TẠNG
KINH
BỘ NIẾT BÀN (374 - 392)
Hán dịch: Sa-môn Thích Đàm Ảnh.
Phẩm 2: TÁM NƯỚC PHÂN CHIA XÁ LỢI
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật cùng với một ngàn hai trăm năm mươi Đại Tỳ-kheo kiết hạ an cư ba tháng dưới gốc cây Ba-lợi-chất-đa-la trong vườn Hoan hỷ tại cung trời Đao-lợi.
Lại cùng với vô lượng trăm ngàn Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-nala, Ma-hầu-la-già, người và phi nhân, và vô số Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều thân cận vây quanh Đức Phật.
Khi ấy, Như Lai ngồi kiết già, trong mỗi lỗ chân lông trên thân phóng ra ngàn hào quang sáng, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Trong mỗi ánh sáng có ngàn hoa sen, mỗi hoa sen có ngàn hóa Phật ngồi kiết già như Đức Thích Ca Mâu Ni. Ngay lúc ấy, ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao đều bị ẩn khuất không hiện, hết thảy hòa lẫn vào trong ánh sáng của Đức Như Lai, làm cho cây Ba-lợi-chất-đa-la trở thành màu hoàng kim.
Ví như bầu trời quang đãng không một áng mây, sức sáng của mặt trời, mặt trăng rất rực rỡ. Ánh sáng của Đức Như Lai phóng ra trên cung trời Đao-lợi cũng như vậy, chiếu sáng gấp bội lần không thể phân loại.
Lúc ấy, mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, các Thiên tử v.v... thấy tướng này rồi tâm rất run sợ không được yên, không biết nguyên nhân gì mà có việc này.
Bấy giờ, Phật bảo Đồng tử Văn-thù-sư-lợi:
– Ông nên đến gặp mẹ Ta và nói rằng Ta đang ở đây, mong bà hãy cung kính đảnh lễ Tam bảo.
Dùng bài kệ này nói cho bà ấy.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:
Đấng Đại sư Thích-ca
Thành tựu Nhất thiết trí
Ở tại Diêm-phù-đề
Giống như trời ngàn mắt.
Thiết tha tình khát ngưỡng
Lâu muốn thấy mẹ hiền
Xưa vốn trong cung vua
Sinh Ta được bảy ngày.
Qua đời hưởng phước trời
Di mẫu nuôi Ta lớn
Đã đắc thành Chánh Giác
Ứng Cúng độ chúng sinh.
Cho nên nay đến đây
Thuyết pháp báo ân xưa
Xin mẹ cùng quyến thuộc
Hãy đi đến chỗ này.
Lễ kính Phật, Pháp, Tăng
Cùng thọ pháp chân tịnh.
Khi ấy, Đồng tử Văn-thù-sư-lợi nghe Phật chỉ dạy rồi, liền đi đến chỗ của Ma-ha Ma-da truyền đạt lại đầy đủ lời Phật đã nói và tụng bài kệ của Đức Như Lai. Ma-ha Ma-da nghe nói vậy rồi, sữa tự nhiên chảy ra. Bà bèn nói:
– Nếu chắc chắn là Tất-đạt-đa do ta đã sinh, thì khiến cho sữa chảy thẳng vào trong miệng Thái tử. Nói xong, sữa từ hai nhũ hoa chảy ra như hoa sen trắng, chảy vào trong miệng của Đức Như Lai. Ma-ha Ma-da thấy vậy rồi, toàn thân phấn chấn dung mạo tươi mát như hoa sen ngàn cánh nở rực rỡ, sắc đẹp của Ma-ha Ma-da cũng như vậy. Khi ấy ba ngàn đại thiên thế giới đều chấn động. Các thứ hoa quả đẹp trái mùa cũng nở rộ. Ma-ha Mada nói với Đồng tử Văn-thù-sư-lợi:
– Từ khi tôi cùng làm mẹ con với Phật đến nay chưa từng được hoan hỷ an lạc như vậy. Ví như có người đói khát rất khổ, bỗng nhiên được ăn bữa cỗ tiệc vui sướng, nay tôi cũng vui mừng như vậy, lại không có các nghĩ tưởng tạp loạn.
Nói vậy rồi, bà cùng Đồng tử Văn-thù-sư-lợi đi đến chỗ Phật.
Thế Tôn trông thấy mẹ toàn thân chấn động như tướng núi Tu-di vang rền trong bốn biển. Lúc đó Như Lai thấy mẹ đã đến, bằng Phạm âm nói với mẹ:
– Thân đã trải qua các nơi khổ và vui, quyết mãi xa lìa khổ vui để tu chứng Niết-bàn.
Ma-ha Ma-da nghe Phật nói thế, năm vóc sát đất, quỳ mọp trước Phật, chắp tay cúi đầu, nhất tâm suy nghĩ, chuyên tâm chánh niệm nên các kiết sử đều tiêu tan. Liền ở trước Phật dùng kệ khen:
Ngài từ vô số kiếp
Thường uống sữa của tôi
Nên lìa sinh già chết
Đắc thành đạo Vô thượng.
Phải nên báo ân dưỡng
Tôi đoạn gốc ba độc
Kính lễ đấng trượng phu
Bậc vô tham bố thí.
Kính lễ đấng Điều Ngự
Tối thượng không ai hơn
Kính lễ thầy trời người
Dứt buộc ràng si ái.
Ngày đêm trong ba thời
Nhớ nghĩ không gián đoạn
Cúi đầu cung kính lễ
Bậc Pháp vương Vô thượng.
Tại phước điền của Ngài
Muôn mầm công đức lớn
Xin từ bi bố thí
Khiến mau thành diệu quả.
Chí lớn này dài lâu
Nên sinh vào cung vua
Thân lớn sắc vàng tía
Ánh sáng chiếu mười phương.
Dung mạo đều viên tịnh
Như trăng tròn mùa thu.
Bấy giờ, Thế Tôn nói với mẹ:
– Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Nghĩa này đầu, giữa, sau rất sâu xa. Lời nói diệu xảo thuần nhất không tạp, đầy đủ tướng phạm hạnh thanh bạch.
Ma-ha Ma-da nghe nói rồi, do thần lực của Phật nên biết được đời trước. Dùng thiện căn thuần thục phá tám mươi ức quyện khói nóng ràng buộc, đắc quả Tu-đà-hoàn. Bà chắp tay bạch Phật:
– Đã chứng quả giải thoát và thoát khỏi ngục tù sinh tử.
Khi ấy, đại chúng trong hội nghe lời này rồi đồng thanh nói:
– Cầu cho tất cả chúng sinh đều được giải thoát như Ma-ha Ma-da hiện tại.
Ma-ha Ma-da bạch Phật:
– Ví như lửa dữ thiêu đốt sắt nóng, nếu có người chạm vào thì cả thân tâm đều bị đau đớn. Sự sống chết của thế gian cũng như vậy, những sự qua lại đều là khổ đau, phàm gốc khổ chất chồng đều do tâm ý. Chúng sinh hân hoan vui đùa theo dục vọng nên luân chuyển quay cuồng trong trận cuồng phong của năm đường, như quả bóng bằng da lăn.
Khi ấy Ma-ha Ma-da tự chê trách tâm ý của mình bằng lời:
– Vì sao ngươi thường làm việc không lợi ích? Đi trong cảnh trần mà không ổn định, cứ chạy theo sáu trần cảnh mà không chịu dừng lại, bị loạn tưởng lôi kéo không lúc nào tạm ngừng. Những ý nghĩ rối ren đều không tốt đẹp, gây mê hoặc cho ta để đưa qua đời sau. Giống như người đào đất mà mặt đất kia chưa từng bị tăng giảm, nhưng vật dùng để cày bừa thì ngày càng bị hao mòn. Ở trong biển sinh tử cũng như vậy, thường bỏ thân mạng không thể tính kể, mà thần thức của ta chưa từng tăng giảm. Chúng có thể làm cho ta được địa vị Chuyển luân Thánh vương, đầy đủ bảy thứ báu, thống lãnh bốn châu thiên hạ, rồi chốc lát khiến ta lại sinh làm ễnh ương; chốc lát làm cho ta trở thành người nghèo hèn, bôn ba giong ruổi tìm cơm ăn áo mặc khắp bốn phương; chốc lát làm cho ta trở thành trưởng giả giàu có, nhiều của cải, nhiều danh tiếng; bỗng chốc làm cho ta ở cung điện cõi trời, tha hồ hưởng thọ những món ngon vật lạ của năm dục; bỗng chốc làm cho ta ở trong địa ngục uống nước đồng sôi, nuốt viên sắt nóng. Chỉ tính riêng một thân bò, đời quá khứ ta đã mang, thì da của ta chất đống lại cao như núi Tu-di, do còn ở trong sinh tử chưa được giải thoát. Bỗng chốc lại đạt được vô lượng tên gọi như là: ông chủ, người giúp việc, Chuyển luân Thánh vương, Đế vương, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Mahầu-la-già, người và phi nhân, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Chúng sinh có những tên gọi như vậy. Này tâm ý ngu si ơi! Tuy từng trải qua năm dục ở đời, các thứ vàng bạc, châu báu, vợ con, nô tỳ, voi, ngựa, xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa, dân chúng, làng xóm, ngay lúc đó đều bị tan hoại theo vô thường, chúng tạm là sở hữu của ta, nhưng rồi cùng sẽ hao mòn tan diệt. Trên đến chư Thiên được hưởng thọ năm dục tự tại nhưng khi chết phước hết, năm tướng suy hiện ra: bồi hồi, sầu khổ ôm lòng luyến tiếc, liền sinh ở trong cõi người, làm người nghèo khổ thấp hèn, bị người sai khiến. Nếu ở ngôi vua thì tàn hại lẫn nhau, vua tôi cha con thì đánh nhau. Dưới đến địa ngục mổ, cắt, thiêu nấu da thịt gân xương để trả lại nghiệp cũ, nuốt hại nhau trong loài súc sinh, bị nghiệp bức bách không được tự tại. Trong loài ngạ quỷ, rảo chạy Đông Tây, chỉ thấy đống lửa và hòn sắt nóng chạy theo sau người đó. Có các thứ khổ không thể tính kể trong năm đường sinh tử như vậy.
Này tâm ý ngu si ơi! Từ xưa đến nay, ngươi mãi mãi theo ta chạy khắp các nơi, luôn luôn theo nhau chưa từng xa lìa. Ngày nay ta muốn chuyên tâm nghe pháp, ngươi đừng làm não loạn và chướng ngại ta nữa. Hãy nên nhàm chán các khổ, mau cầu Niết-bàn, chóng được an lạc.
Khi ấy, Ma-ha Ma-da ở trước Phật nói kệ:
Cúi xin rưới mưa pháp
Thấm nhuần nơi khô cằn
Sinh mầm pháp khắp nơi
Mở mang dần thêm lớn.
Nay con và chúng hội
Thiện căn đều thuần thục
Đối với các đạo quả
Theo trình tự đạt được.
Xin bố thí cam lồ
Diệt trừ nguồn tham giận
Chúng con từ tăm tối
Ràng buộc bởi vô minh.
Mê mờ không trí tuệ
Không biết cầu nơi đạo
Xin chỉ đường giải thoát
Chóng đến thành thường lạc.
Ma-ha Ma-da nói kệ này xong lại ở trước Phật lặp lại kệ khen ngợi:
Thế Tôn giữa đại chúng
Sáng rỡ hơn Tu-di
Con nay xin đảnh lễ
Phật, Pháp cùng chúng Tăng.
Cả bốn chúng bát bộ
Khát ngưỡng và tha thiết
Nhất tâm chiêm ngưỡng Phật
Như mắt trời không chớp.
Mong bậc thầy trang nghiêm
Trang sức hoa diệu pháp.
Khi Ma-ha Ma-da nói kệ khen ngợi xong, bạch Phật:
– Như thật biết các chúng đệ tử của Như Lai: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người và phi nhân, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, Bà-la-môn v.v... đã nói vô số kệ khen ngợi ca tụng cũng không thể lường được công đức vi diệu của Như Lai. Nay con trí tuệ nông cạn, do muốn có chút phần khen ngợi đối với công đức như biển lớn của Phật, nên cúi xin rủ lòng chấp nhận. Bà liền ở trước Phật nói kệ:
Trí rộng cao như núi
Chót vót không cùng tận
Hang khe sâu mênh mông
Suối trong thường chảy đầy.
Các cỏ thuốc trị bệnh
Tốt xanh bên bờ suối
Người nào dùng thuốc này
Được an vui mãi mãi.
Ví như giống cây mía
Tự bên trong chất ngọt
Người trí biết cách ép
Liền được vị ngọt ngon.
Thế Tôn đã giảng pháp
Từ gốc tự thanh tịnh
Nếu người thích tin nhận
Phước báo không cùng tận.
Tất cả các chúng sinh
Nguyện vui không bờ bến
Chỉ có Phật Mâu-ni
Làm cho đều đầy đủ.
Chúng sinh bệnh phiền não
Vô thỉ thường hừng hực
Như Lai đại y vương
Tùy bệnh cho thuốc hay.
Đường sinh tử quanh co
Hiểm nạn đầy tăm tối
Năm anh em Kiều-trần
Đi không biết quay về.
Như Lai đại từ bi
Tự đến Ba-la-nại
Vì họ chuyển pháp luân
Đều chứng được đạo quả.
Tám vạn các Thiên tử
Trên không được pháp nhãn
Nếu không phải đạo sư
Ai xoay chuyển được họ.
Xá-lợi-phất, Mục-liên
Ca-diếp, Ca-chiên-diên
Bốn đại Thanh văn này
Khi xưa chưa xuất gia.
Tài cao trí thông bác
Kiêu mạn khinh thế gian
Cả nước đều tôn kính
Danh đức không so sánh.
Khi nghe thấy cam lồ
Hàng phục thành La-hán
Lần lượt giúp Đại sư
Tùy thuận chuyển pháp luân.
Như cây Ni-câu-loại
Hạt giống rất nhỏ bé
Lớn mạnh theo thời gian
Tàng cây càng vươn xa.
Được Thế Tôn hóa độ
Tinh tấn cũng như vậy
Như Ương-quật-ma-la
Giết nhiều các chúng sinh.
Thế Tôn cũng thương xót
Độ cho vào Phật đạo
Đề-bà-đạt-đa kia
Tạo làm năm tội nghịch.
Sai quỷ nhấc đá lớn
Vì muốn hại Như Lai
Thế Tôn nhìn bình đẳng
Giống như La-hầu-la.
Lại quỷ tử mẫu kia
Thường nuốt con nít người
Phật vì lòng thương xót
Giấu đứa con của quỷ.
Quỷ hoảng hốt vội tìm
Không biết tìm ở đâu?
Trở lại hỏi Thế Tôn
Xin chỉ chỗ con mình.
Như Lai dùng phương tiện
Liền hỏi vặn lại rằng:
– Ngươi nghĩ nhớ đến con
Giong ruổi chạy kiếm tìm.
Sao không có lòng từ
Thường ăn con người khác
Như là tha thứ mình
Chớ giết, chớ bảo đánh.
Nếu sửa được tâm này
Có thể gặp được con
Quỷ nghe lời này rồi
Xấu hổ vui đảnh lễ.
Và cũng vì con mình
Chắp tay bạch Phật rằng:
– Từ nay đến hết đời
Từ bỏ tâm tham hại.
Liền thọ giữ năm giới
Cho đến được đạo quả
Như quỷ tử mẫu kia
Tự thương con của mình.
Rộng đến con người khác
Rốt ráo lìa giết hại
Cúi xin đại từ tôn
Người nay cũng như vậy.
Vì thương mẹ đã sinh
Và cũng khắp tất cả
Xin mau khai chánh pháp
Cho chúng đều nghe nhận.
Khi Ma-ha Ma-da nói kệ xong rồi bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh ở trong năm đường đều do phiền não, lỗi lầm gây nên, nên bị trói buộc không được tự tại. Con nguyện đời sau được thành Chánh Giác, sẽ đoạn trừ tất cả nguồn gốc của lỗi lầm này. Cầu mong Đại sư thương nhớ đến sự buồn rầu khổ não, sinh già bệnh chết của thế gian. Lửa vô thường đêm ngày hừng hực thiêu đốt thế gian không có lúc nào ngừng nghỉ. Nên bảo họ về chỗ của Ngài, nghe chỉ rõ lỗi lầm căn bản của sinh tử, bằng lời nói: Tại sao các ngươi ngủ dài trên giường xe lửa ba cõi, luôn bị quỷ vô thường theo rình tìm chỗ sơ hở, các dao gió bệnh muốn giết mạng người.
Ví như giặc cướp thấy kho giấu châu báu liền đem đồ binh khí đến đánh chiếm, cũng vậy đến trăm ngàn kiếp chịu đủ loại cực hình khác nhau, phải tu hành mười điều thiện mới được làm thân người. Tuy được thân người cũng khó sống lâu, lại thêm giặc ác vô thường luôn chèn ép, cần phải phòng hộ, vậy mà còn phóng dật. Như người ngu si dựa vào sự nhiều ít của ngày, tháng, năm mà cho đó là thời hạn nhất định, không nghĩ rằng mạng sống trôi qua theo từng niệm nghĩ. Đến khi chết tùy theo nghiệp mà sinh, người thân trong nhà thương khóc theo như vậy không ngừng.
Người ở thế gian giống như ánh sáng điện, lại ở trong ấy mà sinh ra kiêu mạn. Hoặc có người nói: “Ta là quốc vương, thế lực tự tại, thống lãnh thiên hạ”. Hoặc nói: “Ta là đại thần chăm lo việc nước, thẳng hay cong đều do quyền của mình”. Hoặc có người nói: “Ta là trưởng giả giàu có, nhiều của cải quý báu, mọi sự mong muốn đều được tùy ý”. Hoặc có người nói: “Ta là dòng tộc Bà-la-môn cao quý, thông minh, học rộng thông suốt, kế thừa tổ tiên, là bậc thầy của dòng Sát-lợi”.
Bạch Thế Tôn! Khi những người này còn ở đời có các sự vui vẻ, tự tại như ý, không suy nghĩ ưu buồn. Khi sự chết đến mới hối hận thì làm sao trở lại được! Khi còn trẻ thì gần gũi người thân cận kề, vui đùa buông thả, không tạo một chút việc lành nhỏ nào cả. Khi vô thường bỗng đến phân tán theo năm đường, ngàn vạn ức kiếp khó được lại như vậy. Việc sống, chết không thật, như thành Cànthát-bà, cho đến Phật-bích-chi, đã hết các kiết lậu, đủ đại thần thông, tự tại vô úy. Trên thân phun ra nước, dưới thân tuôn ra lửa, hoặc trên thân tuôn ra lửa, dưới thân phun ra nước, bay vọt lên hư không đi đứng nằm ngồi, đến đi nhanh chóng không bị vách đá làm chướng ngại và dung mạo đẹp đẽ đầy đủ các tướng, có thể làm việc phước điền lớn cho chúng sinh, như vậy còn chưa tránh được tai họa của vô thường, như đem nước nhiều dập tắt lửa nhỏ. Người ở thế gian phạm pháp của vua, tội đáng chết đang bị nhốt trong nhà tù còn có thể van xin cứu giúp cho được thoát ra, nhưng pháp của vô thường không thể xin thoát được. Năng lực của bậc Hiền Thánh còn không tránh khỏi, huống gì là phàm phu mà không sợ hãi lo buồn. Có các tiên nhân ngũ thông tên Đãi-ba-da-na-uất-đà-la-xí, Tỳthất-ba-mật-đa-la, A-la-la, Ba-la-xá-la, Ứng-kỳ-laxá, A-tư-đà, Ba-tát, các tiên nhân này có nhiều danh tiếng, đầy đủ oai lực có thể dùng chú thuật để nâng đỡ hay phá hoại quốc ấp. Những sự việc ấy bây giờ ở đâu? Vì lửa vô thường thiêu đốt chúng sinh nhưng trở lại tự thiêu đốt mình cùng bị tiêu diệt. Ngay cả Đại Phạm thiên vương, Thích-đềhoàn-nhân, Ma-hê-thủ-la, Lục dục quỷ vương, Tỳnữu thiên, Diêm-la vương v.v... La-bà-nại thần, La-bà-nê thần, Tỳ-sa-nê thần, Ca-lâu-nê thần, Balâu-nê thần có năng lực lớn còn bị vô thường nắm bắt. Đảnh sinh Thánh vương, Na-la-diên lực sĩ vương, Chi-da-đa-la-đế vương, Mã-điểu vương, Tỳ-ni-la-sí vương, các vua này thống lãnh các nước, dung mạo đẹp đẽ, thông minh hơn đời, thân lực khỏe mạnh không ai địch nổi, còn bị vô thường đập tan không biết về đâu!
Bà-ca-la Long vương, Tu-đà-lợi-xá-na quỷ vương, Tỳ-ma-chất-đa-la A-tu-la vương, Xá-chimê-na thiên hậu, A-già-lam-ba thiên hậu, Uất-bathi thiên hậu, Chỉ-xá-la-kê-thi thiên hậu, A-kiệt-la thiên hậu, A-lưu-ba-để thiên hậu, Mạo-để thiên hậu, Mạo-để-lê-sa thiên hậu. Các vị vua này đầy đủ oai lực lớn, cùng chúng thiên hậu dung nhan tuyệt đẹp. Nếu có người nhìn thấy họ liền mất chánh niệm, ý tà tán loạn như bị phi nhân dựa vào. Giả như có thầy thuốc giỏi, chữa trị đủ loại thuốc cũng không trở lại chánh niệm như trước, các vị này cũng quay về với vô thường. Giống như thợ săn vây bắt các loài thú, pháp của vô thường cũng như vậy, đuổi bắt chúng sinh đến chỗ của vua Diêm-la, tùy theo nghiệp sai khiến mà lần lượt bị voi xéo giày, bầy hổ vô thường rình bắt chúng sinh, nếu bắt được liền cùng giết ăn.
Như Chiên-đà-la lúc muốn giết dê thì treo ngược hai chân lên không cho chạy nhảy. Vô thường Chiên-đà-la cũng như vậy, bắt các chúng sinh không cho cử động, pháp của vô thường như A-đồ-ca-la-xà. Hoặc khi thấy người hai đầu dính vào nhau, pháp của vô thường như khi có gió chướng tập hợp liền bị điên đảo. Pháp của vô thường cũng như đêm đen dần hết lại càng ngu tối. Khi Ma-ha Ma-da diễn thuyết xong, nói bài kệ:
Ví như Chiên-đà-la
Lùa bò đến chỗ giết
Mỗi bước gần chỗ chết
Mạng người thật quá nhanh.
Lúc đó Ma-ha Ma-da tụng kệ xong rồi, ở trước Phật nói với chúng hội:
– Các anh chị em trong giáo pháp, các vị nên siêng tu giới hạnh. Nay hạnh phúc được gặp Vô Thượng Đạo Sư cầm đuốc soi đường và cấp y áo lương thực đầy đủ cho các người tu hành. Nếu muốn đi đến chỗ thành An lạc, nên mau thưa hỏi để chỉ cho đường chánh. Nếu gặp người hướng dẫn giỏi như vậy mà không quy y, không tùy thuận, phải biết người này rất là cứng cỏi, ắt có thể tạo tội nặng ngũ nghịch. Biển khổ sinh tử rất đáng kinh sợ, trong một kiếp trải qua rất nhiều thân, da ấy tích chứa như núi Tu-di và nằm trong bào thai dơ bẩn, ra vào, đến đi không thể tính kể. Đồng thời trong lúc bú mớm, nước tiểu, phân dãi, đàm mũi cho đến các khổ già chết khó lường, huống lại là đã rõ ba đường là độc. Cho nên nay tôi rộng khuyên các vị, trong ngày đêm chuyên cần nghĩ nhớ đến sự giải thoát.
Lúc ấy, Ma-ha Ma-da từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, quỳ gối chắp tay bạch:
– Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh bị trầm luân trong đường sống chết mà không thể ra khỏi.
Thế Tôn đáp lời Ma-ha Ma-da:
Sở dĩ chúng sinh không được giải thoát đều do ngu si tham dục, sân giận, nên thường vào trong sinh tử. Cho đến muốn cầu sinh cõi trời cũng khó, huống chi là mong xa lìa sự sống chết sao? Ở đời cũng mất đi tiếng tốt, bạn bè thân thuộc đều làm ngơ. Như thấy đất cỏ không hề nhớ nghĩ. Khi sắp chết rất là sợ hãi, thần thức hoảng hốt mới biết tự hối trách. Tai họa đều là do ba độc. Nếu người muốn cầu diệu quả giải thoát thì nên dứt bỏ gốc khổ. Hàng phàm phu ngu si kia bị trói buộc, giống như ngựa dữ bị cột dây cương không thể lay động, nghĩa là đối với sự tập khởi của sắc, sự đoạn diệt của sắc, sự đắm trước của sắc không như thật biết. Thọ tưởng hành thức không như thật biết. Không giải thoát được sinh già bệnh chết, buồn thương khổ não. Nếu có người như thật biết rốt ráo, có thể đối với sắc mà giải thoát được, thì đối với thọ tưởng hành thức cũng biết như thật rốt ráo, đồng thời giải thoát được khỏi buồn thương khổ não sinh già bệnh chết. Đây gọi là dứt gốc khổ. Dứt gốc khổ rồi tức xa lìa vọng tưởng. Đã lìa vọng tưởng thì không còn vướng mắc, lại không đắm nhiễm sắc thanh hương vị xúc pháp. Xa lìa ngã, chấp trước ngã, và ngã sở.
Các ông từ nay có thể dùng pháp này cùng nhau khai thị để được lợi ích lớn. Các ông hãy lắng nghe ta nói:
– Ta ở đời quá khứ vô số kiếp đến nay, rộng vì các chúng sinh tu khổ hạnh, thành tựu được đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, thương các chúng sinh như con đỏ, những người nào có duyên hóa độ đều đã độ xong. Pháp của chư Phật ba đời đều làm cho vượt qua hoàn toàn, không có bị trở lại trong thế gian. Ta ra khỏi đây thì không còn dấu vết, không làm chủ lại cõi Diêm-phù-đề này, lại cũng không làm chủ Cù-da-ni, cũng không làm chư Phật Bồđề, cũng không làm chủ Phất-đơn-việt, không làm Chuyển luân Thánh vương, không làm Thích-đềhoàn-nhân, không làm vua trời Đại Phạm. Ba cõi như vậy ta đều đã lìa bỏ.
Đã lâu ta trụ trong pháp vương tự tại, không dùng đao binh, gông cùm xiềng xích để khống chế chúng sinh, mà chỉ lấy chánh pháp bố thí cho chúng sinh, làm cho tất cả đều được giải thoát. Hội họp ắt có chia ly, các hành là như vậy. Núi báu Tudi đến hết kiếp thì tiêu diệt, nước của bốn biển có khô cạn. Cũng vậy Như Lai ra đời để độ chúng sinh, nhân duyên đã hết không ở lại nữa. Vô thường quá ác giống như cá sấu táp trúng người đến chết cũng không thả ra.
Lúc ấy, trong chúng hội nghe lời nói này rồi, kêu khóc ảo não, đồng thanh nói kệ:
Mặt trời Phật ra đời
Ánh sáng chiếu rực rỡ
Ngày nay muốn lặn xuống
Vào trong núi vô thường.
Đạo sư Thiên Trung Thiên
Bậc Thượng sĩ tối thượng
Tại sao lại đang bị
Giặc các hành xâm phạm.
Các chúng sinh phước mỏng
Luôn luôn bị tối tăm.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở cõi trời Đao-lợi thuyết pháp độ cho tám bộ, bốn chúng hết ba tháng rồi muốn trở xuống cõi Diêm-phù-đề, liền bảo con của đại thần trong thành Vương-xá tên Cưu-ma-la, thông minh trí tuệ biện tài:
– Nay ông có thể xuống cõi Diêm-phù-đề nói với khắp các nước cho họ biết: Không lâu Như Lai sẽ nhập Niết-bàn và đem bài kệ này tuyên bố ra.
Rồi Thế Tôn nói bài kệ:
Nay thế gian tối tăm
Mất đi mắt trí tuệ
Ba căn độc chuyển sâu
Không có bậc Y vương.
Lại sắp đến nơi kia
Thành Niết-bàn xa xăm
Nay ở trời Đao-lợi
Thuyết pháp độ chúng sinh.
Các người nên mau thỉnh
Trở xuống Diêm-phù-đề.
Bấy giờ, Cưu-ma-la lãnh thọ lời Phật xuống cõi Diêm-phù-đề, truyền nói cho khắp tất cả các nước, và nói bài kệ Như Lai đã dạy.
Lúc ấy, các chúng sinh nghe nói kệ rồi, vô cùng sầu não, tất cả đều đảnh lễ dưới chân vị ấy mà thưa: – Chúng con sắp phải mất đấng Từ Âm. Lửa độc của thế gian càng cháy hừng hực, hết thảy đều không biết chỗ của Đạo sư. Nay Như Lai mới lên cõi trời Đao-lợi, lại không lâu sẽ vào Niết-bàn. Sao khổ lắm vậy! Con mắt của thế gian sắp tắt. Thân Phật tuyệt vời, chúng con tội lỗi không thể lên cõi trời cung kính thỉnh cầu. Cúi xin Ngài thương xót chúng con, trở về lại cõi trời bạch lên Phật: Tất cả chúng sinh trong cõi Diêm-phù-đề đều trông mong đảnh lễ dưới chân Thế Tôn. Từ lâu trái lời Phật dạy, ngưỡng mong thương xót. Chúng con tìm cầu khắp bốn phương không biết nơi nào, mới nghe Ngài ở cõi trời Đao-lợi, làm lợi ích rộng lớn cho các chúng sinh, lại nghe không lâu sẽ nhập Niếtbàn, thế gian sẽ mất đi mắt trí tuệ, cúi xin nghĩ nhớ thương xót chúng sinh cõi Diêm-phù-đề này.
Câu-ma-la nghe nói rồi liền trở về cõi trời, đến trước Đức Phật, thuật lại đầy đủ những lời người ở cõi Diêm-phù-đề đã nói.
Đức Thế Tôn nghe những lời ấy xong, bèn phóng ra ánh hào quang năm màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng. Ánh sáng ấy soi khắp trong cõi Diêmphù-đề.
Lúc ấy, mọi người nam nữ lớn nhỏ thấy ánh sáng này đều sợ và mừng khen việc chưa từng có và cùng nhau nói: Hôm nay sao bỗng nhiên có tướng khác lạ này?
Không phải là ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, lại cũng không giống thần lực chú thuật của tiên nhân ngũ thông và Bà-la-môn có thể làm được.
Lại có người nói: Nay ta xem xét ánh sáng này chắc chắn không phải là sức các thần khác làm. Ắt là bậc Y vương đại bi vô thượng thương xót thế gian, nên phóng ra ánh sáng đẹp này. Chúng ta có thể được cứu hộ an vui.
Khi đó, Thiên Đế thích biết Phật sắp giáng trần liền sai quỷ thần làm ba con đường bằng bậc thang báu, bậc giữa dùng vàng Diêm-phù-đàn, bậc bên phải dùng thuần bằng lưu ly, bậc bên trái dùng tòa mã não. Lan can chạm khắc rất xinh đẹp tráng lệ.
Bấy giờ, Thế Tôn nói với Ma-ha Ma-da:
– Pháp của sinh tử nếu có hội họp ắt có xa lìa. Nay Như Lai phải trở xuống lại cõi Diêm-phù-đề, không lâu sau cũng sẽ nhập Niết-bàn.
Ma-ha Ma-da nghe lời này rồi, rơi lệ nói kệ:
Thế Tôn ở nhiều kiếp
Vì thương xót tất cả
Bỏ đầu mắt thân não
Nay được thành Chánh giác.
Các chúng sinh ba cõi
Mê mãi biển si ái
Mới bố thí thuyền pháp
Vì sao mà lìa bỏ.
Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:
Chư Phật hiện ở đời
Đều do có nhân duyên
Duyên hết thì nhập diệt
Ba đời Phật như vậy.
Khi Đức Thế Tôn nói kệ xong, vì muốn báo ơn sinh thành, đều thương xót tất cả chúng sinh, bèn ở trước Ma-ha Ma-da nói bài chú:
Nam mô Phật đà. Nam mô Đạt ma. Nam mô Tăng già. Nam mô Tát đa tha tam miệu tam Phật đà Thanh văn Tăng già. Nam mô di đế lợi ba la mục khư na. Nam mô Tu đà hoàn. Nam mô Tư đà hàm. Nam mô A na hàm. Nam mô A la hán đa.
Nam mô hư ca tam miệu ca đà na, tam miệu ba la để bán na nại. Đê sa na ma kỷ lật đa bà xoa sàng ma ha do lợi bính đổ la đổ ba ma tỷ đổ, tam tỷ đổ tụng thâu lâu suất mê di chỉ chí bà la đế tỷ giá lợi giá la giá trạch đề bà na già, da xoa, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, dạ xoa, la sát, tỳ xa giá tất kiến đà. Ẩu ma tất một la ca thâu lâu nỗ suất mê phù đà ca na. Di chỉ chí bà la đế tỷ giá la giá la giá la kiếp ba a hà la lâu đề lê đa a ha trạch mạn sai a ha la mê đa a ha la tát bà, a ha la a, đột giá a ha la đổ tỷ đa a ha la đốt thác chất đa ba bà chất đa quật tỳ đà chất đa kiền la kiện la na chất đa. Phật đà bà đạt ma bà tăng già bà bà la tiên nại ca thời hà ca bàn trĩ ca bàn trĩ thành khí ni. Diêm ma la lợi diêm ma đầu đế lam bà ba la lam bà ca la ba xá a phú đế a lợi chỉ thành a lợi đế, a lê tẩm già lợi lam bà tỷ lam bà ca la ba thi a lợi đế.
Nay vì Ta báo ân mẹ đã sinh và ủng hộ cho tất cả nên nói chú này. Nếu có thiện nam, thiện nữ chí tâm muốn thọ trì đọc tụng lời của Ma-ha Ma-da phu nhân và bài chú này, trước hết tắm rửa sạch sẽ, mặc y phục mới, dùng hương bột, hương xoa, hương đốt, hương rưới lên đất, rải các hoa đẹp, lọng lụa, cờ phướn. Trỗi các loại âm nhạc cúng dường bảy ngày bảy đêm, cùng giữ tám giới, chấm dứt ngũ tân, mười thứ thịt và các mùi vị bất tịnh, tất cả đều không ăn. Chắp tay quy y Tam bảo, xưng tên Ma-ha Ma-da và đọc bài chú này. Thần lực của chú này có thể trừ được các bệnh của chúng sinh như: bệnh nóng nảy, điên cuồng, sốt rét, quỷ mị tiều tụy, bị bùa chú nguyền rủa, nằm ngủ thấy nhiều mộng ác, bị phù thủng làm cho ngắn hơi, con nít giật mình kêu khóc, quái vật, ma quỷ làm mê muội người. Người trì chú này thường được tất cả sự thương mến lại được nhiều tiếng tốt ở đời. Cũng nên xưng niệm vua trời phương Đông là Đề-đầulại-thác, vua trời phương Nam là Tỳ-lâu-bạt-xoa, vua trời phương Tây là Tỳ-lâu-lặc-ca, vua trời phương Bắc là Tỳ-sa-môn.
Vị thần thứ nhất phụ giúp vua trời phương Đông tên: Ma-ni-bạt-đà-la, thứ hai tên: Phú-nabạt-đà-la, thứ ba tên Kim-tỳ-la, mỗi vị thống lãnh tất cả các quỷ thần.
Vị thần thứ nhất phụ giúp vua trời phương Nam tên Bàn-giá-la-lập-bất-đế-xí-ma-ha-đổ-la-đô-na, mỗi vị thống lãnh năm ức quỷ thần, ủng hộ Chấnđán và Diêm-phù-đề, tất cả các quỷ không làm loạn được.
Vị thần thứ nhất phụ giúp vua trời phương Tây là Bạt-đàn-na và sáu người anh em.
Vị thần thứ nhất phụ giúp vua trời phương Bắc là Ca-tỳ-la-dạ-xoa, Kim-phát đại thần, Mẫu-chỉ đại thần, Tán-chỉ-tu-ma-la thần. Có các đại quỷ thần như vậy thống lãnh bốn châu thiên hạ. Nếu có thể tụng đọc tên Ma-ha Ma-da và có thể diễn nói thần chú này, các thiện thần nghe gọi đến tên ấy, đều đến gần gũi ủng hộ, tất cả các nạn thảy đều tiêu diệt.
Thế Tôn nói về thần chú này rồi, bèn đọc tiếp kệ:
Nếu có chúng sinh ác
Không thuận theo chú này
Giống như các thương nhân
Trôi vào nước La-sát.
Năm trăm các La-sát
Tranh giành ăn nuốt họ
Nếu người lành trì tụng
Câu thần chú như đây.
Giống các thương nhân kia
Biển lớn về an ổn
Được nhiều thứ châu báu
Bảy đời không cùng hết.
Ta ở vô lượng kiếp
Bỏ đầu mắt thân não
Xương thịt và tay chân
Vợ con cùng quốc thành.
Tích chứa hạnh Bồ-tát
Siêng tu Ba-la-mật
Thương xót khắp tất cả
Không phải vì tự thân.
Nay thành được Chánh giác
Cứu giúp khổ chúng sinh
Nói Đà-la-ni này
Ủng hộ cho thế gian.
Đức Thế Tôn nói kệ này xong, từ biệt mẹ bước xuống bậc thềm báu. Đại Phạm Thiên vương cầm lọng theo hầu. Thích-đề-hoàn-nhân và bốn Thiên vương đứng hầu bên tả hữu. Vô lượng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-nala, Ma-hầu-la-già, người và phi nhân, Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cùng các loài quỷ thần khác, thân cận trước sau đầy kín hư không. Trỗi kỹ nhạc trời chúc tụng khen ngợi, đốt nhiều hương thơm, rải các hoa quý theo đường xuống đến cõi Diêm-phù-đề.
Lúc đó, các quốc vương ở cõi Diêm-phù-đề như vua Ba-tư-nặc, vua Ưu-đà-diên, vua Tần-bàsa-la, Vật-đà-già, Phất-ca-la-bà-la và tất cả các đại vương khác, trưởng giả, cư sĩ, Bà-la-môn v.v... mỗi vị chỉnh trang bốn thứ binh: binh voi, binh ngựa, binh xe và binh bộ, có các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng chiếu sáng rỡ như khi đi dạo xem ở cõi trời Đao-lợi Thiên vương. Đồng thời các Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di tập họp tại bậc thềm báu để tiếp rước Đức Phật.
Khi ấy, vua Ba-tư-nặc nước Xá-vệ liền ra lệnh cho các đại thần ở tại tinh xá Kỳ Hoàn, sai làm các thứ thức ăn uống, y phục, ngọa cụ, thuốc thang, đem tất cả của cải làm vật cúng dường.
Bấy giờ, Thế Tôn xuống đến cõi Diêm-phù-đề rồi, các vua, đại thần, trưởng giả, cư sĩ và bốn chúng cung kính lễ bái, khen ngợi ca tụng đi theo Thế Tôn vào tinh xá Kỳ Hoàn.
Lúc đó, tất cả mọi người đã nghe Như Lai từ cõi trời Đao-lợi trở xuống tinh xá Kỳ Hoàn, đều vội vã đi đến làm chật cả con đường đến cửa của tinh xá Kỳ Hoàn, người đi đến rất đông không thể tính kể.
Khi ấy, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa sư tử, tám bộ bốn chúng vây quanh trước sau. Vua Ba-tư-nặc thấy Đức Thế Tôn trên tòa sư tử hân hoan vui mừng không tự kềm chế, ở trước Đức Phật nói kệ:
Chúng con xin quy y
Bậc Vô thượng công đức
Khéo nhổ các gốc khổ
Năng trồng các căn lành.
Từ bi phước chúng sinh
Điều ngự sĩ cao tột
Tướng tốt đẹp trang nghiêm
Thân trượng phu tối thượng.
Đạo sư phước điền tốt
Công đức vượt Phạm Thích
Nghị luận rộng điều phục
Được thần lực tự tại.
Con đem đầu đảnh lễ
Thiên Nhân Sư vô thượng.
Vua Ba-tư-nặc nói kệ xong bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Chúng sinh ngày nay chìm đắm trong sinh tử, người ăn uống độc dược tuyệt không chữa trị được, cúi xin Đại tiên rộng rưới cam lồ.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các đại chúng:
– Nên biết tất cả nguồn gốc của sinh tử: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu bi khổ não. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu nhập diệt, sáu nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử diệt, lão tử diệt thì ưu bi khổ não diệt. Các ông nên siêng năng tu tập lâu dài, mau xa lìa được biển khổ ba cõi. Các ông nên lắng nghe: Tám khổ thường bị trói buộc trong pháp sinh tử, đều do nghiệp của thân miệng ý tích tập lưu chuyển không ngừng. Nếu có thể dứt trừ gốc rễ tích tập ấy thì diệt được các khổ. Thực hành Bát chánh đạo là đường chân chánh vô vi. Người có khả năng xét kỹ như vậy thì có thể thoát ra khỏi nghiệp của nhiều đời.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói pháp nhiệm mầu cho vua Ba-tư-nặc và đại chúng xong, cùng với chúng Tỳ-kheo vây quanh trước sau lần lượt từ nước Xávệ đi đến các làng xóm, thôn ấp, tùy theo người đáng độ đều độ khắp, rồi đi đến sông Ni-liên-thiền. Đức Thế Tôn đến sông rồi cởi áo xuống tắm gội. Khi ấy có vô lượng trăm ngàn Trời, Rồng, Dạxoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người và phi nhân v.v... thấy Như Lai tắm trong sông, mỗi vị đều đem các loại hương xoa, hương bột đến cúng dường. Lúc ấy, tất cả chúng sinh ở hư không, trên đất, dưới nước bên sông Ni-liên-thiền, thấy thân Như Lai giống như gương sáng, hình dáng diệu kỳ, thảy đều hoan hỷ phát sinh tâm từ, tiêu trừ ba độc, không ăn nuốt lẫn nhau, đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác.
Bấy giờ, A-nan bạch Phật:
– Nay các chúng sinh trong nước, đất liền hư không, thấy thân Phật còn sinh hoan hỷ phát tâm Bồ-đề. Đề-bà-đạt-đa sinh trong cung họ Thích, là bà con của Phật, lại làm Sa-môn, miệng thường đọc tụng kinh điển vi diệu, nhưng đối với Như Lai thường làm việc nghịch tội, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu, dạy vua A-xà-thế giết hại vua cha. Ngày ngày tập hợp những thức ăn ngon lạ, kiêu mạn, cho mình bằng Phật, vì lợi dưỡng nhỏ nên bị lửa thiêu đốt. Giả như chư Phật muốn cứu độ cũng không lợi ích. Giống như con la có thai thì chắc chắn bị chết.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo A-nan:
– Như lời ông nói, Đề-bà-đạt-đa thường có tâm oán hại Ta, tự tạo ra nhân đọa vào địa ngục A-tỳ, tất cả chư Phật không thể cứu thoát. Đối với Đềbà-đạt-đa Ta rất thương xót, nhưng không lâu nữa ông ta bị nghiệp khổ làm hại. Lúc Đề-bà-đạt-đa ở bên cạnh Phật nghe nói vậy rồi, lòng rất giận dữ liền từ bỏ Phật, cùng với số đệ tử khác đi đến nước Ma-kiệt-đà kết thân với vua A-xà-thế. Trên đường đi có các bầy quạ kêu tiếng khó chịu quần vũ quấy loạn, lại gặp trâu ác muốn báng tung họ. Các đệ tử kia thấy vậy rồi nói: “Nay chúng ta thấy các điều này không phải là an lành. Hoặc là chỗ sắp đến không lợi ích”.
Đề-bà-đạt-đa nói: “Các ông ngu si làm sao biết được! Nên theo ta gấp không cần nói nhiều”.
Đến nước Ma-kiệt-đà rồi, Đề-bà bảo người giữ cửa: “Ông vào tâu vua có ta đến đây”.
Người giữ cửa liền vào tâu vua. Vua A-xà-thế nghe Đề-bà-đạt-đa đã đến bên ngoài, lòng rất giận dữ nói: “Ta không muốn nghe tên ông ấy, huống là mắt thấy sao? Giống như mưa đá phá gãy cây cỏ trên đất, chính nó không lâu sẽ tự tiêu tan. Người ác này cũng như vậy, dạy người làm ác, phá hoại hạt giống lành của người, rồi trở lại tự hại hạt giống thiện căn của mình”.
Vua bảo người giữ cửa: “Chớ nghe lời ông ta nói”.
Thấy vua A-xà-thế không cho gặp mặt, Đề-bàđạt-đa rất tức giận, đập đầu nghiến răng mắng chửi.
Lúc đó, có Tỳ-kheo-ni Ưu-ba-la từ cung vua đi ra, thấy Đề-bà-đạt-đa ở ngoài cửa liền mắng: “Ngươi làm cho dòng họ Thích không được hưng thịnh, để lại chướng ngại lớn cho pháp Phật”.
Đề-bà-đạt-đa nghe nói rồi rất giận dữ, liền dùng tay đánh vào đầu làm cho Tỳ-kheo-ni kia chết. Đềbà-đạt-đa làm hại Tỳ-kheo-ni La-hán, nên bị đất nứt ra có nhiều lửa vây bọc nuốt chửng ông ta kéo vào địa ngục.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn tắm xong, hướng về các Tỳ-kheo nói kệ:
Ví như qua đường xấu
Thời gian dài lo sợ
Nếu đến nơi bằng phẳng
An ổn không nạn buồn
Đường sinh tử hiểm trở
Chúng sinh thường kinh sợ
Chỉ có đường Niết-bàn
Hành giả được an ổn
Nay Ta muốn đến đó
Công đức thường nơi lạc.
Đức Thế Tôn nói kệ này xong cùng A-nan đi đến thành Vương-xá, giảng thuyết các pháp cho các Tỳ-kheo. Lần lượt đi đến thôn Ba-liên-phất nói pháp cho dân chúng, trưởng giả, cư sĩ, Phạm chí v.v... Kế đi đến thành Tỳ-da-ly mà giảng nói pháp cho dân chúng Ly-sa và cô gái vườn xoài.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn toàn thân sinh bệnh khắp nơi đều đau nhức, bèn quay lại bảo Tôn giả A-nan:
– Nay thân thể Ta đau nhức, chỉ muốn xả bỏ thân hư mục này. A-nan nên biết, nếu Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni nào chứng đắc bốn thần túc thì có thể sống được một kiếp, hoặc ít hơn một kiếp, huống gì Như Lai đã tự tại trong ý muốn.
Lúc ấy, A-nan bị ma che khuất nên im lặng không đáp. Đức Thế Tôn hỏi đến ba lần cũng đều im lặng. Thế Tôn bèn bảo A-nan:
– Ông nên đến một gốc cây khác chuyên cần tư duy và quán sát các pháp.
Lúc đó, ma Ba-tuần liền đến chỗ Phật, cúi đầu lễ nơi chân Phật bạch:
– Trước đây tôi đã cầu thỉnh Thế Tôn vào Niếtbàn. Khi ấy Thế
Tôn trả lời tôi: Các đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di của ta chưa đầy đủ, nên chưa thể vào Niết-bàn. Nay bốn bộ chúng của Thế Tôn đã đầy đủ, cúi xin bậc Thiện Thệ mau vào Niếtbàn.
Thế Tôn đáp lời cho ma:
– Hay thay Ba-tuần! Nên biết sau ba tháng nữa Như Lai sẽ vào Niết-bàn.
Ma Ba-tuần nghe Phật hứa rồi, hân hoan vui mừng không thể kiềm chế, đảnh lễ nơi chân Phật trở về cõi trời.
Như Lai đã hứa với Thiên ma sau ba tháng sẽ vào Niết-bàn, liền xả bỏ tuổi thọ vô lượng, dùng sức thần thông trụ trong ba tháng. Khi ấy, trong đại địa chấn động đủ sáu cách, mặt trời không có ánh sáng rực rỡ, mưa gió thất thường, tám bộ chúng trời rồng ai cũng run sợ, đứng bên Phật đầy kín cả hư không.
Tôn giả A-nan thấy tướng này rồi lòng kinh hãi, lông tóc dựng đứng, vội đến bên Phật, bạch:
– Vì nguyên nhân gì bỗng nhiên hôm nay có tướng này? Phật bảo A-nan:
– Ma Ba-tuần ác đến cầu thỉnh muốn Ta vào Niết-bàn. Ta đã hứa với họ và đã xả bỏ tuổi thọ.
Do dùng thần lực nên còn trụ trong ba tháng.
A-nan bạch Phật:
– Đức Thế Tôn thường nói: Người chứng đắc bốn thần túc thì có thể sống được một kiếp, hoặc ít hơn một kiếp, hoàn toàn theo ý muốn. Tại sao Như Lai không trụ trong thế gian mà bị thay đổi như các hành?
Như Lai bảo A-nan:
– Vừa rồi Ta đã nói với ông điều này vì ông bị ma che khuất trí nên không biết thưa hỏi. Nay Ta hứa với ma rồi, làm sao sống lâu được!
A-nan phải biết, tất cả các pháp hành đều không thường còn được như vậy. A-nan nghe Phật nói lời này, trong lòng phiền muộn áo não, không thể kềm chế, kêu khóc tự hối trách.
Lúc đó, Đức Thế Tôn cùng A-nan dần dần đi đến khắp các nước, thôn ấp, làng xóm rộng giảng nói các pháp, người được hóa độ không thể tính kể. Dần dần đến nơi các Lực sĩ nước Câu-thi-na-kiệt, giữa rừng Ta-la bên sông Ni-liên, bảo A-nan:
– Ông nên cột võng đầu quay về hướng Bắc, hôm nay thân thể Ta rất đau, vào giữa đêm này sẽ vào Niết-bàn.
A-nan vâng lời bố trí giường dây xong, Đức Phật nằm nghiêng hông về phía bên phải.
Bấy giờ, A-nan thấy Phật nằm rồi, núp ở sau Phật, rơi lệ buồn khóc rất khổ não.
Đức Thế Tôn bèn hỏi các Tỳ-kheo:
– A-nan đang ở chỗ nào? Các Tỳ-kheo đáp:
– A-nan đang ở gần sau Phật rơi lệ buồn khổ. Như Lai bằng Phạm âm đại bi bảo A-nan:
– Ông không nên khóc lóc giống như trẻ nít mới sinh. Vì sao? Ở trong sinh tử thảy đều như vậy chỉ nên siêng suy nghĩ các pháp.
Trước đây ông từng theo bên Ta, nghiệp thân, khẩu, ý rất là thuần thiện, chưa từng thấy ông có chút lỗi nào, nay phải nên siêng cầu giải thoát, chớ ôm buồn bực, hãy kềm chế lòng đau thương chớ nên sầu não.
Lúc ấy, A-nan bạch Phật:
– Sau khi Như Lai nhập Niết-bàn, nên hỏa táng bằng cách nào? Phật bảo A-nan:
– Cách hỏa táng nên làm như của Chuyển luân Thánh vương. Lấy ngàn tấm lụa sạch mới dài quấn thân Phật. Đem dầu thơm đặt vào trong hòm bằng vàng, đem hòm bằng vàng đặt vào trong hòm bằng bạc, đem hòm bằng bạc đặt trong hòm bằng đồng, đem hòm bằng đồng đặt trong hòm bằng thiếc. Tập trung các loại củi thơm để hỏa táng, gom lấy xá-lợi lập tháp miếu thờ, bày các thứ lọng lụa, cờ phướn cúng dường.
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo A-nan:
– Ông nên vào thành bảo các Lực sĩ, đêm nay Ta sẽ vào Niết-bàn, nếu họ muốn đến nên tự biết lúc.
A-nan vâng lời liền đi vào thành, đến ngã tư đường, lớn tiếng xướng:
– Như Lai Ứng Cúng Đại Sư của ba cõi đang ở giữa cây Song thọ gần nơi đây, sẽ vào Niết-bàn vào lúc nửa đêm. Nếu các người muốn lễ bái cúng dường, đồng thời muốn thưa hỏi chắc chắn phải biết đến đúng lúc.
Các Lực sĩ nghe nói vậy rồi, đều rất buồn khổ hỏi A-nan:
– Đức Thế Tôn sao diệt độ nhanh quá! Từ nay chúng ta không biết nương tựa vào đâu! Rồi họ khóc lóc trên đường đi đến chỗ Đức Phật.
Lúc đó, nơi rừng Ta-la Song thọ bên sông Niliên, chu vi rộng đến bốn trăm năm mươi dặm, trời rồng bát bộ đầy kín cả hư không, không hở chỗ nào, thảy đều mến mộ, buồn khóc khổ não. Tất cả đều nói:
– Thế gian đã mất đi đấng cha lành.
Mỗi người đều tự nói: Từ nay chúng ta sẽ chìm đắm trong sinh tử, ai là người cứu giúp?
Khi ấy, trong thành có một Phạm chí một trăm hai mươi tuổi tên Tu-bạt-đà-la, nghe Phật nửa đêm sẽ vào Niết-bàn giữa rừng Ta-la, ông liền đến chỗ Phật thưa A-nan:
– Con nghe Như Lai Nhất Thiết Trí sẽ vào Niếtbàn lúc nửa đêm, nên muốn giải quyết chút nghi, cúi xin cho phép con được gặp.
A-nan trong lòng nghĩ: Ông Phạm chí này chất chứa dị kiến đã lâu, nay ắt muốn cùng Phật bàn luận, Đức Thế Tôn đang bệnh không nên quấy rối, bèn lặng im không cho phép. Xin đến ba lần cũng không cho.
Bấy giờ, bằng thiên nhĩ nghe từ xa Đức Thế Tôn bảo A-nan:
– Ông nên cho ông Phạm chí già vào, đây chính là đệ tử cuối cùng của Ta.
Tu-bạt-đà-la thấy Phật rồi hân hoan vui mừng, đầu mặt làm lễ.
Khi ấy, Đức Thế Tôn tùy căn cơ mà nói pháp Bát chánh đạo, ông ấy liền ngay chỗ ngồi chứng được quả A-la-hán. Ông bạch Phật:
– Con đã qua khỏi được biển khổ sinh tử, không thể chịu được khi thấy Đại sư Niết-bàn. Nay con xin diệt độ trước, liền ở trước Phật vào Niết-bàn.
Lúc đó, Đức Thế Tôn vì tất cả tám bộ chúng nói pháp nhiệm mầu tới nửa đêm. Giờ Niết-bàn đã đến, Đức Thế Tôn nói bài kệ:
Ta với các chúng sinh
Nay hết duyên hóa độ
Đêm lặng khí hòa hoạt
Giờ Niết-bàn đã đến.
Đức Thế Tôn nói kệ xong liền vào sơ thiền, sơ thiền xong lại vào nhị thiền, nhị thiền xong lại vào tam thiền, tam thiền xong lại vào tứ thiền, tứ thiền xong lại vào không xứ, vào không xứ rồi đến vào thức xứ, vào thức xứ rồi đến vào vô sở hữu xứ, vào vô sở hữu xứ rồi vào phi tưởng phi phi tưởng xứ, vào phi tưởng phi phi tưởng xứ rồi vào diệt tận định.
Khi ấy, trong hội đại chúng thấy các căn của Như Lai không động, bèn hỏi Tôn giả A-na-luật:
– Đức Thế Tôn nay đã vào Niết-bàn chưa? Ana-luật bảo mọi người:
– Thế Tôn đang vào định diệt tận.
Bấy giờ, Như Lai ra khỏi diệt tận định vào phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ra khỏi phi tưởng phi phi tưởng xứ vào lại vô sở hữu xứ. Ra khỏi vô sở hữu xứ vào lại thức xứ. Ra khỏi thức xứ vào lại không xứ. Ra khỏi không xứ vào lại tứ thiền. Ra khỏi tứ thiền vào lại tam thiền. Ra khỏi tam thiền vào lại nhị thiền. Ra khỏi nhị thiền vào lại sơ thiền. Ở sơ thiền vào nhị thiền, ra nhị thiền vào tam thiền, ra tam thiền vào tứ thiền, ra tứ thiền vào không xứ, ra không xứ vào thức xứ, ra thức xứ vào vô sở hữu xứ, ra vô sở hữu xứ vào phi tưởng phi phi tưởng xứ, ra phi tưởng phi phi tưởng xứ vào diệt tận định. Chính ở nơi ấy Ngài vào Niết-bàn. Đúng lúc này đại địa chấn động, trời rồng bát bộ buồn khóc rối loạn. Khi ấy, trời Đế thích và Phạm thiên nói kệ:
Sống chết không chân thật
Lừa gạt các chúng sinh
Mâu Ni Tôn ngày nay
Bỏ nó như đờm dãi.
Lúc đó, các chúng sinh cùng nói:
– Như Lai diệt độ sao nhanh quá! Trong lao ngục ba cõi ai sẽ được giải thoát.
Hoặc có người lăn lóc trên đất, hoặc có người bứt đứt chuỗi anh lạc, quần áo, hoặc đấm ngực, bứt tóc, kêu lớn. A-nan vội vào thành bảo các Lực sĩ:
– Tối qua Như Lai đã vào Niết-bàn, các ông phải nên hỏa táng cúng dường.
Các Lực sĩ nghe nói rồi rất đau khổ, đều cùng đến rừng Ta-la, thấy Đức Thế Tôn đã vào Niết-bàn họ rất đau xót không vui, không thể kềm chế. Liền hỏi A-nan:
– Chúng tôi không biết cách hỏa táng thân Như Lai thế nào? A-nan đáp:
– Đêm qua tôi đã thưa hỏi Phật. Đức Thế Tôn dạy cách hỏa táng như Chuyển luân Thánh vương. A-nan đều lần lượt nói lại đầy đủ. Các Lực sĩ nghe xong liền làm đầy đủ trang nghiêm cúng dường, mọi việc đều theo như A-nan đã nói, cách làm quan tài như của Chuyển luân Thánh vương.
Bấy giờ, Ma-da ở cõi trời thấy năm tướng suy:
Một là hoa trên đầu tự nhiên héo. Hai là dưới nách ra mồ hôi.
Ba là ánh sáng trên đỉnh đầu mất. Bốn là hai mắt nháy liên tục.
Năm là không thích chỗ ngồi.
Trong đêm ấy lại thấy năm mộng ác lớn:
Mộng thứ nhất: Núi Tu-di sụp lở, nước trong bốn biển khô cạn.
Mộng thứ hai: Thấy các La-sát tay cầm dao bén móc mắt tất cả chúng sinh. Lúc ấy, có gió bão nổi lên, các La-sát đều chạy trở về núi Tuyết.
Mộng thứ ba: Các trời nơi cõi Dục, cõi Sắc bỗng nhiên mất mũ báu. Chuỗi anh lạc tự đứt, ngồi trên tòa không yên. Thân không có ánh sáng giống như đốm đen.
Mộng thứ tư: Thấy ngọc châu Như ý treo trên ngọn cờ cao thường mưa châu báu chu cấp cho tất cả. Có bốn rồng độc trong miệng phun ra lửa thổi đến chỗ ngọn cờ và định ngậm lấy ngọc châu Như ý, bị gió dữ thổi xuống vực sâu.
Mộng thứ năm: Có năm con sư tử từ trên không xuống ngậm vú của Ma-ha Ma-da rồi chui vào trong nách trái, thân tâm đau đớn như bị dao cắt.
Khi Ma-ha Ma-da thấy mộng này rồi rất kinh sợ thức giấc nói:
– Vừa rồi ta nằm mộng bỗng nhiên thấy việc không an lành, làm cho thân tâm ta rất buồn khổ. Xưa ở trong cung vua Bạch Tịnh, nhân trong giấc ngủ ban ngày thấy được mộng hiếm có, thấy một Thiên tử thân màu hoàng kim cỡi voi chúa màu trắng, có các Thiên tử vây quanh trỗi các âm nhạc vi diệu sáng rỡ như mặt trời đi vào bên hông phải của ta, thân tâm được an vui không chút buồn khổ, liền mang thai Thái tử Tất-đạt, rạng rỡ tổ tiên, soi sáng cho đời. Nay năm điềm mộng này rất là kinh sợ, ắt là tướng ác. Thích Ca Như Lai con ta vào Niết-bàn. Bèn hướng về các Thiên tử nói rõ các việc đã thấy trong mộng.
Bấy giờ, Tôn giả A-na-luật sau khi thấy thân Như Lai đã đặt vào trong quan tài, liền bay lên cõi trời Đao-lợi đến chỗ Ma-ha Ma-da mà nói:
Đại sư cao tột Thiên Trung Thiên
Người dẫn đường tất cả thế gian
Trong biển vô thường ngài đã bị
Cá lớn Ma kiệt nuốt hẳn rồi.
Ở tại nước Câu thi-na-kiệt
Trong rừng Ta-la giữa Song thọ
Không lâu sẽ ra cửa thành Đông
Cúng dường các thứ để hỏa táng.
Tám chúng trời người đều đầy chật
Khóc kêu chấn động suốt tam thiên.
A-na-luật nói kệ xong, liền trở về bên quan tài của Như Lai. Ma-ha Ma-da nghe A-na-luật nói kệ này rồi phiền muộn ngã xuống đất. Các thiên nữ dùng nước vẩy vào mặt, hồi lâu bà mới tỉnh lại, bứt đầu tóc, các thứ trang sức, rơi lệ buồn khóc nói:
– Đêm qua ta thấy năm điềm ác mộng, biết chắc chắn Như Lai sẽ nhập Niết-bàn. Nay quả nhiên Ana-luật đến bảo: Phật đã diệt độ giữa rừng Song thọ, không lâu sẽ hỏa táng. Sao mà khổ vậy! Con mắt của thế gian đã mất sao nhanh quá! Trời người đã hết phước. Khi xưa trong cung vua Bạch Tịnh, mới sinh Ngài bảy ngày thì ta chết. Tình mẹ con chưa được ẵm bồng nuôi dưỡng, giao phó lại cho dì là Ma-ha Ba-xa-ba-đề nuôi dưỡng cho bú mớm đến trưởng thành. Đến năm mười chín tuổi, nửa đêm vượt thành xuất gia, cả cung điện trong ngoài đều buồn thảm. Đã thành đạo rồi mở mắt trí tuệ cho thế gian, che chở ủng hộ cho tất cả giống như cha lành. Vì sao trong một sớm sẽ nhập Niết-bàn. Quỷ ác độc vô thường rất hung bạo, có thể hại người con chánh giác của ta, liền ở trong chúng nói kệ:
Ở vô lượng kiếp qua
Thường cùng là mẹ con
Ngài đã thành Chánh giác
Duyên này mới dứt lìa.
Nhưng lại trong ngày nay
Đã vào trong Niết-bàn
Giống như cây cao lớn
Các chim cùng nương đậu.
Sáng sớm mỗi phân tán
Đến chiều tụ họp về
Làm mẹ con cùng Ngài
Chung nơi cây sinh tử.
Đã thành được quả Phật
Nguồn gốc lớn tuyệt này
Rồi lại vào diệt độ
Không thể còn gặp nữa.
Khi Ma-ha Ma-da nói kệ rồi, khóc lóc ảo não không tự kềm chế, cùng vô lượng các thiên nữ quyến thuộc vây quanh, trỗi các âm nhạc vi diệu, rải hoa đốt hương ca tụng khen ngợi, từ trên không xuống đến rừng Song thọ, đến rừng Ta-la rồi, trông thấy kim quan của Phật lòng rất phiền muộn không tự kềm chế nên ngất xỉu. Các Thiên nữ dùng nước rảy vào mặt sau đó bà mới tỉnh lại, đến trước kim quan cúi đầu làm lễ, buồn não rơi lệ nói:
– Ở vô lượng kiếp qua, cùng làm mẹ con lâu dài chưa từng lìa bỏ, nay không hẹn ngày gặp lại. Than ôi, khổ quá! Chúng sinh hết phước sẽ bị mê mờ, ai là người dẫn đường.
Liền dùng hoa trời Mạn-đà-la, Ma-ha Mạn-đàla, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa rải trên kim quan và nói bài kệ:
Nay đây giữa Song thọ
Trời rồng tám bộ chúng
Nghe tiếng ai kêu khóc
Không biết nói thế nào.
Như anh vũ kêu loạn
Không hiểu được tiếng gì
Đầy chật ở nơi đây
Giống như chim gãy cánh.
Không thể bay lên được
Rừng Như Lai Niết-bàn
Kiếp rộng nhiều ân ái
Như chim Giá-ca-la.
Hôm nay gió vô thường
Thổi tan các nơi khác
Các khổ của chúng sinh
Hy vọng pháp cam lồ.
Giống chim Ca-lan-đề
Mong mỏi đợi trời mưa
Cớ sao hôm nay bèn
Mau chóng vào Niết-bàn.
Thân trong nhiều kim quan
Biết tôi đến đây chăng?
Ma-ha Ma-da nói kệ này xong, ngoái nhìn y Tăng-già-lê, Bát-đa-la và tích trượng của Như Lai. Tay phải cầm các vật, tay trái vỗ vào đầu, gieo mình xuống đất như núi Thái Sơn đổ, thương khóc phiền muộn nói:
– Trước đây con ta cầm, mặc các vật này, ban phước đức rộng cho thế gian, lợi ích cho hàng trời, người. Nay các vật này không còn chủ. Than ôi! Đau khổ không thể nói được.
Khi ấy, tám bộ bốn chúng thấy Ma-ha Ma-da buồn khổ như vậy lại càng thương cảm lệ tuôn như mưa. Đế thích dùng năng lực biến nước ấy thành dòng sông.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng đại thần lực, làm cho các kim quan mở ra, từ trong kim quan đứng dậy chắp tay như sư tử chúa mới ra khỏi hang, hình dáng rung động rất nhanh. Các lỗ chân lông trong thân phóng ra ngàn ánh sáng, mỗi mỗi ánh sáng có ngàn hóa Phật, đều chắp tay hướng về Ma-ha Mada, dùng tiếng Phạm âm nhu hòa thăm hỏi mẹ:
– Mẹ từ nơi xa xuống cõi Diêm-phù-đề này, các hành là pháp như vậy chớ có khóc lóc, rồi vì mẹ nói kệ:
Trong tất cả phước điền
Phước điền Phật là cao
Trong tất cả người nữ
Ngọc nữ báu là cao.
Nay mẹ đã sinh Ta
Vượt hơn không chỗ bì
Ba đời có thể sinh
Phật, Pháp, Tăng là báu.
Ta từ kim quan ra
Chắp tay hoan hỷ khen
Để báo ơn đã sinh
Ta tỏ tình hiếu mến.
Chư Phật tuy diệt độ
Pháp, Tăng bảo thường còn
Xin mẹ chớ ưu sầu
Xét rõ hành vô thường.
Đức Thế Tôn nói kệ xong, Ma-ha Ma-da an ủi được đôi chút, dung mạo dần như hoa sen nở. Lúc
A-nan thấy Phật đứng dậy, lại nghe nói kệ liền tuôn lệ nhưng tự đè nén, nấc trong cổ họng, chắp tay bạch Phật:
– Chúng sinh đời sau ắt sẽ hỏi con, lúc Đức Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn đã nói gì và trả lời thế nào? Phật bảo A-nan:
– Ông nên đáp rằng, sau khi Đức Thế Tôn vào Niết-bàn, Ma-ha Ma-da từ cõi trời xuống đến nơi kim quan. Khi ấy, Đức Thế Tôn vì các chúng sinh bất hiếu đời sau nên từ kim quan đứng dậy, dung mạo như sư tử chúa chắp tay thăm hỏi mẹ. Trong mỗi lỗ chân lông phóng ra ngàn ánh sáng, mỗi mỗi ánh sáng có ngàn hóa Phật đều chắp tay hướng về Ma-ha Ma-da và nói lại bài kệ như trên.
A-nan lại thưa:
– Kinh này tên gọi là gì? Nên phụng trì thế nào? Phật bảo A-nan:
– Trước đây Ta ở cõi trời Đao-lợi thuyết pháp cho mẹ và tự Ma-ha Ma-da cũng có nói. Nay ở tại đây mẹ con gặp nhau, ông có thể vì các chúng sinh đời sau giảng nói kinh này. Gọi tên kinh là “Ma Ha Ma Da”, hay là “Kinh Phật lên cõi trời Đao-lợi thuyết pháp cho mẹ”. Lại gọi tên là “Kinh mẹ con gặp nhau khi Phật sắp Niết-bàn”, và phụng trì như vậy.
Thế Tôn nói xong từ biệt mẹ và nói kệ:
Đời sống Ta đã hết
Phạm hạnh đã lập hẳn
Việc làm đều đã làm
Không thọ ở đời sau.
Xin mẹ tự an ủi
Không nên buồn khổ não
Tất cả hành vô thường
Tin là pháp sinh diệt.
Sinh diệt đã diệt rồi
Tịch diệt vui tối thượng.
Đức Thế Tôn nói kệ rồi kim quan tự đóng lại, ba ngàn đại thiên thế giới đều chấn động đủ sáu cách. Ma-ha Ma-da và tám bộ chúng khóc thương áo não không thể kềm chế. Ma-ha Ma-da hỏi Anan:
– Tất-đạt con tôi lúc sắp diệt độ có dạy bảo gì không? A-nan đáp:
– Lúc nửa đêm Đức Thế Tôn lược nói giáo giới cho các Tỳ-kheo, và mười hai bộ kinh. Dặn dò Tôn giả Ca-diếp giúp đỡ rộng giảng lời dạy của Phật cho đời sau.
Ma-ha Ma-da nghe rồi càng thêm cảm động, liền hỏi A-nan:
– Ông hầu Phật từ trước đến nay, có nghe Đức Thế Tôn giảng nói chánh pháp Như Lai lúc nào sẽ diệt?
A-nan tuôn lệ đáp:
– Trước kia tôi từng nghe Đức Thế Tôn nói việc chánh pháp đời sau: Sau khi Ta Niết-bàn, Ma-ha Ca-diếp cùng A-nan kết tập Tạng pháp, hết thảy việc đều xong Ma-ha Ca-diếp sẽ vào diệt tận định trong núi Lang Tích. Tôi cũng sẽ được chứng quả sau vào Niết-bàn, đem chánh pháp giao phó cho Ưu-ba-cúc-đa. Khéo nói pháp yếu như Phú-lâu-na rộng nói pháp độ người, trở lại khuyến hóa vua Athâu-ca, làm cho pháp Phật có được lòng tin vững chắc. Đem xá-lợi Phật thờ khắp tám vạn bốn ngàn tháp. Sau hai trăm năm Tỳ-kheo Thi-la-nan-đà giảng nói pháp yếu ở Diêm-phù-đề độ mười hai ức người. Sau ba trăm năm Tỳ-kheo Thanh-liên-hoanhãn giảng nói pháp độ nửa ức người. Sau bốn trăm năm Tỳ-kheo Ngưu Khẩu giảng nói pháp yếu độ chúng vạn người. Sau năm trăm năm Tỳ-kheo Bảo Thiên giảng nói pháp độ hai vạn người. Tám vạn chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Giác ngang đây chánh pháp sẽ diệt tận. Sau sáu trăm năm có chín mươi sáu hàng ngoại đạo tà kiến phát triển, phá diệt pháp Phật. Có Tỳ-kheo tên Mã Minh giảng nói pháp điều phục tất cả các hàng ngoại đạo.
Sau bảy trăm năm có một Tỳ-kheo tên Long Thọ đốt đuốc chánh pháp giảng nói pháp diệt tà kiến. Sau tám trăm năm các Tỳ-kheo ưa thích y phục, vui đùa buông lung. Trong trăm ngàn người mới có được một, hai người đắc đạo quả. Sau chín trăm năm đứa tớ trai làm Tỳ-kheo, tớ gái làm Tỳkheo-ni. Sau một ngàn năm các Tỳ-kheo sân giận, không muốn nghe pháp quán bất tịnh A-na-ba-na. Trong vô lượng Tỳ-kheo có một hoặc hai người tư duy chánh thọ. Sau một ngàn một trăm năm các Tỳ-kheo như người thế tục làm việc mai mối, ở trong đại chúng phỉ báng Tỳ-ni, làm việc không phải phạm hạnh. Nếu có con nam là Tỳ-kheo, nữ là Tỳ-kheo-ni. Sau một ngàn ba trăm năm y ca-sa biến trắng không chịu nhuộm màu. Sau một ngàn bốn trăm năm bốn chúng giống như hầu sư ưa thích sát sinh, bán vật Tam bảo. Sau một ngàn năm trăm năm có Tỳ-kheo Tam Tạng nước Câu-diệm-di giảng nói pháp, đồ chúng có năm trăm người. Lại có một Tỳ-kheo La-hán khéo giữ giới pháp đồ chúng năm trăm người.
Ngày mười lăm lúc bố-tát có Tỳ-kheo La-hán bay lên trên tòa cao giảng pháp thanh tịnh: Chỗ này nên làm, chỗ kia không nên làm.
Đệ tử của Tỳ-kheo Tam Tạng trả lời La-hán:
– Nay thân miệng ông tự không thanh tịnh, làm sao trở lại nói lời thô?
La-hán đáp:
– Nghiệp thân miệng ý của tôi từ lâu đã thanh tịnh, không có các lỗi lầm.
Đệ tử của Tam Tạng nghe lời này rồi càng giận dữ liền giết vị La-hán ấy trên tòa. Khi ấy đệ tử của La-hán nói:
– Thầy ta nói hợp với lý pháp, sao các ông giết Hòa thượng trên tòa? Họ liền dùng dao bén giết Tam Tạng ấy. Tám bộ trời rồng rất buồn não. Ma Ba-tuần ác và chúng ngoại đạo hân hoan vui mừng, tranh giành phá chùa tháp, giết hại Tỳ-kheo. Tất cả kinh tạng đều lưu truyền đến nước Câu-thi-na-kiệt. Vua rồng A-nậu-đạt đều đưa vào trong biển. Khi ấy pháp Phật diệt tận vậy.
Ma-ha Ma-da nghe xong kêu khóc áo não, hướng về A-nan nói kệ:
Tất cả đều về diệt
Không có gì thường yên
Tu-di và nước biển
Hết kiếp cũng tiêu khô.
Các cường hào thế gian
Chắc chắn về hư mục
Con ta ở lúc trước
Chuyên tu các hạnh khổ.
Nên thành được Chánh giác
Vì chúng nói Kinh Tạng
Bây giờ như thế nào
Hết thảy đều chìm mất.
Than ôi pháp sinh tử
Đáng sợ, đáng chán lìa.
Ma-ha Ma-da nói kệ rồi, bảo A-nan:
– Như Lai đã đem chánh pháp dạy bảo phó chúc cho Tôn giả và Ma-ha Ca-diếp phải nên chuyên cần giữ gìn giảng nói. Nay tôi không thể chịu nổi lúc hỏa táng Như Lai. Bà liền đi nhiễu bảy vòng quanh kim quan Phật, tuôn lệ kêu than rồi trở về cõi trời.
Lúc đó, giữa rừng cây Ta-la, tám bộ chúng trời người, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đã thấy mẹ con Như Lai gặp nhau và được nghe nói, có người phát đạo tâm vô thượng, có người được quả Tu-đà-hoàn, có người được quả A-nahàm, có người phát tâm Phật-bích-chi. Tất cả đại chúng vâng giữ lời Phật dạy, đảnh lễ phụng hành.
Bấy giờ, người dân Mạt-na nước Ba-bà nghe Phật diệt độ đều tự nghĩ: Nay ta nên đến xin phân chia xá-lợi xây tháp cúng dường. Liền sắp đặt bốn loại binh hùng mạnh trong nước: binh voi, binh ngựa, binh xe và binh bộ, đến thành Câu-thi bảo sứ giả:
– Nghe nói Phật dừng ở đây diệt độ, Phật cũng là thầy tôi. Lòng rất kính mộ đến xin phần cốt về bản quốc xây tháp cúng dường.
Vua Câu-thi đáp:
– Đúng như vậy. Nhưng hiện nay Phật diệt độ ở đây, dân chúng trong nước sẽ tự cúng dường. Thật phiền các ông từ xa đến, nhưng xá-lợi để lại này không thể đưa các vị được.
Lúc đó, các người dân Bạt-ly nước Giá-la-pha, người dân Câu-lợi nước La-ma-già, chúng Bà-lamôn nước Tỳ-lưu-đề, dân chúng họ Thích nước Ca-tỳ-la-vệ, dân chúng Ly-sa nước Tỳ-đề-la và vua A-xà-thế nước Ma-kiệt, nghe Như Lai đã diệt độ giữa rừng Ta-la thành Câu-thi, đều tự nghĩ: Ta nên đến xin một phần xá-lợi.
Khi ấy, vua A-xà-thế và các nước chư hầu đều sắp đặt bốn loại binh hùng mạnh vượt qua sông Hằng, liền ra lệnh cho Bà-la-môn Hương Tánh:
– Ông nhân danh ta vào thành Câu-thi thăm hỏi vua nước ấy và những người Mạt-la sinh hoạt có thoải mái, đi lại có được mạnh khỏe không? Tôi đối với các Hiền giả mỗi mỗi đều tôn kính, đối với nước lân cận hòa hợp không tranh cãi. Tôi nghe Phật Như Lai diệt độ trong nước các ông, chỉ có bậc vô thượng tôn thật là trời của tôi, nên từ xa tôi đến cầu xin một phần xá-lợi, đem về nước xây tháp cúng dường. Nếu đem cho tôi thì vật báu của cả nước sẽ được an ổn.
Bà-la-môn Hương Tánh vâng lời vua, liền đi đến thành ấy nói với dân Mạt-la. Mạt-la nghe xong bảo với Hương Tánh:
– Đúng như lời ông nói. Nhưng vì Đức Thế Tôn diệt độ ở nơi này, dân chúng trong nước sẽ tự cúng dường, phiền các ông rất cực nhọc nhưng vẫn không được xá-lợi trở về.
Bấy giờ, vua các nước tập họp các quần thần lại cùng bàn luận việc này, nói kệ:
Bậc Pháp vương vô thượng
Niết-bàn tại nước ta
Nay tôi trang nghiêm tháp
Nơi tốt để cúng dường.
Cho xá-lợi nhiệm mầu
Sáng chói khắp mười phương
Có thể hóa chúng sinh
Làm sao được phân chia.
Các vua nói kệ rồi, mỗi người tự nghĩ: Ta tiếp tục thờ xá-lợi Như
Lai để lại, đời sau hàng trời, người làm theo sẽ được quả báo nhiều phước đức.
Lại nói:
– Chúng tôi từ xa đến cúi đầu nhường kính nghị hòa xin được chia xá-lợi, nếu không được như vậy bốn binh tại đây không tiếc thân mạng, nghị hòa mà không được sẽ dùng quân binh chống cự.
Khi đó, nước Câu-thi cùng tập họp quần thần luận bàn, rồi đáp kệ:
Đạo sư Như Lai tại nước ta
Không hẹn vui đến vào Niết-bàn
Để lại xá-lợi như còn Phật
Ngày đêm chuyên tâm thường ngưỡng mộ.
Còn tình biển pháp độ chúng sinh.
Chúng tôi nay xin cúng dường lớn
Các vua rất cực đến lễ bái
Tìm cầu được xá-lợi trở về.
Bấy giờ, Bà-la-môn Hương Tánh đứng trước mặt vua, quỳ xuống chắp tay nói kệ:
Như Lai trí tuệ đại từ bi
Thương xót ba ngàn đại thiên giới
Nói pháp khắp trong mười phương cõi
Cho đến vô số không thể nói.
Thương xót chúng sinh như con đỏ
Hằng hà sa số lòng không nghĩ
Bồ-tát quyến thuộc thường qua lại
Đệ tử Thanh văn thường đến tôi.
Cùng nhau nghe giảng nói pháp âm
Bao quanh phân vân cùng lời nói
Trời người tám bộ chúng đều tìm
Nay tôi ở trong biển thanh tịnh.
Như Lai Niết-bàn có xá-lợi
Phân làm tám phần không được tiếc.
Khi các vua nghe kệ rồi, lòng sinh buồn bã, im lặng không ưng thuận.
Lúc ấy, Bà-la-môn Hương Tánh giải thích cho mọi người hiểu:
– Chư hiền trưởng giả! Miệng tụng lời pháp, thọ giới Phật dạy. Tất cả chúng sinh thường muốn được an vui, sao lại vì tranh xá-lợi Phật mà giết hại nhau? Xá-lợi của Như Lai để làm lợi ích khắp vô lượng chúng sinh, không chỉ cho các vua. Nay xálợi này sẽ phân chia đúng như vậy.
Mọi người nghe vậy đều cho là ý hay, lại đề nghị:
– Ai là người có thể kham nhận phân chia xálợi? Mọi người đều bảo Bà-la-môn Hương Tánh:
– Ông có thể phân chia làm cho đều. Lúc ấy, các vua liền bảo Hương Tánh:
– Ông vì chúng tôi phân chia đều xá-lợi Phật làm tám phần.
Hương Tánh đến chỗ để xá-lợi, làm lễ xong, ông cầm hàm răng của Phật để riêng một bên, tìm sứ giả mang răng đến chỗ vua A-xà-thế. Nói với sứ giả:
– Nhờ đem lời thăm hỏi của tôi tâu lên đại vương: Sinh hoạt có thuận lợi và đi lại có được mạnh khỏe không? Xá-lợi các nước cứ như vậy đều lấy chung, nay giao sứ giả hàm răng của Như Lai để đem về nước cúng dường đồng thời an ủi. Khi mặt trời mọc tập họp mọi người lại để phân chia xá-lợi đem về phụng thờ.
Khi ấy, Hương Tánh dùng một cái bình bằng đá với dung lượng vừa phải chia đều xá-lợi làm tám phần. Các nước đã nhận phần rồi, Hương Tánh nói:
– Tôi xin đem cái bình này về nhà để chiêm ngưỡng xây tháp cúng dường.
Lúc ấy, có người ở thôn Tất-bát đến thưa mọi người: Xin cho chúng tôi đất hỏa thiêu này để xây tháp cúng dường, cũng đều được cho.
Bấy giờ, nước Câu-thi, nước Ba-bà, nước Giápha, nước La-ma-già, nước Ca-tỳ-la-vệ, nước Tỳxá-ly, vua A-xà-thế nước Ma-kiệt-đà được phân chia xá-lợi.
Bà-la-môn Hương Tánh giữ chiếc bình dùng phân chia xá-lợi xây tháp cúng dường.
Người thôn Tất-bát được đất hỏa thiêu xây tháp cúng dường.
Sau đó đạo sĩ khác đạo ở nước Hàm xin được đất tro, cũng trở về bổn quốc xây tháp cúng dường.
[Mục lục bộ Niết Bàn][374][375][376][377][378][379][380][381][382][383][384][385][386][387][388][389][390][391][392][393][394][395][396]