TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ NIẾT BÀN (374 - 392)

SỐ 386 - KINH LIÊN HOA DIỆN

Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Pháp sư Na Liên Đề Da Xá.

MỤC LỤC

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ


QUYỂN THƯỢNG

Tôi nghe như vầy:

Một thời, trước khi xả bỏ thọ mạng không lâu, Đức Phật ở tại một tòa lầu lớn nằm bên bờ ao Dihầu, thuộc nước Tỳ-xá-ly.

Vào lúc đó, Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Ta muốn đến thành Ba-ba giáo hóa cho một vị trưởng giả tên Tỳ Sa Môn Đức. Ông hãy đi cùng Ta.

Tôn giả A-nan đáp:

– Vâng!

Tức thời A-nan liền đi theo Phật.

Khi chưa tới thành Ba-ba, gặp phải sông Bạtđề, Phật nói với Tôn giả A-nan:

– Thân thể Ta mỏi mệt quá! Ta muốn xuống sông tắm.

Thế rồi Đức Thế Tôn cởi Uất-đa-la-tăng để trên bờ, xuống sông tắm.

Phật lại bảo Tôn giả A-nan:

Ông có thể chí tâm quán thân Như Lai với ba mươi hai tướng tự trang nghiêm thân. Sau ba tháng nữa, Ta sẽ nhập Niết-bàn.

Rồi Phật bảo tiếp:

– Ông nên quán thân Như Lai như hoa Ưu-đàm, rất lâu mới hiện, biết bao năm tháng mới xuất hiện một lần, khó xuất hiện, khó nhìn thấy. Cũng vậy, thân Phật vượt trội hơn cả trăm ngàn vạn lần đóa hoa kia, khó xuất hiện, khó nhìn thấy. Thân đây, ba tháng sau sẽ không còn nữa.

Đức Phật lại bảo:

– Ông nên quán thân Như Lai giống như vòng hoa được người thợ lấy các hoa xâu thành vòng. Tất cả màu sắc của hoa cùng với hương thơm kết lại thành vòng hoa. Vòng hoa ấy, ai cũng đều vui thích khi nhìn thấy cả. Thân Như Lai với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm, ánh sáng sắc vàng Diêm-phù-đề tỏa quanh thân một tầm, thân ấy ba tháng sau sẽ nhập Niết-bàn.

Đức Phật bảo tiếp:

– Này A-nan! Ông nên quán thân Như Lai giống như đất ở cõi trời Ba Mươi Ba, được trăm thứ quý báu trang nghiêm. Nơi ấy lại có cả mọi thứ âm nhạc rất vui vẻ. Hàng chư Thiên nơi cõi trời ấy không hề tạm xa rời đất đai quý báu kia cùng với âm nhạc trời, cũng không thể ghi nhớ hết sắc báu của đất ấy. Ba mươi hai tướng nơi thân Phật cũng vậy, không thể nào nhìn thấy hết. Vì sao? Vì tâm không thể buông rời khi quán mỗi mỗi tướng. Thân ấy ba tháng sau sẽ nhập Niết-bàn.

Đức Phật lại bảo:

– Này A-nan! Ông nên quán thân Như Lai giống như mặt trời mặt trăng, có đại oai đức, thần thông và ánh sáng, thế nhưng ở bên thân Phật chúng bị lấn át, không thể hiển hiện được. Vì thế, thân Phật tối tôn, tối thắng, vượt trội hơn cả mặt trời, mặt trăng. Thân như vậy sau ba tháng nữa sẽ nhập Niết-bàn.

Đức Phật lại bảo:

– Ví như sư tử là chúa trong các loài thú, như voi Đại-y-la-bát của Thiên Đế thích, là chúa trong các loài voi. Thân Phật cũng như vậy, đầy đủ uy lực lớn, đơn độc mà đi, không hề sợ hãi. Thân đấy, ba tháng sau sẽ nhập Niết-bàn.

Đức Phật lại bảo:

– Ông nên quán thân Như Lai như ngọn núi chúa Tu-di được hợp thành từ bốn thứ quý báu, ở giữa biển cả an trụ không động. Thể của núi chắc thật, không có một tỳ vết, một kẻ hở. Thân Như Lai hơn gấp cả trăm ngàn vạn lần sức Na-la-diên, không gì sánh bằng được. Thân ấy, sau ba tháng nữa sẽ nhập Niết-bàn.

Đức Phật lại bảo:

– Trong các hàng chúng sinh: không chân, hai chân, nhiều chân, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, phi hữu tưởng, phi vô tưởng, sắc thân Như Lai là tối tôn tối thắng. Thân như vậy, ba tháng sau sẽ nhập Niết-bàn.

Đức Phật lại bảo:

– Như trong tiểu thiên thế giới, ngàn mặt trời, ngàn mặt trăng, ngàn núi Tu-di, ngàn châu Phấtvu-đãi, ngàn châu Cù-da-ni, ngàn châu Uất-đanviệt, ngàn châu Diêm-phù-đề, ngàn Tứ Thiên vương, ngàn trời Tam Thập Tam, ngàn Thiên vương Đế thích, ngàn trời Diệm Ma, ngàn Thiên vương Diệm Ma, ngàn trời Đâu-suất-đà, ngàn Thiên vương Đâu-suất-đà, ngàn trời Hóa Lạc, ngàn Thiên vương Hóa Lạc, ngàn trời Tha Hóa Tự Tại, ngàn Thiên vương Tha Hóa Tự Tại, ngàn trời Phạm Thân, ngàn Thiên vương Phạm Thân, các chư Thiên trong ấy muốn thấy trọn vẹn diện mạo của Như Lai, hoàn toàn không thể thấy được. Vì sao? Vì diệu quang của Như Lai như trăm ngàn ánh sáng tia chớp, vượt trội gấp cả trăm ngàn vạn lần mọi ánh sáng của thế gian. Thế nên, các hàng Đế thích, Đại Phạm thiên v.v... thường ca ngợi ánh sáng thù thắng của Như Lai. Thân như vậy, sau ba tháng nữa sẽ nhập Niết-bàn.

Đức Phật lại bảo:

Này A-nan! Ông chớ nên nghĩ: Do không dứt hết tham, sân, si nên Như Lai mới tự khen thân mình. Đối với thân Như Lai, mọi tham, sân, si cùng các tập khí hoàn toàn chấm dứt, không còn gì cả. Như vậy, này A-nan! Như Lai là đấng Ứng Cúng Chánh Biến Tri, có uy đức lớn. Với nhân duyên cung kính hầu hạ sinh thân của Như Lai, ông sẽ đạt được công đức không thể lường, không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn, vô lượng vô biên a-tăngkỳ.

Này A-nan! Nay ông có muốn nghe nhân duyên của chúng sinh đời vị lai cúng dường thân xá-lợi của Như Lai sau khi Như Lai diệt độ không? Khi ấy, Tôn giả A-nan liền trịch áo vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nay thật chính đúng lúc. Thưa Đức Bà Già Bà! Cúi xin Ngài hãy vì con trình bày về những nhân duyên của các chúng sinh đã cúng dường thân xá-lợi của Như Lai sau khi Như Lai diệt độ. Nghe pháp này, con sẽ chí tâm thọ trì, rộng giảng nói cho mọi người.

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Nay Ta sẽ nói, ông hãy khéo lắng nghe.

Này A-nan! Khi nhập Niết-bàn, Như Lai nhập vào Tam-muội Kim cang, nghiền nhỏ nhục thân giống như hạt cải.

Như thế, một phần xá-lợi hướng đến chư Thiên, lúc đó nhìn thấy xá-lợi, biết Phật Niết-bàn nên vua trời Đế thích cùng các chư Thiên liền mưa xuống các loại hoa trời: hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạnđà-la, hoa Mạn-thù-sa v.v... cúng dường xá-lợi. Hễ ai thấy thân Phật mà lễ bái, nhiễu quanh theo bên phải thì có được căn lành của Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có được căn lành của Thanh văn, có được căn lành của Phật-bích-chi.

Một phần xá-lợi hướng tới thế giới loài rồng. Lúc đó nhìn thấy xá-lợi thân Phật, Long vương Tagià-la cùng vô lượng chúng rồng thiết lễ trọng hậu cúng dường, đem vô lượng các loại vật báu như: Nhân-đà-la báu, Ma-ha Nhân-đà-la báu, hỏa châu báu, thanh thủy báu để cúng dường toái thân xálợi, rồi lễ bái nhiễu quanh theo hướng bên phải. Khi cúng dường xong, mỗi vị trong chúng rồng đều tự phát nguyện, có vị phát nguyện về Chánh đẳng Chánh giác vô Thượng, có vị phát nguyện Bồ-đề, Thanh văn, có vị phát nguyện Bồ-đề Phật-bích-chi.

Một phần xá-lợi hướng đến thế giới Dạ-xoa. Lúc đó, Tỳ-sa-môn vương cùng vô lượng Đại vương Dạ-xoa khác thấy toái thân xá-lợi liền đem vô lượng các thứ như: các loại hoa, hương bột, hương đốt, đèn sáng, âm nhạc v.v... cúng dường xá-lợi, rồi lễ bái, chấp tay cung kính nhiễu quanh theo chiều hướng bên phải. Trong chúng ấy có vị phát nguyện Đại Bồ-đề Vô thượng, có vị phát nguyện Thanh văn, có vị phát nguyện Phật-bíchchi.

Ngoài ra, những xá-lợi còn lại ở tại cõi Diêmphù-đề.

Vào đời vị lai, có vị vua tên là A-thâu-ca thống lĩnh cõi Diêm-phù-đề. Vì muốn cúng dường xá-lợi, vị vua này đã cho xây dựng tám vạn bốn ngàn ngôi tháp, rồi đặt xá-lợi bên trong để cúng dường.

Tại cõi Diêm-phù-đề này lại có sáu vạn vị vua khác đem các vòng hoa, đủ các loại hương, đèn sáng, âm nhạc v.v... cúng dường toái thân xá-lợi, rồi cúng dường, lễ bái, cung kính đi nhiễu quanh theo chiều bên phải. Trong ấy có vị có được căn lành của Đại Bồ-đề Vô thượng, có vị có được căn lành của Thanh văn, có vị có được căn lành của Phật-bích-chi, có vị với lòng tin trong sạch đối với giáo pháp của Phật, liền bỏ nhà xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, siêng năng tu đạo, chấm dứt mọi lậu hoặc, nhập vào Niết-bàn.

Như vậy, này A-nan! Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri có oai đức lớn lao, đem pháp thân ấy nương dựa vào sinh thân, do đó công đức đạt được do nhân duyên cúng dường xá-lợi của sinh thân thật là vô lượng vô biên a-tăng-kỳ, không thể tính đếm, không thể nói hết được.

Bấy giờ, Đức Như Lai nghĩ như vầy: “Trong ba a-tăng-kỳ kiếp, Ta chăm chỉ, chịu khó mới thành tựu được pháp Phật. Muốn cho pháp Phật tồn tại lâu dài ở thế gian, Ta phải đến những nơi ở của các chư Thiên, A-tu-la, rồng, Càn-thát-bà, Ma-hầu-lagià phó chúc pháp Phật cho họ”.

Thế rồi Như Lai chợt biến khỏi cõi Diêm-phùđề, xuất hiện tại cõi trời Ba Mươi Ba. Khi thấy Thế Tôn, vua trời Đế thích liền bày tòa cao, kính thỉnh Như Lai, bạch:

– Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn nhận tòa này. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bèn ngồi lên tòa ấy. Vua trời Đế thích cùng với số thiên chúng trăm ngàn vạn đảnh lễ nơi chân Phật rồi đứng sang một bên.

Phật bảo Đế thích:

– Ông nên biết, không bao lâu nữa Ta sẽ nhập Niết-bàn. Hôm nay Ta đem giáo pháp của chư Phật giao phó cho ông, ông phải nhớ giữ gìn.

Đức Thế Tôn nói lên ba lần như vậy. Nghe thế, vua trời Đế thích đau xót nghẹn ngào, ràn rụa nước mắt, lau lệ thưa:

– Thế Tôn! Vào Niết-bàn sao vội thế? Như Lai Niết-bàn sao quá mau chóng vậy? Con mắt pháp của thế gian kể từ nay vĩnh viễn chấm dứt. Theo lời Phật dạy thì với phần sức của con phải che chở, giữ gìn, cung kính cúng dường. Khi xưa, Như Lai ở cung trời Đâu-suất-đà giáng thần vào thai mẹ, lúc ấy con cùng với chúng trời Đao-lợi thường bảo bọc, che chở. Đến khi Phật sinh, con cũng cùng với chư Thiên đến che chở, giữ gìn. Khi Như Lai ngồi bên gốc cây Bồ-đề phá tám ngàn vạn ức quân ma, đạt được đạo quả Bồ-đề Vô thượng, còn cùng với chư Thiên cũng thường che chở, giữ gìn. Khi Phật ở vườn Lộc-dã, trong nước Ba-la-nại, ba lần chuyển mười hai pháp luân, con cùng thiên chúng cũng thường che chở, giữ gìn. Thế mà nay con hoàn toàn không có khả năng để khiến cho Như Lai không nhập Niết-bàn, con hoàn toàn không có khả năng che chở.

Khi đó, bằng mọi cách, Đức Thế Tôn thuyết pháp khuyến dụ, an ủi, chỉ bày, làm lợi ích an vui cho Đế thích cùng với chư Thiên, khiến họ giữ gìn giáo pháp của Phật.

Từ cung trời ấy, Như Lai biến mất và xuất hiện ở cung Long vương Ta-già-la. Thấy Như Lai hiện đến, Long vương liền bày tòa, Phật ngồi lên tòa, bảo Long vương:

– Ông nên biết, không bao lâu nữa Như Lai sẽ nhập Niết-bàn. Nay Ta đem giáo pháp của Phật giao phó cho ông. Ông phải nên che chở, giữ gìn, đừng khiến cho đoạn dứt. Long vương, ông nên biết, tại thế giới rồng này có những loại rồng ác sinh khởi nhiều sân hận, không biết tội phước. Vì xấu ác, tàn bạo nên phá hoại giáo pháp của Ta. Thế nên, nay Ta đem giáo pháp của Phật giao phó cho ông.

Khi ấy, Long vương đau xót, nghẹn ngào, nước mắt đầm đìa, lau nước mắt mà thưa:

– Bạch Thế Tôn! Hàng rồng chúng con mù tối, không tuệ nhãn nên nay mới sinh vào loài súc sinh. Nếu Phật diệt độ, thế giới rồng sẽ trống không, chúng con sẽ chết, không biết mai sau sẽ sinh nơi đâu. Chư Phật Như Lai là vật báu của chúng sinh, vì sao nay lại nhập Niết-bàn? Con mắt thế gian đã phải chấm dứt rồi!

Lúc đó, Đức Thế Tôn chỉ bày, làm lợi ích an vui cho Long vương Ta-già-la, khiến che chở pháp Phật, rồi biến khỏi long cung này, xuất hiện ở cung Long vương Đức-xoa-ca. Long vương bày tòa cho Phật. Khi Phật ngồi lên tòa ấy xong, Long vương lại cùng trăm vạn ức rồng đảnh lễ Phật rồi lui ra đứng một bên.

Phật bảo Long vương:

– Các ông nên biết, không bao lâu nữa Như Lai sẽ nhập vào cảnh giới vô lậu mà Niết-bàn. Nay Ta đem giáo pháp của Phật giao phó cho ông. Ông phải chí tâm che chở, giữ gìn.

Khi ấy, Long vương đau xót, nghẹn ngào, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau nước mắt, thưa:

– Như Lai diệt độ, con mắt của thế gian đã mất. Chư Phật Như Lai là vật báu của chúng sinh. Nếu như Phật diệt độ, con không biết sẽ sinh nơi nào đây?

Phật liền dùng mọi cách thuyết pháp, chỉ bày khiến cho Long vương được sự lợi ích an vui, tức thời liền biến mất và xuất hiện ở cung Long vương Hắc-sắc. Khi đó, Long vương bày tòa cho Phật ngồi. Phật an tọa nơi tòa, Long vương Hắc-sắc cùng trăm vạn ức chúng rồng đảnh lễ nơi chân Phật, rồi lui đứng một bên.

Phật bảo Long vương:

– Các ông nên biết, không bao lâu nữa Như Lai sẽ nhập Niết-bàn. Nay Ta đem giáo pháp của Phật giao phó cho ông. Ông phải chí tâm che chở, giữ gìn.

Nghe vậy, Long vương trong lòng đau xót, nghẹn ngào, nước mắt ràn rụa, lấy tay lau nước mắt rồi thưa:

– Như Lai diệt độ, con mắt thế gian đã mất. Chư Phật Như Lai là vật báu của chúng sinh. Nếu Phật diệt độ, chúng con không biết sinh nơi nào đây?

Phật bèn thuyết pháp chỉ bày cho Long vương, khiến được sự lợi ích an vui, rồi liền biến mất và xuất hiện ở thế giới Dạ-xoa. Khi ấy, vua Tỳ-samôn trải tòa cho Phật. Phật ngồi yên nơi tòa, vua Tỳ-sa-môn cùng trăm vạn ức chúng Dạ-xoa đảnh lễ nơi chân Phật, rồi lui đứng sang một bên.

Đồng thời có vua trời Tỳ-lâu-lặc-xoa cùng trăm vạn ức chúng Cưu-bàn-trà đảnh lễ nơi chân Phật, rồi lui đứng một bên.

Vua trời Tỳ-lâu-bác-xoa cùng trăm vạn ức chúng rồng đảnh lễ nơi chân Phật, rồi lui đứng một bên.

Vua trời Đề-đầu-lại-trá cùng trăm vạn ức chúng Càn-thát-bà đảnh lễ nơi chân Phật, rồi lui đứng một bên.

Các đại tướng Dạ-xoa: Bát-chỉ-ca, Bàn-chiếtla, Diên-trà-ta-đa, Kỳ-lợi-tử, Ma-bạt-đa, Ma-nibạt-đà, Phú-na-bạt-đà v.v... các tướng Dạ-xoa như vậy cùng nhau đảnh lễ nơi chân Phật, rồi lui đứng một bên.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Tứ Đại Thiên vương cùng các tướng Dạ-xoa, tướng Càn-thát-bà, tướng Cưu bàn trà, các Long tướng:

– Các ông nên biết, không bao lâu nữa, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn. Nay Ta đem giáo pháp của Phật giao phó cho các ông. Các ông nhớ phải giữ gìn cho thật tốt.

Đến lần thứ hai, lần thứ ba, Đức Thế Tôn cũng đều nói như vậy.

Các ông nên biết, trong nước Dạ-xoa có các Dạ-xoa ác, trong nước Cưu-bàn-trà có những Cưubàn-trà ác, trong nước Càn-thát-bà có các Cànthát-bà ác, trong nước của loài rồng có các loại rồng ác. Các chúng sinh như vậy phần nhiều sinh khởi sân hận, không biết tội phước, làm việc tàn ác, bạo ngược, phá hoại pháp Phật vô thượng mà Ta đã chăm chỉ, chịu khó tu tập suốt ba a-tăng-kỳ kiếp. Thế nên, nay Ta mới giao phó cho các ông.

Nghe thế, từ Tứ Thiên vương cùng các tướng Dạ-xoa cho đến các Long tướng thảy đều đau xót, nghẹn ngào, nước mắt ràn rụa, lấy tay lau nước mắt mà nói:

– Thế Tôn Niết-bàn sao mau chóng vậy? Như Lai diệt độ sao mà vội thế?

Lúc đó, Đức Thế Tôn dùng mọi cách thuyết pháp, chỉ dạy khiến cho họ được sự lợi ích an vui, rồi lại biến mất và xuất hiện ở cõi Diêm-phù-đề.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nghĩ: “Nay Ta đã làm xong mọi việc. Các chúng sinh ác nay đã được điều phục. Ta có thể an ổn nhập vào Niết-bàn tịch diệt”. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Sự sống chết đáng nhàm chán, không bao lâu nữa Ta muốn nhập Niết-bàn.

Lúc ấy, Tôn giả A-nan sinh đại khổ não, đau xót nghẹn ngào, nước mắt ràn rụa như bị mũi tên cắm vào tim, lảo đảo thưa:

– Thế Tôn Niết-bàn sao mau chóng vậy? Như Lai diệt độ sao vội thế? Con mắt thế gian đã mất, con sẽ phải cầm bát cho ai đây?

Con sẽ cầm quạt đứng bên cạnh ai đây? Con sẽ không còn được nghe pháp cam lồ nữa! Ai sẽ giảng nói pháp vị cam lồ cho con đây? Con sẽ phải đi sau ai đây? Con sẽ không còn thấy được khuôn mặt thù thắng tròn đầy như vầng nhật nguyệt nữa, các vị như Tôn giả Xá-lợi-phất v.v... là bậc đại trí tuệ đã nhập Niết-bàn rồi, nay Như Lai diệt độ, thế gian tối tăm đã mất đi con mắt trí tuệ, ngọn núi trí chúa Tudi nay sắp sụt lở, tan hoại; cây Phật sắp ngã, cầu pháp sắp dứt, thuyền pháp sắp chìm, ngọn đèn pháp sắp tắt, vầng nhật nguyệt chánh pháp sắp rơi xuống đất, cánh cửa giải thoát nay sắp bít lấp, cánh cửa ba nẻo ác nay sắp mở, pháp nhóm họp trong suốt ba a-tăng-kỳ kiếp không lâu sẽ mất đi!

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Ông chớ nên ưu sầu, chớ nên khóc lóc, nghẹn ngào, lảo đảo nơi đất. Vì sao? Sự sống nơi thế gian là pháp hữu vi, hợp – quy đều vô thường. Nếu muốn pháp này không mất, không hoại mà thường trụ, việc ấy không thể có.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng mọi phương cách thuyết pháp, an ủi, khuyến dụ, chỉ bảo, khiến cho được sự lợi ích an vui.

Khi giao phó tạng pháp xong, Đức Thế Tôn mặc nhiên an trụ.

Lúc này, Đức Thế Tôn lại nghĩ: “Tỳ-kheo Anan đã bị sự sầu muộn khắc sâu vào tim. Ta phải dứt bỏ sự phiền muộn ấy cho Tôn giả”.

Rồi bảo Tôn giả A-nan:

– Ông có muốn thấy việc đời sau không? Ta thấy đời sau cũng như xem xét đời nay vậy. Ta sẽ nói cho ông rõ.

Khi ấy, Tôn giả A-nan trịch áo bên phải, gối phải quỳ chạm đất, chấp tay hướng về Phật đảnh lễ rồi thưa:

– Bạch Thế Tôn! Nay thật đúng lúc, xin hãy vì con mà giảng nói. Nghe pháp rồi, con sẽ vâng theo, giữ gìn, trình bày, lưu hành khắp nơi.

Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Hãy chí tâm lắng nghe. Ta sẽ nói: Này A-nan! Vào đời sau, có các Tỳ-kheo phá giới, mình mang ca-sa đi vào các thành ấp, qua lại nơi xóm làng, ở nơi nhà người. Họ chẳng phải là Tỳ-kheo, cũng chẳng phải là hàng bạch y, họ chăm nom, nuôi nấng vợ con.

Lại có Tỳ-kheo ở nơi nhà dâm nữ.

Lại có Tỳ-kheo dâm dục với Tỳ-kheo-ni.

Lại có Tỳ-kheo tự nuôi sống bản thân bằng cách chứa nhóm vàng bạc, tạo dựng sự nghiệp.

Lại có Tỳ-kheo tự nuôi sống bản thân bằng cách nhận lãnh sứ mạng thông tin, liên lạc.

Lại có Tỳ-kheo tự nuôi sống bản thân bằng cách chuyên làm nghề thuốc.

Lại có Tỳ-kheo tự nuôi sống bản thân bằng cách đánh bài đánh bạc.

Lại có Tỳ-kheo tự nuôi sống bản thân bằng cách xem bói cho người.

Lại có Tỳ-kheo tự nuôi sống mình bằng cách vì người mà tạo phù chú khiến cho thây chết sống dậy, rồi sai đi giết kẻ mình oán.

Lại có Tỳ-kheo vì người tụng chú xua đuổi quỷ thần, lấy nhiều tài vật để nuôi sống cho mình.

Lại có Tỳ-kheo tự nuôi sống bản thân bằng cách chuyên làm việc giết hại.

Lại có Tỳ-kheo tự nuôi sống mình bằng cách ở Tăng-già-lam mà riêng tư lạm dụng vật của Phật, Pháp, Tăng.

Lại có Tỳ-kheo bên trong thật phạm giới, bên ngoài giả bộ trì để nhận sự bố thí của người có lòng tin.

Lại có Tỳ-kheo tuy không phá giới, nhưng ôm lòng bỏn xẻn về đồ ăn mặc cho đến giấu giếm vật của chúng Tăng, không cho khách Tăng.

Lại có Tỳ-kheo tuy không phá giới nhưng lại giấu giếm phòng xá, giường ghế của chúng Tăng, không trao cho khách tăng.

Lại có Tỳ-kheo tuy không phá giới nhưng chỉ muốn tự mình hưởng những tài lợi do đàn việt cúng dường lễ bái, trong lòng không muốn cho những Tỳ-kheo khác cùng hưởng tứ sự bố thí của những người có lòng tin này.

Lại có Tỳ-kheo thật chẳng phải là La-hán nhưng vì muốn khiến cho mọi người biết ta là bậc La-hán nên thường dối trá xưng là đạt được quả vị La-hán.

Lại có Tỳ-kheo nhận nhiều tứ sự cúng dường của đàn việt, nhưng bên trong lại không có thật đức, chỉ tăng thêm lòng tham, đều vì mạng sống mà không vì tu đạo.

Lại có Tỳ-kheo tự nuôi sống mình bằng cách kiếm lợi từ việc buôn bán.

Lại có Tỳ-kheo tự nuôi sống mình bằng việc chuyên đi trộm cướp.

Lại có Tỳ-kheo tự nuôi sống mình bằng cách chăn nuôi voi, ngựa, lạc đà, lừa, trâu, dê, cho đến việc buôn bán.

Lại có Tỳ-kheo tự nuôi sống mình bằng cách buôn bán nô tỳ.

Lại có Tỳ-kheo tự nuôi sống mình bằng cách làm đồ tể giết trâu, dê.

Lại có Tỳ-kheo nhận lời mời nhập trận, chinh chiến thảo phạt, giết nhiều người để cầu sự tưởng thưởng trọng hậu.

Lại có Tỳ-kheo tự nuôi sống mình bằng cách đục khoét tường vách trộm cắp tài vật của người.

Lại có Tỳ-kheo tự nuôi sống mình bằng cách chuyên làm việc chiếm đoạt, đánh phá thành ấp, xóm làng.

Lại có Tỳ-kheo tự nuôi sống mình bằng cách hủy hoại tháp Phật để lấy vật báu trong đấy.

Với vô lượng nhân duyên địa ngục như vậy, sau khi chết họ sẽ phải bị đọa vào địa ngục.

Này A-nan! Chẳng khác nào mạng sống của sư tử chấm dứt, thân chết đi, hết thảy mọi loài chúng sinh hoặc ở trong không trung, hoặc ở trong đất, hoặc ở dưới nước, hoặc trên bờ cũng đều không dám ăn thịt sư tử này. Duy chỉ những côn trùng sinh từ thân sư tử trở lại ăn thịt của sư tử.

Này A-nan! Pháp Phật của Ta không ai có khả năng hủy hoại mà là do các Tỳ-kheo ác trong giáo pháp của Ta giống như gai độc, phá hoại Phật pháp mà Ta đã tích góp hạnh chăm chỉ, chịu khó chứa nhóm trong suốt ba a-tăng-kỳ kiếp.

Này A-nan! Ví như có người vào biển lớn, đi đến hòn đảo có của báu, lấy nhiều vật báu đem để trên thuyền rồi muốn vượt qua biển lớn, nhưng giữa dòng thì bị đắm chìm. Chánh pháp của Phật giống như thuyền chở vật báu kia. Các Tỳ-kheo phá giới ở đời sau phần nhiều ưa tạo ra các nghiệp ác, diệt pháp Phật của Ta, làm cho chìm đắm không xuất hiện.

Này A-nan! Không bao lâu sau khi Như Lai nhập Niết-bàn, chánh pháp sẽ rối loạn. Khi chánh pháp đã rối loạn, có những Tỳ-kheo ác xuất hiện ở đời, không tin Như Lai đã đạt chứng Niết-bàn, tịch diệt vô lậu, huống gì lại tin có người ở thế gian đạt được quả vị A-la-hán, nhập vào Niết-bàn.

Này A-nan! Mọi chánh pháp của Như Lai gọi là vị cú nghĩa (câu nghĩa thâm diệu) bao gồm: Tuđa-la, Kỳ-dạ, Bỉ-ca-hạt-la, Ca-đà, Ưu-đà-na, Niđà-na, A-ba-đà-na, Y-đế-tỷ-lợi-đa-già, Xà-đa-ca, Tỳ-phật-lược, A-phù-đà-đạt-ma, Ưu-ba-đề-xá. Mười hai bộ loại kinh đấy là những gì mà các Tỳkheo ác nhằm hủy diệt. Những người này ưa viết văn chương, trau chuốt ngôn từ. Có nhiều Tỳ-kheo ác như vậy phá hoại pháp Phật của Ta.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vào đời sau, có những Tỳkheo ác phá giới như vậy xuất hiện ở đời chăng?

Phật đáp:

– Đúng vậy. Đúng vậy! Này A-nan! Đời sau sẽ có những Tỳ-kheo ác như vậy xuất hiện ở đời. Mặc dù hình thức mặc pháp phục, cạo bỏ râu tóc nhưng lại phá hoại pháp Phật của Ta.

Khi ấy, Tôn giả A-nan nghĩ: “Dựa vào thần lực của Phật, có thể khiến ta thấy được những việc như vầy ở đời sau không?”.

Lúc đó, Như Lai dùng sức thần thông khiến cho Tôn giả A-nan thấy được các Tỳ-kheo ác ở đời sau với việc: Con nhỏ ngồi trên đầu gối, vợ ngồi bên cạnh. Lại thấy tất cả mọi việc phi pháp.

Khi thấy những việc như thế, lòng hết sức sợ hãi đến nỗi lông trên thân đều dựng đứng. Tôn giả A-nan liền bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nay chính là lúc Như Lai sắp nhập Niết-bàn, tại sao Thế Tôn lại cho thấy những việc xấu ác như vậy ở đời sau này?

Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Ông nghĩ sao? Như Lai nói về những quả báo nơi nghiệp ác của các Tỳ-kheo, lẽ nào có người khác biết được chăng?

Tôn giả A-nan đáp:

– Bạch Thế Tôn! Duy chỉ có Như Lai mới có khả năng biết được các nghiệp báo ác nơi đời sau này mà thôi.

Phật nói:

– Này A-nan! Đúng như ông nói, chỉ có Như Lai mới có khả năng biết được việc đó. A-nan! Nay ông có thấy khi chưa Niết-bàn, với các Tỳ-kheo ác vây quanh, Như Lai có vì họ mà thuyết pháp không?

Tôn giả A-nan đáp:

– Không có việc như vậy. Phật nói:

– Này A-nan! Thật tốt thay! Đúng như ông nói, hiện tại Như Lai thật sự không có những Tỳ-kheo ác như vậy vây quanh, nên Phật Như Lai vì họ mà thuyết pháp. Này A-nan! Vào đời sau, phần nhiều hàng tại gia bạch y được sinh lên cõi trời, phần nhiều hàng xuất gia lại bị đọa nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Này A-nan! Nghiệp thiện, nghiệp ác hoàn toàn không tiêu mất. Xưa kia, Ta từng làm vị thương chủ đi vào biển cả sống với nhiều người, vì tự tay giết một mạng người nên do nghiệp duyên ấy, mãi đến khi thành Phật rồi, thân vẫn còn chịu quả báo của kim cương.

Khi ấy, có vua trời Đế thích cùng với chúng trời Ba Mươi Ba vội vã đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi lui đứng một bên.

Có vua trời Diễm-ma cùng trăm vạn ức chúng trời Diễm-ma vội vã đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi lui đứng một bên.

Có vua trời Đâu-suất-đà cùng trăm vạn ức chúng trời Đâu-suất – đà vội vã đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi lui đứng một bên.

Có vua trời Hóa Lạc cùng trăm vạn ức chúng trời Hóa Lạc vội vã đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi lui đứng một bên.

Có vua trời Tha Hóa Tự Tại cùng trăm vạn ức chúng trời Tha Hóa Tự Tại vội vã đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi lui đứng một bên.

Lại có vua A-tu-la là Tỳ-ma-chất-đa-la cùng trăm vạn ức chúng A-tu-la vội vã đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi lui đứng một bên.

Có Long vương Ta-già-la cùng trăm vạn ức Long chúng cũng đều vội vã đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi lui đứng một bên.

Vì muốn thấy Như Lai lần cuối cùng, ngay trong khoảnh khắc một niệm, một sát-na, một vô hư luật đa, các hàng trời, A-tu-la, Ca-lâu-la, Cànthát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già đã cùng nhau đến trụ trong không trung đầy khắp cả mười hai do-tuần.

Bấy giờ, Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Cây Bồ-đề ở đạo tràng này là tối thắng thù diệu. Chư Phật quá khứ đều ngồi nơi đây mà chứng được đạo quả Chánh giác Vô thượng. Chư Phật vị lai cũng ngồi nơi đây mà chứng được đạo quả Chánh giác Vô thượng. Thân Ta hiện tại lại ngồi nơi đây phá tan mười tám ức quân ma, đắc đạo quả Chánh giác Vô thượng. Như vậy, này Tôn giả Anan! Không bao lâu nữa, Ta sẽ Niết-bàn.

Lại bảo Tôn giả A-nan:

– Vườn Lâm-tỳ-ni tối thắng tối diệu là nơi sinh cuối cùng của chư Phật Như Lai.

Lại bảo:

– Phu nhân Ma-da là người đại phước đức nên mới sinh ra bậc quý báu trong loài người.

Lại bảo:

– Quốc vương Tịnh Phạn là người đại phước đức nên mới làm cha một bậc quý báu, tối thắng trong tất cả các chúng sinh.

Lại bảo:

– Thành Tỳ-xá-ly của nước Tỳ-thị-ly là nơi tối thắng tối diệu. Đại thành Vương-xá của nước Makiệt-đà là nơi tối thắng tối diệu. Nơi cây Thất-amba-la cũng thắng diệu. Nơi cây Cù-đam-ma-nhược, Ni-câu-đà cũng rất thắng diệu. Nơi nghỉ ngơi ở Bùi-la-đa, Đậu-la-đa, Đậu-la-ni cũng rất thắng diệu. Nơi Lực sĩ sinh chính là nơi Chuyển luân Thánh vương thời quá khứ cởi bỏ thiên quan báu, tại nơi đây an trí quả Phật-bích-chi, là nơi tối thắng diệu của phần thân Ta.

Lại bảo:

– Cõi Diêm-phù-đề là nơi tốt đẹp tối thắng. Chúng sinh trong ấy tham ưa mạng sống, thế nên nay Ta Niết-bàn nơi đây. Những giáo pháp mà Ta chứa nhóm trong ba a-tăng-kỳ kiếp, không bao lâu sẽ bị diệt mất.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn an ủi, dẫn giải Tôn giả A-nan, khiến tâm ông được vui vẻ trừ bỏ mọi vương vấn của sầu não.

Khi phó chúc pháp xong, Phật bảo Tôn giả Anan:

– Nay ông hãy cùng Ta đi qua các nước.

Tôn giả A-nan vâng lời.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn đến thành Ba-ba. Những người đáng được độ, Phật đã độ xong. Rồi lại đi qua các nước, giáo hóa, thành tựu cho vô lượng trăm ức na-do-tha chúng sinh khác.

Tôn giả A-nan đi theo Phật, cứ như vậy lần lựa đến cây Bồ-đề, nơi đạo tràng ở nước Ma-già-đà. Đức Thế Tôn đi nhiễu quanh cây sáu vòng, rồi ngồi kiết già bên cội cây.

Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Không bao lâu, sau mười lăm ngày Như Lai sẽ nhập Niết-bàn. Khi ấy, những hàng trời, A-tula, Ca-lâu-la, Càn-thát-bà, Khẩn- na-la, Ma-hầu-la-già đều nghĩ: “Không bao lâu, sau mười lăm ngày nữa, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.

Chúng ta nên lễ bái lần cuối cùng”.

Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Ông chớ nên nghĩ cho Phật Thế Tôn có tham, sân, si mà ca ngợi cõi Diêm-phù-đề này. Như Lai là người đã lìa bỏ tham, sân, si. Ba cõi đây là nơi các chúng sinh sinh vào. Trong ba cõi, đây là cõi Dục. Các chúng sinh nơi đó quen tạo ba nghiệp ác, lại tạo nghiệp thân người cùng với trời, lại tạo nghiệp cõi Sắc và cõi Vô sắc. Thậm chí cả đến nghiệp Phi tưởng và phi phi tưởng.

Nói xong, Phật bèn đứng dậy, tức thời cõi đất chấn động đủ sáu cách. Vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha chư Thiên ở trên không trung sầu khóc, nói:

– Như vậy, sẽ không bao lâu vật báu trong chúng sinh sẽ diệt mất!

QUYỂN HẠ

Bấy giờ, Đức Thế Tôn rời khỏi cây Bồ-đề. Vua trời Tỳ-sa-môn và trăm vạn ức chúng Dạ-xoa cùng lúc khóc rống lên, nước mắt ràn rụa, lấy tay lau nước mắt và nói kệ:

Dung sắc Như Lai rất vi diệu
Vượt hơn chúng sinh, không ai bằng
Như vậy trang nghiêm thân đặc biệt
Không bao lâu nữa sẽ diệt độ!

Vua trời Đế thích và trăm ngàn ức chúng trời Ba Mươi Ba cùng lúc òa khóc, nước mắt ràn rụa nói kệ:

Diện tướng Như Lai thật đầy đặn
Hình sắc thù thắng như nhật nguyệt
Hết thảy trời, người đều cúng dường
Chúng con không được thấy nữa rồi!

Vua trời Tu-diệm-ma và trăm vạn ức chúng trời Tu-diệm-ma cùng lúc òa khóc, nước mắt ràn rụa, lấy tay lau nước mắt nói kệ:

Nhân trung tinh tấn hùng mạnh nhất
Thần lực phá tan các quân ma
Thích sư tử trong giòng cam giá
Nay bị vô thường nuốt mất rồi!

Vua trời San-đâu-suất-đà và trăm vạn ức chúng trời San-đâu-suất-đà cùng nhau òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau nước mắt nói kệ:

Người nhìn không chán, như vua thuốc
Xuất thế giống như đèn sáng lớn
Trí nhãn như vậy nay diệt độ
Thế gian sẽ trở lại tối tăm!

Vua trời Hóa Lạc và trăm vạn ức chúng trời Hóa Lạc cùng nhau òa khóc, nước mắt ràn rụa, lấy tay lau nước mắt, nói kệ:

Bước đi vững chắc hơn sư tử
Diện mạo tròn đầy vượt vầng trăng
Đi không mang dép trên mặt đất
Vết tướng “ngàn hoa” không thấy nữa!

Bấy giờ, vua ma và chúa trời Tha Hóa Tự Tại hết sức vui mừng an ổn, sung sướng, cùng với trăm vạn ức chúng trời Tha Hóa Tự Tại vội vã đến chỗ Phật, chấp tay hướng Phật, nói kệ:

Các chúng sinh ác đã điều phục
Tất cả cấu uế không còn nữa
Tại sao còn trụ ở thế gian
Xin Phật hãy mau nhập Niết-bàn!

Lúc đó, vua trời Đại Phạm tức giận Ma vương, nói:

– Này Ma vương, kẻ đại ác! Chư Phật Như Lai là vật báu tối thắng, nay tại sao ông lại muốn cho Thế Tôn mau chóng Niết-bàn?

Vua trời Đại Phạm và trăm vạn ức chúng Phạm thiên cùng nhau òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau nước mắt nói kệ:

Ngay hiện tại này cùng vị lai
Thế giới Phạm thiên cùng nơi khác
Chưa từng được thấy thân của Phật
Khuôn mặt đoan nghiêm đầy thanh tịnh!

Vua A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la và trăm vạn ức chúng A-tu-la cùng nhau òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau nước mắt nói kệ:

Công đức sắc Phật không lường được
Bao la, vô tận, thật vô cùng
Lợi ích Tu-la và nẻo khác
Nay nếu diệt độ, thế gian không!

Long vương Ta-già-la và trăm vạn ức Long chúng cùng nhau òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau nói kệ:

Voi Doãn-la-bát nhiều cả ngàn
Không bằng một lực của Như Lai
Như vậy bậc đại lực hùng mạnh
Nay đã bị vô thường hủy hoại!

Vua trời Tỳ-lâu-lặc-xoa và trăm vạn ức chúng Cưu-bàn-trà cùng nhau òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau rồi nói kệ:

Kính ngưỡng hoa sen báu đại giác
Sinh từ ao giới thanh tịnh kia
Thị hiện tướng vô thường không lâu
Nay sẽ nghiêng, rơi hẳn tịch diệt!

Vua trời Tỳ-lâu-bác-xoa và trăm vạn ức Long chúng cùng nhau òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau rồi nói kệ:

Khuôn mặt Như Lai như trăng tròn
Ánh sáng chói lọi như ánh dương
Như vậy ở đời không lâu nữa
Hiện bị vô thường nuốt ăn đi!

Vua trời Tỳ-sa-môn và trăm vạn ức chúng Dạxoa cùng nhau òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau rồi nói kệ:

Thân Phật sắc vàng rất thù diệu
Ba mươi hai tướng tự trang nghiêm
Chẳng lâu sẽ bị các vô thường
Hủy hoại thanh tịnh đại Mâu-ni!

Vua trời Đề-đầu-lại-trá và trăm vạn ức Long chúng cùng nhau òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau rồi nói kệ:

Sắc thân Như Lai thật hiếm có
Ngay trong ba cõi không gì bằng
Như vậy không lâu sẽ diệt độ
Vì bị vô thường trói buộc rồi!

Đại tướng Dạ-xoa tên Bàn-chỉ-ca cùng với trăm vạn ức chúng Dạ-xoa cùng nhau òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau rồi nói kệ:

Tiếng Phật thù thắng như Phạm thiên
Vượt hơn tiếng Ca-lăng-tần-già
Không lâu Như Lai sẽ Niết-bàn
Không còn được nghe pháp cam lồ!

Đại tướng Dạ-xoa tên Bàn-giá-la cùng với trăm vạn ức chúng Dạ-xoa cùng nhau òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau rồi nói kệ:

Sắc vàng Như Lai tỏa sáng thân
Công đức trang nghiêm mặt trăng tròn
Giữa mày lông trắng, tướng thù đặc
Nay con quy mạng lễ cuối cùng!

Đại tướng Dạ-xoa tên Ma-ni-bạt-đà-la cùng với trăm vạn ức chúng Dạ-xoa cùng nhau òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau, nói kệ:

Với ba mươi hai tướng thượng diệu
Tám mươi vẻ đẹp tự trang nghiêm
Sẽ bị vô thường, chúa kim cang
Đập tan đại Thánh đấng Mâu-ni!

Đại tướng Dạ-xoa tên Phú-na-bạt-đà cùng với trăm vạn ức chúng Dạ-xoa cùng nhau òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau rồi nói kệ:

Tất cả Phật trong đời quá khứ
Cùng các Thế Tôn ở vị lai
Họ Thích mạnh mẽ, chúa sư tử
Đã bị vô thường hãm hại rồi!

Đại tướng Dạ-xoa tên Ma-sĩ-lợi-địa-ca cùng với trăm vạn ức chúng Dạ-xoa cùng nhau òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau rồi nói kệ:

Nay con lần cuối thấy Mâu-ni
Thế rồi không còn được hầu hạ
Lần cuối đảnh lễ tướng ngàn hoa
Vân hoa bàn chân in mặt phẳng!

Đại tướng Dạ-xoa tên Khư-đà-la-ca cùng với trăm vạn ức chúng Dạ-xoa cùng nhau òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau rồi nói kệ:

Ôi thôi, tướng vô thường đại ác
Hủy hoại tất cả các chúng sinh
Báu vật vô thượng của muôn loài
Cũng vào tịch diệt, không trụ lâu!

Đại tướng Dạ-xoa tên Kim-kỳ-la cùng với trăm vạn ức chúng Dạ-xoa cùng nhau òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau rồi nói kệ:

Nay con quy y lạy cây Phật
Phát sinh nơi đại địa trì giới
Chính bị búa rìu của vô thường
Không lâu đốn ngã đại Mâu-ni!

Đại tướng Dạ-xoa tên Ta-đa-kết-lợi cùng với trăm vạn ức chúng Dạ-xoa cùng nhau òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau rồi nói kệ:

Tướng lông trắng giữ mày
Chiếu sáng như vầng nguyệt
Mắt tịnh như sen xanh
Hiếm có, sẽ không thấy!

Địa Thần Thiên cùng với trăm vạn ức chúng Dạ xoa òa khóc, nước mắt ràn rụa, lấy tay lau rồi nói kệ:

Nay con lạy hùng mãnh
Tối thắng nơi hàng người
Tối thượng trong (loài) hai chân
Kính ngưỡng đại Mâu ni!

Bồ Đề Thọ Thiên òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau rồi nói kệ:

Nơi đây trừ vua ma
Cùng phá quyến thuộc ma
Đại Mâu-ni không lâu
Bị ma vô thường diệt!

Thần Kỳ Lâm òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau nước mắt rồi nói kệ:

Rừng kỳ thần sẽ không
Rừng trúc cũng như vậy
Hố vô thường cực sâu
Như Lai vào không hiện!

Kim-cang-mật-tích cùng với trăm vạn ức chúng Dạ-xoa òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau rồi nói kệ:

Thành tối thắng như vậy
Cũng là nơi tốt tươi
Bỏ dòng họ Thích-ca
Sẽ hướng nơi nào đây?

Thần rừng Lâm-tỳ-ni òa khóc, nước mắt đầm đìa, lấy tay lau rồi nói kệ:

Quốc vương Tịnh Phạn trước đã diệt
Phu nhân Ma-da cũng diệt độ
Như Lai nay muốn nhập Niết-bàn
Như vậy tịch diệt không thể thấy!

Thần thành Ca-tỳ-la vội vã đến chỗ Phật, òa khóc nức nở, chệnh choạng, nói:

– Như Lai Niết-bàn sao quá vội? Thế Tôn Niếtbàn sao quá nhanh? Con mắt thế gian bị diệt mất.

Rồi nói kệ:

Vườn Lâm-tỳ-ni – nơi Phật sinh
Lớn lên ở nơi thành Ca-tỳ
Ánh sáng tỏa vượt hơn ngàn nhật
Nay thấy lần cuối, không thấy nữa!

Thần cây Bồ-đề cùng các chúng chư Thiên, Atu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già ở trong không trung phát ra âm thanh lớn cùng nhau òa khóc, rồi nói:

– Phật là báu vật tối thắng của chúng sinh, không bao lâu sẽ mất! Bấy giờ, Đức Thế Tôn cất lên Phạm âm nói với các hàng chư

Thiên, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầula-già:

– Các ngươi chớ nên khóc, chớ nói những lời khác, chớ sinh ưu não, rồi lấy tay đập ngực khiến tâm hỗn loạn. Tại sao có thế gian, người thọ sinh do nhân duyên của pháp hữu vi hòa hợp mà được sống lâu? Nếu ai muốn cưỡng lại sự hoại diệt của pháp vô thường thì chuyện đó hoàn toàn không có. Thế rồi Đức Thế Tôn chỉ dạy, làm cho các chúng trời, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Mahầu-la-già được sự lợi ích an vui. Khi đã phát sinh lòng vui mừng, các chúng trời cho đến Ma-hầu-lagià đi nhiễu quanh bên phải Đức Thế Tôn rồi trở về chỗ cũ.

Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Khi xưa, lúc Ta ở chỗ Long vương A-ba-la, Ta ghi nhớ nước Kế-tân. Sau khi Ta Niết-bàn, tại nước này phát triển mạnh mẽ, yên ổn, giàu có, giống như cõi Uất-đan-la-việt. Pháp Phật rất hưng thịnh, rất nhiều vị La-hán ở tại đây, cũng có vô lượng các đệ tử của Như Lai. Hết thảy các vị Lahán trong cõi Diêm-phù-đề đều đi đến nước này. Nơi ấy chẳng khác nào nơi cõi trời Đâu-suất. Như Lai có mọi danh thân, cú thân: Tu-đa-la, Kỳ-dạ, Bỉca-hạt-la-na, Già-tha, Ưu-đà-na, Ni-đà-na, A-bađà-na, Y-đế-tỷ-lợi-đa-kiến, Già-xà-đa-ca, Tỳ-phậtlược, A-phù-đà-đạt-ma, Ưu-ba-đề-xá. Các vị Lahán ấy cùng nhau kết tập mười hai bộ loại kinh điển của Như Lai rồi tạo ra rộng rãi các bộ luận.

Nước Kế-tân ấy giống như khu vườn Hoan-hỷ của Đế thích, cũng như ao trong mát A-nậu. Lại có những vị: Phả-la-đọa, Thệ-tân-đầu-lâu v.v... đang sống vui vẻ tại nước Kế-tân. Những vị không còn thoái chuyển đối với Phật thừa, những vị A-la-hán cũng ở tại nước này.

Lại có A-la-hán Nhân-đà-la-ma-na, A-la-hán Bạch-hạn v.v... đối với pháp tạng - hữu lậu, vô lậu - Như Lai giảng nói, những vị ấy thảy đều lựa chọn nhóm, tập lại để truyền bá rộng rãi.

Tôn giả A-nan! Sau khi Niết-bàn, pháp thân tối hậu của Ta được những vị ấy kiến lập ở đời vị lai. Về sau, có năm vị Thiên tử là: Kim-tỳ-la v.v... sinh ra ở nước Kế-tân, truyền bá rộng rãi giáo pháp của Ta ở đời, thiếp lập một cách trọng hậu để cúng dường. Các đệ tử của Ta ở cõi Diêm-phù-đề chưa từng nghe đại hội nào như vậy.

Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Nước Kế-tân ở đời vị lai sẽ tạo ra pháp hội lớn như thế. Này A-nan! Sau khi năm Thiên tử kia diệt độ, có một đệ tử của ngoại đạo Phú-lâu-na tên Liên-hoa-diện, sắc thân màu vàng, trí tuệ thông tỏ, thấu rõ thiên văn, lý giải một cách khéo léo về sự tuần hoàn trong thiên văn của năm tinh tú nơi hai mươi tám ngôi sao. Kẻ đại si này đã từng cúng dường bốn vị La-hán. Ngay khi cúng dường, người này đã phát thệ nguyện: “Tôi nguyện ở đời vị lai sẽ phá hoại pháp Phật. Với công đức cúng dường các vị La-hán này, tôi nguyện đời đời sẽ được thân đoan nghiêm. Thân cuối cùng sẽ được sinh trong gia đình của quốc vương, thân được làm quốc vương tên My-chi-hạt-la-câu-la” mà diệt trừ pháp Phật.

Kẻ đại si ấy đập vỡ chiếc bát của Ta. Sau khi đập vỡ bát, người này sa vào đại địa ngục A-tỳ. Kẻ đại si ấy mạng chung, rồi lần lượt có bảy vị Thiên tử xả thân sinh nơi nước Kế-tân, lại tiếp tục kiến lập chánh pháp của Như Lai, thiết lễ trọng hậu cúng dường.

Này A-nan! Do phá vỡ bát, các đệ tử của Ta dần dần làm ô nhiễm giới tịnh. Khi bát mới phá, tuy làm nhiễm ô giới thanh tịnh, nhưng các Tỳkheo này trí tuệ như ngưu vương có khả năng phá tan ngoại đạo. Trải qua hai thời kỳ như thế, các Tỳkheo ở cõi Diêm-phù-đề này phá giới thanh tịnh, ưa làm điều bất thiện, thân đi trộm cướp, cày ruộng, khai hoang, trồng trọt, tham lam tích trữ y tốt, bát tốt, không thích đọc tụng Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm.

Như vậy, này A-nan! Những người trí tuệ ưa thích đọc tụng đều diệt độ hết, bấy giờ phần nhiều có các Tỳ-kheo dua nịnh, quanh co, ganh ghét, khởi lên nhiều việc phi pháp, đây chính là do các Tỳ-kheo không thực hành đúng như pháp. Các quốc vương không dựa vào vương pháp, đó chính là vua không cai trị như vương pháp. Dân chúng trong các nước ấy phần nhiều thực hành mười nghiệp bất thiện tăng thượng, ấy là do nghiệp ác. Đất đai nơi đây mọc nhiều gai góc, cỏ độc, đất cát, sỏi đá.

Này A-nan! Ngay trong lúc ấy năm thứ tinh vị: sữa, dầu, muối, đá, mật ở cõi Diêm-phù-đề đều mất hết sức mạnh, mất hết mùi vị. Như vậy là năm thứ này đã mất đi năng lực cũng như mùi vị. Lúc ấy, chúng sinh lại tạo nhiều nghiệp ác tăng thượng, ấy là do họ đã tạo nhiều điều ác, bất thiện.

Bát vỡ của Phật, hướng đến phương Bắc. Bấy giờ, những chúng sinh tại phương Bắc thấy bát vỡ của Phật, bèn thiết lễ cúng dường trọng hậu với những món như: hoa, hương đốt, hương xoa, đèn sáng, vòng hoa và các loại âm nhạc. Khi cúng dường bát này, có người phát tâm Bồ-đề Vô thượng, có người phát tâm cầu quả Thanh văn, có người phát tâm cầu quả Phật-bích-chi.

Bát vỡ ấy hướng đến nước Ba-la-bát-đa, dân chúng trong nước ấy thấy bát vỡ của Phật, bèn đem những món: các loại hoa, hương đốt, hương bột, hương xoa, đèn sáng, vòng hoa và các loại âm nhạc cúng dường. Khi cúng dường bát, có người phát tâm Bồ-đề Vô thượng, có người phát tâm cầu quả Thanh văn, có người phát tâm cầu quả Phật-bíchchi.

Này A-nan! Do thần lực từ bát vỡ của Phật, cũng do căn lành của chúng sinh cảm ứng, bát vỡ của Ta tự nhiên trở lại như cũ, không khác gì trước. Về sau không bao lâu, bát của Ta liền biến mất khỏi cõi Diêm-phù-đề, xuất hiện trong cung Long vương Ta-già-la.

Ngay lúc biến mất, tại cõi Diêm-phù-đề suốt bảy ngày bảy đêm, cảnh vật đều hết sức tối tăm, uy quang của mặt trời, mặt trăng không còn hiện bày, đại địa chấn động, sấm chớp liên hồi, trong không trung phát ra âm thanh rất đáng kinh sợ, gió đen nổi lên hết sức ghê gớm. Các hàng trời, người, Atu-la, Ca-lâu-la, Càn-thát-bà, Ma-hầu-la-già thảy đều khóc rống, nước mắt đầm đìa.

Như vậy, này A-nan! Ngay khi bát này mới biến mất, pháp luật của Như Lai cũng mất, không hiện nữa. Vào lúc đó, Ma vương thấy pháp luật diệt mất, nên hết sức vui mừng, hết sức an ổn, ở giữa không trung, nói: “Pháp Cù-đàm diệt mất, ta sẽ giáo hóa các chúng sinh khiến tự mình tạo các điều ác rồi dạy cho người khác cùng làm ác”. Do từ sự khuyến dụ của ma nên những người trong các thành ấp, xóm làng giết hại lẫn nhau. Cũng do chính việc khuyến dụ, dẫn dạy chúng sinh tạo mọi điều ác nên sinh thân của Ma vương bị rơi vào địa ngục A-tỳ.

Bấy giờ, trông thấy bát của Phật, Long vương Ta-già-la bèn thiết lễ trọng hậu, đem các loại báu như báu Nhân-đà-ni-la, báu Ma-ha-ni-la, báu hỏa châu, báu thanh thủy v.v... để cúng dường, suốt bảy ngày lễ bái, đi nhiễu quanh theo chiều bên phải. Trong chúng rồng này có vị phát tâm Bồ-đề Vô thượng, có vị phát tâm cầu quả Thanh văn, có vị phát tâm cầu quả Phật-bích-chi.

Lúc đó, Long vương Ta-già-la đưa tay cầm bát nói kệ:

Các tướng trang nghiêm tay
Nhận các loại đồ ăn
Chứa đầy trong bát này
Như vậy để thọ dùng.

Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Thế rồi bát của Ta biến mất ở cung Long vương Ta-già-la và xuất hiện ở cung Tứ Thiên vương. Khi ấy, Tứ Thiên vương: Tỳ-lâu-lặc- xoa, Tỳ-lâu-bác-xoa, Tỳ-sa-môn, Đề-đầu-lại-trá đã thiết lễ trọng hậu, đem tất cả những thứ như: các loại hoa, các loại vòng hoa, các loại hương xoa, các loại hương đốt, các loại đèn sáng, các loại âm nhạc v.v... cúng dường suốt bảy ngày bảy đêm. Khi cúng dường lễ bái xong, trong chúng chư Thiên có vị phát tâm Bồ-đề Vô thượng, có vị phát tâm cầu quả Thanh văn, có vị phát tâm cầu quả Phật-bích-chi. Lúc này, Tỳ-lâu-lặc Cưu-bàn-trà vương đưa tay cầm bát nói kệ:

Như Lai dùng lần cuối
Tại nhà ông thợ rèn
Bát vì hóa chúng sinh
Mà đến tại nơi này.

Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Trải qua bảy ngày bảy đêm như thế, bát của Ta biến mất khỏi cung Tứ Thiên vương, xuất hiện ở cung trời Tam Thập Tam. Khi ấy, thấy bát của Phật, Phật mẫu phu nhân Ma-da ưu sầu khổ não như tên cắm vào tim, khó có thể chịu được, chệnh choạng trên đất giống như khúc cây tròn, nói: “Như Lai Niết-bàn sao vội vậy? Tu Già Đà diệt độ sao nhanh thế? Con mắt của thế gian mất rồi, cây Phật bị đổ ngã, núi Tu-di Phật bị băng lở, đèn Phật cũng tắt mất, suối pháp cạn khô, ma vô thường nhật làm héo úa hoa sen Phật”.

Khi đó, Phật mẫu phu nhân Ma-da đưa tay cầm bát, bảo với các chúng chư Thiên, A-tu-la, Ca-lâula, Khẩn-na-la, Càn-thát-bà, Ma-hầu-la-già: “Các chư Thiên hãy lắng nghe! Đây là bát của Đức Như Lai Thích Ca thường thọ dụng. Như Lai là bậc dũng mãnh đệ nhất, diện mạo tròn đầy quá hơn mặt trời, mặt trăng. Hình ảnh ấy hiển hiện ở trong bát này.

Lại nữa, này chư Thiên! Bát như vậy, tại đại thành Vương-xá đã nhận thức ăn độc của Thi-lợiquật-đa.

Chư Thiên hãy lắng nghe! Thích Ca Mâu Ni là bậc đại hùng, đã dùng bát này nhận đồ ăn ở nhà Tu-ma-già-đà, trong thành Mãn-phúc.

Chư Thiên hãy lắng nghe! Vì giáo hóa Ưu-lâutần-loa Ca-diếp cùng rồng độc lớn, Như Lai đã bắt rồng độc bỏ vào trong bát này.

Chư Thiên hãy lắng nghe! Do nghiệp duyên, tại nước Bùi-liên-đa, Như Lai đã dùng bát này nhận thứ thóc – thức ăn của ngựa - trong suốt bốn tháng.

Thiên chúng hãy lắng nghe! Do lòng đại bi, Như Lai Thích Ca đã dùng bát này thu nhận thức ăn của người hết sức nghèo hèn.

Chư Thiên hãy lắng nghe! Đức Như Lai Thích Ca đã dùng bát này nhận các món đồ ăn ở tại cung Long vương Ta-già-la.

Chư Thiên hãy lắng nghe! Trong suốt bốn tháng hạ, Đức Như Lai Thích Ca đã dùng bát này nhận thức ăn của chúng ta.

Chư Thiên hãy lắng nghe! Vì muốn điều phục quỷ mẹ Ha-lợi với tâm ác thường uống máu người, Đức Như Lai Thích Ca đã dùng bát này nhốt đứa con út của quỷ mẹ tên Tất-lợi-diêm-ca-la Dạ-xoa lại”.

Phật mẫu phu nhân Ma-da lại đưa tay cầm bát, nói kệ:

Tùy tâm Phật muốn nhận
Đến nhập vào trong bát
Phật ở nơi bụng ta
Tròn đầy suốt mười tháng.

Bấy giờ, vua trời Đế thích thiết lễ trọng hậu, đem những thứ như: các loại hoa trời, hương trời, hương chiên-đàn cõi trời để cúng dường lễ bái, đi nhiễu quanh theo chiều bên phải bảy ngày bảy đêm. Cúng dường xong, trong các chúng chư Thiên có vị phát tâm Bồ-đề Vô thượng, có vị phát tâm cầu quả Thanh văn, có vị phát tâm cầu quả Phật-bích-chi. Vua trời bèn đưa tay cầm bát nói kệ:

Bát thù thắng này đây
Làm trí chúng sinh lớn
Thân Phật cũng như vậy
Thành tựu các công đức.

Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Trải qua bảy ngày bảy đêm như thế, bình bát biến mất khỏi trời Tam Thập Tam, xuất hiện tại cõi trời Diễm-ma. Thấy bát của Phật, vua trời Diễmma liền đem tất cả những thứ như: hoa trời Mạnđà, hương trời chiên-đàn, các loại hoa, các loại âm nhạc để cúng dường lễ bái, đi nhiễu quanh bên phải của bát Phật trong bảy ngày bảy đêm. Khi đó, trong chúng trời có vị phát tâm Bồ-đề Vô thượng, có vị phát tâm cầu quả Thanh văn, có vị phát tâm cầu quả Phật-bích-chi. Lúc ấy, chúa trời Diễm-ma đưa tay cầm bát nói kệ:

Ngàn vạn ức chúng sinh
Thấy bát đều hoan hỷ
Phát sinh quả thắng diệu
Mâu-ni khiến tới đây.

Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Trải qua bảy ngày bảy đêm như thế, bình bát lại biến mất tại cõi trời Diễm-ma, xuất hiện ở cõi trời Đâu-suất-đà. Khi ấy, thấy bát của Phật, vua trời Đâu-suất-đà liền đem hoa trời Mạn đà, hoa Ma-ha mạn đà cùng các loại diệu hoa, các loại hương, các loại âm nhạc, thiết lễ trọng hậu để cúng dường lễ bái, đi nhiễu quanh bên phải của bát Phật suốt bảy ngày bảy đêm, rồi đưa tay cầm bát, nói kệ:

Trong các loài chúng sinh
Phật khởi tâm từ bi
Bát này nhận đồ ăn
Phật khiến đến nơi đây.

Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Trải qua bảy ngày bảy đêm như thế, bình bát lại biến mất tại cõi trời Đâu-suất-đà, xuất hiện ở cõi trời Hóa Lạc. Lúc này, thấy bát của Phật, vua trời Hóa Lạc bèn đem các loại hoa trời, các loại hương trời, các loại âm nhạc để thiết lễ trọng hậu cúng dường, lễ bái, đi nhiễu quanh bên phải suốt bảy ngày bảy đêm. Khi đó, trong thiên chúng có vị phát tâm Bồ-đề Vô thượng, có vị phát tâm cầu quả Thanh văn, có vị phát tâm cầu quả Phật-bích-chi.

Vua trời Hóa Lạc đưa tay cầm bát nói kệ:

Bậc Đạo sư hiếm có
Thương xót đối chúng sinh
Vì lợi ích muôn loài
Nên khiến bát tới đây.

Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Khi các hàng trời, A-tu-la, Ca-lâu-la, Cànthát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già đem hoa trời Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la cùng với những thứ hoa khác, các loại hương như: hương trời chiên-đàn, hương bột v.v... cúng dường bát rồi, tức thời liền đem bát này đưa đến nơi cung Long vương Ta-già-la.

Phật bảo tiếp:

– Này A-nan! Tất cả bát cùng xá-lợi của Phật trong cõi Diêm-phù-đề và nơi mười phương khác cũng đều ở tại cung của Long vương Ta-già-la.

Này A-nan! Như vậy, nơi đời vị lai, bình bát cùng xá-lợi của Ta biến mất ở đây, hướng thẳng đến hơn tám vạn do-tuần trụ ở biên vực của kim cang.

Này A-nan! Ta nói cho ông biết, vào đời vị lai, khi thọ mạng của các chúng sinh tới tám vạn bốn ngàn năm, lúc đó có một vị Phật là Như Lai Di-lặc, đấng Ứng Cúng Chánh Biến Tri với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân màu vàng rực, ánh sáng bao trùm một tầm, âm thanh giống như tiếng trống trời Đại Phạm, như tiếng Ca-lăng-tầngià. Lúc ấy, bình bát cùng xá-lợi của Ta xuất hiện ở nơi biên vực của kim cang, rồi đến chỗ Đức Phật Di-lặc ở cõi Diêm-phù-đề. Bình bát cùng xá-lợi của Ta vẫn trụ trong không trung, phóng ra ánh sáng năm màu sắc, đó là: xanh, vàng, đỏ, trắng, pha lê với các tạp sắc.

Như vậy, này A-nan! Ánh sáng năm màu kia lại phóng đến tất cả các cõi trời. Đến các cõi trời ấy rồi, từ trong luồng ánh sáng đó phát ra âm thanh, nói kệ:

Tất cả hành vô thường
Tất cả pháp vô ngã
Cùng Niết-bàn tịch diệt
Cả ba là pháp ấn.

Ánh sáng ấy lại phóng đến các địa ngục, nói kệ:

Tất cả hành vô thường
Tất cả pháp vô ngã
Cùng Niết-bàn tịch diệt
Cả ba là pháp ấn.

Này A-nan! Ánh sáng được phóng ra từ bình bát cùng xá-lợi của Phật lại hướng đến mười phương thế giới. Nơi ánh sáng ấy, phát ra lời nói kệ:

Tất cả hành vô thường
Tất cả pháp vô ngã
Cùng Niết-bàn tịch diệt
Cả ba là pháp ấn.

Này A-nan! Như thế, ánh sáng được phóng ra từ bình bát cùng xá-lợi của Ta làm các Phật sự ở khắp thế giới trong mười phương xong, liền trở về chỗ cũ kết thành lọng mây ánh sáng lớn trụ trong không trung phía trên bình bát cùng xá-lợi của Phật.

Này A-nan! Xá-lợi Phật cùng bình bát hiện bày những việc hết sức hy hữu như vậy. Khi thấy hiện sự hy hữu của thần thông này, tám mươi trăm ức chúng sinh đắc quả vị A-la-hán, một ngàn ức chúng sinh cạo tóc xuất gia, lòng tin trong sạch, một vạn chúng sinh phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng, đạt được sự không thoái chuyển.

Này A-nan! Khi bình bát cùng xá-lợi giáo hóa rộng rãi các chúng sinh rồi, liền trụ trong không trung, phía trước đức Di-lặc. Bấy giờ, Đức Phật Dilặc đưa tay cầm bát cùng xá-lợi của Ta, bảo với các hàng chư Thiên, nhân, A-tu-la, Ca-lâu-la, Cànthát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già: Các vị nên biết, bình bát và xá-lợi này chính là sự huân tu từ tín, giới, đa văn, tinh tấn, định trí của bậc đại sĩ hùng mạnh: Như Lai Thích Ca Mâu Ni. Các vị nên biết, Đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni có khả năng khiến cho vô lượng trăm ngàn na-do-tha ức chúng sinh trụ trong thành Niết-bàn, vượt trội hơn cả trăm ngàn ức lần hoa Ưu-đàm-bát. Bình bát cùng xá-lợi cố nhiên là đến cảnh giới nầy.

Khi ấy, vì bình bát cùng xá-lợi của Ta, Đức Dilặc Tam-miệu-tam-phật-đà đã xây tháp bằng bốn thứ báu và đặt bình bát cùng xá-lợi của Ta vào trong đó.

Lúc ấy, Đức Phật Di-lặc cùng với các hàng chư Thiên, nhân, A-tu-la, Ca-lâu-la, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già thiết lễ trọng hậu cúng dường, lễ bái tháp chứa bình bát với xá-lợi của Ta.

Này A-nan! Như Lai là bậc Ứng Cúng Chánh Biến Tri, thì bình bát và xá-lợi cũng có oai đức lớn như thế.

Này A-nan! Ông theo hầu sinh thân của Như Lai, công đức phát sinh là vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn.

Phật đã vì Tôn giả A-nan nêu bày những việc ở đời vị lai, lại bảo:

– Này A-nan! Ông hãy cùng Ta đi tới các nước, vì không bao lâu chỉ sau bảy ngày nữa, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.

Tôn giả A-nan đáp:

– Dạ!

Khi ấy, Phật cùng Tôn giả A-nan lần lượt đi đến những thành ấp của các nước, độ thoát vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha chúng sinh, rồi lại đến nhà người thợ rèn Thuần-đà. Đây là nơi Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng. Khi Đức Thế Tôn nhận đồ ăn của người thợ rèn xong, bèn nói kệ:

Nay Ta ăn lần cuối
Tại nhà ông Thuần-đà
Như vậy thân năm chúng
Không lâu sẽ diệt độ.

Thế rồi Phật cùng Tôn giả A-nan đến thành Câu-thi-na, dùng mọi phương tiện giáo hóa các Lực sĩ ở đây xong, lại tiếp tục đi ra khỏi thành Câuthi-na, đến giữa hai cây Ưu-ba-bạt-đa-na-bà-la.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn xoay đầu về hướng Bắc mà nằm. Khi ấy, Tu-bạt-đà-la đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi xoay về phía Phật. Phật vì ông ta thuyết pháp, khiến ông chứng đắc quả vị A-la-hán.


[Đầu trang]


[Mục lục bộ Niết Bàn][374][375][376][377][378][379][380][381][382][383][384][385][386][387][388][389][390][391][392][393][394][395][396]


[Mục lục tổng quát]