh lại. Có người chắp tay mà nước mắt nước mũi giàn giụa; có người lấy tay phải cào đầu, rồi dập đầu xuống đất mà khóc; có người dùng tay trái vò đầu buồn bã lo lắng như bị lửa đốt mà than khóc; có người thân thể tiều tụy, quằn quại đau khổ mà khóc lóc; có người hủy bỏ đôi tay mặt mày không còn bản sắc, nghẹn ngào mê muội mà kêu khóc.
Khi ấy, các Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già và các quyến thuộc kéo đến chỗ Phật. Ở trước Phật tất cả đều dập đầu xuống đất giống như cây bị đổ. Có người lạy sát chân Phật, có người kêu la lớn; có người khóc la quằn quại trên đất; có người ở trước Phật giơ hai tay quơ quào chụp níu tay Ngài kêu gào khóc lóc: Ôi Phật-đà! Ôi bậc tôn quý! Ôi bậc đại từ bi! Ôi nhà lớn! Ôi chỗ quay về! Hãy thương xót cứu vớt chúng con. Phật là mắt trong ba cõi chỉ đường cho người lạc lối, tất cả thế gian sẽ thành đồng trống, tất cả chúng sinh sẽ không có mắt nữa, ngọn đuốc sáng suốt đại trí nay tắt vĩnh viễn. Rồi cùng nhau nắm kéo Đức Phật giống như đám tang của cha mẹ, dòng họ, anh em, chị em, con cái của mình, kêu khóc buồn tủi kêu la đủ kiểu. Có người nói: Ôi! Đức Thế Tôn của con. Ôi! Vị thiện tri thức của chúng con. Ôi! Lời nói dịu dàng vi diệu. Ôi! Bước đi như sư tử chúa. Ôi! Bước đi như trâu chúa. Ôi! Bước đi như voi chúa. Ôi! Vị giảng nói pháp vương cam lồ. Vô lượng lời đau thương thảm thiết gào khóc như vậy, hoặc có người từ hư không rơi xuống đất, khóc lóc, quằn quại bất tỉnh.
Bấy giờ, A-nan bất tỉnh, té xuống đất giống như cây bị chặt, chốc lát tỉnh lại. Tay chống đất, ở trước Phật, A-nan chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn đến nỗi không hề chớp mắt và nói kệ:
Con sống thêm khổ não
Vì thấy các chúng sinh
Bị khổ như trúng tên
Buồn đau khóc nức nở.
Giống như đường tối tăm
Người buôn sợ giặc cướp
Bỗng thấy ánh sáng lớn
Chiếu sáng trước mọi người.
Kẻ ấy càng sợ hãi
Không sao đuổi chạy được
Gặp chỗ không nương tựa
Nhờ thấy đống lửa sáng.
Đức Thế Tôn diệt độ
Ai nấy đều buồn khổ
Người không ai cứu độ
Lại khổ như trúng tên.
Thế Tôn không trụ thế
Mà còn lại Niết-bàn
Bậc Tối thắng diệt độ
Làm sao con nỡ nhìn.
Như ngọn đuốc chiếu sáng
Củi hết lửa tắt tàn
Ngã vào vùng Lực sĩ
Làm sao con nỡ nhìn.
Nay sẽ không còn thấy
Ở trong rừng Trúc lâm
Và vườn của Kỳ-đà
Như thường khi thuyết pháp.
Làm sao vào Tỳ-da
Thành Tối thắng Ly-xa
Nói với các Ly-xa:
– Bậc Tối thắng diệt độ.
Làm sao vào Ca-tỳ
Thành Tối thắng họ
Thích Nói lời không vui này
Bậc Tối thắng diệt độ.
Làm sao đến Xà thế
Vua nước Ma-dà đà
Làm sao nói lời này
Như Lai nhập Niết bàn.
Hơn hàng ngàn chúng sinh
Luôn u buồn khóc lóc
Làm sao an ủi họ
Thích Sư tử diệt độ.
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni
Và chúng hàng tại gia
Nói họ như thế nào
Thích Vương ông diệt độ.
Hoặc ở nơi kinh hành
Hay nhập đại thiền định
Khi trời rồng hỏi thăm
Nói thế nào không sợ.
A-nan, Phật ở đâu?
Bậc ruộng phước tối thắng
Các Thượng tọa hỏi vậy
Con trả lời thế nào.
Đại pháp tòa sư tử
Con sẽ trải cho ai
Giường nằm đại sư tử
Con sẽ trải cho ai.
Giữa chúng không sợ hãi
Như Đại Sư tử hống
Đứng bên ai để nghe
Pháp thâm sâu tuyệt diệu.
Lấy nước rửa chân ai
Cầm ca-sa cho ai.
Bậc Tối thắng diệt độ
Con bám níu ai đây.
Đứng trước cả đại chúng
Ai khen con cần cù
Ai sẽ khen ngợi con
Đa văn biển đại trí.
Trí tuệ đại biện tài
Vô số chúng vui mừng
Còn ai nói con nghe
Lời thanh cao dịu dàng.
Con nghe luôn giữ gìn
Than thở như vậy xong
Ngã xuống đất bất tỉnh
Ở sát chân Đức Phật.
Khi đó, Đức Thế Tôn dạy A-nan:
– Này Cù-đàm-di-tử! Ông chớ quá sầu khổ như vậy, đừng mê muội quá. Trước kia Ta đã từng nói như vầy: “Tất cả ân ái đều sẽ biệt ly, tất cả hành đều vô thường, như mộng như huyễn, như bóng nắng, như bọt nước, như bọt tụ, như sương mai, hư vọng không thật. Các hành cũng thế”. Ông đã biết rồi chứ.
Này Cù-đàm-di-tử! Ông hãy đứng dậy, mau đi đến giữa cây Song thọ sắp xếp giường tòa cho Như Lai. Đầu hướng phương Đông, gối đầu cao như đầu con trâu. Mặt xoay đúng phương Bắc tay phải kề má, chân duỗi phương Nam. Vào cuối đêm nay Như Lai Thế Tôn sẽ nhập Niết-bàn, diệt trừ không còn thân hữu vi, đó là Niết-bàn.
Bấy giờ, A-nan khóc nức nở, đau buồn nước mắt giàn giụa rồi vâng lệnh Đức Thế Tôn trải tòa sư tử ở giữa cây Song thọ nơi rừng Ta-la. Sắp xếp xong, A-nan nói kệ:
Đây là lần cuối cùng
Trải tòa đại sư tử
Sau này không còn trải
Tòa cho bậc Tối thắng.
Làm sao con nỡ nhìn
Giữa rừng Song thọ vắng
Bậc Tối thắng diệt độ
Không thấy Thế Tôn nữa.
Các vị thần giữ rừng
Mãi không còn giữ nữa
Không còn thấy Như Lai
Làm sao sống an lạc.
Ôi các hành vô thường
Như huyễn, mộng, bọt, bóng
Đấng trượng phu đạo sư
Nay sẽ vào diệt độ.
Bấy giờ, Tôn giả A-ni-lâu-đà dùng kệ nói với A-nan:
Như Lai xưa đã dạy
Các hành đều vô thường
Nhân duyên không tự lại
Ông giữ tâm chớ buồn.
Có gì ông ưu bi
Có gì ông khóc lóc
Việc vô thường đã thế
Người trí không mê muội.
Sau khi A-ni-lâu-đà nói kệ xong, A-nan dùng kệ trả lời:
Ni-lâu-đà vô úy
Xin đừng nói như vậy
Nhìn Tối thắng diệt độ
Chả lẽ không buồn sao?
Tôn giả A-ni-lâu-đà nói:
Tôi đâu phải không khóc
Vì tôi cố đè nén
Thấy muôn loài chúng sinh
Bị ái dục hành hạ.
Thiên nhãn tôi lại thấy
Các chúng sinh khổ não
Vì xót thương bọn họ
Cho nên phải khóc lóc.
Làm lợi ích thế gian
Thì không nên áo não
Nên tôi nói các ông
Chớ buồn, phải niệm pháp.
Khi ấy, Thế Tôn đứng dậy, tất cả Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, A-tu-la, Ca-lâu-la v.v... trăm ngàn ức chúng vây quanh Đức Thế Tôn để đi đến rừng Ta-la. Đến nơi, Như Lai nằm nghiêng hông phải trên giường sư tử. Sau khi Đức Thế Tôn nằm trên giường sư tử, tức thì từ hư không trời mưa hoa với hương bột trời, tấu trăm ngàn điệu nhạc trời, lại mang đến thế gian đủ loại hương hoa, hương bột, hương xoa, đủ thứ âm thanh cúng dường Đức Thế Tôn để trồng các nghiệp lành. Cả thảy đều xướng lên:
– Đây là Đức Thế Tôn, Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác nằm lần cuối cùng và cũng là lần cuối cùng chúng ta nhìn Đức Thế Tôn.
Khi ấy trong khoảng sát-na, ở phương Đông có một thế giới tên Bảo Minh Chủ cách cõi Phật này mười ngàn câu chi, có Phật hiệu là Sư Tử Minh
Thành, Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác.
Trong thế giới ấy có vị Bồ-tát tên Thiện Tư Nghĩa, sẽ đến thác sinh trong cung nội vua A-xà-thế con bà Vi-đề-hy, thành Vương-xá thuộc nước Ma-kiệtđà. Vừa mới sinh ra, Bồ-tát Thiện Tư Nghĩa ngồi kiết già nói kệ:
Ta từ cõi Như Lai
Sư Tử Hống đến đây
Nghe nói có Thế Tôn
Thích Sư Tử tạ thế.
Tức thì, trong không trung có vị trời dùng kệ đáp lại Bồ-tát Thiện Tư Nghĩa:
Hôm nay đức Nhân Vương
Thế Tôn Thích Sư Tử
Ở rừng cây Ta-la
Sắp nhập vào Niết-bàn.
Vị trời vừa nói xong, Đại Bồ-tát Thiện Tư Nghĩa dùng kệ nói:
Cõi Phật khó tính được
Nhiều trăm ngàn câu chi
Tôi từ cõi ấy đến
Nghe pháp Thích Sư Tử.
Gặp Ngài sắp diệt độ
Đang ở giữa Song thọ
Tôi chắc chắn phải đi
Đến quốc độ Phật đó.
Nay đã đến đây rồi
Phật đó sắp nhập diệt
Các trời và thế gian
Đều buồn huống gì ta.
Không ở đây một niệm
Nên mau gặp Thế Tôn
Đừng để đến uổng công
Mà không được gặp Phật.
Thiện Tư Nghĩa khuyên bảo
Vua nước Ma-già-đà
Bằng lời nói dịu dàng
Để tâm vua vui vẻ.
Đại vương nghe lời tôi
Đại nhân hiện thế gian
Tâm vua chớ phóng túng
Mau đến chỗ Đức Phật.
Trong trăm ngàn ức kiếp
Mới gặp được một lần
Nay đã gặp Phật rồi
Người trí chớ bỏ qua.
Xin vua đừng nghi ngờ
Cho tôi là con nít
Tôi chẳng phải trẻ ngu
Chính vua mới con nít.
Tham dục lạc ở đời
Giết cha tạo tội nghịch
Đó là con nít ngu
Sẽ đọa vào đường ác.
Vua gần tri thức ác
Điều-đạt quấy loạn người
Đi theo kẻ ác ấy
Nên giết cha vô tội.
Vua như pháp vô song
Chính là hàng Phật tử
Nhưng vì tâm hữu ngã
Không trí nên nổi nghịch.
Nghịch như vậy rất ác
Lo sợ chớ coi thường
Do đó vua chắc chắn
Đọa ngục đại A-tỳ.
Bây giờ Phật đang còn
Chưa nhập vào Niết-bàn
Hãy phát tâm cúng dường
Xương cốt Xá-lợi Phật.
Xin vua cúng hoan hỷ
Tôi sẽ đến bên Phật
Sinh vào trong cõi này
Không thọ hưởng các dục.
Vì tôi nghe cõi xưa
Sư tử Minh Như Lai
Khen ngợi Đại Tiên này
Như Sư Tử diệt độ.
Vì muốn được diện kiến
Nên sinh vào cõi này
Các dòng họ Sát-lợi
Đều đồng đến chỗ Phật.
Bấy giờ, vua A-xà-thế dùng kệ nói với đồng tử:
Vùng đất Lực sĩ cách đây xa
Không thể vội vàng, cần chuẩn bị
Này đồng tử! Đợi tối đêm nay
Sáng mai xuất binh đi an lạc.
Đồng tử Thiện tư Nghĩa trả lời vua A-xà-thế:
Đại vương chớ có sinh mệt mỏi
Sức thần thông tôi không nghĩ bàn
Nay tôi sắp đi về phương Đông
Vô lượng cõi Phật không hạn ngại.
Từ cõi Phật đó, tôi đến đây
Vượt qua vô lượng không bờ bến
Khoảng ấy cõi Phật như hằng sa
Vùng đất Lực sĩ nào có xa.
Nói kệ xong, đồng tử từ trong lòng A-xà-thế đi bộ ra khỏi thành Vương-xá một cách an tường, và nói kệ:
Muốn thấy Phật thanh tịnh, vô cấu
Bậc đại lực tối thắng siêu nhân
Các ông mau theo tôi đến thăm
Đấng Thích Tôn ấy chưa nhập diệt.
Sau khi đồng tử đi bộ ra khỏi thành Vương-xá, trong khoảng sát-na, có bảy vạn hai ngàn người tụ tập vây quanh. Lại có vô lượng vô biên trăm ức nado-tha chúng trời theo đồng tử đến chỗ Phật, muốn đảnh lễ nơi chân Như Lai.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nằm nghiêng hông bên phải trên giường sư tử, giữa cây Song thọ, rừng Tala. Trong khoảng sát-na từ phương Nam đến cõi này có năm trăm ngàn ức thế giới Phật, có một cõi Phật, Đức Phật đó hiệu là Bảo Tích Thiện Hiện Như Lai, đầy đủ mười tôn hiệu, có Bồ-tát tên Tịch Tịnh Chuyển. Ở cõi đó qua đời, vị Bồ-tát này sinh vào Diêm-phù-đề trong nhà đại cư sĩ Tợ Sư Tử thuộc thành Xá-vệ. Ngay khi mới chào đời liền nói kệ:
Trải qua ngàn ức kiếp
Tự cắt bỏ tay chân
Móc mắt, hủy thân thể
Chặt đứt vô số đầu.
Thê thiếp cả con cái
Tất cả của cải quý
Trải qua ngàn ức kiếp
Cầu Bồ-đề Vô thượng.
Vì độ các quần sinh
Luôn bố thí tu phước
Vô lượng trăm ức kiếp
Bậc sáng suốt hiếm có.
Cư sĩ Tợ Sư Tử dùng kệ nói với đồng tử:
Ông là trời, rồng hả?
Hay Dạ-xoa, La-sát
Ông vừa mới sinh ra
Đã ăn nói rành mạch.
Quyến thuộc tôi đều sợ
Ruổi chạy tán khắp nơi
Tôi nghe tiếng tăm Phật
Cho nên tôi không chạy.
Đồng tử nói kệ lại:
Tôi chẳng phải trời, rồng
Dạ-xoa hay La-sát
Cư sĩ, ông không biết
Nên nói tôi là người.
Là Trời, Rồng, Dạ-xoa
Khẩn-la, Ma-hầu-la
Tôi là trời trong trời
Cư sĩ, ông nên biết.
Tợ cư sĩ trả lời:
Đồng tử nói:
Tôi có mối nghi ngờ
Đồng tử, tôi rất sợ
Nghe ông nói như vậy
Giống như người trí nói.
Thế nào là trời, rồng
Dạ-xoa, Khẩn-na-ma.
Sao gọi Thiên Trung Thiên
Xin đồng tử nói lại.
Cách đây về phương Nam
Có Phật hiệu Bảo Tích
Hiện tại như Sư tử
Tôi từ chỗ ấy đến.
Trăm lần làm Đế thích
Tự tại đến bây giờ
Trăm lần làm Phạm thiên
Cũng là vua Chuyển luân.
Tôi muốn nói thật lâu
Một kiếp, hay ức kiếp
Cũng không thể nói hết
Người trí mau đến Phật.
Này Đại cư sĩ! Ông cần phải tu pháp hành như vậy, với tâm niệm gần gũi sẽ được khai thị rõ ràng. Này Đại cư sĩ! Pháp hành là gì? Như Lai sẽ nói: Bảo Tích Thiện Hiện Như Lai đầy đủ mười tôn hiệu ấy có các Đại Bồ-tát thành tựu ba pháp, với tâm Bồ-đề đã đắc Bất thoái chuyển sẽ mau chứng Bồ-đề Vô thượng.
Ba pháp ấy là gì?
Nhập tâm vô biên. Nhập trí thâm sâu.
Nhập Tam-muội tu hành kiên cố.
Muốn tuyên lại nghĩa trên, đồng tử nói kệ:
Nếu muốn nhập vào trí thâm sâu
Được trời, người luôn kính trọng
Chỉ có chư Phật đại danh xưng
Biết rõ nhân hay chẳng phải nhân.
Câu ấy không phải không Bồ-đề
Người có trí không bị nhiễm trước
Không còn chấp trước, lìa tên độc
Chứng pháp trí rồi được thành Phật.
Tâm niệm vô biên, không tâm hữu
Nhập tâm như vậy được tịch tĩnh
Tùy thuận tâm ấy gọi là Nhập
Tâm này gọi là Biến Nhất Thiết.
Nếu chặt phá cái không bền ấy
Thì không phá pháp Như Lai nói
Các hữu giống như thể hư không
Như vậy, chân như như kim cang.
Nên biết tự tánh không như thế
Nếu ai tu Vô Sở Trước này
Thì ra được khỏi lưới phiền não
Sẽ lìa các hữu thành Chánh giác.
Nên biết tất cả không chỗ biết
Nên chứng tất cả, không chỗ chứng
Nên giác tất cả, không chỗ giác
Tất cả Thanh văn không chấp thủ.
Nhập pháp thâm sâu, không nghĩ pháp
Giải thoát chúng sinh, không nghĩ thoát
Tịch tĩnh không nghĩ có tịch tĩnh
Chứng Bồ-tát mà không nghĩ Đạo.
Người mạnh mẽ ấy trừ tên độc
Hiểu rõ các cõi của chúng sinh
Biết tất cả nên gọi là Phật
Bậc Vô Sở Trước khó được gặp.
Đồng tử nói kệ xong, trong chốc lát cư sĩ Tợ Sư Tử cùng quyến thuộc hai trăm người vây quanh đều phát tâm Bồ-đề vô thượng, hồi hướng lên ngôi Bồ-đề, trong các pháp đã chứng được nhẫn Vô sinh. Tám mươi ức vị trời cũng phát tâm Chánh giác vô thượng, tâm Bồ-đề cứu cánh không còn thoái chuyển. Lại có bốn ức chúng sinh ở trong các pháp xa lìa trần cấu, đắc pháp nhãn thanh tịnh. Bấy giờ, đồng tử nói kệ:
Tôi đến chỗ Thích Tử
Thật là không uổng công
Trong sợ hãi sinh tử
Độ thoát ức chúng sinh.
Có rất nhiều chúng sinh
Đã phát tâm Bồ-đề
Trụ vô thượng bình đẳng
Chứng đắc nhẫn Vô sinh.
Cha tôi trụ pháp nhẫn
Mẹ, anh, quyến thuộc tôi
Tám mươi ức vị trời
Đều trụ đạo Bồ-đề.
Tôi được tài sản lớn
Vô lượng không nghĩ bàn
Gần gũi với pháp Phật
Hơi cách xa bần cùng.
Bấy giờ, đồng tử Tịch Tịnh Chuyển giáo hóa cha mẹ và quyến thuộc của mình rồi ra khỏi đại thành Xá-vệ. Cha mẹ cùng quyến thuộc cả trăm ngàn người. Đồng tử đi trước, mọi người kéo đến rừng Ta-la vùng đất Lực sĩ để đảnh lễ và chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn.
Khi Như Lai nằm nghiêng hông bên phải trên giường sư tử, trong chốc lát, cách đây về phương Tây hơn tám ức trăm ngàn cõi Phật, có Phật hiệu
Nhạo Âm Như Lai đầy đủ mười hiệu. Cõi Phật ấy có Bồ-tát tên Vô Phan Duyên. Sau khi từ cõi đó qua đời, vị Bồ-tát ấy sinh trong đại thành nước Bala-nại ở cõi Diêm-phù-đề, bỗng nhiên hóa sinh trong nhà đại cư sĩ Thiện Quỷ Túc. Vừa sinh ra, đồng tử Vô Phan Duyên liền nói kệ:
Các pháp không duyên dựa
Thì giác bị ngu chuyển
Không thoát khỏi các khổ
Phiền não càng tăng trưởng.
Các pháp không chỗ tựa
Tìm nó không thể được
Nếu tận hay không tận
Đều là vô sở hữu.
Hư không không chỗ dựa
Chẳng không, không chỗ dựa
Pháp không, nhân duyên không
Nhân duyên cũng bất không.
Pháp được chư Phật giảng
Thâm sâu khó thấy được
Nếu có người nói được
Chỉ có Thích Sư Tử.
Voi lớn, sư tử lớn
Phạm hạnh không dục nhiễm
Hôm nay giữa Song thọ
Mắt thế gian sắp diệt.
Phật ở giữa đại chúng
Sáng như trăng đêm rằm
Nói diệu pháp cho chúng
Chúng không còn thấy nữa.
Chúng Tỳ-kheo bao quanh
Như đỉnh núi Đế thích
Từ nay không còn vào
Những thành thị đẹp lớn.
Bậc chí tôn trời người
Là trống pháp tối thắng
Phát ra làm chúng vui
Chúng con không còn nghe.
Vô ngã, không tạo tác
Như Lai nói pháp ấy
Nay sắp nhập Niết-bàn
Giữa Ta-la Song thọ.
Sau khi Bồ-tát Vô Phan Duyên nói kệ này, một ngàn đồ chúng trong thành Ba-la-nại nói như vầy:
– Vị đồng tử này thật kỳ lạ hiếm có, trí tuệ biện tài, thâm nhập vô úy, vừa mới sinh ra mà đã nhớ biết những việc đời trước, lại còn nói những bài kệ vi diệu rành mạch. Chính vì có trí tuệ đại lực như vậy nên không sợ những điều khó điều phục, thật là biện tài thanh tịnh vi diệu. Nguyện cho chúng ta được trí tuệ giống như vị đồng tử này.
Khi ấy, đồng tử Vô Phan Duyên muốn đại chúng nhập vào địa Bất thoái, pháp thế gian không có được, vô lượng vô biên sự hy hữu khó đắc cũng khiến họ được thể nhập và còn tạo cơ hội cho họ nhập pháp nhẫn Vô sinh.
Đại chúng thưa đồng tử:
– Thật quý thay đồng tử, nay chúng tôi đi theo đồng tử đến nơi đó để cúng dường và chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn.
Thế rồi, Đại Bồ-tát Vô Phan Duyên cùng đồ chúng quyến thuộc cả trăm ngàn người cung kính đi theo. Đồng tử đi trước, cùng ra khỏi thành Bala-nại và theo đường tắt đến chỗ Đức Phật vì muốn cúng dường và chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn.
Trong sát-na cách đây về phương Bắc có hơn sáu vạn bốn trăm ngàn ức cõi Phật, có Phật hiệu Trụ Bồ Đề Phần Chuyển Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Cõi Phật đó có Bồ-tát tên Khai Phu Thần Thông Đức. Từ cõi Phật đó qua đời, Bồ-tát sinh trong Diêm-phù-đề, trong nhà đại tướng Sư tử thuộc đại thành Tỳ-xá-ly. Trong nhà, ông ta bỗng nhiên hóa sinh. Sau khi vừa sinh, Đại Bồ-tát Khai Phu Thần Thông Đức nói kệ:
Nếu nghe Phật Thế Tôn
Nhà họ Thích tăng trưởng
Độ thoát các ách nạn
Vô lượng trăm ngàn ức.
Nếu nghe Phật Thế Tôn
Được biển trí vô biên
Tinh tấn và thiền định
Đạt rốt ráo bờ kia.
Như Lai nhổ tên độc
Đắc tâm nhẫn, hòa nhã
Thường giảng pháp cho chúng
Mà không vướng tướng pháp.
Nếu nghe Phật Thế Tôn
Thì không vướng ba cõi
Thế gian làm hay không
Trí tuệ đều biết cả.
Cõi Dục và cõi Sắc
Cho đến cõi Vô sắc
Có thể dùng trí tính
Mắt sáng ấy còn không.
Khi ấy, nhà đại tướng có một Thiên nữ tên
Chuyển Bồ Đề Phần hóa làm người đứng trước đồng tử dùng kệ đáp lại:
Thế Tôn trụ một kiếp
Hoặc quá hơn một kiếp
Sau này ông gặp Phật
Nay thọ đủ năm dục.
Hưởng phước lộc tốt đẹp
Giống như đại vương gia
Những âm thanh vi diệu
Ca múa và xướng hát.
Đồng tử biết rõ Như Lai đã làm lợi ích cho chúng sinh, căn lành của các trời người đều được thành tựu, dùng kệ nói với Thiên nữ:
Chúng sinh ngu si kia
Ưa thích năm dục lạc
Không nghe Chánh Biến Tri
Và giáo pháp của Phật.
Tôi không thọ năm dục
Năm dục không lâu bền
Năm dục như đao kiếm
Nếu ai tin năm dục.
Heo chó và dã can
Lừa, ngựa, trâu, lạc đà
Bọn này tham năm dục
Chư Phật, Thanh văn trách.
Đui mù, căn tàn tật
Xấu xí và lệch què
Những tham dục như vậy
Chư Phật, Thanh văn trách.
Kiến càng, bướm, ruồi, lằn
Câu-chi-la, khổng tước
Là những loài hành dục
Ta hơn họ nên trách.
Ví như hầm lửa lớn
Cháy rực khắp Diêm-phù
Bọn mù kia rớt xuống
Năm dục cũng như vậy.
Các dục: Vô thường, Khổ
Bị người trí quở trách
Nếu ai không biết lỗi
Bọn này bị dục chuyển.
Tôi không thọ năm dục
Thế Tôn đã chứng tri
Ai nghe ý nghĩa này
Nên biết họ như Phật.
Tôi ở bên Phật nghe
Núi chúa Tu-di kia
Phật ấy vào nửa đêm
Sẽ nhập vào diệt độ.
Chúng ta mau đến đó
Ai đoạn sạch các sử
Ai muốn gặp hãy đi
E Thế Tôn diệt độ.
Chuyển tâm ý Bồ-đề
Bậc Tối thắng đã nói
Trong trăm ngàn ức kiếp
Khó gặp trồng căn lành.
Nếu chiêm ngưỡng Thích Tôn
Vào lúc nhập Niết-bàn
Nghe pháp Thích Sư Tử
Sẽ sinh chủng tử lành.
Nếu trời, người, Dạ-xoa
Đến chỗ Đức Như Lai
Ưa thích chủng tử Thích
Mau gặp Đại danh xưng.
Đại Bồ-tát Đồng tử Khai Phu Thần Thông Đức nói kệ xong, cùng vô lượng vô biên chúng sinh ra khỏi thành Tỳ-xá-ly, theo đường tắt đi đến chỗ Phật để mong chiêm ngưỡng cúng dường lễ bái Phật.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn đang nằm nghiêng hông phải trên giường sư tử thì bốn đồng tử từ bốn phương đi tới. Mỗi vị đều có đại chúng đi theo xung quanh và thống lãnh đại chúng đều bình đẳng. Trí tuệ, thần thông, oai đức, pháp hành không sai khác, không trái mảy may nào cả. Tất cả đều đến đứng trước Đức Phật cung kính chắp tay. Khi bốn đồng tử đi đến bên Đức Phật thì quyến thuộc của thành ấp nào đứng theo vị trí nấy. Còn tất cả trời người, trăm ngàn chúng sinh đủ tầng lớp, đều đứng chắp tay giữ tâm thanh tịnh, vui mừng khôn xiết và cúi mình chiêm ngưỡng hướng về bốn đồng tử. Trong lúc bốn đồng tử đang tiến tới thì bốn phương khắp một do-tuần có các trời tuôn mưa hoa trời đầy cả mặt đất, trỗi nhạc trời cả trăm ngàn điệu, các trời ca ngâm khen ngợi không thể tả.
Khi ấy, Đức Như Lai tự nhiên hiện ra bốn tòa sư tử ở bốn phía.
Tôn giả A-nan dùng kệ bạch Phật:
Bạch Đức Phật vì sao
Bốn bên Nhất thiết trí
Hông phải hiện bốn tòa
Trải tòa sư tử rộng.
A-nan vừa nói xong, Đức Phật dạy:
– Này A-nan! Ông có thấy bốn đồng tử này không? Vị từ phương Tây đến, mặt như trăng rằm sáng hơn ánh sáng mặt trời, che khắp bốn thiên hạ, oai đức thù diệu, mặt mày sáng rỡ, tỏa ánh sáng trí tuệ, đắc đại tinh tấn, thể nhập vào trí thâm sâu, thành tựu các công đức, tri thức trí tuệ thông suốt, có lòng tin sâu sắc, biết khiêm nhường hổ thẹn, hạnh nghiệp đầy đủ, sự hiểu biết sâu sắc, đắc chánh niệm định, trí tuệ lanh lợi, có đại phương tiện đệ nhất Tổng trì, tùy theo căn cơ chúng sinh mà giảng pháp để họ tăng trưởng căn lành, đã từng trồng các căn lành với vô lượng ức trăm ngàn Đức Phật. Họ ở bốn phương từ cõi Phật của mình nghe Ta sắp nhập Niết-bàn, nên từ cõi Phật đó đến đây xin hỏi để sinh vào cõi này, muốn nghe thấy Ta và danh xưng Ta nói pháp làm lợi ích cho những công đức, để nhìn Như Lai vào cuối đêm nay ở giữa Song thọ rừng Ta-la trong vùng đất Lực sĩ nhập vào Niếtbàn vô dư, Niết-bàn không thể nghĩ bàn, Niết-bàn Nhất thiết thế gian vô đẳng, Niết-bàn Nhất thiết thế gian hy hữu, Niết-bàn Nhất thiết thế gian đoạn ly chư thú thanh tịnh. Như Lai sắp vào Niết-bàn vi diệu tối thượng như vậy.
Này A-nan! Đồng tử từ phương Đông đến, dung nhan đẹp đẽ, đầy đủ đại công đức, đoan nghiêm dễ mến, ánh sáng chiếu khắp nơi, oai đức vời vợi giống như trăng mùa thu tỏa tràn ánh sáng với trăm ngàn đồ chúng đi theo và được chúng trời mưa cúng hoa trời. Họ đến chỗ Như Lai là muốn cúng dường Phật.
Này A-nan! Đồng tử này từ cõi Sư Tử Âm Minh Thanh Như Lai, đã từng làm Chuyển luân Thánh vương, thống lãnh ngàn thế giới và đủ quyền lực, được chư Thiên, người cúng dường. Khi trị vì thì luôn giảng pháp cho cõi Dục, trên trời và nhân gian để họ thọ trì cú nghĩa, giảng nói cho vô số chúng sinh về ý nghĩa vi diệu, dạy họ trồng các căn lành, đắc các thần thông và hiểu rõ pháp hành. Chúng Thánh học hỏi vô biên không đoạn, tối thượng vi diệu được sức vô úy, thể nhập sâu vào pháp tướng, thành tựu biện tài, trí tuệ lanh lợi đạt đến trí tuệ vô biên ở bờ bên kia. Đầy đủ các pháp hành như vậy rồi, suốt mười tám ức năm trị vì giáo hóa như pháp, vị ấy không dùng dao gậy đánh đập não loạn chúng sinh, không vì ái dục mà tham lam ngôi vua. Mười tám ức năm ấy làm thành thục được tám mươi na-do-tha chúng sinh trụ vào Bồ-đề vô thượng. Với pháp Bồ-tát đó nên vua đắc được địa vị Bất thoái. Thiện nam ấy từ lúc mới phát tâm đắc được địa vị Bất thoái cho đến thành tựu rốt ráo Bồ-đề vô thượng. Một thời gian sau, vua cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca sa bỏ nhà làm người xuất gia, suốt tám mươi mốt ức năm tu hành phạm hạnh. Từ khi xuất gia chưa bao giờ ngồi nằm huống chi ngủ nghỉ. Trong tám mươi mốt ức năm ấy, thậm chí không khởi một niệm tưởng dục và tâm sân hận nào, huống chi là có tâm sát hại não loạn, không tạo việc bất thiện và tư tưởng yêu ghét, cũng không nghĩ tu hành tưởng không tu hành, thường trụ vào hai pháp: một là mặc dầu đắc nhục nhãn nhưng không có tưởng về nhục nhãn, hai là mặc dầu biết rất rõ về các pháp tụ nhưng không có tư tưởng chấp pháp tụ. Trong tám mươi mốt ức năm, vị ấy không bàn chuyện không lợi ích hay tưởng về những việc khác như tưởng về địa, tưởng về thủy, tưởng về hỏa, tưởng về phong, tưởng về hư không, tưởng về thức, tưởng đến vợ con, tưởng đến đói khát, tưởng đến xóm làng, tưởng nơi thanh vắng, tưởng đến thành ấp, tưởng về sự trái nghịch, tưởng về sự không trái nghịch, tưởng về viễn ly, tưởng thiền định, tưởng tự ngã, tưởng ngã người khác, tưởng sắc, tưởng vô sắc, tưởng một bên, tưởng chính giữa, tưởng sinh tưởng diệt, tưởng ít tưởng nhiều. Các loạn tưởng như vậy đều được tịch tĩnh không có phân biệt, chỉ trừ hai mươi hòm chứa tạng pháp, để tư duy tu tập. Trong khoảng thời gian ấy đã thành thục được tám vạn na-do-tha chúng sinh, nhất định chứng Bồ-đề vô thượng. Những chúng sinh ấy đều mới phát tâm ở cõi này, trong khoảng sát-na ở cõi Phật ấy đi ra một cách tự tại. Mỗi vị đi riêng đến cõi Phật để phụng thờ chiêm ngưỡng Thế Tôn ở cõi Phật đó. Mỗi thế giới có một Đức Phật. Mỗi thân đến từng mỗi thân Phật làm mỗi việc xen lẫn nhau. Chư Phật của mỗi quốc độ đều giống nhau. Trong sát-na nằm nghiêng hông bên phải, vào cuối đêm nay đều sẽ nhập Niết-bàn giữa cây Song thọ rừng Ta-la thuộc vùng đất Lực sĩ giống như Như Lai. Hết thảy chư Phật ấy đều một hiệu Thích Ca Mâu Ni, đầy đủ mười tôn hiệu. Chư Phật ấy cũng đồng xuất hiện ở cõi ác năm trược.
Này A-nan! Dùng nhục nhãn vô lượng vô biên vô ngại chánh tri, chánh kiến như Thanh văn, Phậtbích-chi thì không thể nhập được, bởi vì chẳng phải cảnh giới của họ.
Này A-nan! Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưubà-tắc, Ưu-bà-di nào nghe pháp môn này sinh lòng tin ưa thích trí nhục nhãn chánh tri chánh kiến của Ta, muốn đạt được trí ấy cho đến đầy đủ Nhất thiết chủng trí và phát nhất niệm chánh tín liên tục không xả bỏ, thì vừa mới phát tâm liền sinh vô lượng công đức, huống chi đạt được vô lượng vô biên đại công đức.
Này A-nan! Nếu có thiện nam, thiện nữ đi đến tám mươi na-do- tha chư Như Lai, lại trải qua tám mươi na-do- tha ức năm đem tất cả vật cụ cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, đích thân phụng thờ chư Như Lai ấy. Đối với thời gian tám mươi na-do-tha năm tuy được vô lượng công đức nhưng không bằng nghe pháp môn này mà phát tâm ham thích thì công đức vô biên sẽ không có gì so sánh được.
Này A-nan! Đồng tử này ở trong pháp của Ta trong một ngày đêm đã giáo hóa làm lợi ích vô lượng vô biên chúng sinh, huống gì làm lợi ích trong thời gian lâu. Nếu Xá-lợi-phất, Mục-kiềnliên và các Thanh văn khác dù có nghe cũng không thể làm lợi ích độ thoát vô lượng chúng sinh như vậy.
Này A-nan! Giả sử đem hết tuổi thọ của các ông để nói pháp giáo hóa chúng sinh, không nghĩ đến việc nào khác và không bao giờ dừng nghỉ, mặc dầu giáo hóa làm lợi ích như vậy nhưng trong pháp của Ta, bản thân các ông không thể gánh vác gánh nặng pháp Phật, giống như đồng tử này đã gánh vác được thấy hôm nay.
Phật lại dạy:
– Này A-nan! Đồng tử này làm lợi ích lớn và đầy đủ tâm từ bi với chúng sinh, nhớ nghĩ đến chúng sinh, làm lợi ích cho chúng sinh, cho nên đồng tử này có vô lượng công đức.
Này A-nan! Ông có thấy đồng tử từ phương Nam đến không? Mặt vị ấy sáng như trăng rằm mùa thu tỏa sáng vằng vặc. Tay phải cầm Bảo tích dộng xuống đất phát ra âm thanh như vậy. Ví như nước Ma-già-đà có một vật báu làm bằng vàng, bằng bạc, làm được thành công thì kinh doanh càng phát triển. Nó không dính bụi bặm, không tỳ vết, nứt rạn, không bị rỉ chảy, đẹp đẽ không có đất, mồ hôi nhơ nhớp, nhờ các điều kiện hợp lại mà thành. Những kỹ năng mài giũa rất tinh xảo, trong sáng năm phần, vuông vức mười phần, cách xa ngàn phần mà cũng thấy, xa lìa mười hai phần thuộc vàng bạc phiền cấu. Tính chất của loại ấy rất tinh ròng, tính vàng ròng rất tối thắng - mài luyện trăm lần được thành vật mới chứ chẳng phải vật cũ, đủ tám phần của hàng ngàn thợ giỏi, nhất tâm quán sát thì tất cả bụi bặm mồ hôi nhơ nhớp không có. Đánh vào vật tốt đẹp ấy phát ra âm thanh như vậy, nếu ai nghe được thì diệt hết các khổ.
Này A-nan! Ta ví dụ âm thanh của vật ấy chỉ sơ lược mà thôi.
Nhưng đồng tử này giữa những vật báu lẫn lộn dùng trượng thanh khiết đánh vào phát ra âm thanh cũng như vậy.
Này A-nan! Đồng tử này tên là Tịch Tịnh Chuyển, là Đại Bồ-tát từ cõi Như Lai Bảo Tích phương Nam đến. Thế giới Phật ấy tên Bảo Trang Nghiêm.
Này A-nan! Ý ông thế nào? Thế giới đó vì sao gọi là Bảo Trang Nghiêm?
Này A-nan! Thế giới Phật đó không có một chúng sinh nào trụ vào bất định, và cũng không có ai trụ vào tà định.
Này A-nan! Chúng sinh cõi ấy đều là chánh định, trụ vào Bồ-đề vô thượng.
Này A-nan! Cõi đó là cõi của Bồ-tát. Chúng sinh cõi đó không có tư tưởng nam nữ.
Này A-nan! Chúng sinh cõi đó đều phạm hạnh, không bị uế dục, trí hạnh đều thanh tịnh, thậm chí không có tên của dục uế.
Này A-nan! Chúng sinh ở cõi Phật Trang Nghiêm không có những tư tưởng bất thiện cũng không tưởng đến ăn. Họ chỉ ăn hai loại thức ăn đó là lấy định tuệ và lấy pháp hỷ làm thức ăn.
Này A-nan! Cõi Phật ấy không nói về năm ấm, không nói Ba thừa, chỉ giảng nói rộng rãi về Nhất thiết trí ấm, là kho tàng của Bồ-tát. Này A-nan! Do đó mà thế giới Phật ấy gọi là Bảo Trang Nghiêm.
Này A-nan! Chúng sinh ở các cõi Phật khác đều sinh vào cõi này. Có người nguyện sinh vào cõi Phật ấy. Nếu họ nguyện sinh vào đó thì đều không thoái chuyển Bồ-đề vô thượng.
Này A-nan! Hoặc có Bồ-tát nào từ cõi Phật khác đến sinh vào nơi đây. Sau khi sinh liền tự biết tất cả việc trong cõi Phật ấy. Sau khi những Bồ-tát sinh vào cõi đó thì trong khoảng sát-na đều tưởng mình là Phật.
Này A-nan! Như Lai Bảo Tích Hiện ấy giảng nói hết thảy vô lượng vô biên na-do-tha Đại Bồ-tát ở đó về Nhất thiết chủng trí và kho tàng pháp môn Bồ-tát không bao giờ gián đoạn và cũng không nói gì khác.
Này A-nan! Giả sử qua vô lượng ngàn kiếp, Ta nói công đức của cõi Phật đó và phân biệt rõ ràng về thắng pháp mà các Đại Bồ-tát đạt được thì đó là phát nguyện về cõi Phật Trang Nghiêm không thể cùng tận.
Này A-nan! Ta chỉ nói sơ lược về danh tự và công đức của thế giới Phật đó. Đại Bồ-tát Tịch Tịnh Chuyển này từ phương ấy đến vì muốn thấy Ta nhập Niết-bàn, cũng vì thương xót vô lượng vô biên chúng sinh để họ phát tâm Bồ-đề vô thượng, cũng là muốn hiển bày công đức trang nghiêm ở cõi ấy. Hiển bày danh xưng và công đức của Phật Bảo Tích Hiện đó thì gọi là hiển bày pháp hành đại sự của các Bồ-tát. Lại nói danh xưng chân thật để vô số chúng sinh cõi này giữ gìn chánh pháp, đến cõi Phật Thích Ca vì muốn các Bồ-tát đời vị lai sinh tâm hoan hỷ.
Này A-nan! Đồng tử này xưa kia tu hành hạnh Bồ-tát, gặp Phật Nhiên Đăng xuất hiện ở đời. Khi ấy đồng tử từng làm Chuyển luân Thánh vương tên Hàng Oán.
Này A-nan! Thánh vương Hàng Oán nói chánh pháp làm thành thục căn lành cho vô lượng vô biên chúng sinh. Từ sáng sớm đến khoảng chừng bữa ăn, đã hóa độ ba mươi sáu ức chúng sinh trụ vào địa Bất thoái trong Bồ-đề vô thượng, nhập chánh định tụ, chứng đắc pháp nhẫn Vô sinh. Nhưng sau khi Như Lai Nhiên Đăng Bát-niết-bàn, Thánh vương phát đại tinh tấn, cạo bỏ râu tóc xuất gia nối bước Phật Nhiên Đăng chuyển Chánh pháp luân. Sau khi Thánh vương làm lợi ích cho vô lượng vô biên chúng sinh rồi, vào độ thời gian trước mặt trời lặn đã giáo hóa ba vạn sáu ức chúng sinh trụ Bồđề vô thượng. Trở về khi mặt trời lặn khiến bảy vạn na-do-tha chúng sinh đều lậu tận chứng A-lahán, huống chi những bậc hữu học chứng đạo, kiến đế thì không thể nào so lường được.
Này A-nan! Giả sử Ta dùng trí tuệ của Phật để nói cho đồng tử Bồ-tát Tịch Tịnh này, thuở xưa vì làm lợi ích cho các chúng sinh không thể cùng tận. Này A-nan! Ông hãy đến trước Ta trải tòa ngồi cho đồng tử Bồ-tát Tịch Tịnh, ông được vô lượng vô biên công đức thù thắng vi diệu. Nếu chúng sinh nào nghe tên Bồ-tát Tịch Tịnh thì người ấy giống Phật hiện tại không khác.
Này A-nan! Chúng sinh nào nghe danh tự, giáo pháp, thọ ký trang nghiêm công đức này, thậm chí trong một niệm phát lòng tin thanh tịnh muốn thấy Như Lai Bảo Tích Hiện, muốn nghinh đón lễ lạy gần gũi cúng dường hay ai phát tâm muốn nghe pháp này, thì này A-nan, nay Ta đều thọ ký cho họ được sinh về cõi ấy để phụng thờ, chiêm ngưỡng Như Lai và nghe chánh pháp. Trong cõi Phật đó, Bồ-tát nào cũng muốn thực hành các pháp hành ấy, chỉ trừ những Bồ-tát vì nguyện lực.
Này A-nan! Chúng sinh cõi đó hoàn toàn được lợi ích lớn, dù chỉ nghe danh tự giáo pháp, công đức trang nghiêm thậm chí nghe qua một lần, huống gì sau khi nghe có lòng tin thanh tịnh.
Này A-nan! Pháp cú ấy như thật không hư vọng, ông nên giữ gìn cho khéo, nhớ nghĩ thật kỹ. Vì sao? Này A-nan! Vì người ở cõi Diêm-phù-đề chưa từng nghe những chương cú và danh tự của kinh này.
Này A-nan! Nếu Bồ-tát chỉ là danh tự và người hủy báng chánh pháp thì chớ cho họ nghe. Vì sao? Vì họ phỉ báng chánh pháp, tội đó rất nặng.
Này A-nan! Ông thấy ở phương Tây có chiếc xe trang hoàng đủ vật báu đang nương trên hư không đến đây không?
A-nan thưa:
– Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Phật lại bảo Anan:
– Ông thấy có một đồng tử trong đó không? Hai chân vị ấy đang tạo ra thần thông biến hóa bay vọt lên hư không làm chấn động đại địa này. Sự chấn động này rất dữ dội. Khi đại địa chấn động bởi sự biến hóa ấy, làm cho chúng sinh sợ hãi dựng tóc gáy.
A-nan thưa:
– Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Con đã thấy rồi. Đồng tử này có thần thông du hý hiện ra đủ cách, nương trên hư không đến đây.
Phật lại bảo A-nan:
– Chiếc xe trang trí đủ các vật quý báu ấy đến trước mặt đồng tử phát ra đủ mùi hương vi diệu, tỏa khắp cõi Phật này.
A-nan thưa:
– Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Đúng vậy, bạch Thiện Thệ!
Phật lại bảo A-nan:
– Đây là do trí lực của thiện nam ấy hiện ra làm cho chiếc xe phát ra mùi thơm như vậy.
Này A-nan! Ông hãy lắng nghe âm thanh phát ra bốn loại. Đó là: Không thanh, Vô sở hữu thanh, Tịch tĩnh thanh và Phật thanh.
A-nan thưa:
– Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Đúng vậy, bạch Thiện Thệ! Phật dạy:
– Này A-nan! Từ chân lông của đồng tử phát ra âm thanh như vậy.
Này A-nan! Khi âm thanh này phát ra có sáu mươi tám na-do-tha chúng sinh đạt lợi ích rất lớn.
Lại có vô số chúng sinh ở một ngàn thế giới đối với pháp vô vi tâm đã đoạn lậu tận, liền được giải thoát.
Này A-nan! Nghe tên một Đức Phật đã có chín ức Bồ-tát trụ địa Bất thoái chuyển, được nhập thánh đạo Bồ-đề vô thượng. Có trăm ngàn na-dotha trời người cõi này đắc địa A-bệ-bạt-trí, nhất định nhập Bồ-đề vô thượng.
Này A-nan! Phương Tây nơi thiện nam này ở có Phật hiệu Như Lai Hỷ Lạc Âm, thế giới tên Lạc Mao, từ cõi đó đến đây muốn thấy Như Lai nhập Niết-bàn. Sau khi đến đây, thiện nam ấy đã làm lợi ích rất nhiều cho vô lượng vô biên chúng sinh.
Này A-nan! Nay thiện nam ấy đến cõi này làm Phật sự, như Như Lai chuyển Đại pháp luân, thì vị ấy cũng chuyển Đại pháp luân như vậy.
Này A-nan! Thiện nam này từ a-tăng-kỳ kiếp đến nay trong lỗ chân lông luôn phát ra bốn loại âm thanh như vậy, đó là âm thanh không tịch. Trong mỗi âm thanh đều làm lợi ích rất lớn cho vô lượng vô biên chúng sinh.
A-nan bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Thiện nam này xưa kia đã trồng căn lành gì mà trong lỗ chân lông phát ra các thứ âm thanh như thế?
Phật dạy A-nan:
Ta nhớ về quá khứ xa xưa lượng vô số kiếp có Phật ra đời hiệu là Vô Cấu Nhãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thiện nam này xuất gia theo Phật làm đại Sa-môn tên Trí Lạc, tịnh tu phạm hạnh. Nhưng Sa-môn này hỏi Như Lai về chân lý khó biết, cú nghĩa trí tuệ thâm sâu. Đó là bất sinh, bất diệt; Nhất thiết pháp không, vô sở hữu; tất cả bản tánh các pháp đều thanh tịnh, tất cả chư Phật đồng một thể. Vậy mà Sa-môn ấy suốt bảy ngày bảy đêm luôn suy nghĩ không gián đoạn, không nghĩ đến mỏi mệt, không nhớ đến việc khác, không xả bỏ gánh nặng. Tự mình thọ trì bốn câu ấy, ưa thích tụng tập, hành trì thông suốt, nghiên cứu quán triệt ý nghĩa thực hành rất siêng năng.
Này A-nan! Sa-môn lúc đó chính nay là đồng tử đây vậy. Nhờ y theo ý nghĩa vi diệu của bốn câu đó do Phật đã nói cho nên thể nhập vào pháp Phật, giáo hóa chúng sinh tự nhiên hiểu rõ được các việc. Sa-môn ấy yêu thương chúng sinh, thường đi vào thôn xóm thành ấp để giảng pháp.
Này A-nan! Lúc đó pháp sư Sa-môn Trí Lạc nhờ đa văn nên biết nghĩa lý của pháp, lại nhờ tâm chân thật nên suốt sáu năm giảng nói pháp cú như thế. Do đó trải qua a-tăng-kỳ kiếp từ trong các lỗ chân lông phát ra tiếng thần thông như vậy. Từ lỗ chân lông của thiện nam này phát ra bốn loại âm pháp để làm lợi ích lớn cho chúng sinh. Còn nữa, thiện nam ấy đã trải qua a-tăng-kỳ kiếp tu tập cho nên từ lỗ chân lông thành tựu được bốn âm thanh vi diệu như thế.
Này A-nan! Người ở cõi Diêm-phù-đề đạt được lợi ích lớn là lợi đệ nhất. Nếu ai nghe danh tự của Bồ-tát Vô Phan Duyên còn đạt được lợi ích, huống chi còn nghe được giáo pháp của người.
Này A-nan! Nếu có thiện nam hay thiện nữ cõi trời hay cõi người nghe Bồ-tát Vô Phan Duyên, thậm chí chỉ nghe đến tên thôi, thì đã được tịnh tâm, đạt được công đức không thể nghĩ bàn huống chi đích thân chiêm ngưỡng vị ấy. Vì sao? Này Anan! Vì Đại Bồ-tát Vô Phan Duyên đã đạt được công đức từ địa Bồ-tát không thể nghĩ bàn, không thể tính nói hết.
Này A-nan! Đại Bồ-tát này vì muốn đến thấy Như Lai nhập Niết-bàn. A-nan, ông hãy sắp xếp giường tòa ở trước mặt Như Lai cho Đại Bồ-tát ấy. Này A-nan! Nhờ trải sắp tòa cho thiện nam này ông sẽ được an lạc lợi ích lớn và mau đạt được thần thông thắng diệu. Này A-nan!
Nhờ nhân duyên trải tòa mà ông được quả báo tốt, nếu ngồi hay nằm ông luôn được an ổn và trong một niệm thường hiện chứng đắc quả A-la-hán thánh pháp vô vi.
Này A-nan! Ông chưa chứng nhập thánh quả
Thanh văn vô lậu, nay Ta sẽ thọ ký cho ông được đắc. Ông sẽ có các phần công đức hồi hướng lên ngôi Bồ-đề vô thượng, sẽ đắc đại pháp của chư Phật Như Lai.
Này A-nan! Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưubà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người và phi nhân v.v... cùng các chúng sinh khác nghe sự thọ ký mà Tịch Tịnh Chuyển đã nói. Nghe rồi, tâm họ được thanh tịnh và tin hiểu. Nếu người nào muốn được nghe pháp môn thọ ký mà Tịch Tịnh này nói, hoặc nghe từ nơi Phật, hoặc nghe từ Thanh văn thì có thể sắp xếp giường tòa cho vị pháp sư ấy. Công đức đạt được giống như pháp sư ngồi trên tòa này. Pháp môn thọ ký mà Tịch Tịnh đã nói, giống đây không khác. Vì sao? Này A-nan! Vì sau khi trải tòa, người kia được mười công đức trải tòa. Thế nào là mười?
Sẽ được chỗ ngồi của Chuyển luân vương.
Được chỗ ngồi của Đế thích.
Được chỗ ngồi của Phạm Thiên vương.
Được chỗ ngồi chủ thế gian.
Đời đời được chỗ ngồi của pháp sư mà chư Phật đã đắc.
Sau khi chứng đắc ngôi vị địa Bồ-tát, thì được ngồi tòa sư tử liên hoa dưới gốc cây đạo tràng Bồđề.
Sau khi chứng Nhất thiết trí, đắc Bồ-đề vô thượng thì ngồi tòa của Phật.
Khi chuyển Đại pháp luân, được chỗ ngồi chuyển pháp luân do vô lượng chư Thiên cùng nhau trang hoàng.
Khi muốn hiện đại thần thông vượt qua tất cả đạo ở thế gian, thì được Như Lai Vô thượng hiện đại thần thông với cao tòa sư tử.
Khi muốn hiện nhập vào Đại Niết-bàn chứng đắc Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác khiến chư Thiên, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người, phi nhân v.v... sinh hoan hỷ có lòng tin thanh tịnh, cuối cùng làm vắng lặng tất cả hành, được trụ vào kim cang Tam-muội đắc tòa Như Lai.
Này A-nan! Ông sẽ được mười quả báo với tòa sư tử cao rộng như vậy.
Này A-nan! Nếu thiện nam, thiện nữ nào tâm thanh tịnh, nghe Bồ-tát Tịch Tịnh này nói về ý nghĩa câu kệ pháp bản thọ ký, trải pháp tòa cho vị ấy, yêu mến kính trọng vị pháp sư ấy, nhờ công đức này người kia được thành tựu mười quả báo do trải tòa sư tử.
Này A-nan! Vì lẽ đó, hãy chắp tay hướng về phía Bồ-tát Vô Phan Duyên, ông sẽ được lợi ích an lạc lớn, phước đức lớn. Nhờ công đức này, ông sẽ mau đắc thần thông.
Sau khi trải pháp tòa cho Thiện nam Vô Phan Duyên, Tôn giả A-nan chắp tay hướng về Đại Bồtát Vô Phan Duyên khởi tâm thanh tịnh, tâm tôn trọng, tâm xấu hổ. Ngay khi ấy, Tôn giả nói kệ:
Chắp tay hướng bậc dũng
Rồng chiến thắng nhập định
Bậc đại trí vua người
Ánh sáng Vô Phan Duyên.
Đắc trí và tinh tấn
Trí tuệ thiền định tụ
Thế gian không ai bằng
Đến chắp tay không sợ.
Đức Thế Tôn dùng kệ bảo A-nan:
Ông chắp tay cung kính
Cúng dường Vô Phan Duyên
Đạt được nhiều quả báo
Ta nói cho ông nghe.
A-nan! Kính chắp tay
Sau khi Ta Niết-bàn
Chúng đệ tử của Ta
Ở thôn xóm thành ấp.
Lúc ở trong xóm làng
Hoặc ra khỏi xóm ấy
Kinh hành và ngồi nằm
Trong tất cả oai nghi.
Sẽ làm Phật sự lớn
Tất cả các đồ vật
Ở trong các thế gian
Dù ông biết hay không.
Chúng đều hướng về ông
Cúi mình và cung kính.
Nếu thiện nam hay thiện nữ, các ngoại đạo Balợi-đà, Sa-môn, Bà-la-môn, vua, đại thần, quốc sư, binh tướng, thuộc quan khác, trưởng giả và cư sĩ. Từ các loài chỉ có hình tướng, thậm chí đến loài lục súc voi ngựa, thú chạy, chim bay, nếu chúng thấy ông đều được thanh tịnh. Tất cả cây cối, cỏ thuốc, lúa má, hoa quả đều xoay về phía ông cúi mình cung kính. Tất cả lầu đài, cung điện, nhà cửa, thuyền bè, xe cộ nhờ sức oai quang của ông nên các loại ấy bị che lấp. Tất cả đều cúi mình hướng về ông.
Này A-nan! Ví như Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác khi mới chứng Bồ-đề vô thượng đắc giải thoát vô ngại thì tất cả cây cối, cỏ thuốc, lúa mạ, hoa quả, nói tóm lược cả người, phi nhân v.v... đều vây quanh đạo tràng Bồ-đề và xoay về Đức Như Lai cúi mình cung kính.
Này A-nan! Nay ông nhờ sức nhân duyên cúi mình cung kính chắp tay bên Thiện nam Vô Phan Duyên, mà kiếp sau ở chỗ nào cũng đều có oai nghi đầy đủ. Người, phi nhân v.v... tất cả lúa mạ, cây cối cỏ thuốc đều xoay về ông mà cúi mình cung kính.
Này A-nan! Nếu có thiện nam thiện nữ, sau khi Như Lai nhập Niết-bàn hoặc ngay lúc còn hiện tại mà thoáng nghe vị Trang Nghiêm này nói về bản pháp thọ ký, cho đến chắp tay nhất niệm, hoặc đem tâm chân thật tư duy ý nghĩa đó rồi một lòng tin tưởng thì vẫn được phước báo như Ta đã nói ở trên. Như vậy, này A-nan! Đời sau ít chúng sinh được nghe pháp này, cũng ít người nghe danh từ của bản pháp này. Nếu ai nghe một lần rồi muốn nghe lại còn không thể được, huống chi sau khi nghe có lòng tin chân chánh, cung kính tôn trọng, không phỉ báng diệt trừ các nghi ngờ, tư duy tu tập, phát sinh thật tướng. Với những thiện nam thiện nữ đó, Ta dùng Phật nhãn đều thấy rõ ràng, lại dùng Phật trí biết hết thảy. Những người ấy chẳng phải chỉ tu hành cúng dường một Đức Phật mà cũng không chỉ trồng các căn lành với một Đức Phật.
Này A-nan! Nay chúng hội ở trước mặt Ta, tất cả đại chúng nam, nữ, trời người đều muốn thấy Đức Như Lai Thế Tôn nhập Niết-bàn.
Này A-nan! Những người như vậy vào đời sau, khi Bồ-tát Di-lặc mới chứng Bồ-đề vô thượng, thọ nhận ngôi vị trí tuệ cho đến sau này ngồi đạo tràng Bồ-đề, họ lại thiết lập cúng dường tôn trọng cung kính Như Lai. Như vậy lần lượt đến khi Đức Thế Tôn Di-lặc nhập Niết-bàn họ cũng được thấy. Khi trở về đứng bên Đức Như Lai, họ cũng thấy bốn đồng tử này nghe pháp, như nay ở trước Ta họ được nghe thấy Thiện nam Vô Phan Duyên, nghe tiếng đại pháp thắng diệu từ trong lỗ chân lông. Sau khi nghe xong, họ rất hoan hỷ.
Này A-nan! Cho nên, nay ông được nghe nói nghĩa lý vi diệu như vậy thì hãy cúi mình chắp tay tịnh tâm kính tín. Vì sao? Vì nhờ nhân duyên nghiệp thiện tịnh tâm kính tín ấy mà dù ông ở đâu, tất cả chúng sinh nơi hàng trời, người đều cung kính cúng dường tôn trọng, khen ngợi cúi mình đứng bên ông. Cho đến sau khi ông Niết-bàn thì chư Thiên, người xây tháp cúng dường xá-lợi ông. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo A-ni-lâu-đà:
– Ông thấy cõi trên có bốn mươi ức chúng trời người đều đứng chắp tay cúi mình nghe kinh điển này không?
A-ni-lâu-đà thưa:
– Bạch Thế Tôn! Con có thấy. Bạch Thiện Thệ! Con có thấy. Phật bảo A-ni-lâu-đà:
– Các hàng trời, người nhờ nghe pháp này có lòng tin cung kính chắp tay tạo căn lành thì qua atăng-kỳ kiếp đời vị lai sẽ không đọa vào đường ác, hoặc cõi trời, cõi người. Sau khi luân chuyển hằng sa đời thì mỗi đời đều làm Chuyển luân vương, sinh ra nơi nào cũng đều được gặp chư Phật, được thành tựu căn lành với chư Phật. Sau khi căn lành được thành tựu cho đến khi chứng đắc Bồ-đề vô thượng đồng một hiệu là Nhất Thiết Chúng Loại Ủ Thân Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác.
Đức Phật vừa nói xong, trong đại chúng có các Lực sĩ và quyến thuộc gồm năm trăm người. Tên của các vị ấy là Lực sĩ Ngộ Lạc, Lực sĩ Đầu-câuda, Lực sĩ Đại Lực, Lực sĩ Thiên Oai, Lực sĩ Thắng Thiên, Lực sĩ Úc-can-tha, Lực sĩ Vô Úy, Lực sĩ Bàtẩu, Lực sĩ Chân Thật, Lực sĩ Ưu-đa-la, Lực sĩ Bàthọ, Lực sĩ Nhất Thiết Nhẫn v.v... mỗi Lực sĩ như vậy đều có năm trăm quyến thuộc vây quanh, tập hợp trong chúng ấy để cúng dường. Ai nấy đều hướng về Đức Như Lai cúi mình chắp tay buồn khóc, kêu thương, nước mắt đầm đìa và bạch Phật: – Bạch Thế Tôn! Chúng con nay chắp tay cung kính muốn cúng dường Như Lai Thế Tôn và đồng tử Bồ-tát Vô Phan Duyên cùng vô lượng Đại Bồtát khác cho đến hết thảy đại đức Thanh văn về pháp môn thanh tịnh cú nghĩa vi diệu của kinh này. Bạch Thế Tôn! Chúng con đem một niệm căn lành này xin hồi hướng lên ngôi Bồ-đề vô thượng.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền mỉm cười, theo thường pháp của chư Phật, khi mỉm cười thì trong miệng phóng ra những luồng ánh sáng đủ màu vi diệu, đó là màu xanh, vàng, đỏ, trắng, màu vàng ròng, pha lê. Ánh sáng này tỏa sáng khắp vô lượng vô biên thế giới. Ánh sáng ấy chiếu tới cung trời Phạm thiên rồi trở lại bao quanh Đức Thế Tôn ba vòng và cuối cùng vào đỉnh đầu Phật.
Thấy vậy, Tuệ mạng A-nan dùng kệ hỏi Phật:
Đèn trời vì sao tỏa
Như ánh sáng lớn này?
Xin giải nghi cho con
Và các chúng sinh khác.
Phật bảo A-nan:
– Ông có thấy không? Lực sĩ này nhất tâm một chỗ chắp tay hướng về Ta và đồng tử Bồ-tát Vô Phan Duyên, đồng thời đối với kinh này chí tâm tịnh tín lại còn phát tâm Bồ-đề vô thượng.
A-nan thưa:
– Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy. Phật bảo A-nan:
– Từ nay trở về sau qua a-tăng-kỳ kiếp, Lực sĩ này không đọa vào các đường ác. Sau đó chứng đắc Bồ-đề vô thượng.
Muốn tuyên lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:
Phật bảo A-nan:
A-nan ông thấy không
Chúng Lực sĩ tập hợp
Sinh lòng đại hoan hỷ
Cúi mình hướng về Ta.
Hoan hỷ nói như vậy
Sẽ đắc đạo Vô thượng
Các Lực sĩ đại trí
Họ đã cúng dường Ta.
Và với Vô Phan Duyên
Các Thanh văn của Ta
Có lòng tôn trọng pháp
Nên chắp tay như thế.
Qua a-tăng-kỳ kiếp
Họ không đọa đường ác
Nhờ nghiệp chắp tay này
Cúi mình hướng về Ta.
Giả sử nói một kiếp
Hoặc vô số ức kiếp
Họ sẽ được chứng đạo
Thành tựu các cõi Phật.
Hành những hạnh tối thắng
Không thể nào lường được
Trải qua vô số kiếp
Suy nghĩ không thể biết.
A-nan! Không lâu nữa
Vào cuối đêm hôm nay
Ta từ biệt các ông
Thấy nhau đây lần cuối.
– Này A-nan! Ông thấy từ phương Bắc có ánh sáng màu vàng ròng chiếu sáng rực rỡ tới đây không? Oai quang ấy sáng che lấp tất cả cây cối, lúa mạ, cỏ thuốc, hoa quả, núi hang, đồi gò, lâu đài, cung điện, nhà cửa, xe cộ, người, phi nhân, nơi đó chiếu lên hư không biến thành một màu vàng ròng. A-nan bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ!
Con đã thấy. Phật lại bảo A-nan:
– Ông thấy từ phương Bắc có chiếc xe bằng vàng Diêm-phù-đàn đang đến đây không? Giữa xe ấy có đồng tử ngồi kiết già, oai quang tối thắng công đức vời vợi.
A-nan thưa:
– Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy. Phật lại bảo A-nan:
– Này A-nan! Từ cõi này về phương Bắc sáu mươi bốn ngàn câu chi có một cõi Phật tên Câu-tôma-bạt-kỳ. Đức Thế Tôn cõi ấy hiệu là Bồ Đề Phần Chuyển Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác. Cõi Phật đó có đồng tử Bồ-tát tên Hoa Phu Thần Thông Đức, sau khi xả thân ở đó, lại sinh vào nơi đây.
Này A-nan! Thế giới ấy phát ra các âm thanh pháp gọi là âm thanh Bồ-đề phần. Chúng sinh cõi đó có Thanh văn đã thành tựu căn lành.
Này A-nan! Như Lai Bồ Đề Phần Chuyển từ khi chứng đắc Bồ-đề vô thượng đến nay đã sáu mươi bốn ngàn kiếp và hiện đang nói pháp.
Này A-nan! Như Lai ấy không có Thanh văn, chỉ có chúng Bồ-tát.
Này A-nan! Giống như Quán Đảnh Chuyển luân vương có rất nhiều con. Các người con ấy, có người làm đại thần, có người làm quốc sư, làm vua các nước nhỏ, cũng vậy, Bồ-tát của Phật Như Lai cũng gọi là con, là đại thần. Phật có hai vị Bồ-tát rất thù thắng, còn các Bồ-tát khác chỉ là thị giả và lấy Bồ-tát làm Tăng bảo.
Này A-nan! Tuần tự nơi các cõi Phật ấy đều là Bồ-tát.
Này A-nan! Cuộc sống nhu cầu của thế giới Phật ấy đều đầy đủ sung túc, không thiếu thốn, hoàn toàn không sợ sệt, an ổn diệu lạc, đẹp đẽ vi diệu, dân chúng an lạc. Công đức của Bồ-tát đều tròn đầy và trụ vào các thần thông rất thù thắng, dùng sức Tam-muội để qua lại, còn những bạn bè trí tuệ cũng rất thù thắng, tạng trí tròn đầy, thường tu tập tâm Bồ-đề, làm luận giảng pháp Nhất thiết trí đều chứng đắc vô thượng vô biên hết thảy pháp thâm sâu của Bồ-tát.
Này A-nan! Các Bồ-tát như thế có khắp cả thế giới ấy. Thiện nam! Đại Bồ-tát Hoa Phu Thần Thông Đức từ cõi Phật đó sinh trong thành Tỳ-xály cõi Diêm-phù-đề.
Thiện nam đó đang hiện thần thông để đến đây mục đích muốn đảnh lễ sát chân Phật và muốn thấy Đức Như Lai Thế Tôn nhập đại Niết-bàn.
Này A-nan! Ánh sáng lớn này hiện ra là do sức oai thần của Như Lai ấy.
Này A-nan! Bảy xe bằng vàng Diêm-phù-đàn là của Như Lai ấy.
Nhờ bảy phần trợ đạo Bồ-đề nên hóa hiện ra như vậy.
Này A-nan! Diêm-phù-đề này có vô lượng ức chúng trời người đã cùng đồng tử này xưa kia đến nay từng trồng căn lành. Bồ-tát này cũng sinh vào cõi Diêm-phù-đề khiến cho chúng sinh ở đó rất hoan hỷ vui mừng khôn xiết. Lại có chúng sinh được lậu tận, có chúng sinh đắc Học địa, có chúng sinh đắc Vô học địa, có chúng sinh chưa phát tâm Bồ-đề thì làm cho phát tâm Bồ-đề, có chúng sinh với bản tánh được đắc tâm nhẫn bất thoái.
Này A-nan! Đồng tử này ngồi kiết già trong xe phát ra ánh sáng. Ánh sáng đó là do oai lực thần thông của Như Lai hiện ra. Từ ánh sáng này phát sinh ra sáu chiếc xe kia.
A-nan! Ông thấy nhờ sức oai thần của Như Lai mà Đại Bồ-tát Hoa Phu Thần Thông Đức ở đây hiện đủ các thần thông. Oai lực của ánh sáng này làm lợi ích lớn cho vô lượng vô biên chúng sinh trong thế giới, nghĩa là dùng chánh pháp để giáo hóa lẫn nhau. Khi ấy, đồng tử đều hòa hợp hoan hỷ. Lại có vô lượng trăm ngàn ức chúng sinh vây quanh đi theo. Trong khoảng sát-na mưa đủ loại hoa trời, các chúng sinh ấy đến chỗ Đức Phật đảnh lễ dưới chân.
Đức Thế Tôn bảo Tuệ mạng A-nan:
– Này A-nan! Những gì Như Lai có thể làm cho chúng sinh thì các Đại Bồ-tát trưởng tử của Như Lai cũng nên làm. Nay đây, Ta đã làm hoàn tất. Ta đã làm lợi ích cho chúng sinh xong. A-nan! Đại Bồ-tát Hoa Phu Thần Thông Đức này ngồi oai nghiêm rực rỡ trong xe bằng vàng Diêm-phù-đàn đó hiện ra các thần thông như vậy, giáo hóa na-dotha chúng sinh chứng quả A-la-hán. Lại dạy cho ức ức chúng sinh được đắc Học địa, có trăm ức na-dotha chúng sinh có lòng tin thanh tịnh với Tam bảo và thọ trì năm giới, có bảy trăm ức na-do-tha chư Thiên được trụ vào địa Bất thoái chuyển, chắc chắn sẽ đắc Bồ-đề vô thượng, lại có bảy trăm ức chúng sinh trụ pháp nhẫn Vô sinh, có vô lượng na-do-tha chúng sinh được dự pháp hội đầu tiên của Thế Tôn Di-lặc.
Bấy giờ, Tuệ mạng A-nan bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn thương xót chúng sinh mà trụ thêm một kiếp hay ít hơn một kiếp nữa. Vì sao? Vì nếu Thế Tôn còn trụ ở đời thì đại sự luôn hiện ra, để các đại sĩ chân thiện thường xuyên qua lại trong Diêm-phù-đề. Chúng sinh chúng con còn bấy nhiêu thời gian ở đây chiêm ngưỡng các Đại Bồ-tát và phụng thờ cúng dường. Lại trong thời gian ấy, kinh điển sẽ được lưu hành rộng rãi, thời gian đó chúng con còn được nghe ý nghĩa pháp Phật. Còn bao nhiêu thời gian, chúng con được thấy Thế Tôn và các đại sĩ hiện hóa đủ sức thần thông. Nếu ngày nay Thế Tôn không trụ ở đời mà nhập Niết-bàn, thì sau khi Thế Tôn diệt độ, chúng sinh chúng con sẽ xa lìa ba việc. Đó là không thấy Phật, không được nghe chánh pháp và không thấy tâm từ ái rộng rãi của các bậc đại sĩ, cũng sẽ không còn được phụng thờ cúng dường; chúng con sẽ bị những mất mát to lớn như vậy.
Sau khi nói xong, Tuệ mạng A-nan buồn thảm, kêu gào thảm thiết, nước mắt đầm đìa, quằn quại trên đất giống như cây bị chặt ngã và lại xướng:
– Phật sao sớm xa lìa chúng con. Các Thiện tri thức cũng lại sớm biệt ly chúng con.
Khi ấy, trong chúng có Đại Bồ-tát tên Thiện Tư Nghĩa dùng kệ nói với A-nan:
A-nan chớ đau buồn
Các hành đều vô thường
Pháp đời muốn thường còn
Điều này không thể có.
Nếu nói có các hành
Lời ấy không thể có
Các pháp đều trống không
Cớ sao ông sầu khổ.
Các trí đều là không
Trí Phật cũng là không
Phật còn không thể đắc
Ông âu sầu làm gì.
Ông đừng có phân biệt
Người trí lìa phân biệt
Các hữu như hư không
Như quáng nắng tưởng nước.
Như thầy ảo thuật hóa
Voi, ngựa, xe vân vân...
Vườn rừng các xóm làng
Cây cối các hoa quả.
Thế đế cũng như vậy
Như huyễn hóa không thật
Chư Phật và Thanh văn
Cũng vậy có khác gì.
Để trả lời Bồ-tát Thiện Tư Nghĩa, A-nan dùng kệ nói:
Đúng như điều ông nói
Các pháp không có tướng
Thắng pháp tối thắng này
Nay tôi nghe lần cuối.
Làm sao đến Xá-vệ
Họ hỏi tôi nói sao!
A-nan! Phật ở đâu
Mắt trời khi nào đến?
Xưa tôi tới nơi này
Thường thấy Phật Thế Tôn
Nay đến thấy trống không
Đại trí tôi ở đâu.
Thiện nam Tịch Tịnh Chuyển dùng kệ nói với Tuệ mạng A-nan:
Dù ông khóc ức trăm
Việc này khó có được
A-nan, ông quán kỹ
Pháp giới khó thấy được.
Ví như thân cây chuối
Lột từng bẹ bỏ đi
Chính giữa không có lõi
Thể pháp cũng như vậy.
Giống như khi trời mưa
Rơi xuống những giọt nước
Nổi bong bóng rồi mất
Các hữu cũng như thế.
Như bọt nước kết lại
Người mắt sáng nhìn thấy
Nhưng nó không có thật
Tướng đời cũng như vậy.
Ví như bóng trong gương
Thể nó không có thật
Tướng ba cõi cũng thế
Người trí chớ khóc lóc.
Tuệ mạng A-nan dùng kệ trả lời Bồ-tát Tịch Tịnh:
Tôi đã biết điều này
Như người trí ông nói
Ba tướng đều vô thường
Trong kinh Đại tiên nói.
Nhưng vô số trời này
Đều khóc rơi nước mắt
Kêu la ở bên tôi
Do đó làm tôi khổ.
Thế Tôn sắp ra đi
Pháp nhãn bỏ chúng tôi
Chúng tôi sẽ đi đâu
Ai cứu giúp chúng tôi.
Nghe chánh pháp của ai
Tịch tĩnh không ai bằng
Tôi sẽ cúng dường ai
Than ôi, Phật khó gặp.
Bấy giờ, Bồ-tát Vô Phan Duyên dùng kệ nói với Tuệ mạng A-nan:
A-nan! Hãy đứng dậy
Chỉ quán pháp chớ buồn
Pháp không tự đi đến
Cũng không có ra đi.
Ví như Phật có sinh
Chứng Bồ-đề cũng vậy
Ví như Chuyển pháp luân
Niết-bàn cũng như thế.
Chư Phật không hề sinh
Cũng không hề bị diệt
Trong chân pháp như thế
Vì sao A-nan khóc.
Ông nghe chân lông tôi
Phát ra tiếng như vậy
Các hữu không, tịch tĩnh
Bốn việc của chư Phật.
Tuệ mạng A-nan dùng kệ nói với Đại Bồ-tát Vô Phan Duyên:
Không lâu các đại sĩ
Từng vị đi cõi khác
Thấy chư Phật cõi ấy
Nói diệu pháp cam lồ.
Ông nghe pháp Phật đó
Với diệu nghĩa thâm sâu
Thấy đồ chúng Phật ấy
Và các vị Bồ-tát.
Nay tôi cùng ức trời
Vây quanh mà khóc lóc
Thế Tôn Niết-bàn rồi
Thưa ngài, tôi đi đâu?
Ngàn số Ưu-bà-tắc
Nay nghe lời tôi nói
Rất khổ não đau buồn
Tôi an ủi sao đây?
Tam Thập Tam, Diệm Ma
Đâu Suất và Tha Hóa
Tự Tại và Phạm thiên
Các chư Thiên ấy đến.
Làm sao họ hoan hỷ
Sau khi Thích Vương diệt?
Làm sao giảng pháp họ
Tôi biện luận thế nào?
Khi chư Thiên hỏi tôi
A-nan! Phật ở đâu
Tôi trả lời thế nào
Nhân Ngưu Vương diệt rồi.
Hết thảy các mọi nơi
Thâm sâu Như Lai ở
Nơi rừng cây kinh hành
Nay tôi ở chỗ nào?
Thiện nam Khai Phu Thần Thông Đức dùng kệ nói Tuệ mạng A-nan:
Tôi biết rõ hạnh ông
Hoàn toàn trong ba tháng
Sẽ luôn hiện bên ông
A-nan! Đừng khóc lóc.
Từ ngàn số Phật khác
Tôi sẽ nói cho ông
Chư Phật nói cho ông
Hóa làm thân họ Thích.
Chư Phật có từ bi
Vì ông kính thờ Phật
Đương lai ở bên ông
A-nan! Đừng khóc nữa!
Các trời và thế gian
Ngày nay mà đau buồn
Thì Đại Giáo Sư ta
Ẩn tịch không xuất hiện.
Xưa Như Lai từng nói
Thọ mạng trụ ức kiếp
Các hành diệt từng niệm
Tôi được nghe từ Phật.
Bấy giờ, Tuệ mạng A-nan ở sau Phật khóc ba lần và nói kệ:
Nơi chúng sinh nương tựa
Làm mắt sáng cho đời
Đạo sư nhập diệt rồi
Chúng sinh thành đui mù.
Thắng vương A-xà-thế
Nghe lời không lành này
Đạo sư nhập diệt rồi
Sầu khổ sống sao đây!
Thắng Nhân nay Niết-bàn
Các Lực sĩ sau này
Như vậy sẽ buồn khổ
Âu sầu và khóc lóc.
Sau khi họ tập trung
Nhìn Đạo sư lần cuối
Tâm cung kính tôn trọng
Đứng cúi mình chắp tay.
Đủ Trời, Rồng, Dạ-xoa
Bao khắp năm do-tuần
Không chỗ nào xen hở
Loài người không chỗ vào.
Mưa hoa thơm vi diệu
Ngập đầy tới đầu gối
Lại mưa các hương vụn
Cúng dường bậc Tối thắng.
Nan-đà, Ưu-ba-đà
Và sáu mươi ức rồng
Đều đến chỗ Niết-bàn
Nhìn Đạo sư lần cuối.
Ma-ha Tư-bà-luận
Rồng lớn Ta-già-la
Hầu-lâu, Mục-chân-đà
Vây quanh cả trăm ức.
Nổi mây mưa nước thơm
Rưới khắp đại địa này
Giáng mưa lớn mà đến
Nhìn Đạo sư lần cuối.
Các trời mưa hoa trời
Và mưa nước thơm sạch
Trời rồng đều cung kính
Cúng dường Phật Thế Tôn.
Long vương A-nậu-đạt
Cùng sáu mươi câu-chi
Mưa những trận mưa báu
Đến bên Ngưu Nhân Vương.
Y-la-bát khóc lóc
Tu-di-tử đại xà
Để cúng dường Thế Tôn
Phụng thờ Phật lần cuối.
Cả trăm ngàn các rồng
Ức số na-do-tha
Nổi mây dậy sấm chớp
Đến chỗ đức Đạo sư.
Tuôn xuống trận mưa lớn
Loại nước thơm thanh tịnh
Cũng là để cúng dường
Nhìn Thế Tôn lần cuối.
Cả ngàn ức Dạ-xoa
Hoặc trăm na-do-tha
Nghĩ các công đức Phật
Đều muốn đến thăm Phật.
Lại có Tứ Thiên vương
Buồn khóc lóc ràn rụa
Đến bên đức Đạo sư
Nhìn thấy Phật lần cuối.
Thích Đề-ma-na-dân
Có các trời vây quanh
Cả sáu mươi ba ngàn
Đã đến chỗ Đức Phật.
Họ chỉ mưa hoa trời
Mạn-đà-la vi diệu
Và mưa bột chiên-đàn
Cúng dường bậc Tối thắng.
Tỳ-cầu-luy-khốc Phạm
Hai Phạm chúng vây quanh
Buồn khóc đến chỗ Phật
Nhìn Như Lai lần cuối.
Đại Oai Lực Tịnh Cư
Hơn trăm ức chư Thiên
Kêu khóc đến chỗ Phật
Vì nay Phật Niết-bàn.
Trăm số ức chư Thiên
Cả thảy đều buồn khóc
Mời thỉnh đại Đạo sư
Xin trụ thêm một kiếp.
Ma tử đại trí tuệ
Tên Ta-đà-ba-ha
Cảm thương đến chỗ Phật
Vì Thắng Tiên Niết-bàn.
Nâng đỡ chân Thế Tôn
Cúi mình cầu thỉnh Phật
Vì thương xót chúng sinh
Thích Vương trụ kiếp nữa.
Nếu Thế Tôn trụ đời
Làm đại nhân các trời
Được lợi không thể bàn
Xin Phật trụ kiếp nữa.
Đồng tử Vô Phan Duyên dùng kệ nói với tất cả Trời, người, Phạm thiên vương, thương chủ Ma vương tử:
Các ông đều không biết
Như trẻ con, khỉ vượn
Tâm luôn luôn buông lung
Vì sao kêu khóc lóc.
Giống như heo ngủ nghỉ
Bỗng thức không biết gì
Khi bị dao lột xẻ
Kinh hãi vội bỏ chạy.
Theo ta thấy cũng vậy
Các ngươi cũng giống thế
Xưa ai không nghe pháp
Vì tham dục buông lung.
Nay đây đèn trí tuệ
Sắp tắt không còn nữa
Phật hiện còn trên đời
Ngươi nên tạo nghiệp thiện.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tuệ mạng A-nan và Phúlâu-na Tu-bồ-đề cùng Bồ-tát Bất Không Kiến Vương Đồng Tử, Thượng tọa Ca-diếp, Đại Câu-hy và các Thượng tọa:
– Nay Ta nói với Tỳ-kheo, các ông hãy đưa tay phải cho Ta. Nghe Thế Tôn nói vậy, các Tỳ-kheo liền thưa:
– Quý thay bạch Thế Tôn!
Khi ấy cả một ngàn Tỳ-kheo mỗi người đều đưa tay phải cho Thế Tôn. Thế Tôn lại dùng tay trái nắm tất cả tay phải của các Tỳ-kheo. Nắm xong Thế Tôn lại lấy tay phải cầm tay La-hầu-la và Anan, di chúc:
– Này các Tỳ-kheo! Nay Ta giao phó A-nan và La-hầu-la cho các ông.
Ngay khi đó bỗng đại chúng òa tiếng khóc to.
Tiếng kêu buồn khóc lóc ấy làm chấn động cả trời đất. Tiếng ấy vang khắp cả cõi Phật. Trong lúc La-hầu-la và Anan đang được giao phó thì trong chúng năm trăm Tỳ-kheo thấy vậy liền xả thân mạng. Vì sao? Vì các Tỳ-kheo ấy không nỡ nhìn Phật nhập Niết-bàn. Họ nghĩ như vầy: “Thà chúng ta nhập Niết-bàn trước, chớ không nỡ nhìn Ngọn Đèn Lớn của thế gian, Thầy dẫn đường, đấng Đại Từ Bi phụ của thế gian, bậc Thiện tri thức toàn thiện, thương xót chúng sinh thường ban vui cho đời nay sắp nhập diệt. Ta đâu nỡ nhìn”. Vừa lúc đó năm trăm chư Phật trụ riêng cõi của mình đều duỗi tay phải cho Thích Ca Mâu Ni.
Bấy giờ, Thế Tôn lại lấy tay trái cầm tay Thượng tọa A-nan và La-hầu-la đặt trong tay của chư Như Lai ấy và nói kệ:
Đây La-hầu con Ta
A-nan thị giả Ta
Nay ở trước chư Phật
Ta giao hai người này.
Vào cuối đêm hôm nay
Ta sẽ nhập Niết-bàn
Không còn thấy Ta nữa
Trời, rồng, người vân vân...
Không còn chỗ nương tựa
Cứu hộ và thương xót
Chỉ có chư Thế Tôn
Từ bi không nghĩ bàn.
Ta thấy các thế gian
Vô lượng không thể bàn
Nay không thấy chúng sinh
Thì ta sống cho ai.
Vô lượng ngàn số kiếp
Giống như cát sông Hằng
Với số kiếp như vậy
Sống vì một chúng sinh.
Ta đã làm lợi ích
Cho người tâm kính tín
Còn ai không tín tâm
Ức Phật không thể dạy.
Lúc đó, năm trăm chư Phật đồng thanh nói kệ:
Ngài làm lợi chúng sinh
Và Phật sự đã xong
Hiện đủ các thần thông
Đánh trống Đại Pháp rồi.
Làm sung mãn chúng sinh
Như mây mưa thấm đất
Rút tên độc chúng sinh
Đại tiên nhân họ Thích.
Bấy giờ, Tuệ mạng A-nan, La-hầu-la quỳ gối sát đất dùng kệ thưa chư Phật ấy:
Xin Đại Trượng Phu thỉnh
Để Phật trụ một kiếp
Nhờ oai đức của Phật
Bậc Nhất Thiết Kiến Nhãn.
Bậc Nhị túc Tối Thắng
Đại trí trụ nơi đời
Có nhiều chúng sinh tin
Được lợi không nghĩ bàn.
Khiến Trời, Người tăng trưởng
A-tu-la suy giảm
Thanh văn và Bồ-tát
Nhiều không thể nghĩ bàn.
Lúc này, năm trăm chư Phật ấy nói với Tuệ mạng A-nan và La-hầu-la:
– Này các thiện nam! Các ông chớ quá buồn khóc, chớ quá âu sầu, vì bản tánh là như vậy, pháp đã tận là như vậy, chân thật như vậy, các hành như vậy, tất cả pháp hữu vi, tất cả tác pháp, tất cả pháp thế đều như vậy, chấm dứt là như vậy, chỉ có bỏ thân mạng hành hạnh Như Lai mới là vô lượng. Vì pháp thế đế là như vậy, không được tự tại. Như Lai là pháp thân, chẳng phải thân hữu vi, không có pháp nào trụ ở đời. Các ông không nên thỉnh xin Như Lai trụ ở đời.
Này các thiện nam! Các ông đừng đến cõi Phật của Ta. Vì Thích Ca Như Lai ngay đây sẽ duỗi tay phải ra phóng ánh sáng. Ánh sáng đó chiếu sáng khắp cõi của Ta. Sau khi nơi đó chiếu sáng, các ông trở lại thấy Thích Ca Phật đang đứng trước các ông nói pháp. Cho nên các ông đừng quá âu sầu như thế.
Bấy giờ, Thế Tôn nhập vào Tam-muội. Sau khi trụ trong Tam-muội, Thế Tôn liền duỗi tay phải ra, trong bàn tay phải cho đến đầu ngón tay cái. Còn tay trái, các phần của thân cho đến ngàn nan hoa ở trong tướng chân, tướng lưới báu mềm mại trong tay chân, móng màu đồng đỏ và giữa ngón tay có những vằn quý báu đẹp đẽ, tất cả đều phóng ra trăm ngàn ức ánh sáng. Mỗi ánh sáng hóa trăm ngàn ức hoa sen. Mỗi đài hoa hóa trăm ngàn ức cao tòa sư tử. Trên mỗi tòa hiện một Đức Phật đang ngồi. Mỗi hóa Phật giáo hóa vô lượng trăm ngàn ức chúng sinh. Trong số đó có vị đắc lậu tận, hoặc có vị đắc ly dục địa. Trong tất cả tướng tốt phát ra ánh sáng như thế, sự tướng đều như vậy. Giữa rốn và tướng âm mã tàng, giữa mặt và hàng lông mi cũng như vậy.
Khi ấy, từ trên đỉnh đầu Thế Tôn phóng ra trăm ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng hóa trăm ngàn ức hoa sen. Mỗi đài hoa hóa trăm ngàn cao tòa sư tử. Trên mỗi tòa hóa một Đức Phật đang giảng pháp vi diệu. Chư Như Lai ấy không giảng nói pháp nào khác cả, chỉ giảng nói Bồ-tát Nhật Tạng Tu-đa-la và chương cú Đà-la-ni hoặc giảng rõ ba luân thanh tịnh, các lực, pháp vô sở úy của Như Lai. Nhờ pháp môn này mà mỗi hóa Phật nói mỗi pháp, làm thanh tịnh vô lượng vô biên chúng sinh trụ vào địa Bất Thoái chuyển, hướng lên ngôi Bồ-đề vô thượng.
Khi ấy, ở giữa Ta-la Song thọ, Như Lai nằm trên giường sư tử, hông nghiêng bên phải, hóa một Đức Phật cũng nằm nghiêng bên phải. Sau khi hóa xong, Đức Phật đích thân đi vào đại địa ngục Hoạt. Đến đó, từ thân tướng của Ngài phóng ra ánh sáng chiếu khắp cả địa ngục Hoạt và sau khi dùng ánh sáng chiếu đại địa ngục Hoạt rồi, Thế Tôn nói kệ:
Vô số chúng sinh chết
Luôn trở lại ngục Hoạt
Không bỏ tư tưởng ấy
Nên sinh các khổ não.
Có Thánh nhân ra đời
Thế Tôn làm ánh sáng
Giảng nói các chánh pháp
Diệt trừ các khổ não.
Vô vi cũng vô tận
Vô diệt cũng vô hành
Ai hiểu được như vậy
Không rơi vào đường ác.
Sau khi Như Lai nói kệ, trong khoảng sát-na có ba mươi ức chúng sinh đang chịu khổ não trong địa ngục Hoạt, liền được bỏ thân mạng sinh lên cõi trời Ba Mươi Ba. Đến cõi trời Ba Mươi Ba Thế Tôn nói lại kệ này. Nhờ thần lực của Phật nên âm thanh vang khắp tất cả các đại địa ngục. Vô lượng trăm ngàn ức chúng sinh trong cõi địa ngục được bỏ thân sinh lên cung trời Đâu-suất-đà. Sau khi sinh lên cõi trời ấy, hết thảy chúng sinh đều nhớ lại những giáo pháp đã được nghe trước đây và chứng đắc quả A-na-hàm. Các vị trời ấy đã đắc pháp rồi, chứng quả, nhập vào các pháp và cùng nhau nói kệ:
Ví như đường hoang rộng
Có chủ buôn trí tuệ
Cứu thoát nhiều chúng sinh
Bị giặc và ác thú.
Thế Tôn cũng như vậy
Là chủ buôn Vô thượng
Cứu thoát muôn chúng sinh
Bị trói trong sinh tử.
Chúng ta nương tựa Phật
Đại chủ buôn Quang Minh
Có lòng thương xót ta
Cứu thoát các khổ não.
Chúng ta nương tựa pháp
Bản thân ta đã chứng
Chúng ta nương tựa Tăng
Công đức khó nghĩ bàn.
Thế rồi, Đức Thế Tôn dùng ánh sáng mát dịu chiếu khắp địa ngục A-tỳ để trừ diệt những nóng bức khổ não và làm thành tựu ngàn ức pháp, để tất cả đều được an vui, thương xót và làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, an ủi hòa nhã, thương xót, vui vẻ, giáo hóa chúng sinh nhập vào ba môn Không: Vô tướng, Vô tác và Vô nguyện, rồi dùng kệ nói với chúng sinh ở địa ngục ấy:
Pháp không và vô tướng
Không sinh cũng không diệt
Nếu ai hiểu pháp đó
Thì thoát khỏi đường ác.
Bấy giờ, có tám trăm ngàn chúng đều được nghe kệ. Bài kệ này được nói ra ba đời mà không bị trở ngại. Các pháp này được chia thành một trăm ngàn loại. Một khi đã lọt vào tai rồi thì làm cho thanh tịnh vi diệu và bỏ thân đại địa ngục A-tỳ sinh lên cung trời Tha Hóa Tự Tại.
Ở cung trời Phạm thiên, Đức Thế Tôn nói kệ:
Chúng sinh rất an lạc
Không có các khổ não
Với danh tướng đã nói
Và các tưởng điên đảo.
Người mạnh nên xả bỏ
Thoát khỏi các khổ não
Các tưởng đều điên đảo
Và chấp tưởng vô sắc.
Ba cõi có gì vui
Luôn luôn bị luân hồi
Chết rồi sống trở lại
Khổ tăng trưởng liên tục.
Ai dùng trí biết không
Cũng không vướng vào không
Tức là người biết không
Không chấp chỗ biết không.
Đã biết nghĩa pháp này
Cũng không có bản ngã
Ngã đã không có rồi
Ở đây có gì khổ.
Không là pháp vô vi
Tướng cũng không thể đắc
Ai hiểu biết vô ngã
Chính là chân Phật tử.
Lúc này, năm trăm ngàn ức chúng sinh, sinh ra nơi nào cũng đều đắc diệu quả thiên tiên vô lậu, liền nhớ lại kiếp trước mình bị khổ trong địa ngục. Lại nhớ đến công đức cao thượng của Như Lai, biết báo ân Phật nên nhập diệt trước, lại không nỡ nhìn Như Lai nhập Niết-bàn. Sau khi đắc quả, các vị trời đồng thanh nói kệ:
Chúng con không nỡ nhìn Đại từ
Điều Ngự Trượng Phu nhập Niết-bàn
Hãy làm ánh sáng cho chúng sinh
Con không nỡ nhìn, nên diệt trước.
Vừa nói xong, các vị trời nhập diệt tại chỗ. Trong khoảng sát-na, Thế Tôn từ cung trời Phạm thiên liền biến mất rồi đến rừng Ta-la Song thọ. Khi ấy Thế Tôn nghĩ như vầy: “Đêm nay Ta nhập Niết-bàn, đây là nhìn chúng sinh lần cuối. Ta hãy làm cho họ vui vẻ để tiêu trừ tất cả khổ, được hưởng an lạc. Ta hãy hiện sức đại thần thông của Như Lai để chúng sinh ấy được vào cửa an ổn, muốn làm sáng rõ Niết-bàn vô dư của Như Lai, vì phù hợp với ý của chư Phật nên hiện thần thông”. Nghĩ vậy xong, Đức Như Lai nằm nghiêng hông bên phải giống như sư tử, không chút gì sợ hãi. Sau khi quán sát tất cả đại chúng khắp mười phương, giống như Đại Long Tượng, Thế Tôn dùng ngón chân cái bên phải chạm đại địa làm phát ra âm thanh lớn, chấn động đủ sáu cách, rung chuyển khắp mười phương, thị hiện ánh sáng vô ngại, không thể nghĩ bàn, chiếu sáng rực rỡ khắp mười phương. Từ các tướng trên thân Như Lai phóng ra ánh sáng lớn. Mỗi lỗ chân lông cũng phát ra Hằng hà sa ánh sáng vi diệu. Mỗi ánh sáng chiếu khắp Hằng hà sa cõi Phật. Ánh sáng không rời nhau mà nhập vào không chút gì trở ngại. Từ mỗi lỗ chân lông lần lượt phóng ra các ánh sáng vi diệu. Như vậy, mỗi lỗ chân lông cứ tuần tự phóng ra ánh sáng và lại chiếu khắp như trước. Lúc ấy, Thế Tôn lại hiện các thần thông. Nhờ thần lực của Phật và sức hộ trì của Phật khiến các chúng sinh được thấy đầy đủ cảnh giới giống như nhìn bằng Phật nhãn. Các chúng sinh trụ vào cõi Phật này đều thấy tất cả cõi Phật, đó là nhờ ánh sáng của Như Lai chiếu.
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Các ông thấy thế giới phương Đông có thành dài rộng một ngàn do-tuần và trên dưới cũng lớn rộng như thế. Quốc thành này chứa đầy cả trăm ngàn ức vi trần. Các ông đã thấy chưa?
Các Tỳ-kheo thưa:
– Bạch Thế Tôn! Chúng con đã thấy.
Bạch Thiện Thệ! Chúng con đã thấy.
Phật lại dạy:
– Này các Tỳ-kheo! Các ông nghĩ thế nào số vi trần này có nhiều không?
– Thưa Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Phật dạy:
– Này các Tỳ-kheo! Đối với các pháp mà người nào biết được pháp vô vi nhiều như vậy mà không sinh không diệt, vô lậu vô vi thì người biết ấy cứu thoát chúng sinh ra khỏi đường ác. Ngay khi ấy có ba mươi ức chúng sinh đã nghe pháp được đắc quả A-na-hàm. Sau khi được đắc quả, tất cả đồng thanh nói kệ:
Pháp vô vi vô tận
Vô lậu cũng không diệt
Biết Thánh pháp như thế
Chúng con chứng tịch diệt.
Nếu biết được như vậy
Là thật biết các căn
Vì thương xót chúng sinh
Thị hiện pháp nhân duyên.
Như Lai dạy chúng con
Nhổ trừ mũi tên độc
Nhất Thiết Trí ban vui
Rồi cùng vào Niết-bàn.
Đuốc trí cháy nhanh quá
Mắt trí sắp diệt mất
Bị muôn khổ hành hạ
Ra khỏi địa ngục Hoạt.
Thầy thuốc giỏi nhổ tên
Trị bệnh cho chúng sinh
Cứu độ vô số chúng
Không còn nơi đường ác.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn đứng trên thành địa ngục Hắc Thằng phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp cả đại địa ngục ấy, cứu vớt vô lượng chúng sinh ở đó rồi đưa lên trời. Ở địa ngục Đại Nhiệt Não và địa ngục Nhiệt Não cũng vậy. Đại địa ngục Kiếu Hoán - địa ngục Kiếu Hoán, đại địa ngục Chúng Hợp - địa ngục Chúng Hợp, Ngài cứu vô lượng chúng sinh ở các cõi ấy đặt vào cõi thiện và đạo Niết-bàn. Thế Tôn lại dùng ánh sáng màu vàng ròng chiếu tám đại địa ngục. Nhờ sức ánh sáng ấy làm cho chúng sinh xúc chạm vào thân tâm an lạc, khắp thân thể được thấm nhuần, thân tâm hoan hỷ, khổ não đều tiêu trừ, mắt thấy đến đâu niềm vui đến đó. Do từ bi sinh ra mà làm cho thân an ổn như vậy. Sau khi ánh sáng chiếu khắp đại địa ngục thì diệt trừ được hết sự nóng khổ, được thư thái nhẹ nhàng. Tất cả chúng sinh trong đại địa ngục, nếu ai bị thiêu đốt cháy rực thì làm cho họ được an ổn. Từ các lỗ chân lông theo thứ lớp, Phật phóng ra ánh sáng như vậy.
Lúc này, Thế Tôn dùng ánh sáng lớn che khắp tất cả vô số chúng sinh khiến tâm họ thư thái, thọ nhận pháp khí và đầy đủ vô lượng trăm ngàn công đức. Bằng lời vi diệu mà nói kệ:
Ta cho đời an lạc
Giải thoát các ưu khổ
Bị các khổ hành hạ
Thị hiện đạo Niết-bàn.
Các pháp mà ta nói
Tịch tĩnh, lạc, vô úy
Ai biết pháp như thế
Không đọa vào đường ác.
Ai quy y Đức Phật
Người đó được lợi lớn
Qua trăm ngàn ức kiếp
Không còn bị các khổ.
Như Lai nói kệ xong, trong khoảng sát-na, có chúng Tỳ-kheo và chúng sinh nhiều hơn số trước. Lại có vô lượng vô biên chư Phật nằm trên giường sư tử nghiêng hông bên phải. Chư Thế Tôn ấy ra khỏi giường sư tử rồi trở lại thị hiện thần thông. Lúc ấy, bốn bộ chúng bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Chư Phật này trong khoảng sát-na nhập Niết-bàn và hiện thần thông giống như Thế Tôn đã hiện hôm nay.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Chư Phật ấy đồng một danh hiệu là Thích Ca Mâu Ni đều nằm trên giường sư tử giữa cây Song thọ rừng Ta-la nơi vùng đất Lực sĩ. Vào cuối đêm nay sẽ nhập Niết-bàn.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói khắp các Tỳ-kheo ở mười phương: Nam - Tây Nam, phương Bắc - Tây Bắc, phương Bắc - Đông Bắc, phương Đông - Đông Nam và hai phương trên dưới:
– Này các Tỳ-kheo! Các ông thấy vô lượng vô biên chư Phật Thế Tôn ở phương Đông chứng đắc Bồ-đề vô thượng không?
Các Tỳ-kheo thưa:
– Bạch Thế Tôn! Chúng con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Chúng con đã thấy. Chúng con thấy bằng Thế đế chứ chẳng phải dùng Đệ nhất nghĩa đế.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Ví như vi trần đầy khắp bốn thiên hạ, từ nền Kim cang cho đến cung trời Phạm thiên. Này các Tỳ-kheo! Ý các ông thế nào? Có người nào biết số đó không? Nếu dùng ví dụ thì có thể biết số đó không?
Các Tỳ-kheo thưa:
– Bạch Thế Tôn! Không. Không thể biết được. Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Ví như vi trần mà trên đây đã ví dụ, vậy bốn thiên hạ thế giới, trăm ngàn ức thế giới đều chứa đầy vi trần - thì này các Tỳ-kheo, tất cả vi trần như vi trần ấy, Ta dùng nhục nhãn đều thấy tất cả. Chư Phật Thế Tôn ở thế giới này trụ tại phương Đông, mỗi bước trên mặt đất chỉ dùng nhục nhãn không ngăn ngại, không phân biệt thì thấy thế giới trước mặt như đã nói vừa rồi. Như vậy phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc trên dưới cũng như vậy.
Này các Tỳ-kheo! Ví như các thế giới trong bốn thiên hạ có trăm ngàn ức vi trần đầy khắp, từ nền Kim cang cho đến cung trời Phạm thiên. Mỗi phương có bao nhiêu vi trần thì có bao nhiêu chư Phật Thế Tôn. Ở mỗi phương, Ta đều thấy chư Thế Tôn ấy ngồi nơi đạo tràng. Có vị đã ngồi hoặc mới ngồi. Hết thảy chư Phật Thế Tôn ấy đồng một danh hiệu Thích Ca Mâu Ni. Như vậy, có vô lượng chư
Phật đồng một danh hiệu Phật Nhiên Đăng. Ta thấy có chư Phật Thế Tôn với danh tiếng hơn tất cả mà cũng đồng hiệu. Như vậy tất cả chư Phật đồng danh hiệu Liên Hoa Thượng, cũng như chư Phật trên đồng một danh hiệu. Những vị danh xưng trên đồng một danh hiệu như danh hiệu Phật Câu-lưutôn, đồng một danh hiệu Phật Câu-na-hàm, đồng một danh hiệu Phật Ca-diếp. Như vậy các Đức Phật đồng một danh hiệu, ở đây ta đều thấy rõ. Đối với thế gian ta đã đắc tối thắng, pháp vi diệu, pháp vô cực. Nếu ai khen ngợi danh hiệu đó đều được căn lành, những danh hiệu của chư Phật đó nhiều vô lượng như vậy. Ở đây, Ta đều thấy rõ chư Phật Thế Tôn ấy. Như vậy hết thảy danh hiệu hiện tại ở thế gian như có vị nhập vào Niết-bàn vô dư, có vị còn trụ ở đời đang chuyển pháp luân, ở đây Ta đều thấy rõ. Với nhục nhãn vô ngại của Ta đều thấy được như trước mắt.
Này các Tỳ-kheo! Như Lai lại siêu việt hơn sự hiểu biết ấy. Sự hiểu biết siêu việt không thể nghĩ bàn, lại vô lượng vô biên sự không nghĩ bàn. Lại có vô lượng vô biên những tri kiến vô lượng ấy.
Này các Tỳ-kheo! Vì nghĩa đó mà Như Lai có vô biên tri kiến. Như vậy, vô biên không thể tính đếm được. Vậy không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn, chỉ dùng nhục nhãn còn thấy, huống gì dùng hết trí pháp của chư Phật.
Này các Tỳ-kheo! Ví như tất cả chúng sinh tại gia hay xuất gia trong cõi này. Giả sử họ đều chứng Bồ-đề vô thượng, đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy. Chư Thế Tôn ấy được một thiện nam đem bốn món cúng dường thờ phụng, tôn trọng, cung kính dư một kiếp. Những vật cụ, những sự trang nghiêm nhiều vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Lại có thiện nam, thiện nữ có lòng tin vào những pháp môn mà hết thảy chư Phật đã nói ra cho Ta hiển hiện, thậm chí chỉ trong một niệm sinh tư tưởng chân chánh không có tâm nghi ngờ thì công đức của người khi phát tâm gần bằng công đức của chư Như Lai, lại vượt hơn tất cả chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới, chứng đắc Nhất Thiết Trí của chư Phật. Trải qua nhiều kiếp cúng dường đạt được phước đức tuy nhiều nhưng không bằng người chỉ trong một niệm mà có lòng tin pháp môn này. Nếu có Bồ-tát tin trí này thì vị ấy gần chứng Bồ-đề vô thượng.
Khi Thế Tôn nói công đức của nhục nhãn này thì có sáu mươi hai ức chúng sinh hồi hướng lên ngôi Bồ-đề vô thượng lại sinh thoái tâm. Vì sao? Vì Bồ-đề vô thượng của Phật khó chứng đắc. Ở đây chúng ta chỉ diệt tận các khổ chứng quả lậu tận. Lại có vô lượng vô biên chúng sinh trụ ở học địa. Lại có mười na-do-tha Bồ-tát thành tựu sự phát tâm Bồ-đề đầu tiên. Có ba mươi hai ức Bồ-tát đắc pháp nhẫn Vô sinh. Khi ấy Ma vương Ba-tuần sững sốt khổ não khóc giàn giụa thưa Phật:
– Bạch Thế Tôn! Con làm gì để Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác sớm nhập Niết-bàn làm cho vô lượng vô biên chúng sinh ra khỏi cảnh giới của con. Bạch Thế Tôn! Nay mặt trời sáng phương Đông chưa xuất hiện. Những Phật sự đã làm trụ một kiếp hay gồm một kiếp cũng chưa có thể hơn sự lợi ích độ thoát số chúng sinh này. Đó là làm cho họ trụ vào đạo Niết-bàn. Ngày nay, Như Lai làm cho cảnh giới của con đều trống không.
Sau khi ma Ba-tuần nói vậy, Đức Phật dạy:
– Các người chớ khóc lóc. Này Ba-tuần! Ngươi còn có những kẻ không làm việc thiện và không có lòng tin. Đó là bạn bè của ngươi đang ở trong cảnh giới của ngươi. Ngươi là bạn của chúng.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng móng tay lấy bụi trên mặt đất rồi nói với Ba-tuần:
– Này Ba-tuần! Ý ngươi thế nào? Bụi trên móng tay Ta nhiều hay là bụi trên mặt đất nhiều?
Như Lai vừa nói xong, Ba-tuần thưa:
– Bạch Thế Tôn! Bụi trên móng tay rất ít, không đáng nói. Ba-tuần thưa xong, Phật dạy:
– Ví như bụi đất trên móng tay rất ít. Chúng sinh mà Phật độ nhập Niết-bàn lại ít hơn bụi đất trên móng tay này. Ví như bụi đất trên đại địa nhiều vô lượng vô biên, chúng sinh trong cảnh giới của ngươi cũng nhiều vô lượng vô biên. Này Ba-tuần! Ngươi đừng buồn rầu mà phải hoan hỷ lên. Vì chúng sinh trong cảnh giới của ngươi nhiều như bụi trên mặt đất này. Này Ba-tuần! Nhưng chúng sinh tự tạo nghiệp bất thiện, cách xa Niết-bàn, chứ chẳng phải do ngươi làm ra. Vì sao? Vì cõi chúng sinh không có biên vực. Này Ba-tuần! Ngươi muốn làm gì thì cứ làm. Vào cuối đêm nay, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Này các Tỳ-kheo! Các ông thấy chư Phật ở thế giới này không? Các Tỳ-kheo thưa:
– Bạch Thế Tôn! Chúng con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Chúng con đã thấy.
Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
– Các cõi Phật này nhiều vô lượng. Các ông thấy biết sự trang nghiêm của cõi Phật này không? Có thấy sự trang nghiêm thanh tịnh của các Bồ-tát không? Có thấy sự trang nghiêm của các Thanh văn không?
Các Tỳ-kheo thưa:
– Bạch Thế Tôn! Chúng con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Chúng con đã thấy.
Phật lại dạy:
– Như Lai đã thấy biết như vậy, gấp bội sự thấy biết ở trên. Lại liễu tri vô lượng hơn đó nữa.
Này các Tỳ-kheo! Giả sử trong một kiếp Ta nói về sự trang nghiêm của cõi Phật như vậy thì Ta thấy thế giới mười phương cũng như vậy. Giả sử một trăm kiếp, ngàn kiếp, ức số kiếp, na-do-tha kiếp, thí dụ gấp bội hay phân biệt nhiều đi nữa cũng không nói hết. Nhưng này các Tỳ-kheo, những việc làm của đấng Đạo sư làm thì Ta đã làm cho Thanh văn rồi, Ta cũng đã nói với tất cả mọi nơi rồi. Ta đã chỉ rõ các pháp nội - ngoại và thị hiện chân tâm cũng đã nói hết. Chư Phật không còn giữ riêng một pháp nào cả. Không có việc gì mà không sáng suốt, thậm chí một cọng cỏ, sợi lông mảy tóc, Ta cũng đều cho. Các Tỳ-kheo! Từ nay trở đi nên tu như pháp, siêng năng tu hành. Ta đã thị hiện Niết-bàn cho các ông. Ta đã nói đạo Niết-bàn cho các ông rồi và đã thành tựu căn lành cho chúng sinh. Ta được chứng đắc Bồ-đề vô thượng chính là nhờ xưa kia Ta đã tu hành những hạnh rất khổ mà thế gian khó hành, nên ngày nay đối với Đại pháp ấy, các ông nên thọ trì đầy đủ, đừng để chìm mất. Các ông nên tu hạnh như vậy.
Bấy giờ, Thế Tôn hiện đại thần thông, tất cả chư Phật ở mười phương nói pháp và chỗ nói pháp thì chúng sinh ở cõi này đều được nghe biết. Tất cả những lời răn dạy của chư Như Lai ấy làm cho hết thảy giáo pháp mà chúng sinh giữ gìn đều đã chứng tri. Lại có Hằng hà sa chúng sinh trụ vào Tam Chủng Trí. Có mười ức trăm ngàn chúng sinh phát tâm Bồ-đề trụ vào Chánh giác Vô thượng. Có mười trăm ngàn ức na-do-tha chúng sinh trụ vào địa Phật-bích-chi. Còn các chúng sinh khác chứng đắc lậu tận. Lần lượt như vậy vô lượng vô biên a-tăngkỳ không thể đếm, không thể lường, không nghĩ bàn, có na-do-tha chúng sinh sau khi nghe pháp này đều được lợi ích lớn.
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Này các Tỳ-kheo! Các ông nên biết không còn bao lâu nữa Ta sẽ Niết-bàn. Các ông nên bảo vệ giữ gìn giáo pháp của Như Lai vì lợi mình và lợi người. Tỳ-kheo các ông nên tu học như vậy.
Sau khi nghe Phật giảng nói kinh này xong, Anan và Trời, Người, Rồng, A-tu-la, Càn-thát-bà v.v... tất cả thế gian đều đảnh lễ phụng hành.
[Mục lục bộ Niết Bàn][374][375][376][377][378][379][380][381][382][383][384][385][386][387][388][389][390][391][392][393][394][395][396]