NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN III
PHÁP-HÀNH GIỚI
(SĪLĀCĀRA)
Thành Kính Tri Ân
Tất cả chúng con được biết Phật-giáo Nguyên-thủy Theravāda là nhờ ơn Ngài
Sư Tổ Hộ-Tông cùng với chư Trưởng-lão khác đã dày công đem Phật-giáo Nguyên-thủy
Theravāda về truyền bá trên đất nước Việt-Nam thân yêu này.
Tất cả chúng con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Ngài Sư Tổ Hộ-Tông cùng
quý Ngài Trưởng-lão với tấm lòng chân thành tôn kính và tri ân sâu sắc của tất
cả chúng con.
Lời Nói Đầu
(Tái bản lần thứ ba, có sửa và bổ sung)
Tái bản lần thứ ba “Quyển III: Pháp-Hành Giới” có sửa
và bổ sung, sắp xếp phần nội dung, để giúp cho độc giả dễ hiểu.
Pháp-Hành Giới là đề tài rộng lớn, bần sư đã cố gắng
sưu tầm gom nhặt từ các nguồn tài liệu đem trình bày trong quyển Pháp-Hành Giới
này, giúp cho độc giả hiểu biết một phần cơ bản trong Phật-giáo.
Tuy bần sư đã cố gắng hết sức mình tái bản quyển Pháp-
Hành Giới lần này cho được hoàn thiện, nhưng vì khả năng có hạn, nên cũng chỉ
thực hiện được bấy nhiêu thôi! Bần sư tin chắc rằng:
“Soạn phẩm này vẫn còn nhiều chỗ sơ suất, thậm chí còn
có chỗ sai nữa, ngoài khả năng hiểu biết của bần sư. Kính mong các bậc thiện-trí
có tâm từ chỉ giáo, góp ý chân tình.
Kính xin quý vị xem soạn phẩm này như là của chung
mà mỗi người trong chúng ta ai cũng có bổn phận đóng góp, để cho soạn phẩm này
được hoàn hảo, hầu mong đem lại sự lợi ích chung, sự tiến hoá, sự an-lạc cho phần
đông.”
Bần sư chân thành biết ơn quý vị.
PL. 2563 / DL. 2019
Rừng Núi Viên Không
xã Tóc Tiên, thị xã Phú Mỹ
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Tỳ-Khưu Hộ-Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)
(Aggamahāpaṇḍita)
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức
A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Paṇāmagāthā
Tilokekagaruṃ Buddhaṃ,
pāyāsibhayahiṃsakaṃ.
Āyunopariyosānaṃ,
gacchāmi saraṇaṃ ahaṃ.
Ādimajjhantakalyāṇam,
Buddhassa dhammamosadhaṃ.
Nibbānapariyosānaṃ,
gacchāmi saraṇaṃ ahaṃ.
Tassa sāvakasaṃghañca,
puññakkhettaṃ anuttaraṃ.
Arahattapriyosānaṃ,
gacchāmi saraṇaṃ ahaṃ.
Buddhaṃ Dhammañca Saṃghañca,
abhivandiya sādaraṃ.
Mūlabuddhasāsanan’ ti,
Ayaṃ gantho mayā kato.
Kệ Đảnh Lễ Tam-Bảo
Đức-Thế-Tôn cao thượng nhất tam-giới,
Dắt dẫn chúng-sinh thoát khỏi tai họa,
Nguyện suốt đời con xin quy-y Phật,
Mong chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
Pháp của Ngài như linh dược nhiệm mầu,
Hoàn hảo ở phần đầu giữa và cuối,
Nguyện suốt đời con xin quy-y Pháp,
Mong được chứng ngộ Niết-bàn thoát khổ.
Tăng bậc Thánh thanh-văn đệ-tử-Phật,
Là phước điền cao thượng của chúng-sinh,
Nguyện suốt đời con xin quy-y Tăng,
Mong được chứng đắc Thánh A-ra-hán.
Đức-Phật Đức-Pháp Đức-Tăng cao thượng,
Con hết lòng thành kính lạy Tam-bảo,
Rồi gom nhặt biên soạn tập sách nhỏ,
Soạn phẩm này gọi “Nền-Tảng-Phật-Giáo”.
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức
A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN III
PHÁP-HÀNH GIỚI
(SĪLĀCĀRA)
Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ-Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)
(Aggamahāpaṇḍita)
Lời Nói Đầu
Bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo là một bộ sách gồm có 9
chương chia ra làm 10 quyển. Mỗi chương được khái quát như sau:
1- Chương I: Ba Ngôi Cao Cả (Tiyagga)
- Đức-Phật (Buddha).
- Đức-Pháp (Dhamma).
- Đức-Tăng (Saṃgha).
2- Chương II: Tam-Bảo (Ratanattaya)
- Đức-Phật-bảo (Buddharatana).
- Đức-Pháp-bảo (Dhammaratana).
- Đức-Tăng-bảo (Saṃgharatana)
3- Chương III: Ân-Đức Tam-Bảo (Ratanattayaguṇa)
- Ân-Đức Phật-bảo (Buddhaguṇa).
- Ân-Đức Pháp-bảo (Dhammaguṇa).
- Ân-Đức Tăng-bảo (Saṃghaguṇa).
4- Chương IV: Quy-Y Tam-Bảo (Tisaraṇa)
- Quy-y Phật-bảo (Buddhasaraṇa).
- Quy-y Pháp-bảo (Dhammasaraṇa).
- Quy-y Tăng-bảo (Saṃghasaraṇa).
5- Chương V: Pháp-Hành-Giới (Sīlācāra)
- Giới của người tại gia cư-sĩ (Gahaṭṭhasīla).
- Giới của bậc xuất-gia tu-sĩ (Pabbajitasīla).
6- Chương VI: Nghiệp Và Quả Của Nghiệp
(Kamma-kammaphala)
- Bốn loại nghiệp (Kammacatuka).
- Bất-thiện-nghiệp (Akusalakamma).
- Quả của bất-thiện-nghiệp (Akusalavipāka).
- Thiện-nghiệp (Kusalakamma).
- Quả của thiện-nghiệp (Kusalavipāka).
7- Chương VII: Phước-Thiện (Puñña-Kusala)
- 10 nhân phát sinh phước-thiện (Puññakriyāvatthu).
8- Chương VIII: Pháp-Hạnh Ba-La-Mật (Pāramī)
- 30 pháp-hạnh ba-la-mật (Tiṃsapāramī).
9- Chương IX: Pháp-Hành-Thiền (Bhāvanā)
- Pháp-hành thiền-định (Samathabhāvanā).
- Pháp-hành thiền-tuệ (Vipassanābhāvanā).
9 chương chia ra làm 10 quyển như sau:
1- Quyển I: Tam-Bảo (Ratanattaya) gồm có 2
chương là chương I và chương II.
2- Quyển II: Quy-Y Tam-Bảo (Tiaraṇa) gồm có 2
chương là chương III và chương IV.
3- Quyển III: Pháp-Hành-Giới (Sīlācāra) có 1
chương là chương V.
4- Quyển IV: Nghiệp Và Quả Của Nghiệp (Kamma-
kammaphala) có 1 chương là chương VI.
5- Quyển V: Phước-Thiện (Puñña-Kusala) có 1
chương là chương VII.
6- Quyển VI: Pháp-Hạnh Ba-La-Mật (Pāramī) 1.
7- Quyển VII: Pháp-Hạnh Ba-La-Mật (Pāramī) 2.
8- Quyển VIII: Pháp-Hạnh Ba-La-Mật (Pāramī) 3.
Quyển VI, Quyển VII, Quyển VIII: Pháp-Hạnh Ba-La-Mật
(Pāramī) 1, 2, 3 thuộc về chương VIII.
9- Quyển IX: Pháp-Hành Thiền-Định
(Samāthabhāvanā)
10- Quyển X: Pháp-Hành Thiền-Tuệ
(Vipassanābhāvanā)
Quyển IX: Pháp-Hành Thiền-Định và Quyển X: Pháp- Hành
Thiền-Tuệ thuộc về chương IX.
Như vậy, bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo gồm có 9 chương chia ra
thành 10 quyển.
Bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo gồm có 9 chương được trình bày
theo thứ tự trước sau như sau:
1- Chương I: Ba Ngôi Cao Cả (Tiyagga)
Phật-giáo có 3 ngôi cao cả thật xứng đáng tôn kính là:
- Đức-Phật (Buddha) từ khi bắt đầu cho đến kết thúc.
- Đức-Pháp (Dhamma) từ khi bắt đầu cho đến kết thúc.
- Đức-Tăng (Saṃgha) từ khi bắt đầu cho đến kết thúc.
2- Chương II: Tam-Bảo (Ratanattaya)
- Đức-Phật có 5 đức-tính quý báu cao thượng nên gọi là
Đức-Phật-bảo (Buddharatana).
- Đức-Pháp có 5 đức-tính quý báu cao thượng nên gọi là
Đức-Pháp-bảo (Dhammaratana).
- Đức-Tăng có 5 đức-tính quý báu cao thượng nên gọi là
Đức-Tăng-bảo (Saṃgharatana).
3- Chương III: Ân-Đức Tam-Bảo (Ratanattayaguṇa)
- Đức-Phật có 9 ân-đức nên gọi là ân-đức Phật-bảo
(Buddhaguṇa).
- Đức-Pháp có 6 ân-đức nên gọi là ân-đức Pháp-bảo
(Dhammaguṇa).
- Đức-Tăng có 9 ân-đức nên gọi là ân-đức Tăng-bảo (Saṃghaguṇa).
4- Chương IV: Quy-Y Tam-Bảo (Tisaraṇa)
Người nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức- Phật-bảo,
Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tha thiết muốn trở thành hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật,
Đức- Pháp, Đức-Tăng, người ấy kính xin làm lễ thọ phép quy-y Tam-bảo:
- Quy-y Phật-bảo (Buddhasaraṇa),
- Quy-y Pháp-bảo (Dhammasaraṇa),
- Quy-y Tăng-bảo (Saṃghasaraṇa).
5- Chương V: Pháp-Hành-Giới (Sīlācāra)
Các hàng thanh-văn biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi
thì giữ gìn giới của mình được trong sạch trọn vẹn, giữ gìn giới là giữ gìn phẩm-hạnh
cao quý của hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng.
- Đối với hàng tại gia là cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ
(upāsikā) cần phải giữ gìn giới của mình cho được trong sạch trọn vẹn, đó là giới
của người tại gia cư-sĩ (Gahaṭṭhasīla).
- Đối với hàng xuất-gia là tỳ-khưu, sa-di, tu-nữ cần
phải giữ gìn giới của mình cho được trong sạch trọn vẹn, đó là giới của bậc xuất-gia
tu-sĩ (Pabbajitasīla).
6- Chương VI: Nghiệp Và Quả Của Nghiệp
(Kamma-kammaphala)
Các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, giữ gìn giới của
mình cho được trong sạch trọn vẹn, cần phải có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo:
Đức-Phật-bảo, Đức- Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp.
Các hàng thanh-văn phải nên học hỏi hiểu rõ:
- Bốn loại nghiệp (Kammacatuka).
- Bất-thiện-nghiệp (Akusalakamma).
- Quả của bất-thiện-nghiệp (Akusalavipāka).
- Thiện-nghiệp (Kusalakamma).
- Quả của thiện-nghiệp (Kusalavipāka).
7- Chương VII: Phước-Thiện (Puñña-kusala)
- 10 nhân phát sinh phước-thiện (Puññakriyāvatthu).
Các thanh-văn đệ-tử tin nghiệp và quả của nghiệp của
mình, nên lựa chọn tạo 10 phước-thiện để trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp
bậc cao (tihetuka-ukkaṭṭha- kusalakamma) để cho quả tái-sinh kiếp sau trở
thành hạng người tam-nhân (tihetukapuggala).
8- Chương VIII: Pháp-Hạnh Ba-La-Mật (Pāramī)
- 30 pháp-hạnh ba-la-mật (Tiṃsapāramī).
* Để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, Đức- Bồ-tát
Chánh-Đẳng-Giác cần phải tạo đầy đủ 30 pháp- hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh
ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp-hạnh ba-la- mật bậc
thượng, mới trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác độc nhất vô nhị trong toàn
cõi-giới chúng-sinh.
* Để trở thành Đức-Phật Độc-Giác, Đức-Bồ-tát Độc- Giác
cần phải tạo đầy đủ 20 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10
pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, mới trở thành Đức-Phật Độc-Giác. Đức-Phật Độc-Giác
có thể có nhiều Vị trong cùng một thời-kỳ.
* Để trở thành bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ- tử của
Đức-Phật, bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử hạng thường,
chư vị Bồ-tát thanh-văn đệ-tử ấy đều cần phải tạo đầy đủ 10 pháp- hạnh ba-la-mật
bậc hạ theo mỗi ngôi vị của mình.
Đến thời-kỳ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy xuất hiện trên
thế gian, chư vị Bồ-tát thanh-văn đệ-tử ấy đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe
chánh-pháp của Đức-Phật, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ
chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, trở thành 4
bậc Thánh-nhân là bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai, bậc
Thánh A-ra-hán là bậc Thánh thanh-văn đệ-tử Đức- Phật, tùy theo năng lực của 10
pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ: tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định
pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi ngôi vị đúng như ý nguyện trong tiền-kiếp quá-khứ
của mỗi vị.
Trong chương VIII: Pháp-Hạnh Ba-La-Mật của bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo
trình bày 10 pháp-hạnh ba-la-mật, mỗi pháp-hạnh ba-la-mật có 3 bậc gồm có 30 bậc,
mỗi bậc được lựa chọn tích tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama tiêu biểu thực-hành
pháp-hạnh ba-la-mật mỗi bậc ấy, được chia ra làm ba quyển:
* Trong quyển VI: Pháp-Hạnh Ba-La-Mật (Pāramī) 1,
trình bày ba pháp-hạnh ba-la-mật là pháp-hạnh bố- thí ba-la-mật, pháp-hạnh
giữ-giới ba-la-mật, pháp-hạnh xuất-gia ba-la-mật. Mỗi pháp-hạnh ba-la-mật có ba
bậc, mỗi bậc được lựa chọn một tích tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama tiêu biểu thực-hành
pháp-hạnh ba-la-mật mỗi bậc ấy, cho nên, 3 pháp-hạnh ba-la-mật gồm có 9 tích.
* Trong quyển VII: Pháp-Hạnh Ba-La-Mật (Pāramī) 2,
trình bày một pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật có 3 bậc, mỗi bậc được lựa chọn
một tích tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama tiêu biểu thực-hành pháp-hạnh ba-la-mật
bậc ấy, riêng bậc hạ có 3 tích, cho nên quyển này gồm có 5 tích.
* Trong quyển VIII: Pháp-Hạnh Ba-La-Mật (Pāramī) 3,
trình bày 6 pháp-hạnh ba-la-mật là pháp-hạnh tinh- tấn ba-la-mật, pháp-hạnh
nhẫn-nại ba-la-mật, pháp-hạnh chân-thật ba-la-mật, pháp-hạnh phát-nguyện
ba-la-mật, pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật, pháp-hạnh tâm-xả ba-la- mật. Mỗi pháp-hạnh
ba-la-mật có 3 bậc, mỗi bậc được lựa chọn một tích tiền-kiếp của Đức-Phật
Gotama tiêu biểu thực-hành pháp-hạnh ba-la-mật mỗi bậc ấy, riêng pháp-hạnh
chân-thật ba-la-mật bậc hạ có 2 tích, cho nên quyển này gồm có 19 tích.
9- Chương IX: Pháp-Hành-Thiền (Bhāvanā)
Pháp-hành thiền có 2 pháp-hành là:
- Pháp-hành thiền-định (Samathabhāvanā).
- Pháp-hành thiền-tuệ (Vipassanābhāvanā).
* Hành-giả là hạng người tam-nhân thực-hành pháp-hành
thiền-định, có khả năng dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền
vô-sắc-giới, 5 phép thần- thông thế gian, tùy theo khả năng của mỗi vị hành-giả.
- Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm
cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 16 tầng trời sắc-giới
phạm-thiên.
- Vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 bậc thiền vô-sắc-
giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 4 tầng
trời vô-sắc-giới phạm-thiên.
Thật ra, nếu hành-giả nào là hạng phàm-nhân có khả
năng chứng đắc các bậc thiền thiện-tâm, sau khi hành- giả ấy chết, thì chỉ có
thiện-nghiệp trong bậc thiền thiện- tâm nào cao cuối cùng, mới có quyền ưu tiên
cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời tương xứng
với bậc thiền quả-tâm ấy mà thôi.
Các thiện-nghiệp trong bậc thiền thiện-tâm bậc thấp
còn lại đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không còn có cơ hội cho
quả được nữa.
Pháp-hành thiền-định có trong Phật-giáo và có ngoài Phật-giáo.
* Hành-giả là hạng người tam-nhân thực-hành pháp-hành
thiền-tuệ, có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc như
sau:
- Chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh- quả,
Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
- Chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh- quả,
Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
- Chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả, Niết-bàn,
trở thành bậc Thánh Bất-lai.
- Chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh- quả,
Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
* Sau khi bậc Thánh Nhập-lưu chết, không còn
tái- sinh trong cõi ác-giới, chỉ có đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau
trong cõi thiện-dục-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa mà thôi. Đến kiếp thứ 7 chắc chắn
sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử
sinh luân hồi trong tam-giới.
* Sau khi bậc Thánh Nhất-lai chết, đại-thiện-nghiệp
cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi người hoặc cõi trời dục-giới chỉ có 1 kiếp
nữa mà thôi. Trong kiếp ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch
diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
* Sau khi bậc Thánh Bất-lai chết, không còn
tái-sinh trong cõi dục-giới, chỉ có sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp
sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên. Bậc Thánh Bất-lai
chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết- bàn trên tầng
trời sắc-giới phạm-thiên, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
* Sau khi bậc Thánh A-ra-hán chết đó là tịch diệt
Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
Pháp-hành thiền-tuệ chỉ có trong Phật-giáo mà
thôi, hoàn toàn không có ngoài Phật-giáo.
Như vậy, 9 chương của bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo được trình
bày theo thứ tự trước sau, mà chương trước làm nền tảng hỗ trợ cho chương sau,
cho nên, chương 9 cuối cùng là cứu cánh Niết-bàn của tất cả mọi hàng thanh-văn
đệ-tử của Đức-Phật.
Bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo có 10 quyển, quyển I: Tam-
Bảo (Ratanattaya) gồm có chương I và chương II quyển II: Quy-Y Tam-Bảo (Tisaraṇa)
gồm có chương III và chương IV đã được trình bày xong; tiếp theo quyển III:
Pháp-Hành Giới (Sīlācāra) sẽ được trình bày trong quyển này.
Quyển III: Pháp-Hành Giới (Sīlācāra) có một
chương là chương V.
Chương V trình bày pháp-hành giới có 2 phần:
- Giới của người tại gia cư-sĩ (Gahaṭṭhasīla).
- Giới của bậc xuất-gia tu-sĩ (Pabbajitasīla).
* Giới của người tại gia cư-sĩ (Gahaṭṭhasīla) gồm có
những giới nào?
Theo truyền thống Phật-giáo, đối với các hàng tại gia
cư-sĩ là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ, sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo xong, tiếp
theo thọ-trì giới.
Giới của các hàng tại gia có nhiều loại giới như:
- Ngũ-giới là thường-giới của mọi người tại
gia.
- Ngũ-giới hành phạm-hạnh là giới của bậc Thánh
Bất-lai tại gia.
- Bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla là giới của mọi
người tại gia và bậc xuất-gia.
Ba loại giới này là thường-giới (niccasīla) của người
tại gia mà mọi người cần phải giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn suốt ngày
đêm, trọn đời.
- Bát-giới uposathasīla và cửu-giới
uposathasīla là giới hành vào những ngày quy định trong mỗi tháng có 4
ngày, hoặc 6 ngày, hoặc 8 ngày giới, …
Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nào nếu có khả năng thì
nên thọ-trì bát-giới uposathasīla, hoặc cửu-giới upo- sathasīla vào những ngày
giới ấy, nếu không có khả năng thì không bắt buộc phải thọ-trì giới ấy.
- Thập-giới của người tại gia cũng là giới của
người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam- bảo, chưa có cơ hội
xuất gia lâu dài, mà chỉ có rảnh rỗi thời gian ngắn, người ấy đến chùa xin thọ
phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì thập-giới của người tại gia trong khoảng thời
gian ngắn tùy theo hạn định của mình.
* Giới của bậc xuất-gia tu-sĩ (Pabbajitasīla)
Bậc xuất-gia tu-sĩ là vị sa-di, vị tỳ-khưu, vị
tu-nữ.
- Vị sa-di gồm có 10 sa-di-giới, 10 giới hoại
phẩm- hạnh của sa-di, 10 giới hành phạt của sa-di, 75 điều- giới hành của
sa-di, 14 pháp-hành của sa-di.
Giới của sa-di không phải thọ-trì như giới của
người tại gia. Trong buổi lễ xuất-gia trở thành vị sa-di, vị giới- tử xuất gia
sa-di khi đọc lặp theo Ngài Trưởng-lão thầy tế độ phép quy-y Tam-bảo bằng tiếng
Pāḷi theo ṭhāna, karaṇa, payatana và 10 byañjanabuddhi đúng theo văn phạm Pāḷi
đến lần thứ ba là:
“Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi”chấm dứt, thì trở
thành vị sa-di, đồng thời 10 sa-di-giới, 10 giới hoại phẩm-hạnh của sa-di, 10
giới hành phạt của sa-di, 75 điều-giới hành của sa-di, 14 pháp-hành của sa-di
thành tựu cùng một lúc không trước không sau.
- Vị tỳ-khưu có 227 điều-giới bổn của tỳ-khưu,
14 pháp-hành của tỳ-khưu. Giới của tỳ-khưu tính rộng theo Tạng Luật Pāḷi gồm có
91.805.036.000 điều-giới.
Giới của tỳ-khưu không phải thọ-trì. Trong buổi
lễ xuất-gia trở thành vị tỳ-khưu tại sīmā, Ngài Trưởng-lão luật sư tụng
Ñatticatutthakammavācā xong, giới-tử trở thành tỳ-khưu, đồng thời 227 điều-giới
bổn của tỳ-khưu, 14 pháp-hành của tỳ-khưu, thậm chí 91.805.036.000 điều-giới của
tỳ-khưu thành-tựu cùng một lúc không trước không sau.
- Vị tu-nữ cũng là người xuất-gia thọ-trì
bát-giới uposathasīla hoặc thập-giới của người xuất-gia suốt cuộc đời tu-nữ,
thường trú trong chùa.
Pháp-hành giới như thế nào?
Hành-giả biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi,
có tác-ý trong đại-thiện-tâm giữ gìn thân và khẩu tránh xa
thân hành 3 điều ác và tránh xa khẩu nói 4 điều ác, hoặc tránh xa 3 loại thân
ác-nghiệp và 4 loại khẩu ác-nghiệp, giữ gìn giới của mình cho được trong sạch
và trọn vẹn, để thân và khẩu cho được trong sạch thanh-tịnh, làm nền tảng
cho mọi thiện-pháp phát triển nhất là pháp- hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ.
Giới trong sạch nghĩa là tác-ý trong đại-thiện-tâm
giữ gìn giới của mình không để bị ô nhiễm bởi phiền-não.
Và trọn vẹn nghĩa là giữ gìn các điều-giới đầy
đủ hoàn toàn.
- Người giữ gìn giới trong sạch trọn vẹn là người
thiện do tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa 3 thân ác- nghiệp, 4 khẩu
ác-nghiệp, thành tựu 3 thân thiện-nghiệp và 4 khẩu thiện-nghiệp của người ấy.
- Người phạm điều-giới là người ác do tác-ý
trong ác-tâm tạo 3 thân ác-nghiệp và tạo 4 khẩu ác-nghiệp của người ấy.
Đức-Phật dạy rằng:
“Natthi loke rāho nāma, pāpakammaṃ pakubbato…(1) “Chỗ kín đáo không có trong đời này,
đối với người tạo ác-nghiệp …”
* Trong kinh Mahāparinibbānasutta có đoạn:
• Quả khổ của người phạm giới (Dussīla ādīnava)
(2)
Một thuở nọ, Đức-Phật ngự tại ngôi làng Pāṭaligāma,
dân làng Pāṭali đến hầu đảnh lễ Đức-Phật xong, ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức-Phật
truyền dạy dân làng Pāṭali rằng:
- Này các người tại gia! Có 5 quả xấu, quả khổ của người
phạm giới, người không có giới. 5 quả xấu, quả khổ ấy là:
1- Này các người tại gia! Trong đời này, người
phạm giới, người không có giới làm tiêu hao của cải tài sản lớn lao do nhân
dể duôi (thất niệm).
Đó là quả xấu thứ nhất của người phạm giới, người
không có giới.
2- Này các người tại gia! Người phạm giới, người
không có giới có tiếng xấu bị lan truyền khắp mọi nơi.
Đó là quả xấu thứ nhì của người phạm giới, người không
có giới.
3- Này các người tại gia! Người phạm giới, người
không có giới có bất-thiện-tâm e ngại, sợ sệt khi đi vào nơi hội đoàn
hoàng gia, hội đoàn gia chủ, hội đoàn Sa- môn, hội đoàn Bà-la-môn…
Đó là quả xấu thứ ba của người phạm giới, người không
có giới.
4- Này các người tại gia! Người phạm giới, người
không có giới có ác-tâm mê muội lúc lâm chung.
Đó là quả khổ thứ tư của người phạm giới, người không
có giới.
5- Này các người tại gia! Sau khi người phạm giới,
người không có giới chết, ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi
ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi
ác-giới ấy.
Đó là quả xấu, quả khổ thứ năm của người phạm giới,
người không có giới.
- Này các người tại gia! Đó là 5 quả xấu, quả khổ của
người phạm giới, người không có giới như vậy.
• Quả-báu của người có giới (Sīlavanta ānisaṃsa) (3)
- Này các người tại gia! Có 5 quả-báu của người có giới,
người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn. 5 quả- báu ấy là:
1- Này các người tại gia! Trong đời này, người
có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn có nhiều của cải lớn lao
do nhờ nhân không dể duôi (có trí-nhớ biết mình).
Đó là quả báu thứ nhất của người có giới, người giữ
gìn giới trong sạch và trọn vẹn.
2- Này các người tại gia! Người có giới, người
giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn, có danh thơm tiếng tốt được lan truyền
khắp mọi nơi.
Đó là quả báu thứ nhì của người có giới, người giữ gìn
giới trong sạch và trọn vẹn.
3- Này các người tại gia! Người có giới, người
giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn có đại-thiện-tâm dũng cảm, không rụt rè
e thẹn khi đi vào nơi hội đoàn hoàng gia, hội đoàn gia chủ, hội đoàn
Sa-môn, hội đoàn Bà-la- môn…
Đó là quả báu thứ ba của người có giới, người giữ gìn
giới trong sạch và trọn vẹn.
4- Này các người tại gia! Người có giới, người
giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn có đại-thiện-tâm tỉnh táo lúc lâm chung.
Đó là quả báu thứ tư của người có giới, người giữ gìn
giới trong sạch và trọn vẹn.
5- Này các người tại gia! Sau khi người có giới,
người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn chết, đại-thiện-nghiệp giữ giới
cho quả tái-sinh cõi thiện dục-giới (cõi người, cõi trời dục-giới), hưởng mọi
sự an-lạc trong cõi ấy.
- Này các người tại gia! Đó là 5 quả báu của người có
giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn như vậy.
* Trong Chú-giải bài kinh Sakkapañhasutta, có
đoạn đề cập đến những người có giới trong sạch có thể lựa chọn được cảnh
tái-sinh 1 trong 6 cõi trời dục-giới:
“Parisuddhasīlā nāma chasu devalokesu yatthicchanti,
tattha nibbattanti.” (4)
Những người có giới trong sạch trọn vẹn lúc lâm chung,
có đại-thiện-tâm tỉnh táo sáng suốt muốn tái-sinh trên cõi trời nào trong 6 cõi
trời dục-giới, thì sau khi chết, dục-giới thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh
trong cõi trời dục-giới ấy như ý muốn, và hưởng được mọi sự an- lạc trong cõi
trời ấy cho đến hết tuổi thọ.
Như vậy, người phạm giới, người không có giới lúc lâm
chung, có ác-tâm mê muội, sau khi chết, ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau 1
trong 4 cõi ác-giới là địa- ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh.
Người giữ gìn giới, người có giới trong sạch trọn vẹn
lúc lâm chung, có đại-thiện-tâm tỉnh táo sáng suốt muốn chọn cõi thiện-giới
nào, nên sau khi chết, đại-thiện- nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi
thiện-giới ấy đúng theo ý muốn, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi thiện- giới ấy
cho đến tuổi thọ, rồi tái-sinh kiếp sau trong cõi- giới khác tùy theo quả của
nghiệp của chúng sinh ấy.
Cho nên, người được sinh ra trong đời này, chắc chắn
tiền-kiếp của người ấy là người có giới trong sạch trọn vẹn, ít nhất ngũ-giới
là thường-giới trong sạch
và trọn vẹn.
Kiếp hiện-tại, nếu người nào có đại-thiện-tâm biết hổ-
thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết giữ gìn ngũ-giới của mình được
trong sạch và trọn vẹn bằng ý, thì người ấy là người biết tự trọng, biết giữ
gìn nhân-phẩm quý báu vốn có của mình từ khi đầu thai làm người.
Nếu người nào có ác-tâm không biết hổ-thẹn tội-lỗi,
không biết ghê-sợ tội-lỗi, phạm điều-giới nào trong ngũ-giới bằng thân
hoặc bằng khẩu hợp đủ chi-pháp của điều-giới ấy, thì người ấy là người không biết
tự trọng, làm mất đi nhân-phẩm quý báu vốn có của mình từ khi đầu thai
làm người.
Thật ra, mọi người có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-
lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết giữ gìn ngũ-giới của mình được trong sạch
và trọn vẹn bằng ý, đó là điều rất dễ dàng đối với tất cả mọi người
trong đời, bởi vì giữ gìn ngũ-giới của mình được trong sạch và trọn vẹn
là trong khả năng bình thường của mỗi người. Còn người nào có tác-ý trong
ác-tâm, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, cố gắng bằng
thân hoặc bằng khẩu phạm mỗi điều-giới nào hợp đủ chi-pháp của điều-giới ấy,
thì đó là điều rất khó khăn mà không phải ai cũng có thể phạm giới được.
* Thật vậy, người thiện-trí có trí-tuệ sáng suốt biết
suy xét kỹ càng và trung thực, để có nhận thức đúng người giữ gìn mỗi điều-giới
được trong sạch, đó là việc dễ làm hay khó làm, và người cố gắng phạm mỗi
điều- giới hợp đủ chi-pháp, đó là việc khó làm hay dễ làm như sau:
1- Điều-giới tránh xa sự sát-sinh
- Người thiện có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi,
biết ghê-sợ tội lỗi, có tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa sự sát-sinh bằng tâm,
biết giữ gìn điều-giới tránh xa sự sát- sinh, tạo đại-thiện-nghiệp không
sát-sinh.
- Người ác có ác-tâm không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không
biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý trong ác-tâm cố gắng bằng thân hoặc bằng khẩu
giết hại chúng-sinh ấy chết, hợp đủ 5 chi-pháp của điều-giới sát-sinh, nên phạm
điều-giới sát- sinh, tạo ác-nghiệp sát-sinh.
Như vậy, việc tạo đại-thiện-nghiệp không sát-sinh với
việc tạo ác-nghiệp sát-sinh, trong 2 việc này, việc nào dễ làm? Việc nào khó
làm?
2- Điều-giới tránh xa sự trộm-cắp
- Người thiện có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi,
biết ghê-sợ tội lỗi, có tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa sự trộm-cắp bằng tâm,
biết giữ gìn điều-giới tránh xa sự trộm-cắp, tạo đại-thiện-nghiệp không
trộm-cắp.
- Người ác có ác-tâm không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không
biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý trong ác-tâm cố gắng bằng thân hoặc bằng khẩu
trộm-cắp của cải tài-sản của người khác, hợp đủ 5 chi-pháp của điều-giới trộm-cắp,
nên phạm điều-giới trộm-cắp, tạo ác-nghiệp trộm-cắp.
Như vậy, việc tạo đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp với
việc tạo ác-nghiệp trộm-cắp, trong 2 việc này, việc nào dễ làm? Việc nào khó
làm?
3- Điều-giới tránh xa sự tà-dâm
- Người thiện có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi,
biết ghê-sợ tội lỗi, có tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa sự tà-dâm bằng tâm,
biết giữ gìn điều-giới tránh xa sự tà-dâm, tạo đại-thiện-nghiệp không
tà-dâm.
- Người ác có ác-tâm không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không
biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý trong ác-tâm cố gắng bằng thân tà-dâm với
vợ hoặc chồng, con của người khác, hợp đủ 4 chi-pháp của điều-giới tà-dâm, nên
phạm điều- giới tà-dâm, tạo ác-nghiệp tà-dâm.
Như vậy, việc tạo đại-thiện-nghiệp không tà-dâm với việc
tạo ác-nghiệp tà-dâm, trong 2 việc này, việc nào dễ làm? Việc nào khó làm?
4- Điều-giới tránh xa sự nói-dối
- Người thiện có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi,
biết ghê-sợ tội lỗi, có tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa sự nói-dối bằng tâm,
biết giữ gìn điều-giới tránh xa sự nói-dối, tạo đại-thiện-nghiệp không
nói-dối.
- Người ác có ác-tâm không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không
biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý trong ác-tâm cố gắng bằng khẩu nói dối lường
gạt người khác, hợp đủ 4 chi- pháp của điều-giới nói-dối, nên phạm điều-giới
nói-dối, tạo ác-nghiệp nói-dối.
Như vậy, việc tạo đại-thiện-nghiệp không nói-dối với
việc tạo ác-nghiệp nói-dối, trong 2 việc này, việc nào dễ làm? Việc nào khó
làm?
5- Điều-giới tránh xa sự uống rượu, bia và các chất
say
- Người thiện có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi,
biết ghê-sợ tội lỗi, có tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa sự uống rượu, bia và
các chất say bằng tâm; biết giữ gìn điều-giới tránh xa sự uống rượu,
bia và các chất say, tạo đại-thiện-nghiệp không uống rượu, bia và các chất
say.
- Người ác có ác-tâm không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không
biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý trong ác-tâm cố gắng bằng khẩu uống rượu,
bia và các chất say, hợp đủ 4 chi-pháp của điều-giới uống rượu, bia và các chất
say, nên phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, tạo ác-nghiệp uống rượu,
bia và các chất say.
Như vậy, việc tạo đại-thiện-nghiệp không uống rượu,
bia và các chất say với việc tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say,
trong 2 việc này, việc nào dễ làm? Việc nào khó làm?
* Nếu nhận thức đúng thì việc không sát-sinh, việc
không trộm-cắp, việc không tà-dâm, việc không nói-dối, việc không uống rượu,
bia và các chất say, là việc rất dễ làm, mà mọi người ai cũng đều làm được
dễ dàng, bởi vì 5 việc ấy ở trong khả năng bình thường của tất cả mọi người.
Cho nên, người thiện có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi,
biết ghê-sợ tội lỗi, có tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa đối-tượng phạm 5 điều-giới
bằng tâm, biết giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn, tạo đại-
thiện-nghiệp giữ-giới, đó là việc rất dễ làm mà tất cả mọi người đều có
thể làm được.
* Nếu nhận thức đúng thì việc sát-sinh, việc trộm-cắp,
việc tà dâm, việc nói-dối, việc uống rượu, bia và các chất say, là việc rất
khó làm, mà không phải là ai cũng có khả năng làm việc ấy được, bởi vì người
nào làm 5 việc ấy, người ấy cần phải cố gắng bằng thân hoặc bằng khẩu,
thật là khó khăn mới có thể làm mỗi việc ấy được.
Cho nên, người ác có ác-tâm không biết hổ-thẹn tội- lỗi,
không biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý trong ác-tâm cố gắng bằng thân hoặc
bằng khẩu thật là khó khăn mới phạm mỗi điều-giới nào trong ngũ-giới hợp
đủ chi-pháp của mỗi điều-giới ấy. Để phạm điều-giới ấy, tạo ác-nghiệp, đó là việc
rất khó làm mà không phải là ai cũng có khả năng làm được.
Sự thật, vấn đề dễ làm hay khó làm đối với
mỗi hạng người có bản tính khác nhau.
Đức-Phật dạy rằng:
“Sukaraṃ sādhunā sādhu, sādhu pāpena dukkaraṃ. Pāpaṃ
pāpena sukaraṃ, pāpamariyehi dukkaraṃ.”(5)
- Này chư tỳ-khưu!
“Người thiện-trí dễ dàng tạo thiện-nghiệp. Người thiện-trí
rất khó khăn tạo ác-nghiệp. Kẻ ác dễ dàng tạo ác-nghiệp.
Bậc Thánh-nhân chắc chắn khó tạo ác-nghiệp.”
* Để phân biệt người ác với người thiện, Đức Phật dạy
trong bài kinh Sikkhapadasutta (6).
Đức-Phật dạy rằng:
“- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai sẽ thuyết giảng về người
ác và người ác hơn người ác, người thiện và người thiện hơn người thiện. Các
con hãy lắng nghe, nên chú tâm lắng nghe.”
Vâng lời theo Đức-Phật, chư tỳ-khưu chú tâm lắng nghe
lời giáo huấn của Đức-Phật.
• Người ác - Người ác hơn người ác
Đức-Phật dạy rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Như thế nào gọi là người ác?
- Này chư tỳ-khưu! Trong đời này, số người là người
sát-sinh, là người trộm-cắp, là người tà-dâm, là người nói-dối, là người uống
rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp.
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai gọi số người ấy là người
ác.
- Này chư tỳ-khưu! Như thế nào gọi là người ác hơn
người ác?
- Này chư tỳ-khưu! Trong đời này, số người tự mình
sát-sinh, còn động viên, tác động, khuyến khích, sai khiến người khác cùng
sát-sinh.
Số người tự mình trộm-cắp, còn động viên, tác động,
khuyến khích, sai khiến người khác cùng trộm-cắp.
Số người tự mình tà-dâm, còn động viên, tác động, khuyến
khích, sai khiến người khác cùng tà-dâm.
Số người tự mình nói-dối, còn động viên, tác động,
khuyến khích, sai khiến người khác cùng nói-dối.
Số người tự mình uống rượu và các chất say là nhân
sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, còn động viên, tác động, khuyến khích,
sai khiến người khác cùng uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi
trong mọi thiện-pháp.
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai gọi số người ấy là người
ác hơn người ác.
• Người thiện - Người thiện hơn người thiện
Đức-Phật dạy rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Như thế nào gọi là người thiện?
- Này chư tỳ-khưu! Trong đời này, số người là người
tránh xa sự sát-sinh, là người tránh xa sự trộm-cắp, là người tránh xa sự
tà-dâm, là người tránh xa sự nói-dối, là người tránh xa sự uống rượu và các chất
say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp.
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai gọi số người ấy là người
thiện.
- Này chư tỳ-khưu! Như thế nào gọi là người thiện
hơn người thiện?
- Này chư tỳ-khưu! Trong đời này, số người tự mình
tránh xa sự sát-sinh, còn động viên, tác động, khuyến khích người khác cùng
tránh xa sự sát-sinh.
Số người tự mình tránh xa sự trộm-cắp, còn động viên,
tác-động, khuyến khích người khác cùng tránh xa sự trộm-cắp.
Số người tự mình tránh xa sự tà-dâm, còn động viên,
tác động, khuyến khích người khác cùng tránh xa sự tà- tà-dâm.
Số người tự mình tránh xa sự nói-dối, còn động viên,
tác động, khuyến khích người khác cùng tránh xa sự nói-dối.
Số người tự mình tránh xa sự uống rượu và các chất say
là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, còn động viên, tác động, khuyến
khích người khác cùng tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể
duôi trong mọi thiện-pháp.
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai gọi số người ấy là người
thiện hơn người thiện.
Như vậy, nếu người nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi,
không biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết tự trọng, có tác-ý trong ác-tâm phạm điều-giới
nào trong ngũ-giới thì người ấy bị gọi là người ác.
Nếu người ác tự mình phạm điều-giới nào trong ngũ- giới,
còn động viên, tác động, khuyến khích người khác cùng phạm điều-giới ấy trong
ngũ-giới thì người ác ấy bị gọi là người ác hơn người ác.
* Nếu người nào biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-
lỗi, biết tự trọng, có tác-ý trong đại-thiện-tâm giữ gìn ngũ-giới được trong sạch
và trọn vẹn thì gọi người ấy là người thiện.
Nếu người thiện tự mình giữ gìn ngũ-giới được trong sạch
và trọn vẹn, còn động viên, tác động, khuyến khích người khác cùng giữ gìn
ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn thì người thiện ấy được gọi là người
thiện hơn người thiện.
Ví dụ: Nếu người nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không
biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết tự trọng, có tác-ý trong ác-tâm tự mình uống rượu,
bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, phạm điều- giới
uống rượu, bia và các chất say, nên tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất
say thì người ấy bị gọi là người ác.
Nếu người ác nào tự mình uống rượu, bia và các chất
say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, phạm điều-giới uống rượu, bia
và các chất say, nên tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say; mà còn động
viên, tác động, mời mọc, tiếp đãi người khác cũng uống rượu, bia và các chất
say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp; cũng phạm điều-giới uống rượu,
bia và các chất say, cũng tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say, thì người
ác ấy bị gọi là người ác hơn người ác.
* Nếu người nào biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-
lỗi, biết tự trọng, có tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa sự uống rượu, bia và
các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, đã tạo đại-thiện-nghiệp
không uống rượu, bia và các chất say thì người ấy được gọi là người thiện.
Nếu người thiện nào tự mình tránh xa sự uống rượu, bia
và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, tạo đại-thiện-nghiệp
không uống rượu, bia và các chất say; mà còn động viên, tác động, khuyến khích
người khác cũng có tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa sự uống rượu, bia và các
chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, cũng tạo đại-thiện- nghiệp
không uống rượu, bia và các chất say thì người thiện ấy được gọi là người
thiện hơn người thiện.
* Những hạng thanh-văn đệ-tử có trí-tuệ sáng suốt hiểu
biết về giáo-pháp của Đức-Phật, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo,
Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, nên có tác-ý tâm-sở
đồng sinh với đại-thiện-tâm giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn,
để làm nền tảng, làm nơi nương nhờ cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ
được phát triển.
Thật ra, tất cả mọi thiện-pháp từ 8 dục-giới thiện-
pháp, 5 sắc-giới thiện-pháp, 4 vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến 4 siêu-tam-giới
thiện-pháp đó là 4 Thánh-đạo-tâm được phát sinh và tăng trưởng đều do nương nhờ
nơi pháp-hành giới trong sạch và trọn vẹn của hành-giả.
Pháp-hành trong Phật-giáo có 3 pháp-hành chính:
- Pháp-hành giới.
- Pháp-hành thiền-định.
- Pháp-hành thiền-tuệ.
1- Pháp-hành giới là
pháp-hành mà hành-giả thực- hành với tác-ý trong đại-thiện-tâm giữ gìn giới của
mình cho được trong sạch trọn vẹn, tránh xa 3 thân ác-nghiệp và 4 khẩu ác-nghiệp
để thành tựu 3 thân đại-thiện- nghiệp và 4 khẩu đại-thiện-nghiệp.
Hành-giả thực-hành pháp-hành giới giữ gìn giới
của mình cho được trong sạch và trọn vẹn có khả năng diệt từng thời (tadaṅgappahāna)
được phiền-não loại thô (vītikkamakilesa) không biểu hiện ra ở thân và khẩu.
Pháp-hành giới mà hành-giả thực-hành giữ gìn giới
của mình được trong sạch trọn vẹn làm nền tảng, làm nơi nương nhờ cho pháp-hành
thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được phát triển.
Cho nên, pháp-hành giới là pháp-hành mà hành-giả
cần phải thực-hành trước tiên.
2- Pháp-hành thiền-định là pháp-hành mà hành-giả
thuộc về hạng người tam-nhân nương nhờ giới trong sạch trọn vẹn làm nền
tảng, để thực-hành pháp-hành thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền
sắc-giới thiện-tâm, và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có khả năng diệt bằng
cách chế ngự (vikkhambhanap- pahāna) được phiền-não loại trung (pariyuṭṭhānakilesa)
ở trong tâm.
Sau khi hành-giả chết, sắc-giới thiện-nghiệp trong 5
sắc-giới thiện-tâm cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)
có 5 sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta)
làm phận-sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 15 tầng trời
sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên), hưởng sự
an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy.
Hoặc sau khi hành-giả chết, vô-sắc-giới thiện-nghiệp
trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp
sau (paṭisandhikāla) có 4 vô-sắc- giới quả-tâm gọi là vô-sắc-giới
tái-sinh-tâm (paṭi-sandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh
làm vị phạm-thiên trên 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm- thiên, hưởng sự an-lạc cho
đến khi hết tuổi thọ trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy.
Hoặc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm còn có khả năng làm
nền tảng, làm đối-tượng cho pháp-hành thiền-tuệ.
3- Pháp-hành thiền-tuệ là pháp-hành mà hành-giả
thuộc về hạng người tam-nhân nương nhờ giới trong sạch trọn vẹn làm nền
tảng, để thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ
Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận
(samucchedappahāna) được mọi phiền- não loại vi-tế ngấm ngầm trong tâm
(anusayakilesa), diệt tận được mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc
Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi
trong tam-giới.
Thật vậy, pháp-hành giới mà hành-giả thực hành
giữ gìn giới của mình được trong sạch trọn vẹn làm nền tảng, làm nơi nương nhờ
cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được phát triển. Cho nên,
tất cả mọi thiện-pháp từ 8 dục-giới thiện-pháp, 5 sắc-giới thiện-pháp, 4 vô-sắc-giới
thiện-pháp cho đến 4 siêu-tam- giới thiện-pháp đó là 4 Thánh-đạo-tâm được phát
sinh và tăng trưởng đều do nương nhờ giới trong sạch và trọn vẹn của hành-giả.
* Trong bài kinh Kimatthiyasutta(7) Đức-Phật giải đáp những câu hỏi của Ngài Trưởng-lão Ānanda
về quả của giới, quả báu của giới theo tuần tự từ tam-giới thiện- pháp cho đến
siêu-tam-giới-pháp được tóm lược như sau:
Một thuở nọ, Đức-Phật ngự tại ngôi chùa Jetavana
của ông phú hộ Anāthapiṇḍika gần kinh-thành Sāvatthi.
Khi ấy Ngài Trưởng-lão Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức-Phật
xong rồi ngồi một nơi hợp lẽ, bèn bạch hỏi Đức-Phật rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, giới thuộc về thiện pháp
có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:
- Này Ānanda! Giới thuộc về thiện-pháp
(kusalasīla) có tâm mát mẻ (avippaṭisāra) (tâm không nóng nảy) là quả,
có tâm mát mẻ là quả báu.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tâm mát mẻ có pháp nào là quả,
có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
- Này Ānanda! Tâm mát mẻ có tâm hài lòng hoan hỷ
(pāmojja) là quả, có tâm hài lòng hoan hỷ là quả báu.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tâm hài lòng hoan hỷ có pháp
nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
- Này Ānanda! Tâm hài lòng hoan hỷ có pháp hỷ
(pīti) là quả, có pháp hỷ là quả báu.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp hỷ có pháp nào là quả,
có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
- Này Ānanda! Pháp hỷ có pháp an-tịnh
(passaddhi) là quả, có pháp an-tịnh là quả báu.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp an-tịnh có pháp nào là
quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
- Này Ānanda! Pháp an-tịnh có pháp an-lạc
(sukha) là quả, có pháp an-lạc là quả báu.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp an-lạc có pháp nào là quả,
có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
- Này Ānanda! Pháp an-lạc có pháp thiền-định
(samādhi) là quả, có pháp thiền-định là quả báu.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp thiền-định có pháp nào
là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
- Này Ānanda, pháp thiền-định có pháp thiền-tuệ
(yathābhūtañāṇadassana) thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp là
quả; có pháp thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp là quả
báu.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp thiền-tuệ thấy rõ, biết
rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả
báu? Bạch Ngài.
- Này Ānanda! Pháp thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh
của sắc-pháp, danh-pháp có trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán (nibbidā) thật-tánh
của sắc-pháp, danh-pháp là quả, có trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán thật-tánh của sắc-
pháp, danh-pháp là quả báu.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán
thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch
Ngài.
- Này Ānanda! Trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán thật-tánh của
sắc-pháp, danh-pháp có pháp ly-dục (virāga) (A-ra- hán Thánh-đạo) là quả,
có pháp ly-dục (A-ra-hán Thánh-đạo) là quả báu.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp ly-dục (A-ra-hán Thánh-đạo)
có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
- Này Ānanda! Pháp ly-dục (A-ra-hán Thánh-đạo) có pháp
giải-thoát tri-kiến (vimuttiñāṇadassana) (A-ra-hán Thánh-quả) là quả, có
pháp giải-thoát tri-kiến (A-ra-hán Thánh-quả) là quả báu.
- Này Ānanda! Giới thuộc về thiện-pháp có tâm
mát mẻ (tâm không nóng nảy) là quả, có tâm mát mẻ (tâm không nóng nảy) là quả
báu.
- Tâm mát mẻ có tâm hài lòng hoan hỷ là quả, có
tâm hài lòng hoan hỷ là quả báu.
- Tâm hài lòng hoan hỷ có pháp hỷ là quả, có
pháp- hỷ là quả báu.
- Pháp hỷ có pháp an-tịnh là quả, có pháp an-tịnh
là quả báu.
- Pháp an-tịnh có pháp an-lạc là quả, có pháp
an-lạc là quả báu.
- Pháp an-lạc có pháp thiền-định là quả, có
pháp- thiền-định là quả báu.
- Pháp thiền-định có pháp thiền-tuệ thấy rõ, biết
rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp là quả, có pháp- thiền-tuệ thấy rõ, biết
rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh- pháp là quả báu.
- Pháp-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của
sắc- pháp, danh-pháp; có trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán thật- tánh của sắc-pháp,
danh-pháp là quả; có trí-tuệ thiền- tuệ nhàm chán thật-tánh của sắc-pháp,
danh-pháp là quả báu.
- Trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán thật-tánh của sắc-
pháp, danh-pháp có pháp ly-dục (A-ra-hán Thánh-đạo) là quả, có pháp ly-dục
(A-ra-hán Thánh-đạo) là quả báu.
- Pháp ly-dục (A-ra-hán Thánh-đạo) có
pháp giải- thoát tri-kiến (A-ra-hán Thánh-quả) là quả, có pháp giải-thoát
tri-kiến (A-ra-hán Thánh-quả) là quả-báu.
- Này Ānanda! Giới thuộc về thiện-pháp có quả theo tuần
tự từ tam-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp chứng đắc A-ra-hán
Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả cao thượng, như vậy.
(Xong bài kinh Kimatthiyasutta)
Qua bài kinh Kimatthiyasutta này, giới thuộc về
thiện-pháp trong sạch trọn vẹn làm nền tảng, làm nơi nương nhờ để cho tất cả mọi
thiện-pháp tuần tự phát sinh từ nhân này đến quả kia liên hoàn với nhau từ tam-
giới thiện-pháp đến siêu-tam-giới thiện-pháp.
Nếu hành-giả nào giữ gìn giới của mình trong sạch trọn
vẹn thì hành-giả ấy có khả năng làm cho phát sinh mọi thiện-pháp tùy theo khả
năng của hành-giả.
Cho nên, hành-giả giữ gìn, bảo vệ giới của mình cho được
trong sạch và trọn vẹn là điều thiết yếu để làm nền tảng, làm nơi nương nhờ cho
mọi thiện-pháp được phát sinh và phát triển.
Muốn cho giới của mình được trong sạch và trọn vẹn,
hành-giả cần phải có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo,
Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi,
biết ghê-sợ tội-lỗi, biết tự trọng, biết giữ gìn nhân-phẩm cao quý vốn có trong
con người của mình thì việc giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn ở
trong khả năng bình thường của tất cả mọi hành-giả.
Trong quyển“Pháp-Hành Giới” này có trình bày
các loại giới của người tại gia cư-sĩ như ngũ-giới, ngũ-giới hành phạm-hạnh,
bát-giới ājivaṭṭhamakasīla, bát-giới uposathasīla, cửu-giới uposathasīla, thập-giới
của người tại gia.
Trong các loại giới của người tại gia này, ngũ-giới
và bát-giới ājivaṭṭhamakasīla gọi là thường-giới (nicca-sīla)
của mọi người tại gia, không ngoại trừ một ai cả, nên tất cả mọi người tại gia
cần phải giữ gìn 2 loại giới này suốt ngày đêm cho được trong sạch và trọn vẹn,
bởi vì nếu hành-giả giữ gìn 2 loại giới này được trong sạch trọn vẹn thì được
phước-thiện giữ-giới. Còn nếu người nào phạm điều-giới nào thì người ấy đã tạo
ác-nghiệp điều-giới ấy, đem lại sự tai hại trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
Ngoài 2 loại giới ấy ra, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ
nào có khả năng thọ-trì và giữ gìn bát-giới uposathasīla, cửu-giới
uposathasīla, thập-giới của người tại gia cho được trong sạch và trọn vẹn, thì
người ấy chắc chắn sẽ có được nhiều phước-thiện giữ giới đặc biệt và có quả-
báu cũng đặc biệt hơn ngũ-giới.
Về phần giới của bậc xuất-gia sa-di và tỳ-khưu,
thì trong quyển sách này chỉ trình bày tóm tắt mà thôi, bởi vì giới của sa-di
và giới của tỳ-khưu có rất nhiều loại, cho nên, trong quyển sách nhỏ này không
thể trình bày đầy đủ được.
Trong quyển sách “Pháp-hành giới” này, bần sư
đã cố gắng dày công sưu tầm, gom nhặt từ nhiều nguồn tài liệu có liên quan về
phần giới, từ Tam-tạng Pāḷi, các Chú-giải Pāḷi và số tài liệu khác chỉ được bấy
nhiêu thôi!
Tuy bần sư cố gắng hết mình giảng giải để giúp cho độc
giả tìm hiểu rõ về phần giới, song vì khả năng có hạn, nên chắc chắn không
tránh khỏi những điều sơ sót, thậm chí còn có chỗ sai ngoài khả năng hiểu biết
của bần sư.
Để lần sau tái bản được hoàn thiện hơn, kính mong chư
bậc thiện-trí có tâm từ chỉ giáo, góp ý chân tình.
Kính xin quý vị xem soạn phẩm này như là của chung,
mà mỗi người trong chúng ta, ai cũng có bổn phận đóng góp xây dựng, để cho soạn
phẩm này được hoàn hảo, hầu mong đem lại sự lợi ích chung, sự tiến hóa, sự an-lạc
cho phần đông chúng ta.
Bần sư kính cẩn đón nhận những lời đóng góp phê bình
xây dựng ấy của chư bậc thiện-trí, và kính xin quý Ngài ghi nhận nơi đây lòng
chân thành biết ơn sâu sắc của bần sư.
Quyển sách “Pháp-hành giới” tái bản lần thứ ba
có sửa và bổ sung, được hoàn thành do nhờ có nhiều người giúp đỡ như là
Dhammavara Sāmaṇera xem bản thảo, Dhammanandā upāsikā đã tận tâm xem kỹ lại bản
thảo, dàn trang, làm thành quyển sách và đã được Nhà xuất bản Tôn giáo cho phép
ấn hành.
Bần sư vô cùng hoan hỷ và biết ơn tất cả quý vị.
Nhân dịp này, con là Dhammarakkhita Bhikkhu (tỳ- khưu
Hộ-Pháp) thành kính dâng phần pháp thí thanh cao này đến Ngài Đại-Trưởng-Lão Hộ-Tông,
Vaṃsa- rakkhitamahāthera là sư phụ của con, đồng thời đến Ngài Đại-Trưởng-Lão
Thiện-Luật, Ngài Đại-Trưởng- Lão Bửu-Chơn, Ngài Đại-Trưởng-Lão Giới-Nghiêm,
Ngài Trưởng-lão Hộ-Giác (chùa Từ Quang), Ngài Trưởng lão Hộ-Nhẫn (chùa Thiền
Lâm, Huế) cùng chư Trưởng-Lão, chư Đại-đức khác đã dày công đem Phật- giáo
Nguyên-thủy (Theravāda) về truyền bá trên quê hương Việt Nam thân yêu, và xin
kính dâng phần phước- thiện thanh cao này đến chư Đại-Trưởng-Lão ở nước
Thái-Lan, nước Miến-Điện (Myanmar), đã có công dạy dỗ con về pháp-học và
pháp-hành.
Con kính mong quý Ngài hoan hỷ.
Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.
Phước-thiện pháp-thí thanh cao này, xin hồi hướng đến
tất cả bà con thân quyến của chúng con, từ kiếp hiện-tại cho đến vô lượng kiếp
trong quá-khứ, cầu mong quý vị hoan hỷ nhận phần phước-thiện thanh cao này để
thoát khỏi cảnh khổ, được an-lạc lâu dài.
Imaṃ puññābhāgaṃ mātāpitu-ācariya-ñāti- mittānañ ceva
sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna sukhitā hontu, dukkhā
muccantu sabbattha.
Chúng con thành tâm hồi hướng, chia phần phước- thiện
pháp-thí thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân quyến, bạn hữu cùng tất
cả chúng-sinh từ cõi địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh, nhân-loại, chư-
thiên trong các cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên trong các cõi trời sắc-giới,
... Xin tất cả quý vị hoan hỷ nhận phần phước-thiện pháp-thí thanh cao này, cầu
mong quý vị thoát mọi cảnh khổ, hưởng được mọi sự an-lạc lâu dài trong khắp mọi
nơi.
Idaṃ me dhammadānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.
Phước-thiện pháp-thí thanh cao này của mỗi người chúng
con, xin làm duyên lành dẫn dắt mỗi người chúng con đến chứng đắc A-ra-hán
Thánh-đạo, A-ra- hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền- não trầm-luân,
giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Nếu mỗi người trong chúng con chưa diệt-đoạn-tuyệt được
mọi phiền-não trầm-luân, chưa giải thoát khổ sinh, vẫn còn tử sinh luân-hồi,
thì do năng lực phước-thiện pháp-thí thanh cao này ngăn cản mọi ác-nghiệp không
có cơ hội cho quả tái-sinh trong 4 cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ,
súc-sinh; và cũng do năng lực phước- thiện thanh cao này chỉ hỗ trợ thiện-nghiệp
cho quả tái- sinh trong cõi thiện-giới: cõi người, các cõi trời dục- giới… mà
thôi.
Được sinh kiếp nào, mỗi người trong chúng con đều là
người có chánh-kiến, có đức-tin trong sạch nơi Tam- bảo, tin nghiệp và quả của
nghiệp, có duyên lành được gần gũi thân cận với bậc thiện-trí, lắng nghe chánh-
pháp của bậc thiện-trí, có đức-tin trong sạch nơi bậc thiện-trí, cố gắng tinh-tấn
thực-hành theo lời giáo-huấn của bậc thiện-trí, không ngừng tạo mọi pháp-hạnh
ba- la-mật cho sớm được đầy đủ trọn vẹn, để mong sớm chứng ngộ chân-lý tứ
Thánh-đế, mong chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, mong diệt tận mọi
phiền-não trầm-luân, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Trong kiếp tử sinh luân-hồi, mỗi khi chúng con được
nghe tin lành Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng ngự nơi nào, dù gần dù xa, chúng con
liền phát sinh đại-thiện-tâm hỷ lạc, có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, Đức-Pháp,
Đức-Tăng, quyết tâm tìm đến nơi ấy, để hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, hoặc chư Thánh
thanh-văn đệ-tử của Ngài, lắng nghe chánh-pháp, cố gắng tinh-tấn thực-hành theo
chánh-pháp của Ngài, để mong chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo,
4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não, mọi tham-ái, trở thành bậc
Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba
giới bốn loài.
Nay, chúng con hết lòng thành kính thọ phép quy-y
Tam-bảo: quy-y nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nơi Đức- Pháp-bảo, quy-y nơi Đức-Tăng-bảo
và thành tâm hộ trì Tam-bảo cho đến trọn đời, trọn kiếp.
Do nhờ năng lực phước-thiện thanh cao này, cầu mong
cho mỗi người chúng con luôn luôn có duyên lành, tạo được nhân tốt sâu sắc
trong Phật-giáo.
Do nhờ năng lực phước-thiện pháp-thí thanh cao này
theo hỗ trợ, nhắc nhở cho mỗi người chúng con trong mỗi kiếp, dù khi được thành
tựu quả-báu ở cõi người (manussasampatti) hưởng được mọi sự an-lạc đầy đủ trong
cõi người như thế nào, cũng không đắm say trong cõi người; hoặc dù khi được
thành tựu quả-báu ở cõi trời (devasampatti) hưởng được mọi an-lạc đầy đủ trong
cõi trời như thế nào, cũng không đắm say trong cõi trời.
Thật ra, mục đích cứu cánh cao cả của mỗi chúng con chỉ
có cầu mong sớm thành tựu quả-báu chứng ngộ Niết-bàn (Nibbānasampatti) mà thôi,
để mong giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Icchitaṃ patthitaṃ amhaṃ,
Khippameva samijjhatu.
Điều mong ước, ý nguyện của chúng con
Cầu mong sớm được thành tựu như ý.
PL. 2563 / DL. 2019
Rừng Núi Viên Không
xã Tóc Tiên, thị xã Phú Mỹ
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Tỳ-khưu Hộ-Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)
(Aggamahāpaṇḍita)
(1) Aṅg. Tikanipātapāḷi,
Devadūtavagga, Adhipateyyasuttapāḷi.
(2) Dī. Mahāvagga, kinh Mahāparinibbānasutta, đoạn Dussīla
ādīnava.
(3) Dī. Mahāvagga, kinh Mahāparinibbānasutta, đoạn Sīlavanta
ānisaṃsa.
(4) Bộ Chú-giải Dī. Mahāvaggaṭṭhakathā, kinh
Sakkapañhasuttavaṇṇanā.
(5) Dhammapadaṭṭhakathā, tích Saṃghabhedaparisakkanavatthu.
(6) Aṅguttaranikāya Catukanipāta, kinh Sikkhapadasutta.
(7) Ang. Ekādasakanipāta, Kinh Kimatthiyasutta.
Mục lục quyển 3 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10